nhatnguyen52

Hội viên
  • Số nội dung

    150
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    2

Everything posted by nhatnguyen52

  1. Dịch học họ HÙNG . bài 9 - 1. Tổng quan về Lạc đồ Hiện nay nhiều học giả cả đông lẫn Tây thường cười nhẹ nhàng hóm hỉnh về quan niệm trời tròn đất vuông của Dịch học, và phương Tây rất hãnh diện với việc Galliléo “Tuẫn đạo” khi công bố trái đất tròn cách đây vài trăm năm; có thực tiền nhân ta cho là đất hình vuông? Người Việt vẫn gọi từ xưa đến nay là Bầu trời và Trái đất hay Quả đất; Bầu nghĩa là Hình cầu, Bầu biến âm thành Bào, bao bầu trời nghĩa là trời hình cầu bao bọc quanh ta, còn với từ trái đất cũng hình cầu nhưng rất nhỏ nhắn so với “Bầu trời” Khái niệm Trời tròn đất vuông của Dịch lý là quan niệm triết học không phải là ý niệm vật lý. Trời là ý chí, đất là bản năng Trời là Đức, đất là Tài Trời là Đức độ, Đất là Lý trí Trời là Minh triết, đất là Khoa học Đó là vài thí dụ để hiểu ý niệm trời tròn đất vuông trong Dịch học. Lạc đồ là đồ hình không thời gian có thể gọi là không thời đồ . -Người xưa lấy chính mình làm trung tâm và bổ cái gọi là “Bầu trời” bằng 1 lát cắt theo chiều dọc từ trên xuống dưới. Ta có đồ hình thời gian như sau: Số 7: Ban sáng – Mùa Xuân Số 9: Ban trưa – Mùa Hạ Số 3: Ban chiều – Mùa Thu Số 1: Ban đêm (tối) – Mùa Đông Đó cũng là 4 bên của mặt phẳng đứng. Số 7: bên Mục, số 9 bên trên. Số 3: bên chiều, số 1 bên dưới. Quan hệ vật lý giữa Trời và Đất được cổ nhân mô tả rất bình dị giản đơn: trời như cái chén cái bát úp lên mặt đất vì vậy mới có cụm từ dưới gầm trời hay thiên hạ tức lãnh thổ con người ta có thể với tới được, nó luôn luôn được quan niệm là 1 hình vuông (hoàn toàn khác với nghĩa mặt đất vuông) có 4 góc tiếp xúc với vòm trời, chính 4 điểm tiếp xúc đó là 4 mốc giới, 4 gốc chuẩn của lãnh thổ, bản thân từ Quốc xuất phát từ chữ góc của Việt Ngữ. Góc à Gốc à Quốc Quan niệm này xuất phát từ đồ hình: Ta có 4 góc biểu diễn bởi 4 tượng số 2 – 4 – 6 – 8, cũng là 4 điểm gốc của hệ quy chiếu dịch học , 1 loại hình trục tọa độ khác với hình học hiện nay , khi ghép 2 mặt phẳng dọc và ngang trên vào 1 đồ hình ta có: Lạc đồ Trên 2 9 4 Đông 7 5 3 Tây 6 1 8 dưới 2 tượng số: 1 và 9 định ở đỉnh trên và dưới thì hầu hết người nghiên cứu Dịch lý chấp nhận nhưng số 3 và 7 thì nhiều bản vẽ trái nhau mà không thể nào định được đúng sai. Riêng với Dịch học họ Hùng vì mọi việc rõ ràng : Tiền nhân người Việt đã dạy con cháu học Dịch bằng ca dao tục ngữ; việc xác định vị trí 2 số 7, 3 nằm trong câu: (3) chìm, (7) nổi, (9) lênh đênh. Chìm là hướng mặt trời lặn, nổi là mặt trời mọc, số 9 lênh đênh là thiên đỉnh 2- ý nghĩa thứ nhất của Lạc đồ Dịch học nút thừng của Tàu phân ra số cơ và ngẫu hay chẵn và lẽ; số lẻ màu trắng, số ngẫu màu đen… việc này xin miễn bàn vì Dịch học họ Hùng không phân tượng số ra trắng và đen vì các nút số là nút giây thực, việc biến thành ký hiệu tức hình vẽ là sản phẩm của đời sau, đã là nút giây thực sự thì làm gì có tô đen hay để trắng. Ta có Hình vuông với 4 cạnh thể hiện con người sống trong trời đất và xã ḥội : - số 1 là Chắc = xác chỉ con người vật chất , 1 sinh vật y như những giống loài khác vậy.;chắc cũng chỉ phần nền tảng, dãy số 6-1-8 chỉ cái nền vật chất của cuộc sống. - số 9 là đinh = đỉnh chỉ cái cao qúy tột đỉnh làm cho con người vượt trên mọi sinh vật là chủ nhân của vũ trụ., được như vậy là nhờ ở cái đầu , bộ óc là cơ sở vật chất của hoạt động tinh thần, dãy số 2-9-4 tượng trưng cho hoạt động tinh thần hay năng lực trí tuệ. -số 2 là nhẹ- óp ; chỉ mối tương quan giữa ta và người khác hay giữa ta với cộng đồng , là tình người, óp = loảng nói lên tình cảm giưã người và người tự nhiên không xâu đậm gì cho lắm hay rất lợt lạt thậm chí thời hoang dã người ta còn có thể ăn thịt cả đồng loại - số 4 là cang, cứng ; nhờ có đầu óc mà ta hiểu biết tự nhiên vận hành theo quy luật , đấy là LÝ, lý thì khách quan không thay đổi được nên gọi là cứng hay chết cứng . - số 6 là canh nghĩa là cô đặc , về mặt xã hội ta gọi là cố kết lại, sự liên kết giữa người và người càng chặt vì tình cảm càng ngày càng sâu đậm hơn , người là loài sinh vật hội xã, xuất phát từ tính bầy đàn tự nhiên với sự vun đắp chủ động có mục đích dần dần hình thành tính Xã hội và nó đã trở thành bản tính... khiến con người không thể chịu đựng được sự cô lập, tách biệt với cộng đồng - Số 8 là can biến , biến là thay đổi tự nhiên theo chiều có lợi cho cuộc sống của con người, sử dụng những gì sẵn có trong tự nhiên để phục vụ cho mình, trước tiên chỉ với sức vóc của chính mình và đôi tay sự tác động vào tự nhiên của con người rất hạn chế , dần dần bằng sự nhận xét- tổng kết con người nhận ra các quy luật vận động và với đầu óc sáng tạo con người chế ra các công cụ ban đầu chỉ là tiếp sức ,Tăng cường khả năng các cơ phận của chính thân thể đến ngày nay con người đã làm chủ cả một lực lượng khổng lồ các cơ giới , lực lượng ấy biến đổi hẳn bộ mặt của địa cầu. - Số 3 là nhũn hay nhún; Quy luật thì khách quan là cứng rắn không thay đổi, đó là ý cuả số 4, ta không thể chỉ với ước muốn chủ quan mà thế giới thay đổi, muốn biến đổi thì phải hành động, muốn hành đ̣ộng có kết qủa thì điều đ̣ầu tiên ta phải tuân thủ các quy luật của tự nhiên, điều này dịch học gọi là nhún, tuân thủ để lợi dụng là điều mà dịch học dạy ta , con người không thể bắt nước chảy ngược lên trên , ta phải tùng phục luật nước chảy xuống thấp này một cách vô điều kiện thì mới có thể lợi dung sức nước để tưới tiêu và chạy máy phát điện đó chính là luật Tòng- cách của dịch học. -Số 7 là tâng hay tưng nghĩa là nâng lên. Ta đã biết sự liên kết vô hình giữa người và người không phải tự nhiên mà xâu đậm, muốn tăng thêm tính bền vững và sự ổn định của cộng đồng không còn cách nào khác là vun đắp tình cảm đấy là ý của số 7 ; tâng đi đôi với bốc chỉ việc đưa lên, lực cố kết số 6- hay canh liên kết càng mạnh thì đòan thể càng có thể phát triển lớn hơn tạo nên một sức vóc lớn hơn trong cuộc đấu tranh sinh tồn.và thăng tiến. Tóm lai : Số 2 và số 4 dạy ta phải thăng bằng luôn thấu lý đạt tình. Số 6 và số 8 chỉ dẫn hai việc phải làm đồng thời : vừa khai thác –cải tạo tự nhiên vừa củng cố liên kết xã hội Muốn khai thác tự nhiên phải theo đúng các quy luật vận động của tự nhiên đó là ý của số 3- nhún Muốn củng cố để xã hội bền vững phải vun đắp tình cảm cho mọi thành viên của cộng đồng, vun đắp là ý của số 7 –tâng. 3. Ý nghĩa thứ nhì của Lạc đồ Số 5 tượng trưng cho con người đang sống, cụ thể không mơ hồ, mỗi 1 sinh mệnh đều là 1 trung tâm của vũ trụ, là chủ thể trong mối tương quan với môi trường, môi trường sống được tượng trưng bởi vòng tròn ngoại tiếp với hình vuông có 4 góc tiêu biểu bởi 4 số chẵn 2, 4, 6, 8. 4 số lẻ 1, 7, 9, 3 cùng với số 5 tạo thành chữ thập 1 tâm 4 cánh. - a. Trục tung cấu tạo bởi 3 số: 1 – 5 – 9 Trục tung tượng trưng cho đời sống vật chất và tinh thần; các số 1 và 9 diễn tả mối liên hệ bên trong của bản năng- dục vọng, (1) và ý chí đạo đức (9), văn minh tức cán cân 1 bên là bản năng, 1 bên là ý chí nghiêng dần về phía ý chí, con người biết chia xẻ vì hiểu rằng chỉ có hạnh phúc chung chứ không có hạnh phúc cho sự độc hữu, thực ra bản năng hay sinh lý là những gì rất tự nhiên, nhưng không thể thoả mãn nó 1 cách tự nhiên…; ở đây bản năng phải phục tùng ý chí đạo đức để nếu không thể chia xẻ thì ít ra cũng công bằng với tha nhân. - b. Trục hoành cấu tạo bởi các số: 7 – 5 – 3 Trục tung thể hiện mối tương quan nội thân còn trục hoành thể hiện mối tương quan với môi trường, 1 bên là môi trường tự nhiên chỉ định bởi số (3) ở phương Tây bên kia là môi trường xã hội chỉ định bởi số (7) ở phương Đông. Lý tưởng của cuộc sống là thực hiện nhân chủ, cụ thể là: Làm chủ bản thân, làm chủ tự nhiên và làm chủ xã hội. Số (3) tiếng Việt là Bá, Bạ, Bấu nghĩa là dựa trên, tựa vào, lấy thiên nhiên làm điểm tì, của cải vật chất cung phụng cho đời sống con người đều lấy từ cõi tự nhiên làm chủ tự nhiên là thấu hiểu các quy luật vận động của nó và lợi dụng được nó phục vụ cho mình. Tri thức về giới tự nhiên ngày càng nhiều , của cải vật chất ngày càng dồi dào giúp con người dễ dàng chủ động tổ chức lại xã hội theo hướng tối ưu cho hạnh phúc của cả cộng đồng. Sự chuyển động này chính là sự thăng tiến xã hội mà ý nghĩa đã gói gọn trong tượng số (7); bẩy là nâng lên (đòn bẩy) Thâm ý của tiền nhân khi tác dịch nằm ở chỗ: 1 bên bá (3), 1 bên bẩy (7) dựa vào các tiến bộ trong mối tương quan con người – tự nhiên để cải tiến mối tương quan con người –người Đấy là 1 công thức không thể đảo ngược . Các sử gia Trung Hoa thời cổ đã vận dụng 4 góc của Lạc đồ vào lịch sử, 4 góc thành ra 4 gốc chuẩn dùng định danh 4 triều đại lớn kế tiếp nhau chiếm trọn thời Vương Quốc cổ đại Số 2: Hai là nhà Hạ hay triều đại Hạ . Số 6: Lục = màu xanh → Thương là nhà Thương Số 4: Tư → Tây → Chiêu - Chu chỉ Vương triều Chu Số 8: Việt Ngữ là tám à Xám, xẫm là màu đen của phương nước hay Thuỷ cũng là phương Nam chỉ Vương triều Tần . Vì cớ này người Tàu ở phía Nam (dịch học ) nước Việt vẫn được gọi là xẫm hay xẩm . Khi phối hợp 2 mặt phẳng trong 1 đồ hình rõ ràng từ thời Thái cổ, người họ Hùng đã có quan niệm không gian 3 chiều mà tiếng Việt gọi là 3 bề: bề cao, bề rộng và bề sâu phối hợp với 1 chiều chuyển động của thời gian đi từ Đông sang Tây, mục sang chiêu tạo thành 1 đồ hình không - thời gian 4 chiều không khác gì không gian của Einsten ngày nay. ++++++++++ Tổng luận về HÀ-LẠC: Hà Thư - Lạc Đồ là thế giới quan và nhân sinh quan của người họ Hùng, nó được trình bày bằng hệ ngôn ngữ tối cổ gọi là ngôn ngữ “chục con” hay “thập can” và chỉ có tổng số 10 từ là 10 chữ nút số hay kết thằng; Ngày nay khi thiết lập nền Dịch học thống nhất thì Dịch học tượng số hay chữ nút thường đứng vị trí đầu bảng; tiêu biểu thời văn minh con người mới khải phát ,Tuy đơn giản quá ngắn gọn chỉ có 10 chữ nhưng tìm hiểu cho thấu đáo ý nghĩa của nó thực không dễ chút nào;càng tìm hiểu càng thấy thâm sâu , mỗi ngày mỗi thấy thêm ý mới hầu thông tin chứa trong 2 đồ hình này là vô tận... Một kết qủa bất ngờ khi tìm hiểu HÀ THƯ-LẠC ĐỒ là sự xác định nguồn gốc và thành tựu văn hóa VIỆT NAM. Thập can trong HOA ngữ không là một hệ thống vì nghĩa các từ không kết thành 1 ý trọn vẹn nào, trái lại khi kết nối thập can âm Việt ngữ với Hà thư-Lạc đồ lại cho 1 thể hoàn chỉnh về ngữ nghĩa diễn đạt một nền minh triết và khoa học vô cùng cao thâm khiến ta không thể nói khác được là : cả THẬP CAN và HÀ THƯ- LẠC ĐỒ đặc biệt là chữ KẾT THẰNG hay NÚT THỪNG đều là thành tựu trí tuệ tuyệt vời của cổ nhân người VIỆT.
  2. Dịch học họ HÙNG . bài 14 D. Tam Toà hay Tam Tài Tòa trong tiếng Việt có nghĩa là đơn nguyên, Thiên Chúa tam ‘tòa’ tức Thiên chúa ba ‘ngôi’. Tòa nhà tức một khối nhà. Chu Dịch viết rất giản đơn: Dịch có thái cực, thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái … có người gọi đó là Dịch, thực ra đó chỉ là phương pháp luận Dịch lý chứ không phải là Dịch học. 1 sinh 2, 2 sinh 4, 4 sinh 8 chính là định luật sóng đôi mà ta đã nói tới. Ngoài sự diễn biến theo qui luật trên Dịch học còn có một loại hình diễn biến khác. 1 → 3 → 5 → 9 thái cực → tam tòa → ngũ hành → cửu trù 1 cục → 3 tòa → 5 hình → 9 chỗ Ở lưỡng ngôi ta có 2 thành phần hợp tác với nhau để sinh thành. Con người đầu đội trời, chân đạp đất như vậy con người đứng giữa, ở trung tâm đúng nghĩa chữ nhân; do mối tương quan tay ba. Một bên là tương quan: người – xã hội; bên kia là tương quan: người – tự nhiên thông qua trung tâm là con người, 2 mối tương quan này trở thành ràng buộc của nhau, chế độ xã hội phải phù hợp với mối quan hệ người – tự nhiên. Tức trình độ khoa học và công cụ kỹ thuật. Tam tài có tính mẫu mực là Thiên Nhân Địa, vẫn được dùng để tôn cao địa vị con người ngang với trời đất. Thiên là những yếu tố vô hình, địa là những yếu tố hữu hình cụ thể. Năng lượng, ánh sáng đến từ vũ trụ hợp với các nguyên liệu từ đất tạo thành cây cỏ thực vật, đến khi có sự tham gia của bàn tay khối óc con người thành ra sự kết hợp tay ba: Thiên – Nhân – Địa và nền nông nghiệp ra đời từ sự kết hợp đó. Sự ra đời của kỹ thuật trồng trọt được Dịch học đánh giá rất cao trong hào Nhị quẻ Kiền: “hiện long tại điền lợi kiến đại nhân” nếu dịch là “rồng hiện trên mặt ruộng kiến (gặp) đại nhân thì có lợi” chỉ đúng về mặt chữ còn đối với Dịch học thì coi như vô nghĩa. ý nghĩa câu trên theo kiến giải Dịch học là : “con người trở nên người lớn tức vượt qua thời người nguyên thủy khi bắt đầu biết trồng trọt, lúc chấm dứt sự phụ thuộc hoàn toàn vào giới tự nhiên cũng là lúc xuất hiện thần tính (được ví như con rồng) khiến con người vượt trên mọi sinh vật, sánh ngang cùng trời đất. Cặp từ Thiên và Địa không nhất thiết phải là trời và đất như ở trên ta đã nói đến: trời chỉ các yếu tố vô hình, đất là những gì cụ thể, có thể nắm bắt được. Thí dụ: trong công thức nổi tiếng về binh pháp: ‘thiên thời – địa lợi – nhân hòa’, thì thiên đâu có nghĩa là trời mà là thời cơ lịch sử, địa là điều kiện vật chất đang thủ giữ, còn nhân là lòng người, lòng quân và lòng dân, yếu tố quan trọng nhất. Trong Tam tòa thì Tòa Nhân luôn luôn là quan trọng nhất, có một thế giới gọi là khách quan vận động một cách mù lòa, vô hướng, vô nghĩa; tất cả những giá trị xuất phát từ thế giới ý thức, vũ trụ trở nên có “giá trị” từ khi nó được phản ánh bằng thông tin vào não con người và được chính con người ban cho phần giá trị để trở thành 1 phần của thế giới đã được định hướng. E. Ngũ hành hay 5 hình 5 hình là 1 cơ cấu tổ chức, 1 cơ chế hoạt động có 5 thành phần, trong đó hình quan trọng nhất có vị trí trung tâm là điểm khởi đầu và kết thúc của chuỗi phản ứng dây chuyền. Ngũ hành hay 5 hình xếp theo đồ hình: Tên 5 Hình là: lửa, nước, gỗ, đá, và không khí . Tới đây có 2 điểm phải thuyết minh: lửa, nước, gỗ, đá là 4 loại hình vật chất rất cơ bản của loài người , riêng không khí ở trung tâm được tượng bởi hình Cam . - Cam Việt ngữ là màu vàng sậm, màu vàng là màu của trung cung. - cam biến âm thành kim, kim trong Hoa ngữ là hiện nay, lúc này là điểm giữa của 1 bên là quá khứ và 1 bên là tương lai. - cam trong Hoa ngữ nghĩa là ngọt, vị trung tâm của ngũ vị, đắng, cay, ngọt, mặn, chua. Tóm lại: với 3 lần nghĩa là trung tâm, hành Kim hay Cam không thể là hành biểu thị cho phía tây như trong Hán Dịch đã ghi. Điểm cần thuyết minh thứ hai: Trong tiếng Việt: mộc là gỗ và cũng là biến âm của ‘mọc’ tức phương Đông mặt trời mọc lên, ngược với phương Tây mặt trời “thụt” xuống, thụt biến âm ra thạch và thục (trong Hoa ngữ thành từ kép ‘Tây Thục’). Thạch cũng chính là đá, ta khẳng định phương Tây tiêu biểu bởi đá không là Kim vì theo Dịch lý họ Hùng thì phương Tây là phương “không đổi” hay phương Căng, Cứng, tục ngữ Việt Nam có câu: ‘cứng như đá’ giúp cũng cố thêm cho xác quyết này và Dịch học hình thành từ thời Thái cổ thì làm gì đã có kim loại để có hành “Kim” ở phương Tây. Ta có vế đối: phương Đông là mộc tức gỗ; phương Tây là thạch tức đá; gỗ đá là 2 vật liệu cơ bản của người cổ ; người Tàu đã biến thạch → thổ là đất và đưa vào trung cung, đổi hành cam ra phía tây và biến âm thành kim, tức kim loại, trở thành vật đối xứng với đầu bên kia là gỗ (mộc). Càng đi sâu vào nghiên cức Dịch càng có thể khẳng định chỉ có 1 Dịch học xuyên suốt và thống nhất nhưng có nhiều hình thức biểu hiện; Dịch nút số hay tượng số xuất hiện từ thời Thái cổ cách nay trên chục ngàn năm, Dịch tượng vạch thể hiện tư tưởng bằng vạch quẻ ra đời cách nay khoảng 5.000 – 6.000 năm, bộ Chu Dịch diễn tả bằng văn tự xuất hiện vào đời Chu cách nay hơn 3.000 năm. Nhưng trong lịch sử Dịch học Trung Hoa luôn chứa nhiều điều kỳ bí như: Hà đồ lạc thư – đã có từ thời Thái cổ, vậy mà mãi tời đời Tống tức chỉ cách nay hơn 1.000 năm mới công bố. Sách ‘Hoàng đế nội kinh tố vấn’ có từ thời Hoàng Đế cách nay 5 – 6 ngàn năm, trong sách có các thông tin của Dịch lý như ngũ hành, hà thư, ngũ sắc, ngũ âm v.v…; điều gây thắc mắc là ‘Hoàng đế nội kinh tố vấn’ viết bằng loại chữ gì? được viết lên trên vật liệu gì? hay là chỉ được truyền khẩu? Ở phần trên ta đã khẳng định sự thống nhất xuyên suốt của Dịch học, có nhiều đồ hình tức các văn bản cổ sơ bằng hình vẽ nhưng giữa các đồ hình đều có sự nhất quán, tương thông ý nghĩa. Ta tìm hiểu sự thương thông trong Hà thư, Tứ tượng, và Ngũ hành: Dịch viết: Nhất viết Thủy, nhị viết Hỏa, tam viết Mộc, tứ viết Thạch (Thổ), ngũ viết Cam (Kim); Dịch học họ Hùng khác Dịch Tàu ở 2 điểm: trong 5 hành đã hoán đổi vị trí hành Kim và Thổ (viết thành Cam và Thạch) Nếu so sánh Hà Thư và 5 hành ta nhận ra sự tương đồng vị trí đúng như đã được chỉ định ở trên. Hành Hỏa ở phía trên hoặc phương Bức (hướng xích đạo); Hành Thủy chiếm bên dưới hoặc hướng địa cực Bắc hiện nay. Mộc ở phương Đông, Thục (Thạch, Thổ) ở phương Tây và Cam ở chính giữa. Đoạn văn chỉ dẫn trên cho ta biết Hà Thư là Dịch dùng nút số đã có trước rồi từ cái nền của Hà Thư con người xác lập vị trí của ngũ (5) hành. Khi đặt chồng cả 3 đồ hình: Tứ Tạng, Ngũ Hành và Hà Thư ta mới giải nghĩa mỗi đoạn “công thức” ngắn ngủi sau: Hỏa viêm thương Thủy nhuận hạ Mộc viết khúc trực Thạch viết tòng cách Cam viết giá sắc Nguyên văn trong dịch học thông hành : Kim viết Tòng cách Thổ viết giá sắc Ta đã biết số 2 và 1 trong Hà Thư là nhẹ và nặng, số 3 và 4 là mềm và cứng nên so sánh mới viết: 1. Hỏa số 2 viêm thượng, lửa thì nhẹ nên bốc lên trên cao; đấy là nghĩa vật lý còn ý nghĩa triết học là : tinh thần là phần làm nên giá trị con người, tức trở nên cao quí hay viêm thượng. 2. Thủy số 1 nhuận hạ, thân xác người cũng là 1 sinh vật trong sinh giới, nó cũng bị chi phối bởi các quy luật vật lý và sinh học như các động thực vật khác vì vậy : Dịch viết: Thủy nhuận hạ, hạ đây không phải là hạ cấp- bên dưới mà là sự ràng buộc vào thế giới vật chất , không ăn-uống không trao đổi chất thì không thể sống ̣được . 3. Thạch số 4 viết Tòng cách (nguyên văn Kim viết Tòng cách) Tòng là tuân theo Cách là sửa đổi Hướng Tây là cứng (Hà Thư) là mối quan hệ người – tự nhiên (tứ tượng) nên trong ngũ hành tượng trưng bởi đá, tục ngữ Việt thường nói cứng như đá; không thay đổi là đặc tính của quy luật lý lẽ. Chi phối mối tương quan con người và tự nhiên là lý lẽ; đứng trước các quy luật con người chỉ có một cách duy nhất là tuân theo, không thể nào sửa đổi được vì nếu sửa đổi được thì đâu có còn là quy luật tự nhiên, đó chính là nghĩa chữ Tòng. Tôn trọng các quy luật để vận dụng ngay các quy luật đó làm lợi cho mình gọi là tòng - cách. Thí dụ: ta không thể bắt nước chảy ngược từ thấp lên cao được; nhưng vận dụng ngay quy luật nước chảy xuống thấp để đắp đập tưới tiêu, làm thủy điện v.v… Biến thủy tai thành thủy lợi đấy chính là tòng cách. 4. Mộc số 3 viết khúc trực Khúc trực có nhiều ý: - Gẫy khúc và thẳng thắn - Cong và ngang - Gián tiếp và trực tiếp Ý rất rõ : muốn đến thẳng phải đi đường vòng … nói như thế nghe hơi kỳ… Quẻ Mộc phương Đông chỉ mối tương quan – Người và môi trường xã hội . Hà thư có vòng trong là vòng sinh, vòng ngoài là vòng thành; vòng thành chỉ những gì đã hiện ra; đã hình thành rồi; nhưng cái gốc rễ sinh ra nó lại nằm chìm ở vòng sinh. Thí dụ: trộm cắp như rươi có nguyên nhân chính ở vòng trong là: sự thiếu thốn quá mức như vậy nhà cầm quyền không phải chỉ biết có trừng phạt… mà còn phải biết giải quyết tệ nạn tận gốc rễ tức làm sao để không còn nghèo đói, ai cũng đủ ăn, đủ mặc. Tóm tắt mọi việc xảy ra đều có nguyên nhân sâu xa, muốn giải quyết nó tức “trực” thì phải thay đổi nguyên nhân đã tạo ra nó tức “khúc” . Mộc viết khúc trực không phải là một quan niệm cổ nữa khi hiểu đúng nó trở thành một định luật của ngành khoa học chính trị hiện đại. 5. Cam số 5 viết giá - sắc Nguyên văn trong Dịch học của Tàu Thổ viết giá sắc. Cam là hành trung tâm, là nơi xuất phát và qui về. Cam ở đây chỉ con người sống thực, một đời sống bị vây tứ phía bởi các quy luật tự nhiên và xã hội . Cam = chính ta, tại đây, lúc này. Dịch viết: cam viết giá sắc (nguyên văn Thổ viết giá sắc) . Giá là gieo, sắc là gặt ; con người là kẻ gieo nhân và cũng chính họ là người gặt quả ., ý nghĩa quan trọng nhất ở ̣đây là sự chủ động trong diễn trình sinh hóa vũ trụ ; chính sự chủ động này đã xác lập đẳng cấp chủ nhân đối với vạn vật . Con người phát động chuỗi phản ứng dây chuyền trong mối tương tác : xã hội – con người – tự nhiên và cũng chính con người lãnh hậu quả sau cùng. Dịch học chỉ ra 2 chuỗi phản ứng : ngũ hành tương sinh và ngũ hành tương khắc . Sinh và khắc là Hán Tự ký âm từ Việt . Sinh có gốc là Chữ suôn trong suôn sẻ thuận lợi ; suôn → sinh; Sinh ở đây không có ý nghĩa là sanh đẻ. Chữ khác → khắc, khắc chế , khác có nghĩa là vận động khác chiều hay trái chiều tự nhiên . Nếu 2 lực thúc đẩy đồng chiều thì tổng là số cộng còn nếu 2 lực trái chiều thì tổng là số trừ của nhau. Đấy chính là ý nghĩa toán học của sinh và khắc. Còn ý nghĩa triết học là: Sinh là đồng chiều với khuynh hướng tự nhiên, nếu cứ để tự nhiên đừng can thiệp vào bằng nỗ lực chủ quan thì chiều diễn biến sẽ như thế. Ngược lại: khác là bơi ngược dòng nên hậu quả là rất tốn công sức, rất mệt mỏi mới có thể đến đích. Sở dĩ con người phải chấp nhận sự mệt mỏi, vất vả vì đi theo chiều khắc là đi đường tắt, đường đến đích ngắn nhất, nhanh nhất. Bằng nỗ lực chủ quan mà vượt lên bất chấp điều kiện khách quan. Thực tế vận động theo vòng nghịch chỉ 1 số ít thánh nhân thành công còn đối với người phàm như đại đa số cái gọi là giống người thì chiều khắc chỉ được coi là ý hướng, cố gắng tiến đến càng gần càng tốt, dù chỉ rút ngắn được một khoảng nhỏ tượng trưng cũng đà xứng mặt “quân tử ” , còn quần chúng không cần đi tắt cứ bình thản theo vòng sinh mà đi. - a . Ngũ hành tương sinh . Tương sinh nghĩa là thuận theo khuynh hướng tự nhiên . Chúng ta vẫn thường quen đọc là cam sinh thổ, thổ sinh thủy, thủy sinh mộc, mộc sinh hỏa, hỏa sinh cam… Đơn giản hóa chuỗi sinh này: Cam → Thổ → Thủy → Mộc → Hỏa → Cam Với Dịch lý người Tàu vòng sinh như sau: Thổ → Kim → Thủy →Mộc →Hỏa →Thổ Vẽ theo đồ biểu ngũ hành ta có vòng sinh: Con người từ nguyên thủy tiến lên từng bước đến văn minh. Xuất từ con người tức hành Cam, đầu tiên xử lý mối quan hệ giữa con người và thế giới tự nhiên tượng trưng bởi hành Thổ (Thạch) cụ thể là tăng tiến tri thức khoa học và cải tiến công cụ để tạo ra năng suất mỗi ngày mỗi cao hơn, tạo ra của cải vật chất ngày càng nhiều hơn và đưa đến: Thổ sinh Thủy: ý nghĩa là dựa vào sự thăng tiến khoa học kỹ thuật mà đời sống vật chất của con người được cải thiện, nâng cao lên. Thủy sinh Mộc: Mộc là tình cảm giữa con người với nhau, khi của cải vật chất dồi dào, nhu cầu cho sinh tồn không bức bách nữa thì con người dễ thông cảm với nhau, dễ tôn trọng chia xẻ hơn, thực ra tình cảm đối với con người cũng là một bản năng cũng y như bản năng sinh lý vậy, tình cảm chỉ lụi tàn khi bị bản năng sinh tồn lấn lướt. Mộc sinh Hỏa: Khi cuộc sống đã ít phải lo toan, mối liên hệ người và người đã tốt đẹp thì sự thăng tiến trong đời sống tinh thần trở nên dễ dàng hơn. Khi ăn bữa nay lo chạy bữa mai thì khó nói đến việc tự chủ tự cường càng khó hơn để nói đến sự chia sẻ . Con người phải nhắm đạt 3 chữ chủ : làm chủ bản thân, làm chủ thiên nhiên và làm chủ xã hội Làm chủ bản thân tức sự đấu tranh giữa ý hướng vươn lên của tinh thần và sự kéo xuống của dục vọng, rõ ràng khi nhu cầu vật chất không thiếu thốn nữa, con người dễ vươn lên hơn nhiều. b . Ngũ hành tương khắc: Vòng tương khắc như sau: Cam khắc Thủy - Thủy khắc Hỏa- Hỏa khắc Thạch- Thạch khắc Mộc- Mộc khắc Cam. 4 khía cạnh của ý thức là: Hỏa = ý chí, Thủy = dục vọng, Mộc = tình cảm, Thạch = lý lẽ và Cam là Nhân nơi dung hợp cả 4 khía cạnh. • Cam khắc Thủy: bước đầu phải diệt dục để trở thành vô cầu. • Thủy khắc Hỏa: khi đã diệt dục rồi thì tinh thần thảnh thơi tự tại không bị lôi kéo bởi vật dục nữa, tinh thần thăng hoa tột đỉnh đạt trạng thái gọi là vô vọng. • Hỏa khắc Thạch: khi đã đạt vô cầu, vô vọng bản thân không còn bị ràng buộc của tục lụy trần gian; lý lẽ, đúng sai, phải trái không còn ý nghĩa nữa, nghĩa là đã vượt vòng cương tỏa thong dong tự tại trong trạng thái vô chấp, các quy luật thông thường của tự nhiên và xã hội đều vô can với mình. • Thạch khắc Mộc: cái vô thứ 4 đạt đến là vô biên, sau vồ cầu, vô vọng, vô chấp đỉnh cao mà con người có xương có thịt đạt đến được là vô biên; không còn các biên giới phân ranh giữa ta và người khác. Đạt đến mức này, thì từ sở hữu không còn ý nghĩa nữa tức có thể xây dựng chế độ cộng sản trên trái đất này. • Mộc khắc Cam: bước cuối cùng của hành trình tương khắc là trở về với nhân tức con người, nhân cũng chính là bước khởi đầu chuỗi tác động dây chuyền, nhưng con người bây giờ không còn là là con người cũ nữa, sự tột đỉnh của hữu đã biến thành… vô, con người cá thể không còn, thay vào đấy là tột đỉnh vô ngã… tức không còn là người theo nghĩa thông thường nữa mà là thánh nhân. Tương khắc thực chất là con đường tu hành, chỉ có 1 số người có phẩm chất đặc biệt mới theo được… Ta tuyệt đối không bao giờ được sai lầm, đem áp dụng cho cả xã hội- cộng đồng, nếu bừa bãi cuối cùng chắc chắn là rơi vào đường đi không đến… hay càng đi càng xa đích nghĩa là trầm luân khổ ải vô bờ. Vậy thánh nhân chỉ ra ngũ hành tương khắc để làm gì? Nếu vận dụng thành công ngũ hành tương sinh ta có thể xây dựng được một cộng đồng giàu mạnh; nhưng giàu mạnh chưa chắc đã là hạnh phúc, có khi còn ngược lại … khổ hơn khi chưa giàu. Hạnh phúc là một xúc cảm nội thể tạo nên bởi các yếu tố nội sinh, các yếu tố bên ngoài chỉ ảnh hưởng mà thôi, ảnh hưởng dù mạnh tới đâu cũng vẫn là ảnh hưởng, quyết định vẫn là chuyện của bên trong. Chính vì vậy mới phải có vòng tương khắc. Một xã hội dù giàu có tới đâu cũng không thể là xã hội an hòa khi trong lòng nó vẫn tồn tại mâu thuẫn rất cơ bản; một bên là tính hữu hạn của vật chất và bên kia là lòng tham vô hạn của con người, của cải vật chất thủ đắc biết bao nhiêu cho đủ? Chính vì vậy mà thánh nhân mới tác Dịch để dạy chúng ta vòng tương khắc; tính hữu hạn của vật chất là khách quan ta không can thiệp được nhưng vế sau là lòng tham lam của con người thì có thể uốn nắn, sửa đổi được. Ta nhận xét: Ngũ hành tương sinh tồn tại trong văn minh nhân loại với tư cách là nền khoa học, khoa học tiến hóa xã hội. Ngũ hành tương khắc lại có tư cách một nền đạo đức xã hội, nó thúc dục, định hướng sinh hoạt nội tâm mỗi con người và sau cũng chính nó chứ không gì khác dẫn con người đến hạnh phúc.
  3. Dịch học họ HÙNG . bài 13 3/ Đồ hình 8 quẻ tiến hóa. Bát quái Tiên thiên là đồ hình cấu tạo, còn Bát quái Hậu thiên là đồ hình vận động tiến hoá xã hội . Đồ hình Bát quái Hâu thiên Dịch học họ Hùng khác với Hậu thiên của Chu Dịch ở vị trí Kiền – Khôn. Đồ hình Bát quái Hâu thiên được tiền nhân người Việt vận dụng chỉ 4 phương làm mốc chuẩn về mặt địa lý quốc gia. Như đã nói đến nhiều ở phần Dịch tượng số, người Việt lấy hướng xích đạo là hướng Bức, biến âm thành Bắc, nó còn nhiều tên khác liên quan đến từ ‘lửa’ như viêm nhiệt, ôn nhiệt, họ hổ (hỏa); tổ tiên người Việt còn xưng mình là Viêm bang, ngày nay ta gọi vùng này là nhiệt đới. Ta nhận thấy khi xác định hướng Bắc rõ ràng tiền nhân ta đã dựa trên thực tế của địa lý – khí hậu, không thể tùy tiện lộn ngược được … như ai đó đã làm. Một nhận xét nữa : cả thế giới chỉ Việt Nam có phương Đoài, người Trung Hoa không hề có. Vào năm 1974 sau khi khám phá ra Chu Dịch bản lụa ở mã Vương Đôi, người Trung Hoa mới biết quẻ Đoài còn gọi là quẻ Đoạt. Phương Đoài- Đoạt là phương tây cũng là phương Định (đối lập với phương Đông tức phương Động) … Không biết từ đời nào … ngôn ngữ Việt đã có từ kép ‘định - đoạt’ tức là ‘quyết’ việc gì đó, chữ Đoạt ở đây rõ ràng chỉ quẻ Đoài . Bên đông, phương động quẻ Chấn … gói gọn trong ‘chấn động’ ngược với bên tây là ‘định đoạt’ hết thảy đều là dịch tượng ., chỉ với điều này cũng đủ để nói Dịch học là nền tảng của văn hoá văn minh Việt , những nguyên lý Dịch học là món ‘thường thức’ dân gian dùng như cơm ăn nước uống hàng ngày không cần động não vận dụng chi cả . Trong Hậu thiên bát quái đồ 8 quẻ sắp xếp thành hình vuông 4 cạnh : Các Cạnh : Kiền ─ Đoài ─ Khôn - Tốn ─ Chấn ─ Cấn - Tốn ─ Ly ─ Kiền - Cấn ─ Khảm ─ Khôn 1. Cạnh Kiền – Đoài – Khôn Là Cạnh phía tây đồ hình , tây → tư- riêng tức cá nhân, với mỗi người thì Kiền là đời sống tinh thần, Khôn là đời sống thể xác.Tinh thần và thể xác ngoài những gì là bẩm sinh, thiên định. Ta có thể chủ động chỉnh sửa, thăng tiến nó. Tri thức là 1 kênh mà qua đó ta có thể “bơm” thông tin vào não bộ làm chuyển đổi hẳn 1 con người, 1 nhân cách sống. Giả dụ 2 cá thể có cùng đặc điểm sinh lý nhưng chênh lệch nhau về tri thức, chắc chắn họ có đời sống vật chất và tinh thần khác nhau, nên với đoạn Kiền – Đoài – Khôn , người xưa đã lao tâm khổ trí tác dịch nhằm chỉ cho chúng ta sự quan trọng của quẻ Đoài tức trí thức; quẻ Đoài biến người ngu nên người trí, nhiệm vụ của nhà cầm quyền là nâng cao mặt bằng dân trí mỗi ngày một cao hơn; mặt bằng dân trí là sự chỉ dẫn chắc chắn về tương lai một dân tộc, xét như thế ta thấy được địa vị của giáo dục quan trọng biết chừng nào. Con người gọi là văn minh lịch lãm hay thô kệch cũng là do tri thức. Ta có thể nhập khẩu một dàn máy để sản xuất, việc đặt mua đem về lắp ráp thời gian cũng chỉ tính bằng năm … nhưng những người vận hành nó thì đơn vị tính thời gian đào tạo phải là hàng chục năm (chỉ tính trình độ học vấn phổ thông cũng đã trên chục năm rồi). Nói như thế ta thấy việc đào tạo con người là hết sức cấp bách, đấy là việc không thể đốt giai đoạn, người và máy là 1 tổ hợp đồng trình độ nhưng thời gian “tạo ra” trình độ cho con người thường lâu hơn nhiều so với việc trang bị máy móc. Một quốc gia không coi giáo dục là quốc sách hay định hướng sai chắc chắn quốc gia đó sẽ tụt hậu trở thành kẻ bị thiên hạ xỏ mũi lôi đi … không có trình độ khoa học kỹ thuật tiên tiến thì đừng nói đến độc lập tự do, hay có chăng cũng chỉ là nêu lên như1 ước vọng thế thôi. 2. Cạnh hay đoạn Tốn – Chấn – Cấn Cạnh này nằm ở phía đông, đông có nghĩa là số đông tức 1 cộng đồng người, quẻ Tốn là chế độ chính trị như ta đã định danh ở phần trước, quẻ Cấn biểu thị chế độ kinh tế, khi nền kinh tế thay đổi đương nhiên kéo theo 1 sự thay đổi trong nền chính trị; mà chế độ kinh tế lại được ấn định bởi trình độ kỹ thuật hay công cụ sản xuất, thứ mà con người dùng để tác động vào giới tự nhiên. Thánh nhân tác dịch đặt quẻ Chấn giữa quẻ Tốn và Cấn là dạy ta định luật: Chế độ kinh tế và chính trị được ấn định bởi trình độ kỹ thuật tức mức độ tiên tiến của máy móc. Quẻ Đoài là tri thức quyết định 1 nhân cách. Quẻ Chấn là công cụ máy móc quyết định việc tổ chức tức chế độ xã hội. Sự liên hệ chắc chắn gần như là liên hệ cơ tính, nơi này nơi khác, nước này nước khác sự chuyển đổi là tất yếu, chỉ nhanh hay chậm hơn một thời gian do những nỗ lực chủ quan, thúc đẩy hay trì kéo của con người. Tới đây ta thấy sự liên quan khép kín: tri thức – máy móc – kinh tế – chính trị, 4 mặt, 4 lĩnh vực thúc đẩy nhau theo kiểu vòng tròn, vậy đâu là khâu đột phá? bằng câu: Đế xuất hồ chấn. Dịch học đã chỉ cho ta: đó là khâu máy móc kỹ thuật hay công cụ, Đế xuất hồ chấn là lối văn cổ nếu ta hiểu: Vua ra từ quẻ Chấn hay phương đông thì chẳng ra nghĩa ngọn gì, theo ngôn ngữ ngày nay ta phải hiểu là ‘người cầm đầu công cuộc cải cách xã hội phải biết khởi sự từ việc cải tiến công cụ, nâng cao độ tiên tiến của máy móc’ từ đó tạo ra ‘một phản ứng dây chuyền’ cứ thế tiếp diễn mãi mãi. Chế độ xã hội không thể thiết lập theo ý muốn chủ quan, sự không phù hợp giữa các mặt cấu thành xã hội sẽ giảm tốc phát triển, nếu độ vênh lớn quá tốc độ này có thể bằng 0 thậm chí là âm tức thụt lùi. Đã qua rồi thời bị thống trị , Xuất phát sau là một sự thất thế nhưng người Việt có thể vững tin vào “tiềm năng” của mình với công lực vạn năm của mình , trong tương lai khó ai có thể bì kịp Đã có công thức cho sự phù hợp giữa 8 mặt khi xã hội dịch chuyển đi lên hay chưa? Tới nay chưa thấy ai đưa ra, có thể đấy là cơ hội lịch sử dành cho chúng ta thời hiện đại này? Về công thức này chúng ta sẽ trở lại trong phần 64 quẻ trùng hay chồng. 3. Cạnh Tốn – Ly – Kiền Tỗ hợp 3 quẻ này chỉ dẫn cho ta sự dung hòa cá nhân và xã hội về mặt quyền lực. Quẻ Kiền là tinh thần, tinh thần con người là phải tự cường bất tức nghĩa là phải làm chủ được mình, chính việc làm chủ này phát sinh mâu thuẫn : một bên là sự tự chủ của mỗi người và bên kia sự điều hành cộng đồng lại đòi hỏi phải quản trị thống nhất . Để vẹn đôi đường Dịch học chỉ ta xử lý vấn đề này bằng cách đặt chữ Lý ở giữa chữ Tốn và Kiền. Ở đây chữ Lý có 2 nghĩa: a. Lý là đức sáng nơi con người để nhận biết phải trái, đúng sai. Chính chữ Lý đã khiến xã hội có sự đồng thuận, ít ra cũng là sự đồng thuận của số đông, chữ Lý giúp các thành viên cộng đồng cùng nhìn về 1 hướng và gặp nhau ở “giải pháp tối ưu”. Trong guồng máy cai trị khi tiến từ nguyên thủy đến văn minh thì lãnh đạo kiểu cha chú sẽ mất dần thay vào đó chỉ còn là chức năng phối hợp điều hành, lãnh đạo trở thành 1 điều phối viên của xã hội , đến cực điểm văn minh nhiều khi “vị lãnh đạo” khả kính chỉ còn là 1 cái máy điện toán siêu tốc. b. Lý là Lề – luật : Để hóa giải sự xung đột giữa quyền tự do tức sự tự chủ của mỗi người và quyền lực xã hội ta cần có lề luật, lề cùng ý trong lề đường, lề sách, ngày nay từ tương đương la “hành lang pháp lý”. Muốn có hiệu quả thì lề luật phải hội đủ 2 điều kiện: nhất quán và minh bạch. Xã hội càng văn minh càng đòi hỏi hệ thống pháp luật phải đầy đủ, nếu không thì không thể điều hành. 4. Cạnh hay đoạn Cấn – Khảm – Khôn: Khôn là nhu cầu vật chất của một người, Cấn là nền tảng kinh tế của xã hội, Với khối của cải vật chất có hạn phân chia cho các thành viên xã hội mà lòng các thành viên đó đều như thùng không đáy … Ta phải xử lý vấn đề này ra sao? Đây đúng là mâu thuẫn dai dẳng lâu đời nhất, nó phát sinh và có tuổi bằng với tuổi loài người ; do thuộc tính hữu hạn của vật chất ta không thể nào sản xuất ra một lượng của cải vật chất vô hạn, vậy đầu tiên ta phải điều chỉnh thiên hướng tiêu dùng, hướng lòng ham muốn vô hạn của con người đến cái phi vật thể, văn chương - nghệ thuật là của cải phi vật thể khối lượng sản xuất hầu như vô hạn. phương cách thứ 2 là con người tự nguyện không tranh dành, tự nguyện biếu tặng người khác điều này sẽ có khi tình cảm yêu thương tràn đầy ; như Cha mẹ nhịn nhường phần ăn đó cho con mà trong lòng lại thấy khoan khoái nhẹ nhàng . Quẻ Khảm chỉ tình cảm sự thương yêu được đặt giữa 2 quẻ Cấn và Khôn là ý thánh nhân chỉ bảo : muốn có một xã hội an hoà con người phải biết vun đắp tình cảm mở rộng lòng nhân ái , lúc ấy ‘chia sẻ’ sẽ thay thế ‘tranh dành’ đạt đến tột đỉnh mọi người sẽ muốn cho hơn muốn nhận Trong thực tế ta không ảo tưởng về một xã hội người người nhường của cải cho nhau, nhưng một xã hội mà mọi người chỉ lấy cho mình những gì xứng đáng thì hoàn toàn là một xã hội có thể thực hiện , không xẻ chia thì ít lắm cũng công bình giữa mình và người khác. Chữ nhân ái nếu được vun đắp từ tấm bé liên tục từ gia đình đến học đường trở ra xã hội dần dần gây trong não phản ứng y như bản năng vậy. Làm Được như thế loài người sẽ có một xã hội an hòa lý tưởng.
  4. Dịch học họ HÙNG . bài 12 1/ Đồ hình Bát quái hay 8 quẻ thiên nhiên . Giữa đồ hình bát Quái này và Lạc đồ có sự tương thông về hình thức và nội dung Số 1 = độc →đục → đặc , chất đục nặng cô đọng thành đất , đất dày là tượng quẻ khôn . Số 2 hai → hà – hồ , quẻ Đoài = cái hồ Số 3 – tam- xám → xẫm , quẻ Khảm = màu đen . Số 4 – tứ →tây = phương tây , quẻ Tốn chỉ phương tây . Số 5 -trung tâm tức ngũ lãnh . Số 6 – lục = màu xanh ; màu xanh chỉ phương đông , quẻ Chấn – Thìn chỉ phương đông Số 7 – sách →xích = màu đỏ , quẻ Ly = màu đỏ . Số 8 – bạt → bệ = nền , cấn – căn = nền , người ta thường dùng ‘đất liền’ đối với ‘bể cả’ , đây là câu nói sai chính xác phải là ‘đất nền’, quẻ cấn tượng là đất , cấn = căn = nền . Số 9 – cửu → cao , trời cao là tượng quẻ Kiền , dân gian Việt thường nói 9 tầng trời cũng vì lẽ này . Nhờ sự tương thông ý nghĩa ta xác định được 1 bát quái đồ, gọi tên là Bát Quái – Lạc đồ hay đồ hình 8 quẻ Trời mà một phần ý nghĩa của nó ta đã luận ở phần hệ toạ độ không – thời gian 4 chiều trên . Ý nghĩa của Bát Quái trong đồ hình này là gì? Đó là sự nhìn nhận của Tiền nhân người Việt về thế giới và cuộc đời, tức những ý niệm rất căn bản, rất sơ nguyên nhưng lại là sự bao trùm toàn diện. Cặp đối: Kiền -Khôn chỉ thế giới tự nhiên hay một không gian bao la gồm hết cả những thứ thấy và không thấy . Cặp đối: Ly - Khảm chỉ thời gian , ly là mặt trời Khảm là mặt trăng , sự soay vần đến đi tự nhiên tạo thành ngày đêm nên thánh nhân dùng hình tượng này chỉ thời gian , người Việt thường nói : ba bảy hăm mốt ngày chỉ thời gian chóng qua , 3-7 chính là số của Lạc đồ ( xem hình trên ) . Cặp đối: Chấn -Tốn chỉ tại thiên thành tượng; cặp Đoài -Cấn chỉ tại địa thành hình; Thiên và địa, trời và đất là cái nôi nuôi sống loài người, thế giới hiện thực, sinh động, bầu trời là tập hợp, những chất nhẹ- trong, nên đâu có hình, chỉ có thể nhận biết qua các hiện tượng mà cổ nhân chọn biểu diễn là: sấm sét và gió bão, đất thì lấy thế cao thấp để tượng trưng phần lõm xuống là đại dương mênh mông chỉ định bởi quẻ Đoài và phần lồi lên là đất liền tượng trưng bằng Quẻ Cấn. ( Chính xác là ‘đất nền’ ) . Trong Việt ngữ chữ Kiền Khôn lớn hơn chữ vũ trụ nhiều lắm, vũ trụ chỉ phần không và thời gian hay nói theo thuyết tương đối là vũ trụ 4 chiều. Càn - Khôn bao trùm cả những gì vượt qui luật hay là 1 siêu “không – thời gian”, vũ trụ chỉ là1 bên còn bên kia là siêu vũ trụ, đạo giáo gọi là thượng giới, Thiên Quốc của Ngọc hoàng Thượng đế v.v… Bát Quái – Lạc đồ chính với kết cấu : Mẹ tròn –con vuông là thế giới quan của họ Hùng; thể hiện rõ sự cố gắng vượt qua chính mình của con người, siêu nhiên là sự vượt qua tầm với của khả năng nhận thức, quá khả năng phán đoán của não bộ… nhưng vẫn xác quyết là có đấy; nó tồn tại như mặt đối của tự nhiên theo đúng luật lưỡng lập. 2/ Bát quái Tiên thiên hay 8 Quẻ con Người . Đồ hình 8 quẻ con người lấy con người làm đối tượng , nó diễn tả vị trí và sự tương tác trong guồng máy vĩ đại :con người – thiên nhiên – xã hội . 4 quẻ Càn, Khôn, Ly, Khảm là nội quái, là các thành phần bên trong làm nên phần tinh thần của mỗi con người, đồ hình 8 quẻ người diễn tả sự tương tác nội thân đồng thời tương tác với môi trường. a. Trục Càn – Khôn . Kiền là lớn mạnh, là ý chí tự chủ của con người. Khôn là bản năng sinh lý, thể xác con người cũng chỉ là 1 sinh vật nó cũng bị chi phối bởi các qui luật sinh hóa và vật lý. Khuynh hướng của quẻ Khôn rất là hoang sơ, hoang sơ như loài thú vậy, nhưng sở dĩ con người vượt trên mọi loài vì Khôn phải quy phục cái lớn mạnh tức quẻ Kiền hay Cường; sự tuân phục này ngôn ngữ Việt Nam gói trong từ kép “khôn ngoan”, khôn tức bản năng đã được chỉ định trong tượng tin quẻ Khôn, ngoan là nghe theo (từ Việt). Ta thấy ý nghĩa rất rõ ràng, tương tự với quẻ Kiền Việt ngữ có từ “lớn mạnh” ngắn gọn nhưng đầy đủ về ý nghĩa, tương đương với cả câu của đại tượng: “Thiên hành kiện quân tử dĩ tự cường bất tức” Tới đây có thể nói không quá lời là với người Việt thì Dịch là văn và văn chính là Dịch; nghĩa là trong 1 câu nói rất dân giả chẳng cần chút trí thức nào cũng đã vận dụng Dịch lý nhuần nhuyễn như cơm ăn, áo mặc vậy. Thí dụ: mong con cái khôn lớn như những dòng trên đã chỉ ra: khôn lớn chính là 2 quẻ Kiền, Khôn đấy. Khôn ngoan và lớn mạnh là tiêu chí của trưởng thành tức là thành “người lớn” từ ‘quân tử’ trong Nho giáo cũng chỉ có nghĩa là người lớn – người trưởng thành , đám Tàu ô ấm ớ biến ‘quân tử’ thành ‘con vua’ làm ô danh Nho giáo . , họ cũng biến Quẻ Khôn chỉ bản năng thành đối tượng … của khuynh hướng triết lý khinh rẻ thân xác dạy con người phải “khắc kỷ - diệt dục ” ; đã là bản năng hay sinh lý tức là cái gì đó rất bình thường, vấn đề là thỏa mãn nó như thế nào thôi, đói thì ăn khát thì uống là lẽ tự nhiên , nhưng phải ăn uống trong cái đạo lý … công bình, chiếm đoạt của người khác để thỏa lòng mình mới là điều phải lên án. b. Trục Ly – Khảm Ly - Khảm tức Lý và Tình hay Lý trí và Tình cảm. Lý trí là sự sáng suốt của con người. Nhờ có lý trí con người mới phân biệt được đúng sai phải trái. Quẻ Ly “chủ trì” sự tương tác “con người – tự nhiên”, tự nhiên vận động theo qui luật của tự nhiên, việc khám phá và vận dụng các qui luật là chức năng của lý trí con người. Người ta thường nói ‘công lý’ vì lý đúng với mọi người mọi nơi mọi lúc không có ngoại lệ, ngược lại tư tình là tình cảm riêng biệt cho từng đối tượng, người có thân có sơ, có yêu có ghét không ai giống ai. Còn khi đạo đức hay triết học nói đến yêu người hay lòng nhân ái tức nói đến một con người chung, hay đại biểu “người”, lòng nhân ái là 1 đức hạnh phi vật thể đó là sự chia xẻ vật chất, nhường cơm xẻ áo, lý và tình đâu có đối lập? mà là 1 sóng đôi- lưỡng lập của Dịch học. Lý trí và tình cảm là 1 lưỡng nghi hợp với sóng đôi của nó là cặp ý chí – bản năng hình thành tứ tượng bên trong hay nội thân . Tứ tượng bên trong sóng đôi với Tứ tượng bên ngoài diễn tả sự tương tác giữa con người và môi trường, 1 bên là môi trường xã hội bên kia là môi trường tự nhiên. Con người là 1 sinh vật xã hội, nói như thế tức khẳng định không thể nào tìm được con người độc đinh chỉ 1 mình vì ngay từ khi sinh ra rồi lớn dần thì trong não bộ thông qua giao tiếp đã mang cái vốn trí thức của cộng đồng . loài người là sinh vật cao cấp nhất sinh sống trong môi trường kép khác với loài vật chỉ có môi trường tự nhiên mà thôi . c. Trục Đoài – Chấn Đối với môi trường tự nhiên thì con người tương tác với 2 dạng thức: - Hiểu biết về tự nhiên, phát hiện các qui luật vận động trong giới tự nhiên và lợi dụng các qui luật này để phục vụ cho chính mình, nói chung sự hiểu biết này gọi là tri thức được Dịch học tượng trưng bằng quẻ Đoài hay Điều, Điều là lời lẽ, điều tiếng trong tiếng Việt nó còn có nghĩa là “cái đúng, lẽ phải”. Thí dụ : tên cướp hù dọa mọi người biết “điều” thì đứng yên. - Tác động vào tự nhiên được Dịch học biểu thị bằng quẻ Chấn. Ban đầu con người tác động vào tự nhiên chỉ bằng sức cơ bắp, sau này dần tăng lên với sức máy móc, người chỉ còn tham gia bằng trí tuệ, sức mạnh tác động ngày càng lớn đem lại của cải vật chất ngày càng nhiều, và đời sống con người ngày một thêm phong phú. d. Trục Tốn – Cấn Xét cho cùng xã hội cũng là 1 cơ thể sống, bản thân nó cũng có nhiều cơ phận, làm sao để thống nhất điều khiển hoạt động của các cơ phận đó? Như vậy xã hội cũng cần có bộ não, với con người thì các bộ phận trong cơ thể là cấu tạo “tự nhiên, ý muốn của con người không can thiệp vào được, nhưng đối “cơ thể” xã hội hay cộng đồng người thì khác, việc tổ chức xã hội ra sao do con người quyết định, cơ chế vận hành cũng do con người ấn định không có sự “đương nhiên” ở đây. Ta thấy ngay thế giới đương đại cũng tồn tại nhiều thể chế khác nhau từ độc tài tới dân chủ . Việc tổ chức quốc gia, tuyển chọn người lãnh đạo và mối tương quan hiến định giữa các cơ quan … hợp thành nền chính trị ; Dịch học biểu thị bằng quẻ Tốn hay Toán, từ kép của Việt ngữ ‘lo toan’, ‘gánh vác’ là mô tả quyền hành chính trị quốc gia rất đúng nghĩa, Dịch học gọi là Tề hồ Tốn tức quẻ Tốn là sắp đặt, tổ chức và quản trị (Tề). Tóm lại: quẻ Tốn chỉ nền chính trị của một quốc gia . - Chế độ kinh tế là sự cố kết giữa người và người để tác động vào thiên nhiên làm ra của cải, phân phối và tiêu thụ số của cải đó, Dịch học tượng trưng chế độ kinh tế bằng quẻ Căn hay Cấn, tại sao lại là Căn? Căn là cái nền, những gì xây dựng trên phải tựa vào nó. Nếu Căn là chế độ kinh tế thì cái xây dựng trên nó chính là chế độ chính trị, kinh tế là cái nền của chính trị Là ý nghĩa của quẻ Cấn- căn . Còn kinh tế đối với trình độ kỹ thuật hay công cụ sản xuất lại là Cản. Với mỗi trình độ kỹ thuật hay mức tiên tiến của công cụ mà con người sử dụng để tác động vào tự nhiên cho ta 1 cơ cấu tổ chức kinh tế khác nhau. Sự phù hợp cho ta kết quả tối ưu với năng suất ở mức cao nhất, do sự phân phối quyền và lợi trong bản thân chế độ, kinh tế thường cản trở sự cải tổ chính trị làm sự chuyển biến thay đổi chế độ xã hội thường chậm so với yêu cầu khách quan. Quẻ căn còn 1 nghĩa nữa là ‘Cán’, cán là cái người sử dụng phải nắm lấy, cầm lấy để điều khiển công cụ . Tư tưởng nắm lấy “tiền của” để điều khiển, kiểm soát sự vận hành guồng máy xã hội đã có ngay trong Dịch học, cụ thể là Chu Dịch thời 3.000 năm về trước. Đồ hình 8 quẻ con người với kết cấu : tròn ẩn trong vuông chính là nhân sinh quan của họ HÙNG Chỉ với từ ‘Cấn’ biến thành Căn, Cản, Cán cũng cho thấy Dịch học không thể phiên dịch qua ngôn ngữ khác được, ngay cả Hán ngữ cũng không ngoại lệ.
  5. Dịch học họ HÙNG . bài 10 III. Dịch học tượng vạch hay vạch quẻ Dịch học được diễn giải bằng các vạch là sự tiếp nối Dịch nút số vì nút là các nút thực thể có trước khi loài người biết đến ký hiệu: những ký hiệu đầu tiên là khắc vạch , khắc vạch là từ thuần Việt nghĩa là vết cắt . Cổ nhân tìm ra cách phân chia thời gian bằng cách dùng bóng nắng cây sào so với các vạch trên mặt đất , 5 vạch chỉ 5 mồng ban ngày và tưởng tượng ra 5 canh ban đêm; vì lẽ này ta có từ kép thời – khắc ; từ này minh định các khắc vạch ban đầu tạo ra do nhu cầu đo bóng nắng định thời gian; từ khắc thực ra chỉ là biến âm của từ cắt trong Việt ngữ về sau những vạch này trở thành những chữ , rất có thể đây chính là những chữ đầu tiên và cũng là mẫu mực cho sự hình thành chữ Trung hoa về sau . Tập tục cổ xưa đo bóng nắng bằng cây sào tre ngày nay còn lưu giữ trọng việc trồng cây nêu ngày Tết , việc này giúp ta minh định : việc đo bóng nắng định thời khắc chỉ có thể phát sinh ở vùng nhiệt đới vì ở đấy mới có tre dài mọc tự nhiên , điều này giúp xác định quê hương của Dịch học là vùng nhiệt đới. Việc phát minh và sử dụng khắc vạch như 1 ký hiệu có chứa thông tin đã là bước khởi đầu của con đường dài bất tận, đường đi đến văn minh mà chuẩn mực cứ mỗi ngày nâng cao thêm nên trở thành bất tận , làm gì có điểm dừng gọi là văn minh tột đỉnh ? A. Đôi ngôi Âm - Dương Dịch của người Tàu gọi là : Lưỡng Nghi Âm và dương nghĩa cơ bản là thấy và không thấy; phơi bày ra và ẩn giấu đi, dương là cái cụ thể âm là trừu tượng; dương là hữu hình âm là vô hình. Dương biểu thị bằng vạch đứt ___ ___ Âm biểu thị bằng vạch liền ________ Ấn định như vậy của Dịch học Họ Hùng ngược hẳn Dịch học thông hành của người Tàu hiện nay Ta xác định được vậy nhờ 2 cụm từ trong tục ngữ Việt – êm xuôi trót lọt và giang dở đứt đoạn. Giang dở hay dương dở chỉ sự việc chưa hoàn thành, bị cắt ngang nó được giải thích bằng từ kép đi kèm đứt đoạn Chữ dương này chính là chữ dương trong âm dương. Hình ảnh chỉ dẫn ở câu trên đúng là vạch đứt. Ngược lại cụm từ: êm suôi trót lọt chỉ sự tiến triển liên tục đưa đến hoàn thành tốt đẹp, hình ảnh nó gợi ra không gì khác hơn là vạch liền; êm → âm Tóm lại: âm tượng trưng bởi vạch liền, dương tượng trưng cho vạch đứt Vạch liền chỉ những gì không thấy được, vô hình vô ảnh không khối lượng nên liên tục Ngược lại: vạch đứt chỉ những gì có thể nhìn thấy được hay hữu hình do đó gián cách đứt đoạn . Mọi vật hiện hữu đều có thể qui vào 2 khuôn khổ trên và người ta thường lầm lẫn những gì đối nghịch nhau là 1 lưỡng nghi hay đôi ngôi Như nóng là âm lạnh là dương, nhẹ là âm nặng là dương, đàn ông là dương đàn bà là âm v..v.. Thực ra có 1 cặp đối nghịch không nhất thiết là có đôi ngôi hay lưỡng nghi Ta chỉ có 1 lưỡng nghi khi 2 thành phần phối hợp để tạo thành 1 chỉnh thể hay sinh ra 1 cái gì mới . Thí dụ: đàn ông là âm, đàn bà là dương (Dịch học họ Hùng ngược với Dịch của Tàu) không hề là 1 lưỡng nghi nhưng vợ và chồng lại là đôi ngôi trong cái chỉnh thể “gia đình” Con người là 1 lưỡng nghi điển hình : thân xác là Dương chứa cái tinh anh là tinh thần ở trong ; âm (ém ở trong) Thí dụ nữa : chữ là 1 lưỡng nghi trong đó phần dấu hiệu là dương ở ngoài, phần thông tin là âm tàng chứa ở trong. Hình ảnh chày cối cũng là 1 lưỡng nghi điển hình; chày dã xuống cối chặn lại hợp công biến thóc thành gạo. Chày là đoạn cây dài, chính là hình tượng vạch liền, cối có chỗ lõm đựng thóc là nơi nhận đầu cây chày đâm xuống, chỗ lõm cho ta tượng vạch đất và chày → chài - chai, trai; cối → cái – gái Chày cối chính là 1 gợi ý cho âm dương, cối là dương, chày là âm. Người Tàu âm chữ ‘chày – cối’ thành ‘chử – cửu’, sở dĩ ta dám nói dịch học khởi phát ở Việt nam chính vì biến âm chày →chai- trai; cối → cái – gái còn chử - cửu của người Tàu chẳng liên quan gì tới âm – dương trai gái cả. Hán văn biến từ ‘cối’ thành ‘cổ’ nghĩa là cái trống , đồng cổ là trống đồng , khi liên kết dãy từ ngữ : âm-dương , chày cối , cối đồng , dã (gạo) , quẻ Lôi địa Dự và nước Dạ lang thì phát hiện ra ̣điều vô cùng quan trọng mang tính quyết định đối với lịch sử Việt – Hoa . ( xem Sử thuyết họ Hùng ). Có học giả Trung Hoa đưa ra kiến giải : vạch đứt vạch liền chính là hình ảnh sinh thực khí nam và nữ, kiến giải này có sự hợp lý của nó; thực đơn sơ nhưng cũng rất chính xác vì: sinh sinh chi vị Dịch, quy luật cốt cán của Dịch học là sinh ra, đẻ ra mà muốn sinh đẻ thì trước hết phải có thai, muốn có thai thì phải có sự giao hợp của nam và nữ. Từ đôi ngôi hay lưỡng nghi ta nhận biết định luật quan trọng nhất của Dịch học. Trong vũ trụ không có sự vật chuyển biến đơn lập, một vật luôn luôn thay đổi cùng với mặt đối của nó. Không có thấp sao có cao . Có kẻ mất thì có người được Bên bán phải cùng có với bên mua Chết là bước khỏi cõi tự nhiên đồng thời là bước vào cõi siêu nhiên. Viên đạn bắn đi thì khẩu súng giật ngược lại. Nơi đây được làm lạnh thì chỗ khác phải nóng lên . Sự khác biệt giữa tư duy Dịch học và sự suy nghĩ thông thường tương tự như sự khác biệt giữa kế toán đơn và kế toán kép, 1 phát sinh trong kế toán kép luôn luôn có 1 đối ứng, mọi chuyển biến trong vũ trụ đều như thế, luôn luôn có đối ứng nên tư duy Dịch học là tư duy sóng đôi hay lưỡng lập. B. 4 dạng hay Tạng: Dịch học người Tàu chuyển ngữ thành tứ tượng Ở trang trên đã nói đến Luật sóng đôi hay lưỡng lập; khi đã có 1 lưỡng nghi thì đồng thời cũng có 1 lưỡng nghi sóng đôi với nó: 4 Tạng = 2 (2 ngôi) Hán Tự : Tứ Tượng = 2 (Lưỡng Nghi) 1 lưỡng nghi là: Thái âm – Thái dương 1 lưỡng nghi là: Thiếu âm – Thiếu dương Đồ hình 4 dạng hay Tạng Ta thấy: 4 tượng hình thành bởi 2 tầng âm dương, quy luật sắp đặt và chuyển từ cực này sang cực kia như sau: Xuống 1 tầng thì độ số nhân đôi nếu : - Tượng vạch 1 tầng ta có : ..................................................Âm ................ Dương - Tương tự với tượng vạch 6 tầng. Ta có: 64 quẻ sắp xếp theo độ số: 1 ______ 2 ______ 4 ______ 8 ______ 16 ______ 32 ______ Tượng vạch chuyển từ: thuần Kiền đến thuần Khôn. 63___ sang 0___ 0 _ _ sang 63 _ _ Sự chuyển biến tuần tự theo quy luật giảm 1, tăng 1 cho tới khi chuyển hẳn thành mặt đối. Ý nghĩa của 4 tượng: Ta đã thấy tượng vạch 1 tầng đã quy mọi vật thể trong vũ trụ vào 2 khuôn khổ, âm và dương, ở tầng vật thể các quy luật vật lý chi phối sự tồn tại và biến hoá, chuyển động của sự vật. Sang tới tượng vạch 2 tầng, tức là tứ tượng của Dịch học, đây là thế giới của những cơ thể nói khác đi, đây là tầng sinh vật gồm 2 ngành chính là thực vật và động vật. Sinh vật cũng là 1 vật thể nên cũng chịu sự chi phối của quy luật vật lý, cùng lúc ấy vì ở tầng cao hơn cơ thể còn chịu sự chi phối của các quy luật sinh học. 1 cơ thể luôn có phần nội thân xác lập bởi 1 âm – 1 dương và bản thân cơ thể ấy luôn tồn tại trong 1 môi trường: cũng là 1 âm + 1 dương. Như thế 1 cơ thể luôn có sự tương tác giữa 1 âm 1 dương ở bên trong và bên ngoài giữa bản thân và môi trường. Nếu sự tương tác trao đổi chất diễn ra đều đặn, liên tục trong 1 thời gian nhất định, thì thời gian đó gọi là thời gian sống. Đồ hình mô tả chung như sau: Về mặt thân xác thì con người cũng chỉ là 1 sinh vật như bao sinh vật khác cũng chịu sự chi phối của 2 tầng quy luật tầng vật lý và tầng sinh lý. Tứ tượng mô tả con người trong vũ trụ như sau: Thái âm chỉ tinh thần Thái Dương chỉ thân thể Thiếu âm chỉ môi trường tự nhiên Thiếu dương chỉ môi trường xã hội Con người là 1 sinh vật xã hội nên vận dụng tứ tượng để mô phỏng cũng có những nét riêng, nét đặc thù chỉ có đối với xã hội loài người con người là sự lưỡng hợp vừa là thần vừa là vật, thần linh nhập trong xác phàm đấy là định nghĩa chữ “người” của Dịch học. Khi nhìn ở tầm “siêu” vĩ mô nghĩa là xét mối tương quan của cả loài người và vũ trụ, Dịch học mô tả và diễn giải ở 3 phần khác nhau, chỉ khi nào tổng hợp ý nghĩa 3 phần đó ta mới có thể hiểu điều Dịch học muốn nói. Thứ 1 là Hà Thư Thứ 2 là Tứ tượng hay 4 dạng Thứ 3 là Ngũ hành hay 5 hình Chúng ta sẽ nói rõ điều nay sau phần ngũ hành hay 5 hình. Dịch học họ HÙNG bài 11 - bát quái hay 8 quẻ xin xem phần trước .
  6. Dịch học họ HÙNG . bài 1. PHẦN I DỊCH HỌC TỔNG QUÁT I . Dẫn nhập . 1 . Dịch học họ HÙNG- Đôi lời nói trước: Dịch lý nghĩa là: Lẽ biến đổi, do vậy Dịch lý bao trùm vũ trụ, vì trong trời đất, không có gì là không thay đổi, khác nhau chỉ ở tốc độ dời đổi mà thôi, nhanh thì vài phần tỷ của giây, chậm thì hàng tỷ năm. Dịch học là sự nhìn nhận tiếp cận Dịch lý thông qua hệ thống ký hiệu như ngôn ngữ văn tự đồ hình .v.v..; như vậy Dịch lý chỉ có một nhưng có thể có nhiều nền dịch học ; cho tới nay, ít ra cũng có 3 nền Dịch học khác nhau đã được biết tới, đó là Liên Sơn Dịch, Quy Tàng Dịch và Chu Dịch. Theo Cổ Thư Trung Hoa thì Liên Sơn Dịch là Dịch học nhà Hạ, Quy Tàng Dịch là Dịch học nhà Thương và Chu Dịch là Dịch học của nhà Chu. Dịch Liên Sơn và Quy Tàng nay đã thất truyền, chỉ còn Chu Dịch trở thành một trong Ngũ Kinh; linh hồn của văn minh Trung Hoa thường gọi là Kinh Dịch. Trung Hoa và Việt Nam cổ là 2 Quốc gia theo chế độ Sĩ trị nghĩa là ai muốn làm quan thì phải đi học, học hàm Tiến Sĩ hay Ông Nghè là điều kiện để kẻ Sĩ được bổ làm Quan; Ngũ Kinh là sách buộc phải “làu thông” của Sĩ tử. Nói như thế để ta thấy sự quan trọng của Kinh Dịch đối với vận nước hay sự hưng thịnh, suy vong của dân tộc Trung Hoa như thế nào. Kinh Dịch chưa bao giờ và không bao giờ là sách bói toán, bàn chuyện quỉ thần cả; sỡ dĩ có việc phân định này vì trình độ văn minh của kẻ chiếm lĩnh kinh Dịch và nội dung hàm chứa trong Kinh Dịch cách nhau quá xa, không thể hiểu nổi nên cho là chuyện quỉ thần… Cũng như một chàng chăn ngựa lang thang trên thảo nguyên vô tình nhặt được cuốn sách viết về thuyết tương đối của Einsten thì đối với bản thân anh ta và đoàn trại chăn nuôi của anh ta: cuốn sách trên cũng chỉ là sách bói toán quỉ thần mà thôi vì nó ghi toàn những cái “không hiểu nổi…” Để đi vào phần chính của sách xin có đôi lời nói trước tránh những phiền toái không đáng có. 1. Không tranh dành với ai. Dịch Lý có 1 nhưng Dịch học thì có nhiều, tuỳ phương cách và vị trí tiếp cận nên khi gọi là Dịch học họ Hùng không mang nghĩa xác định Kinh Dịch là của Việt Nam; đã có Liên Sơn Dịch, Quy Tàng Dịch tại sao lại không thể có Dịch họ Hùng ? . 2. Sẵn sàng tranh luận. Khi 1 ý tưởng gọi là mới được đưa ra chắc chắn sẽ có nhiều ý kiến khác nhau, dựa trên các luận cứ khoa học để tranh luận sẽ hiển lộ chân lý đó là điều đáng mong đợi nhưng không nên sa vào các cuộc tranh cãi không bờ bến gì cả, vì tranh cãi như thế chỉ mất thì giờ vô ích, không thể đạt được sự nhất trí, ví dụ … Khổng Tử than: “… Hà không xuất đồ…, Lạc không xuất Thư…”; căn cứ vào chỗ nào để khẳng quyết… Hà là Sông Hoàng Hà hay Mạnh Hà ; Lạc là Lạc Thuỷ … trên đ̣ất Trung quốc , gỉa dụ ngay giờ ta nói Hà chỉ Hồng hà hay sông Hồng và Lạc là sông Lô ở Việt nam thì sao ?... Nếu tranh cãi với nhau về điều này thì làm sao có thể thống nhất ? Dựa vào đâu mà kết luận sai hay đúng . Dịch học là sự nhìn nhận hay nhãn quan về thế giới và cuộc đời. Dịch học họ Hùng là ý thức hệ của người họ Hùng, nó định hướng tư tưởng người Việt từ ngàn xưa; biểu tượng Dịch lý hay Dịch tượng đã trở thành ngôn ngữ của con cháu nhà Hùng; mọi sự hiểu biết đều là hiểu biết dưới ánh sáng của Dịch lý... Dưới gầm trời này không có gì nằm ngoài Dịch lý vì Dịch là biến động mà giới tự nhiên có gì không biến động? Sự việc ngôn ngữ Việt được cấu thành dựa trên Dịch lý đủ xác quyết câu “Dịch học họ Hùng” không cần bàn thêm. Từ đây cũng thấy 1 việc đơn giản: Muốn học hay tìm hiểu về Dịch học Họ Hùng thì phải thông thạo ngôn ngữ Việt, Dịch học không thể Dịch sang ngôn ngữ khác được, ngay với Hán văn , thứ ngôn ngữ thân cận nhất với Việt ngữ, ăn chung 1 bàn nằm chung 1 chiếu cả ngàn năm rồi vẫn không thể chuyển tải trọn vẹn Dịch lý được, chính vì thế mới gây nên “bát quái trận đồ”… chỉ có vào mà không có lối ra cho những ai muốn học Dịch. Cũng 1 Kinh Dịch thôi mà hàng ngàn học giả viết về nó, bàn về nó… đặc biệt càng viết, càng bàn càng không hiểu. Mỗi khi có thêm 1 tác phẩm viết về Dịch thì xem ra ...lại thêm 1 phần rối rắm, thử hỏi từ cổ chí kim nào đã có ai dám vỗ ngực xưng tên nói mình quán thông Dịch lý ? Ai cũng phảng phất thấy trong Dịch học tàng chứa cái gì đó rất là cao siêu, tinh diệu… nhưng cụ thể cao siêu tinh diệu ở chỗ nào, nguyên lý vận động của các dịch tử ( phần tử dịch học là gì )? … thì chưa thấy ai chỉ ra …người ta dừng ở mức áp dụng những công thức sẵn có trong dịch học…không 1 lời giải thích . Tất cả chỉ tại vì: Hán Văn không thể chuyển tải được trọn nghĩa Dịch học, nên học Dịch bằng Hán Văn thì dù có tốn công sức tới đâu cũng chỉ là gãi ngoài da mà thôi. Nội dung cuốn sách này sẽ minh chứng điều đó. Dịch học Họ Hùng có nhiều điểm rất khác với Chu Dịch, những chuẩn mốc dùng xác định chính là từ ngữ và tục ngữ Việt Nam, dân tộc hậu duệ chính dòng họ Hùng. Dịch học được khởi phát bởi Vua Bào Hy, có nghĩa là Dịch đã có từ thời Thái cổ, thời của truyền thuyết... vậy mà lại rất “hiện đại”, ngày nay khi tìm hiểu, nghiên cứu vẫn không đủ từ để thực thấu đáo, tỏ tường, như thế ta phải thống nhất về ý nghĩa để tạo 1 số từ mới: 1. Dịch Tượng Trong Hoa ngữ chữ tượng này chính là con voi; được mượn để chỉ sự tượng trưng thường được ghép với nhiều chữ tạo thành các từ kép như: biểu tượng, ngẫu tượng, hiện tượng, hình tượng, tượng hình (chữ)... Dịch Tượng là những dấu hiệu hình ảnh được mượn để mang thông tin chứa 1 ý nghĩa nào đó, chính nhờ những tượng tin mà con người có thể hiểu , truyền dẫn và lưu trữ thông tin về dịch học .. Ngày nay trong Hán ngữ người ta dùng từ: mã tin là từ tương đương với tượng tin trong Dịch học Họ Hùng nhưng ta thấy ngay sự khác biệt; tượng là tượng trưng, tức mượn một vật một việc chỉ 1 số ý nhất định nào đó, khiến trí khôn con người có thể hiểu được và truyền thụ được cho nhau; còn mã thì ...đành “không biết”.... 2. Tượng số Những con số được phân định gánh một thông tin trong trường hợp nhất định, chuyên biệt nào đó từ tương đương trong Hoa ngữ là Mã số 3. Tượng vạch Hệ thống các dấu hiệu, cấu tạo bằng các vạch, theo qui ước mang những thông tin nhất định được mọi người chấp nhận từ tương đương trong Hoa ngữ là Mã vạch Những chữ “tượng” được thay bằng “mã” trong Hán ngữ ... là một phần trong kỳ án lịch sử Hán – Hoa, sự việc được khẳng định trong cuốn “Sử thuyết Họ Hùng” trong đó sách chỉ ra nguyên nhân việc tráo voi bằng ngựa rõ ràng nhất đã có học giả người Tàu thay Tứ tượng bằng Tứ Mã. Thực kỳ lạ khi những gì đã có từ rất xa xưa, tưởng là thời con người còn “ăn hang ở lổ” nay hoàn toàn tương thích với ngôn ngữ số hóa, đó là 1 phần của sự “đặc biệt” chỉ ở Kinh Dịch mới có sự thống nhất cổ xưa và hiện đại như thế . Sở dĩ phải tạo ngay những từ kép với chữ “tượng” vì về căn bản Dịch học Họ Hùng trải qua 2 thời kỳ rất rõ rệt. Thời Thái cổ - nghĩa là còn trong truyền thuyết Dịch lý họ Hùng dùng “tượng số” để diễn ý. Sang thời cổ tức thời lập quốc họ Hùng cách nay khoảng 5000 – 6000 năm; Dịch chuyển sang dùng “tượng vạch” làm phương tiện diễn đạt, 6 tầng vạch hoặc đứt hoặc liền tổ hợp thành 64 nguyên tố Dịch học, thường gọi là quẻ trùng hoặc quẻ chồng. Về mặt vật chất chỉ với hơn 100 nguyên tố hóa học mà với các cách liên kết khác nhau đã tạo ra thiên hình vạn trạng, tạo ra cả vũ trụ mênh mông. Tương tự các nguyên tố Dịch học cũng liên kết với nhau theo nhiều cách để kết cấu nên một thế giới liên tục vận động, cũng thiên hình vạn trạng đến nỗi cả vũ trụ mênh mông chỉ là 1 phần của nó... phần còn lại chính là ý thức của con người, ý thức và chủ động là đôi cánh của Dịch học, không có đôi cánh này thì vũ trụ mãi mãi vẫn chỉ là cái mênh mông, không có ý nghĩa gì, không giá trị gì. Bài 2,3,4 viết về sự liên quan giữa Trống đồng và dịch học xin đọc những bài đã đăng trước .
  7. Dịch học họ HÙNG . bài 8 b . Ý nghĩa khoa học thứ 1 của Hà Thư: 1/ Cặp tượng số (1-6) dân gian mô tả bằng điệp tự rất sinh động: cô đơn lạnh lẽo, số 1 = cô = đơn ta đã biết; số 6 trong chục con là cóng tức lạnh cóng, số 1 còn là “độc” biến âm ra đặc; đặc sinh ra nặng tóm lại trong bản thân số (1-6) hàm chứa nghĩa là: nặng và lạnh 2/ Cặp số (2-7) được mô tả là: ôm ấp, ấm áp; ôm ấp chỉ 1 đôi như ta đã biết; còn từ điệp ấm áp chỉ rõ : ấm = nóng bức = “nhiệt”, áp → ép hay sức ép; ép cho ta 1 khái niệm “Lực” Ta thấy rõ hơn ý niệm Lực ở nghĩa số 1 và 2; 1 là độc = đặc → nặng; 2 = nhị = nhẹ; cặp nhẹ – nặng minh thị “ý niệm” “Lực” trong trọng lực. Như vậy trục tung hay trục dọc của Hà Thư chỉ rõ ý nghĩa: bản thân vật chất luôn chất chứa ở trong mình nhiệt và lực tức 2 dạng của năng lượng. 3/ Cặp số (3-8) Tượng số 8 trong thập can là Bính, tiếng Việt là bấn, bấn loạn hay động loạn, chữ Bính thành Biến có nghĩa là thay đổi.- chuyển động ở đây là sự so sánh vị trí tương đối của vật so với chung quanh, ngược với động là định , ngược với biến là hằng, Tượng số 9 là Đinh; Đinh biến âm để tạo ra nhiều từ: Đinh, Đanh là vật cứng giúp gắn liền hay cố định 1 vật, Hoa ngữ biến âm thành từ Đính . Đinh biến âm ra Tịnh, Tĩnh → Tạng → Tượng tất cả chỉ sự yên lặng, không thay đổi, đứng yên và đặc biệt Tịnh hay Tượng nghĩa là con voi; 1 loài thú đặc thù của vùng nhiệt và xích đới là con thú làm biểu tượng cho vùng đất phía tây nước Việt . 4/ cặpsố ( 4-9) Số 4 trong thập can là khăng biến âm là cang hay cứng tức sự ổn định về hình dạng của 1 vật , cứng thường đi đôi với rắn nói chung chỉ những gì không thay đổi được. Tóm lại khi Liên kết ý nghĩa 4 cặp tượng số phát minh ra định luật: Vật chất được xác định bởi 4 tượng; 2 tàng ẩn ở trong và 2 phát lộ ra ngoài. -2 tượng ở trong là nhiệt chỉ định bửi số 6 –cóng hay lạnh và lực được biểu thị bằng số 2- ép hay áp lực -2 phát lộ ra ngoài là: - Trạng thái động hay Định cuả 1 vât so với chung quanh, vật lý hiện đại gọi là vận tốc chuyển động tượng trưng bởi số 8- bính bay biến và dạng vật chất cứng hay mềm được chỉ đinh bởi số 4 cang- căng . - Dạng thể của vật chất: cứng hay mềm; gọi là cứng hay mềm chỉ là tượng trưng cho sự phân loại vật chất theo thể dạng: thông thường có 3 là: dạng rắn, lỏng và dạng hơi, ngày nay khoa học đang với tới dạng vật chất thứ 4 đó là plasma Điểm then chốt trong định luật khoa học Hà Thư này là: 4 tượng hay 4 biểu hiện của vật chất gắn chặt với nhau và trở thành 1 khối thống nhất, chỉ cần thay đổi ở 1 tượng trong nhiệt – lực – dạng – tốc thì lập tức phát sinh thay đổi đối ứng ở các tượng còn lại nghĩa là vật chất đạt trạng thái cân bằng mới.với tốc độ di chuyển nhanh hơn hay chậm hơn ... Còn nếu bản thân vật chất không thể tự cân bằng nó sẽ bị phá vỡ và các phần tử của nó trở thành 1 phần của các vật khác như hòn đất nếu ném vào bức tường cứng sẽ vỡ vụn ra . Thí dụ khác : ta nung kim loại tức làm thay đổi nhiệt trong bản thân vật đó; đến nhiệt độ nào đó, kim loại chuyển từ dạng rắn sang dạng lỏng. Khi ta nén chất khí đến một áp suất nào đó khí sẽ hóa lỏng Ví dụ cụ thể và dễ dàng nhất để chúng ta nhận biết là sự biến dạng của nước; dưới 0o là thể rắn từ 0o là 100o C là dạng lỏng trên 100oC nước bốc hơi. Sự hiểu biết định luật này là nền tảng cho tiến bộ khoa học kỹ thuật của con người và rõ ràng vượt xa trình độ chung của người đương thời cách đây hàng vạn năm c. Ý nghĩa khoa học thứ 2 của Hà Thư Từ lâu loài người đã biết vật chất có 3 dạng thể: rắn, lỏng và khí nhưng dựa vào Hà Thư và các tượng tin chứa trong các số của thập can và đặc biệt là ngôn ngữ Việt ta tìm thấy 2 loại vật chất nữa là: vật chất loãng hơn khí và đặc hơn chất rắn nghĩa là trong bảng xếp loại từ đậm đặc đến loãng thì 2 loại vật chất này nằm dưới chất rắn và trên chất khí. Nhìn vào Hà Thư ta thấy có 1 cặp số ruột là (5-10) và 4 cặp số vỏ (1-6), (3-8), (2-7), (4-9) Sự tương tác 1 cặp số ruột luôn là (5-10) và 1 cặp số vỏ cho ta 1 dạng thể vật chất ta có bảng phân loại vật chất theo độ đậm đặc như sau Ta thiết lập qui luật sau: Nhìn vào Hà Thư ta thấy ruột khối vật chất được biến tạo bởi 2 số 5 và 10, số 5 được số 10 bao bọc. Độ đậm đặc của khối vật chất quyết định bởi sự tương tác của số (10) và lớp vỏ, sự tương tác này diễn ra theo quy luật; cùng cơ ngẫu hay chẵn lẻ thì không tương tác, khác cơ ngẫu mới phát sinh tương tác, như vậy độ đậm đặc của vật chất được biểu thị bằng số trừ (hiệu số) của số 10 và số lẻ của cặp số vỏ, Ta có: Dựa vào đâu ta nhận ra như thế? Chính do Hà Thư chỉ ra cho chúng ta: _ chất chắc- mật số ‘1’ một , ngày nay chúng ta gọi là chất rắn. _ chất nhũn hay nhão số ‘3’ là chất lỏng. _ chất óp là chất khí hay hơi số ‘2’ , số 2 hai biến âm thành hơi _ chất căng số ‘4’ là dạng vật chất dãn nở hết mức nên không khối lượng có thể xem là 1 năng lượng khối _ chất mẹ hay cả số ‘5-10’ là vật chất siêu đặc chưa có tên, đó là loại vật chất của các lỗ đen trong vũ trụ. Rõ ràng hơn ta thấy: 1. Tượng số 1 trong (5-10) (1-6): Chữ chắc chỉ số 1 ta đã nói rõ rồi, nay củng cố thêm ý nghĩa bởi số một trong số đếm của người Việt; một là biến âm của Mật trong tiếng Việt các từ: Mật, Cô, Canh đều có nghĩa là đặc hay làm cho đặc lại; rõ ràng ý chỉ loại vật chất có độ đậm đặc cao hay chất rắn mà thập can gọi là: chắc 2. Tượng số 3 trong (5-10) (3-8) Số trong thập can 3 là nhũn- nhăn, Hoa ngữ ký âm thành nhung. Tiếng Việt từ nhũn, nhão chỉ vật chất không thể tự định hình, nếu xếp trong bảng phân loại vật chất ngày nay thì loại nhũn, nhão này chính là chất lỏng. 3. Tượng số 2 trong (5-10) (2-7) Tượng số 2 thập can là óp ta đã biết ở các phần trên; óp cũng là loãng, loại vật chất ít đậm đặc, lập luận này được củng cố bởi ý nghĩa số 2 trong tiếng Việt: 2 = nhẹ (nhìn); Hai biến âm thành “hơi”; Hơi là từ đồng nghĩa với khí. Tới đây ta đã xác định được 3 dạng vật chất, nếu chưa quen với Dịch học người đọc có thể cho… đây là sự khiên cưỡng, áp đặt thái quá… nhưng bạn nên nhớ Hà Thư “xuất thế” ít ra cũng hơn 10.000 năm rồi; cả vũ trụ vận động chỉ gói ghém trong chỉ có chục con hay 10 chữ nếu chỉ 1 ý nhỏ thôi trong Hà Thư mà ngày nay chúng ta bắt được hay nhận ra được cũng đồ sộ bằng cả 1 kho sách ngàn trang. Nếu chưa quen, bạn đọc có thể phê phán, chê trách… nhưng không sao cả điều quan trọng là dựa vào Hà Thư ta biết còn 2 loại dạng vật chất nữa ngoài 3 dạng rắn –lỏng - khí thông thường đã biết. 4. Tượng số 9 trong (5-10) (4-9) Một dạng loãng hơn cả chất khí và 1 dạng đậm đặc hơn cả chất rắn, dạng loãng hơn chất khí với các tượng số cấu tạo (5-10) (4-9) được Hà Thư gọi là Căng (số 4 = Quí = Khăng) phản nghĩa với tượng số 3 là Nhũn. Căng là Từ Việt … diễn tả cụ thể là cầm 2 đầu mà kéo ra hết mức. Hết mức nghĩa là không thể hơn được nữa, nếu hơn nữa sẽ phá hủy chính vật đó (rách – đứt) Nhìn vào hàng số (5-10) (4-9) ta thấy 2 cụm số có trị số gần bằng nhau; lực cố kết vật chất và lực bứt phá gằn bằng nhau, cho ta cảm nhận vật chất tồn tại rất mong manh; trực giác chỉ dẫn cho ta: đây là loại vật chất mà nhân đã bị kéo dãn ra tới độ lực cố kết cấu tạo nhân hầu như bị triệt tiêu, nên thập can mới gọi là số 4 là căng. Tạm thời ta đặt tên dạng vật chất này là vật chất không ruột hay không nhân, hoặc 1 từ tương đương là “năng lượng khối” tức 1 dạng đang ở thời trung gian chuyển hoá giữa năng lượng và vật chất, giữa E và M trong công thức của Einsten. 5. Tượng số 0 trong (5-10) (0-5) hay (5-10) (5-10) gợi cho ta thấy đây là dạng vật chất đặc biệt thuần nhận hay ruột không có vỏ, tất cả vật chất dù ít tới đâu đều phải có 2 điều ta tạm gọi là: không gian tồn tại và khối lượng tồn tại, ở dạng vật chất không vỏ này thì khối lượng tồn tại cực lớn dồn nén trong không gian tồn tại cực nhỏ khiến độ đậm đặc đạt mức tuyệt đối nghĩa là không thể nào dồn nén hơn được nữa. Do là thuần nhân nên 1 khối vật chất này tạo ra chung quanh nó 1 sức hút kinh khủng, trong 1 phạm vi nhất định chung quanh nó mọi vật chất đều không thể cưỡng lại lực hút này bị tan ra biến thành năng lượng khiến ngày một thêm đậm đặc hơn cái gọi là trường Năng lượng bao quanh khối vật chất không vỏ đó. Cho đến 1 ngày khi sự tương tác giữa các lực bên trong tổ hợp – vật chất thuần nhân và trường Năng lượng bao quanh đạt đến sự thăng bằng nào đó; sẽ xảy ra hiện tượng tái cấu trúc vật chất, đây chính là 1 phần của tiến trình tạo lập vũ trụ, 1 phần của nhân và 1 phần của lớp năng lượng bao quanh bắt đầu xoắn xuýt vào nhau bắt đầu vũ điệu kiến tạo , các thiên thể mới dần dần hình thành. Thay thế cho các thiên thể đã nổ tung hay bốc hơi trước đó. Tóm lại: Hà Thư dạy cho ta có tới 5 dạng vật chất tồn tại trong vũ trụ: 3 loại thường thấy là dạng rắn, lỏng và khí, 2 dạng đặc biệt tạm đặt tên là: -Vật chất không nhân hay chất “căng”; phải chăng đấy chính là dạng vật chất thứ 4 , dạng plasma mà khoa học ngày nay đang nói đến:. -Vật chất thuần nhân hay không vỏ, phải chăng đây chính là các lỗ đen mà nhà bác học thiên tài Einsten đã nói đến? Còn tên của nó theo Hà Thư là chất Mẹ âm Hoa ngữ là Mậu. Tóm lại 5 dạng vật chất biểu hiện bằng công thức tượng số là: (5-10) (4-9): 9 → chất căng (5-10) (2-7): 2 →chất hơi, (khí) (5-10) (3-8): 8 → chất nhũn, (lỏng) (5-10) (1-6): 1 → chất đặc (rắn) (5-10) (0-5): 5 →chất Mẹ Có thể cho đây là sự tưởng tượng qúa mức không...? tại chúng ta chưa hiểu dịch học nên ngỡ là thứ bói toán lăng nhăng thực ra dịch học cao siêu hơn ta tưởng nhiều lắm thí dụ định luật vật lý mở đầu dịch học: chất trong bay lên thành trời chất đục canh hay cô lại thành đất....mới nghe tưởng như câu nói của đám nhà quê ít học nhưng tìm hiểu thấu đáo ta thấy: trong là nhìn xuyên suốt như không có..., vật chất mà mắt thịt nhìn không thấy tức là dạng vật chất vô hình không khối lượng ngày nay chúng ta gọi là năng lượng tức 1 trong 2 dạng vật chất của vật lý học hiện đại, là E trong công thức lừng danh của Entien , chất trong bay lên thành trời tức ý nói :Trời chỉ là 1 trường năng lượng mà thôi , đây là sự khẳng định rõ ràng dứt khoát hoàn toàn đúng với nền khoa học ngày nay chỉ tại chúng ta qúa coi thường dịch lý nên không biết ; Dịch học đã chỉ ra vật chất có 2 dạng cơ bản : _ vật chất trong . _vật chất đục . ý câu- từ đơn sơ nhưng chỉ định cực kỳ chính xác không thể nghĩ khác được: Chính chúng là 2 dạng năng lượng và vật chất của vật lý hiện đại được biểu diễn là E và C , cách đây cả chục ngàn năm những bậc thánh tác dịch chỉ thua enstien chưa tìm ra phần nối kết 2 dạng vật chất là m² ( m bình phương ) Chất đục kết tụ lại thành đất, đất ở đây là sự kết tụ của dạng vật chất đục-đặc ; một hiện tượng phổ biến của tự nhiên làm thành các tinh cầu trong vũ trụ ; thánh nhân đâu có nói ..chỉ kết thành qủa đất này tức duy nhất đâu ? tại chúng ta hiểu sai chữ ‘đất’ mà thôi , có kẻ kém trí còn cười phương đông xưa đần độn cho là quả đất hình vuông ...đúng là lũ ‘hữu nhỡn vô ngươi’ .
  8. Dịch học họ HÙNG . bài 7 B . Hà Thư và chục con Đã rất nhiều học giả nghiên cứu về HÀ-LẠC nhưng tới nay vẫn dừng ở việc ghi nhận 2 đặc tính của HÀ và LẠC ;. ý nghĩa thực sự của nó vẫn còn là 1 bí ẩn đầy thách đố. -Đặc tính của Hà thư là : số 5 ở nhân hay trung tâm nếu cộng với 1 số sinh thì cho ra số thành. Ta có dãy số : 1 2 3 4 5 (5+1) (5+2) (5+3) (5+4) (5+5) 6 7 8 9 10 Điều này cho thấy chủ nhân của Hà thư dùng cơ số 5 như người khơme hiện nay -Đặc tính của Lạc đồ ghi nhận được là: Lạc đồ là ma phương 15. 2 9 4 tổng tất cả các hàng dọc, ngang, xiên đều là 15 7 5 3 5 1 8 Ngoài những điều này ra Bí ẩn chứa trong 2 đồ hình này là gì ? chưa ai biết. a- Ý nghĩa triết học của HÀ THƯ Dịch học chứa những gì vô cùng thâm sâu và cũng vì đầu óc ta nhỏ bé lắm nên người viết hiểu biết tới đâu xin trình bày tới đó không dám nghĩ tới chữ quán thông hoàn toàn. 1. Cặp số 5/10 Số (5-10) là trung tâm của Hà cũng là trung tâm của vũ trụ, là giao điểm của trục không và thời gian. Tên tượng số 5 là Mẹ người Tàu đọc thành Mậu -Tượng số 5 là mẹ vì: Hà có vòng trong chứa 4 số sinh 1, 2, 3, 4 lấy số mẹ là 5 cộng với 4 số sinh cho ta 4 số thành 6, 7, 8, 9 Ý nghĩa là: Số 5 là trung tâm Hà thư, trung tâm là nhân là lõi, v..v..nhưng nhân cũng nghĩa là người; ý dịch học nói ‘chính con người là trung tâm của vũ trụ.́ Nhân + số sinh = số thành . Số sinh chỉ hoàn cảnh – Khách quan. Nhân là yếu tố chủ quan ; 1 khách + 1 chủ = kết quả là số thành . 1, 2, 3, 4, 5 (5+1) (5+2) (5+3)…. 6 7 8 …. Số 5 là tượng mẹ vì nó là số nền để tạo ra các số thành -Tượng số 10 nghĩa là: kỷ = cả, cả là đứng đầu, hương cả là ông lớn nhất làng, con cả là con đầu, đối với quốc gia cả có nghĩa là vua, là chúa Trong lịch sử Trung Hoa có nhiều từ cả hay biến âm của “Cả” như: Cổ Tẩu, cổ Thục, Cơ Xương, Cơ Phát v.v… Cả = Kẻ trong tiếng Việt có nghĩa là người Ta, kẻ chợ là người ở chợ, kẻ chiêm là người chiêm v.v… Chữ Kỷ còn nghĩa là chính ta. Tổng hợp các nghĩa: chính ta, đứng đầu, to nhất tất cả đều xuất phát từ vị trí trung tâm Hà Thư Tóm lại: Cặp số (5/10) là 2 tượng số của Dịch học nút thừng chỉ trung tâm, hay giữa trời đất chính là chỉ con người và cộng đồng người. Con người đầu đội trời, chân đạp đất, nhìn vào Hà thư ta thấy ngay trời là cặp số (2/7) và đất là cặp số (1/6) 2. Cặp đối số (1-2) Số 1 và 2 trong thập can hay chục con là : chắc và óp, ký âm Hán tự là giáp và ất Chắc và óp nghĩa là gì thì chỉ người Việt mới hiểu Chắc là được nén chặt ,Óp là nén không chặt. Xét như thế cái khác nhau giữa chắc và óp là mật độ; đậm là chắc và lợt là óp; đặc là chắc loãng là óp. Hệ quả đương nhiên của đặc và loãng là nặng và nhẹ… chắc thì nặng và óp thì nhẹ. Từ ngay điểm này ta đã có thể khẳng định là Việt ngữ được tạo lập trên nền tảng Dịch lý: Thí dụ: - Từ chắc -> đặc -> độc = 1 chiếc = 1 Từ đặc, chiếc là từ thuần Việt - Từ óp → nhẹ → nhị (nhì) loãng → Lưỡng Nhị, nhì, lưỡng = 2 Nhẹ và loãng là từ thuần Việt Vậy chắc và óp có ý nghĩa gì? Chắc và óp chính là tiên đề của nền Minh Triết và khoa học Việt cổ. Nhất viết thủy nhị viết hỏa ; thủy hỏa – nước lửa là 2 dịch tượng được mượn để tượng trưng cho 2 loại vật chất đã cấu tạo nên vũ trụ,1 = chắc là thủy chỉ chất đục nặng , 2=óp là hỏa chỉ chất trong và nhẹ ; ngày nay vật lý hiện đại gọi là năng lượng và vật chất ý nghĩa trong Hà thư rất rõ ràng chỉ tại chúng ta không hiểu mà thôi. Trời và đất là 1 thể chỉ khác nhau ở độ đậm lợt ; một khi mật độ của thứ gọi chung là vật chất bị nén chặt hơn thì thành đất, đặc trưng của đất là có hình thể, có hình thể nên vẽ ra được, bức vẽ ấy gọi là địa đồ hay lục đồ, lạc đồ. Cũng thứ vật chất ấy nhưng mật độ nén kém hơn hay loãng hơn thì tạo thành trời, vì là vật chất cực loãng nên trời có hình thể gì đâu ta chỉ có thể cảm nhận được qua các hiện tượng. Dịch nói là: Tại Thiên thành Tượng, Tại Địa thành Hình vì vậy ta có Hà Thư chứ không thể có Hà Đồ. Cặp tượng số (1-2) còn có ý nghĩa hết sức đặc biệt, đó là đục và trong, kinh Dịch chép: chất trong và nhẹ bay lên thành trời, chất đục nặng lắng xuống thành đất; Đục và Trong là tượng tin gắn liền với âm dương. Chất nhẹ bay lên thành trời như vậy trời chỉ là một trường năng lượng mênh mông còn đất là tập hợp của chất nặng canh hay cô đặc lại,dịch không hề nói trái đất là duy nhất trong vũ trụ, chữ đất chỉ mang tính đại biểu cho nơi mà chất đặc ngưng kết và trong vũ trụ mênh mông có thể có hàng tỷ hàng tỷ tinh cầu như thế. Đục nếu thuyết minh theo ngôn từ ngày nay phải gọi là: Hữu hình ngược lại là vô hình; hữu hình và vô hình là cách gọi khác của âm và dương tiếng Việt Dương nghĩa là phơi bày ra và âm là biến âm của “ém”, “ỉm” nghĩa là che dấu đi; những dòng này cho ta xác quyết; ngay trong Hà Thư đã có âm dương; lưỡng nghi và chúng ta đều biết âm dương là nền tảng của Dịch lý nói chung. Cặp tượng số (1-2) dựa trên Hà đồ còn tạo ra 1 cặp đối rất dân dã, rất phổ cập đó là: Số 1 -> cô đơn, lạnh lẽo Số 2 -> ôm ấp, ấm áp. Cả cô và đơn đều nghĩa là chỉ có 1 chữ đơn biến âm thành đen cho ta 1 sắc trong ngũ sắc; “lạnh lẽo” chỉ phương số (1-6) là phương lạnh, tức hướng cực của quả đất đối lại với phương viêm nhiệt – nóng bức của hướng xích đạo. Cô -> cơ = số lẻ Bõ -> lẻ Ngược lại cặp số (2-7) cho ta chùm thông tin: ôm và ấp đều có nghĩa là 1 đôi nhưng ôm là 1 đôi chiều ngang, ấp là 1 đôi trên và dưới, tức chiều dọc – ấm – áp chỉ ý niệm từ hiện đại là nhiệt và lực. Ấm chỉ nhiệt, áp chỉ lực, lực nén hay đè xuống tức sức ép. Hoa ngữ ngoài chữ nhị chỉ số 2 còn có chữ ơn cũng là số 2, chữ ơn này chính là biến âm của ôn (ôn nhiệt) nghĩa tiếng Việt là ấm. Số (2-7) của phương ấm tức nóng bức, số 7 Hoa ngữ đọc là sách, biến âm của xích là màu đỏ, ngược với màu đen (1 đơn -> đen) 3. Cặp đối số (6-7) Số 6 trong “chục con” là canh Số 7 là Tâng hay tưng, Thập can của người Tàu ký âm thành : Canh và Tân Số 7 hợp với số 2 thành “cõi trên” Tâng -> Tân -> Tôn nghĩa là “đưa lên cao” hay bốc lên vì Dịch nói: chất trong – nhẹ bốc lên thành trời; trong ngôn ngữ Việt có từ kép “nhẹ tênh” hay “nhẹ tâng” bắt nguồn từ đây, nhẹ = nhị = số 2, tâng – tênh = số 7,ở đây ta thấy số 7 phải gánh 2 nghĩa vừa là động từ : bốc lên, vừa là danh từ :trời ý nói trời là nơi chất nhẹ bốc lên mà cấu thành. Ngược với cõi trên (2-7) là cõi dưới được tượng trưng bằng cặp số (1-6); cõi dưới là do chất đục nặng tạo thành Số 1 -> độc, đặc, đục. Số 6 trong chục con hay thập can là Canh, trong hoa ngữ số 6 là Lục, Lục cũng có nghĩa là đất (đồng âm còn có nghĩa là màu xanh) Cặp số (6-7) còn tạo thành nhiều cặp từ có nghĩa lưỡng lập khác: Tâng – Canh ->Tung – Canh: Tung là đường dọc, Canh là sợi dệt ngang Tâng – Canh -> Tung – Cắm: Tung là ném lên, nẩy lên, Cắm là đâm xuống; cặp từ này biểu thị sự vận động nghịch chiều; tung lên ≠ cắm xuống. Xuất phát từ 2 cặp tượng số (1-6) (2-7) người Việt còn tạo ra nhiều từ khác như: - Cặp (2-7) -> hình thành: 2 = nhẹ; 7 tâng = bốc lên; - Chữ bốc cho ra 2 từ -> bấc = nhẹ -> Bức = nóng - Cặp (1-6) hình thành từ ý nghĩa: chất đục (1 = độc) rút xuống thành đất (6 = lục) - Chữ rút biến âm thành rét trùng với số 6 = canh biến âm thành căm như thế cặp tượng số (1-6) thành ra tổ hợp từ “rét căm căm” hay lạnh cóng Rét căm hay lạnh căm trở thành đối lập của bốc, bức hay nóng bức và chúng trở thành 2 phương trong 4 phương thiên hạ. (2-7) trở thành biểu tượng phương Bắc tức phương nóng bức. (1-6) chỉ phương lạnh căm, hay lạnh cóng; ngày nay gọi là phương Nam – ký âm sai của chữ Nom là nhìn, trông là từ đồng nghĩa với chữ canh; canh cũng nghĩa là trông nom (Canh gác, canh chừng – từ thuần Việt) Phương Nam nóng là Phương Nam Dịch lý ngược với phương Nam hiện nay tức phương Nam của người Tàu, người Hán. Trong Tiếng Việt ‘canh’ còn có nghĩa là nước biến âm thành “kênh” là đường dẫn nước. Kênh đi cặp với lạch (6 = lục -> lạch) tạo ra từ kép kênh lạch vận dụng vào y khoa thành ra kinh – lạc. 4. Cặp đối số (3-4) Tượng số 3 trong thập can là Nhâm, Nhâm -> nhũn, nhăn nhung, (mềm như nhung) Số 4 thập can là Quí, Quí dịch từ Việt ngữ chữ báu, người Việt thường dùng thành từ kép Quí báu. Tượng số 4 còn ý nghĩa khác, khi bóc tách tên các vua nhà Thương và Ân Thương thì không có chữ Quí mà thay vào đó là chữ Khang. Kết luận đây là 1 tên gọi khác của tượng số 4 Khang thực ra là Khăng, từ thuần Việt; khăng khăng là không thay đổi chính là tính chất của phương Tây (đinh) Khang -> Khăng -> căng (thẳng) →Cang -> cứng Ta có cặp từ đối: Nhũn ↔ cang Nhũn nhão ↔ căng thẳng Nhũn và căng trong ngôn ngữ Dịch học ngày nay gọi là nhu và cương tức mềm và cứng.,trong nghĩa triết học nhu là sự sống động- linh hoạt phản nghĩa với chết cứng của số 4,sống động là thực đang sống, là hiện thực tồn tại vật chất là thế giới hiện hữu còn số 4 tiếng Việt là bốn biến âm của bóng hay bóng chiếu chỉ là sự phản ánh của hiện thực vào đầu óc con người như vậy nó thuộc thế giới thông tin, chữ bóng nói lên: không có tồn tại vật chất thực và không có tính chủ động mà chỉ thuần là một phản ánh và khi đã tượng hoá thì tồn tại dưới dạng một mảng thông tin. 5. Cặp đối số (8-9) Trong chục con tượng số 8 là bấn, số 9 là định, Hoa ngữ ký âm thành 8 = Bính, 9 = Đinh 3 = Bính -> Biến 4 = Đinh -> Định – Tĩnh Tượng số 8 chỉ những gì thay đổi và số 9 chỉ những gì không đổi. Ngôn ngữ ngày nay là cặp từ phản nghĩa Biến ↔ Hằng. Khái niệm Hằng ở đây nằm trong tính tương đối của thế giới vật chất, tức hằng là so với chung quanh, 2 vật thể cùng chuyển động với vận tốc bằng nhau thì khoảng cách giữa chúng là hằng = không thay đổi nhưng qui chiếu với những điểm mốc khác thì chúng lại là biến, như so với cái cây bên cạnh đường chẳng hạn, trong Dịch học khái niệm hằng không có trong cõi tự nhiên.Hằng chỉ là biến với gia tốc bằng không mà thôi. Cặp số 3-8 trấn phương đông cho ta ý nghĩa : sự sống (số 3) tạo nên cõi trần (số 8) bấn - biến hay cõi tự nhiên tức có sinh có diệt theo quy luật biến hóa của vật lý, cõi trần là cõi chứa sự sống ngược lại với cõi định (số 9) hay bất biến vì không có tồn tại vật chất mà chỉ là nơi lưu giữ các mảng thông tin, nơi ấy là chỗ phi không thời gian, không chịu sự chi phối của các quy luật vật lý nên hằng cửu. Đổi và không đổi tức biến và hằng, hợp với ‘thấy’ và ‘không thấy’ tạo thành 4 tượng tin nền của Dịch học, gọi là nền vì nó xác định bản chất sự vật là âm hay dương. Thấy là Dương ↔ không thấy là Âm Đổi là Dương ↔ không đổi là Âm Đây là Định luật sơ đẳng số 1 của Dịch học. Thí dụ: vận dụng Tượng tin nền ‘đổi’ và ‘không đổi’ vào các lãnh vực khác nhau có: - Sự di chuyển của 1 vật -> động ↔ định vào hình dạng ta có: cứng ↔ mềm. Tư tình thì có thể thay đổi nhưng lý lẽ tự nhiên là bất biến. Tượng tin 3- 8 = Biến chỉ phương Đông chính xác là phương Động hay sống động ngược lại phương Tây = 4-9 là phương chết cứng, 4 = Tư -> Tử; Đông và Tây không chỉ là phương Mặt Trời mọc và lặn mà còn 1 ý nghĩa triết lý rất xâu xa như đã nói ở trên. Biến động còn có nghĩa là nơi Dương trần, hay cõi sống ngược lại với tượng tin 4-9 chỉ cõi chết hay âm phủ triết lý của Dịch là: sống tức hoạt động, hoạt động là đóng ấn của mình trên tiến trình lịch sử, con người cùng với thiên và địa làm nên cuộc đại diễn của vũ trụ, còn chết là về nơi Hằng Cửu (4 = Hằng , 9 = Cửu), tức lìa bỏ thế giới tự nhiên đồng thời bước vào thế giới siêu nhiên, không còn bị ràng buộc bởi các quy luật vật lý – sinh học. Cả dương và trần đều có nghĩa phơi bày ra (cỏi trần); còn âm phủ là che (phủ) giấu (âm – ém) đi Khi chết dân gian hay nói : về Tây thiên cực lạc là xuất phát từ ý niệm này. Về nơi chín suối hay chốn cửu tuyền đều xuất phát từ Dịch học. Trong Hà Thư số 9 chỉ phương Tây trong Hậu thiên bát quái, phương Tây là quẻ đoài tượng vạch chỉ hồ ao hay sông suối. Phương tây là phương tử (4= tư -> tử) xuất phát từ hình ảnh mặt trời lặn hay chìm xuống, khi gắn liền hình ảnh này với số 9 và quẻ đoài tạo thành cụm từ 9 suối- cửu tuyền, người Việt vẫn dùng mà không hề hay biết đó là đã vận dụng Dịch lý. Tóm tắt về ý nghĩa triết học trong Hà Thư: -Trục dọc hay trục tung nói lên quan niệm về vũ trụ hay vũ trụ quan người họ Hùng : trời đất cùng 1 thể gọi là khí, phần đậm đặc rút xuống thành đất, phần nhẹ loãng bay lên thành trời, đây là quan niệm thuần vật chất và lý tính không có sự can thiệp của thần linh hay thượng đế quan niệm này hết sức chuẩn xác cho đến tận ngày nay vẫn giữ nguyên giá trị cố hữu Từ khi ra đời đến nay ít nhất cũng đã trên chục ngàn năm. -Trục ngang là nhân sinh quan của người Việt cổ. Phương Đông mặt trời mọc, ý chỉ sự sinh ra và sự sống của con người, sống là hoạt động – góp sức cùng trời đất tạo nên chuyển biến của vũ trụ; vì vậy trong tam tài con người là tài nhân ngang hàng ngang công với 2 tài thiên và địa. Khi hết vòng đời thì âm dương tách biệt linh hồn rời khỏi xác thân; xác thân là vật chất trở về với cát bụi, còn linh hồn thì về chốn hằng cửu ở đấy không còn sự sinh diệt, đó là nơi dân gian thường gọi là Tây thiên cực lạc, hay âm phủ, đạo giáo gọi là thượng giới nhiều tôn giáo khác gọi là thiên đàng. Đó là những gì thuộc giới siêu nhiên; nó ra sao thì ...trong chúng ta đâu có ai đã từng chết đâu mà biết, may ra có vài vị là các nhà khai sáng tôn giáo nhờ tâm linh mà thấu đạt hay “ngộ” rồi truyền đạt lại cho người trần mắt thịt chúng ta cảnh thiên đường đó mà thôi. Tóm lại ngay trong Hà Thư từ thời thái cổ người họ Hùng đã thấy thấp thoáng bóng 1 tôn giáo liên kết đời này và đời sau, hạ giới và thượng giới; việc này có tác động rất tích cực tới việc hoàn thiện nhân cách và kiến tạo một xã hội tốt đẹp .
  9. Dịch học họ HÙNG . bài 6 II .Dịch học tượng số hay nút thừng Thời Thái cổ của dân Việt ít ra cũng cách nay hàng chục ngàn năm, nên Dịch học tượng số liệu chỉ còn lưu truyền được 1 số nét hết sức căn cơ và đơn giản. A. Chục con Dịch truyện nói về công dụng của quẻ QUẢI : Thượng cổ kết thằng nhi trị hậu thế thánh nhân dịch chi dữ thư- khế ,bách quan dĩ trị vạn dân dĩ sát cái thủ chi Quải. Thời thượng cổ thắt nút mà cai trị, thánh nhân về sau đã thay bằng chữ viết và khắc vạch. {thư-khế }- Bá quan dùng để cai trị, dân dùng đ̣ể xem xét công việc của mình, ý tưởng này lấy từ quẻ Quải. Quải là biến âm của QUẺ , dịch truyện này giúp xác định từ quẻ trong dịch học đồng nghĩa với CHỮ hay văn tự. Câu trên đã cho chúng ta thông tin về thứ tự trước sau cuả các loại văn tự: - Chữ nút dây. - Chữ khắc vạch . - Chữ viết tức dạng văn tự còn dùng như ngày nay. Chữ nút dây và khắc vạch chính là tượng số và tượng vạch trong dịch học và các chấm đ̣iểm của HÀ và THƯ chính là những ký hiệu thay thế các nút dây thực thể của văn tự kết thằng. Ta có 10 chữ nút số: Trong thượng thưThiên HỒNG PHẠM chép : “ngũ hành : nhất viết thủy, nhị viết hoả, tam viết mộc, tứ viết kim, ngũ viết thổ, thủy viết nhuận hạ,hoả viết viêm thượng, mộc viết khúc trực, kim viết tòng cách, thổ viết giá sắc.....” Đối chiếu với Hà thư ta thấy rõ ràng cổ nhân đã coi chữ nút dây là các số đếm. Tục ngữ Việt có câu : 3 chìm,7 nổi, 9 ḷênh đênh .. ., tưởng chừng như vô nghĩa ; thực ra đây là bài dạy về dịch học mà chỉ là người Việt mới hiểu.: nhìn vào Lac đồ: 2 9 4 -3 chìm chỉ số 3 nằm ở phương tây tức phương Mặt trời lặn đông 7 5 3 tây - 7 nổi chỉ số 7 nằm ở phương đông là phương mặt trời mọc 6 1 8 - 9 lênh đênh chì mặt trời ở thiên đỉnh. Từ khám phá này ta thấy : các ký tự thắt nút chính là các số đếm của người xưa. Thêm 1 bằng chứng nữa : . Xin trích một đoạn trong Lã Thị Xuân Thu của Lã Bất Vi (bản dịch in trong “Tìm về cội nguồn Kinh Dịch” của Nguyễn Vũ Tuấn Anh xuất bản năm 2002) “- Mạnh Xuân Kỷ – Thiên thứ nhất nói rằng: Tháng đầu xuân: mặt trời ở vị trí sao Doanh Thất. Buổi chiều hôm, sao Sâm ở phương chính Nam, mặt trời tháng này ở Giáp Ất. Vị đế vương tương ứng với tháng này là Thái Cao Thị, dựa vào Mộc Đức mà xưng vương, vị thần đối ứng với tháng này là Mộc Thần Câu Mang, động vật tiêu biểu tháng này là loài có vảy, thanh âm tiêu biểu là âm Gốc (1 trong ngũ âm), âm luật tháng này phù hợp với Thái Thốc (1 trong lục luật), con số đối ứng với tháng này là số 8, số của Thiếu Dương, vị đối ứng với tháng này là vị chua, mùi là mùi tanh. - Mạnh Hạ Kỷ – Thiên thứ nhất nói rằng: Tháng đầu mùa hạ: Mặt trời ở vị trí sao Tất. Buổi chiều hôm, sao Dực ở phương chính Nam, sáng sớm sao Vụ Nữ ở phương Bính Đinh, vị đế vương tương ứng với tháng này là Viêm Đế, dựa vào Hỏa Đức mà xưng vương, vị thần đối ứng tháng này là Hỏa Thần Chúc Dung, động vật tiêu biểu tháng này là loài có lông vũ, thanh âm tháng này là âm Chủy, âm luật tháng này phù hợp với Trọng Lữ, con số đối ứng với tháng này là số 7, đặc điểm của tháng này là Lễ Tiết, sự việc tháng này là Xem. - Mạnh Thu Kỷ – Thiên thứ nhất nói rằng: Tháng đầu mùa thu: Mặt trời ở vị trí sao Dực. Buổi chiều hôm, sao Đẩu ở phương chính Nam, mặt trời tháng này ở phương Canh Tân, vị đế vương tương ứng với tháng này là Thiếu Hạo, lấy Đức Kim mà xưng vương thiên hạ, vị thần đối ứng tháng này là Kim Thần Nhục Thu, tên là Cai, động vật tiêu biểu tháng này là loài có lông mao, thanh âm tháng này lấy âm Thương làm tiêu biểu, âm luật hợp với Di Tắc, con số đối ứng với tháng này là số 9 số của Thiếu Âm, vị tương ứng là vị cay, mùi tương ứng là mùi tanh, tế tự tháng này ở Cửa. - Mạnh Đông Kỷ – Thiên thứ nhất nói rằng: Tháng đầu mùa đông: Mặt trời ở vị trí sao Vĩ, buổi chiều hôm sao Ngụy ở phương chính Nam, mặt trời tháng này ở phương Nhâm Quí, vị đế vương tháng này là Chuyên Húc (Xuyên Húc), lấy Đức Thủy mà xưng vương thiên hạ, vị thần đối ứng tháng này là Huyền Minh Thủy Thần, động vật tiêu biểu tháng này là loài giáp giới (loài rùa), thanh âm tháng này là Vũ, thanh âm tháng này hợp với Ứng Chương, con số của tháng này là số 6, vị tương ứng là vị mặn, mùi tương ứng là mùi mục, tháng này tế tự trong Cửa. Lúc tế tự trước phải dâng thần. Tháng này nước bắt đầu đóng băng, bắt đầu đông giá, gà rừng xuống nước biến thành con sò, cầu vồng ẩn náu không xuất hiện. Tháng này thiên tử ở trong phòng đầu tây của nhà hướng bắc, ngồi xe đen, trên xe có cờ đen, ngựa kéo xe là ngựa đen, trên xe có cờ đen, đeo ngọc đen, ăn kê nếp và thịt lợn, đồ tế khí to và chúm miệng.” Qua phần trích ở trên, ta tìm được thông tin về 4 vị vua Thái Cổ của Trung Hoa: 1. Thái Cao – Mộc Đức – mùa xuân số 8, phương Đông – (màu xanh) 2. Viêm Đế – Hoả Đức – mùa hạ – phương Nam (ngày nay tức phương của dịch lý) số 7 – (màu đỏ) 3. Thiếu Hạo – đức Kim – mùa thu – phương Tây – số 9 – (màu trắng) 4. Xuyên Húc – Thủy Đức – mùa đông – phương Bắc ( tương tự như phương nam trên) – số 6 – màu đen. Đây là bảng kê khá ầy đủ của sự vận dụng ngũ hành. Các số 6 – 7 – 8 – 9 là số chỉ bốn hướng chính của Hà Thư (Đồ); các đức là đức của Ngũ Hành, các thần cũng là thần của Ngũ Hành. Ở phần trích trong Lã Thị Xuân Thu ở trên không thấy nói đến Cửu Thiên, nhưng xem xét thấy rất tương hợp vì tất cả đều là tượng tin của Dịch Lý nên có sự nhất quán. Tới đây ta có thể kết luận :các chữ nút dây chính là các số đếm Chục con là 10 con số, cũng là 10 con chữ khởi nguyên của văn minh, Hán văn ký âm thành “thập can” – “chục con” khi xếp thành 2 đồ hình “Hà” và “Lạc” thì trở thành 10 tượng số; và Hà, Lạc chính là Thế giới Quan của người họ Hùng. 2 đồ hình Hà và Lạc chính là 2 quyển sách viết bằng chữ nút dây và các đồ hình bát quái là những sách viết bằng chữ khắc vạch. Thực tế cho thấy các dấu hiệu âm thanh thường có trước các dấu hiệu hình an̉h như vậy các ký tự nút dây bắt buộc phải có tên gọi …nhưng tới nay vẫn không thấy có thông tin gì về điều này. Khi liên kết Thập can và các số đếm của người Hoa ta thấy có sự trùng khớp giữa can Giáp và chữ nhất…cả 2 chữ đồng âm này đều nghĩa là đứng đầu …, điều này gợi ra là THẬP CAN cũng là 10 con số .ta lập thành bảng đối chiếu : Để tiện lợi ta thay thập can bằng 10 chữ số hiện nay. 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 Giáp Ất Bính Đinh Mậu Kỷ Canh Tân Nhâm Khang. Đây là 1 thứ tự sai , ta có thể dễ dàng nhận thấy khi vận dụng sự liên kết này ̣để giải mã đồ hình HÀ THƯ, thứ tự đúng là: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 Giáp Ất nhâm khang mậu canh tân bính đinh kỷ . Âm Việt ngữ là: Chắc óp nhũn căng mẹ canh tưng bấn đinh cả Căn cứ để sắp xếp thập can trong dịch học họ Hùng là các định luật của dịch học : - Hỏa viêm thượng nghĩa là Lửa thì bốc lên trên. - Thủy nhuận hạ : nước thì thấm xuống dưới . - Cương nhu tương ma sinh Động tịnh nghĩa là cứng mềm cọ sát sinh ra động tịnh . Ta có đồ hình . Đối chiếu với Hà thư Dựa vào sự tương ứng vị trí ta xác định tên của thập can . Thập can hay chục con nút số của dịch học họ Hùng : Thập can không mang 1 ý nghĩa nào trong Hoa ngữ ngoài việc là tên gọi của các Can , trái lại trong tiếng Việt thì mỗi can đều mang 1 ý nghĩa xâu sắc rất cơ bản trong dịch học. Thực ra “thập can” cũng chỉ là “chục con” của tiếng Việt mà thôi. Con ở đây là con số hay con chữ Tượng số là con số mang thông tin dịch lý có 1 ý nghĩa rõ ràng... xét theo tiêu chí này thì “thập can” không hề là tượng số của Dịch học. Ngược lại với “chục con” thì hoàn toàn khác; các tượng số đều có nghĩa rõ rệt, chắc chắn trong 2 đồ hình Hà và Lạc, đó chính là nhân sinh quan, vũ trụ quan của người họ HÙNG . Thượng thư thiên cố mệnh là sách sớm nhất nói đến HÀ THƯ:... “sau khi VĂN vương chết ở chái nhà phía đông có trưng bày HÀ THƯ....” Theo cổ thư trung hoa thì những đế vương khai sáng 1 triều đại Trung hoa đều được trời ban HÀ-LẠC...từ Bào hy , Thần nông ,Hoàng đế đến....nghiêu, thuấn, vũ ... có lẽ người xưa coi đây như là việc tấn phong của trời cho các Thiên tử chăng ...? Kỳ bí là không ai biết mặt mũi HÀ LẠC ra sao, mãi tới đời Tống Chu hy mới công bố 2 đồ hình này....mà không thấy có 1dòng chữ nào nói đến gốc gác. Nhưng với người Việt thì lại khác , câu ‘tam khoanh tứ đốm’, nếu hiểu theo phép đảo vị là ‘tam đốm tứ khoanh’ nhìn vào Hà thư ta thấy : -Tam khoanh ; khoanh nghĩa là vòng tròn , khoanh biến âm thành : - khuyên : vòng đeo tai . - Khoẻn : nhẫn đeo tay ; cả 2 là hình ảnh Của chấm trắng . O dùng cho số chẵn trong thập can . - Tứ đốm ; người Việt thường dùng từ kép ‘đốm đen’ , như vậy đốm ở đây chỉ chấm đen ● dùng cho số lẻ trong thập can . Điều trên chứng tỏ Thập can và Hà Lạc không xa lạ gì với dân gian Việt nam .Nhưng dịch học họ Hùng không phân biệt khoanh và đốm vì những nút của dịch học họ Hùng là những nút dây thực sự , là những dấu hiệu thực thể nguyên khởi không phải là những ký hiệu mãi lâu sau mới vẽ ra . Hà thư Lạc đồ Dịch học họ Hùng có Hà Thư chứ không có Hà Đồ, tiền nhân người Việt đã chỉ dẫn... nói Hà Đồ tức là “ Hồ Đồ”, Hồ Đồ là không biết nhìn nhận sự việc 1 cách chín chắn, cẩn thận vì Hà còn nghĩa trong Hoa ngữ là trời, đối với Lục là đất; Dịch có nguyên lý ‘Tại Thiên thành Tượng, Tại Địa thành Hình’; tượng thì làm sao vẽ ra được mà có đồ, tượng chỉ có thể mô tả bằng thư (thư nghĩa là cuốn sách, cũng nghĩa chữ) vậy thì phải gọi là Hà Thư cận nghĩa với Thiên thư còn Lạc biến âm của Lục nghĩa là đất nên đi với Đồ, từ hiện đại gọi là địa đồ. Trong ngôn ngữ Việt Nam có một cấu trúc hết sức độc đáo, người viết suy nghĩ mãi cũng chưa biết được tại sao lại như thế? Đó là loại cấu trúc câu tạm đặt là “đào vị” ; đặc biệt loại hình này không phải là hiếm hoi mà trái lại đầy dẫy trong ca dao, tục ngữ... Thí dụ: - Ăn hang ở lỗ chính xác phải viết lại là ở hang ăn lỗ hay ăn lỗ ở hang . - Cao chạy - xa bay phải viết lại là: Cao bay - Xa chạy mới có ý nghĩa. Tương tự như vậy còn nhiều lắm... như: nệm ấm- chăn êm...v.v... Phải chăng Hà Đồ, Lạc Thư cũng nằm trong “loại hình” này...? vì đây là “đặc sản” của người Việt nên hàng ngàn năm nay người Tàu vẫn lầm ... còn chúng ta trong Dịch học Họ Hùng thì xác định là : chỉ có Hà Thư và Lạc Đồ chứ không thể khác được. Trong nền văn hóa người Tàu nói chung và “Hán Dịch” nói riêng thì Hà và Thư còn lắm điều kỳ bí khác. Trong Chu Dịch có 2 đoạn Khổng Tử nói đến Hà, Thư 1. Khi viết về Dịch sử Khổng Tử hé lộ: người xưa thắt nút mà cai trị, ngày nay (thời Khổng Tử) thay bằng Thư Khế 2. Đức Khổng Tử nói : Hà xuất Đồ (?) Lạc xuất Thư (?) Thánh nhân tắc chi. Như vậy rõ ràng: nút thắt là một loại chữ đúng như ta gọi “chục con” hay thập can là “tượng số”, các nhà khoa học ngày nay gọi nó là loại chữ “Nút thừng” hay “Kết thằng” ; Thập can hay chục con chính là chữ “kết thằng” mà Khổng Tử nói tới, khi bàn về Hà, Lạc đồng thời ta cũng chứng minh cho sự khẳng định trên. Chữ nút thừng là các nút dây thực sự, một loại văn tự thời Thái cổ, thời mà trong con người chưa có ý niệm về thư khế hay văn tự. Hà và Lạc được tạo ra bằng thứ chữ “thực thể” này nhưng đã mất tích vạn năm, mãi tới thời nhà Tống mới tái xuất dưới dạng hình vẽ tức ký tự không còn là nút dây thực sự nữa. Liên quan tới văn tự, chữ viết có nhiều từ thuần Việt, bị biến dạng đến độ ngay người Việt cũng coi nó là ngoại nhập. Thí dụ: từ chữ biến âm của “chứa, trữ”, ký hiệu hay dấu hiệu chứa thông tin bên trong được gọi là “chữ”, người Tàu ký âm thành ra “tự” chỉ còn phần âm rơi mất phần nghĩa. Tương tự: chữ văn là biến âm từ gốc “vằn” trong tiếng việt, vằn vện là sự nổi rõ trông thấy “thành vệt ”, cổ thư Trung Hoa cho con cọp hay hổ là loài “văn minh” vì trên da nó đã có vằn tự nhiên, rõ ràng “vằn” ở đây đồng nghĩa với “văn”. Tóm lại cả “văn” và “tự” đều có gốc Việt ngữ, chúng ta sẽ có dịp trở lại đề tài này khi giải mã bức tranh Đông Hồ: “Lão oa độc giảng” (oa là con cóc, cũng có nghĩa là chứa trữ) để phá kỳ án: chữ “khoa đầu” hay loại chữ hình con “nòng nọc”. Căn cứ nguyên văn lời Đức Khổng Tử nói về Hà, Thư... làm gì có chữ Hoàng hay Mạnh nào? Vậy mà ngàn năm qua các bậc Hán Nho sừng sỏ cứ tự nhiên xác quyết... Hà đồ xuất ở Hoàng hà hay Mạnh Hà; Lạc Thư xuất hiện ở Lạc Thủy... cả 3 con sông nằm trong lãnh thổ Trung quốc hiện nay, ...chỉ với việc... Hà đồ là các khoáy (soáy) trên lưng con Long Mã, Lạc Thư là các điểm trên lưng con Thần Quy cũng đủ nói lên... sông Hoàng Hà, Mạnh Hà hay Lạc Thủy... Tất cả chỉ là tưởng tượng hoang đường ... Chỉ duy có điều rất lạ là : Hà - Lạc được nói đến trễ nhất cũng ở Thời Chiến Quốc vậy mà cả nước Trung Hoa không ai biết mặt mũi nó ra sao... mãi tới thời Tống tức hơn 1 ngàn năm sau mới được trình làng và từ đó trở đi 2 đồ hình này trở thành 1 phần của Dịch học thông hành ngày nay .
  10. Dịch học họ HÙNG . bài 5 4 . Thập nhị địa chi của người VIỆT. Trước hết xin nói ngay sự kiến giải ý nghĩa 12 địa chi của trong bài này không phản bác những gì đã được nêu lên từ trước vì dịch lý là vô cùng vô tận, mỗi khía cạnh nhìn thấy được từ một người đều là sự bổ sung vào những gì đã có để dịch học ngày càng đầy đủ phong phú hơn. 12 con giáp là 12 tính từ hay trạng từ nói lên tính chất chứa trong 4 từ gốc chỉ định bởi 4quẻ : Kiền-Khôn-Ly-Khảm. Kiền chỉ những gì to lớn. Khôn chỉ những gì nhỏ bé khi dùng như một sự đối ngịch với Kiền. Ly chỉ sự sáng suốt của lý trí, Khảm chỉ tình thân giữa người với người. 12 con giáp chia thành 4 cụm : - Kiền---: Tỵ, ngọ, mùi- xoay quanh sự cao- lớn- nhiều - Khôn –---;hợi ,tý,sửu- chỉ những gì nhỏ- thấp- ít - Khảm –--: thân,dậu,tuất chỉ sự thân ái- gần gũi giữa con người với nhau - Ly----: dần , mão, thìn chỉ sự sáng suốt -thấu hiểu vận động của tự nhiên. Ta có 4 cụm từ triển khai ý nghĩa 4 mặt của đồ hình hiện nay gọi là Tiên thiên bát quái. -1__ Cao –lớn- nhiều. TỴ: Người miền trung VN gọi cái tô là tộ cả 2 đều biến âm từ chữ to, dân gian còn hay nói bự tổ cha hay to tổ chảng, ta thấy tỵ cũng chỉ là 1 trong các biến âm tạo từ gốc ở chữ to mà thôi. NGỌ: Biến âm từ chữ nghệ nghĩa là đỉnh cao, từ nghệ ta thường dùng trong từ kép như nghệ thuật, điệu nghệ .v..v. MÙI : Từ ‘mùi’ chỉ là đã đến cực điểm như trong nghĩa của từ kép : Chín mùi , tình thế đã chín mùi....nghĩa là đến lúc không thể như trước được nữa buộc phải biến cách thay đổi đi thôi. _ 2 _ Nhỏ- thấp- ít. HỢI : là biến âm của hơi , ta thường dùng từ điệp hơi hơi để chỉ 1 lượng số còn ít như nói: hơi hơi đau tức là chỉ đau 1 chút thôi và phản nghĩa của nó là sâu đậm. Hơi còn biến âm thành hời như trong hời hợt nghĩa là chỉ một chút bên ngoài . TÝ : Tý chút hay tý ty chỉ số lượng rất nhỏ,âm Tý là điển hình thuần Việt ngữ không biến âm .Ty trong hoa ngữ trở thành thấp cũng là tính chất của quẻ Khôn. SỬU : sửu biến âm từ xíu , tý xíu hay xíu xiu cũng nghĩa là rất ít . _3 _ thân- cận . THÂN : Chữ thân được ghép với nhiều từ để nói lên sự gần gũi do mối dây tình cảm như thân thiết, thân mật, thân yêu, .v.v., DẬU : là biến âm của từ Dịu của tiếng Việt thuần túy như ta thường nói : dịu dàng , dịu ngọt , hiền dịu .v.v. hoặc cũng có thể là biến âm của dụ giỗ , dỗ dành ....,tất cả chỉ sự biểu lộ một tình cảm dễ thương, dễ mến . TUẤT : Tuất có gốc từ chữ Tiếp nghĩa là liền kề như trong các từ tiếp giáp , tiếp cận ý noí có sự khăng khít như dính chặt vào nhau vậy. _ 4 _ sáng suốt-hiểu biết. DẦN : Dần là biến âm của chữ rành của Việt ngữ , rành rọt , rành rẽ, rành biến thành dành rồi thành dần , trong phát âm của người Tàu không có âm R và Đ đôi khi họ ký âm tiếng Việt khác khá xa nhưng nếu nắm chắc ngữ nghĩa ta có thể nhận ra như từ rung Việt ngữ đồng nghĩa với động có khi dùng cả 2 thành ra: rung động, rung biến âm thành lung như rung rinh biến thành lung linh , người Tàu ký âm chữ rung thành ra lung vì họ không có âm R, từ lung Hán việt đọc thành Long là con rồng , trong dịch học phương Đông là phương động tức rung viết thành lung là con rồng và được biểu thị bằng quẻ THÌN là từ đồng nghĩa với LONG. MẸO : Mẹo trong tiếng Việt chỉ cách sử lý một vấn đề nào đó đạt hiệu qủa, mẹo còn có nghĩa là phương pháp- cách thức, chữ mẹo ở đây đồng nghĩa với mưu trí mà ta có khi dùng song đôi thành ra: mưu mẹo, nói chung nó chỉ việc con người dùng trí óc mình giải quyết 1 vấn đề nào đó trong cuộc sống. THÌN : chữ Thìn này là chữ ký âm của chữ Thần trong từ kép Thần thông nghỉa là thấu suốt mọi vấn đề, nó cũng chính là chữ Thần trong Thần thánh, không phải là từ ‘độc quyền’ của Hoa ngữ mà Thần được dùng chung trong cả Việt và Hoa ngữ. +++++++++++++++++++ 12 con giáp là 12 là tính chất hay tình trạng ở cõi nhân sinh ta có thể tóm gọn trong 4 từ : TO-NHỎ-LÝ-TÌNH: To là tinh thần là ý chí, nhỏ là thân xác là của cải vật chất, lý chỉ ra mối tương quan giữa con người và tự nhiên , tình là sự ràng buộc con người với nhau . Đặc biệt tới đây ta khẳng định : THẬP NHỊ ĐỊA CHI hay 12 PHẦN ĐẤT là sản phẩm của trí tuệ VIỆT vì một lẽ đơn giản: tên gọi của cả 12 chi đều là từ VIỆT được ký âm bằng Hán tự . Vì là ký âm nên bản thân 12 địa chi của người Tàu chẳng mang một ý nghĩa nào, không chỉ ra được một điều gì để đến độ phải vay mượn gán ghép vào đấy 12 con vật có lẽ cũng chỉ để cho dễ nhớ....mà thôi. Ngược lại khi truy nguyên âm gốc trong Việt ngữ ta thấy ngay 12 địa chi là một phần của Dịch học , 12 chi chia thành 4 cụm triển khai ý nghĩa thâm sâu tàng chứa trong 4 qủe : CÀN –KHÔN- LY – KHẢM, tức là tứ chánh phương của Tiên thiên bát quái, nó bao quát cả 1 cõi nhân sinh sống động theo quan điểm dịch học trong đó nêu bật 3 mối tương quan đã hình thành đời sống của con người , 3 mối tương quan mà con người phải vượt trên chính mình để làm chủ, đó là mối tương quan nội thân giữa tinh thần và thể xác hay rõ hơn là giữa ý chí và dục vọng biểu hiện bằng 2 quẻ Càn- khôn trong đó caí nhỏ bé luôn phải tùng phục cái cao lớn , khôn phải luôn nghe theo càn, mối tương quan giữa con người và thế giới tự nhiên mà con người phải làm chủ thông qua con đường Khoa học và kỹ thuật được dịch học tượng trưng bằng quẻ ly hay lửa , và sau hết là mối tương quan giữa người và người được chỉ định bởi qủe Khảm . Nơi qủe Khảm Dịch học luôn nhìn vấn đề dưới 2 góc cạnh : tình cảm và sự tiến hóa , về tiến hoá xã hội thì chính bản thân dịch học đã là khoa học của sự tiến hóa ấy, mấu chốt với chúng ta là nghệ thuật vận dụng, đúng hay sai đồng nghĩa với thành công hay thất bại mà muốn vận dụng được thì trước hết phải học tập và nghiên cứu để hiểu biết dịch lý..., biết là khó lắm .....nên càng phải nỗ lực hơn nữa. Khía cạnh khác của mối tương quan người-người là tình cảm , làm sao cho lòng nhân ái mỗi ngày mỗi đầy hơn ...; đến cùng tột là không còn phân biệt ta và người nữa,lúc ấy cửa thiên đường sẽ mở toang ...và hạnh phúc đến với mọi người, muốn được như thế dịch học dạy ta ‘dĩ hư thụ nhân’ trước hết phải vất cái tôi đi để lòng mình trống không ....quả. thực việc này khó ....khó vô cùng; người trần khó mà đạt đến nên thánh nhân đã mở cho chúng ta 2 con đường : tương sinh và tương khắc, với lòng mình phải quyết tâm theo vòng khắc còn đối nhân trong thực tế cuộc sống chỉ cần theo vòng sinh cũng là đủ xứng với chữ người . Sinh – khắc là gì ta sẽ tiếp tục bàn đến trong phần dịch học tượng vạch. Một điều khiến người viết đang phân vân suy nghĩ nhiều ...: có thể thứ tự 12 chi đất chúng ta đang dùng : Tý,sửu,dần, mẹo,thìn,tỵ, ngọ,mùi,thân,dậu,tuất,hợi là đọc ngược vì theo dịch học quẻ Khảm chỉ tình cảm hay sự thương yêu nằm ở phương đông, thương hay thanh cũng là màu xanh chỉ phương đông, ngược lại quẻ Ly chỉ lý lẽ nằm ở hướng tây ,mặt trời đi từ đông qua tây như vậy 3 chi chỉ tình thân: Tuất ,Dậu,Thân phải đi trước Thìn, mẹo,Dần là 3 chi chỉ lý lẽ chiếm hướng tây mới hợp lý như vậy thứ tự đúng phải là:Tý,Hợi,Tuất,Dậu,Thân,Mùi,Ngọ,Tỵ,Thìn,Mẹo,Dần,Sử u. Nếu đúng như vậy thì hậu quả sẽ khôn lường vì năm âm lịch chỉ định bởi can chi , 1can đi với 1 chi thành tên 1 năm , 60 năm hết 1 vòng lại quay lại ban đầu nay nếu đảo lộn tất cả 12 địa chi thì lịch sử Trung Hoa và Đại Việt sẽ ra sao?. Dù ra sao đi nữa thì sự hợp lý vẫn là điều phải tôn trọng vì đấy là khoa học; chúng ta còn phải suy nghĩ nhiều lắm mới có thể khẳng định được riêng người viết bài này cứ băn khoăn mãi với câu hỏi ... tại sao người ta lại cố ý đảo lộn, xé nát dịch học ra , phá cho tan nát như thế để làm gì ? phải chăng vì dịch học là cái nền của ĐIẠ LÝ-PHONG THỦY mà Địa lý- Phong thủy thì liên quan tới vận mệnh của cả quốc gia- dân tộc ..(.nếu ta tin như thế), trong dân gian vẫn nghe râm ran chuyện người Tàu tìm cách trấn yểm hoặc phá long mạch của nước Việt, phải chăng việc cố tình hủy hoại dịch học chính tông cũng là 1 phần của cái mưu ma chước quỷ ấy... ta lại nhớ đến điều tiền nhân chỉ bảo ...nỏ thần trấn quốc đã bị tráo mất đem về phương bắc (phương nam theo dịch lý) cái còn lại là đồ giả ..., vì đặt niềm tin vào món đồ giả ấy mà An Dương vương mất nước..., ý nghĩa thâm trầm sâu sắc vô cùng ...khiến ta càng phải nghĩ ngợi nhiều hơn nữa.
  11. . 8 Quả hay Bát quái Từ Quẻ là biến âm của Quả , Quái là phiên âm chữ Hán Tượng vạch 3 tầng tạo thành 8 quả biểu thị sự tiến hoá của xã hội loài người. 8 quả là 2 (Tứ tạng) 8 quả chính là 8 nguyên tố đơn của Dịch học. -4 nguyên tố hay 4 quả biểu thị các yếu tố nội sinh, mà tổng hợp sự tác động của nó xác định 1 nhân cách. Đó là: Quẻ Kiền, Khôn, Ly, Khảm -4 Quẻ còn lại biểu thị cho những mối tương quan giữa bản thân con người và môi trường 2 Quẻ Đoài và Chấn thể hiện mối tương quan “con người môi trường tự nhiên” 2 quẻ Tốn và Cấn thể hiện mối tương quan “con người môi trường xã hội” Tên các quẻ : Kiền, Đoài, Ly, Chấn, Tốn, Khảm, Cấn, Khôn ...chỉ là ký âm Hán Tự của các từ Việt. Kiềng, Càng là Kiền, Càn, kiện Điều hay đầu là Đoài , đoạt . Lửa là Ly, la Sấm là Chấn Toán, Tán là Tốn Cảm ,Căm, cống là Khảm Căn, Cán là Cấn Khuôn, Khuân là Khôn a- Hình ảnh vật thể của 8 Quả Kiền = Mặt trời, bầu trời Đoài = Hồ, Suối (trạch), đầm nước Ly = Lửa Chấn = Sấm sét Tốn = Gió bão, Thông tin Khảm = Nước, Cấn = Núi Khôn = Mặt trăng, mặt đất b- Ý nghĩa của 8 Quẻ trong triết học . Kiền = Lớn mạnh, ý chí Đoài = tri thức khoa học Ly = Lý lẽ, sáng suốt Chấn = tác động, công cụ Tốn = quản trị, quyền lực Khảm = cảm tình, thương yêu Cấn = căn cơ, cán (nắm) Khôn = bản năng, dục vọng. c—ý nghĩa khoa học của bát quái . 8 Quẻ được xếp thành các đồ hình, mỗi đồ hình diễn đạt 1 ý tưởng, tùy theo vị trí của từng quẻ và mối liên hệ của nó với toàn thể ta có thể suy ra ý nghĩa. Ta có :. - 8 Quẻ xếp trên mặt phẳng của Dịch học Họ Hùng. - ý nghĩa của đồ hình Tiên thiên bát qúai và đồ hình 8 qủe Tròn - vuông Cho đến nay người ta vẫn chưa thực sự hiểu ý nghĩa của Bát quái đồ , đa số hiểu theo nghĩa tai dị bát quái là thứ kính chiếu yêu quái thường đem treo trước cửa nhà....để chống tà khí xâm nhập . Nhưng với nhãn quan khoa học thì : nhìn trong không gian 3 chiều thì : 8 quẻ ṭạo thành 4 trục của một hệ tọa độ vũ trụ hợp nhất không gian - thời gian . Chính tại con người ‘hữu nhỡn vô ngươi ‘ nên dịch học và bát quái mới trở thành thứ tà ma yêu thuật như ngày nay chứ nào phải là người xưa kém cỏi ,u mê...
  12. anh Gia nhân và các bạn mến . Bát quái cũng như Dịch học nói chung có muôn ngàn ứng dụng , tùy lãnh vực vân dụng mà ta sắp xếp , định vị các quẻ với điều kiện phải tuân thủ một hệ luận lý thống nhất và xuyên suốt . vì vậy đồ hình Bát quái Không- thời gian và đồ hình Bát quái phong thủy chuẩn có khác biệt là chuyện bình thường . đấy chính là diệu dụng của Dịch lý. đồ hình Bát quái 'Không-Thời gian ' căn cứ chủ yếu vào những thông tin của địa lý - lịch sử Việt nam . 2 quẻ Đoài cấn đặt theo hướng Xích đạo và địa cực Bắc hiên nay vì : - Nước ta xưa gọi là Giao chỉ Việt ngữ là " chỗ giữa ' nên chiếm vị trí trung tâm của trục tọa độ . - qủe Đoài tượng là cái hồ liên quan tới vị trí nước Hồ tôn trong cổ sử và người Hời tức người Chàm hiện nay . - qủe Cấn tượng là núi đồng nghĩa với Non , non biến âm thành Nam tức phương Nam , phương nam-bắc ngày nay đã bị đảo ngược so với thời xưa khi người Việt chưa bị Bắc thuộc , từ Bắc chỉ là biến âm của từ Bức tức nóng bức chỉ hướng xích đạo , có điều hết sức lý thú ...trong tiếng Khơme từ B'NÂM nghĩa là NÚI như vậy khi nói hướng hay phương CẤN tức là nói hướng B'NÂM hoàn toàn đồng âm với hướng NAM của Việt ngữ..., đây phải chăng chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên ? hay là sự liên hê căn cơ ?..., hướng nam chính là hướng của cõi NAM GIAO hay 'Nam giao chỉ' về sau là đất Lĩnh nam với bằng chứng vật thể không thể chối bỏ là ải 'NAM QUAN '. - qủe Chấn ở phương Đông có liên quan tới Chấn trạch , lôi trạch trong cổ sử Trung hoa , huyền sử Việt gọi là Động đình hồ , Động đình hồ chính xác phải là biển đông ngày nay chứ không ở Hồ nam bên Tàu . - qủe Tốn là tượng của gió hay phong , từ phong này chính là chữ phong trong Phong châu lịch sử Việt , là đất Phong của nhà Chu , huyện Phong quê hương của Lưu Bang và cũng là chữ Phong trong Phong châu đô hộ phủ thời nhà Đường , ở đây chữ Phong chỉ có nghĩa là phương tây , chỉ vùng đất phía tây của 'GIAO CHỈ ' hay 'CHỖ GIỮA , CHỐN GIỮA ' Thân chào mong có dịp và thời gian để anh em cùng trao đổi bàn bạc thêm
  13. xin chào cả nhà. tôi xin nêu vài điều : - sở dĩ có tên là tỉnh Hà nam vì nó nằm ở bờ nam Hoàng hà....vậy còn tỉnh Hồ nam và Hồ bắc thì sao ? rồi cả Sơn đông Sơn tây nữa nó nằm ở phía đông và phía tây của ngọn núi nào ? - tại sao mãi cho tởi nay vẫn chưa thấy có một báo cáo khoa học nào về sự kiện voi đã từng sống ở bờ Hoàng hà ? khủng long sống hàng triệu năm trước mà vẫn còn tìm được không biết bao nhiêu là hóa thạch ....còn voi ở Dự châu thì hoàn toàn không ?, chính vì có chữ Tượng trong chữ Dự của Dự châu nên mới phải trả Lạc ấp hay Lạc dương về miền đất hiện đang có voi sinh sống . - có học giả đã viết :trong Giáp cốt văn có tới ... hơn 500 lần câu ...'"sẽ có rùa mang từ miền Nam đến ..." điều này chứng tỏ ở Ân khư không hề có loài rùa đã làm ra Giáp ...trong Giáp cốt văn ,tiếc rằng tôi đã cố lục lọi tìm bài viết trên để dẫn chứng nhưng chưa thấy...vậy xin trình làng sau . nqn
  14. các bạn thân , hết sức cám ơn các bạn , về việc dịch các bài viết sang anh ngữ....tôi không đủ khả năng ....mong các bạn giúp cho...chúng ta coi đây là trách vụ hay bổn phận của chúng ta đối với tiền nhân , không màng gì đến lợi với danh ... nqn
  15. Quẻ LÔI-ĐỊA DỰ và trống đồng . Dịch học có : Cặp Quẻ: Khiêm nhường – Dự phần Gọi tắt là Khiêm và Dự. Sự sáng suốt nơi con người mách bảo vạn vật và xã hội phát triển theo những quy luật, các quy luật thì trường tồn và bất biến, con người không thể thay đổi một cách chủ quan, tùy tiện. Vậy công thức về sự chủ động phát triển là : Khiêm nhường – dự phần. Muốn dự phần hay tham gia cùng trời và đất trong việc biến đổi vũ trụ con người phải biết tôn trọng và vận dụng các quy luật tự nhiên. Một thành tựu đạt được luôn là sự hợp tác con người – tự nhiên. Con người không thể thay đổi quy luật nhưng có thể tác động ở đầu vào để nhận được kết quả ở đầu ra. Như thế gọi là khiêm và dự, dự chính là dự phần vào việc tái tạo vũ trụ. - ý nghĩa Quẻ Dự = Lôi / Địa Dự Nghĩa là tham gia vào là cùng trời cùng đất tạo thành bộ mặt vũ trụ, tài nhân ngang hàng tài thiên, tài địa trong thế tam tài của dịch học , một quan điểm triết lý tôn vinh con người rất tiến bộ so với thời đại ấy . a. Lời Quẻ Dự: Lợi kiến hầu , lợi hành sư. Quẻ dự tạo thành bằng quẻ lôi trên quẻ địa, sấm nổ trên đất chính là tượng của trống đồng. Lợi kiến hầu nghĩa là dùng vào việc phong tước hầu. Hiện nay có những nhà nghiên cứu lịch sử cho trống đồng là một biểu tượng vua ban khi phong tước cho các công hầu, nó tựa như một loại ấn tín sắc phong vậy. Đặc biệt trong lễ nghi đạo hiếu của Việt Nam thì các bậc vương hầu dùng trống đồng thay mặt người dân của mình để tế tổ tiên của cộng đồng. Chữ lợi ở đây có nghĩa là : được dùng để . Lợi kiến hầu: dùng trong việc phong tước hầu. Lợi hành sư: dùng để hành quân, quân theo tiếng trống mà tiến hoặc lùi hoặc sang phải, sang trái… công hoặc thủ v.v… trống đồng trở thành một quân khí dùng trong quân sự. b. Lời tượng: Lôi xuất địa phấn dự, tiên vương dĩ tác nhạc sùng đức, ân tiến chi thượng đế, dĩ phối tổ khảo. Sấm vang trên mặt đất là tượng quẻ Dự, các bậc tiên vương làm ra nhạc đề cao đạo đức, long trọng dâng lên thượng đế cùng với anh linh tiên tổ. Trống đồng còn gọi là trống sấm là loại trống duy nhất khi đánh để úp xuống đất nên lời tượng bảo: lôi xuất địa phấn . Tiên vương tức tiên đế nhà Chu là Văn Vương, Vũ Vương, Chu Công v.v… Chữ Tác nhạc cho thấy rõ ràng trống đồng là một nhạc cụ dùng trong các buổi lễ tế, nó chính là tổ tiên của văn hóa cồng chiêng ngày nay. Nhiều nhà nghiên cứu vẫn còn đang đặt câu hỏi: trống đồng dùng để làm gì hay công dụng của nó ra sao . lời quẻ và lời tượng quẻ DỰ đã chỉ rõ 3 công dụng: 1. Trống đồng dùng như một lệnh bài sắc phong tước vị. 2. Dùng làm hiệu lệnh điều quân. 3. Dùng trong âm nhạc ở các buổi tế lễ long trọng. Qua lời quẻ và lời tượng của quẻ Lôi- Địa DỰ Việc liên hệ giữa dịch học và trống đồng là điều không thể phủ nhận . Chỉ với những khám phá trên đủ khẳng định : Dân tộc là chủ nhân của trống đồng cũng chính là dân tộc đã sáng tạo dịch học . Dịch học dứt khoát không phải là sản phẩm của nền văn minh Hán , dân tộc sống ở lưu vực Hoàng Hà không hề biết trống đồng là gì vào thời những chiếc trống đồng cổ xưa nhất được dùng và hệ qủa đương nhiên của sự việc này là : tứ thánh của Dịch học là : Phục Hy –Văn vương – Chu công – Khổng tử ..cũng không phải là người Hán ,các vị không thể nào sinh trưởng ở Bắc Hoàng hà ...trong vùng văn minh Hán .
  16. chào anh Thiên sứ . xin cảm ơn . nqn
  17. Đồ đồng Đông sơn và Dịch học ****** Truyền tích bánh dày bánh chưng kể rằng : Vua Hùng đã già bèn nghĩ ra cách để tìm người kế vị. Vua ra lệnh cho các hoàng tử (các Lang) ai dâng lên cho vua được món ăn ngon nhất và ý nghĩa nhất sẽ được vua truyền ngôi. Trong khi các anh em đổ đi khắp nơi để tìm của ngon vật lạ thì hoàng tử Lang Liêu vốn cảnh sống rất thanh bạch và không muốn dành ngôi vua nhưng bản tính hiếu thảo nên vẫn băn khoăn không biết lấy gì dâng cho vua cha, chợt tối ngủ Lang Liêu được một vị thần hiện ra chỉ dẫn: Lấy gạo nếp tinh tuyền đã nấu chín giã ra làm bánh màu trắng hình tròn, đặt tên là bánh dày. Lấy gạo nếp đổ trên lá, giữa cho nhân đậu xanh và thịt heo gói lại thành hình vuông đem luộc chín gọi là bánh chưng. Khi dâng vua, vua cha cho các món ngon vật lạ của các hoàng tử khác đều là tầm thường. Riêng bánh dày và bánh chưng của Lang Liêu được vua khen ngon và hỏi ý nghĩa thì Lang Liêu tâu: Bánh dày hình tròn tượng trưng cho trời. Bánh chưng hình vuông tượng trưng cho đất. Vua khen trời tròn đất vuông là trọn ý nghĩa của đạo trời đất, và vua quyết định truyền ngôi cho Lang Liêu. Giải mã truyền thuyết trên : - Từ Lang Liêu nghĩa là : - Lang là từ gốc Thái ngữ có nghĩa là thủ lãnh biến thể sang Hoa và Việt ngữ là LONG nghĩa là con rồng hay Vua . - Liêu là biến âm của Lửa chỉ phương nóng , vùng nhiệt đới hướng xích đạo biến âm ra : lửa → ly→ la→ lê→liêu→ lý..v.v. Lang Liêu có nghĩa là ‘vua La’ hay vua của người La ,Liêu , Lý ... - ‘bánh Chưng bánh dày’ là biến âm của ‘bánh trăng bánh giời’ hay trời Bánh dày hình tròn bánh chưng hình vuông biểu thị cho nguyên lý cơ bản của dịch học - Trời tròn chỉ sự vô hình vô ảnh ....những gì vẫn có đẩy nhưng thị giác con người không thể cảm thụ được , đường tròn biểu thị sự liên tục không đứt đoạn khi chuyển sang hệ ký hiệu vạch là vạch liền ─── - đất vuông chỉ vật chất hữu hình , hữu hình nên hữu hạn , biểu thị sự hữu hạn là bờ và mốc tức 4 cạnh và các góc của hình vuông , trong hệ ký hiệu vạch là vạch đứt chỉ sự gían cách . ── ── Tr̀òn và vuông cũng chỉ là tên gọi khác của âm và dương mà thôi . Truyền thuyết họ HÙNG nói trời chỉ dạy cho Lang Liêu làm ra bánh Chưng bánh Dày đồng nghĩa với sự truyền dạy cho hậu thế :Vua LA là người đã làm ra dịch học , người La là chủ của thuyết lưỡng nghi –tam tài sinh hóa vạn vật .... Lang Liêu là ai và đạo Tròn vuông có liên quan như thế nào với người Việt ? Trên mặt tròn của nhiều trống đồng có 4 hình cóc đắp nổi . Đấy chính là biểu tượng của nguyên lý trời tròn đất vuông ., 4 con cóc biểu thị cho 4 góc của hình đất vuông trên mặt trống tròn của trời ; 4 con cóc là 4 tiếp điểm của hình vuông và hình tròn , người chế tạo ra trống đồng nói rất rõ : Cóc là biến âm của góc hình vuông ; cóc → góc tương tự : Kà → gà Cái → gái ... Sự biểu diễn dịch học trên đồ đồng Đông sơn còn thấy rõ hơn ở mặt thạp đồng Đào thịnh đã tìm được . Ở nắp thạp đồng tròn 4 con cóc được thay bằng 4 cặp nam nữ đang giao hợp ý chỉ 4 điểm giao của hình vuông và tròn cũng là giao điểm của trời và đất , âm và dương. Trống đồng người Việt xưa gọi là “cối đồng” Hoa ngữ dịch ra “đồng cửu” rồi biến âm thành “đồng cổ” , cửu là cái cối biến ra cổ là cái trống. Tóm lại là có sự liên quan rất rõ ràng giữa dịch học và trống đồng hay rộng hơn là đồ đồng Đông sơn . Sự khẳng định này khiến ta không thể lý giải vì theo chính sử Trung quốc thì Văn vương tác dịch ở tận Thiểm tây bắc Trung quốc hiện nay và vào thuở ấy người Việt không hề biết dịch lý là gì ...cũng như văn vương không hề biết mặt mũi trống đồng thạp đồng ra sao ...nhưng với những gì đã biết trong bài : Ta không thể nào kết luận khác hơn là “dân trống đồng”chính là chủ thể đã tác tạo ra dịch học .
  18. nhìn những hình ảnh này lòng chúng ta quặn thắt , đau ở cả tim và óc ...không thể nào quên được .., nhưng không phải để ôm mãi hận thù ....phải biết biến nỗi đau thành động lực , làm việc nhiều hơn nữa đóng góp nhiều hơn nữa để tăng tốc phát triển chỉ khi nào nước Việt trở thành 1 cường quốc lòng chúng ta mới có thể nguôi ngoai .
  19. Phụ đính . Truyền thuyết lịch sử VIỆT Tiền nhân người Việt Nam đã truyền lại cho đời sau nhiều chuyện cổ tích, đặc biệt là những truyện trước công nguyên. Trong những câu chuyện trên có phần hư cấu, mới đọc tưởng là chuyện tà ma, yêu thuật nhưng khi dùng chìa khoá Dịch Lý để mở mới nhận ra chính là tâm huyết của người xưa, khi đưa các mã tin của Dịch Lý vào các câu chuyện cổ tích – kết hợp với cổ sử Trung Hoa và Việt Nam đối chiếu với những khám phá của một số ngành khoa học hiện đại ta có thể phục dựng lại nguyên bản của lịch sử, đúng như những gì đã xảy ra, rửa sạch các lớp sơn ô uế mà ai đó đã phủ lên lịch sử của con dân Việt Nam – con dân Họ Hùng trong số đó quan trọng nhất là Hùng triều ngọc phả. e- Hùng triều ngọc phả : Dựa theo phả hệ Hùng Vương 18 đời được lưu truyền từ xa xưa và con dân Việt coi như chính sử: 1 Hùng Dương Vương 2 Hùng Hiển Vương 3 Hùng Quốc Vương hay Thuấn Vương – Lâm Lang 4 Hùng Nghi Vương – Bảo Lang ( dị bản: Tân Lang) 5 Hùng Hy Vương – Viêm Lang ( dị bản: Hùng Anh Vương) 6 Hùng Hoa Vương – Hải Lang̣ 7 Hùng Huy Vương – Long Tiên Lang 8 Hùng Chiêu Vương – Quốc Tiên Lang 9. Hùng Ninh Vương – Thừa Văn Lang 10. Hùng Uy Vương – Hoàng Hải Lang ( dị bản: Hùng Vĩ Vương) 11. Hùng Trịnh Vương – Đức Hưng Lang 12. Hùng Vũ Vương – Hiền Đức Lang 13. Hùng Việt Vương – Tuấn Lang 14. Hùng Định Vương – Chân Lang 15. Hùng Triệu Vương – Cảnh Triệu Lang (dị bản: Cảnh Thiều) 16. Hùng Tạo Vương – Đức Quân Lang (dị bản: Đức tân) 17. Hùng Nghị Vương – Quang Lang 18. Hùng Duệ Vương – Huệ lang (dị bản: Duệ Đức) Riêng tư liệu do Nguyễn Hồng Sinh sưu tầm có thêm Hùng Vương thứ 19: Hùng Kính Vương? g-Tóm tắt một số truyện cổ tích Việt . Để giúp bạn đọc đặc biệt là các bạn trẻ dễ dàng nắm bắt ý trong bài viết xin tóm tắt một số truyện cổ tích Việt được dùng làm tư liệu dẫn chứng cho cả loạt bài viết về lịch sử họ HÙNG . g .1. Sự tích họ Hồng Bàng Đế Minh là dòng dõi 3 đời của Viêm Đế Thần Nông, đi dạo chơi phương nam đến núi Ngũ Lĩnh gặp và kết duyên cùng nàng Vụ Tiên (có dị bản chép là con gái bà Vụ Tiên), sinh ra con trai đặt tên là Lộc Tục. Đế Minh rất thương yêu và có ý định truyền ngôi “đế” cho Lộc Tục, nhưng Lộc Tục quyết không dám nhận vì còn anh trai lớn cùng cha khác mẹ là Đế Nghi. Sau Đế Minh truyền ngôi cho Đế Nghi và phong là vua phương bắc, Lộc Tục là vua phương nam. Lộc Tục lên ngôi lấy hiệu là Kinh Dương Vương – đặt tên nước là Xích Quỉ. Kinh Dương Vương kết duyên cùng Long Nữ (dị bản chép là Long Mẫu, là nàng Áng Mây) con gái của Động Đình Quân, vua vùng hồ Động Đình, hạ sinh một con trai đặt tên là Sùng Lãm. Sùng Lãm nối ngôi cha xưng là Lạc Long Quân. Lạc Long Quân kết duyên cùng Âu Cơ con gái của Đế Lại và là cháu của Đế Nghi. Âu Cơ sinh ra một cái bọc trong có 100 quả trứng, sau nở ra 100 người con trai. Một hôm, Lạc Long Quân nói với Âu Cơ, “Ta là dòng dõi rồng vốn sống ở dưới nước, nàng là dòng dõi tiên sống trên cạn nên không thể sống mãi cùng nhau được” rồi Lạc Long Quân đưa 50 con xuống biển, Âu Cơ dẫn 50 con lên núi Phong Châu, các con theo Âu Cơ tôn người con trưởng lên làm vua lấy hiệu Hùng Vương – đặt tên nước là Văn Lang nước Văn lang bắc giáp hồ Động đình, Đông giáp Nam hải, tây giáp Ba thục và nam giáp nước Hồ tôn. Dòng giống Việt được hình thành từ đấy. g.2. Truyện Sơn Tinh – Thủy Tinh Sơn Tinh tên là Nguyễn Tuấn, sau còn các tên: Nguyễn Huệ, Nguyễn Chiêu Dung, con của Nguyễn Cao Hạnh và bà Đinh thị Dung, sau khi cha chết, mẹ con dẫn nhau lên ở núi Ngọc Tãn. Ở đây Sơn Tinh được Ma Thị là chủ núi nhận làm con nuôi, Nguyễn Tuấn được thần núi cho cây gậy thần có đầu sinh đầu tử, do cứu được một con rắn (dùng gậy đầu sinh) vốn là con vua thủy tề, được trao “sách ước” đễ tạ ân, sách ước có 3 trang (không rõ 3 trang gì). Vua Hùng Vương thứ 18 mở hội kén chồng cho Mỵ Nương Ngọc Hoa là con gái yêu của vua. Cả Sơn Tinh và Thủy Tinh đều đến cầu hôn, vua Hùng phân vân không biết chọn ai, vua quyết định ai đem sính lễ đến trước sẽ gả công chúa cho. Sơn Tinh nhờ có sách ước (?) nên chuẩn bị nhanh chóng lễ vật và đến trước, vua Hùng ưng ý và gả công chúa Ngọc Hoa cho Sơn Tinh. Thủy Tinh đến sau nên không lấy được vợ, nổi giận dâng nước lên đánh Sơn Tinh, nhưng Sơn Tinh nhờ có sách ước, gậy thần làm phép hể nước dâng lên thì núi cao lên thêm mãi, và nhờ gậy thần “đầu sinh đầu tử” nên binh tôm tướng cá tan tành phúc chốc, đất nước hưởng thanh bình, Thủy Tinh đành chịu thua và rút lui. Sau Hùng Vương truyền ngôi cho con rể là Sơn Tinh vẫn lấy hiệu là Hùng Vương. g.3. Chuyện bánh dày bánh chưng Vua Hùng đã già bèn nghỉ ra cách để tìm người kế vị. Vua bèn ra lệnh cho các hoàng tử (các Lang) ai dâng lên cho vua được món ăn ngon nhất và ý nghĩa nhất sẽ được vua truyền ngôi. Trong khi các anh em đổ đi khắp nơi để tìm của ngon vật lạ thì hoàng tử Lang Liêu vốn cảnh sống rất thanh bạch và không muốn dành ngôi vua nhưng bản tính hiếu thảo nên vẫn băn khoăn không biết lấy gì dâng cho vua cha, chợt tối ngủ Lang Liêu được một vị thần hiện ra chỉ dẫn: Lấy gạo nếp tinh tuyền đã nấu chín giã ra làm bánh màu trắng hình tròn, đặt tên là bánh dày. Lấy gạo nếp đổ trên lá, giữa cho nhân đậu xanh và thịt heo gói lại thành hình vuông đem luộc chín gọi là bánh chưng. Khi dâng vua, vua cha cho các món ngon vật lạ của các hoàng tử khác đều là tầm thường. Riêng bánh dày và bánh chưng của Lang Liêu được vua khen ngon và hỏi ý nghĩa thì Lang Liêu tâu: Bánh dày hình tròn tượng trưng cho trời. Bánh chưng hình vuông tượng trưng cho đất. Vua khen trời tròn đất vuông là trọn ý nghĩa của đạo trời đất, và vua quyết định truyền ngôi cho Lang Liêu. g.4- Truyện Thánh GIÓNG. Giặc Ân sang xâm chiếm nước ta, thế giặc mạnh mẽ lắm nhà vua cho truyền rao khắp nơi kêu gọi người tài ra chống giặc cứu nước. Ở làng Phù đổng tổng Võ ninh có 1 cậu bé đã 3 tuổi mà chưa biết nói vậy mà khi thiên xứ của vua đến bỗng đứa trẻ ấy lên tiếng xin nhà vua ban 1 con ngựa sắt và 1 cây gậy sắt để đi chống giặc, rồi cậu dục cha mẹ thổi cơm cho mình ăn để lên đường cho kịp lệnh vua, ăn hết nồi này cậu lại đòi thêm nồi khác đến khi nhà hết gạo thì cả dân làng tật trung nồi và gạo để thổi cơm cho cậu ăn... khi đã no đứa bé đứng dậy vươn vai 3 lần biến thành chàng thanh niên cao lớn khoẻ mạnh phi thường, vừa kịp khi nhà vua cho mang ngựa sắt và roi sắt đến chàng liền phóng lên ngựa cầm roi sắt phi ra trận tiền ,ngựa đi đến đâu giặc tan tác đến đó hết lớp này đến lớp khác đến nỗi gãy cả gậy sắt chàng liền nhổ tre vung lên đánh giặc hết bụi này đến bụi khác. xác giặc và tre vươn vãi khắp nơi nên về sau khắp nước ta đâu đâu cũng có tre mọc. Phá xong giặc ngài cưỡi ngựa sắt bay về trời ở vùng núi Sóc sơn,từ đó nước ta mãi mãi vua cho lập đền thờ và phong là Phù Đổng Thiên Vương , dân gian gọi ngài là thánh GIÓNG. g.5. Chuyện nỏ thần Thục An Dương Vương xây thành ở đất Việt Thường, nhưng thành xây mãi không xong, cứ xây rồi lại đổ. Nhà vua lập đài cầu khấn thì thần Kim Qui hiện lên xưng là Thanh Giang Sứ Giả chỉ cho vua cách trừ yêu quái nên thành xây không đổ nữa. Thành xây 9 lớp và xoáy như hình con ốc, vua đặt tên là Thành Cổ Loa. Trước khi giả từ thần Kim Qui còn tặng vua một cái vuốt để làm vật báu trấn quốc. An Dương Vương sai tướng quân Cao Lỗ dùng vuốt rùa chế thành nỏ thần gọi là “Thần nỏ rùa vàng”, khi giặc xâm lăng vua mang nỏ thần ra bắn thì quân giặc tan tác ngay. Thấy vậy, Triệu Đà vua nước kế bên vẫn có dã tâm thôn tính nước ta, lập kế cầu hòa, xin cho con là Trọng Thủy lấy con gái An Dương Vương là Mỵ Châu, ở rể tại Âu Lạc. Vốn sẵn âm mưu Trọng Thủy hỏi dò vợ về nỏ thần; Mỵ Châu mất cảnh giác đem nỏ thần cho xem, Trọng Thủy bèn tráo và trả lại cái nỏ giả, rồi về nước báo tin cho cha. Được tin Triệu Đà cất quân đánh An Dương Vương; vì đã mất nỏ thần nên An Dương Vương thua chạy – cha con đến cửa biển Nghệ An khấn thần Kim Qui, thần hiện lên bảo “Giặc đang ngồi sau lưng nhà vua đấy”, nhà vua biết muôn sự do Mỵ Châu gây ra, nên tuốt gươm chém con rồi cầm sừng Văn Tê 7 tấc đi vào biển. g.6. Sự tích trầu cau Hai anh em trai tên là Tân và Lang giống nhau như 2 giọt nước, cha mẹ mất sớm nên 2 anh em vô cùng thương yêu và đùm bọc lẫn nhau. Rồi người anh là Tân lấy vợ, anh em vẫn ở chung nhà; vì 2 người giống nhau như 2 giọt nước nên người chị dâu không thể phân biệt được chồng và em, khiến Tân nhiều khi hiểu lầm nghi oan cho em. người em bỏ nhà ra đi, đi mãi tới bên bờ suối kiệt sức ngồi nghỉ rồi chết biến thành tảng đá. Người anh thấy mất em, vô cùng ân hận và ra đi, quyết tìm cho được em, nhưng đi mãi đi mãi vẫn không tìm được, thấy có tảng đá thì ngồi đấy khóc mãi cho tới chết, và cạnh tảng đá mọc lên một cây cau. Người vợ cũng ra đi tìm chồng và em. Khi đến bờ suối thấy có tảng đá và cây cau liền ngồi nghỉ và chết tại đấy, hồn biến thành dây trầu không mọc leo từ tảng đá quấn lấy cây cau. Vua Hùng tuần du đến đấy nghe kể chuyện thì rất xót xa cho tình nghĩa anh em và vợ chồng bèn sai nung đá thành vôi, ăn vôi với trầu và cau thì thấy có hương vị đặc biệt và tạo nên chất nước đỏ thắm, mọi người đi theo đều bắt chước vua. Từ đó có tục ăn trầu ở nước ta, cũng do tích này trầu và cau trở thành của sính lễ cầu hôn bắt buộc trong phong tục người nước mình. g.7. Sự tích tục xâm mình Thời vua Hùng, dân ở núi xuống nước đánh bắt cá thường bị loài thuồng luồng làm hại, bèn cùng nhau tâu lên vua, vua phán: “Các giống ở trên núi khác với giống loài ở dưới nước. Các loài ở nước chỉ ưa những gì giống với mình và ghét những gì khác mình vì vậy dân ta mới bị gây hại.” Nói rồi vua ra lệnh cho những ai xuống nước phải lấy màu xâm lên mình hình giống thủy quái. Từ đó không bị thuồng luồng làm hại nữa. Tục vẽ mình của dân Việt có từ đó. h. Thơ sử Bài thơ sử số 1 tác giả : vua Minh Mạng . Văn hiến thiên niên quốc Xa thư vạn lý đồ Hồng bàng khai tịch hậu Nam phục nhất Đường Ngu Bài thơ sử số 2 là 4 câu đầu trong bài thơ ‘Hành quận’ của Phạm sư Mạnh thế kỷ 14. Nghĩ thuyền hà thạch tố thanh ba Lũng lại tranh nghênh xứ Bái qua Lô thủy phân ( phiên ) ly Thao tục ( tụ )Lạc Văn lang nhật nguyệt Thục sơn hà Bài thơ sử số 3 Là 4 câu đầu của bài ‘Tuần thị Chân đăng châu ‘ của Phạm sư Mạnh . Thiên khai địa tịch lộ Tam giang Kỳ tuyệt tư du ngũ vị tằng Kiểu ngoài Bách Man hoàn Cổ lũy Quốc Tây cự chấn ( trấn ) tráng Chân Đăng . Những vần thơ này đã được người viết hiệu chỉnh dựa trên ý nghĩa lịch sử mới được phát hiện , phần trong ( ...) là những chữ trong các bản đang lưu hành . Chỉ mấy vần thơ ngắn ngủi đã cô đọng cả lịch sử họ HÙNG thời trước công nguyên , chúng ta sẽ tuần tự ‘giải’ từng câu từng chữ trong phần sử thuyết .
  20. c . TÓM TẮT LỊCH SỬ QUỐC GIA HỌ HÙNG Sử thuyết họ HÙNG là thiên khảo luận về sự ra đời và phát triển của 1 thực thể chính trị goị là : nước hay quốc gia họ HÙNG Lịch sử quốc gia này hoàn toàn khác với lịch sử hình thành những tộc người , lịch sử của quốc gia thường đi sau lịch sử tộc người rất xa thậm chí có đến cả vạn năm . Lịch sử họ HÙNG chính là lịch sử của dân tộc VIỆT NAM hiện tại và những trang sử này cũng là một phần của lịch sử Hợp chủng quốc HÁN HOA tức TRUNG HOA ngày nay và các quốc gia Đông nam Á khác . *Cách nay............... Thời Bản Cả còn gọi là Bành Tổ và Bàn Cổ 500.000 năm............ Thời Toại Nhân hay Tựu Nhân *100.000 đến ........... Thời Vua Võng hay Dũ Võng 20.000 .................... Thời họ Sào hay Hữu Sào *20.000.................... * HV1 ____ Tổ phụ Hùng Dương ................... Động Đình Quân – Bào Hy, Thái Cao Thị ........................... * đời HV2 Tổ phụ Hùng Hiển .................. Thần Nông Viêm Đế – Cao Tân Thị ............................ * đời HV3 Tổ phụ Hùng Nghị – Bảo Lang ................... Thái Khang – Thiếu Hạo – Kim Thiên Thị *7.000...................... ........ * đời HV4 Tổ phụ Hùng Diệp hay Hùng Việp –Quan lang Bà Vũ tiên – Xuyên Húc *6.000...................... *đời HV5 Thời lập quốc họ Hùng hay Hữu Hùng Quốc Hùng Vũ Vương tức vua Hùng Đế Minh – Hiền Đức Lang, Hiên Viên – Hiên Viên Thị *Trước 5.000 ....................... * đời HV6 Hùng Hy - Viêm Lang, đất Đường do Kinh dương Vương Cai quản . Đế Nghi – Nghiêu đế . Quốc hiệu Hồng bang 1 , kinh đô : An Ấp Ở đất Đào . *5000 .................... * đời HV 7 Hùng Thuấn hay Hùng Lạc – Lâm lang . Thuấn đế . quốc hiệu Nam bang hay quốc gia ‘Nước’ *4.200 .................... * đời HV8 Hùng Việt – Tuấn Lang Tản Viên - Sơn Tinh – Hạ Vũ *4.000 .................... * đời HV9 Hùng Hoa – Hải Lang Lạc Long Quân – nhà Hạ Quốc hiệu: Thao – Hồng Bang 2 *3.700 .................... * đời HV10 Hùng Huy – Long Tiên Lang Kinh Dương Vương 2 – nhà Thương, đất Đường Quốc hiệu: Việt Thường Thị. *3.400..................... * đời HV11 Hùng Uy hay Hùng Vỹ Hoàng Hà Lang – nhà Ân Thương Quốc hiệu: Việt Thường Thị. *3.100 ...................... * đời HV12 Hùng Chiêu – Quốc Tiên Lang An Dương Vương – Chu Văn Vương Cổ Thục, Lang Liêu. Quốc hiệu: Văn Lang – Âu Lạc *3.000..................... * đời HV13 Hùng Ninh – Thừa Văn Lang Thục Phán – Chu Vũ Vương- Cơ Phát –Lang Liêu nhà Tây Chu, hay Tông Chu *2.770 .................... * đời HV14 Hùng Tạo – Đức Quân Lang hay Đức Tân Lang nhà Đông Chu – Chu Bình Vương – Thành Chu *2.256 ..................... * đời HV15 Hùng Định – Chân Lang Đinh Tiên Hoàng, Tần Thủy Hoàng – Sài Lang Quốc hiệu: Chân Đăng, nhà Tần Thời Hưng Suy tranh hùng (Hán – Sở) *2.206 ...................... * đời HV16 Hùng Trịnh – Đức Hưng Lang Lý Bôn – Lưu Bang – nhà Hiếu – Lý Nam Đế. Quốc hiệu: Vạn Xuân (Hán sử biến Hưng Đế thành Hán Đế) *2.179 cách nay ...................... * đời HV17 Hùng Triệu – Cảnh Thiều Lang Triệu Việt Vương-Triệu Đào. Quốc hiệu: Nam Việt Tể tướng Lữ Gia .......................................................................... *Năm 8 – 23....................... * đời HV18 Hùng Duệ – Duệ Lang Sau công nguyên................. Vương Mãng – Châu Hoàng Đế – nhà Tân cũng là thời giặc cỏ – Tây Hãn, nhàn *Năm 23 – 44 ...................... * kỷ Sỹ Nhiếp – Sĩ Vương *Năm 44............................. * Mã Viện diệt quốc họ Hùng – Nô lệ Đông Hán *Năm 184 ........................... * Khởi nghĩa 2 Bà Trưng Quân Khăn vàng (6-2-giáp tý -184) *Năm 220 – 280 ................. * Thời Lưỡng Triều: Thục-Ngô chống Ngụy Lý Bí – Lưu Bị; Tôn Quyền – Ngô Quyền chống giặc “giả” – Ngụy *Năm 280........................... * Tây mã hãn quốc diệt Ngô thời nô lệ Tây Mã Hãn – nhà Tấn *Năm 557 – 581 .................... * phục quốc – triều Bắc Chu – vua Văn Giác Đinh Hoàn – nước Đại Cồ Việt *Năm 581 – 618 ..................... * triều Lê Hoàn – nhà Tùy – Tiền Lê *Năm 618 – 684..................... *triều Lý 1 – Lý Công Uẩn 1 – Lý Uyên Và Năm 705 – 907 .................. *nhà Đường *Năm684 – 704 ,,,,,,,,,,,,,,,,,,,, * Vũ hậu – hay Vua Bà – nhà Chu *Năm 907 – 915........................ * Nhà lang – Chu Ôn – Hậu Lương *Năm 917 ....................... * Khai sinh nước Đại Việt – nhà Lý 2 – Lý Công Uẩn 2 Lý Cung – Lý Ẩn (Hán sử chép thành Lưu) * Năm 947 * Đại Việt đổi quốc hiệu thành Đại Hưng *Năm 968 * Dời đô về Thăng Long –Đại Việt phục sinh ở Việt nam *Năm 971 * Đại Tống chiếm Đại Hưng ( Tàu gọi là Đại Hán) Đất Quảng đông-Quảng tây *Năm 1048-1053 * Đại Việt chia thành 2 nước: Đại Việt và Đại Nam (họ Nùng) Hoa sử gọi là Nam Hải rồi sau biến ra Nam hán * họ Hùng 4 nước: _ Đại Việt – Đại Nam của Nùng Trí Cao _ Đại Lý –Đại Tống *Năm 1279 ........................ * Mông Cổ diệt Đại lý và Đại Tống *Năm 1257 – 1287 ........................ * Đại Việt đại phá quân Mông Cổ 3 lần. *Năm 1225 – 1400...................... . * Nhà Trần thay nhà Lý *Năm 1400 -1407........................ *Nhà Hồ: Hồ Quí Ly nước Đại Ngu *Năm 1407 – 1427........................ *Đại Việt nô lệ Man Quốc (nhà Minh) *Năm 1418 – 1427 ........................ * 10 năm khởi nghĩa Lê Lợi *Năm1427 – 1527 ........................ * Nhà Lê *Năm 1527 – 1592........................ * Lưỡng triều Lê – Mạc *Năm 1627 ......................... *Trịnh – Nguyễn phân tranh *Năm 1771 ....................... * Tây Sơn khởi nghĩa *Năm 1789....................... * Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế Đại phá quân Mãn Thanh của Khả Hãn Càn Long *Năm 1847 ....................... * Người da trắng bắt đầu chiến tranh xâm lược Việt Nam. *Năm 1945 ....................... * Nước Việt Nam tuyên bố độc lập Trên vùng đất sau là lãnh thổ Đại Tống và Đại Lý liên tiếp bị các Hãn quốc thay nhau đánh phá và chiếm đóng: *- Hãn quốc Tây Hạ – giữa thế kỷ 11 *- Hãn quốc Lu Liêu 907 – 1125 *- Hãn quốc Căm – Kim 1115 – 1234 *- Hãn quốc Mông – Nguyên 1206 – 1386 *- Hãn quốc Man – Thanh 1616 – 1911 *Năm 1911 *-Nước Trung Hoa Dân Quốc ra đời . Trừ thời gian độc lập của nước Ngô do Chu Nguyên Chương gây dựng từ 1368 đến 1403, còn lại là chuỗi ngày Vong quốc đen tối, đại bộ phận lãnh thổ Trung Hoa bị chiếm đóng, dân Trung Hoa làm nô lệ. Trung Hoa vong quốc thực sự đã chấm dứt vào năm 1911, nhưng Trung Hoa vong quốc trong tâm thức vẫn đang tiếp diễn không biết đến bao giờ ? d .PHẦN CHÚ DẪN 1. Địa danh: 1*1. Đầm Hoa My: Châu thổ sông Hồng Việt Nam thời còn ngập nước. 1*2. Động Đình Hồ: Động là phương Đông; Đình là to lớn , trong cổ sử Trung hoa là Lôi trạch hoặc Chấn trạch nghĩa là cái hồ ở hướng Đông , nay là vịnh Bắc Bộ. 1*3. Hồ Tôn: Vùng ven biển – miền Trung Việt Nam hiện nay. Xưa còn gọi là Tĩnh Hải – nghĩa là đất phía Tây của biển chạy dài tới hồ Tônglesap tức biển hồ thuộc Camboge . 1*4. sông Khang: còn gọi là sông Cang, Cương hay Công; là sông Cửu Long hay Mekong hiện nay, sông Khang nghĩa là con sông bên Tây theo dịch lý. 1*5. sông Hắc: Còn gọi là Hắc Thủy hay Đan Thủy nghĩa đen là: con sông màu đen – thực nghĩa là sông ở phương Nam theo Dịch Lý là sông Đà Việt nam ngày nay . 1*6. sông Cơ: nghĩa là sông Vua, hay nơi khởi phát nay là sông Cả ở Nghệ An Việt Nam. 1*7. sông Chu: sông Cha, cha → Chu , là sông Chu Thanh hóa Việt nam . 1*8. sông Mã: sông Mẹ, Mẹ → mạ → Mã., là sông Mã Thanh hoá Việt nam . 1*9. núi Đọ: tên chữ là Thái Sơn –Thanh hoá Việt nam ,tên núi liên quan tới tín ngưỡng dân gian người Việt, đạo thờ Trời và Tổ Tiên, Thái Sơn là nơi Hùng Vũ thay mặt quốc dân tế tự tổ tiên và thượng đế tượng trưng bởi mặt trời. Sông Cả, sông Chu, sông Mã và núi Đọ xác định nơi nguồn cội của dân tộc, nay là vùng đồng bằng Thanh Nghệ Tĩnh và núi rừng thượng nguồn tây Việt Nam. 1*10. đất Giao chỉ: là vùng đất tổ Trung Hoa nay là bắc và bắc trungViệt , và vùng tiếp giáp phía tây thuộc nước Lào. 1*11. đất Nam Giao: Tên gọi chính xác là Nam giao chỉ , khởi nguồn chỉ là đất tây Qủang tây gọi là đất Lâm hay Nam , sau mở rộng thành đất Lĩnh nam . 1*12. Giao Châu: là Giao Chỉ cộng với đất Lâm nay là Quảng Tây và đất Lương hay Long là Quảng Đông; Giao Châu cũng là Giao chỉ bộ là lãnh thổ của Đào Quốc hay nước Thao hay Hồng bang 2 , là quốc thổ Trung hoa thời Vương triều Hạ, tư liệu cổ Việt Nam gọi là đất của 3 chúa: Nghi Nhân; Minh Khiết; và Long Cảnh. 1*13. An Ấp: Tên đúng là Đô ấp An , là quốc đô thứ 2 của vương triều Hạ . An hay Yên là biến âm của chữ Ôn nghĩa là nóng .An ấp chính là cố đô Hoa lư của triều Hùng Hoa nay thuộc Ninh bình Việt nam . 1*14. Lạc Ấp: Đô Ấp Lạc là quốc đô nước Văn lang hay Âu lạc, Phong kinh của nhà Chu cũng là đô thành của nhà Đông Chu , là Hà nội và vùng phụ cận ngày nay . 1*15. Lâm Ấp: còn gọi là đất Âu, nay là phần lớn tỉnh Quảng Tây, Trung Hoa. 1*16. Lâm Giang: tên cổ đại thời Nam giao của con sông chính chảy qua Lâm Ấp (đất Âu) nay gọi là Châu Giang –con sông tiêu biểu cho nhà Chu , hay tránh né cổ sử... thì gọi là sông Tứ hay tây giang . 1*17. đất Lương hay Long : tên vùng đất ven vịnh Bắc bộ ngày nay , xưa là quê hương của Long Nữ hay Long Mẫu con gái Động Đình Quân – còn gọi là Đồ Sơn Thị tức dòng mẹ của vua Khải nhà Hạ, vua Khải được dân Việt Nam thờ kính dưới tên Linh Lang là biến âm cuả Long lang . 1*18. Việt Thường : còn gọi là Đường , chỉ có nghĩa là đất phương Nam , đất Đường 1 là miền bắc Việt nam , Đất Đường 2 là đất gốc của nhà Thương; nay là Hồ Nam – Giang Tây bên bờ Trường Giang hay Đằng Giang. 1*19. Đường Giang : còn gọi là Đằng Giang là Trường Giang ngày nay, đây là con sông chính chảy qua lãnh thổ nhà Thương hay Đường (Việt Thường) – những từ này đều có nghĩa là phương Nam theo Dịch Lý. 1*20. Đất Thục : nghĩa là Đất phía tây nay là tỉnh Quí Châu, Trung Hoa. 1*21. Xuyên Thục: nghĩa là phía Tây Nam (theo Dịch Lý), ngày nay là tỉnh Tứ Xuyên, tên khác là Chân Định, Chân Đăng ; đất vua Chu phong cho họ Đinh tổ dòng nhà Tần về sau . 1*22. đất Bá: vùng đất nằm trong tỉnh Quảng Tây ngày nay – là đất vua Trụ nhà Ân Thương ban cho ông Tây Bá - Cơ Xương tổ nhà Chu , đất Bá ghép với Qúy châu thành đất Bá thục sử Trung hoa gọi là Ba thục . 1*23. đất Kiểu hay Cảo: nơi có Hạo Kinh của nhà Tây Chu, nay là Đông Vân Nam Trung Hoa , trước đây là đất Mật Tu, các từ kiểu, cảo là biến âm của Cửu, còn Hạo, Tu hay tư … đều có nghĩa là phía Tây. Hạo Kinh rất có thể là Côn Minh ngày nay. 1*24. đất Mân:– đất của Việt Vương Câu Tiễn, nay là Phúc Kiến, Chiết Giang, đất dành riêng thờ Hùng Việt Vương – Tuấn Lang nên có tên là đất Việt. 1*25 .Mân ấp hay Minh ấp : đô Ấp Minh là đế đô của Đế Minh tên Việt gọi Hùng Vũ hay hoàng đế Hiên Viên của sử Trung hoa nay là Đất Thanh Nghệ Việt nam . 1*26. đất Ngô : là đất ở phương Nước hay phương Nam theo Dịch Lý, nay là đất Giang Tây. Đây là lãnh thổ của : Việt Thường thị, nước Ngô-Chiến quốc, Ngô-Tam quốc, Ngô của Chu Nguyên Chương. Cũng là nước Nam Đường thời Thập Quốc. 1*27. đất Tùy: Tùy là từ biến âm của Sủy, Thủy; đây cũng là đất của nước Sở nay là Hồ Bắc, Trung Hoa. Hồ Bắc và Hồ Nam là đất kinh Sở xưa, cũng là đất của Tùy Vương – Dương Kiên, sử Việt gọi là Lê Hoàn,dân ở đây gọi là TỦY VIỆT. 1*28. đất Quan: chỉ đất phương Nam thời Ân Thương ; nay là tỉnh Hà Bắc, Sơn Tây Trung Hoa, là nơi sinh tụ của người Liêu ; Liêu là biến âm tiếng từ Lu Việt ngữ đồng nghĩa với Mờ tối tức huyền thiên trong cửu thiên . 1*29. đất Từ: chỉ phương Đông theo Dịch Lý, là từ dịch chữ Thương (yêu) Việt ngữ sang hoa văn nay là tỉnh Sơn Đông – viết sai thành nước Tề, dân là người Liêu – Lu còn gọi là Từ Lu, dân gian biến thành Tào Lao. 1*30. đất Mã: đất tây Sơn Tây ngày nay, phía Tây đất Mã là quê hương của Hung Nô, là gốc của nhà Tư Mã nước Tấn, là đất tổ của Mã Diện (Mã Viện) kẻ đã diệt quốc Giao Chỉ, Mã Diện nghĩa là Mặt Ngựa. 1*31. sông Vị: chính xác là sông Vỹ, Vỹ là cái đuôi, chỉ vùng cực Nam (theo Dịch Lý) – đó chính là tên xưa của Hoàng Hà, nghĩa khác: Vỹ là to lớn, sông Vị Thủy hay Vỵ Thủy chính là “Tô Lịch” con lạch to trong sử địa Việt Nam. 2 . Những từ cần chú ý: 2.*Đặc biệt . - Bách Việt thường được hiểu là Trăm giống Việt ...tương tự 'bách tính' là trăm họ . - từ 'tính ' là danh từ chung nên 'bách tính ' là trăm họ thì không có vấn đề còn từ 'Việt' là danh từ riêng thì không thể ghép với chữ 'bách' hiểu nghĩa là 100 được ; đã là danh từ riêng thì không thể có tới 100...hoặc ngay cả khi hiểu theo nghĩa là nhiều lắm ...cũng không ổn về mặt cấu trúc ngôn ngữ . như vậy ta hiểu như thế nào về từ 'bách Việt' trong lịch sử ? Từ 'Bách' ở đây là từ "thậm xưng' tương tự như chữ 'đại' (vì không biết trình bày ra sao nên tôi gọi như thế) Tổ quốc hay dân tộc với mỗi người đã trở thành những gì linh thiêng -cao qúy nên khi nói về tổ quốc của mình thì người Việt và Hoa thường ghép thêm vào tên riêng một từ 'thậm xưng' như : Đại Việt ,Đại Đường, Đại Tống, Đại Thanh .v.v., từ đại ở đây chỉ sự to lớn về tầm vóc ,hình thể . -còn khi nói đến 'dân tộc' thì người ta dùng chữ 'bách' thay chữ 'đại'và hiểu là 'đông đúc' nghĩa là sự to lớn về lượng số . Như vậy bách Việt không thể hiểu là trăm giống Việt được ; - chỉ có MỘT giống Việt mà thôi nhưng có thể có nhiều nước của cùng 1 giống Việt . tóm lại : từ 'bách Việt' trong lịch sử có nghĩa là 'dòng Việt đông đúc' hay to lớn về lượng số., tuyệt nhiên không thể có nhiều ...giống ‘Việt’ trong lịch sử như ta vẫn lầm lẫn. -Ngoài ra vì Tư liệu cổ sử Trung Hoa và Việt Nam có lối viết rút gọn, thường chỉ còn 1 chữ nên rất dễ lầm lẫn, gây mất phương hướng. 2* 1. Từ “Giao”: *- đất Giao hay Giữa : vùng Bắc Trung và BắcViệt ngày nay. *- đất Nam Giao : Tây bắc Quảng tây . *- Quận Giao Chỉ : là đất Giao và Nam Giao. *- Giao Châu hay Giao chỉ bộ : Bắc trung và Bắc Việt cộng Quảng Đông, và Quảng Tây. 2* 2. Từ “Việt . *- Hùng Việt : tên triều đại do Sơn tinh quốc chúa khai sáng . *- Nam Việt: quốc gia do Triệu Đào– Nam Việt Vũ lập nên. *- Đại Việt: quốc gia thời Trung Đại gồm: Việt Nam + Quảng Đông + Quảng tây (nhà Lý Việt Nam) *- Đại Cồ Việt: tên của Trung Hoa thời Đinh Hoàn – Vũ Văn Giác tức nước Bắc Chu. *- đất Việt Thường 1: thời cổ là phần lớn Bắc Việt Nam hiện nay. *- đất Việt Thường 2 : Hồ nam- giang tây Trung quốc nay . *- đất Việt Thường 3: thời Trung Đại và Cận Đại chỉ miền Trung Việt Nam hiện nay (chữ Thường chỉ có nghĩa là miền Nam). *- Việt Thường Thị: cách gọi khác của nhà Thương , tiếp nối Hồng Bàng Thị thời Đào Quốc – hay nhà Hạ. *- Nước Việt: quốc gia của Việt Vương Câu Tiễn, đấy là vùng đất dành riêng thờ phụng Đại Vũ tổ nhà Hạ, đế hiệu trong Việt sử là Hùng Việt Vương – Tuấn Lang; “Nước Việt” xuất phát từ đế hiệu này. *- dòng Bách Việt: Tên chung gọi người Việt ở Việt nam và tất cả dânTrung Hoa (hiện nay) không phải là người Hán hay Hãn dân, còn gọi là người Nam hay người “gọi vua là Lang”, phân biệt với người gọi vua là “Hãn”. Lang→Nam . 2* 3. Từ “Thục”: *- Tây Thục: quốc gia thời tam Quốc, lãnh thổ là miền Tây Trung Hoa, trung tâm là Tứ Xuyên, tức quốc gia của Lưu Bị- Lý Bí. *- đất Ba Thục : đúng là Bá thục nghĩa là đất của ông Tây bá và đất Thục , ngày nay là Quý châu và Bắc Quảng tây . *- đất Xuyên Thục: nghĩa là vùng Tây -Nam (theo Dịch Lý), nay là Tứ Xuyên còn gọi là Chân Định hay Chân Đăng, đất gốc của đế quốc Tần; Tây Thục thời Tam Quốc. *- nước Thục: ở đất Qúy châu là đất của Vương Qúy , cha Văn vương , đất Thục là đất gốc tổ của nhà Chu . Khi nhà Tây Chu chuyển về Lạc Ấp , phong người đứng đầu đất ấy là Thục Hầu , nước Thục bị Tần chiếm năm 306 trước CN.. 2* 4. Từ “Tề”: *- Tề: viết sai của chữ ‘Từ’ dịch chữ 'Thương' Việt ngữ , chỉ vùng Sơn Đông là quốc gia đánh nhau với nước Ngụy thời Chiến Quốc. *- Tề: xuất phát từ chữ ‘Tư’ chỉ hướng Tây, nay là Nam Thái Lan và Cambodia – đất của tộc Khương hay Môn Khmer – đất phong cho Khương Thái Công – là nước đánh nhau với nước Yên thời Chiến Quốc. 2* 5. Từ “Triệu”: *- nước Triệu 1 : nước tách ra từ nước Tấn, ở cực Tây tỉnh Thiểm Tây / đông Cam Túc ngày nay, thời Chiến Quốc là nước đưa dân sang giúp mở mang văn minh cho Tần. *- nước Triệu 2 : là nước ở Vân nam tách ra khi Tây Chu chuyển về Lạc Ấp, đấy cũng là nước đã chiếm “Tế điền” của nhà Đông Chu (sử Trung Hoa không nói đến). 2* 6. Từ “Lâm”: *- Lâm Ấp 1: Lâm Ấp thời cổ chỉ vùng đông- bắc Quảng tây, còn gọi là Âu – Lâm Ấp nghĩa là quốc đô phương Nam (theo phương Dịch Lý xưa) Nam→ Lam→ Lâm. *- Lâm Ấp 2: thời nô lệ Đông hãn quốc, bắc nam đã bị đảo ngược nên Lâm ấp là miền Trung của Việt Nam, lãnh thổ của nước Chiêm Thành hay An – Chiêm – là phương Nam theo phương hướng hiện nay. *- Lâm Giang: là tên xưa của Châu Giang hay sông Tứ, con sông chính chảy qua Lâm Ấp – Quảng Tây. 3 . Định vị các nước thời Chiến Quốc: 3*1. Tây Chu: Vân Nam – Quí Châu – Quảng Tây – Bắc Việt Nam , đô là Hạo kinh ở đất Cảo-Vân nam nay. 3*2. Đông Chu: Quảng Tây và Bắc Việt Nam đô :Lạc ấp-Cổ loa thành Việt nam nay . - Quí Châu tách ra thành nước Thục do Thục hầu cai qủan .. - Vân Nam thành nước Triệu 2 ..(cổ sử không ghi ). 3*3. Lỗ: Lào và Bắc Thái nay. 3*4. Yên: Trung Việt Nam, tiền thân của Champa. 3*5. Tề: Nam Thái Lan và Cambodia, dân chủ yếu là người Môn-Khmer. 3*6. Tống: đất Quảng Đông Trung Hoa ngày nay. 3*7. Kinh Sở: Hồ Bắc và Hồ Nam, Trung Hoa. 3*8. Việt : Phúc Kiến – Chiết Giang Trung Hoa ngày nay. 3*9. Ngô: Giang tây, An Huy ngày nay. 3*10. Tần: Tứ Xuyên và nam Thiểm tây , tên Việt: Chân Đăng. 3*11. Triệu: Tây của vùng thiểm Tây, đông Cam Túc Trung Hoa. 3*12. Hàn: Tây Bắc Hà nam. 3*13. Ngụy: Đông Hà nam + Tây Sơn Đông. Ghi nhận :Nước Tấn = Triệu + Hàn + Ngụy – đất chính là Thiểm Tây và Hà Nam cộng với đông Cam Túc; đây là vùng hỗn cư từ đời Thương của 3 đại tộc: H’Mông (Trung Hoa); Lu (Liêu – Khiết Đan) và Hung (Mông Cổ). Từ thời Đông Hãn Quốc của đại hãn Lưu Tú vùng này trở thành Trung Nguyên, vì lý do này mà các “rợ” thời Trung Cổ trở về trước luôn lấy quốc hiệu là Hán – Tề – Ngụy – Tấn vì coi vùng này là của họ. Ngày 07 tháng 07 năm 2007. Người viết Nguyễn-quang-Nhật SÁCH THAM KHẢO *1. Chu Dịch, Sào Nam Phan Bội Châu, NXB Khai Trí 1969 *2. Lạc Thư Minh Triết, Kim Định, NXB Nguồn Sáng Saigon 1971 *3. Tâm Tư, Kim Định, NXB Khai Trí Saigon 1970 *4. Nguồn gốc Văn hóa Việt Nam, Kim Định, NXB Nguồn Sáng Saigon 1971 *5. Từ điển Chu Dịch, Trương Thiện Văn – 1 nhóm dịch giả, NXB Khoa học Xã hội TP. HCM 1997 *6. Văn hóa các dân tộc Thiểu số Việt Nam, Nhóm tác giả, NXB Giáo Dục TP.HCM 1998 *7. Lịch sử Văn Minh Thế Giới, Vũ Văn Minh chủ biên, NXB Giáo Dục TP.HCM 2005 *8. Người Việt Nam với Đạo giáo, Nguyễn Duy Hinh NXB Khoa học Xã hội Hà Nội 2003 *9. Đối thoại với các nền Văn hóa – Trung Hoa; các tập Thái Lan; Myanmar; Lào; Thái; Philippines; Indonesia, Biên dịch Trịnh Huy Hòa, Huế 1996 *10. Đất nước Việt Nam qua các đời, Đào Duy Anh, NXB Thuận Hóa Huế 1996 *11. Nghiên cứu Chu Dịch, TT. Quốc học ĐHSP Hà nội, NXB Văn hóa Thông Tin, TP.HCM 2002 *12. Non nước Việt Nam, Tổng cục Du Lịch, NXB Hà Nội 2003 *13. Hành trình về thời đại Hùng Vương dựng nước, Lê Văn Hảo, NXB Thanh Niên, Hòa Bình 2000 *14. Thành Cát Tư Hãn – Vó ngựa trường chinh, Nguyễn Trọng Khanh, Phan Thành Tài, NXB Văn Học 1999 *15. Kinh Dịch với Vũ trụ Quan Đông phương, Nguyễn Hữu Lương, Saigon 1971 *16. Thế thứ các triều vua Việt Nam, Nguyễn Khắc Thuần, NXB Giáo Dục, Đồng Tháp 2003 *17. Việt Sử giai thoại, 8 tập, Nguyễn Khắc Thuần, NXB Giáo Dục TP.HCM 2000 *18. Cộng đồng Quốc gia dân tộc Việt Nam, Đặng Nghiêm Vạn, NXB ĐHQG TP.HCM 2003 *19. Việt Nam Quốc hiệu – Cương vực qua các thời đại, Nguyễn Đình Đầu, NXB Trẻ, TP.HCM 2000 *20. Những nền văn hóa tiêu biểu ở Việt Nam, Phạm Văn Đấu, Phạm Võ Thanh Nga, NXB Văn hóa Thông tin Hà Nội 2006 *21. Chu Dịch chính kinh, Hoàng Thư biên soạn, NXB VHTT TP.HCM 2001 *22. Văn hóa Đông Sơn – Văn minh Việt cổ, Chử Văn Dần, NXB KHXH Hà Nội 2002 *23. Việt Nam Sử lược, Trần Trọng Kim, NXB VHTT Hà Nội 2002 *24. LỊCH SỬ Trung Quốc 5000 năm, Lâm Hán Đạt, Tào Dư Chương; Y dịch: Trần Ngọc Thuận, NXB Trẻ TP.HCM 2001 *25. Việt Nam những sự kiện lịch sử, Viện Sử học Việt Nam, NXB Giáo Dục Hà Nội 2002 *26. Việt Nam Văn minh Sử, Lê Văn Siêu, NXB Lao Động Hà Nội 2003 *27. Tiến trình Lịch sử Việt Nam, Nguyễn Quang Ngọc chủ biên, NXB Giáo Dục Hà Nội 2002 *28. Kinh Dịch Phục Hy Huyền diệu và Ứng nghiệm, Nguyễn Hồng Sinh, NXB TP.HCM 2003 *29. Các triều đại Trung Hoa, Lê Giảng biên soạn, NXB Thanh Niên Bến Tre 2002 *30. Tìm về cội nguồn Kinh Dịch, Nguyễn Vũ Tuấn Anh, NXB VHTT TP.HCM 2002 *31. Đạo giáo và các tôn giáo Trung Quốc, Henri Maspero, Lê Diễn dịch, NXB KHXH TP.HCM 1999 *32. Tìm hiểu quá trình tiến hóa vũ trụ và sinh giới, Vũ Gia Hiền, NXB Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội 2003 *33. Sử ký Tư Mã Thiên, Phan Ngọc dịch, NXB Văn Học hà Nội 2003 *34. Sử Trung Quốc, Nguyễn Hiến Lê, NXB Văn Hóa TP.HCM 1997 *35. Bách Thần Hà Nội, Nguyễn Minh Ngọc biên soạn, NXB Mũi Cà Mau TP.HCM 2001. *36. Kinh Thư – bản dịch của Trần Lê Sáng, Phạm Kỳ Nam.
  21. b . Thay lời kết . Nhận diện dòng giống HÙNG . Việt nam là nước duy nhất kế thừa chính thống cả dòng máu và văn hóa - văn minh họ Hùng . Lạc Việt hay Việt ‘ Nước’ ở bắc và bắc trung Việt ngày nay là đất Phong của Văn vương , cũng là Lạc ấp kinh đô của Đông Chu . Nước là tên riêng sau người Việt biến thành danh từ chung đồng nghĩa với quốc của Hoa ngữ . Ngoài ra Con cháu nhà Hùng hiện chìm khuất trong hai cái bóng gọi là văn hoá Trung hoa và Ấn độ . Trong thiên khảo luận này chúng ta đã phác họa nét cơ bản của một lịch sử bao quát và xuyên suốt về dân tộc có bề dày lịch sử lâu dài nhất trên địa cầu. Thay lời kết cho thiên Hùng sử bằng sự nhận diện những cộng đoàn con cháu nhà Hùng ngày nay hay gọi là Bách Việt. A . Khối lẩn khuất dưới bóng văn hoá Hán hoa : 1 . Quý Việt hay Cửu Việt ở tứ xuyên Trung quốc ngày nay , cổ thư Trung hoa thường thể hiện dưới tên Qùy Việt , cả qúy và cửu đều là số 9 chỉ phương tây trong dịch học. 2 . Tủy Việt ở vùng lưỡng Hồ (Hồ bắc và Hồ nam); đây là danh xưng tam sao thất bản của Sở Việt , Hồ bắc và Hồ nam là đất Kinh Sở thời nhà Chu . Hồ bắc còn đất Tùy trung tâm Trung hoa thời nhà Tùy . 3 . Dương Việt ở vùng Giang tây Trung quốc .Người Dương Việt là thành phần nòng cốt tạo nên những nước Ngô trong lich sử 4 . Mân Việt ở Phúc kiến –Chiết giang tên cổ xưa từ thời nhà Hạ là Việt , đây là mảnh đất dành riêng thờ Hạ vũ tổ chung của dòng Việt. 5 . Đông Việt ở Quảng đông là nước Tống Xưa , đất mà Chu vũ vương ban cho ông Vi tử làm đất riêng để thờ cúng các vua nhà Thương và Ân Thương. (Đa số sách sử gọi đất này là Nam Việt lấy tên nước của Triệu Đà để chi định ). 6 . Nam Việt ở Quảng tây là đất Nam giao trong Kinh Thư sách lịch sử cổ xưa nhất của Trung hoa ,còn được gọi là đất Lâm biến âm của Lam , nam . Lâm ấp là thủ đô của vùng này thường bị hiểu sai là một địa danh ( tương tự Lạc ấp, Thương ấp .v.v.) 7 . Di Việt ở Qúy châu Trung quốc là Kỳ sơn địa bàn cư trú của người Di lão hay Hữu Hộ thị sau khi bị Hạ Khải đánh đuổi vì bất phục ,đấy cũng là đất Thục của lịch sử thời Xuân thu – chiến quốc . 8 . Điền Việt ở Vân nam là đất Mật tu xưa nơi đất trấn nhậm của Ninh vương thời Văn lang-Âu lạc , khi Ninh vương trở thành Chu vũ vương thì Hạo kinh đặt ở đất ấy ; còn dược gọi là đất Kiểu hay Cảo . B . Khối theo văn hóa Ấn độ. 1 . Trên lãnh thổ nước Lỗ xưa . Thái là tộc người nòng cốt xây dựng nên nước Nam Việt của Triệu Đà sau khi mất kinh đô và vùng đất phía đông là Quảng đông thì người Thái di tản sang phía tây , lấy đất Điện biên phủ Việt nam ngày nay làm trung tâm , trong khoảng 100 năm trước và 100 năm sau công nguyên thông qua hành lang điện biên họ đã tây tiến và làm chủ lãnh thổ rộng lớn của nước Lỗ xưa và ở đấy người Thái đã cùng cư dân bản địa là người Lỗ cũ đã dựng nên vương quốc Đốn Tốn . Theo sử Tấn và Lưu Tống thì nước Đốn tốn phía tây giáp Thiên trúc , phía đông giáp Giao châu lại còn có bờ biển dài ngàn lý . Nước Đốn Tốn rất có thể là tiền thân của Thái lan và nước Lào hiện nay . Thái lan là ký âm la tinh của Táy lương hay táy Long . chữ Long cho ta 1 chỉ dẫn quan trọng là ngườiThái lan hiện nay xưa gốc tổ là tộc My sinh trú ở ven động đình hồ hay biển Đông , là 1 trong 2 tộc người con cháu của Lạc Long quân đã lập nên triều Hùng Hoa –Hải lang . 2 . Trên đất Yên xưa . Khoảng thế kỷ thứ 2 sau công nguyên người nước Yên cũ đã phục quốc ,sử sách trung hoa gọi là nước Lâm ấp . Khi Giao châu chưa rơi vào vòng nô lệ của Đông hãn quốc thì so với đất Giữa vùng đất nằm về hướng xích đạo goị là đất Ôn hay nóng bức , nước ở đó gọi là nước Yên , Yên chỉ là biến âm cuả Ôn . Khi giao châu mất,lịch sử sang trang thì trời đất cũng đảo lộn bắc biến thành nam và ngược lại vì thế đất Yên cũ lộn ngược thành ra đất phía Nam , Lâm ấp hay Việt Thường nghĩa là ấp quốc ở hướng Nam . Lãnh thổ Lâm ấp ngày nay là Miền trung Việt và nam Lào . Người gốc Lâm ấp trở thành người Việt mang họ Phạm và họ Phan , Phạm và Phan là ký âm bằng chữ Nho từ Chăm là danh xưng thời cận đại của Lâm ấp xưa . 3 . Trên đất Tề xưa . Khỏang vào đầu công nguyên người nước Tề xưa phục quốc dưới tên mới là . Phù nam hay Bồ nam( bồ- bố), nghĩa là nước của vua phương nam , Phù nam là tên do người Tàu đặt xuất hiện sau khi Mã viện chiếm Giao chỉ , người Phù nam là hậu duệ người nước Tề thời nhà Chu . Chỉ 1 thời gian sau khi phục quốc Phù nam đã thống nhất với 1 quốc gia hùng mạnh khác của người Môn có lẽ là tiền thân của Miến điện ngày nay hình thành cường quốc của dòng Cửu lê , sự việc này được sách sử Tàu hư cấu thành việc đánh nhau và sau đó kết thành vợ chồng của nữ chúa Phù nam Liễu Diệp và người từ phương xa đến là Hỗn Điền , chi tiết Hỗn Điền chiến thắng nhờ cây cung thần cho ta thông tin tộc người của Hỗn điền không nằm ngoài Đông nam á , sử dụng cung nỏ thành thục thời cổ đại là nét đặc trưng của con chắu dòng Hùng , cổ sứ Tàu đã cho biết như thế . Phù nam là nước của người Môn tiền thân của 2 nước tên Việt ngữ là Miên và Miến ngày nay ., Môn là biến âm của Mun nghĩa là màu Đen , đa Đen là đặc điểm nhân thể của người Cửu lê , Mun biến âm thành Môn, Miên , Miến .v.v. Thời hùng mạnh nhất Phù nam là bá chủ gần trọn đông nam á lục địa ngày nay sau đổi quốc hiệu là Xiêm la , âm la tinh là Chen la. Xiêm la nghĩa là nước Xiêm phía tây , La là tên quẻ Ly trong bát quái , từ thời nhà Chu thì Trung hoa dùng hậu thiên bát quái để định đất , Ly là quẻ trấn phía tây. Xiêm la và Chiêm thành ở phía đông hợp thành chỉnh thể lịch sử đông nam á trung đại . Xiêm la âm latinh là Chen la rất có thể cũng là nước mà hoa ngữ ký âm là Chân lạp ; như vậy Xiêm la là tiền thân của cả Campuchia và vùng nam Thái lan ngày nay . Chúng ta Không thể chấp nhận được sự việc vớ vẩn đã chép trong sử Tàu : khỏang giữa thế kỷ thứ 3 và thứ 4 sau công nguyên dân Phù nam đã ‘thỉnh’ một ông Ấn độ đến làm vua cai trị nước mình và những ông vua người Thiên trúc này trong khoảng 200 năm đã cải cách triệt để biến Phù nam thành nước ‘Thiên trúc... con’ , từ tôn giáo tới văn tự và cả đến cách ăn cái mặc nhất nhất đều y hệt ‘mẫu quốc’, sự thống trị và đồng hoá của người Thiên trúc hết sức nghiệt ngã còn hơn cả các đại hãn phương bắc nhiều lần đến độ sau khi phục quốc khoảng giữa những năm 400 người Phù nam không còn biết gì về dòng giống gốc gác mình . Cũng vì những ghi chép này của sử Tàu dân gian Việt đã lưu truyền câu tục ngữ : “rước voi về dày mả tổ”. Con voi hay con tịnh là con thú tượng trưng cho phương tây theo dịch học ,tịnh là đứng yên không thay đổi là đối lập của phương đông hay động tượng trưng bởi con rồng. Rước voi tức là rước người ở phía tây tới ở đây rõ ràng chỉ người xứ Thiên trúc ở phía tây địa bàn của dòng Hùng . Dày mả tổ nghĩa là nền văn hoá truyền từ đời ông đời cha đã bị chà đạp vùi lấp để thay bằng văn hóa văn minh Ấn độ. Thực đau sót vô cùng cho ngườihọ Hùng câu tục ngữ này dường như sát muối vào tim chúng ta. Phù nam đã có thời làm bá chủ trên phần đất Đông nam Á lục địa ngày nay chính vì điều này văn minh Thiên trúc đã phủ lấp khắp Đông nam Á như hiện thấy . . 4 . Dòng Hùng biển đông . Trong cổ tích nhà Hùng có chuyện Mai an Tiêm và vùng đất ở biển Đông .. Truyền thuyết Việt thực không sót điều gì (xin đọc lại sự tích qủa dưa hấu). Tiêm cũng là Chiêm hay xiêm chỉ dòng tộc , Mai hay Mi là chỉ phương đông sớm mai , an là biến âm của ôn chỉ tính ôn nhiệt của vùng nhiệt đới xích đạo. Chiêm mai an là người Chiêm ở vùng Đông –bắc xưa tức đông nam ngày nay.; truyền tích cũng chỉ rõ Mai an Tiêm sống ở đảo vùng biển đông. Chắc chắn đây là truyền tích nhắn gửi cho người đời sau biết cư dân đông nam Á hải đảo cũng là con cháu dòng Hùng. Phân tích sắc màu quả dưa hấu theo ngũ sắc của dịch học : dưa hấu Xanh vỏ Đỏ lòng ;dù bên ngòai có vỏ xanh chỉ nơi sinh sống là hải đảo ngoài biển đông nhưng ruột đỏ nghĩa là dòng máu chảy trong người vẫn là máu Hồng của dòng tộc Lửa con vua Hùng. Một khi Biết rõ mình là ai , con cháu dòng Hùng sẽ vươn lên thoát khỏi cái bóng đang che phủ mình . Một ngày mới của nhân loại đang bắt đầu.
  22. D . Phụ chương Lịch sử. ***** a .Thuỷ kinh lịch sử chú và lời kết. Nước là vật chất tối cần cho sự sống, khi chưa đạt đến trình độ khoa học kỹ thuật tiên tiến như ngày nay thì việc sinh sống ven sống là tất yếu. Sông cung cấp nước làm nên cuộc sống, sông là đường lưu chuyển tự nhiên như mạch máu đến khắp cơ thể. Tiến trình lịch sử của dân tộc họ Hùng gắn liền với những dòng sông là điều hợp lẽ. Với chúng ta sông núi đã trở thành linh thiêng chứ không thuần vật chất nữa , dòng sông là dấu ấn tiền nhân đóng lên trời đất . Người Hoa lấy 5 ngọn núi làm biểu tượng cho quốc thổ. Chúng ta kết thúc thiên khảo luận về tổ quốc và dân tộc họ HÙNG này bằng một khám phá được đặt tên : Thuỷ kinh lịch sử chú . vừa sâu sắc vừa vui vui thể hiện sự lạc quan yêu đời... 1 . Núi Đọ nơi thờ Tiên nhân : Họ HÙNG lập quốc thời Hùng triều thứ 5 –Hùng Vũ. Số 5 là trung tâm của Hà thư và Lạc đồ , nơi điều hoà và điều khiển cả 6 cõi .;đó chính là ý nghĩa chữ Vua hay Vũ vương. Từ mốc thời gian này trở về trước con người mới chỉ mang chữ Nhân chưa có chữ Dân . Tiền nhân trong cả chiều dài thời gian từ Bản cả-Tựu nhân, đế họ Sào- Vũ võng đến 4 tổ phụ của 4 phương trời hội tụ nơi THÁI SƠN , tên chữ của núi ĐỌ để hàng năm vua thay mặt cho cả dòng giống làm lễ ...’ân tiến chi Thượng đế dĩ phối tổ khảo...’ như lời đại tượng quẻ Lôi –Địa Dự . 2 . Sông Cả ; dòng sông ghi bóng Hùng Vũ, là khởi điểm của lịch sử quốc gia họ Hùng Chính là dấu Ấn của Hùng Vũ đóng vào trời đất làm mốc chuẩn cho cả không gian và thời gian : nơi chốn và thời khắc linh thiêng muôn đời của dòng họ Hùng. 3 . Sông Chu hay sông cha ; sông của đế Nghi. Dòng sông ở về hướng mặt trời đi là hình bóng của đế Nghi sử Hoa gọi là Đường Nghiêu đế. 4 . Sông Mã hay sông mẹ ; sông của vua phương Nam. Dòng sông của phương Nam mở nước , nơi tượng trưng cho Kinh dương vương cũng là Thuấn đế . Câu thơ Nam phục nhất Đường Ngu thật trọn ý. ba dòng sông là biểu tượng của thời dựng nước và mở mang bờ cõi chốn ấy là cõi thiêng muôn đời của con cháu nhà Hùng . Cha (Chu), Mẹ (Mã) sinh ra, nuôi nấng đàn con ; núi Đọ- Thái Sơn là biểu tượng của ý thức tâm linh là địa điểm mà vua Hùng thay mặt toàn dân tộc Tế Giao hàng năm, ngọn núi già cỗi thấp bé gần bờ biển, từ đó có thể nhìn thấy mặt trời nhô dần lên nơi chân trời , lẫn trong ánh ban mai thấy thấp thoáng bóng Hùng dương tổ phụ phương đông. 5 .. Sông Đà hay Đan thủy con sông mang dấu tích của Hùng Việt . Là nơi sinh ra dòng Lộc Tục – con cháu của Hiên Viên và con gái của Vũ Tiên, nơi mà ông Đại Vũ đã đổ mồ hôi và vắt nát óc cho việc trị thủy, tạo nên quê hương cho con cháu ngàn đời, đấy cũng là đất trung tâm của triều Hùng Việt Vương – Tuấn Lang . 6 . Sông Hồng hay Hồng Hà ; dòng sông biểu tượng thời Hoa Hạ. Đất tổ vương triều Hạ, sử Việt gọi là : nước Thao, nước Đào, lưu tồn vật chất trong lòng đất con cháu mới khám phá gọi là nền văn hóa Phùng Nguyên. Đặc tính kỹ thuật chế tác các công cụ tìm thấy chỉ rõ địa bàn phân bố hết sức rộng của dân tôc phía Bắc lan tới tận sông Tứ ngày nay. 7 . Dương Tử hay sông Thương con sông của Việt Thường Thị . Sông Thương hay Đường, Đằng là nơi sinh tụ của con cháu họ Hùng thời Long Tiên Lang – Thành Thang, Hồ Nam trở thành Ngũ Lĩnh hay Trung Nguyên, nơi đó cũng là ấn tích của thời vượt sông mở cõi hào hùng triều Ân Thương , thời văn hóa Qui Tàng Dịch hay chữ khắc trên mai rùa, đây là thời “chất biến” trong sinh hoạt tinh thần hay hoạt động trí tuệ nâng dân tôc lên tầm cao mới trong nấc thang văn minh. 8 . Hoàng Hà – Sông Vỹ là Đế thủy của Tần thủy hoàng Vỹ là cái đuôi chỉ cực Nam (phương Dịch Lý) Trung Hoa, thời Ân Thương trong thế tương đối, lưỡng lập với đất Đào biến âm của đầu, Hoàng Hà là nơi có Biệt Đô Triều Ca của Trụ Vương, Tần Thủy Hoàng cải tên nó là Đức Thủy, đúng thực là Đế Thủy tức sông Vua, sông chúa dịch qua Hán ngữ là Hoàng Hà chứ nào phải sông vàng, sông bạc hay sông có màu nước màu vàng như sử Trung Hoa thường giải thích. Ý khác: Vỹ Thủy là con sông lớn, vỹ là to lớn, địa lý Trung Hoa viết sai thành Vị Thủy, tức sông Vị; Vỹ Thủy – con sông to, Việt Nam ghi thành sông “Tô Lịch”, chữ sông là thừa vì Tô; to; Lịch: lạch, con lạch to … dịch sang thành Vỹ Thủy, … rồi Vị Thủy. Trang sử mở nước của Trụ Vương chắc chắn đẫm máu đào vì miền đất ven bờ Hoàng Hà là trung tâm của dân Lu hay Liêu, cuộc chiến bất tận Hoa – Man bắt đầu từ đấy kéo dài hơn 3.000 năm mới kết thúc trong thế giới hiện đại 9 . Chu Giang – Sông Tứ : nơi khai cơ sáng nghiệp cuả Văn vương . Nước Văn Lang, đất tổ triều Đại Chu chiếm trọn trung lưu và thượng lưu con sông này; Tây Âu Lạc cũng là đây, 2 dòng con Lửa và Lạc (nước) của Hiền Vương – Hiên Viên lại hợp nhất trên mảnh đất này. Khi Chu Vũ Vương lên ngôi Thiên tử Trung Hoa thì miền này là đất đế vương cốt lõi của thiên hạ nhà Chu Ngũ Kinh – linh hồn của văn minh Trung Hoa đã được Khổng Tử tổng kết và viết ở đây. Trống đồng là khí thiêng của họ Hùng cũng ra đời ở miền đất này. Với bề dày lịch sử từ thời Hùng Vương dựng nước “câu ngàn năm văn hiến” vẫn chưa xứng tầm nếu kể từ thời Thần Nông Viêm Đế phải nói là “vạn năm văn hiến” mới đúng. 10 . Hán Thủy : tên đúng phải là Hưng thủy tượng trưng cho cơ nghiệp của Lý Bôn – Lưu Bang . ***** Triều nhà Hiếu và triều Đường thời trung đại được coi là tiêu biểu cho 2 từ Trung Hoa. Kế sau triều Hiếu là chuỗi thời gian sóng gió và tủi hờn cho con cháu họ Hùng . Thời Vương Mãng, hoàng đế cuối cùng khi vận nước đã đến cơn bĩ cực thì chỉ 1 bọn lục lâm thảo khấu cũng đủ xô đổ tòa lâu đài Trung Hoa nguy nga đồ sộ mấy ngàn năm. 18 Hùng triều chấm dứt đồng thời với sự khốn khó cho muôn dân . Trừ 60 năm khôi phục độc lập thời Lưỡng triều, dân Trung Hoa phải làm thân trâu ngựa cho các Đại Hãn gần 500 năm. Bắt đầu từ Lưu Manh Canh Thủy Đế tuyên lập Hãn Quốc ở vùng thượng lưu Hán Thủy năm 23 cho mãi đến năm 557 là năm Đinh Hoàng – Vũ văn Giác khôi phục quốc hiệu Chu. Chắt lọc trong ngôn ngữ Việt ta có hẳn 1 bộ sử tủi nhục và đau đớn dưới vó ngựa các Khả Hãn. - Thời giặc cỏ – Lục Lâm Thảo Khấu: + Tây Hãn của hãn Lưu manh (Lưu Huyền). + Đông Hãn của hãn Lu tối (Lưu Tú). - Thời giặc giả – + Ngụy quốc của Tào Lao (Tào Tháo). - Thời ‘Đầu Trâu Mặt ngựa’ +Tấn quốc của bọn Tây Mã Tộc Kim – Mãn đã gây cho người Trung Hoa nỗi tủi nhục cùng cực, ấn tượng trong ngôn ngữ Việt bởi các từ ghép với chữ Căm (biến âm của Kim) như: Căm thù, Căm giận, Căm hận, Căm tức, Căm hờn , oán Căm V.v… Cũng như với tộc Tác Ta 1 chi của Hung Nô được tặng các từ Tức bực, Tức giận, Tức tối nhưng không dân nào “được” khắc sâu trong lòng dân Việt – Hoa như người Hung vua Hãn với hàng loạt từ : Hung Hãn , Hung ác, Hung dữ, Hung tàn, Hung tợn, Hung hiểm V.v… Lịch sử tàng chứa trong ngôn ngữ dân gian chắc chắn là chính xác tuyệt đối, 1 chứng lý không thể bài bác được trong tiềm thức người Việt chưa bao giờ ‘dị ứng’ với từ “Trung Hoa” bằng chứng là không có 1 từ nào thể hiện ác cảm được tạo ra từ ‘Hoa’, không những không dị ứng mà còn ngược lại nữa như: các vua quan thời quân chủ Việt Nam luôn lấy điển tích của các bậc minh quân, chúa hiền Trung Hoa làm gương soi mình, dân chúng Việt thì say mê với các tuồng cổ Trung Hoa, chữ Nho được gọi là chữ thánh hiền V.v… Đọc những câu thơ lịch sử của Tiến sĩ Phạm Sư Mạnh ta biết sự “vặn cổ” lịch sử chắc chắn diễn ra sau thế kỷ 14 – không còn nghi ngờ gì nữa đó là thành tích của liên tục 3 đời vua Mãn Thanh là Khang Hy – Ung Chính – Càn long, trong đó bàn tay Càn Long là nhơ nhớp nhất ...... nhưng rồi vải thưa làm sao che được mắt thánh.
  23. 6– nước Đại Việt +Đại Hưng . Hoa sử : Lý ( Lưu ) Cung – Lý ( Lưụ )Yểm . Quốc hiệu : Nước Đại Việt + Đại Hưng Niên đại : 917- 971 Lương Vũ Đế Chu Ôn một mặt công nhận Khúc Thừa Dụ làm Tiết Độ Sứ Tĩnh Hải, mặt khác lại bổ nhiệm Lý Cung (Lưu Cung) làm Tiết Độ sứ Quảng Châu, sau gia phong là Nam Bình Vương kiêm luôn vùng Tĩnh Hải ý không công nhận họ Khúc nữa. Năm 911 Lý Ẩn chết em là Lý Cung thay quyền Tiết độ sứ, Lý Cung còn có tên khác là Lý Nghiễm , Lý Nham . Năm 917 Lý Cung thành lập nước Đại Việt thủ đô ở thành Quảng châu ngày nay . Năm 918 ( VNSL- 947 )đổi quốc hiệu là Đại Hưng vì cho mình là người kế nghiệp của tổ phụ Lý Bôn Hùng Trịnh vương-Hưng đức lang , điều này được chứng thực bởi tên kinh đô nước Đại Việt rồi đổi là Đại Hưng mang tên Hưng vương phủ ; Hoa sử đã cố tình sửa chữ Hưng thành Hán y như trường hợp Hưng đế biến thành Hán đế tức Đại hãn ở thời Lý Bôn- Lưu Bang ,Triều đại Hiếu-Tây hán vậy . . Năm 930 ( VNSL-923 ? ) Lý Thái Tổ tiến đánh Khúc Thừa Mỹ sáp nhập An nam vào nước Đại Hưng .từ đây Nước Đại Hưng có 3 vùng địa lý tự nhiên vẫn gọi là Việt Đông Việt tây và Việt Nam nghĩa là : đất Việt phía đông , phía tây và phía nam nay là đất Qủang Đông Qủang tây và phía Bắc nước Việt , Chữ ‘Việt nam’ mới tìm thấy trên văn bia và sách vở thế kỷ 14-15 có lẽ mang ý nghĩa này ( là vùng phía nam nước Đại Việt + Đại Hưng) chứ không phải là quốc hiệu Việt nam thời nhà Nguyễn sau này . Lý Ẩn là Tiết độ phó sứ thời Việt Thường Hoa sử gọi là nhà Đường nên Lý ẩn và Lý Cung chắc chắn là người Bách Việt quốc hiệu Đại Việt cũng giúp khẳng định như thế . Nước Đại Hưng được 4 đời vua : Lý Cung ( tên khác là Lý Nghiễm –Lý Nham ), Lý Phần , Lý Thịnh và Lý Sưởng tồn tại từ năm 917 đến 971 thì bị nước Tống chiếm mất kinh đô và phần lãnh thổ Việt Tây và Việt Đông . Hoa sử coi như nước Đại Hưng đã chấm dứt tại Đây nhưng Việt sử có cái nhìn khác hơn . 7 -Nước Đại Việt mới ra đời trên đất Việt nam . Năm 968 Khi thấy nhà nước Đại Hưng đã gần suy vong thì trên vùng đất Việt nam của nước Đại Hưng nhà sư Vạn Hạnh và ông Đào Cam Mộc tôn Lý Công Uẩn lên làm vua không thống thuộc triều đình Hưng vương phủ nữa , Lý công Uẩn lấy lại tên nước cũ là Đại Việt tiếp nối truyền thống họ HÙNG từ qúa khứ ngàn năm . Minh văn trên qủa chuông cổ còn giữ được ở Hà nội ghi rõ niên đại và nơi đúc là: Giao Chỉ huyện, Hạ Từ Liêm thôn, thời Càn Hòa lục niên Mậu Thân tuế, tứ nguyệt, nhị thập cửu nhật (thôn Hạ Từ Liêm, huyện Giao Chỉ, ngày 29/4 năm Mậu Thân, niên hiệu Càn Hòa thứ sáu). Tìm hiểu trong sử liệu các triều đại Việt Nam thì không có niên hiệu Càn Hòa mà niên hiệu Càn Hòa là thuộc về thời vua nước Nam Hán ( Nam Hưng )Lưu Thịnh ( Lý Thịnh ), đóng đô ở Quảng Châu , thông tin này chứng tỏ 2 điều ở thời điểm năm 948 : - Không có triều Ngô của Ngô quyền vì niên đại vẫn dùng niên hiệu của vua nước Đại Hưng . - Tên huyện Giao chỉ chứng tỏ thành Đại La không phải là Kinh đô vào thời ấy . Với những viên gạch ‘Đại Việt quốc quân thành chuyên’ lẫn với gạch ‘Giang tây quân’ ở di tích kinh đô Thăng long đã chỉ ra không có nước Đại cồ Việt của Đinh bộ Lĩnh trên đất bắc Việt và Kinh thành Thăng Long đã được xây dựng trước năm 1010 rất lâu . Sử Việt chép Thái Tổ thấy La Thành có nhiều ưu điểm theo phong thuỷ là đất đế vương nên đã quyết định chuyển đô từ Hoa Lư về La Thành, nhân chuyện thấy rồng bay lên đã đặt tên quốc đô mới của nước Đại Việt là Thăng Long thành ,. và Thái Tổ đã xây dựng Thăng Long thành 1 kinh đô bề thế hoành tráng. Thái Tổ chỉ ở ngôi 19 năm như thế việc dời đô chỉ có thể xảy ra trong khoảng thời gian từ năm 968 đến 987. Trong thời nhà Lý cha con Nùng Tồn Phúc, Nùng Trí Cao làm phản chiếm đất Quảng Nguyên lập nước Nam thiên sau đổi thành Đại Lịch quốc. Thái Tông thân chinh đánh dẹp bắt được nhưng tha cho còn phong là Quảng Nguyên Mục ,Gia phong tước Thái Bảo, sử Việt Nam gọi là giặc Nùng. . Đất Nùng nghĩa là đất phía nam không phải chỉ có Cao Bằng mà là cả 1 phần vùng Quảng Tây – Quảng Đông, tức vùng cư trú của người Thái ở Hoa nam . Thực thế nếu chỉ vùng Cao Bằng thì Nùng Trí Cao làm sao đủ nhân lực, vật lực để đánh lấy 2 tỉnh Quảng Đông, Quảng tây của Trung Hoa được. Sử Trung hoa còn ghi Nùng trí cao đánh Ba thục ở Tứ Xuyên (…?) ngày nay làm triều đình Tống rung rinh phải điều đội quân tinh nhuệ nhất của Bình tây đại nguyên soái Địch Thanh về.....chống cự rồi ...lỡ đà nuốt luôn mảnh đất của họ Nùng... Nước Đại Nam của Nùng Trí Cao chính là 1 phần của đất lưỡng Quảng Trung Hoa ngày nay , Như thế nước Đại Việt của Lý Công Uẩn 2 đến thời Nùng Trí Cao nổi dậy thì chia làm 2, nước Đại Việt của nhà Lý 2 và Đại Lịch rồi sau là Đại Nam của Nùng Trí Cao; sau Đại Nam bị Tống diệt như thế Đại Việt đã bị triều Tống chiếm mất phần đất Quảng chỉ còn lại Giao Chỉ mà thôi. Theo sử Việt Nam thì phần đất Đại Việt mất về tay Tống triều là 8 châu: Hoành, Quí, Cung, Tầm, Đằng, Ngô, Khang, Đoan, chính Nhân việc đàm phán trao đổi đất giữa nhà Lý Đại Việt và Tống triều, dân gian có 2 câu thơ: “Nhân Tham Giao Chỉ Tượng Khước Thất Quảng Nguyên Kim” Ý nói nhà Tống mê cống phẩm là ngà voi Giao Chỉ, đã trả lại vùng đất có mỏ kim loại thuộc Quảng Nguyên cho Đại Việt, chữ Kim trên chưa chắc đã là vàng vì người Trung Hoa chia kim loại làm 2: quí kim như vàng bạc V.v…, còn lại là ác kim. Thông tin quan trọng trong 2 câu thơ trên là cặp đối : Giao Chỉ và Quảng Nguyên – Quảng Nguyên không thể nào là mảnh đất nhỏ như sử Việt Nam mô tả, mà chính là 1 phần đất Lưỡng Quảng hiện nay như thế mới tương xứng hoàn chỉnh vế đối . Nùng Trí Cao sau khi thất quốc chạy đến nước Đại Lý bị người Đại Lý giết và trả đầu cho quân Tống . Người ta đã tìm được 1 quả chuông ở văn chỉ thôn Nhật Tảo, xã Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, Hà Nội. . Bài minh văn ( đã trích ở phần trên )gây không ít Thắc mắc ... Đại Việt sử ký toàn thư chép : “Kỷ Hợi ( 939 )năm thứ nhất ( Tấn , Thiên Phúc năm thứ 4.). Mùa xuân vua ( Ngô Quyền) mới xưng vương , lập Dương thị làm hoàng hậu , đặt trăm quan , chế định triều nghi, phẩm phục “ Đã có hoàng hậu thì Ngô quyền phải là hoàng đế chứ sao chỉ xưng vương ? Đã đặt trăm quan chế định triều nghi , phẩm phục ̣...mà lại không có niên hiệu ...thì ‘chiếu , chế , văn thư ‘ của vua và triều đình ghi mốc thời gian ra sao ? với 1 vương quốc ‘Niên hiệu’ khẳng định sự tồn tại của triều đại trong lịch sử vì vậy kể từ những năm đầu công nguyên không thể có vương triều với đủ triều nghi mà lại không có niên hiệu . Đại Việt sử ký toàn thư thì ghi niên đại triều Ngô theo niên hiệu của vua Tàu bắc triều (Tấn , Thiên Phúc năm thứ 4) còn dân thì phải ‘mượn ’ niên hiệu của vua ‘nước địch’ (Nam hán – 10 năm trước bị Ngô Quyền đánh cho tan tác trên sông Bạch đằng ) để xài đỡ ...thật là kỳ cục ngộ nghĩnh . Những điều này phản ánh sự vô cùng lúng túng của sử gia khi xử lý những thông tin của thời kỳ lịch sử này ...thực ra : Không có triều Ngô của Ngô quyền ở năm Kỷ hợi 939 chỉ có Ngô vương Quyền hay Ngô tôn Quyền vua nước Ngô hay đông Ngô ở thời sử Trung quốc gọi là Tam quốc , sử thuyết họ HÙNG gọi là thời giặc ‘GIẢ’ (Ngụy-Tào Tháo). Không hề có nước NAM HÁN trong lịch sử , chỉ có nước ĐẠI VIỆT sau đổi là Đại Hưng do anh em LÝ (lưu) ẨN và LÝ (lưu) CUNG hay YỂM lập ở Quảng Đông- Quảng Tây và đất Việt ngày nay, Cha con Nùng tồn Phúc - Nùng trí cao nổi loạn chiếm 1 phần đất lưỡng Quảng của Đại Việt dựng lên nước Đại Lịch rồi ...Thiên nam...Đại nam... đã bị sáp nhập vào nước Tàu , dân ở đấy bị Hán hoá và cũng như những người Bách việt khác ở Hoa nam đã quên mất cội nguồn . Bài minh văn trên qủa chuông cổ này cho thấy còn nhiều điều trong lịch sử Việt phải xem lại ; chỉ có các sử gia đôi khi mắt kèm nhèm có thể sai chứ nhân dân không bao giờ sai lầm .Phải đặc biệt lưu ý đến yếu tố thời gian , thời điểm lịch sử ... thí dụ như diễn biến cuộc biến loạn Nùng trí Cao ....năm 1052 xưng Là Nhân Huệ hoàng đế tổ chức triều chính đặt quốc hiệu là Đại nam sau thất bại trong nỗ lực ngoại giao ..., tiến công chiếm Quảng đông- Quảng tây Trung quốc , bình định vùng chiếm đóng và chuẩn bị nhân tài vật lực và tiến công Ba Thục ....chống trả đánh bại các cuộc phản công của quân binh nhà Tống....sau cùng thất trận trước danh tướng Địch Thanh phải trốn chạy vào tháng 10 năm 1053...tức là tất cả những việc long trời lở đất như thế chỉ xảy ra chóng vanh trong thời gian chỉ có 1 năm ...? không cần đầu óc thông thái gì ta cũng biết trong thực tế diễn biến sự việc không thể nào xảy ra như thế được trừ khi Nùng trí Cao là thánh là thần . Các vua triều Lý của Đại Việt vẫn coi vùng Lưỡng Quảng là đất phía Nam (xưa) của nước mình và đã nỗ lực tái chiếm gây nên cuộc chiến Việt – Tống kéo dài mấy mươi năm. Lần phản công lớn nhất do Lý Thường Kiệt chỉ huy đã chiếm lại được 3 châu: châu Ung (Nam Ninh), châu Khâm và châu Liêm thuộc Quảng Đông năm 1075. Cuộc chiến kéo dài tới năm 1078, hai bên nghị hòa Đại Việt đành chịu mất Quảng Nguyên về tay Tống quốc – Từ đấy biên giới ổn định không còn cuộc chiến Việt – Tống nào nữa về sau, triều Tống công hận người cầm đầu Đại Việt là ‘An Nam Quốc Vương’, có nghĩa là công nhận Đại Việt là 1 nước độc lập với Tống Quốc. Lịch sử Việt nam từ năm 923 đến 1225 là thời kỳ còn rất nhiều điều chưa sáng tỏ , với lịch sử Trung quốc thì chỉ có 1 triều Lý ( nước Đường tức Việt thường )của Lý Uyên còn sử Việt nam ngoài triều Lý 1 có thêm triều Lý 2 của Lý công Uẩn , diễn biến và các sự kiện lịch sử của 2 triều Lý đã bị chép lồng vào nhau khiến rắm rối vô cùng , Chắc phải còn rất lâu và tốn nhiều công sức lắm mới có thể có 1 lịch sử Lý triều đầy đủ và rõ ràng trong sử Việt . Từ mốc năm 1225 đến ngày nay lịch sử Việt đã sáng tỏ nên nằm ngoài ‘Sử thuyết’ mọi việc được bàn giao cho ‘chính sử’. Sau thời thịnh trị Đại Đường là chuỗi ngày đen tối bi thảm của dòng giống Hùng , Đaị lý và Đại Tống bị Mông cổ diệt quốc nên Đại Việt là mảnh đất duy nhất của dòng giống không bị đồng hoá bởi 2 dòng văn hóa Hán-Ấn , trên phần đất ấy mạch sống của dòng Hùng vẫn liên tục từ thuở Hùng Vũ vương dựng nước đến hôm nay, tinh lực 5000-6000 năm của họ Hùng tích tụ ở nơi này nên ở đấy đất không còn là đất....mà hóa thành cõi linh thiêng ... .
  24. 10 . Hùng triều thứ 10 : Hùng Huy Vua khai sáng – Long Tiên Lang Danh hiệu khác trong sử Việt :Kinh dương vương 2 Danh hiệu khác trong sử Hoa : Thành thang , Vũ vương triều Thương Quốc hiệu : Việt thường 2 Niên đại : Cách nay 3.700 năm Chứng tích bằng vật thể lưu tồn là hiện vật của nền văn hoá Đồng đậu. Bộ tộc của thủ lãnh Thương Thang là con cháu của ông Khiết, có sách viết là ‘Đế Tiết’ tụ cư ở Bắc Tây Giang, nam Trường Giang (phương ngày nay), vì Quảng đông là đất Đào của nhà Hạ, ý nghĩa tên ông Khiết hay thuần khiết chỉ số 1 – tức phương Nam, theo “Kinh Dịch Huyền diệu và Ứng nghiệm” thì Đế Tiết cũng là Tiên Đế cũng là chúa vùng số 1; Đế Tiết, Tiên Đế là bà Vũ Tiên của truyền thuyết Việt … tất cả đều là mã tin của Dịch Lý chỉ phương Nam , sắc dân làm nòng cốt của triều đại là tộc Tam miêu hay Mun , tên ngày nay là người Hmông. Vua khai sáng nhà Thương là Thành Thang, vua họ Từ tên là Lý; thực ra Lý là biến âm củ Lửa chỉ mặt trời và vua chúa như ta đã biết, còn Từ là dịch chữ Thương (yêu) của Việt ngữ, “Từ Lý” nghĩa là vua Thương mà thôi. Thành Thang khôn ngoan đợi chờ cho đến khi các bộ tộc Cửu Di (tức Di Lão) ở phía Tây đất Đào không còn thần phục Hạ Kiệt liền cất quân diệt bạo chúa . Thành Thang hay Thương Thang lên ngôi, xưng là Vũ Vương, tức hoàng đế khai sáng triều Thương. Triều đại Thương sử Việt Nam gọi là Việt Thường Thị là triều đại kế tiếp Hồng Bang Thị tức Thao Quốc hay Đào Quốc. Đất của triều Thương gọi là đất Việt Thường hay đất Đường là đất gốc tổ của Lý uyên đời Đường cũng là đất Nam đường thời Hoa nam thập quốc . Từ vua khai sáng Thành Thang đến Dương Giáp tổng cộng 18 đời đặc biệt các vương triều Thương đều mang danh hiệu theo Thập Can: 1. Thành Thang; 2. Ngoại Bính; 3. Trọng Nhân; 4. Thái Giáp; 5. Ốc Đinh; 6. Thái Khang; 7. Tiểu Giáp; 8. Ung Kỷ; 9. Thái Mậu; 10. Trọng Đinh; 11. Ngoại Nhâm; 12. Hà Đản Giáp; 13. Tổ Ất; 14. Tổ Tân; 15. Ốc Giáp; 16. Tổ Đinh; 17. Nam Khang; 18. Dương Giáp. Từ đế hiệu của các vua nhà Thương dùng phép so sánh ta thấy không có Can Quí là số 9, mà thay vào là Khang như Thái Khang, Thiếu Khang V.v… Thực ra Khang là từ Việt, khăng khăng là không thay đổi, nó cũng là sự biến âm trong cụm từ mã tin Dịch Lý chỉ sự không thay đổi: Căng, Cang, Cương, Cứng, Khăng, Khang, Khương. Thời Hùng Hoa Vương – Hải lang cũng là Lạc Long Quân nghĩa là thủ lãnh đất Lạc và đất Long, triều Hùng Huy - Long Tiên Lang thì Long và Tiên chỉ 2 dòng tộc con cháu Long Nữ tộc Thần long và Vũ Tiên tổ của tộc Mun hay Miêu , Cổ sử Trung Hoa gọi vùng Hồ Nam là Ngũ Lãnh vì trung tâm đất nước thời Thương là vùng Hồ Nam, ngũ lãnh trong dịch học chỉ có nghĩa là trung tâm . Với Hồ Nam là trung tâm ta có 4 hướng: Quảng Đông là Nhiệt hay Bức, Bắc phương; Giang Tây là phương Đông mặt trời mọc, Dương → Giang; Quí Châu là đất Thục, là nơi mặt trời ‘thụt’ xuống hay khuất bóng tức phương Tây; sau cùng đất Hồ Bắc là Kinh Man, hay Kinh Mun tức phương Nam man. Cổ sử Trung Hoa dịch chữ Thương của Việt ngữ sang Hoa ngữ là ‘Từ’ mà Từ cận âm với Tử, Tây, Tà … đưa đến sự lẫn lộn phương Đông và phương Tây đôi khi cười ra nước mắt như danh hiệu Tây Sở Bá Vương chẳng hạn, rõ ràng đất của Hạng Vũ ở phía Đông Trung Hoa mà danh hiệu lại là Tây vương…; Nếu không dùng các mã tin Dịch Lý làm chuẩn ta sẽ rối bời trong các ma trận từ ngữ Từ gốc tiếng Việt ký âm trộn lẫn với từ dịch ý đưa đến dòng sử không lối ra của Trung Hoa hiện nay, nếu không lần mò gỡ rối những dích dắc từ với ngữ … thì không thể nào nhìn ra Trường Giang là Đằng Giang Thường Giang rồi Đường Giang, vùng đất có tên là đất Việt thường nên con sông chảy qua nó gọi là Thường giang nghĩa là con sông ở phía nam .Sử Việt Nam chép Đằng Giang là nơi Ngô Quyền đánh quân Nam Hán tức Hãn quốc ở phía nam ngũ lãnh (Hồ nam) . Đằng giang là nơi mà Hoàng Tháo suýt mất mạng; khi khẳng định được sông Dương Tử là Đằng Giang hay Bạch Đằng Giang thì lịch sử sẽ đổi chiều . Ta có những thông tin rõ ràng :Ngô Quyền cũng là Tôn Quyền , Nam Hán là chỉ đích danh Hãn Quốc ở phía Nam (xưa) Trung nguyên , Hoàng Tháo không ai khác là ông hoàng tên Tháo tức Tào Vương tổ nước Ngụy sau này. Nhìn lịch sử trong động trạng ta thấy nhiều điều: lãnh thổ quốc gia luôn trương nở do đó trung tâm và 4 phương, 8 hướng cũng thay đổi theo đưa đến tình trạng ‘Chữ cũ” nhưng mang nghĩa mới nếu không sáng suốt sẽ nhìn không ra. như trường hợp điển hình: - Chữ ‘giao chỉ ’ nghĩa là ‘giữa’ vì thời mới lập quốc lãnh thổ nhỏ hẹp, gói gọn trên đất Việt , khi bờ cõi mở mang ta có Giao chỉ + Nam Giao (chỉ) ; tiếp tục trương nở thì Giao Chỉ + Nam giao + Quảng Đông thành ra Giao chỉ bộ sau đổi thành Giao Châu; Giao Châu chính là đất Đào, nước Thao của nhà Hạ, sử Việt Nam cũng gọi là Hồng Bang Thị, để phân biệt ta gọi là Hồng bang 2 nếu không tách bạch 2 Hồng bang thì không tài nào thấu đáo được .: Nam giao là đất phía nam Giao chỉ nay là Lĩnh nam , Giang nam là đất phía nam Giao châu hay Giao chỉ bộ xưa gọi là Việt Thường 2, giang nam hiểu theo tiếng Việt là vùng ‘sông phiá nam’ ở đây ý muốn nói đến Đường giang. Nhà Thương sử Việt là triều Hùng Huy vua khai sáng là Long- Tiên Lang; Long: phương Đông, Tiên = phương Nam; sách sử chép thành từ kép: Thành Thang biến âm ra ‘Thường Thương’ có nghĩa theo Dịch Lý là hướng Đông nam ;Thường là phương nam, thương là phương đông. . Sông Thương tên ngày nay là Dương Tử là nơi có loại rùa lớn sinh sống, người nhà Thương đã lấy mai rùa để khắc chữ, cả Dịch Lý cũng được khắc trên mai rùa, nên Dịch nhà Thương được gọi là Qui Tàng Dịch nghĩa rất rõ ràng là Dịch Lý khắc trên mai rùa. Do có 2 Việt Thường nên cũng có tới 2 Kinh Dương Vương . Việt Thường Thị 1 → Kinh Dương Vương 1 là tổ của người Kanh-Lạc . Việt Thường thị 2 → Kinh Dương Vương 2 chỉ nhà Thương hay Đường, theo Hùng phả là Hùng Huy – Long Tiên Lang là cha của Sùng Lãm, “Lĩnh Nam Trích Quái” đã lầm lẫn ghép 2 vị thành 1 vị khiến sử Việt sai lạc, lẫn lộn cả ngàn năm. Theo truyền thuyết Việt thì Sùng Lãm nối ngôi Kinh dương vương nhưng những tư liệu lịch sử truyền tụng trong dân gian thì có tới 5 đời chúa họ Sùng được gọi là ‘Ngũ vị tôn ông’ và 4 quốc mẫu được thờ gọi là ‘Tứ vị triều bà’, Ngũ vị là: Sùng Nghiêm , Sùng Quyền,Sùng Tôn, Sùng Hòa sau cùng là Sùng Lãm còn gọi là Cầm . Đã có Sùng chúa tất phải có nước Sùng . Cổ sử Trung hoa chép : Cơ xương chiếm nước Sùng là chư hầu lớn nhất của nhà Thương ở phương tây...và dựng đô đấy gọi là Phong kinh đất ấy gọi là đất Phong ,như vậy Kinh dương vương ở đây là Kinh dương vương 2 tức vua Thành Thang nhà Thương. Lịch sử cả Việt và Hoa đều nói đến nước Sùng ; thực ra Sùng là từ dịch chữ Cao của Việt ngữ chính vì điều này mà người Việt còn có tên là người Keo hay Kẹo . Kinh thư viết khi ông Cơ xương chiếm nước Lê cả triều đình nhà Thương rung rinh trong khi Trụ vương vẫn đắm chìm trong tửu sắc, các công thần đều biết là khí số nhà Thương sắp tận nhưng chỉ biết than vãn thở dài mà thôi. Liên kết tình tiết 2 sự kiện có thể đoán nước Lê và nước Sùng là một; từ Lê hay lửa chỉ nước ta ở phương bắc-bức tức hướng xích đạo so với đất nhà Thương thuộc phương nam xưa , còn chữ Cao có gốc ở can Tân là số 7 chỉ hướng xích đạo trong Hà thư , Tân –Tôn cũng nghĩa là Cao , trên cao và Hoa sử dịch là Sùng . Nhà Thương lãnh thổ chính ở vùng Châu Kinh (Hồ Nam) và Châu Dương (Giang Tây) đúng theo lịch sử –̣địa lý Trung Hoa nên có vua là Kinh dương vương. Truyền thuyết về Dịch Lý của Trung Hoa nói Lạc Thư là đồ hình trên lưng Thần Kim Qui cũng cùng chung 1 ý nói về Qui Tàng Dịch của nhà Thương. Chính Qui tàng Dịch và nơi sinh sống của loài rùa lớn đã tạo ra Giáp Cốt Văn xác định : triều đại Thương khởi nghiệp ở Trường Giang hay Dương Tử chứ không thể ở bờ Hoàng Hà như sách sử Trung Hoa viết. Vì loài rùa có mai lớn dùng vào việc khắc chữ và bói toán chỉ có ở Trường giang như đã nói ở trên. Ngoài chuyện mai rùa triều Thương còn có nhiều điều phải suy nghĩ: - Ở bắc Trung Hoa địa bàn gốc cho tới thời Thương không hề có ‘thiếc’ nguyên liệu chính để có nền văn minh đồng thau, vậy làm sao từ đời Hạ theo sử sách Trung Hoa đã bước vào thời đồ đồng tiêu biểu bằng việc vua Vũ đúc 9 cái đỉnh tượng trưng cho Cửu Châu Trung Hoa , ở Trung hoa và Việt nam hầu như không có thời đồ đồng nguyên chất hoặc nểu có thì cũng rất ngắn rồi bước ngay sang thời hợp kim đồng thiếc hay đồng thau, ở Biệt Đô Triều Ca người ta còn tìm được mấy cái gương bằng đồng thau, có khắc hình mặt người hoàn toàn không có nét nào của chủng mongoloit, tức chủng người Trung Hoa theo sử sách. - Cũng theo sử thì đời Thương, Trung Hoa đã có tượng binh, nhưng ở Hoàng Hà làm gì có voi , voi Châu Á chỉ sống ở miền nhiệt đới và xích đới. Tóm lại còn nhiều điều “nghĩ không ra’ hay “không hiểu nỗi”. Đặc biệt về nhà Ân Thương ta đặc biệt lưu ý: - Thủ đô nhà Ân Thương ở tỉnh Hà Nam , Biệt Đô Triều Ca cũng chỉ ở ngay bờ Bắc Hoàng Hà, khi bị Chu Vũ Vương diệt thì trung tâm của Trung Hoa chuyển về phía Tây Nam. Như vậy lãnh thổ Trung Hoa tới hết đời Chu chưa vượt Hoàng hà chỉ trừ một mảnh đất nhỏ gọi là Hà nội, Nghiên cứu kỹ ta thấy :xương sống của Trung Hoa cổ đại gắn chặt vời chữ Hà – Hồ – Hải. - Khởi nguyên của dòng giống từ đất Hời (Champa) ngày nay với Thần Nông Thái Viêm tiến dần về sông Cả, rồi sông Mã, rồi Hồng Hà – Hạ Long , Đời Hạ thành hình ở vùng Nam Hải, Hải Nam, nhà Thương sang Hồ Nam, nhà Thương Ân ở An Huy rồi Hà Nam, tới đây nhà Chu thay nhà Ân Thương, hướng bắc tiến của dân Trung Hoa ngưng lại ( phương hướng hiện nay) trung tâm chuyển sang Tây Nam ; như thế bờ Hoàng Hà là ranh giới phía bắc của người Hoa , trên nữa là đất của Man hay Mông, chữ Hà trong Hà bắc không dính dáng tới quốc thống Trung Hoa cả, xét như trên chính dân Trung Hoa mới là người Hồ còn Mongoloit là người Man, vậy mà không biết từ bao giờ … bỗng lộn ngược …; người Man═ Mun = đen xưa gọi là Huyền thiên trở thành rợ Ngũ Hồ? còn người Hồ-Hải hay Hoa chính gốc lại biến thành Bách Man (tên khác của Bách Việt). - Triều Hùng Huy –Long tiên lang nổi bật về thành tựu văn hóa . - Thập can và Thập nhị địa chi lần đầu tiên xuất hiện ở đời nhà Thương. - Chữ khắc trên mai rùa bắt đầu có từ thời này. - Quy tàng dịch là dịch học của nhà Thương. - Đặc biệt những điển tích liên quan tới chữ viết đều gắn với từ Thương hay Thường : - Truyền thuyết cho rằng Thương Hiệt là sử quan của Hoàng đế đã chế ra chữ viết. - Vào thời vua Nghiêu xứ Việt Thường đã tiến cống Linh quy trên mai có khắc văn Khoa đẩu chép việc từ thời mở nước của Trung hoa. - Vào thời Chu cũng Việt thường tiến cống chim Trĩ cho vua Chu...với ý nghĩa Trĩ là loài chim tượng trưng cho văn minh... thực ra Trĩ được coi như thế vì Trĩ là đồng âm của ‘Chữ’ tiếng Việt , mà một khi đã có chữ tức là văn minh rồi. - Ở trên có nói đến văn ‘Khoa đẩu’ ;Khoa đẩu cũ là từ gốc Việt chuyển thể sang Hoa ngữ : - Khoa là ký âm hán tự của chữ ‘khoác ‘ trong Việt ngữ; khoác lác, nói khuyếc nói khoác là nói qúa sự thực đồng nghĩa với chữ dùng hiện nay là thổi phồng hay phóng đại tô màu...., ngôn ngữ bình dân dễ hiểu là làm cho to ra , bự ra. - Đẩu chỉ là ký âm tam sao thất bản của từ ‘Đầu’ tiếng Việt ; khoa đẩu nghĩa là làm cho cái đầu to ra , ngắn gọn thì chữ ‘khoa’ đồng nghĩa với chữ ‘to’; văn khoa đẩu là văn dùng lọai chữ ‘đầu to’. - Lịch sử chữ viết cho biết : Trung hoa về cơ bản chỉ có 2 loại chữ viết ; - Từ đời Chu trở về trước dùng loại chữ gọi là ‘Đại triện’ . - Từ đời Tần về sau dùng chữ ‘tiểu triện’ , chữ tiểu triện chính là tiền thân của chứ Hán ngày nay. - Mới nghe tên 2 loại chữ tưởng là xa lạ...nhìn kỹ lại thì ra tiểu triện chính là chữ Nho gọi theo người Việt...; nho là biến âm của nhỏ , chúng cũng kết thành từ Điệp ...Nho- nhỏ, chữ Nho là chữ nhỏ người Tàu chuyển ngữ thành chữ Tiểu triện ., và còn đại triện chính là loại chữ To đầu hay Khoa đẩu mà thôi , khi noí ‘khoa đẩu’ ta không hình dung ra điều gì nhưng khi biết khoa đẩu là con nòng nọc thì ta thấy ngay cái đầu to tướng của nó so với cái đuôi ngo ngoe tí xíu...chính điều này giúp xác định gốc chữ khoa đẩu là Việt ngữ. Thời nhà Thương đất trung tâm hay Ngũ lãnh ở tại Hồ nam ngày nay , phía nam là Hồ bắc lúc ấy gọi là Kinh man hay Canh – mun theo dịch học : ‘canh’ đồng nghĩa với nước ‘mun’ là màu đen cả 2 đều là dịch tượng chỉ phương nam . Với vùng đất phương nam này người nhà Thương bắt đầu tiếp súc trao đổi với cộng đồng dân cư lưu vực Hoàng hà , sự tiếp súc này đã đem lại sự thay đổi to lớn trong văn hóa và sinh hoạt của người họ Hùng : - tiếp thu từ “người Hoàng hà” một số hình vẽ coi như dạng thức tiên khởi của chữ viết . - Biết tới con ngựa.... ban đầu với người họ HÙNG là loài xa lạ nên đặt tên là con ‘ngộ’ tức con vật kỳ cục không giống bất cứ con vật đã biết nào , về sau ‘ngộ’ biến thành ‘ngựa’ như ngày nay . Trên cơ sở số hình vẽ ‘tiền chữ viết’ mới tiếp thu , người nhà Thương đã sáng tạo ra hệ thống chữ tượng hình ‘ Giáp cốt văn’ tiền thân của ‘khoa đẩu văn’ thời nhà Chu , truyện tích Việt thường cống chim trĩ cho nhà Chu xác nhận điều này ; Việt thường chính là nhà Thương , ‘trĩ’ chỉ là biến âm của “chữ” mà thôi . Khoa đẩu văn là chữ viết chính thức của người họ Hùng trước khi bị nhà Tần làm đứt ... “đuôi con nòng nọc” khi thực hiện ‘thư đồng văn’....( khoa đẩu = nòng nọc ) Tới đây ta thấy đã có lối ra cho câu hỏi tại sao một nước gọi là ‘văn hiến thiên niên quốc’ mà tới nay chưa tìm được chữ viết thời cổ....; không có chữ viết thì không thể nào gọi là văn minh được vì bản thân chính từ văn đã cấu tạo nên từ kép ‘văn minh’ .
  25. b. THỜI PHỤC HƯNG 1 . Triều :Đinh Hoàn hay Đinh Hoàng Hoa sử gọi là : BắcChu vua Vũ văn Giác Niên đại : 557 – 581 Vũ Văn Thái nắm toàn quyền đất Tây Ngụy là sự khởi đầu để con là Vũ Văn Giác tuyên bố sự phục hưng của dân Trung Hoa, với quốc hiệu Chu. Sử Trung Hoa gọi là Bắc Chu, Chu biến âm từ từ Chiêu như trước đã nói. Phân tích ý nghĩa danh hiệu 2 ông có thể khẳng định: Vũ Văn Thái là vua tổ, Thái là tổ. Vũ Văn Giác chỉ vua khai quốc ; vua Văn thứ nhất, Giác là biến âm của Giáp, Can thứ nhất trong Thập Can . Sử Việt Nam đặt tên triều phục hưng này là Đinh Hoàng chính xác là Đinh Hoàn nghĩa là vua họ Đinh, quốc danh thời phục hưng huy hoàng này được Đinh Hoàng đặt tên là Đại Cồ Việt, ‘Cồ’ là âm Nôm cũng có nghĩa là to lớn . Chỉ nghe tên Vũ văn Thái- Vũ văn Giác ta đã cảm thấy ngay thanh điệu Việt chẳng cần phải phân tích từ ngữ chi cả. Theo Việt nam sử lược của Trần trọng Kim thì thời vua Đinh nước ta có 10 đạo quân , nếu căn cứ vào ‘phép’ tổ chức quân đội nhà Đinh thì 1 đạo có 10 quân , 1 quân có 10 lữ , 1 lữ có 10 tốt , 1 tốt có 10 ngũ và 1 ngũ có 10 người ...cứ vậy nhân lên thì nhà Đinh có đạo quân khổng lồ là 1 triệu người ,thử hỏi nếu nhà Đinh là nước mà lãnh thổ chỉ là đồng bằng Thanh Nghệ Tĩnh và bắc bộ thì lấy đâu ra người mà xung quân lắm thế ? lấy lương thực đâu mà nuôi ? Theo sử Trung Hoa thì nước Bắc Chu truyền được 5 đời vua, đánh diệt Bắc Tề hậu thân của Đông Ngụy, thống nhất miền Hoa Bắc. Năm đời đế của Đại Cồ Việt hay 5 Đinh Hoàng: Hiếu Mẫn Đế: Vũ Văn Giác – Vua Văn Giác Minh Đế: Vũ Dụ – Vua Dụ Vũ Đế: Vũ Dung – Vua Dung Tuyên Đế: Vũ Huân – Vua Huân Tĩnh Đế: Vũ Xiễn – Vua Xiễn Vua cuối cùng là Chu Tĩnh Đế, đối chiếu với sử Việt là Vệ Vương lên ngôi lúc 6 tuổi, quyền hành nằm trong tay Dương Kiên, cha của Thái hậu Dương Vân Nga. Ở đoạn này các sử gia Việt Nam đã sai lầm lớn : lấy sự kiện vua khai quốc nhà Tống là Triệu Khuông Dẫn thay thế nhà Hậu Chu chép thành chuyện Lê Hoàn thay ngôi Đinh Hoàn (sử Trung Hoa gọi là nhà Bắc Chu …) 2 sự kiện diễn ra y hệt nhau khiến ta khẳng định đã sự chép lẫn. Tên triều đại CHU và vua VĂN cho thấy rõ ràng có sự liên hệ với nhà CHU và Văn vương hay VĂN LANG . 2. Triều Lê Hoàng hay Lê đại Hành Hoa sử là : Nhà Tùy vua Dương Kiên Niên đại : 581 – 618 Dương Kiên phế ngôi của cháu ngoại và giáng xuống tước Vương, sử Việt Nam gọi Vệ Vương – Đinh Phế đế. Dương Kiên lên ngôi lập ra triều đại Tùy chữ Tùy này là đồng âm của chữ Sở , đất Hồ bắc xưa là nước Sở , người ở đấy gọi là TỦY-VIỆT hay VIỆT TỦY gọi là ‘nhà TÙY’ chỉ là sự bóp méo của sử Trung quốc ; chính xác phải gọi là triều VIỆT TỦY một triều đại của người họ HÙNG . Vì có sự đoạt ngôi không theo khuôn phép truyền thống nên niên hiệu nhà Tùy không hề có chữ ‘Vũ’ nghĩa là vua, nói khác đi là lịch sử không công nhận là 1 triều đại chính thống như các triều đại Trung Hoa khác. sử Việt Nam gọi triều đại này là triều Lê Hoàn tức Lê Hoàng nghĩa là vua họ Lê. Lãnh thổ của vua Lê (Lê Hoàng) lúc lên ngôi đã là cả miền Hoa Bắc, vì đấy là đất cũ của người Man họ Thác bạt nên Lê Hoàng-Dương Kiên rất khôn khéo trong chính sách đối nội, vẫn tôn trọng quý tộc Tiên Ty cho họ hưởng các đặc quyền đặc lợi của tầng lớp trên nên không có cớ để họ nổi loạn. Lê Hoàng hay Vua Lê còn có tên là Lê Đại Hành. Hoa sử gọi Dương Kiên - Tùy Văn Đế đã tiến quân diệt Trần quốc của Trần hậu chủ thống nhất toàn cõi Trung Hoa năm 589, sử Trung Hoa chép: vì dân miền Hoa Nam vẫn coi Dương Kiên là người Nam, ý nói là người Trung Hoa chính gốc nên mau chóng khuất phục mở ra cảnh nước non thống nhất thái bình và thịnh trị. Lê Hoàn – Dương Kiên có tác phong của 1 người lính, rất kiên quyết, cứng rắn, rất kham khổ trong cuộc sống. Ông nhanh chóng tiêu diệt tất cả các thế lực cát cứ manh mún, diệt trừ tham quan ô lại, chia lại ruộng đất cho nông dân, nói chung các mặt kinh tế, giao thông, văn hóa đều có bươc phát triển. Ông cũng rất cẩn trọng cho việc kế tục ngôi vua, giáo dục người kế vị hết sức nghiêm khắc, nhưng trời không chiều lòng người, Dương Kiên đã tin lầm kẻ gian manh và mắc lõi lớn khi truyền ngôi cho Dương Quảng, sử Việt Nam gọi là Lê Long Đĩnh. Lê Long Đĩnh lên ngôi vua, sử Trung Hoa gọi là Tùy Dạng Đế, một kẻ say mê với những gì to lớn, ông ta cho xây Đông Đô cực kỳ tráng lệ, huy động sức lực cả nước để thỏa sự đam mê của mình bất chấp sự tàn tạ của dân chúng, công bình mà xét thì một trong những công trình được làm dưới đời ông đến nay dân chúng vẫn còn được hưởng lợi, đó là các vận hà mà Tùy Dạng Đế cho đào để nối liền các con sông lớn như Hoàng Hà, Hoài Thủy, Trường Giang, V.v… sử VN chép thành : Lê Hoàn cho đào kênh 'sắt' và kênh 'xước' ở bắc trung việt. Sự chịu đựng của con người có giới hạn, đến một mức nào đó người dân không còn cách nào khác là vùng lên để tự cứu lấy mình. Dạng Đế chạy về thành Kiến Nghiệp, ở đó ông ta bị chính binh lính mình giết chết. Sử Việt Nam mô tả rất rõ sự tàn ác của Lê Ngọa Triều … như róc mía trên đầu nhà sư, đốt chết tù nhân, thả người trôi sông … nói tóm lại tàn ác không thua Kiệt, Trụ thời xưa. 3. Triều Lý 1 - Lý công Uẩn . Hoa sử gọi là : Nhà Đường vua Lý Uyên Niên đại : [618-684][705-907] Lý Uyên là quý tộc triều Tùy, tước Đường Quốc Công, năm 617 Tùy Dạng Đế phái ông trấn thủ Thái Nguyên chống chọi với rợ Đột Quyết, là rợ ở Tây Bắc ngày nay Trung Hoa. Lý Uyên có 4 con trai trong đó Lý Thế Dân là hùng lược hơn cả. Sử Việt Nam gọi Lý Uyên là Lý Công Uẩn; nhưng sử Việt Nam lại chép 2 đời Lý thành một, khiến người sau không nhận ra, ở đây ta tạm gọi là Lý Công Uẩn 1 tức nhà Đường của sử Trung Hoa. Lý Công Uẩn 2 là triều do anh em Lưu Cung, Lưu Ẩn lập ra ở Giao Châu xưa, xưng là Đại Việt. Tùy Dạng Đế khi đã đi đến mức cùng cực của xa hoa đồi bại thì Lý Thế Dân nhìn rõ cục diện với cha khởi binh xây dựng đế nghiệp. Đầu tiên Lý Uyên mang quà cáp biếu xén Khả Hãn Đột Quyết, yên được mặt Bắc (HN) cha con nhà Lý đem “Đường quân” tấn công Trường An, quân nhà Tùy là lũ quân tướng hũ bại làm sao có thể chống chọi được, Lý Uyên vào Trường An tuyên bố 12 Điều Ước Pháp khiến an lòng dân, ông khôn khéo chưa lên ngôi vội mà đưa cháu nội Tùy Dạng Đế – Lê Long Đĩnh tên là Dương Hựu lên làm vua bù nhìn. Năm 618 Tùy Dạng Đế bị giết ở Giang Đô, Lý Uyên mới chính thức phế Dương Hựu để lên ngôi hoàng đế lấy quốc hiệu là Đường, Lý Uyên trở thành Đường Cao Tổ. Đất Đường, sử Việt Nam gọi là Việt Thường nằm ven sông đằng hay Thương Giang thời cổ xưa, sông Đường hay Thương Giang, Thường Giang là Dương Tử Giang ngày nay. Sử Trung Hoa gọi triều đại theo tên đất gốc, nên có tên nhà Đường; sử Việt Nam gọi theo họ của vua nên triều đại này là triều Lý, đặc biệt trong thiên khảo luận này thì đây là triều Lý thứ 1 vì còn triều Lý 2 . Cuộc khởi nghĩa của cha con Lý Uyên được nhân dân ủng hộ mạnh mẽ nên nhà Tùy sớm tiêu vong. Năm 627 Lý Thế Dân kế nghiệp cha lấy đế hiệu là Đường Thái Tông. Sử Việt Nam gọi Lý Thế Dân là Thái tử Phật Mã, đế hiệu cũng là Lý Thái Tông. Cả 2 dòng sử đều ghi chép về biến cố khi Thái Tông lên ngôi, tuy có tình tiết hơi khác nhưng chắc chắn là 2 sử liệu của cùng 1 sự việc. Để được kế nghiệp ngôi báu thì Lý Thế Dân – Thái tử Phật Mã đều trải qua cuộc tàn sát anh em của mình, sử Trung Hoa chép vị trung thần giúp Thế Dân chiến thắng là Uất Trì Kính Đức; còn sử Việt Nam gọi là Lê Phụng Hiểu. Lê Phụng Hiểu sau được Thái Tông ban thưởng bằng cách trèo lên núi ném con dao, con dao đi đến đâu thì chỗ ấy là đất riêng ban cho ông, sự việc này được truyền thuyết Việt Nam gọi là “Thác Đao Điền”. 2 dòng sử Việt – Hoa còn chép trùng nhau về một số sự kiện nữa: Sử Trung Hoa có chuyện Đường tam Tạng tây du thỉnh kinh Phật , sau này hư cấu thành chuyện Tây Du Ký nổi danh. Còn sử Việt Nam chép: … vua sai Nguyễn Đạo Thành sang Trung Hoa (?) xin kinh Tam Tạng đưa về nước. Đặc biệt việc tôn sùng Nho học, việc học hành thi cử của triều Lý – Đường được 2 dòng sử viết giống hệt nhau. Về võ công thì Đường Thái Tông sai Lý Tịnh một danh tướng toàn đức toàn tài tấn công lên hướng Bắc đánh tan quân Khiết Đan chiếm cả vùng Trung Á rộng lớn ở Tây Bắc Trung Hoa, uy danh Trung Hoa là việc ngoại giao với Trung Á thuận lợi từ đấy. Còn sử Việt Nam cũng ghi: … danh tướng Lý Thường Kiệt xuất quân Bắc phạt chỉ chiếm Châu Ung, Châu Khâm, và Châu Liêm của Tống quốc rồi rút về. Thực ra cuộc tiến công của Lý Thường Kiệt là xãy ra ở triều Lý 2. Còn nhiều sự kiện khácdo sử Việt Nam lồng 2 triều Lý làm một nên lẫn lộn rất nhiều. Triều Đường có Võ Hậu nắm triều chính xưng là Tắc Thiên Hoàng Đế, cải quốc hiệu là Chu làm gián đoạn Đường triều từ năm 685 tới 704. Còn sử Việt Nam chỉ chép có một thái phi tài đức vẹn toàn nhưng chỉ nhiếp chính sau bức rèm đó là Ỷ Lan Thái Phi. Năm 705 đại tướng Trương Giản Chi ép Võ Tắc Thiên thoái vị, tái lập lại Đường quốc. Triều Đường hay triều Lý 1 là một trong những triều đại dài nhất, nổi tiếng nhất đã tạo nên khuôn đúc Trung Hoa, đến tận thời cận kim người Hoa đã di cư ra nước ngoài sinh sống vẫn nhận mình là “Thoòng dành” tức Đường nhân đủ biết dấu ấn của triều Đường sâu tới đâu trong lịch sử Trung Hoa. Trên đất ngày nay là Việt nam nhà Đường cho lập đến 2 đô hộ phủ : An nam đô hộ phủ để trông coi các châu KIMI ở miền lĩnh nam xưa. Phong châu đô hộ phủ có sách chép là đô đốc phủ trông coi các châu KIMI thuộc miền tây bắc Việt nam tức đất Phong hay Phong châu xưa . Châu KIMI là gì ?. đó là vùng đất của các sắc dân thiểu số : KI là chép sai chữ CƠ , Việt ngữ là CẢ là dòng họ của Hùng Vũ thời lập quốc, sử Trung hoa chép Hiên viên là tổ họ CƠ ; ngày nay gọi chung là người Kađai. MI là họ của người thuộc Long tộc xưa , tức hậu duệ của Động đình quân , con cháu Long nữ, Đồ Sơn thị ngày nay gọi là người Tai. Các châu KIMI được hưởng quyền tự trị rộng rãi . Nhà Đường ý thức rất rõ về dòng giống đã tôn Lão tử-Lý Nhĩ là tổ của dòng tộc , vì Cơ và Mi là 2 dòng chính truyền của gốc tổ Trung hoa nên nhà Đường đã đặt 2 đô hộ phủ ở đất Việt làm công việc bảo hộ cho 2 sắc dân Kađai và Tai này. Đô hộ phủ chỉ nghĩa là cơ quan lo việc bảo trợ cho... không phải nghĩa chữ đô hộ là đè đầu cưỡi cổ như chúng ta quen dùng ngày nay. Nếu nhà Đường là 1 triều đại của đế quốc Hãn cai trị An nam thì ông Khương công phụ cao lắm là... được làm nông dân cày ruộng mà ăn ; làm gì có chuyện làm tới tể tướng và được vua Tàu rất qúi trọng ...như sử sách đã ghi . Xin hỏi các sử gia : ở Thiểm tây-Sơn tây có châu KIMI không ? Nếu không thì xin trả lại sự trung thực cho lịch sử Vì thiên khảo luận này không phải là sử ký , chỉ nghiên cứu lịch sử để tìm cái mới ,điều đúng , ở đây chỉ nhấn mạnh những sự kiện đặc biệt nhằm chứng minh cho sử thuyết nguồn gốc và những nét cơ bản của qúa trình dựng nước và giữ nước . Văn nhân, thi sĩ, võ tướng đời Đường nhiều vô kể, thực là một triều đại huy hoàng của dân họ Hùng, Người Việt ngày nay là truyền nhân chính thống và duy nhất của nền văn hóa – văn minh đời Đường vì toàn cõi Trung Hoa trừ Việt Nam đều chìm sâu dưới móng ngựa quân xâm lược phương Bắc từ cuối đời Tống đến tận đầu thế kỷ 20, dù muốn hay không chắc chắn đã diễn ra qúa trình lai tạp . Hiện các nhà ngôn ngữ học Việt Nam đã bắt đầu xác định : âm Hán Việt chính là âm ngữ đời Đường , khi nghe tên nhà Đường hay nước Đường người Việt thấy rất xa lạ nhưng biết đâu rằng đó chỉ là ký âm bằng Hán văn của từ VIỆT-THƯỜNG , tên gọi một thời của nước họ HÙNG .