nhatnguyen52

Hội viên
  • Số nội dung

    150
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    2

Everything posted by nhatnguyen52

  1. Chuông biết nói ... trang web của ngành bảo tàng bộ Văn hóa thông tin có bài : Chuông cổ long đong mãi xóm nghèo Bài minh văn được khắc bằng chữ Hán trên thân chuông Thanh Mai. Đây là quả chuông được tìm thấy ở văn chỉ thôn Nhật Tảo, xã Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, Hà Nội. Quả chuông này khá độc đáo với dáng chuông thon thả, nhỏ nhắn (cao 31cm, đường kính miệng 18,7cm, cân nặng 5,4kg). Đỉnh chuông phẳng, miệng hơi loe vát. Giống chuông Thanh Mai, trên thân quả chuông này có nhiều đường chỉ đúc nổi và nám tròn nổi. Giữa thân chuông có năm đường chỉ ngang chia thân chuông làm hai phần. Dọc thân chuông, mỗi bên có năm đường chỉ khác chia tiếp thân chuông thành 8 ô (4 ô dưới để trơn, 4 ô trên khắc đầy chữ Hán). Giao điểm giữa các đường chỉ nổi có 4 núm tròn để làm nơi gõ chuông. Xung quanh núm tròn có trang trí 12 cánh hoa tròn nổi. Quai chuông tạo hình động vật uốn cong, tuy nhiên hai con vật này rất khó nhận dạng. Hai con quay đầu về hai phía, phần thân nối liền nhau thành một khối. Ðầu con vật to khỏe, hai mắt lớn hình thoi, hai sừng cong có các khía ngang, bờm đơn giản, thân mập có phủ vảy, chân thon cao. Về mặt bố cục, hình tượng này gần gũi với bố cục trang trí quai chuông Thanh Mai và trang trí trán bia thời Tùy ở Thanh Hóa. Minh văn trên chuông ghi rõ niên đại và nơi đúc là: Giao Chỉ huyện, Hạ Từ Liêm thôn, thời Càn Hòa lục niên Mậu Thân tuế, tứ nguyệt, nhị thập cửu nhật (thôn Hạ Từ Liêm, huyện Giao Chỉ, ngày 29/4 năm Mậu Thân, niên hiệu Càn Hòa thứ sáu). Tìm hiểu trong sử liệu các triều đại Việt Nam thì không có niên hiệu Càn Hòa mà niên hiệu Càn Hòa là thuộc về thời vua nước Nam Hán Lưu Thạnh, đóng đô ở Quảng Châu trong thời Ngũ đại thập quốc ở Trung Quốc. Càn Hòa thứ sáu là năm 948. Chính nước này, 10 năm trước đó (938) đã phái quân sang Việt Nam và bị đại bại trên sông Bạch Ðằng. Giải thích việc có niên hiệu Nam Hán ghi trên thân chuông của nước Việt Nam vào lúc Việt Nam đã độc lập, GS. Tống Trung Tín – Viện trưởng viện khảo cổ học cho rằng: “Lật lại các trang sử cũ của Việt Nam thì thấy tuy Ngô Quyền đã xưng vương, đóng đô ở Cổ Loa (Ðông Anh, Hà Nội) nhưng vẫn chưa đặt niên hiệu. Sau khi Ngô Quyền mất năm 944, cho đến khi triều Ngô chấm dứt năm 965, các đời Dương Tam Kha, Ngô Tấn Nam Vương, Ngô Thiên Sách Vương cũng đều không có niên hiệu. Chính vì vậy, minh văn trên chuông vẫn sử dụng niên hiệu nước ngoài. Ðó cũng chính là sự thật lịch sử Việt Nam thời đó đang ở buổi đầu giành và củng cố nền độc lập...”. Hết phần trích . Thắc mắc ... Đại Việt sử ký toàn thư chép : “Kỷ Hợi ( 939 )năm thứ nhất ( Tấn , Thiên Phúc năm thứ 4.). Mùa xuân vua ( Ngô Quyền) mới xưng vương , lập Dương thị làm hoàng hậu , đặt trăm quan , chế định triều nghi, phẩm phục “ Đã có hoàng hậu thì Ngô quyền phải là hoàng đế chứ sao chỉ xưng vương ? Đã đặt trăm quan chế định triều nghi , phẩm phục ̣...mà lại không có niên hiệu ...thì ‘chiếu , chế , văn thư ‘ của vua và triều đình ghi mốc thời gian ra sao ? với 1 vương quốc ‘Niên hiệu’ khẳng định sự tồn tại của triều đại trong lịch sử vì vậy kể từ những năm đầu công nguyên không thể có vương triều với đủ triều nghi mà lại không có niên hiệu . Đại Việt sử ký toàn thư thì ghi niên đại triều Ngô theo niên hiệu của vua Tàu bắc triều (Tấn , Thiên Phúc năm thứ 4) còn dân thì phải ‘mượn ’ niên hiệu của vua ‘nước địch’ (Nam hán – 10 năm trước bị Ngô Quyền đánh cho tan tác trên sông Bạch đằng ) để xài đỡ ...thật là kỳ cục ngộ nghĩnh . Những điều này phản ánh sự vô cùng lúng túng của sử gia khi xử lý những thông tin của thời kỳ lịch sử này ... Sử thuyết họ HÙNG cho là : Không có triều Ngô của Ngô quyền ở năm Kỷ hợi 939 chỉ có Ngô vương Quyền hay Ngô tôn Quyền vua nước Ngô hay đông Ngô ở thời sử Trung quốc gọi là Tam quốc , sử thuyết họ HÙNG gọi là thời giặc ‘GIẢ’ (Ngụy-Tào Tháo). Không hề có nước NAM HÁN trong lịch sử , chỉ có nước ĐẠI VIỆT do anh em LÝ (lưu) ẨN và LÝ (lưu) CUNG sử Việt gọi là LÝ CÔNG UẨN lập ở Quảng Đông- Quảng Tây và đất Việt ngày nay, năm 1038 cha con Nùng tồn Phúc - Nùng trí cao nổi loạn chiếm phần đất lưỡng Quảng của Đại Việt dựng lên nước Đại Lịch rồi ...Thiên nam...Đại nam...đám sử nô Tàu bám lấy ‘hô biến’ thành ....Nam Hán.để cho ‘có vẻ’ hợp tình hợp lý ...khi vẽ miền đất ấy nhập vào lãnh thổ của các ‘Khả Hãn’. Bài minh văn trên ‘qủa chuông cổ mãi long đong ...’là chứng minh rõ nét cho sử thuyết đã nêu ; chỉ có các sử gia đôi khi mắt kèm nhèm có thể sai chứ nhân dân không bao giờ sai lầm .
  2. xin phép tiếp vần sử ca :Khiết đan Liêu Hán một dòng Chiếm dân cướp nước xóa đi giống nòi Để nay ai đó sụt sùi Qùy ôm đống mối ngỡ là mộ cha...
  3. cảm ơn bạn MINH XUÂN , bạn đã hiểu như chính tôi hiểu vậy.
  4. Diễn đàn Lý học đông phương mà có thành viên như thế này sao ?
  5. Kính anh Thiên sứ .Tiếng Việt thật phong phú ....cánh đàn ông chúng ta ai chẳng biết đến đôi mắt 'mơ huyền ' của người đẹp ...., trong ngữ cảnh của bài viết nói 'huyền ' là đen thủi đen thui ...là có phần cường điệu , chính xác hơn chỉ nên dịch 'huyền ' là đen MUN ....vì mun là mẹ đẻ ra giống MAN - MÔNG - MÃN .... thân . nqn
  6. Ngũ sắc Dịch lý và Trung quốc . Theo Dịch học Trung hoa thì sắc màu ứng với các phương ngày nay : - Phương Bắc sắc Đen . - Phương Nam sắc Đỏ . - Phương Đông sắc xanh . - phương Tây sắc Trắng . Trên cơ sở phân màu này có Cửu thiên tương ứng : Trời sắc đỏ là Viêm thiên . Đen là Huyền thiên Xanh là Thanh thiên Và Trắng là Hạo thiên . Như vậy chữ Huyền trong huyền thiên nào phải ‘huyền vi tinh diệu ‘ gì đâu mà chỉ nghĩa là ....đen thủi đen thui, Viêm thiên thì đúng với nghĩa ‘ lửa hồng ‘, Thanh thiên là trời trong nhưng âm Thanh cũng là màu xanh , Hạo thiên trời sáng rực hoàn toàn đúng với ý phương tây số 4= bốn , bóng , bóng láng .... ĐEN trong tiếng Việt còn là MUN , Ô , MỰC như mèo mun ,qụa ô , chó mực .v.v. Từ ‘ MUN ’ nguyên thủy chỉ có nghĩa là màu đen trong ngũ sắc dần dần bị chuyển hoá thành MAN , ‘man rợ’ chỉ trình độ văn hóa thấp kém hiểu như là từ phản nghĩa với Văn minh và người Tàu ‘lạm dụng’ tạo thành từ NAM MAN . Trong dịch lý phương sắc ĐEN đồng vị đồng tính với những ý niệm khác : Đen , mờ , lu ,tối , mù (manh) lạnh , cóng , thấp , bé , hèn , mọn , mặn ... Chuyển ngữ sang từ Hán gốc Việt thì thành : Mông ( mờ tối ), Mãn - Minh ( mỉn = đen-tối ),Nguyên ( trứng nước ) , Kim ( căm – rét ), Hàn ( lạnh) , Liêu ( Lu ) Nếu xét theo thực địa bản đồ Trung quốc ngày nay thì phải nói ngược lại là ....BẮC MAN vì vùng sắc đen là vùng của các nước : Mông cổ , Mãn châu và Hàn quốc ; cũng là vùng trung đô của nhà MINH ... Nhưng cổ thư Trung hoa lại chỉ có NAM MAN là 1 trong tứ di không hề có Bắc man ? Phải chăng trục BẮC –NAM nay đã bị lộn ngược ? Sử Trung hoa viết : Lưu Triệt tức Hiếu vũ nhà Tây hán đã ấn định Hà nam là SÓC phương tức phương BẮC ngày nay .....như vậy trước Hiếu vũ thì sóc phương ở đâu ?
  7. Giải mã chữ VIỆT bộ Mễ . Chữ VIỆT tên nước do Triệu Đà lập ra ở Quảng đông là chữ Việt bộ mễ 粵 ; cấu tạo bởi chữ mễ 米 đóng khung đặt trên chữ việt . Đó là cách nhìn thông thường ngày nay . Còn 1 cách nhìn khác mang tính địa lý lịch sử khá quan trọng đối với lịch sử Trung Hoa . Mổ sẻ chữ Việt bộ mễ để giải mã : * – phần đầu . Với những vật hình tròn mang số 6 và số 9 thường phải có 1 dấu hiệu để xác định đầu trên tránh sự lẫn lộn giữa 2 số . Tương tự như vậy phía trên khung hình vuông của chữ Việt bộ Mễ cũng có 1 nét bút nhằm xác định hướng mặt trời , nếu đặt đứng thì hướng về thiên đỉnh , còn khi đặt nằm thì đầu quay về hướng Xích đạo . * – Phần thân : Người xưa với quan niệm “trời tròn đất vuông” nên một lãnh thổ hay 1 miền đất luôn được biểu diễn bằng 1 hình vuông và để chỉ vùng trung tâm người ta thêm vào các đường nam-bắc , đông –tây và đường nối 4 góc , giao điểm của các đường này gọi là GIAO CHỈ hay CHỖ GIỮA , những đường nối này được mô phỏng thành nét chữ Mễ . → * – Phần chân : Bộ phận dưới cùng là chữ VIỆT dùng xác định âm đọc . chữ Việt này người Việt phát âm là VƯỢT nghĩa là đã qúa một mốc giới nào đó . ******** Khi đặt chữ Việt bộ mễ nằm ngang theo trục Bắc- Nam ta nhận ra được cách thức người xưa đã dùng để cấu tạo nên nó ; hết sức thực tiễn và giản đơn : Nước VIỆT có trung tâm nằm ở phía nam GIAO CHỈ chính là thông tin mang trong lòng chữ VIỆT bộ MỄ , chùm thông tin này được cô đọng thành nước NAM VIỆT Có thể xem đây chính là sơ đồ xác định vị trí trên qủa đất Quốc gia do Triệu Đà khai lập . Từ khám phá này kết hợp với những thông tin về việc khai quật lăng mộ của Triệu văn đế ở Quảng đông ta khẳng định : - Đất NAM GIAO và GIAO CHỈ trong cổ thư Trung hoa là có thực. - Hướng BẮC – NAM xưa thời Triệu Đà nay đã bị đảo ngược : bắc thành nam và nam thành bắc Điều này tưởng là việc ‘nhỏ’ nhưng thực ra không nhỏ chút nào vì làm sao... xử lý cả núi thông tin về các nước hay quốc gia trong cổ sử Trung hoa ? nước nào cũng có các thông tin về địa lý ...nam gíap , bắc giáp ....bây giờ lộn ngược tất cả thì làm sao định vị được trên bản đồ ?
  8. anh Thiên sứ kính mến . về chữ Trùng cửu anh hiểu đúng ý tôi rồi đấy ....hay bỏ quách đoạn này cho xong và chắc là tôi sẽ bỏ... về quan niệm trời tròn đất vuông ....tôi viết sử thuyết họ Hùng riết rồi bị 'tẩu hoả nhập ma ....' người trung hoa xưa hay trung hoa đích thực chính là tiền nhân người Việt hiện nay ...còn người Hán là kẻ chiếm đoạt và tiếm xưng ...không dính dáng gì đến Trung hoa cả . cảm ơn sự góp ý anh ,tôi sẽ xem lại và sửa cho rõ nghĩa . chúc cả nhà ta mạnh khỏe.
  9. Giải mã Mặt trống đồng Ngọc lũ . Trống đồng có nhiều hình dạng , nhiều thời do đó cũng nhiều mảng thông tin khác nhau, bài này viết về thông điệp trên mặt trống đồng NGỌC LŨ. Mặt trống gồm 1 tâm và 3 vòng đồng tâm . A / - Tâm trống và vòng đồng tâm số 1 : nhân sinh quan VIỆT Tâm trống là mặt trời đang chiếu sáng , vòng tròn số 1 là cảnh sống , sinh hoạt của con người . Tâm trống đồng luôn luôn là mặt trời , mọi kiểu trống mọi thời đại đều như thế ; điều này cho thấy có sự thống nhất và xuyên suốt nguyên tắc cơ bản trong hệ tư tưởng Việt : Mặt trời là trung tâm vũ trụ cũng chính là hình ảnh đại diện cho ‘ông trời’ siêu hình . Ông Trời là đấng tối cao mà quyền năng chi phối tất cả nhưng lại thân thiết gần gũi như cha mẹ nên người Việt hay gọi ... “Trời đất ơi.-.cha mẹ ơi.” Mặt trời phát ra ánh sáng cũng là phát ra sự sống , trong tiếng Việt ‘sáng’ và ‘sống’gần như là một âm , phần hồn tức anh linh nơi con người chính là 1 phần của cái khối sáng vĩ đại ấy đến trái đất nhập vào thân xác vật chất thành ra con người sống động ...có thần , thần tính ấy được quẻ Kiền gọi là Long hay con Rồng ,6 hào là hình ảnh tượng trưng của 6 giai đoạn bay lên từ đất tới trời cao . Khi đã đi hết đoạn đường trần thế thì xác trả về cho đất hồn trở về trời chính vậy mà mặt trời với người Việt trở thành chốn linh thiêng vì tổ tiên ông bà ngự nơi đấy , quẻ Lôi địa Dự viết : ‘lôi xuất địa phấn tiên vương dĩ tác nhạc sùng đức ân tiến chi thượng đế dĩ phối tổ khảo’ cũng là lẽ này ; câu dâng lên trời mà cũng là để ông bà mình hưởng .... đã chỉ ra : anh hồn tổ tiên đang ở chung với ông trời hay đấng tối cao ... Cuộc sống miên trường không bao giờ dứt có chăng chỉ là chuyển đổi dạng thức tồn tại từ dương sang âm mà thôi hay nói theo dân gian là chuyển địa chỉ từ dương trần sang âm phủ . Cuộc sống vẫn tiếp nối chỉ chuyển dạng tồn tại mà thôi đấy là triết lý về sự sống - chết của người Việt đã được kinh Dịch thể hiện hay nói cách khác : tâm và vòng đồng tâm thứ nhất của mặt trống đồng Ngọc lũ đã thể hiện ‘nhân sinh quan’ của người Việt . Cuộc sống sinh động nhưng hữu hạn vì có sinh có biến đổi ắt có tử duy nhất chỉ nơi tâm vòng tròn là bất biến nên bất tử , ‘sinh’ là từ cõi Hằng bước sang cõi ‘Biến’ ....qua 1 thời gian dạo chơi trần thế để biết mùi ‘đời’ rồi .... ‘tử ’ tức là trở về nơi đã ra đi , người đời nói ‘sinh ký tử quy’ nghĩa là vậy ....nhưng ta phải luôn nhớ không phải ra đi làm sao thì trở về làm vậy ....vì qua thời gian ở cõi ‘biến’ ta đã thành người khác ...sáng hơn hay tối hơn là tùy những gì ta đã làm nơi dương trần với tư cách con người có ỵ́ thức và chủ động trong hành vi của mình ... ; Ngày ....‘ về’ ai cũng đè nặng trên vai 1 bao tải đựng “nghiệp” tức thành tích của mình nơi trần thế ...trình diện các cụ rồi mở bao ra .... thấy toàn ...án tòa và email nguyền rủa của người đời thì lập tức ....cút xéo... thế là vĩnh viễn trở thành ....kẻ thất sở thân sơ. Với nhân sinh quan như vậy nên người Việt là dân tộc có hiếu nhất thế giới , chữ hiếu được nâng hẳn lên thành 1 tôn giáo : gọi là đạo ‘Hiếu’ hay đạo thờ ông –bà..., Cao nhất là thờ ông ‘Thiên’ tổ của cả loài người , với quốc gia thì thờ quốc tổ , làng thì thờ ‘thành hoàng’, tộc họ thì có nhà thờ họ và trong mỗi nhà đều có bàn thờ ‘gia tiên’....trong nhân sinh quan người Việt thì ...qúa khứ -hiện tại - tương lai sống và chết là sự biến đổi tiếp nối tuần hoàn không có chấm dứt , thế nào rồi cũng có ngày phải về gặp các cụ .... lúc đó ....ăn làm sao nói làm sao ? chính vì vậy nên phải lo liệu ngay từ bây giờ....công đức tạo nên không phải chỉ để cho đời này mà là công đức cho mọi đời ....ngoại trừ những tay ‘siêu bịp’ thì ai được kính trọng ở đời này ắt cũng được kính trọng ở đời sau và ngược lại kẻ bị người đời nguyền rủa thì cũng sẽ bị nguyền rủa đời đời . B /- Vòng đồng tâm thứ 2 : xướng danh dân tộc . Là người Việt không ai mà không biết huyền tích Kinh dương vương kết duyên cùng Long nữ con gái Động đình quân, như đã nói ở những bài trước trong sử thuyết họ HÙNG , Kinh dương vương nghĩa là vua phương Nam, Long nữ hay Long mẫu con gái Động đình quân vua phương Đông , sự hợp huyết 2 dòng phương Nam và phương Đông là sự hoàn tất việc đúc kết tạo nên người Việt , cũng vì lẽ này người Việt rất đỗi tự hào khi nhận mình là ‘con Rồng cháu Tiên’ . Những thông tin tạo nên tuyền thuyết này ̣đều xuất phát từ Hà thư . Trong đồ hình Hà thư . số 6 hay 6 nút trắng nằm ở phía nam , số 8 nằm ở phía đông. Phương Nam ngoài số 6 còn có số 1 nên phương nam còn là phương của đế Tiên hay bà Vũ Tiên vì lẽ này người Việt mới nhận mình là ‘cháu Tiên’. Theo hậu thiên bát quái phương Nam số 6 còn là phương của nước tức quẻ Khảm . Nước tiếng Việt cổ là nác-lác → Lạc .đây chính là từ Lạc trong lạc long quân và Lạc Việt . Trong Hậu thiên bái quái phương đông số 8 là quẻ Chấn hay Thìn tức con Rồng ,Hoa ngữ là Long . Tới đây đã rõ câu : con cháu Tiên-Rồng hay dòng giống Lạc –Long là chỉ sự hợp nhất giữa 2 dòng người họ Hùng ở phương Nam số 6 và phương Đông 8 theo Hà thư vào thời Hùng Việt vương - Tuấn lang . Mặt trống đồng Ngọc lũ đã thể hiện những thông tin lịch sử này ở vòng tròn thứ 2 bởi nửa vòng tròn khắc hình 6 con chim và 10 con nai và nửa vòng tròn còn lại là 8 con chim và 10 con nai . Ở đây tiền nhân người Việt đã sử dụng những nút số của Hà thư , đặc biệt số 10 lại không được coi là 10 ( số chẵn ) mà coi như là 2 số 5 là số lẻ . Các nút trắng – chẵn của Hà thư được thay thế bằng hình Chim và nút đen –lẻ được thay thế bằng con nai . Nhìn lại Hà thư với các nút chẵn : 10 con nai và 6 con chim chỉ người họ Hùng phương nam:con cháu của Kinh dương vương 10 con nai và 8 con chim chỉ người họ Hùng phương Đông .con cháu của Long nữ hay Long mẫu . Ý nghĩa thể hiện ở vòng tròn đồng tâm thứ 2 trên mặt trống đồng chính là sự tự xưng danh tánh của chủ nhân trống đồng Ngọc lũ , dân tộc ấy chính là dòng giống Tiên –Rồng hay Lạc – Long , Tiên – Long . xác lập bởi các cặp số số (6/10) và số (8/10). Nếu không có số 10 chỉ dùng số 6 và số 8 sẽ bị hiểu là : người nước ngoài ở phía nam và ̣đông nước ta ; Người Việt xưa đã thêm mẫu số 10 để nói rõ đấy là : người cùng giống nhưng sống ở phía nam và phía đông . C /- Vòng đồng tâm thứ 3 : ước vọng Dân tộc trường tồn . Vòng đồng tâm thứ 3 của mặt trống đồng có tổng cộng 18 cặp chim , mỗi cặp có 1 chim lớn đang tung cánh bay và 1 con chim nhỏ đang tung tăng trên mặt đất ., từng cặp như vậy nói lên sự nối tiếp liên tục hễ tre già thì măng mọc , cha mẹ già khuất núi thì con cháu lớn lên cứ như thế mà tiếp nối mãi . Trong Dịch học Chim Hạc hay Hồng hạc là chữ của Điểu thú văn chỉ Trời cao ,thời gian và những yếu tố văn hóa phi vật thể , Hà → hạc . Con nai Hoa ngữ là Lộc biến âm của lục là số 6 cũng là Đất cũng là chữ điểu thú văn dùng chỉ : đất , không gian và những yếu tố văn hóa hữu hình hữu thể . Trong 18 đời Hùng vương thì Hùng Việt vương - Tuấn lang chính là Sơn tinh hay Tản viên Sơn thánh quốc chúa đại vương . , ‘Tuấn’ là tên chữ ký âm của ‘Tản’ tiếng Việt . Sơn tinh cũng là 1 Kinh dương vương ( canh=6 , giêng = 1) nghĩa là chúa phương nam vì trong Tiên thiên bái quái quẻ Cấn là sơn - núi chỉ phương nam . Truyền thuyết nói Kinh dương vương kết duyên cùng Long nữ như đã xác định ở vòng tròn thứ 2 mặt trống đồng Ngọc lũ phải chăng là nói về sự thống nhất dòng Tiên và rồng để tạo ra ‘dòng giống tiên Rồng’ ở triều đại Hùng Việt vương – Tuấn lang ?.( xin xem Sử thuyết họ HÙNG ), từ người VIỆT bắt đầu có từ đây . Những cặp chim ở vòng tròn thứ 3 trên mặt trống đồng Ngọc lũ là loài chim DIỆC . DIỆC là phát âm của người nam bộ , âm bắc là VIỆT .chính là từ Việt trong đế hiệu Hùng Việt vương – Tuấn lang ?. Số 9 là cửu , cửu cũng có nghĩa là lâu dài , 18 là trùng cửu ( 9x2 ) đồng âm với trường cửu .nghĩa là mãi mãi bất tận ., điều này xin đừng vội cho là cưỡng ép vô lối vì chính người Hoa cũng hay dùng lối đồng âm gán nghĩa này như : họ kiêng số 4 vì đọc là tứ cận âm với tử là chết , bạn cũng đừng ngạc nhiên khi họ tặng bạn chiếc quan-tài...vì quan ở đây được hiểu là sự thăng quan tiến chức , tài hiểu là tấn tài tấn lộc nghĩa là chúc có thêm tiền .... Chim diệc đang tung cánh bay là chỉ dân tộc Việt trong vòng thời gian . Mỗi cặp chim 1 trưởng thành 1 còn non chỉ sự nối tiếp kế thừa . 18 cặp là Trùng cửu ( 2 lần 9 ) cũng là trường cửu . Vòng đồng tâm thứ 3 trên mặt trống đồng Ngọc lũ với 18 cặp̣ chim Diệc là bản văn ngắn gọn nhưng rất rõ ràng : “ DÂN TỘC VIỆT ĐỜI SAU NỐI ĐỜI TRƯỚC CỨ NHƯ THẾ TỒN TẠI MÃI MÃI ” Tới đây thì ta hiểu rõ tại sao vua Đông Hán ra lệnh cho mặt ngựa ( Mã Diện hay Viện ) tịch thu và phá hủy cho bằng hết trống đồng của người Việt .; ý đồ của chúng là biến người Việt thành đám con hoang không cội nguồn đồng thời chặt đứt ước nguyện trường tồn của dân tộc này ....nhưng trời cao có mắt... Việc giải mã được những thông tin chứa trên mặt trống đồng Ngọc lũ đưa đến hệ qủa hết sức quan trọng với người Việt : - ‘con Rồng cháu Tiên’ không còn là truyền thuyết lịch sử mà chính thức trở thành lịch sử , một lịch sử được ghi chép rõ ràng trên sách ‘đồng’ bằng ngôn ngữ Dịch học đã phổ biến - lưu truyền 3000 năm nay . - Truyền thuyết lịch sử Việt không phải chỉ có 1 chuyện ‘con rồng cháu tiên’ mà là cả 1 hệ thống những truyền thuyết tương đối hoàn chỉnh chứa đựng những thông tin của 1 thời gian dài mà ngày nay gọi là thời tiền sử , chỉ cần minh xác được 1 đọan trong cái chuỗi thông tin liên hoàn ấy cũng đủ để ta lượng gía về tính xác thực của cả hệ thống truyền thuyết lịch sử đang lưu truyền. . - Lịch sử và văn minh Việt có liên hệ ‘máu thịt’ với dịch lý từ khi người Hán chưa đặt chân tới mảnh đất này , những trống đồng cổ nhất có đến 3000 năm tuổi đã trở thành vật chứng chắc chắn -rõ ràng nhất giúp khẳng định : Dịch lý là thành tựu trí tuệ tuyệt vời của tiền nhân người Việt ngày nay ..
  10. Thủ lãnh Việt và Hà thư. Trong bài ‘Tản mạn về ngôn ngữ Việt –Hoa’ trước đây đã nói đến 5 tước của qúy tộc Trung Hoa . Công -0- Không Hầu – 2 – hai Bá – 3 – ba Tử – 4 – tư Nam – 5 – năm Đây không thể là sự trùng hợp ngẫu nhiên vì bên cạnh sự việc này còn nhiều điều khác . Nhìn vào tâm Hà thư :  Cũng như màu vàng của ngũ sắc , tâm của Hà thư có địa vị chí tôn chi phối toàn cục , các dịch tượng khác phải thông qua nó mới có thể tương tác tạo ra diễn trình biến đổi sự vật .. nên những dịch tượng trung tâm của đồ hình dịch học được người Việt vận dụng tạo thành những từ chỉ THỦ LÃNH của cộng đồng . Dù chỉ thấy có hai số 5 và 10 thực ra tâm Hà thư có tới 3 con số nhưng vì là dịch học nút số nên không thể biểu diễn số ‘không’ bằng các nút được .. Tương tự như với màu vàng trong ngũ sắc : Vàng → vương , chuyển ngữ sang Hán văn là ‘hoàng’ 3 con số của tâm Hà thư cũng có sự liên quan rất kỳ lạ với cách gọi các thủ lãnh của người Việt : - số 0 . ‘không’ biến âm thành tước công đã biết nhưng ‘không’ còn có từ đồng nghĩa là ‘vô’ , trước đây cứ ngỡ ‘vô’ là từ Hán Việt nhưng nay với điều ‘vô’ biến âm thành ‘vua’ thì phải xét lại rất có thể đấy là 1 từ Việt cổ nay không còn dùng ? Vua là từ cao qúy nhất trong các từ dùng chỉ thủ lãnh , Hán văn ký âm VUA thành VŨ Trong lịch sử Trung Hoa chỉ vị thủ lãnh nào có công khai sáng 1 quốc gia hay 1 triều đại mới được mang tước hiệu là VUA , công ở đây là công với quốc dân còn phường dã tâm “tranh bá đồ vương” chỉ biết việc chiếm đoạt ngôi vị thì không được gọi là vua . Người họ HÙNG suốt mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước duy nhất có 1 HÙNG VŨ người Việt gọi là vua HÙNG , trong truyền thuyết 18 đời Hùng vương được chép là đời Hùng vương thứ 5 :Hùng vũ vương - Hiền Đức lang xác định ngài là vị Hùng vương khai quốc , còn trong lịch sử Trung quốc thì ông “Vũ” có vị thế rất cao trọng , ông không những là tổ nhà Hạ mà còn là tổ của tất cả các vương triều Trung Hoa . - số 5 . năm biến âm thành lăm rồi biến thành lang 5 năm→ lăm → lang . Trước đây cứ ngỡ từ LANG là từ chỉ thủ lãnh của những dân tộc Mường , Thái Nay với sự soi sáng của Hà thư thì rõ ràng Lang là từ Việt chính tông . Lang không những là thủ lãnh của người Việt mà qua trung gian của âm ‘Long’ là con rồng trong Hoa ngữ... Lang còn bước vào chễm chệ ngự trên ngai vàng của đấng con trời Trung Hoa . Hậu hán thư có đọan ngắn nói đến Lạc Việt ....con trai vua gọi là ‘quan lang ‘ con gái vua là ‘mỵ nương’....và thật lạ lùng các con trai vua nhà Đường cũng được gọi là LANG ...đại lang , nhị lang , tứ lang .v.v. hay là nhà Đường Trung Hoa học theo văn minh Lạc Việt xưa ? sử Trung quốc không biết vô tình hay cố ý mà rất nhiều chữ ‘Lang’ bị đổi thành chữ ‘nam’ nghĩa là phương nam , 1 từ chỉ thủ lãnh bị thay bằng từ chỉ phương hướng gây nên sự nhiễu loạn lịch sử ghê gớm sai lầm chồng chất lên sai lầm khiến cả 1 thời gian dài người họ Hùng không nhận ra chính mình . Người Mông cổ chia dân trên đất trung quốc bị chiếm đóng thành dân của ‘hãn’ và dân của ‘lang’ ...đám sử gia mắt kèm nhèm chép thành dân Hán và dân Nam... Văn lang biến thành Vân nam , đất Hải lang biến thành Hải nam , Chu lang Thiệu lang biến thành Chu nam Thiệu nam rồi chuyển ngữ thành Chu công Thiệu công ....như thế hỏi còn ai có thể nhận ra nổi lịch sử Trung Hoa thực , hơn nữa đây không phải là trường hợp duy nhất ... Trong Hán sử còn có : Nhiều chữ ‘quan’ nghĩa là nom (nhìn-trông) bị thay bằng chữ quang là sáng sủa , từ ‘nom’ trong Việt ngữ cũng chính là nam tức phương nam , Quan vũ là vua nước ở phương nam biến thành Quang vũ ...tên riêng của vua Đông hán , nước Quan 1 nước chư hầu phương nam của nhà Ân biến thành nước Quang lơi khơi không nghĩa ngọn gì . Tương tự kiểu ‘thất bổn’ này với Chữ ‘tiếp’ nghĩa trong tiếng Việt là ‘chạm vào nhau ’ đồng nghĩa với giáp , dân gian thường nói kép ... ‘tiếp – giáp’ , Trong ngôn ngữ dịch học thì tiếp là điểm giao giữa 2 chu kỳ trước và sau , trong một ngày là lúc nửa đêm , một năm là ngày đông chí về phương hướng là chính nam ; không hiểu sao ...trong cổ thư Trung quốc nhiều chữ ‘tiếp’ bị biến thành ‘tiết’ như : đế Tiếp ý chỉ thủ lãnh của đất phương nam bị biến thành đế Tiết....tên riêng . (Theo cổ sử thì Tiết là tên ông tổ của dân Trung hoa phương nam ) . Trong 64 quẻ trùng thì cặp quẻ đối ứng ‘Tiếp-Hoán’ bị biến thành ‘Tiết –Hoán’..., Tiếp còn có nghĩa là gặp gỡ , có gặp gỡ thì mới trao đổi (Hoán) được chứ , 2 vật không chạm (tiếp) vào nhau thì làm sao trao đổi (Hoán) nhiệt ? .... ý nghĩa của cặp quẻ Tiếp-Hoán rõ ràng như thế còn... ‘Tiết – Hoán’ ...thì xin chịu thua không hiểu nổi . - số 10. Số 10 mười trong hệ thống số đếm Việt nam còn được gọi là CHỤC . Chục → chủ ...rồi thành ‘chúa’ sang tiếng Thái - Lào là ‘chậu’, hiện người dân quanh thành cổ loa xưa vẫn cho là thành có tên là “thành chủ” thực ra gọi là thành chủ nghĩa là thành của vua đồng nghĩa với hoàng thành chứ nào phải tên riêng ., các vua Chiêm thành ký âm Hoa ngữ thành Chế Mân, Chế củ , Chế bồng Nga v.v. tưởng đâu Chế là 1 họ của người Chăm ...nhưng khi so sánh về âm với các từ Chúa Sãi , chúa Hiền , chúa Tiên... triều Nguyễn Việt nam mới vỡ lẽ ....Chế Mân nghĩa là vị chúa vị chủ tên là Mân ... Đặc biệt do ảnh hưởng của vị trí trung tâm Hà thư nên ngoài nghĩa ‘thủ lãnh’ số 5 năm và 10 - chục trong văn minh Việt còn biến âm thành những từ khác khá lý thú : * 5- năm →lăm → lang → làng *10 – chục → chủ → chạ Với câu ...vè khá nổi tiếng của người Việt ....trình làng trình chạ ....thì làng và chạ có nghĩa là 1 cộng đồng người , là đơn vị hành chánh cơ sở của quốc gia , lang và chạ biến thành. Làng - xã ngày nay . Nhưng với câu ...ăn lang ngủ chạ ....thì lang và chạ lại mang nghĩa là chốn công cộng nơi chung chạ tức của chung mọi người . ******** Những nút số của Hà đồ- Lạc thư đã có mặt trong sách ‘Hoàng đế nội kinh tố vấn’ nghĩa là tuổi đời của Hà- Lạc ít nhất cũng bằng tuổi Hoàng đế (đế màu vàng ) Viêm đế ( đế phương nóng ) cách nay 5000-6000 năm , thời điếm này thì dân tộc Trung hoa còn là 1 nhóm nhỏ sống lanh quanh ở mảnh đất cỏn con bên bờ Hoàng hà . Người họ Hùng lập quốc ở vùng đồng bằng Thanh Nghệ Tĩnh cũng đã 5000-6000 ngàn năm nay dĩ nhiên từ ‘vua’ cũng xuất hiện cùng thời điểm ấy còn các từ ‘lang và chạ’ chỉ thủ lãnh thời bộ tộc chắc tuổi còn cao hơn nhiều thậm chí có thể đến cả vạn năm. . 2 dân tộc 2 nền văn minh cách nhau vạn dặm tại sao lại có sự tương thông như thế : người Việt tạo từ chỉ thủ lãnh dân tộc mình dựa trên 3 nút số của tâm Hà thư Trung Hoa ... thực kỳ lạ ... Không thể có sự giải thích nào khác hơn là ...xem xét lại toàn bộ lịch sử cổ đại Việt và Hoa .
  11. Những con số thiêng của người Việt Ngày nay nhiều nhà nghiên cứu lịch sử cho rằng con số 18 trong 18 đời HÙNG vương là con số thiêng . Sử thuyết họ HÙNG đã minh xác đó là con số thực của lịch sử Việt , 18 triều đại Hùng vương với những thông tin tuy chưa đầy đủ nhưng cũng đã có thể lấy làm căn cứ để trên cái nền ấy tiếp tục đào sâu bổ chứng thông tin biến sử thuyết thành Lịch sử họ HÙNG ; Lịch sử của quốc gia lâu đời nhất trên hành tinh này . Không phải số 18 nhưng Trong văn minh họ HÙNG có những con số thiêng khác , những con số gắn liền với dân tộc và rất đặc biệt những con số này đều xuất phát từ Hà thư-Lạc đồ tức Thiên thư-địa đồ hiểu theo ngôn từ hiện nay : Hãy xem : - số 100 . Là người Việt chẳng có ai không biết chuyện bố Rồng mẹ Tiên và bọc trăm trứng , người họ HÙNG gọi nhau là “đồng bào” thực thiêng liêng và huyền nhiệm , “Bách Việt” cũng xuất phát từ huyền tích này ...cả không và thời gian mênh mông được tóm thâu vào 100 nút số của Hà-Lạc dân gian gọi là ‘khoanh’ và ‘đốm’, người xưa đã khéo chuyển những ý niệm lung linh mờ ảo uyên thâm của triết học thành hình ảnh rất dân giã rất ...đời thường :100 qủa trứng , Hà 55 và Lạc 45 qủa , 100 qủa trứng Hà-Lạc nở thành người là sự khởi đầu của dòng giống HÙNG ....thực ra không có con người ‘vật thể’ nào chui ra từ trứng cả nhưng tất cả người họ HÙNG ‘phi vật thể’ đều từ đó mà ra . Hà thư và Lạc đồ chính là khởi nguyên của tri thức ....trong màn đêm tăm tối thời ‘ăn hang ở lỗ’ thánh nhân họ HÙNG đã khái quát hóa được những hình ảnh trực quan thành hệ thống dấu hiệu ...con người bắt đầu tư duy về sự biến hóa đổi thay trong thế giới vật chất bằng những mối tương quan của dấu hiệu ... 1 thế giới hoàn toàn mới được hình thành ....đó là “thế giới thông tin” . Hà thư-Lạc đồ là cái nền của tri thức ....Đấy mới là ý nghĩa đích thực của câu chuyện Rồng –Tiên trăm trứng mà chỉ riêng người họ HÙNG mới thấu suốt . số 5 . Đế Minh cháu 3 đời của vua Thần nông tuần du đến Ngũ lĩnh gặp một nàng tiên kết thành vợ chồng và sinh ra Lộc Tục ...., Lộc tục sau là Kinh Dương vương vì vua đầu tiên của nước Việt.... Nhiều nhà nghiên cứu ḷịch sử căn cứ vào truyền thuyết này mà cho là quê hương ban đầu của người Việt tận Ngũ lãnh ở Hồ nam Trung quốc . Với dịch học họ HÙNG thì Lạc đồ cũng là địa đồ , số 5 ở trung tâm của Lạc đồ chính là Ngũ lĩnh trong truyền thuyết ; ‘ ngũ lãnh’ chỉ nghĩa là vùng đất chính giữa thiên hạ không phải là tên riêng . Lãnh thổ của 1 nước tuỳ theo vận nước thịnh suy mà có lúc nở ra và cũng có khi thu hẹp lại ; biên cương thay đổi thì ‘Ngũ lãnh’ cũng đổi theo, lại còn ... tùy theo sắc tộc nào là chủ thể của triều đại mà Ngũ lãnh cũng thay đổi , ngũ lãnh của nhà Chu không phải là ngũ lãnh của nhà Thương .v.v. Trong văn minh Trung hoa thì quốc thổ Trung hoa xưa được gọi là ‘Thiên hạ’ , ngũ lãnh là trung tâm của thiên hạ nên khi nói Ngũ lãnh thì phải nói ngũ lãnh của nước nào -thời nào- triều nào, ngũ lãnh thời đế Minh vua khai quốc người Việt tuần du ....dứt khoát không phải là ngũ lãnh ở Hồ nam Trung quốc . Mỗi thời có mỗi ngũ lãnh , số 5 chỉ là con số thiêng tượng trưng cho vùng trung tâm quốc thổ...không hề có một Ngũ lãnh tên riêng vĩnh cửu . số 15. số 5 trung tâm Lạc đồ chỉ vùng chính giữa tứ phương thiên hạ thì số 15 trung tâm Hà thư chỉ cộng đồng người là chủ vùng đất chính giữa ấy , truyền thuyết nói vua Hùng đóng đô ở Phong châu chia nước thành 15 bộ ; một số nhà nghiên cứu sửa thành 15 bộ... lạc hay bộ tộc và còn có người đang cố gắng xác định cụ thể những bộ lạc ấy trên đất Việt nam . Thực ra 15 là con số thiêng , thiêng tức là không có thực mà đó chỉ là dấu hiệu tượng trưng cho dòng giống Hùng thuở khai quốc ; số 15 không chỉ một tập thể của những cá nhân mà chỉ một cộng đồng người đã được tổ chức thành 1 thực thể chính trị tức cộng đồng ấy đã vượt qua thời liên minh bộ lạc với các tộc trưởng để bước sang thời vương quốc của vua HÙNG . Trung tâm Hà thư cũng là trung tâm của Ngũ hành nơi điều khiển - kiểm soát toàn bộ qúa trình tương tác - diễn biến của sự vật ....con số 15 là số thiêng ý nói : cộng đồng người họ HÙNG là thành phần chính yếu cai quản và dẫn dắt toàn thiên hạ . ******** Hà thư và Lạc đồ hai đồ hình của dịch học nút số đã để lại dấu ấn đậm nét trên lịch sử và văn minh người họ HÙNG bằng những con số thiêng: - Số 100 là biểu tượng của dòng giống HÙNG . - Số 5 tượng trưng cho lãnh thổ nhà HÙNG . - Số 15 chỉ một thực thể chính trị gọi là nhà nước hay quốc gia họ HÙNG với sự lãnh đạo của các HÙNG vương . Điều kỳ lạ không hiểu nổi là : tại sao lại có sự liên quan giữa các nút số của Hà-Lạc và nền văn minh người họ HÙNG tiền nhân của người Việt ngày nay ?
  12. Kính anh Thiên Sứ , Rất cám ơn sự góp ý cuả anh . Như đã trình bày trong phần đầu của bài viết ....e rằng với trình độ khoa học kỹ thuật nói chung của con người thời vua Đại Vũ thì khó có thể có 9 châu qúa rộng lớn nên 'Sử thuyết họ HÙNG ' đã ấn định lãnh thổ 9 châu thời vua VŨ chỉ ớ bắc trung và bắc Việt cộng với vùng lân cận hiện nay , sang thời con vua Đại Vũ là vua Khải mới mở rộng đến hết Quảng đông và về sau nữa con cháu nhà HẠ mới mở rộng lãnh thổ đến Phúc kiến và Triết giang (nước Việt Cối kê) , sau cùng nhà Hạ đã trải phủ quyền uy của mình tới tận bờ nam Dương tử tức vùng Bách Việt đúng như anh Thiên sứ đã nói . chào thân ái . nqn
  13. Dịch học bài 49 30- Cặp Quẻ : Trao (giao) – đổi Nếu không có điểm tiếp giáp thì làm sao trao đổi được, không có chợ thì làm gì có mua bán, 2 vật không tiếp giáp thì làm sao có thể truyền nhiệt hay truyền điện qua được. Dịch học họ Hùng có cặp quẻ: giao ( trao ) –đổi hay đổi – chác (giáp) chác là biến âm của giáp. Dịch học Tàu có cặp quẻ cận âm khác nghĩa là cặp hoán – tiết, tiết có nghĩa là tiết chế, giảm bớt, hoán là hoán tán hay lìa tan. Chữ Tiết là ký âm sai của Tiếp , cặp quẻ Hoán – tiếp nghĩa là giao tiếp và chuyển đổi cùng một nghĩa với : Giao ( trao ) - Đổi . A- Quẻ giao (trao) thủy/ trạch Thủy là nước là mây Trạch là cái hồ Mây mù giăng kín mặt hồ nối liền trời và đất không còn thấy sự phân cách rõ ràng, nước trong hồ và mây mù trên mặt hồ hầu như hòa với nhau thành một.., thánh nhân lấy tượng ấy mà đặt thành quẻ tiếp hay tiếp – giáp . a) Lời Quẻ Quẻ giao tiếp, hanh, vương cách hữu miếu, lợi thiệp đại xuyên lợi, trinh. Giao tiếp thì được thông suốt - vua đến nhà Thái miếu tế lễ là để giao tiếp với các bậc tiên đế trên thượng giới , giao tiếp với bên ngoài là để thúc đẩy sự phát triển mang lại lợi ích lâu dài cho quốc dân. b) Lời tượng: Trạch thượng hữu thủy; tiếp, tiên vương dĩ hưởng vu đế, lập miếu. Lập miếu thờ làm nơi cúng tế là để giao tiếp với tổ tiên ở thế giới bên kia, mong các vị mở lối soi đường để nhà vua cai trị một cách sáng suốt khiến cho quốc thái dân an. c) Lời Hào c.1) Hào Sơ Bất xuất hộ đình, vô cữu. Không ra khỏi cửa nhà thì không lỗi gì. Bất xuất hộ đình là chỉ sự sống biệt lập, không nhìn thấy bất kỳ người nào khác và dĩ nhiên không giao tiếp với bất kì ai, bất xuất hộ đình cũng chỉ tình trạng bế quan để tịnh tâm, đóng cửa không tiếp xúc trong một thời gian là để tìm sự bình an thanh tịnh cho tâm hồn, việc như thế thì không lỗi gì. c.2) Hào Nhị Bất xuất môn đình – hung Không ra khỏi cổng nhà – Hung Hào sơ chỉ sự bế quan – tịnh tâm thì không lỗi, đấy là một việc làm có tính tích cực, còn hào nhị chỉ một trạng thái khác hẳn thái độ ích kỷ độc đinh, chỉ biết đến mình và gia đình mình, không ra khỏi cổng tức chỉ không giao tiếp thôi chứ vẫn nhìn thấy bên ngoài nhưng với thái độ bất can dự, sống chết mặc bay, tức thái độ ngày nay gọi là chủ nghĩa mặc kệ nó, thái độ sống đó xấu lắm, vì nếu anh chỉ biết sống một mình thì anh cũng sẽ chết chỉ có một mình. c.3) Hào Tam Bất tiếp, nhược tắc ta nhược, vô cữu. Sống độc đinh, khi gặp tai họa mới hối hận, còn biết hối hận thì không lỗi. Sống chỉ biết mình và gia đình mình không giao tiếp, không cần làng xóm gì khi bị tai nạn ập đến, như cháy nhà ăn cướp liệu mình có thể tự cứu không , lúc đấy mới hối hận thì đã trễ, nếu biết sửa đổi thì không lỗi. c.4) Hào Tứ An tiếp – hanh Giao tiếp một cách êm thấm, thông suốt mọi việc, hào từ này nếu dùng Việt ngữ có thể viết rất gọn là: êm suôi. An tiếp chỉ sự giao tiếp có tính thân thiết, thông hiểu nhau của bạn bè – nên không có vướng mắc gì, mọi chuyện thông suốt. c.5) Hào ngũ: Cam tiết – cát – vãng hữu thượng. Giao tiếp một cách vui vẻ, công việc tiến triển tốt đẹp. c.6) Hào thượng: Khổ tiếp – trinh hung, hối vong. Giao tiếp khó khăn quá – cứ như thế thì nguy hiểm, sửa đổi đi thì khỏi ân hận. B- Quẻ Đổi hay chuyển biến Phong/ thủy Gió thổi trên mặt nước, là tượng của cái thuyền buồm, gió thổi vào cánh buồm làm cho con thuyền di chuyển được, lấy tượng ấy đặt thành quẻ đổi hay chuyển biến, hoán đổi. a) Lời Quẻ: Quẻ hoán, hanh, khổ hoán bất khả trinh Chuyển đổi là để hanh thông, chuyển đổi khó khăn quá thì không thể lâu dài. Hạ tầng vật chất kỹ thuật đã thay đổi nhưng vì quyền lợi riêng của mình cố trì kéo không thay đổi chế độ xã hội, chắc chắn vị thế và quyền lợi của kẻ không thức thời sẽ tiêu tan khi cách mạng của quần chúng bùng nổ, nên lời quẻ nói: bất khả trinh. b) Lời tượng: Phong hành thủy thượng: hoán quân tử dĩ chế số độ, nghị đức hạnh. Gió đi trên nước tạo ra sự thay đổi là tượng chiếc thuyền buồm di chuyển thế nên đặt tên là quẻ đổi hay hoán , để có thể hoán đổi bậc trưởng nhân chế ra độ số lượng định hay định lượng giá trị mà trao đổi, độ số là các số đo như ký để đo sức nặng, thước để đo độ dài v.v…, xác định thế nào là cao quí, thế nào là thấp hèn tức định tính để người dân hướng lòng vươn tới theo chiều ấy. Lời tượng nói là: nghị đức hạnh, nghĩa là so chiếu đạo đức và phẩm hạnh của một con người dựa theo thang đạo đức xã hội để bình phẩm tốt hay xấu, đáng kính trọng hay đáng chê trách. c) Lời Hào c.1) Hào Sơ Dụng chửng mã, tráng, cát Khuất phục được con ngựa chứng chắc là người hết sức mạnh mẽ, sẽ gặp điều tốt đẹp. Ngựa là loài dùng để đi, gặp con ngựa chứng là con cứng đầu không nghe theo người, khuất phục được nó để có thể cỡi chắc chắn phải là người khỏe mạnh cả thể xác lẫn tinh thần, như thế hết sức tốt đẹp. c.2) Hào nhị Hóan ; bôn kỳ kỷ, hối vong Chuyển biến, phải chạy tìm nơi nương tựa, hối thẹn không còn. Kỷ là cái ghế, cái ghế công dụng của nó là đỡ cho người ngồi. Chuyển biến: trời đất chuyển biến chỉ thảm họa thiên tai, xã hội chuyển biến chỉ sự thay thời đổi thế. Cái ghế là nơi có thể bám víu vào chịu đựng cho tai qua nạn khỏi, như là một ngọn cây trong cơn sóng tràn, một đỉnh đồi trong cơn hồng thủy. Đấy là cái ghế dùng tránh thiên tai, còn với nhân tai thì chỉ có thể bấu víu vào những gì do chính mình tạo ra lúc thịnh thời. Vì vậy khi có điều kiện hãy thi ân bố đức, làm việc nhân nghĩa cứu giúp người hoạn nạn đó chính là cái ghế cho ta dựa sau này khi “nhân tai” xảy đến. c.3) Hào Tam Hoán kỳ cung – vô hối. Chuyển đổi từ trong thâm tâm mình Làm gì còn phải hối thẹn nữa. Thay đổi từ trong thâm tâm là thay đổi triệt để nhất, một tấm lòng đang đen tối chuyển thành trong sáng thì còn gì tốt hơn. c.4) Hào Tứ Hoán kỳ quần, nguyên cát, hoán hữu khâu, phỉ di sở tự. Quần chúng cách mệnh (thay đổi) cực kỳ tốt, chuyển biến từng bước hay từng nấc không phải cái đầu bình thường mà nghĩ ra được (phỉ di sở tự). Cuộc cách mạng không thể hoàn thành suôn sẻ trong một lần, mà từng bước tiến lên, đấy là hoán hữu khâu. Khi đại đa số thấy không thể tiếp tục sống như cũ được nữa tất yếu xã hội phải thay đổi, tức cách mạng, cách mạng là thay đổi tận gốc rễ nên lời hào nói là nguyên. Dịch học chỉ ra các giai đoạn chuyển đổi trong lịch sử loài người, lục vị thời thành có nghĩa là tuần tự theo thời gian sẽ có 6 lần chuyển đổi, 6 lần cách mạng… những cái đầu tầm thường thì làm sao nghĩ ra được như thế (phỉ di sở tư). c.5) Hào Ngũ Hoán, hãn kỳ đại hiệu, hoán vương cư, vô cữu. Thay đổi danh xưng triều đại của vị Hãn ( vua rợ phương bắc ngày nay ). Dời đổi thủ đô không lỗi. Đây là một bằng chứng cực kỳ hiếm hoi về việc người Tàu gọi vua là Hãn hay Khả Hãn, họ đã dịch từ Vua sang Hán ngữ là “Hãn”. Hãn kỳ đại hiệu… tên triều đại của “Khả hãn”. Thí dụ: Tên triều đại của Khả Hãn lưu Tú là : Đông Hãn Tên triều đại của Khả Hãn Tào Phi con Tào Tháo là Ngụy (nghĩa là giả?) Hào ngũ là vị trí của vua nên lời hào dành nói về vua chúa; trong đời một vị khả hãn, quan trọng nhất là 2 sự thay đổi, thay đổi tên triều đại (có lẽ dịch là niên hiệu thì đúng hơn) và thay đổi quốc đô. Hai sự thay đổi này chẳng phải lỗi lầm của vua mà do nhu cầu của việc quản trị đất nước (dời đô) hoặc tránh thiên tai địch họa. c.6) Hào thượng Hoán kỳ huyết khử dịch xuất (khử thang xuất), vô cữu. Hoán kỳ huyết tức khử độc trong máu nghĩa là: thay máu , khử dịch xuất là làm hết mủ nơi vết thương, hoán kỳ huyết có thể dịch là thay máu hay lọc máu. Ý nghĩa là: chất độc đã nhiễm vào máu nên không thể chỉ điều trị nơi miệng vết thương mà khỏi được, muốn khỏi phải điều trị tích cực, tận gốc bằng cách lọc máu hay thay máu. Trị tận gốc nói chung là tìm nguyên nhân sâu xa bên trong , thay đổi nguyên nhân khiến hậu quả tự nhiên thay đổi. Thí dụ: trộm cắp vặt nhiều quá là do thiếu đói không có công ăn việc làm, điều trị tích cực tận gốc là ngoài công an – toà án ra phải lo công ăn chuyện làm, nâng cao đời sống cho dân. Thí dụ nữa: Hiện tượng bùa chú bói toán thờ cúng tràn lan có nguyên nhân sâu xa là: Dịch học ngành khoa học nền tảng là quy luật về sự biến đổi bị bọn lưu manh phù phép biến thành sách tà ma yêu thuật nói toàn chuyện quỉ thần và chuyên dùng để bói toán… Muốn chữa căn bệnh xã hội trên phải thay máu để trị tận gốc, nhà Chu đã dồn tâm trí của những bộ óc kiệt xuất nhất soạn thảo ra Chu dịch sau này thông qua Nho giáo và các nho sĩ mà tán phát tư duy khoa học ra toàn xã hội mong rằng từng bước chống lại, dần dần đè bẹp và sau cùng là tiêu diệt lề thói mê tín dị đoan, đấy đích thị là hoán kỳ huyết hay thay máu.
  14. Dịch học bài 52 ***** Lời Kết Dịch là sự chuyển biến, Dịch lý là lẽ chuyển biến hay quy luật chuyển biến . Đã gọi là lý thì phải sáng sủa rõ ràng, ở đây Dịch lý lại huyền ảo là trái lẽ thường. 1/ Việc đó có thể là do khách quan vì dịch học là tác phẩm của dân tộc Hùng, khi họ Hùng mất nước thì Dịch học cũng bị sang đoạt nhưng do trình độ văn minh của kẻ đã chiếm đoạt Dịch học quá thấp không thể hiểu nổi Dịch lý nên Dịch là suy tư khoa học, tính toán bị kéo xuống thành sách dùng để bói toán, sau gần ngàn năm mất chủ quyền dân họ Hùng dù đã phục hưng dân tộc nhưng quên luôn chủ quyền của mình đối với Kinh Dịch, coi đó là sản phẩm văn hóa ngoại lai và cũng đọc cũng học Dịch học y như người Tàu kết quả là Kinh Dịch trở thành tác phẩm huyền ảo, khó nuốt số một trên trần gian này, bóng khoa học thấp thoáng khắp cả cuốn kinh nhưng không tài nào nắm bắt được đích xác rõ ràng một chỗ nào để làm mấu chốt, đến độ trong ngôn ngữ dân gian việt hình thành từ “quỉ quái” để chỉ Dịch lý, quỉ là biến âm của quẻ, quái cũng là quẻ phát âm theo tiếng Tàu, 8 quẻ Đơn, 64 quẻ chồng của dịch học trở thành: cái “qủy quái” gì thế này? Biểu hiện não trạng của con người trước một sự kiện, sự vật… không hiểu nổi. 2/ Cũng có thể là do Hán tộc cố ý tạo ra sự huyền ảo đó; Dịch học là tinh túy tri thức, là nền tảng của khoa học nên với bản tính thâm hiểm sẵn có, họ đã cất giấu ém nhẹm Dịch học tinh tuyền- chân xác chỉ lưu truyền trong một thành phần đặc biệt nào đó, coi đó như bảo bối của dân tộc, còn với mọi người thì họ tung ra Dịch học giả hiệu đầu voi đuôi chuột chẳng ra sao cả, chính vì vậy nên Dịch mới huyền ảo, rõ ràng thấy có điểm sáng nhưng đi mãi chẳng tới… việc này tiền nhân người Việt đã nhắn cho con cháu biết..: đấy là cái nỏ thần giả mà Trọng Thủy đã tráo, còn nỏ thần thật hắn đã lấy đem đi rồi. Xưa Tây Bá Hầu tức ông Cơ Xương sau này là Văn Vương của nhà Chu hay Văn Lang của dân Âu Lạc cổ đã viết nên Chu dịch , sử Việt còn ghi chép rõ ràng về An Dương Vương lập nước Âu Lạc xây thành Cổ Loa làm Quốc đô, An Dương Vương chính là tên “Tam sao thất bổn” của Âm Dương Vương, vua Âm Dương thì rõ ràng còn ai khác ngoài Văn Vương người đã viết Chu Dịch. Quẻ Tỉnh viết : vua đã nạo bùn gạn đục khơi trong giếng để cho nước trở nên trong mát khiến mọi người có thể dùng được. Đấy cũng là tấm lòng và hoài bão của người viết sách này. Dịch học họ Hùng hết sức trong sáng và rõ ràng. Chứa đựng trong bản thân nó các qui luật của 3 tầng chuyển biến từ nông tới sâu. - Quy luật chuyển biến vật lý - Quy luật chuyển biến sinh học - Quy luật chuyển biến xã hội Chuyển biến vật lý được xác lập ở khối vật chất vô cơ, còn chuyển biến sinh học xảy ra trong khối vật chất hữu cơ; sự chuyển biến là kết quả của chuỗi phản ứng trực tiếp và khách quan. Còn sự chuyển biến xã hội luôn là phần giao của khách quan và chủ quan; hành động chủ quan, nỗ lực, cố gắng luôn là tâm điểm của chuỗi phản ứng vũ trụ con người. Bao la như vậy nhưng tinh túy của dịch học chỉ gồm 3 chữ: Nhân, Trung và Chính: - Nhân là con người, nhân cũng là trung tâm, cốt lõi; nhân là nơi xuất phát và quy về của mọi hành động chủ quan có ý thức - Nhân là đầu mối mọi giá trị không có con người thì không có gì là giá trị cả. Tất cả là con số không. Sau chữ nhân đến chữ Trung và Chính, trung không phải đơn thuần là ở giữa, trung còn là trúng hay đúng trong tiếng Việt, Dịch học chỉ cốt có một điều làm sao nắm được chữ Đúng. Đúng nơi, đúng lúc và đúng cách, nghe tưởng như đơn giản nhưng thực ra muốn đạt được điều đó là cả một quá trình tích lũy công sức của không biết bao nhiêu người, bao nhiêu đời để có một nền tảng khoa học, chữ đúng chính là cha đẻ của khoa học và chỉ có chữ đúng mới đưa đến thành công. Chữ Chính hay chánh là hành động theo lẽ phải hay làm điều phải, làm điều tốt cho mình và mọi người. Chữ Trung nằm trong phạm trù khoa học khách quan, còn chữ Chính lại thuộc phạm trù đạo đức chủ quan. Việc làm và chữ tâm khi làm việc đó là mấu chốt để bình xét chính hay bất chính, ở đời nổi cộm có 2 chữ quyền và lợi, nếu chủ tâm khi hành động chỉ nhắm đến lợi quyền cho mình thì bị coi là có tâm địa đen tối xấu xa, tức bất chính. Dịch học ra đời là cốt dạy cho ta làm sao đạt được sự dung hòa giữa bản ngã và tha nhân, giữa cái tôi và người khác, tuyệt đỉnh của sự dung hòa gọi là thái hòa. Tức trạng thái hòa hợp trọn vẹn mọi bề giữa ta, xã hội và trời đất tự nhiên. Dịch học rất xưa nhưng lại “hiện đại” 4 nguyên chuẩn của dịch học sau 3.000 năm vẫn còn y nguyên giá trị: 1/ Tính Nguyên = là khởi nguồn, mọi hành động đều khởi nguồn từ con người ngày nay gọi là tính nhân bản. 2/ Tính Hanh = hanh thông, thông suốt vì hợp lẽ, hay dựa trên khoa học mà hành động. 3/ Tính Lợi = lợi ích thiết thực không ăn bánh vẽ, phù du hư ảo. 4/ Tính Trinh = bền vững, lâu dài. Ích lợi trước mắt và cả mãi về sau Gọi là nguyên chuẩn vì nó là tiêu chuẩn hướng dẫn hành vi con người, hành động thành công hay thất bại, trọn vẹn hay không tùy theo hành động đó phù hợp tới mức nào so với 4 nguyên chuẩn trên. Mục tiêu cao nhất của Dịch học là sự làm chủ của con người. Tự chủ, làm chủ xã hội, làm chủ giới tự nhiên, làm chủ để có thể đạt mục đích của Dịch học là hạnh phúc mãi mãi cho mọi người. 3.000 năm sau Văn Vương, hôm nay chúng ta lại phải cùng nhau gạn đục khơi trong vì nước giếng đã trở thành bùn. Tính toán khoa học đã bị hạ cấp thành bói toán mê tín khiến Dịch học trở nên vô ích đối với nhân loại. Mạnh dạn dám nghĩ dám làm, xới tung tất cả lên, không kiêng kỵ điều gì, rồi dùng đầu óc mình mà sắp xếp lại. Rất mong được sự giúp sức của mọi người vì tự biết tài hèn sức yếu một mình cùng lắm cũng chỉ đi được một quãng đường… mong rằng cuối cùng rồi nước của “giếng Dịch học” cũng trong mát trở lại làm ích cho mọi người. Sách Tham Khảo 1- Chu Dịch Sào Nam Phan Bội Châu, NXB Khai Trí – Saigon 1969 2- Chu Dịch Chính Kinh – Hoàng Thư, NXB – Văn hóa Thông tin – TP.HCM 2001 3- Chu Dịch Đại Truyện – Lê Anh Minh, NXB Khoa học xã hội – TP.HCM 2006 4- Kinh Dịch Phục Hy huyền diệu và ứng nghiệm – Nguyễn Hồng Sinh – NXB TP.HCM 2002 5- Kinh Dịch cấu hình tư tưởng Trung Quốc – Dương Ngọc Dũng – Lê Anh Minh – NXB Khoa học xã hội – TP.HCM 2006 6- Kinh Dịch với Vũ trụ Quan Đông Phương – Nguyễn Hữu Lượng – NXB Sài Gòn 1971 7- Lạc Thư minh triết – Kinh dịch – NXB Nguồn Sáng – Sài Gòn 1971 8- Nguồn gốc văn hóa Việt Nam – Kinh Dịch – NXB Nguồn Sáng – Sài Gòn 1971 9- Nghiên cứu Chu Dịch – TT Quốc học Đại học sư phạm Hà Nội, NXB – Văn hóa Thông tin – TP.HCM 2002 10- Tâm tư – Kinh Dịch NXB – Khai trí Sài Gòn 1970 11- Tìm về cội nguồn Kinh Dịch – Nguyễn Vũ Tuấn Anh – NXB Văn hóa Thông tin – TP.HCM 2002 12- Cội nguồn văn hóa Trung Hoa – Dương Đắc Dương, bản dịch Nguyễn Thị Thu Hiền, NXB Hội Nhà Văn, TP.HCM – 2003
  15. Dịch học họ HÙNG – bài 51 32- Cặp quẻ: Khép (khấp) – Khởi Dịch học thông hành gọi là: Ký tế – vị tế Ký tế = là việc đã xong Vị tế = là việc chưa xong Dịch học họ Hùng có cặp quẻ: khép – khởi. Ý là: khép là khép lại, đồng nghĩa với ký tế, khép là kết thúc chu kỳ trước đồng thời cũng là khởi là bắt đầu chu kỳ sau. Lúc khép lại cũng chính là lúc khởi đầu. Quẻ khép – khởi của Dịch học họ Hùng ngược với Dịch học của Tàu: Hỏa trên thủy thành ra quẻ khép tức ký tế hay việc đã xong. Dịch học Tàu là : hỏa trên thủy tạo ra quẻ vị tế là việc chưa xong. Quẻ thủy trên hỏa thành quẻ khởi cũng tương tự. A- Quẻ: Khép = Hỏa/ Thủy Khép hay ký tế đều mang ý nghĩa là việc đã xong. Hỏa ở trên, thủy ở dưới là đã đâu vào đấy; mọi việc đã an bài, xem tượng đó nên đặt tên là ký tế. a) Lời Quẻ: Ký tế, hanh tiểu, lợi trinh, sơ cát chung loạn. Việc đã xong ký tế, việc nhỏ đã thông, bền lòng được hưởng lợi lúc đầu tốt đẹp về sau hỗn loạn. Chuyện nhỏ là chuyện làm ăn trong cuộc sống , Tiểu hanh là chuyện làm ăn thì hanh thông thuận lợi. Lúc đầu tốt đẹp vì như đã nói đến ở Hào từ quẻ trung phu, việc đã thành tức là lúc chế độ xã hội chuyển biến phù hợp với nền tảng vật chất kỹ thuật, về sau hỗn loạn vì khoa học kỹ thuật luôn biến đổi tiến bộ, sự tiến bộ này tạo thành một độ lệch, càng ngày càng lớn. Đó là nghĩa: sơ cát, chung loạn. b) Lời tượng: Hỏa tại thủy thượng, ký tế Quân tử dĩ tư hoạn, nhi dự phòng chi Quẻ khép hay ký tế: người quân tử xem tượng đó biết suy nghĩ đến sự loạn khi đang yên, phải lo ngăn ngừa từ khi nó chưa xảy ra. c) Lời Hào c.1) Hào Sơ Duệ kỳ luân, nhu kỳ vĩ, vô cữu . kéo lết bánh xe, ướt cái đuôi không lỗi. Dịch học dùng hình ảnh vượt sông để chỉ sự cải cách xã hội. Kéo lết cái bánh xe là hãm bớt tốc độ cải cách xã hội lại, vì bộ phận chậm tiến nhất (cái đuôi) trong nhân dân không theo kịp , không chấp thuận việc cải cách hoặc bắt buộc phải theo nhưng không thông suốt, khẩu phục tâm bất phục, làm chậm lại như thế thì không mắc lỗi. c.2) Hào Nhị Phụ táng kỳ phất, vật trục thất nhật đắc. Kiệu hay xe của phụ nữ quyền quý mất cái rèm che (nên không đi đâu được) , vật trục thất nhật đắc là Chuyển đổi nếp nghĩ, quan niệm về phong hóa không theo kịp với nhịp tiến xã hội, đừng bận tâm bởi cái nếp văn hóa đã lạc hậu ấy; chỉ một thời gian sau sẽ đâu vào đấy nghĩa là tự nó sẽ thích nghi. Kiệu hay xe của đàn ông đi không cần che rèm, bây giờ cải cách phong hóa xã hội bỏ luôn cái rèm che của kiệu hay xe của phụ nữ nghĩa là thực hiện bình đẳng nam nữ ; ý tưởng đó quá táo bạo ở thời phong kiến… c.3) Hào Tam Cao tông phạt quỷ phương, tam niên khắc chi, tiểu nhân vật dụng . Với lòng chí thành muốn khai hóa văn minh cho dân phía tây, vua Cao Tông nhà Thương đã đánh nước “phương Tây” hay Qủy phương , bọn tiểu nhân không thể làm như thế. Chữ Quỷ là biến âm của Quí hay Cửu nghĩa là số 9, số 9 trong Hà Thư (đồ) chỉ phương Tây (số 8 chỉ phương Đông); Quỷ phương là nước ở phía Tây lãnh thổ nhà Thương. Đất chính của nhà Thương và Ân Thương là vùng hồ Nam và Hà Nam, phía Tây của vùng ấy là Tứ Xuyên ngày nay, đấy là đất của giống người Khương hay Tạng Tộc, sau được gọi là người Quì Việt hay Quỉ Việt Tiểu nhân vật dụng là bọn tiểu nhân làm gì có lòng chí thành muốn khai hóa văn minh cho dân, chúng chỉ có lòng tham lam, chiếm đất đoạt của thì tuyệt đối không được gây chiến chiếm đất . Đa số các bản dịch kinh chu dịch đều dịch: Tiểu nhân vật dụng là không được dùng bọn tiểu nhân. c.4) Hào Tứ Nhu hữu y như, chung nhật giới Coi chừng áo lành thành áo rách. Lúc nào cũng phải cảnh giác. Cách mạng thành công rồi nhưng không được ngủ quên trên chiến thắng. Từng giờ từng phút những thói hư tật xấu cùng với bọn giả danh cách mạng hay bọn thoái hóa biến chất lúc nào cũng sẵn sàng ngóc đầu dậy phá hoại những thành tựu của công cuộc cải cách….biến áo lành thành ra áo rách. c.5) Hào Ngũ: Đông lân sát ngưu (dĩ tế) bất như tây lân chi thược tế, thực thụ kỳ phác. Nhà Ân Thương tế lễ thịnh soạn (sát ngưu) không bằng nhà Chu tế lễ đơn giản đạm bạc (thược tế),nhưng trời lại ban ân giáng phúc cho bộ tộc Chu. Cuối đời Ân Thương sa đọa đến cực điểm; mất lòng dân thì có hối lộ trời bằng cách giết trâu tế lễ trời cũng chẳng dám nhận, vì lòng dân là ý trời, ngược lại nhà Chu thời Văn Vương, Vũ Vương thực là bậc minh quân – thánh đức.Phong hóa xã hội tốt đẹp , chính đạo sáng ngời như vậy chỉ cần tế lễ mọn tượng trưng thôi vì ý trời đã sẵn hướng về nhà Chu. c.6) Hào Thượng Nhu kỳ thủ lệ. Cực thịnh ắt suy, trăng tròn là lúc bắt đầu khuyết, nguy ở chỗ là không phải một số dân chậm tiến ngu muội không đồng tình với cải cách mà bây giờ chính hàng ngũ lãnh đạo không muốn tiếp tục cải cách vì sự cải cách sẽ đụng chạm đến quyền lợi họ đang có, đang được hưởng nên hào từ bảo: Nhu kỳ thủ, lệ: Qua sông mà ướt cái đầu, đáng lo. Dịch là chuyển biến, sự chuyển biến liên tục không bao giờ dừng lại, có những người hôm nay hăng hái phất cờ tiên phong cách mạng nhưng thời gian sau lại trở thành đối tượng mà cách mạng phải trừ khử vì họ khư khư ôm ghế nên trở thành cục đá chắn đường , Từ phần tử tiên tiến. Sau đó tự mãn không tiếp tục tu dưỡng rèn luyện để sau một thời gian lại trở thành phần tử chậm tiến lac hậu so với thời thế. B- Quẻ: khởi = thủy/ hỏa Dịch học Tàu là : vị tế là việc chưa xong. Thủy mà ở trên hỏa là trái lẽ thường tức chưa “đâu vào đấy”. Sự trái lẽ thường ấy khiến lại phải bắt đầu công việc nên đặt tên là quẻ Khởi, nghĩa là bắt đầu. Vạn vật phát triển theo chu kỳ, nên điểm kết thúc chu kỳ trước lại là điểm khởi đầu của chu kỳ sau, cứ vậy chuyển biến mãi không ngừng. a) Lời Quẻ: Vị tế hanh – tiểu hồ ngật tế – nhu kỳ vĩ, vô du lợi. Việc chưa xong, đúng theo qui luật phát triển, cải cách là quốc gia đại sự, tâm địa nhỏ nhen lưu manh vật vãnh (tiểu hồ) không thể đảm đương được, tâm địa đó cùng lắm chỉ là kẻ bám đuôi, “ăn theo” cách mạng, những kẻ đó chẳng lợi ích gì cho xã hội cả. b) Lời tượng Thủy tại hỏa thượng (ngược với Dịch học Thông hành) vị tê, quân tử dĩ biện vật cư phương. Xem tượng quẻ khởi, lửa ở trên nước là trái lẽ thường, bậc trưởng nhân phải thận trọng nghiên cứu sắp xếp nhân sự, đâu vào đấy để ai cũng phát huy được thế mạnh của mình, tức đạt mức tối ưu trong năng suất . Chuyện tưởng đơn giản ai cũng hiểu, nhưng lại không phải vậy, ngay thời buổi này mà có chuyện tưởng như đùa; trí thức thì cho về nông thôn cày ruộng, còn nông dân bỏ đồng áng công nhân bỏ xưởng máy để làm… lãnh đạo nên các ngài chăn dân cứ như chăn trâu…. Ai muốn hiểu biết thêm thì cứ đến Trung Quốc hỏi thăm lớp cựu Hồng vệ binh… c) Lời tượng c.1) Hào Sơ Nhu kỳ vĩ, lận Hào sơ chỉ thành phần thấp nhất, đầu óc kém cỏi nhất, chậm tiến nhất trong xã hội, bản thân họ chẳng biết cách mạng là gì – chỉ theo sau như cái đuôi bắt buộc phải theo cái thân vậy thôi. c.2) Hào nhị Duệ kỳ luân, trinh cát Hãm bớt tốc độ, nhưng kiên quyết cải cách, tốt. Các điều kiện của cải cách đã có đủ, nhưng vẫn phải thận trọng cải cách từng bước; để toàn xã hội đủ thời gian thích ứng với cơ chế mới, xong bước trước, rồi mới bước bước sau, ý chí cách mạng luôn vững vàng không chùn bước, tốt lắm. c.3) Hào Tam Vị tế, chinh lung, lợi thiệp đại xuyên Vị tế là việc đang làm, cách mạng đổi mới là một quá trình liên tục, cải cách là để thăng tiến xã hội, nếu dùng bạo lực coi cách mạng là chiến tranh để dành giật thì cực kỳ xấu. c.4) Hào Tứ Trinh cát, hối vong, chấn dụng phạt quỉ phương, tam niên hữu thưởng vu đại quốc. Bền lòng theo đường công chính, mọi hối thẹn biến mất, chinh phạt quỷ phương làm chấn động thiên hạ, sau 3 năm được thiên tử phong là “đại chư hầu”, Hào từ này nói về bụng dạ và uy vũ của ông Vương quí cha Văn vương , ông đã chinh phạt nước “Quỷ phương” là nước ở phía Tây đất nhà Thương ân , được vua nhà Ân vô cùng quý trọng và nước của ông được coi là ‘đại chư hầu’ . c.5) Hào Ngũ Trinh cát, vô hối, quân tử chi quang, hữu phu, cát. Hào ngũ chỉ địa vị tôn quí tức là vua. Giữ chánh đạo được tốt lành, không phải hối thẹn điều gì, hào quang nơi bậc trưởng nhân đã ngời sáng. Tự tin nơi mình, mọi việc tốt lành. Hào từ này nói về ông Cơ Xương hay Tây Bá Xương nổi tiếng là người có thánh đức, trong cuộc cạnh tranh giữa 2 thế lực, lòng dân đã ngã về ông, bỏ Trụ Vương, vậy mà ông không tiến công diệt Trụ để lên ngôi Thiên tử, đấy chính là quân tử chi quang; Trụ Vương không hề thức tỉnh càng ngày càng tác tệ hơn , đến đời con Văn Vương là Vũ Vương phải thay cha hành đạo, lập nên nhà Chu tôn vinh cha là Văn Vương. , Tiếng Việt là Văn Lang (lang = Vương). Việt sử gọi là : An Dương Vương (chính xác phải là Âm Dương Vương ) để chỉ việc ông viết ra Chu dịch. c.6) Hào Thượng Hữu phu, vu ẩm tửu, vô cữu, nhu kỳ thủ, hữu phu thất thị. Tự tin nơi mình, thảnh thơi nhấm nháp chút rượu không lỗi gì, còn ngập đầu trong ăn chơi rượu chè thì phải coi chừng. Hào thượng của quẻ khởi chính là lúc xong việc, xong việc chính là lúc phải cảnh giác, người ta rất dễ ngủ quên trên chiến thắng, sự ngủ quên này thường đưa đến những sai lầm khiến mình đánh mất chính mình, quân tử chi quang bị chìm mất trong biển rượu… tỉnh ra thì đã muộn vô phương cứu chữa.
  16. Dịch học bài 50 31. Cặp Quẻ: Trung phu – Tiểu quá Trung phu là sự tin tưởng ở trong lòng hay lòng tin, có lòng tin Tiểu quá có 3 nghĩa: - Nghĩa 1 : chỉ có một số ít vượt qua được - Nghĩa 2: chỉ có thể quá với những việc nhỏ. - Nghĩa 3: chỉ có thể quá một chút (ít) thôi so sánh : Trung phu – tiểu quá Di – Đại quá với sự tin tưởng trong lòng thì chỉ một số ít vượt qua được còn muốn cho đa số quần chúng bước qua được thì phải nuôi (di) tức tạo ra cho đầy đủ các điều kiện vật chất, khiến thời cơ trở nên chín mùi, lúc đấy mới có quần chúng cách mạng. Sở dĩ có cặp quẻ này là để chỉ bảo cho những người cách mạng, đừng phiêu lưu chủ quan duy ý chí quần chúng không theo là thất bại rồi đấy. A- Quẻ Tiểu Quá = Lôi/ Sơn a) Lời quẻ Tiểu quá, hanh, lợi trinh, khả tiểu sự, bất khả đại sự, phi điểu di chi âm, bất nghi thượng, nghi hạ, đại cát. Tiểu quá, hanh thông, lợi ích lâu dài. Chỉ dùng vào việc nhỏ như tang ma lễ nghi tiêu dùng ,không dùng vào việc quốc gia đại sự được, lòng tin chỉ như tiếng vỗ cánh của con chim trên trời cao, nào có cầm nắm thực sự ở trong tay ;đòi hỏi quá cao, phải hạ thấp mục tiêu ở mức thực tế mới có thể thực hiện – tốt lắm. Cách mạng là sự đổi đời nên không thể chỉ có niềm tin mà làm được, vì cách mạng là sự nghiệp của toàn dân mà với lòng tin thì chỉ có một ít người dám vượt sông mà thôi, phải biết thức thời điều chỉnh hạ thấp độ cao của mục tiêu xuống, khiến khả thi. b) Lời tượng: Sơn thượng hữu lôi, tiểu quá, quân tử dĩ hạnh quá hồ cung, tang quá hồ ai, dụng quá hồ kiện. Sấm động trên đỉnh núi là tượng quẻ tiểu quá, động trên đỉnh núi là chỉ có số ít động mà thôi (động dưới chân núi mới là số đông chuyển động hay đại quá) bậc trưởng nhân phải biết chỉ có thể “quá” trong những việc cá nhân vặt vãnh như đức hạnh quá khiêm cung, tang ma quá bi ai, tiêu dùng quá tiết kiệm mà thôi. a) Lời Hào c.1) Hào Sơ: Phi điểu dĩ hung Hào sơ chỉ sự khởi đầu hay non nớt; phi điểu dĩ hung là con chim non mà bay cao thực nguy hiểm vì ‘qúa’ sức của nó. Muốn làm cách mạng để đổi đời thì phải biết chờ đợi thời cơ, thời cơ chưa có mà nôn nóng làm bừa như con chim non đã vội bay lên cao như thế là manh động hay hành động mù quáng ắt sẽ thất bại. c.2) Hào nhị: Quá kỳ tổ, ngộ kỳ tỷ, bất cập kỳ quân, ngộ kỳ thần, vô cữu. Phải biết lượng định sức mình, nếu nhắm đến những mục tiêu quá cao vượt sức mình sẽ thất bại, phải biết thực tế điều chỉnh hạ thấp xuống để có thể hoàn thành. Mong muốn thái quá định gặp ông tổ nhưng chỉ gặp nổi bà nội, không được gặp vua, chỉ gặp được quan, biết nhìn nhận thực tế khách quan đó thì không lỗi. c.3) Hào tam: Phất quá phòng chi, tòng hoặc tường chi, hung. Phải ngăn ngừa quá đi từ lúc việc chưa xảy ra, đợi xảy ra rồi mới lo là đã trễ , Đã bị tổn hại , câu này nghĩa tương tự : phòng bệnh hơn chữa bệnh vậy , đã mắc bệnh dù chữa khỏi cũng là tổn hại sức khỏe rồi. c.4) Hào Tứ Vô cữu, phất quá, ngộ chi, vãng lệ tất giới, vật dụng vĩnh trinh. Không có lỗi (trong trường hợp đặc biệt) có thể quá một chút, tiến đến mức giới hạn rồi không được tiến thêm nữa; không thể luôn luôn “quá” như thế được. Dịch dạy chúng ta cái thường thường nhưng không bỏ sót cái bất thường. Thí dụ như khi thiên tai địch họa ập đến để đối phó kịp thời ta có thể phá bỏ mọi quy luật thông thường…. Nhưng việc này chỉ có thể ở một lúc một nơi nào đó thôi không thể kéo dài mãi được. c.5) Hào ngũ Mật vân bất vũ, tự ngã tây giao ,công đặc thủ bị tại huyệt. Ở phía Tây đất Giao là đất của Tây bá , uất khí đã ùn lên tận trời. Phải tấn công vào sào huyệt con ác thú mà thôi, con ác thú chỉ Trụ Vương, sào huyệt của hắn là Ân Đô. Người tấn công là Chu Vũ Vương, ông Cơ Phát đã thống lãnh dân quân đất phía Tây cùng với các chư hầu mở cuộc tấn công vào kinh đô nhà Ân Thương chặt đầu Trụ Vương ở biệt đô triều ca. c.6) Hào Thượng Phất ngộ quá chi, phi điểu ly chi, hung, thị vi tai sảnh. Không biết đến chữ trung, cứ tiến đi mãi, như con chim phải bay quá xa ắt kiệt sức, nguy hiểm, hung họa tới nơi. Không biết lượng định thời thế, không biết tự lượng sức mình, cố làm việc bất khả thi nên thất bại, thất bại thì tổn hại. Hào từ này nói đến việc ông Cơ Xương khi nhà Ân Thương sai người giết Vương Quí cha ông, quá phẫn uất Cơ Xương đã không lượng sức mình đem quân đánh Trụ vương, kết quả thất bại thảm hại. B- Quẻ Trung phu = Phong/ trạch Trung phu là có lòng tin Thấy mặt hồ gợn sóng ta tin là do gió thổi, có lòng tin vậy thôi chứ có ai thấy gió đâu, gió là thiên tượng nên không có hình (tại thiên thành tượng, tại địa thành hình). a) Lời Quẻ Trung phu, đồn ngư cát, lợi thiệp đại xuyên, lợi trinh. Tin theo ngu như heo – cá, tốt , dùng để cải cách xã hội, có lợi lâu dài. Với tầng lớp mà trí óc chưa khai mở, chưa thể tự suy luận thì tốt nhất là tin theo người trên, sự tin tưởng này có thể dùng để cải cách xã hội, xã hội tiến bộ mang lại lợi ích lâu dài. b) Lời tượng: Trạch thượng hữu phong, trung phu quân tử dĩ nghị ngục hoãn tử. Trên quẻ trạch là quẻ phong, thành ra quẻ trung phu; bậc trưởng nhân xem tượng ấy, tiếp tục bàn bạc xét xử, hoãn thi hành án tử hình. Chết thì không thể sửa đổi được nữa, vì vậy nếu chỉ là sự tin tưởng thôi không phải là nhân chứng vật chứng rành rành thì không thể vội vã phán tội được, nếu quả tang phạm pháp thì không nương tay nhưng ở đây chỉ tin như thế tức là chỉ thấy dấu hiệu của tội phạm để suy diễn quy kết mà thôi, nên bậc trưởng nhân phải hết sức thận trọng nghị bàn cho đến khi thấu suốt cặn kẽ mới phán quyết. Tránh tuyệt đối sự hàm oan vô phương cứu chữa. c) Lời Hào c.1) Hào Sơ: Ngu cát, hữu tha bất yên Đầu óc non nớt cứ một mực tin theo bậc trên là tốt đẹp, nếu có ý khác đi thì bất an trong lòng. Hào sơ ý chỉ thời còn non nớt phải tin theo sự chỉ dạy dẫn giắt của cha anh, nếu không như thế thì trong lòng không yên ổn vì đầu óc mình chưa đủ sức để suy nghĩ chín chắn. c.2) Hào Nhị Minh hạc tại âm, kỳ tử họa chi, ngã hữu hảo tước, ngô dữ nhĩ mị chi. Chỉ cần nghe tiếng hạc mẹ là cả đàn con họa theo, ta có bầu rượu ngon muốn cùng người chia xẻ, ý nghĩa là: Chu Dịch hàm chứa quy luật vận động của tự nhiên và xã hội, rượu ngon là ý nghĩa Dịch học, chia xẻ cùng người là ai ai cũng có thể vận dụng Dịch học để làm lợi cho bản thân và cho mọi người, minh hạc tại âm nghĩa là dù cho Văn Vương, Chu Công không còn nữa (Minh là bóng tối – ý là dù đã khuất) nhưng khi thấy những lời giáo huấn trong Dịch học thì các môn đồ hay đệ tử tin tưởng , học và làm theo. c.3) Hào Tam Đắc dịch, hoặc cổ, hoặc bãi hoặc khấp, hoặc ca. Đắc dịch là tìm được trong Dịch học… Dịch học của người Tàu viết là: đắc địch nghĩa là được địch? … thắng quân địch… hay gặp quân địch… không hiểu nổi. Đắc dịch: tìm thấy, tìm được trong dịch học điều tâm đắc: • Hoặc c : sự cổ vũ khuyến khích làm việc tốt việc thiện việc đúng. • Hoặc bãi : răn đe, ngăn cấm không được làm việc ác, việc lỗi đạo, xấu xa. • Hoặc khấp : khóc ý nói dịch học chỉ ra lý do thất bại. • Hoặc ca : ca hát vui vẻ ý là: dịch học chỉ ra nguyên nhân thành công. c.4) Hào tứ Nguyệt cơ vọng, mã tất vong vô cữu. Trăng rằm là ngày trăng tròn, trăng tròn báo hiệu là trăng sắp khuyết. Ngựa sóng đôi cũng là lúc báo trước sẽ có con vượt lên, con lui lại. Đấy là lẽ tuần hoàn vơi đầy của trời đất, nào ai có lỗi gì. Lẽ đời lúc cực thịnh cũng chính là lúc bắt đầu đi xuống. Ngựa sóng đôi là lúc chế độ xã hội hoàn toàn phù hợp với cơ sở vật chất kỹ thuật nhưng cả 2 đâu có đứng yên, khoa học kỹ thuật tiếp tục phát triển tạo nên độ lệch và càng ngày càng lệch… độ lệch lớn đến một giới hạn sẽ phá vỡ kết cấu , xã hội chuyển sang một hình thái xã hội mới phù hợp với cơ sở vật chất kỹ thuật… cứ như thế cuộc tiến hóa tiếp tục . c.5) Hào ngũ: Hữu phu – luyến như – vô cữu. Đức tin giúp người ta liên kết chặt chẽ với nhau – không lỗi gì. Cùng tín ngưỡng thì có giáo hội, cùng chí hướng thì có hội đoàn đảng phái cũng có thể hiểu là: với lòng chí thành vua có thể liên kết thiên hạ lại với nhau. c.6) Hào thượng: Hàn âm đăng vu thiên, trinh hung. Nhiều học giả dẫn sách xưa chú giải: hàn âm là con gà dùng để tế lễ nơi tông miếu. ở đây ta hiểu :Con gà bay lên trời cao, lâu dài như thế là xấu. Gà là loài sống ở dưới đất bay lên trời chắc là chỉ trong chốc lát, làm sao có thể bay lâu được, kéo dài sẽ nguy hiểm. Đặt niềm tin không đúng chỗ đúng đối tượng, tin gà bay vút lên trời cao là sai lầm không thể tha thứ, sẽ thất vọng mau chóng, mau mau tỉnh ngộ nếu không sẽ rất nguy hiểm.
  17. Dịch học bài 44 25. Cặp Quẻ Thay cũ – Đổi mới Biến đổi hay thay cũ đổi mới là biến xấu thành tốt. Sự việc đang hết sức tồi tệ, muốn đảo chiều phải thay một guồng máy mới, đổi thay trong chính trị thường dùng mỹ từ cách mạng, nhà Thương thay nhà Hạ, nhà Chu thay nhà Thương được lịch sử gọi là Thang Vũ cách mạng, tức cuộc thay đổi do vua Thành Thang và Chu Vũ Vương tạo ra. Cặp quẻ này Dịch học của Tàu là cặp cách – đỉnh, cách là cải cách đồng nghĩa với đổi, còn đỉnh là cái đỉnh, cái vạc là để nấu nướng, nấu nướng tức biến đổi đồ ăn từ sống thành ra chín… cũng có thể hiểu là đỉnh là đã đến tột cùng rồi như mặt trời giữa trưa hoặc trăng đêm rằm rồi sẽ thay đổi đi, trưa rồi tới chiều, trăng tròn rồi khuyết, tất cả đều biến đổi trong tự nhiên không gì đứng yên mãi . A- Quẻ Thay cũ = hỏa/ phong Biến hay thay cũ. Lửa ở trên gió thổi ở dưới, tùy theo gió thổi mạnh hay nhẹ mà nhiệt độ biến thiên, tăng lên hay giảm xuống, thánh nhân xem tượng ấy mà đặt tên là quẻ thay cũ, Dịch học Tàu gọi là cách tân chính trị là thay cũ (đổi mới). a) Lời Quẻ: Biến, dĩ nhật, nãi phu, nguyên hanh lợi trinh, hối vong. Thay cũ tức chánh biến – phải có thời gian mới tạo được niềm tin của dân chúng, biến cách tốt đẹp thì phải dựa vào 4 nguyên chuẩn, nguyên hạnh lợi trinh, tất cả vì dân, đúng hơn là vì hạnh phúc lâu dài của nhân dân, không phải băn khoăn gì. b) Lời tượng: Trạch trung hữu hỏa, biến (cách) quân tử dĩ trị lịch minh thời. Quẻ biến động ; bậc trưởng nhân xem tượng trời đất biến đổi mà làm ra lịch pháp, phân định 4 mùa hoặc định rõ thời vụ mùa màng để cho dân gieo trồng. Một năm 4 mùa tuần tự biến đổi thay nhau, con người làm nông nghiệp cũng theo thời vụ, mùa nào cấy lúa, mùa nào trồng khoai, vì vậy bậc thánh nhân lo lắng giúp đỡ cho dân bằng cách soạn ra lịch pháp, nếu không thì thời gian cứ trôi mãi như vô tận, người dân biết bấu víu vào đâu để phân định mùa màng làm ăn. c.1) Sơ cửu Củng dụng hoàng ngưu chi cách Muốn làm chính biến lật đổ một triều đại đã có bề dày lịch sử mấy trăm năm không phải dễ dàng gì, không thể một người một “nước” mà làm nổi, phải hình thành hẳn một liên minh cách mạng, liên minh phải thống nhất ý chí, gắn kết chặt chẽ với nhau như được buộc lại bằng dây da bò. c.2) Hào nhị Dĩ nhật nãi cách chi, chinh cát, vô cữu. Hết ngày thì phải tới đêm tức là đã đến lúc phải thay cũ, thời cơ cách mạng đã đến, xuất quân tiến đánh đi rất tốt không lỗi gì, ở đây ý nói liên minh các chư hầu do Vũ Vương cầm đầu hãy tiến công đánh vào dinh lũy của Trụ Vương đi. c.3) Hào Tam Chinh hung, trinh lệ, cách ngôn tam tựu, hữu phu . Tiến đánh thì nguy hiểm, chần chừ kéo dài thì đáng lo ngại, phải cân nhắc, suy tính hết sức cẩn trọng như uốn lưỡi 3 lần trước khi nói thì mới tin chắc thành công, đấy là tình thế và tâm tư của Vũ Vương nhà Chu trước khi tiến hành cách mạng lật đổ nhà Ân Thương. c.4) Hào Tứ Hối vong, hữu phu, cải mệnh, cát. Những đắn đo trăn trở chấm dứt, tin chắc vào thắng lợi, mệnh trời đã chuyển, tốt đẹp. Người xưa tin tưởng được mệnh trời mới có thể làm thiên tử, mệnh trời đang ở với nhà Thương, nhà Chu làm cách mạng tức cải mệnh trời. Trụ Vương xấu xa độc ác, nên mệnh trời đã chuyển giúp cho Vũ Vương thắng lợi cách mạng thành công tốt đẹp. c.5) Hào ngũ Đại nhân hổ biến, vị chiêm hữu phu, bậc đại nhân xoay chuyển thời thế. Mọi người không cần thấy cũng tin tưởng vào cuộc cách mạng (chính nghĩa thành công) c.6) Hào Thượng Quân tử báo biến, tiểu nhân cách diện chinh hung, cư trinh cát. Quân tử thực lòng biến cách, tiểu nhân chỉ thay đổi bề ngoài. Đấy là bộ mặt xã hội khi cách mạng đã thành, chuyển biến không phải là tất cả lũ tiểu nhân chỉ bề ngoài hoan hô lấy lệ chứ không thực lòng vì nếu đổi mới , vì nếu kỷ cương phép nước công minh thì chúng lấy gì mà ăn? không thể dùng bạo lực để cách mạng triệt để mãi… giữ vững sự yên bình của xã hội, đẹp lắm rồi đừng khuấy động nữa. Dịch học dạy ta một điều hết sức thực – không phải cách mạng rồi là chỉ còn toàn người tốt, bọn “cách diện” chỉ tạm ẩn đi chờ thời cơ mà thôi, mọi người đừng lơ là chủ quan, cuộc đấu tranh giữa cái tốt và xấu không bao giờ dứt được, quan trọng là từng thời điểm ai thắng ai mà thôi. B- Quẻ đổi mới = trạch/ hỏa Đổi mới : quẻ Đoài là tri thức sâu rộng , quẻ Ly là thần trí sáng suốt, chỉ bậc đại nhân toàn trí toàn tài mới thay cũ đổi mới được. Quẻ này gần giống với quẻ phong hỏa đỉnh. Đỉnh là cái vạc để nấu đồ ăn của Dịch học Tàu – Trạch là nơi chứa nước, lớn như hồ như suối, nhỏ như nồi như vạc, trạch trên hỏa là tượng cái đỉnh đang nấu thức ăn có lửa đun ở dưới, công dụng của đỉnh là biến thức ăn từ sống thành chín, từ vật không dùng được thành dùng được. a) Lời Quẻ: Nguyên cát hanh Thay cũ đổi mới hết sức to lớn, tốt lành và hanh thông, khi cái cũ đã trở thành cục đá cản đường tiến lên thì phải thay đổi đi đấy là lẽ trời và lòng người, có gì cản trở được. b) Lời tượng: Quẻ đổi mới: quân tử dĩ chính vị ngưng mệnh. Thụ mệnh trời ban gọi là ngưng mệnh, chính vị là ngôi vị của mình là chính đáng. Cái cũ đã trở nên xấu xa hủ bại. Trời chuyển mệnh trao ngôi vị vào tay bậc đại thánh đại trí đấy là lẽ thường cũng là thiên lý, bậc trưởng nhân nào có ham hố chức quyền chẳng qua là thi hành mệnh lệnh từ trời cao, lên ngôi chí tôn vì hạnh phúc của trăm họ muôn dân. c) Lời Hào c.1) Hào Sơ Đỉnh điên chỉ, lợi xuất bỉ, đắc thiếp dĩ kỳ tử, vô cữu. Lật úp cái đỉnh xuống, tống hết đồ ăn cũ thiu thối ra, được mọi người và cả con cháu họ ủng hộ. Ý hào là khi đã lật đổ triều đại cũ trước hết là thay cũ, phải bỏ guồng máy cũ sa thải quan lại cũ, hủy bỏ nề nếp hủ bại cũ như thế sẽ được nhân dân ủng hộ nhất là lớp trẻ nhiệt huyết và nhạy bén với cái mới. c.2) Hào nhị Đỉnh hữu thực, ngã cừu hữu tật bất ngã năng túc, cát. Đã thay cũ rồi đến đổi mới, thiết lập guồng máy mới, con người mới, kỷ cương mới. Bọn người cũ (quan lại) vẫn chứng nào tật nấy nên bất cộng tác, đổi thay rất tốt đẹp. c.3) Hào Tam: Đỉnh nhĩ cách, kỳ hành tắc, trĩ cao bất thực, phương vũ khuy hối, chung cát. Lòng dân đang thay đổi hay dư luận đang đổi chiều (đỉnh nhũ cách). Tuy sự ưu việt của chế độ mới chưa bộc lộ ngay nhưng rồi đây các lợi ích sẽ đến với mọi người, không phải băn khoăn gì (phương vũ khuy hối) rồi ra sẽ hết sức tốt đẹp. c.4) Hào tứ: Đỉnh chiết túc, phúc công tốc, kỳ hình ốc, hung… Không đảm đương nổi công việc khiến tổn hại đến đại cuộc, phải chịu sự trừng phạt đích đáng, xấu lắm. Quẻ này chắc nói đến việc ‘tam giám’ nhà Chu thất bại để con cháu nhà Ân Thương cũ âm mưu cùng bọn Hoài Di – Từ Nhung nổi loạn. Vũ Vương sau khi lật đổ đã không tận diệt nhà Ân Thương mà phong cho con vua Trụ là vũ Canh Tước Hầu cho cai quản vùng kinh đô cũ, Chu Công sai 3 người em là: Thái Thúc – Quản Thúc và Hoắc Thúc ở những vùng đất chung quanh để canh chừng gọi là tam giám ….. không hiểu họ giám thế nào lại để Vũ Canh với Hoài Di Từ Nhung nổi loạn khiến Chu Công phải thân chinh đánh dẹp suốt 3 năm trường. 3 ông “giám” người tự tử người bị giết và kẻ bị lưu đày. c.5) Hào ngũ Đỉnh hoàng nhĩ, kim huyên, lợi trinh. Lòng dân đã hướng về triều đại mới. Cách mạng tiến bước vững chắc. Đem lại lợi ích lâu dài cho nhân dân. Đỉnh hoàng nhĩ : tai đỉnh màu vàng ý nói dư luận đã hoàn toàn đồng thuận, kim huyên là cái đòn khiêng bằng kim loại , ý chỉ tiến đi vững chắc. c.6) Hào thượng Đỉnh ngọc huyên, đại cát, vô bất lợi. Cách mạng đã thành công rực rỡ, tính ưu việt của chế độ mới đã phát huy trọn vẹn, cực kỳ tốt đẹp, không có gì là không lợi. Đỉnh ngọc huyên có dịch giả dịch là cái đòn khiêng đỉnh bằng ngọc…. Thì chịu thua không hiểu nổi, thấy kỳ quá có vị sửa lại: cái đòn khiêng đỉnh có nạm ngọc…. Cũng tạm ổn nhưng không hiểu ý nghĩa là gì.
  18. Dịch học bài 48 29- Cặp quẻ Đoài – Tốn hay Chứa – chan Đoài là tích chứa, chồng chất lên, tốn là tán, tản ra. Đây là cặp quẻ đối xứng. Trong Dịch học đã hàm chứa định luật bảo toàn năng lượng, không gì sinh ra, không gì mất đi tất cả chỉ là sự dời đổi, chuyển hóa. Nếu có một bên tích tụ bắt buộc phải có bên phát tán. Có đi lên thì có đối xứng đi xuống. Có người lời thì phải có người lỗ. Có người mất ắt có người được…. Quẻ Thuần Đoài chỉ tri thức hay sự hiểu biết, tánh của nó là tích tụ vì tri thức hay sự hiểu biết luôn được các thế hệ sau kế thừa và phát huy, tăng thêm, đời sau và đời sau nữa vẫn thế. Quẻ tốn chỉ việc sắp đặt, quản trị, đối với qui mô quốc gia là chính trị, tốn thực ra là biến âm của chữ tán, tản, tan nghĩa là càng văn minh thì quyền lực chính trị càng tán phát hay tản ra, tán phát hết mực là giao quyền về cho từng thành viên của xã hội tức mỗi công dân, tản quyền hết mức là dân chủ trực trị mọi người cùng nhau làm chủ…. Tự quyết định số phận của chính mình. A- Quẻ chứa hay Đoài: Thuần đoài. Hình tượng quẻ đoái là cái hồ, nơi tích trữ nước. Cơ thể con người thì Đoài là cái đầu hay đầu óc nơi chứa trữ và xử lý thông tin. a) Lời quẻ Đoài, hanh lợi trinh Quẻ Đoài là sự hiểu biết, hiểu biết về tự nhiên mang tính khách quan nên ở đây không có chữ nguyên. Hanh, lợi, trinh là hợp lẽ, thiết thực và bền vững. b) Lời tượng: Lệ trạch, đoài, quân tử dĩ bằng hữu giảng tập . 2 hồ mà thông nước với nhau cũng như 2 cái đầu truyền đạt thông tin cho nhau. Bằng hữu giảng tập là bạn bè giúp nhau học tập, trao đổi bổ sung kiến thức cho nhau. c) Lời Hào c.1) Hào Sơ: Hòa – Đoài – cát Tổng hợp những sự hiểu biết khác nhau lại hay kết hợp hài hòa mọi nguồn tri thức lại, rất tốt. Kết hợp cổ truyền và hiện đại, kết hợp sự hiểu biết trong các lãnh vực khác nhau, hay tổng hợp những hiểu biết của mình và của người. Tất cả những kết hợp đó gọi là hòa đoài. c.2) Hào nhị: Phu đoài, cát, hối vong. Có lòng tin vào khoa học, tốt, không phải hối hận. Khoa học là sự đúc kết các quy luật vận động, tin tưởng vào khoa học mới có thể khám phá tự nhiên và khai thác tự nhiên, rất tốt đẹp có gì phải hối hận. c.3) Hào Tam Lai, đoài, hung Hiểu biết chưa tới nơi tới chốn, xấu. Cũng có thể dịch là: phải xét lại những đều đã biết. Tức là có thể đã có sai lầm đưa đến những hậu quả tai hại, thực nguy hiểm. c.4) Hào Tứ Thương Đoài, vị ninh, giới, tật, hữu hỷ . phải luôn cân nhắc xem xét kỹ lưỡng, không được yên lòng vì những giới hạn và khuyết tật trong sự hiểu biết, như thế mới được vui mừng. 5/ Hào ngũ: Phu vu bác, hữu lệ. Tin vào những điều đã bị bác bỏ, thực đáng lo. Khoa học luôn luôn tiến bước, việc phủ định những hiểu biết trước đó là chuyện thường, phải luôn cập nhật những hiểu biết nếu không sẽ mắc sai lầm nghiêm trọng. 6/ Hào thượng: Cảnh, Đoài Cảnh cáo khuynh hướng duy khoa học. Có sách chép là: Dẫn, Đoài. Ý nghĩa là: khoa học phải được dẫn dắt bởi đạo đức lương tâm tức là phải định hướng phục vụ nhân sinh, nếu không có ngày loài người sẽ bị tiêu diệt bởi chính những phát minh của mình. Đặc biệt các hào từ quẻ Đoài kết cấu ngôn ngữ rất lạ, từ Hoa nhưng cấu trúc Việt. B- Quẻ Tán = Tốn/ Tốn cũng là chan; san Tề hồ tốn, quẻ Tốn chỉ sự quản trị, quản trị từ đoàn thể nhỏ như gia đình tới đoàn thể lớn như thiên hạ, người lãnh đạo ra các mệnh lệnh để quản trị đoàn thể của mình , trong quẻ tốn này: phần lớn quẻ dùng từ tốn với nghĩa là tính toán, sắp đặt. Phần lời tượng và lời hào lại dùng với nghĩa là mệnh lệnh, sở dĩ vậy vì Dịch học hoàn chỉnh, ít ra cũng đã trên 3000 năm, lúc đấy ngôn ngữ khác xa bây giờ, vốn từ còn rất ít, nên một từ phải gánh vác rất nhiều nghĩa; lối hành văn cổ đối với chúng ta bây giờ là cực kỳ tối nghĩa, vì vậy chúng ta phải đọc Dịch lý với tinh thần hết sức thoáng đãng linh hoạt thì mới có thể hiểu đúng ý người xưa. a) Lời quẻ: Tốn, tiểu hanh, lợi hưu du vãng, lợi kiến đại nhân . nghĩa là: tính toán, để thông suốt việc làm ăn (tiểu), dùng vào việc phát triển xã hội (lợi hữu du vãng) và nâng cao tầm vóc con người (lợi kiến đại nhân, kiến ở đây là kiến lập, kiến tạo) b) Lời tượng: Tùy phong, tốn, quân tử dĩ thân mệnh hành sự Gió thổi liên tục là hình tượng quẻ tốn, bậc trưởng nhân theo đó mà ban bố mệnh lệnh thi hành chính sự. Gió thổi khắp nơi ý nói truyền tải thông tin đến mọi nhà, bậc trưởng nhân ra các mệnh lệnh truyền đạt đi khắp nơi để thi hành chính sự c/ Lời Hào c.1) Hào Sơ Tiến thoái, lợi vũ nhân chi trinh . tiến lên hay thoái lui, quân lệnh như sơn, mệnh lệnh ban ra chắc chắn rắn rỏi như núi đá. Quân lệnh nơi chiến trường buộc các chiến binh tuân hành tuyệt đối, mệnh lệnh dứt khoát sắt đá không thể chập chờn sáng nắng chiều mưa. Có như thế mới có thể chiến thắng. c.2) Hào nhị: Tốn tại sàng hạ, dụng sử vu phân nhược, cát, vô cữu. Lệnh ban ra một cách vu vơ, không dựa trên một cơ sở nào, giống như những lời phán truyền của ông đồng bà cốt. Trên sàng hay giường, hay giàn là mệnh lệnh dựa trên cơ sở lý luận khoa học chắc chắn, lệnh dưới sàng là lệnh vu vơ giống như những lệnh phán của ông đồng bà cốt hay thầy pháp bắt ma vậy, chữ cát, vô cữu ở đây không những thừa mà còn sai. c.3) Hào Tam: Tần tốn, lận Lệnh lạc lung tung cả (biết theo lệnh nào); sai lầm lớn. Lệnh rồi lại lệnh nữa, chưa thi hành lệnh trước đã ban hành lệnh sau. Thực là loạn lệnh làm sao mà thi hành? Lệnh lạc như thế là sai lầm lớn của người lãnh đạo- chỉ huy vì cuối cùng sẽ không có lệnh nào được thi hành. c.4) Hào Tứ Hối vong, điền hoạch tam phẩm. Không phải áy náy gì nữa, việc thực thi các mệnh lệnh ban ra đã mang lại những thành tựu lớn lao. Hào tứ chỉ sự thái quá, mệnh lệnh ban ra nhắm tới mục tiêu quá cao khiến phải áy náy, có phần lo lắng nhưng không sao, nhờ sự nỗ lực vượt bực đã có thành quả tuyệt vời. c.5) Hào Ngũ Trinh cát, hối vong, vô bất lợi, vô sở hữu chung, tiên canh tam nhật, hậu canh tam nhật, cát Vững chí, bền lòng theo đuổi mục tiêu nên được tốt đẹp, mọi hối thẹn tiêu tan, không có gì là không lợi, khởi đầu công việc không thuận lợi, nhưng kết thúc tốt đẹp, lưu ý theo dõi một thời gian trước khi ban hành mệnh lệnh và sau khi thi hành, so sánh để thẩm định hiệu quả. c.6) Hào thượng: Tốn tại sàng hạ, tăng kỳ tư phủ, trinh hung. Mệnh lệnh không có cơ sở khoa học, tổn thất nặng nề, cứ cái đà này thì vô cùng nguy hiểm.
  19. Dịch học họ HÙNG . bài 47 28/ Cặp quẻ Phong – Lưu hay Giam giữ Tên khác của cặp quẻ này là giam – giữ Giam; phong là bao lại, che kín Giữ; lưu là giữ, ở lại. Giam, phong là cách ly; cô lập, nhốt lại. Giữ, lưu là giữ lại, cầm chân tại chỗ Giam giữ đồng nghĩa với giam cầm. A- Phong (giam) Hỏa/ Sơn Hỏa trên sơn là hình tượng quẻ phong, núi lửa đang phun, tro khói che cả ánh mặt trời, vì lẽ đó đặt tên là quẻ phong, phong ở đây là bao lại, che đi khác với quẻ Lôi Hỏa phong của Dịch học Tàu cho phong nghĩa là phong thịnh, to lớn. a) Lời Quẻ Phong, Hanh, Vương cách chi, vật ưu, nghi nhật trung Xảy ra nhật thực, mặt trời bị che khuất, vua phải làm lễ tế trời, đừng quá âu lo, dâng lễ đúng giữa trưa. Cái gì bị che lấp mà vua âu lo phải vội vàng tế tự trời đất? Chắc chắn là hiện tượng nhật thực, thời xưa cho là điềm báo chuyện chẳng lành nên mới lo sợ như thế, tế lễ lúc giữa trưa thì đích xác là tế trời, vì lúc đó mặt trời ở thiên đỉnh là lúc to lớn, sung mãn nhất. Chữ Hanh ở đây không hiểu ý, phải chăng ngụ ý… muốn hanh thông vua phải… b) Lời tượng: Phong, quân tử dĩ chiết ngục trí hình. Phong; bị che lập, bậc trưởng nhân vì tượng đó làm rõ tội trạng (đúng người, đúng tội) và thi hành hình phạt đích đáng. Che lấp đi, giấu diếm đi hòng chạy tội, tiếp tục làm ác, nhưng không thể thoát được sự xét xử nghiêm minh của pháp luật, thế gian này mà có thêm nhiều ‘bao công’ thì thiên hạ lo gì tội ác, lo gì không yên bình. c) Lời Hào c.1) Hào Sơ: Ngộ kỳ phối chủ, tuy tuần, vô cữu, vãng hữu thượng. Gặp được người đang tìm để phối hợp, cũng ngang tầm (ngang nhau) không lỗi. Bước tới là đi lên, chữ chủ ở đây là sự chủ ý, chủ tâm. Hào sơ, đen tối vì mặt trời chưa mọc, ý chỉ thời con người còn hoang dã, đây là lúc những người có tâm huyết kết hợp lại để mưu cầu sự cải tiến cho xã hội, đưa nó đi lên, thoát khỏi tối tăm, tuy tầm nghĩa là đôi bên tương đắc. c.2) Hào nhị: Phong kỳ bộ, nhật trung kiến đẩu, vãng, đắc nghi tật, hữu phu phát nhược cát. Mặt trời bị che khuất, trời tối sầm lại giữa ban ngày mà nhìn thấy sao, nếu bỏ đi thì sợ bị ngờ vực, chỉ còn biết với lòng chí thành mong khải phát được hôn quân ám chúa. Lúc ấy mọi việc lại tốt lành. Mặt trời bị che ý là ông vua bị bọn gian thần hay yêu nữ che mắt bịt miệng, tức triều chính đang bị khuynh đảo, bậc công thần yêu nước thương dân trước tình cảnh này phải xử trí sao đây. Bỏ đi thì sợ bị nghi ngờ về lòng trung thành khó mà thoát tội, chỉ có đường can đảm liều thân lấy lòng chí thành can gián hầu mong vua thoát khỏi sự u tối, được thế thì vô cùng tốt đẹp. c.3) Hào Tam: Phong kỳ bái, nhật trung kiến muội, chiết kỳ hữu quăng, vô cữu. Bị đám cận thần giăng màn che kín, giữa ban ngày mà thấy đen thui, trong tình cảnh này, đành chặt bỏ cánh tay phải tức gạt bỏ các cận thần hữu dụng nhất xưa nay, có như thế mới không mắc lỗi lầm. Hào tam khác hào nhị ở chổ: hào nhị là tâm sự của bậc tôi hiền trong tình cảnh quân vương trở nên hôn ám. Còn hào tam là ngược lại, là tình cảnh của bậc minh chúa, buộc phải xử những tay chân thân cận nhất vì mưu toan bịt mắt vua hầu thừa nước đục thả câu…. c.4) Hào Tứ Phong kỳ bộ, nhật trung kiến đẩu, ngộ kỳ di chủ cát Việc tranh giành cướp ngôi khiến chính tình đen tối như đêm 30, đã gặp được và phò tá người có di mệnh kế tục ngôi vua, thực tốt lành. c.5) Hào ngũ Lai chương, hữu khánh dự, cát . bóng tối đã qua đi, ánh sáng đã trở lại, mọi người vui mừng chúc tụng, thực tốt lành… gian thần, bạo chúa đều không còn, cái thiện đã thắng, ánh sáng văn minh lại chói lọi. c.6) Hào Thượng: Phong kỳ ốc, bộ kỳ gia, khuy kỳ hộ, khuất kỳ vô nhân, tam tuế bất địch, hung. Quây kín nhà mình, che chắn cho gia đình, liếc qua cửa, không thấy bóng người, 3 năm như thế, xấu lắm. Muốn bảo toàn đặc quyền đặc lợi của bản thân và phe nhóm nên đóng cửa tuyệt giao với bên ngoài. Hậu quả ra sao, ngày nay ai cũng đã biết thế nào là hậu quả của việc bế quan tỏa cảng, thời xa xưa đã xấu, thời nay hậu quả còn xấu hơn, nhân loại tiến vùn vụt còn mình dậm chân tại chỗ. Chữ “địch” có lẽ viết sai của chữ “dịch”, tam tuế bất dịch là 3 năm không thay đổi gì. B- Quẻ Lưu (giữ) = Lôi/ Hỏa Giữ trong tiếng Việt là cứ nguyên như thế không thay đổi cả chất lẫn lượng, cả về vị trí lẫn tốc độ. Lôi hỏa là tượng của “minh phạt sắc pháp” tức sự uy nghiệm,sáng suốt của luật pháp. Lôi = tượng trưng của sự uy nghiêm Hỏa = là sự sáng suốt Lôi và hỏa là 2 tố chất bắt buộc phải có của nền luật pháp chân chính. Sáng suốt để định đúng người đúng tội, không để xảy ra oan sai và cũng không để lọt lưới một trường hợp nào. Lôi là sự uy nghiêm, trừng trị đích đáng xứng với những tội lỗi đã phạm những gì đã xảy ra. a) Lời Quẻ Lưu tiểu hanh, lưu trinh cát 2 chữ cùng là âm lưu nhưng khác nghĩa. Lưu tiểu hanh là giữ lại, chỉ thông suốt việc nhỏ. Lưu trinh cát, chuyển động mãi tốt. Lưu giữ là sự bảo tồn nguyên trạng. Tấm hình ta lưu giữ được chỉ là sự lưu lại ở một điểm, một thời khắc nhất định. Trên chuỗi ảnh động liên tục (lưu trinh) như một tấm hình trích ra trong một đoạn băng video vậy. b) Lời tượng: Lưu, quân tử dĩ minh thận Dụng hình, nhi bất lưu ngục. Quẻ lưu giữ, quân tử phải thận trọng và sáng suốt trong việc dùng hình phạt, không kéo dài quá đáng thời gian giam giữ. Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại, câu trên đủ giúp ta hình dung ra tác động của sự tù tội nó ghê gớm đến chừng nào. Vì vậy bậc trưởng nhân có trách vụ cầm cân nảy mực phải hết sức công minh trong việc phán quyết hình phạt; Dịch học không hề bảo ta đừng lưu ngục vì phạm tội là phải chịu sự trừng phạt, có như thế mới bảo vệ được những người lương thiện, Dịch chỉ dạy ta đừng lưu ngục quá đáng thôi. Tội đáng một năm thì tuyên hình phạt lưu giữ đúng một năm, không lưu thêm một ngày nào nữa, như thế mới là công minh. c) Lời Hào c.1) Hào Sơ Lưu, tỏa tỏa, tư kỳ sở thủ tai Cứ giữ thói ty tiện nhỏ nhen sớm muộn gì tai họa cũng đến, kẻ có tư cách như thế có thể đạt được điều này điều kia nhưng lâu dài chắc chắn sẽ thất bại vì mọi người sẽ lánh xa hắn ta. c.2) Hào Nhị Lưu tức thứ, hoài kỳ tư, đắc đồng bộc, trinh. Lưu trú (ở) nơi đất khách hay sống lưu vong, còn giữ được nhiều của cải, có được gia nhân trung thành, phải kiên trì với chính đạo. Sa cơ thất thế phải sống kiếp ăn nhờ ở đậu, nhưng may mắn vẫn giữ được tiền của và gia nhân vẫn một mực trung thành như thế là chưa tuyệt đường, vẫn còn có cơ hội trở lại phục hồi địa vị đừng sờn lòng. c.3) Hào Tam Lưu phần kỳ thứ, táng kỳ đồng bộc, trinh lệ. Cháy nơi lưu ngụ (ở) mất hết tôi tớ, như thế thật đáng lo. Nhà cháy dĩ nhiên cháy hết tài sản, hào tam là thời duy lợi…. Không có tiền thì đầy tớ nào phục vụ nữa, đấy cũng là chuyện thường tình ở đời có gì đâu mà lạ. Không nơi cư trú, không tiền bạc, không tay chân đúng là cảnh thất sở thân sơ. c.4) Hào tứ Lưu vu xử, đắc kỳ tư phủ, ngã tâm bất khoái. Tạm lưu cư, tìm lại được tài sản bị mất, dù vậy trong lòng vẫn không vui. Không vui là vì vẫn phải ở tạm, chưa phải là địa vị chính thức của mình, theo chức vụ trong bậc thang hiện nay thì mới chỉ là “quyền” thôi, như quyền bộ trưởng, quyền giám đốc chứ chưa được chính thức, tại sao vậy vì hào tứ chỉ sự thái quá chưa đắc trung. c.5) Hào ngũ: Xạ trĩ, nhất thỉ vong, chung dĩ dự mệnh. Muốn có một cuộc sống văn minh, trước hết phải nỗ lực làm việc, nhịn ăn nhịn tiêu để đầu tư phát triển, sau cùng sẽ đạt được điều mong ước, để lại tiếng thơm đến muôn đời. Trong Dịch học, chim trĩ tượng trưnng cho sự văn minh, xạ trĩ chỉ có nghĩa đích nhắm đến là cuộc sống văn minh. Nhất thỉ vong nếu dịch là mất một mũi tên...thì không ổn, vì tên đã trúng đích thì đâu có mất? Chỉ mất khi bắn trượt không thu hồi được. Chung dĩ dự mệnh phải dịch đầy đủ là: sau cùng những nỗ lực của con người hợp sức với trời đất mà làm nên đại nghiệp hay tạo ra sự thành công lớn lao khiến lưu danh mãi mãi. c.6) Hào thượng Điểu phần kỳ sào, lưu nhân tiên tiếu hậu hào đào, táng ngưu vu dị , hung. Chim cháy mất tổ, con người mất nước, người sở tại hay người ở đấy trước an cư lạc nghiệp, đời sống vui vẻ sung sướng biết bao nhiêu, sau lũ rợ dị tộc cướp mất tất cả (táng ngưu) thực là một thảm họa. Hào từ này cũng là câu chuyện lịch sử của dân nhà Chu, 5 lần định cư năm lần phải rời bỏ quê hương kéo nhau đi chỗ khác sinh cơ lập nghiệp vì lũ rợ dị tộc ; sau cùng mới tụ cư ở Kỳ Sơn và trở nên hùng mạnh , trong hào tứ Dịch học họ Hùng đã dùng chữ Lưu với nghĩa là nơi ở nơi lưu trú, đồng nghĩa với quê hương.
  20. Dịch học bài 46 27. Cặp quẻ tùng – Tiệm Dịch học của người Tàu gọi là tiệm – qui muội. Tiệm là tiến từ từ tức là chậm. Tùy là đi theo như gái theo chồng nên Dịch của Tàu mới gọi là quẻ quy muội nghĩa là gả con gái về nhà chồng. Ý nghĩa cặp quẻ này là: Như chủ nghĩa Marx nói: thượng tầng kiến trúc phải phù hợp với hạ tầng cơ sở hay trong Dịch học là: chế độ xã hội và trình độ kỹ thuật máy móc phải phù hợp với nhau. Khi cái nền kỹ thuật máy móc được nâng lên thì chế độ kinh tế rồi chế độ chính trị phải phù hợp theo, nhưng thường do quyền lợi của một thành phần xã hội, luôn luôn có một lực trì kéo khiến chế độ xã hội luôn theo sau cả một quãng dài và sự chuyển đổi chỉ đến sau một biến cố long trời lở đất. Ý cặp quẻ này là : nếu con người thụ động để khoa học kỹ thuật tiến một bước dài rồi chế độ xã hội mới chuyển đổi theo như thế là tiệm hay chậm, bệnh “chậm” này Dịch học gọi là bất cập, sự bất cập luôn đưa đến những tổn thất lãng phí tài nguyên và một bộ phận của xã hội phải chịu sự đè nén áp bức, nói chung là giảm bước tiến của nhân loại. Tóm lại: tiệm - quy muội hay tùng – tiệm là thụ động tùy theo sức ép tình thế dẫn đến bất cập hay chậm. Con người phải biết vận dụng các quy luật phát triển trong Dịch học mà nắm lấy chữ đắc trung hay thời cơ v.v.. chủ động chuyển hóa chế độ xã hội, như vậy nhịp tiến mới nhanh hơn. A- Quẻ chậm = phong/ Sơn Chậm hay tiệm là lấy tượng phong sơn, gió thổi bị núi chặn lại nên tốc độ chậm chạp , từ từ a) Lời quẻ: Tiệm, chinh hung, vô du lợi. Chậm chạp , không nắm được thời cơ nếu trong chiến trận thì thực nguy hiểm. b) Lời tượng: Sơn thượng hữu mộc, tiệm, quân tử dĩ cư hiền đức, thiện tục. Quẻ tiệm, bậc trưởng nhân ăn ở hiền lành nhân đức, cải thiện phong hóa xã hội ngày một tốt đẹp hơn lên, ý lời tượng là quân tử lấy mình làm gương cho xã hội noi theo dần dần chuyển biến. c) Lời Hào Hào từ lại dùng chữ hồng hay chim hồng hạc tượng trưng cho trí tuệ, hồng màu đỏ, quẻ ly ngọn lửa, biểu tượng của sự sáng suốt – trí tuệ. c.1) Hào Sơ Hồng tiệm vu can, tiểu tử, lệ hữu ngôn vô cữu. Hồng hạc tiến đến bờ nước, ý chỉ trí tuệ còn gần như thời nguyên thủy, như đầu óc trẻ con (tiểu tử), đáng lo ngại, có lời chê bai nhưng không lỗi gì. c.2) Hào nhị: Hồng tiệm vu bàn, ẩm thực hãn hãn cát. Chim hồng lạc tiến đến tảng đá bằng phẳng, nghĩa là trí tuệ đã phát triển một bước hết sức cơ bản: phát minh ra nông nghiệp làm căn bản cho sự tồn tại của loài người – thực tốt đẹp lắm. c.3) Hào tam: Hồng tiệm vụ lục, phu chinh bất phục, phụ dựng bất dục, hung, lợi ngự khấu. Chim hồng tiến đến miếng đất bằng phẳng, chồng đi đánh giặc chưa hề về nhà, vợ lại có bầu… nhưng bỏ con không nuôi, nguy hiểm, chỉ có thể dùng vào việc đánh giặc. Chữ Lục ở đây là biến âm của từ lộc nghĩa là lợi ích vật chất. Đầu óc chỉ biết có lợi lộc, chồng đi vắng, vợ có bầu rồi bỏ con như thế là bất trung, bất nghĩa và bất nhân, đấy là đầu óc của doanh gia theo đạo thờ tiền, dạng người này chỉ có thể dùng vào việc đánh giặc và thưởng tiền không thể dùng vào những việc khác. c.4) Hào Tứ Hồng tiệm vu mộc, hoặc đắc kỳ giác vô cữu. Hào tứ luôn chỉ sự thái quá, hồng hạc bay lên cây, đậu được ở một cành cao, không lỗi gì. Đầu óc suy tưởng vượt quá thời đại lại là một “cái đầu” cần thiết, đâu có lỗi gì, đẹp như con chim trên cành cao. c.5) Hào ngũ: Hồng tiệm vu lăng, phụ tam tuế bất dựng, chung mạc chi thắng, cát. Chim hồng lạc tiến lên đỉnh đồi cao (dù chồng không có ở nhà) người vợ vẫn một lòng kiên trinh thủy chung, sau cùng sẽ vượt thắng mọi cản trở , vợ chồng đoàn tụ hạnh phúc, hết sức tốt đẹp. Trí tuệ đã phát triển đến đỉnh cao, ngang tầm với trí tuệ là nền phong hóa đạo đức xã hội tốt đẹp cao cả, với người tài đức vẹn toàn cuối cùng bao giờ cũng thành công tốt đẹp mọi mặt. c.6) Hào thượng: Hồng tiệm vu lục, kỳ vũ khả dụng vi nghi, cát. Hồng hạc đã về với đất mẹ mà lông của nó vẫn còn được dùng hóa trang trong các nghi thức cúng tế thần linh và tổ tiên, tốt đẹp vô cùng. Người có đầu óc vĩ đại thì không bao giờ chết vì những gì họ để lại còn ở mãi với đời sau. Trong Dịch học họ Hùng có 2 con vật được trọn một quẻ: con rồng chiếm trọn quẻ Kiền, con chim Hồng hay Hồng hạc chiếm trọn quẻ Tiệm. Con rồng tượng trưng cho chí khí của một người, nhờ chí khí mà khẳng định chính mình với người khác và với trời và đất. Con hồng hạc tượng trưng cho trí tuệ hay đầu óc, con người vượt lên trên tất cả động vật khác nhờ cái đầu hiểu biết, phát minh và quyết định đều là nhờ có trí tuệ. Rồng tượng trưng cho nhân đức Hồng hạc tượng trưng cho tài ba . Nhưng ở Dịch học thông hành và cả trong ý kiến xã hội người ta chỉ nhấn mạnh tới con rồng mà xem nhẹ chim hồng hạc, chỉ riêng Dịch học họ Hùng và đạo Khổng là có sự cân bằng, một bên là đức một bên là tài, một bên là tâm một bên là trí phối hợp cân bằng. Sự mất cân đối trong quan niệm trên khiến người xưa có hẳn một triết lý sống rất lệch lạc… “an bần lạc đạo” ngày nay đã đến lúc chúng ta phải đổi lại… “phồn hoa, lạc đạo”, tại sao cứ phải an bần mới lạc đạo? Tâm và trí đâu có đối kháng một mất một còn để phải hoặc chọn cái này hoặc chọn cái kia? Tư tưởng an bần lạc ở thời cận đại có phần đóng góp rất quan trọng vào sự lạc hậu về khoa học kỹ thuật của phương Đông ngày nay. Các nước chịu ảnh hưởng của Nho giáo đã nhìn thấy vấn đề và đang điều chỉnh, đúng là sai một ly đi một dặm, không biết bao lâu nữa mới có thể đuổi kịp các nước Âu Mỹ. B- Quẻ tùng hay qui muội = lôi/ trạch Hành động dựa trên sự hiểu biết đấy là tượng quẻ tùng , tức theo hay đi theo, có tiến bộ khoa học kỹ thuật mở đường thì mới có thể cải cách xã hội, thể chế nào thì có cơ sở vật chất kỹ thuật của thể chế đó, đấy là ý nghĩa “tòng” của dịch học. a) Lời quẻ: Nữ quy, cát, lợi trinh, quẻ tùng; gái theo chồng, tốt, ích lợi dài lâu. Dương theo âm (nghịch với người Tàu), vợ theo chồng, tài phải theo đức, trí tuệ phải được sự dẫn dắt của lương tâm, triều đình phải theo sự chỉ đạo của vua đấy là đạo tòng hay tùng của tự nhiên thuận theo trời thì tốt đẹp, hưởng lợi ích lâu dài. b) Lời tượng: Lôi trạch quy muội – tùng quân tử dĩ viễn tiểu nhân – bất ác nhi nghiêm Tiểu nhân là hạng tâm địa nhỏ nhen , đấy là điều xấu nhưng đâu có vi phạm pháp luật nên đâu có thể ...làm gì nó ., tốt nhất là không nên gần chúng, với thái độ nghiêm cẩn thì tiểu nhân cũng chẳng trổ mòi gì được, thái độ đó là đúng mực, Dịch không dạy ta làm ác dù với cả lũ tiểu nhân, chỉ phòng ngừa là chính. c) Lời Hào c.1) Hào Sơ Quy muội dĩ đệ, phả năng lý chinh cát. Theo chồng làm vợ bé, què cũng có thể đi được, chinh chiến thì tốt. Quan niệm vợ chồng cổ xưa của người Việt, chồng lo bon chen công danh sự nghiệp hay là làm ăn ở ngoài còn việc trong nhà gọi là tề gia nội trợ do vợ đảm nhiệm, chính vì vậy người vợ còn được gọi là “nội tướng”. Nhưng ở Hào Sơ, người đàn bà tư chất kém cỏi hay sức lực yếu đuối tới độ không thể tự đứng, tự đi mà phải dựa cả vào chồng, tựa như người vợ bé không có quyền hành gì cả chỉ biết một lòng tuân phục, sự phục tùng tuyệt đối nếu ở chiến trường lại rất tốt, tướng hô nằm là nằm, lệnh xông lên là xông lên không sợ hiểm nguy. c.2) Hào nhị: Diếu năng thị, lợi u nhân chi trinh mắt bị hư mà vẫn biết đường đi đó là nhờ “theo chồng” chồng đi đâu dắt mình đi theo đấy, người đàn bà trí lực kém cỏi cứ theo chồng mà sống. Hào nhị khác hào sơ ở chỗ hào nhị chỉ theo chồng, còn hào sơ phải vừa theo vừa dựa vào chồng thì mới đi được, một đàng chỉ không quyết được đường đi, còn Hào sơ thì vừa không biết đường đi vừa không đủ sức lực để đi. Quan điểm này là của thời đã qua, còn hiện nay thiếu gì đàn bà làm “lãnh đạo” thiếu gì đàn ông phải tòng phụ (theo vợ). Chữ u trong u nhân là từ việt nghĩa là u tối, u biến âm của ô là màu đen. c.3) Hào Tam Qui muội dĩ tu, phản qui dĩ đệ Lấy chồng tưởng được làm vợ chánh, té ra là chỉ làm bé cho người ta mà thôi. Hào Tam chủ lợi, người chồng thờ tiền không dám giao việc tề gia cho vợ … sợ vợ cuỗm mất tiền bạc thì sao… nên hóa ra vợ cũng như con ở mà thôi… không có quyền hành gì cả dù là việc trong gia đình, c.4) Hào tứ: Qui muội: khiên kỳ thi qui hữu hối. Lỡ mất chuyến tàu rồi, đành chậm lại quay về chờ dịp khác. Thời vận đến mà do không sẵn sàng nên đã để nó trôi qua không nắm bắt được, thôi đành chậm lại chờ dịp khác…, hào này chỉ mượn chuyện theo chồng để nói mọi chuyện, việc gì cũng vậy thôi không sẵn sàng thì cơ hội trôi qua, đó là quy luật chung. c.5) Hào ngũ Đế ất qui muội, kỳ quân chi duệ, bất như kỳ đệ chi duệ, nguyệt cơ vọng, cát. Con gái đế ất về nhà chồng, trang phục bề ngoài vợ chánh mà còn thua vợ lẽ, điều ấy thể hiện bên trong đức hạnh sáng như trăng rằm, tốt lắm. Con gái nhà quyền quí mà bề ngoài bình dị, không xe xua, khoe khoang thể hiện một bề trong đức hạnh sáng như trăng rằm, trăng sáng dùng chỉ đức hạnh phụ nữ, ngược lại ánh sáng mặt trời chỉ đức độ của nam giới, trăng tròn có nghĩa là đức hạnh vẹn toàn. c.6) Hào thượng Nữ thừa khuông, vô thực sỉ, sĩ khuê dương, vô huyết, vô du lợi. Nữ cầm giỏ nhưng trong không có cái gì để cúng, nam cắt tiết con dê để lấy máu thề nhưng chẳng có giọt nào… như thế chẳng được ơn ích gì. Kết hôn mà chẳng bên nào thực lòng, bị ép buộc hay tính lợi dụng nhau mà thôi, cả thành và tín đều không có, bất thành vì không có trái cây, bất tín vì không có máu dê, như thế thánh thầy nào chứng giám? Làm gì có ơn ích mà đòi hưởng. Thực là cuộc hôn nhân của trai giang hồ lấy gái lầu xanh.
  21. Dịch học họ HÙNG . bài 45 26. Cặp quẻ Lôi – Cản (Cuốn) Lôi Tiếng Việt còn có nghĩa là kéo đi, cấn biến âm của Cản. Cặp quẻ này là cặp đối. Kéo đi và cản lại là tính chất, công dụng hay sự tác động của nó đối với sự phát triển , về hình tượng thì lôi là sấm, cấn là núi. Dịch học của Tàu là cặp quẻ.: Thuần Chấn – thuần Cấn. Công cuộc phát triển chịu sự tác động của 2 lực đối nghịch, một lực kéo đi (lôi), một đàng kéo hay cản lại. Kết quả của sự phát triển là tổng của 2 lực này. Nếu quẻ lôi – kéo thắng thì xã hội tiến lên, còn quẻ trì kéo thắng thì thụt lùi hay suy thoái. A. Quẻ lôi = chấn/ chấn Lôi hay sấm lại được dùng trong quẻ với 2 nghĩa là: tiếng sấm tự nhiên và tiếng trống sấm hay trống đồng. a) Lời quẻ: Tiếng sấm báo trước sự hanh thông trôi chảy, tiếng trống sấm thôi thúc trong lễ tế, người ta cười nói vui vẻ, tiếng trống vang xa trăm dặm, người chủ tế vẫn không chút run tay. Vì sự thành kính tột cùng tinh thần tập trung cao độ ngoại cảnh không còn chi phối được. Ở quẻ này sấm giống như là dụng cụ của cơ quan dự báo khí tượng vậy… a) Lời tượng: Tiến lôi, chấn, quân tử dĩ khủng cụ tu tỉnh. Tiếng sấm thúc dục, đấy là tượng quẻ chấn, bậc trưởng nhân nghe thấy phải biết lo sợ, kiểm điểm bản thân, sửa chữa các lỗi lầm, giữ cho bản thân lúc nào cũng trong sáng không chút bợn nhơ. c) Lời Hào c.1) Hào Sơ Chấn lai khích khích, hậu tiếu ngôn há há, cát. Nghe tiếng sấm thúc dục, phải biết lo lắng đề phòng thì sau mới có thể cười nói vui vẻ, tốt lắm. Bản tính con người trong cảnh thanh bình ăn nên làm ra rất dễ mê đắm không để ý gì đến hung họa bất trắc, tiếng sấm là sự cảnh tỉnh đánh thức con người, luôn thức tỉnh thì tránh được tai họa và có cuộc sống vui tươi khỏe mạnh. c.2) Hào nhị Chấn lai, lệ, ức táng bội, tễ vu cửu lăng, vật trục thất nhật đắc. Sấm sét liên hồi, đáng lo, có thể phải chịu tổn thất lớn vì thiên tai bão lụt, lo dắt nhau chạy lên chỗ thật cao, không được vướng víu với của cải mà thiệt thân, thiên tai qua đi sẽ làm ăn phục hồi. c.3) Hào tam: Chấn tô tô, chấn, hành vô sảnh. Cảm nhận sự rung động, địa chấn ư ?, dắt díu nhau tránh đi thì không thiệt hại tổn thất. cũng có thể dịch là: thấy xốn xang trong lòng, điềm báo chăng, tránh ngay khỏi nơi ấy hay dừng không làm việc ấy nữa sẽ tránh được tổn thất tai họa. Hào tam chủ lợi, ham mê của cải quá mà có thể phạm tội được cảnh báo dừng lại kịp thời, thì tránh được hậu qủa xấu . c.4) Hào tứ Chấn toại nê . – sấm đánh xuống bùn nghĩa là sấm không vang xa được hay sự đánh động cảnh tỉnh không được ai để tâm tới, không có sự đáp ứng phản tỉnh . Hào Tứ chỉ sự thái quá Duy lý; người ta đã sa vào chữ “duy” thì không nghe ai nữa sự cảnh tỉnh nhắc nhở trở nên vô ích, chỉ khi nào vỡ đầu sứt trán thì mới tỉnh ngộ lúc ấy hậu quả đã vô cùng nghiêm trọng . Vô phương cứu chữa. c.5) Hào ngũ: Chấn vãng lai, lệ, ức vô táng hữu sự. Nghe tiếng sấm đã vội lo, biết lo trước thì tránh được mất mát thiệt hại , là người Việt thì mới hiểu chữ “ đánh động”, đánh động là báo trước việc xảy đến rất Đúng ý nghĩa hào này ;đã biết trước mà lo đề phòng thì còn sợ gì nữa c.6) Hào Thượng: Chấn sách sách , thị quyết quyết , chinh hung, chấn bất vu kỳ cung , vu kỳ lân , vô cữu , hôn cấu hữu ngôn . Nghe tiếng trống rền, mặt mày nhớn nhác – nếu ở chiến trường thì nguy. Mình chưa bị cảnh cáo nhưng người bên cạnh đã bị rồi, không lỗi gì nhưng nếu cứ kết thân sẽ mang tiếng. Đội quân tinh nhuệ nghe tiếng trống thúc quân thì đội ngũ nghiêm chỉnh mà xông lên, ở đây thì nhốn nháo cả lên, lộn xà lộn xộn không hàng không ngũ gì thì sẽ bị vỡ thế trận ngay, đánh nhau mà như vậy thì thua chắc. Mình chưa bị gọi đích danh nhưng kẻ thân cận với mình đã bị cảnh cáo, nhìn người phải biết lo sửa mình ngay biết vậy thì không lỗi, ngược lại cứ thân thiết với họ chắc sẽ mang tiếng (có liên quan với phần tử xấu) hoặc vạ lây . A- Quẻ Cản = Cấn/ Cấn Người Việt thường dùng từ kép ‘cấm chỉ’ nghĩa là không được làm như thế nữa ; thực ra phải nói là cấn – chỉ mới đúng. Cấn đồng nghĩa với chỉ Hoa ngữ nghĩa là dừng lại, quẻ cấn nghĩa là ngăn cản bắt dừng lại tương tự chữ can ngăn . a) Lời quẻ: Cấn kỳ bối, bất hoạch kỳ thân, hành kỳ đình, bất kiến kỳ nhân vô cữu. Mình không để ý đến chính mình nên đi vượt lên trên mà không biết (đằng trước không thấy ai), bị nắm lưng kéo cho chậm lại (cản), không lỗi. Bất hoạch kỳ thân là quên mất không để ý là mình đang bước đi nên vượt lên trên, với Dịch học quan trọng nhất là chữ trúng, đúng thời đúng vụ, nhanh quá là thái quá chậm so với thời là bất cập. Bị kéo lại từ phía sau là mình đã chậm lại thì không lỗi gì. b) Lời tượng: Kiêm sơn, cấn, quân tử dĩ tư bất xuất kỳ vị. Núi đồi chập chùng là tượng quẻ cản, bậc trưởng nhân xem tượng đó mà biết tư tưởng đúng với vị trí, tầm vóc của mình. Có như vậy ta mới có thể nhìn nhận sự việc một cách chính xác và xử lý đúng đắn, đưa ra các giải pháp phù hợp đúng tầm và khả thi , việc thuộc vi mô mà xử lý như ở tầm vĩ mô hay ngược lại đều sẽ thất bại. c) Lời Hào c.1) Hào Sơ Cấn kỳ chỉ, vô cữu, lợi vĩnh trinh. Ngăn cản khi mới bắt đầu, tránh được lỗi, lợi lâu dài ; ngón chân là nơi thấp nhất của thân thể, ý là: vừa mới bắt đầu đã chận lại ngay chưa phí phạm gì, chưa gây hậu quả gì nặng nề . c.2) Hào nhị: Cấn kỳ phì, bất chửng kỳ tùy, kỳ tâm bất khoái. Phì là cái bắp chân, ý chỉ công việc mới tiến hành chưa lâu lắm, cái sai chưa lớn, hậu quả cũng chưa có gì nghiêm trọng, vì chưa thực hiện được ý đồ nên lòng nó không vui. c.3) Hào Tam: Cấn kỳ hạn, liệt kỳ dần, lệ huân tâm. Việc đã tiến được nửa đoạn đường mới ngăn lại, hạn là chỗ giữa thân mình ý hào là đã làm một nửa công việc, ngừng lại thì thiệt hại lớn lo cháy cả ruột. c.4) Hào tứ Cấn kỳ thân, vô cữu. Tỉnh ngộ, tự mình ngưng lại không lỗi. chợt giật mình tỉnh lại nhìn thấy mình đi sai đường, tự dừng lại. Nên không mắc lỗi. Không được cảnh tỉnh thường xuyên con người rất dễ sa đà theo thói hư tật xấu, nhìn nhận ra và dừng lại không dấn xâu thêm vào chỗ sai lầm thì không lỗi gì. c.5) Hào ngũ: Cấn kỳ phụ, ngôn hữu tự, hối vong. Bớt đi, nói quá lời rồi, lời nói cũng phải có thứ tự cấp độ của nó, đừng tùy tiện “nâng cấp” quá đáng , xấu thì nói xấu thôi đừng bảo xấu lắm và tốt cũng vậy. Làm được như vậy thì không hổ thẹn gì nữa. c.6) Hào thượng Đôn cấn – cát Theo học giả Lý Kính Trì, không phải là Đôn Cấn mà là Đoan Cấn. Đoan nghĩa là còn trong trứng nước ta thấy chữ Đoan ở đây hợp lý hơn. Đoan Cấn là ngăn chặn từ trong trứng nước, tức mới manh nha ý đồ đã bị chặn lại, như thế là quá tốt.
  22. Dịch học họ HÙNG . bài 39 20. Cặp quẻ: Nạn – giải (Nan) Đây là cặp quẻ đối xứng một bên nạn còn bên kia là giải nạn. Về hình tượng quẻ, đây là cặp đối xứng mẫu mực. Thủy Sơn – Kiển ý nghĩa của hình tượng là nước dâng quá cao tràn núi lấp đồi, thực sự là cơn đại hồng thủy, nên đặt tên quẻ là nạn, nói đầy đủ là nạn lụt. Lôi Thủy giải: thủy dưới lôi là hình tượng của mưa gió sấm chớp. Đặt tên là quẻ giải vì mưa đến để giải hạn. Rõ nghĩa phải viết là giải hạn hán, 2 tình cảnh hoàn toàn trái ngược trong thiên nhiên. Dịch học của Tàu đặt tên là : Kiển – giải. Đồng nghĩa với nạn - giải. A- Quẻ nạn = Thủy/ Sơn a) Lời Quẻ Kiển – lợi Tây Nam, bất lợi Đông Bắc, lợi Kiến đại nhân, trinh, cát. Ở phần trước đã nói; nạn ở đây là nạn lụt, thủy ở trên, sơn ở dưới, nước dâng cao tràn qua núi đồi, tức là nạn lụt khủng khiếp, còn đại Hồng Thủy, đây là quẻ đã được truyền thuyết Việt Nam nói đến trong truyện Sơn Tinh Thủy Tinh, lịch sử Trung Hoa cũng nói đến trong tích vua Đại Vũ trị thủy, độc giả cứ mặc nhiên chấp nhận ức thuyết là cơn đại Hồng Thủy này xảy ra ở miền Bắc và Bắc Trung Việt hiện nay. Khi ấy phía Nam là phía Trung Quốc và ngược lại hướng xích đạo là hướng Bắc. Như vậy Tây Nam trong quẻ này là Tây Bắc của phương hướng ngày nay. Lợi Tây Nam nghĩa là di chuyển về hướng núi rừng Tây Bắc Việt Nam hiện nay thì có lợi vì đấy là miền núi. Bất lợi Đông Bắc tức Đông Nam hiện nay vì địa thế vùng này là vùng trũng, nước đang dâng lên thì dĩ nhiên vùng đồng bằng trũng là bất lợi rồi, lợi kiến đại nhân nghĩa là đại nạn gian nan thử thách sẽ xuất hiện đại nhân tức Sơn Tinh hay vua Đại Vũ, Trinh cát ý là: trị thủy phải kiên gan trì chí như vua Vũ suốt 9 năm đào 9 con sông cho nước chảy ra biển mới thành công. b) Lời Tượng: Sơn Thượng hữu thủy, kiển, Quân tử dĩ phản thân tu đức. Quan niệm của người xưa là thiên nhân tương dữ, việc trời và việc người có liên quan chặt chẽ với nhau; mưa thuận gió hòa là do thánh đức của bậc minh quân, còn thiên tai là do sự kém đức của nhà vua, thiên tai là sự trừng phạt của ông trời. Chữ quân tử ở đây chỉ đấng quân vương cai trị trăm họ thấy thiên tai đến với đất nước là do đức độ chưa đủ nơi mình nên phải xem xét lại đời sống, việc làm của mình mà sửa đức, tiến nghiệp. Tu đức là tu dưỡng đạo đức, phản thân là tự kiểm, hay theo đạo công giáo gọi là xét mình ( để xưng tội.) . c) Lời Hào c.1) Vãng kiển lai dự. Tiến đi sẽ gặp nạn, lùi lại được tiếng khen. Hào sơ là thời nguyên thủy dân trí còn thấp kém lắm chưa thể tiến hành các cải cách xã hội được. Lùi lại tức phải biết chờ đợi, thời cơ chín mùi rồi mới có thể tiến hành được, như làm sao có thể nói đến dân chủ, dân quyền khi cuộc sống còn chủ yếu là săn bắt hái lượm… Vậy nên phải lùi lại chờ đợi. c.2) Hào nhị: Vương thần kiển kiển, phỉ cung chi cố. Bậc công thần vượt bao hiểm nạn đâu có phải chỉ vì bản thân (vua và quan) mà vì trăm họ, muôn dân. Hào nhị đắc trung ở thể dưới tượng là bậc công thần. c.3) Hào Tam Vãng kiển lai phản Tiến thêm nữa sẽ mắc nạn, nên quay lại. Hào Tam chủ lợi lộc, tiếp tục làm giàu hơn nữa sẽ mắc nạn “quá giàu”, là tư sản rồi sẽ có ngày bị đấu tố, khôn hồn thì tránh 2 chữ “đại gia”. c.4) Hào Tứ Vãng kiển – lai liên. Hào tứ trong một quẻ chỉ sự lý luận thái quá, tiến lên nữa thì thành bệnh duy lý. Một bước lên tới trời, khua môi múa mép nhưng trăm voi không được bát nước sáo… Giảm bớt lại để lý luận không xa thực tế . c.5) Hào ngũ Đại Kiển – Bằng lai Thiên tử gặp nạn, chư hầu phải kéo quân đến giải nạn. Đại kiển không phải là nạn lớn mà ở giữa 2 chữ có dấu phẩy, nghĩa là bậc lớn hay ông lớn bị nạn lớn ở đây chỉ Thiên tử, chữ bằng không phải là bạn mà chỉ chư hầu. Theo qui chế của nhà Chu, khi thiên tử gặp nạn thì lập tức thông tin cho chư hầu bằng cách đốt lửa tạo khói trên các phong hỏa đài, nhận được tín hiệu báo nguy lập tức các hầu có nghĩa vụ kéo quân về cứu thiên tử. c.6) Hào thượng Vãng kiển lai thạc, cát, lợi kiến đại nhân Tiến thêm nữa gặp nạn, lùi lại gặt hái lớn, tốt lắm. Gian nan, hiểm nạn rèn đúc nên trưởng nhân hay con người trưởng thành. Đặc biệt quẻ nạn hay kiển nói về hiểm nạn phát sinh từ sự thái quá, và đều khuyên lùi lại, hay giảm bớt đi thì tốt. Hào Sơ: ngu dốt quá gặp nạn. Hào Tam: giàu có quá gặp nạn. Hào tứ: lý luận quá gặp nạn. Hào thượng: thanh cao quá cũng gặp nạn. Qua đó minh chứng cho một đạo lý đơn giản: đắc trung thì thành công, thái quá bất cập đều thất bại. B- Quẻ giải hay giải nạn = Lôi / Thủy Trung Hoa xưa, nghề nông chủ yếu là trồng lúa nước nên mưa đối với họ có ý nghĩa sinh tử, hạn hán đồng nghĩa là đói kém. a) Lời Quẻ Giải, lợi Tây Nam, vô sở vãng, kỳ lai phục cát, hữu sở vãng, túc cát Quẻ giải nạn, lợi về sự bình yên, nếu việc không bắt buộc phải đi, nên quay lại, còn có việc phải đi nên đi sớm (để về sớm). Theo quan niệm Dịch lý: phía Tây là hằng, tịnh, an, phía Nam là bình, thường; Tây Nam là phương bình an. Giải được nạn rồi tức là tái lập sự yên bình hay bình yên. Mưa tưới cho đất đâm hoa cỏ cây cối tốt tươi, với việc canh tác lúa nước thì kịp thời vụ là quan trọng nên nếu có việc nhưng không bắt buộc thì quay về còn bắt buộc phải đi thì đi sớm về sớm rồi bắt tay vào việc cày cấy nếu để trễ thì coi như hỏng cả vụ mùa. b) Lời tượng Lôi vũ tác, giải, quân tử dĩ xá quá, hựu tội. Sấm mưa là tượng quẻ giải quân tử (minh quân) xem tượng ấy mà khoan thứ cho những sai phạm, ân xá cho phạm nhân. Giải là giải nạn, giải thoát khỏi sự khổ sở hiểm nguy – đau đớn. Ở đời ai chả có lúc lỗi lầm với những gì vô tình phạm phải, vua có thể khoan dung độ lượng giảm bớt án phạt, còn những phạm nhân đang thụ hình, nếu có sự ăn năn hối cải nhà vua nên ra lệnh ân xá vì hình phạt nhằm giáo hóa, uốn nắn cho cây cong thẳng lại chứ không phải là sự trả thù. c) Lời Hào c.1) Hào Sơ Vô cữu Tội đã được giải, trở về đời sống bình thường như bao người khác. Không còn gì là tội lỗi nữa. c.2) Hào nhị Điền hoạch tam hồ, đắc hoàng thỉ trinh cát. Dịch nghĩa: đi săn, được 3 con cáo, được mũi tên màu vàng, bền vững thì tốt. Có sức mạnh chính nghĩa (hoàng thỉ), tiêu diệt lũ ác gian (tam hồ = 3 con cáo), kiên trì với chánh đạo, tốt lắm. Người xưa dùng chữ Hồ hay Hồ ly chỉ bọn tà ma, gian ác. Hoàng là màu vàng sắc trung, thỉ là mũi tên, công cụ chiến đấu tượng trưng cho sức mạnh. c.3) Hào Tam Phụ thả thừa, trí khấu chí trinh lận. Mang vác đồ đạc khi ngồi trên xe chả khác nào mời trộm cướp đến, cứ như thế – nguy hiểm. Đã mang vác đồ đạc thì đi bộ. Đã ngồi xe thì không mang vác nữa mà bỏ đồ xuống trên xe. Ngồi xe mà còn mang vác để chứng tỏ đấy là đồ quí giá không dám rời ra, làm như thế đúng là chỉ vẽ mời mọc bọn trộm cướp đến . c.4) Hào Tứ Giải nhi mẫu, bằng chí tư phu Phải cởi giải (bỏ) những ràng buộc thấp hèn thì mới có thể tiến thành kết giao với người quân tử. Những phần tử ưu tú trong xã hội ngày nay có thể nào thành tín kết giao với đám “bợm” sáng xỉn chiều say? Việc này tương tự như ngày nay muốn được kết nạp vào hàng ngũ cán bộ ưu tú thì bản thân phải có thời gian phấn đấu, rèn luyện tức…. “giải nhi mẫu” hay giã từ quá khứ tội lỗi… thấp hèn để được đứng vào hàng ngũ của những vị “thánh sống” giữa đời thường cùng nhau quyết tâm biến mặt đất này thành thiên đường. c.5) Hào ngũ Quân tử duy hữu giải, cát, hữu phu vu tiểu nhân. Chỉ có quân tử mới có thể giải nạn, tốt lắm, người quân tử ấy có lòng thành tín tới độ cảm hóa được cả lũ tiểu nhân. Giải nạn bao giờ cũng đòi hỏi nhiều hy sinh vất vả nên chỉ có bậc quân tử hay trưởng nhân mới có thể thực hiện được… lòng thành tín của con người đến tột cùng có thể cảm động đến cả trời đất huống gì tiểu nhân. c.6) Hào thương Công dụng xạ chuẩn vu cao dung chi thượng , hoạch chi ,vô bất lợi. Vị công tước bắn trúng con chim dữ trên bờ thành cao, hạ được nó rồi không gì không lợi (việc gì cũng lợi). Hào cuối của quẻ giải, bắn chết con ác điểu đang thống trị mặt đất ý nói tên hôn quân vô đạo, hạ nó rồi cả thiên hạ được giải thoát khỏi sự lầm than khổ ải, có thể hào từ này nói đến chuyện Vũ vương giết Trụ vương nhà Thương Ân lập nên nhà Chu, Trụ vương Chính Là ác điểu .
  23. Dịch học họ HÙNG . bài 43 24. Cặp Quẻ: Tu – Tỉnh (Tù) Tù – Tỉnh Dịch học Trung Hoa gọi là khốn - tỉnh, Khốn đúng ra là khống (như khống chế), khống này đồng nghĩa với chữ Tù trong tiếng Việt. Khống chế được dục vọng thân xác mình, thì tinh thần trở nên minh mẫn sáng suốt. Thân xác con người cũng là một sinh vật, nên có những đòi hỏi vật chất để tồn tại, vượt qua mức sinh lý là nhu cầu văn minh hưởng thụ, nhu cầu vật chất thực sự không lớn lắm nhưng do sự tham lam thổi phồng lên trở thành hầu như vô tận, ở đây không chủ trương diệt dục chỉ tính làm sao có thể khống chế để thỏa mãn nó một cách vừa đủ và chính đáng. Khống chế được thân xác thì tinh thần trở nên sáng suốt, không bị thân xác lôi kéo khiến cái nhìn trở nên méo mó lệch lạc chữ ta – lấn lướt chữ người. Nhân dục mờ thiên lý, khống chế được nhân dục thì thiên lý sáng tỏ, sáng suốt bắt đầu từ sự công bình giữa ta và người, gỡ cái lăng kính nhân dục xuống thì ta thấy mọi diễn biến đúng thực như nó diễn biến. Có vậy mới nhìn nhận đúng suy nghĩ đúng và quyết định đúng , 3 cái đúng đó hợp thành sự sáng suốt. Chữ Tù đồng nghĩa với từ khống của hoa ngữ, nhưng chữ tỉnh trong Dịch học họ Hùng hoàn toàn khác với chữ tỉnh của Tàu. Tỉnh là sự sáng suốt tỉnh táo, còn dịch của Tàu chữ tỉnh là cái giếng. Tỉnh ở đây là tượng trời quang mây tạnh (trời tạnh, mây quang) hay sự sáng suốt. A/ Quẻ Tù = Trạch/ Thủy Thủy dưới trạch là hình ảnh nước tù đọng ở đáy hồ –ao . Nước trong ao không thông với bên ngoài sông suối trong Việt ngữ vẫn gọi là: ao tù, nước đọng. Lấy tượng tù hãm ấy đặt tên là quẻ tù đọc sai đi là tu. Dịch sang Hoa ngữ là Khống tức khống chế, ký âm sai ra khốn như khốn khổ khốn nạn. a) Lời Quẻ Khốn, hanh, trinh - đại nhân cát vô cữu, hữu ngôn bất tín. Thân thể bị khống chế – tinh thần lại hanh thông (nhận ra chân lý để viết thành Chu dịch) bền gan vững chí nên bậc trưởng nhân thì tốt lắm, không lỗi gì. Trong hoàn cảnh tù tội này, có điều muốn mà không nói ra được. Lời quẻ này nói về Văn Vương khi bị giam ở ngục Diũ Lý đã viết nên Chu Dịch. b) Lời tượng: Trạch vô thủy, khốn, quân tử dĩ trí mệnh toại chí. Hồ cạn nước , cùng cực của sự tù đọng bế tắc , bậc trưởng nhân lâm vào cảnh nghiệt ngã thà hy sinh tính mạng để bảo toàn chí hướng của mình. Điển hình cho lời tượng này là các thánh tử đạo: thà chết không bỏ đạo, tức chí hướng mình đã chọn. Thí dụ nữa, các chiến sĩ cách mạng bị bắt, họ chấp nhận chết chứ không khai báo đấy cũng là trí mệnh toại chí. c) Lời Hào c.1) Hào Sơ Đồn khốn vu châu mộc, nhập vu u cốc, tam tuế “bất dịch” Mông Đít nát ra vì đòn gậy, bị giam vào ngục tối, 3 năm chưa được thả. Phạm tội bị trừng phạt ấy là lẽ công bằng ở đời, muốn tránh khốn như thế thì phải biết sống theo “ luật pháp”. c.2) Hào Nhị Khốn vu tửu thực, chu, phất phương lai, dụng hưởng tự, chinh hung, vô cữu . bị vây khống bởi ân sủng đã nhận của triều Ân Thương nên ở đất phía Tây của Tây Bá xương bây giờ chỉ giữ vững những gì tổ tiên để lại là tốt nhất, phát động chiến tranh lật đổ triều Thương sẽ nguy hiểm. Giữ như vậy thì không lỗi. Hào từ này nói đến việc ông Tây Bá Cơ Xương lập quốc ở phía Tây Trung Hoa, nhưng không tấn công lật đổ ngai vàng của vua Trụ (Cơ Xương là con rể của nhà Ân Thương) được nhà Ân Thương phong là Tây Bá. c.3) Hào Tam Khốn vu Thạch, cứ vu tật lê, nhập vu kỳ cung, bất kiến kỳ thê hung. Bị tù đày nơi ngục đá, nằm trên cỏ gai, khi trở về nhà không thấy vợ đâu, thực là xấu. Hào tam trong quẻ Dịch chỉ lợi lộc của cải. Buôn gian bán lận bị tống vào nhà đá được hưởng mùi đau khổ, mãn hạn thả ra về nhà vợ đã biến mất… ý hào là kẻ chỉ biết lợi không nghĩa không tình thì làm gì có người trung thành với nó, vợ lấy nó cũng chỉ vì tiền nay ở tù thì đi kiếm người khác tình nghĩa gì đâu mà thủy chung chờ đợi. c.4) Hào tứ Lai từ từ, khốn vu kim xa, lận hữu chung. Phó hội chậm trễ, bị nhốt vào cũi sắt trên xe tù, đáng lo nhưng sau cùng lại tốt đẹp. Chắc chắn đây là một điển tích lịch sử, đáng tiếc chưa xác định được là ai, thời nào? c.5) Hào Ngũ Tỵ nguyệt khốn vu xích phất, nãi từ hữu thuyết – lợi dụng tế tự. Dùng hình phạt tàn khốc cắt mũi chặt chân để khống chế bọn rợ Xích Địch đang nổi loạn , dẹp êm dần dần, thoát khỏi loạn ly , lúc này cử hành tế tự thì có lợi. Xích Địch là rợ ở phương Bắc. Đây là một điển tích nữa của cổ sử Trung Hoa còn phải tiếp tục suy gẫm, tìm kiếm… c.6) Hào thượng Khốn vu cát lũy, vu nghiệt ngột, viết động hối hữu hối, chinh cát. Tình thế bức bách, như dây leo quấn chặt mình, thực ngột ngạt, căng thẳng, hành động hối hả vội vã sẽ phải hối hận. Tiến đánh sẽ tốt. Vua Trụ lệnh cho chư hầu phương Đông và phương Bắc (phương của Dịch lý) tấn công đất phía Tây của nhà Chu. Tình thế bức bách, căng thẳng nhưng Tây Bá xương không hành binh phạt Trụ, vì tự xác định sự liên hệ giữa ông và vua Trụ quấn quýt ràng buộc như dây leo không khéo xử lý sẽ thành bia miệng truyền đời cho hậu thế, dù cho sự căm giận và tinh thần tướng sĩ đã dâng rất cao. B) Quẻ: Tỉnh = Thủy/ Phong Mây ở trên (thủy) gió ở dưới, gió thổi mây bay trời quang mây tạnh đấy là tượng của sự sáng suốt hay trong sáng. a) Lời Quẻ: Chữ tỉnh là đầu óc sáng suốt nhưng chữ tỉnh dùng trong lời quẻ này thì tỉnh có nghĩa là nguồn sáng hay cái gốc của văn minh, ý chỉ Dịch học, Chu dịch hay Kinh Dịch đã được ông Cơ Xương hoàn thiện và công bố bằng văn bản hay viết thành sách, trước đó Dịch học cổ xưa chỉ có ký hiệu không một lời nào. Ý ở đây: Dịch học tức khoa học nền tảng hay nền tảng của khoa học . vô đắc, vãng lai tỉnh tỉnh ngật chí diệc vị duật, tỉnh, huy kỳ bình, hung. Nguồn sáng, đô ấp có thể đổi nhưng nguồn sáng Dịch lý không thể thay đổi. Chân lý vĩnh hằng thì làm gì có thêm có bớt, ai cũng có thể tham khảo, suy ngẫm Dịch học để giải quyết những việc của mình, có kẻ do đầu óc mình hiểu sai hoặc cố tình hiểu lệch lạc để thủ lợi, như thế thì nguy hiểm xấu lắm. Quẻ khống và tỉnh liên kết ý nghĩa thành một cặp và sự kiện, ông Cơ Xương bị Trụ bắt giam ở ngục Diũ Lý, trong cảnh khốn cùng nơi lao tù, đầu óc ông bổng trở nên sáng suốt, 3 năm nghiền ngẫm suy tư ông đã viết Chu dịch truyền cho đến ngày nay. b) Lời tượng Tỉnh: Quân tử dĩ trừng phẫn trất dục Ở trước đã có bàn: có 2 nguyên nhân khiến người ta trở nên ngu tối tức không tỉnh. - Một là đầu óc bị dục vọng khống chế hoàn toàn, khiến người ta vì chữ lợi mà cố tình ngu. - 2 là: do phản ứng sinh lý: giận quá mất khôn Nay lời tượng quẻ tỉnh dạy bậc quân tử hay trưởng nhân phải trừng phẫn trất dục, tức dằn cơn giận xuống và dẹp bỏ những dục vong sang một bên. Không cho nó chi phối đầu óc mình nữa. c) Lời Hào c.1) Hào Sơ: Tỉnh nê bất thực, cựu tỉnh vô cầm. Dịch lý truyền đến đời ông Cơ Xương đã bị bóp méo trở thành thứ bùa chú vớ vẩn, tinh hoa của trí tuệ biến thành thứ bùn đất để bọn bất lương cầu tài cầu lộc hay dùng chính lý luận Dịch học để mê hoặc dân chúng. Củng cố sự thống trị của vua chúa ., cựu tỉnh vô cầm có nghĩa là Dịch học cũ không còn có thể phát huy giá trị cao siêu nữa con chim vì chim là loài bay lên trời cao, nên lời hào nói là vô cầm. c.2) Hào nhị: Tỉnh cốc xạ phụ, úng tệ lậu (lúc này) dịch học như cái bình vỡ (nước chảy hết rồi) chẳng còn chút ý nghĩa gì. Với những cái đầu hạn hẹp, u tối, (như cái hang ) thì tinh túy của Dịch học cũng chỉ như vài giọt nước rơi xuống đầu lũ ếch nhái. Ý của hào là Dịch học nút số và vạch quẻ đến đời ông Cơ Xương thì chẳng ai hiểu gì nữa cả, nếu có hiểu một chút, thì lại hiểu theo kiểu chuyện quỷ thần, tà ma … ý nghĩa cao siêu tinh túy chứa trong Dịch học đã mất hết như nước thoát ra khỏi cái bình , chỉ còn lại cái vỏ. c.3) Hào Tam: Tỉnh tiết bất thực, vị ngã tâm trắc khả dụng cấp, vương minh, tịnh thụ kỳ phúc. Dịch học là tinh hoa của trí tuệ đúc kết bao đời, vậy mà không vận dụng được, do Dịch chỉ có ký hiệu, không lời, người muốn học Dịch cũng không học nổi, vì không có chữ thì lấy gì mà phơi bày ý nghĩa hướng dẫn tư tưởng ; tình cảnh ấy khiến ông Cơ Xương hết sức đau lòng nên nhân khi bị giam giữ ông đã suy ngẫm dồn hết tinh lực viết nên quái từ của Chu dịch Làm ánh sáng soi đường cho những ai muốn nghiên cứu học tập Dịch lý để có thể vận dụng giúp ích cho mình cho người, ông Cơ Xương sau là Văn Vương thực là đấng minh quân và Dịch học ông viết ra cho nhân loại được hưởng ơn phúc mãi mãi. c.4) Hào Tứ Tỉnh thứu – vô cữu. Dịch học đang được bổ sung hòan chỉnh, làm gì có lỗi. c.5) Hào ngũ Tỉnh liệt, hàn tuyền thực. Nước giếng trong mát, sử dụng trọn vẹn, tất cả dùng được. Ý nghĩa của Chu dịch như làn nước trong mát, hướng dẫn con người cách sống, cách sử xự trong những tình huống hoàn cảnh khác nhau, Chu dịch chứa các quy luật phát triển, nghiên cứu thấu thiệt mà vận dụng để đưa xã hội tiến lên Ngày một văn minh hơn, làn nước trong mát ấy dùng mãi mà không cạn công đức của Văn Vương thực lớn vô cùng. c.6) Hào thượng Tỉnh thu, vật mạc, hữu phu nguyên cát. Nguồn sáng đã được phục hồi, không được che đậy đi, đặt sự tin tưởng vào Dịch học, vô cùng tốt lành. Chu dịch đã hoàn thành, sức sáng của Dịch học lại như cũ, các nguyên tắc vận động là chỗ dựa cho con người trên bước đường phát triển. Dịch học là của nhân loại, không ai được che đậy (làm của riêng),bậc trưởng nhân xác tín vào sự đúng đắn của các quy luật dịch học, để vận dụng sáng tạo trong cuộc sống đưa xã hội tiến lên. Còn gì tốt hơn nữa.
  24. Dịch học bài 42 23. Cặp Quẻ Lỏng – Khỏng (Khoảng) Đồng nghĩa với cặp quẻ vô vọng - đại súc của Dịch học Tàu, lỏng là trống không ; khỏng là chữ viết trệch đi của chữ khoảng hay quảng nghĩa là nơi rộng rãi có sức chứa lớn. Dịch học Tàu gọi là: vô vọng - đại súc, ý nghĩa là trong lòng mình có lỏng hay trống không tức không trông mong gì lợi lộc cho riêng mình, thì lòng nhân ái rộng mở yêu thương tha nhân rất mực, như thế là đại súc. Lỏng – khỏng là tột cùng đức ái, may ra chỉ thánh nhân mới có được. Ta so sánh với cặp quẻ: Lý – Tiểu súc Vô vọng – đại súc Dùng lý để phân định đúng sai, phải trái với người chỉ là sức chứa nhỏ vì còn cần tợi liều lượng , phải không mong điều gì cho mình tức không còn phân biệt của ta hay của người thì lúc ấy phải – trái, hợp lý hay không hợp lý trở nên vô nghĩa khi ấy lòng nhân ái trở nên vô bờ tức: Đại Súc. Đại Súc còn nghĩa nữa là chứa điều to lớn, Dịch học cho những việc về vật chất tiền nong, cuộc sống v.v… là việc nhỏ, còn đạo đức là cái lớn, đại súc là tích chứa đạo đức. A- Quẻ Lỏng: địa/ phong Quẻ địa phong vô vọng hay lỏng có tượng : Đất là nơi ta ở mà có gió thổi ở dưới như thế chỉ có ở đỉnh núi hay hang động nơi núi cao. Tới đây ta hiểu ra, tại sao các đạo sĩ đắc đạo của Lão giáo đều tu tiên trên đỉnh núi, ngày nay ở Trung Hoa và Việt Nam còn nhiều ngọn núi được coi là linh thiêng gắn liền với tên tuổi của những đạo sĩ đắc đạo trở thành thần tiên. Lòng mình trống không, không gợn một chút lợi danh thực thanh cao vô cùng, người không còn mong mỏi trông đợi gì cho mình thì tấm lòng trở nên quảng đại… quảng đại chính là đại súc. Địa thượng cũng tượng là cái hang trống chỉ có gió luồn bên trong đấy là hình tượng của sự trống rỗng. a) Lời quẻ: Lỏng, nguyên hanh lợi trinh, tàng phủ chính, hữu sảnh, bất lợi hữu du vãng. Không mong mỏi gì là đã hàm chứa 4 nguyên đức của thiên đạo, nếu lòng không thực sự như thế chỉ có tai họa, không thể thăng tiến được. Không mong mỏi gì cho mình là vô cùng cao thượng, đạt được như thế ắt đã ngộ thiên đạo nên lòng chứa được cả 4 nguyên đức, nguyên hạnh lợi trinh, điều cốt yếu là phải thực như thế, còn nếu là giả trá để kiếm danh vị hay sự tôn vinh của người đời thì tai ương tất đến vì cái kim giấu lâu ngày trong bọc thế nào cũng có lúc lòi ra, lúc ấy chẳng dám nhìn ai nữa còn nói gì đến sự thăng tiến. b) Lời tượng: Vật dữ vô vọng, tiên vương dĩ mậu đối thời, dục vạn vật. Bậc minh quân không mỏi gì cho riêng mình, mà chỉ lo cho muôn dân, tùy tình thế thời buổi mà chăm lo cho dân. Thí dụ: mùa hè mà phát chăn bông thì đâu ơn ích gì. Hoặc lúc dân đang đói mà giảng đạo đức, lễ nghĩa thì sao có hiệu quả. Vào mùa cấy mà vua làm lễ cày tịch điền cầu mưa thuận gió hòa là mậu đối thời dục vạn vật. Dân đã khá giả sung túc thì dạy dân lễ nghĩa cho phong hóa xã hội ngày một tốt đẹp hơn lên, đấy là mậu đối thời dục vạn vật. c) Lời Hào c.1) Hào Sơ Vô vọng vãng cát Lòng không mong mỏi gì riêng tư mà tiến hành công việc thì thực là tốt, ở đây chữ vô vọng đồng nghĩa với chí công vô tư. c.2) Hào Nhị Bất canh hoạch bất tri dư, tắc lợi hữu du vãng Không trồng trọt sao có thu hoạch không khai hoang thì làm sao có ruộng, phải tiến hành thì mới mong kết quả chứ (điều lợi). Hào từ này chỉ rõ nghĩa chữ vô vọng, vô vọng không có nghĩa là không trông chờ… nếu có gieo thì phải mong gặt hái chứ, có lao nhọc thì phải trông chờ thành quả chứ. Vô vọng nghĩa ở Dịch học là không mưu lợi riêng cho mình mà lo cho toàn thể nghĩa là cán bộ khi lo việc nước thì đừng có trông mong chấm mút, đừng có rút một công trình, còn đối với mọi người khi làm thì dĩ nhiên phải trông đợi kết quả sao lại vô vọng được. c.3) Hào Tam Vô vọng chi tai, hoặc hệ chi ngưu, hành nhân chi đắc, ấp nhân chi tai. Họa không mong mà đến, như có người cột trâu cạnh đường bị người đi đường dắt mất, người trong ấp lại bị nghi ngờ, đúng là tai bay vạ gió. Tai vạ thì có ai mong đâu nhưng vẫn xảy ra, sở dĩ vậy là tại người không cẩn trọng, không lường trước sự việc để mất của, còn gây xào xáo rối loạn trong chòm xóm thật đáng trách. c.4) HàoTứ Khả trinh vô cữu Liệu có bền không ? Không lỗi. Hào tứ chỉ sự thái quá, không lâu dài được đâu chỉ đắc trung mới trường cửu, không lỗi vì ngoài ý muốn chủ quan. Còn nghĩa nữa, tiểu nhân giả vô vọng hay giả chí công vô tư để leo lên cao, khi có địa vị rồi, có thể “ăn” được rồi liệu nó còn giữ bộ mặt giả nhân giả nghĩa được bao lâu? Nên hào tứ nói nếu giữ được vô vọng lâu dài thì mới không lỗi vì lâu dài như thế chứng tỏ lòng “vô vọng” thật sự. c.5) Hào ngũ Vô vọng chi tật, vật dược hữu hỷ. Tật bất cần đời, không cần thuốc thang gì cũng tự khỏi vì một khi bụng đói thì chân tất phải bò, c.6) Hào thượng Vô vọng hành, hữu sảnh, vô du lợi. Đi mà không cần đến tức hành động không có mục đích, có tai họa, không ích lợi gì. Làm cho có làm không mong gì thành công, hao phí tài lực của xã hội đó là tai họa. Còn ích lợi gì nữa? . Không nói sợ người ta bảo mình câm nên nói bừa nói đại Nói không suy nghĩ chẳng cần người hiểu miễn người ta đừng tưởng mình câm là được, người trí như thế tính như thế thì sớm muộn gì cũng có tai họa, người đời thường gọi là vạ miệng. B/ Quẻ khoảng = trạch/ địa (quảng) Khoảng ở đây là khoảng rộng, chứa được số đông, biến âm của chữ quảng trong quảng đại là to lớn rộng rãi tức đại súc Đại súc có thể hiểu theo 2 nghĩa: Đại súc là sức chứa lớn lao. Đại súc là chứa điều to lớn. Cả 2 nghĩa đều đã bàn ở phần trước rồi Hồ ở trên đất, vững chãi chắc chắn trên nền móng to lớn của đất nên sức chứa cũng to lớn lắm. a) Lời quẻ Đại súc, lợi trinh, bất gia thực, lợi thiệp đại xuyên Có tấm lòng quảng đại, bền vững lâu dài thì vô cùng tốt, bất gia thực ý là: không ăn cơm nhà vì đã là người của công chúng. Tấm lòng quảng đại hết sức cần cho công cuộc phát triển. Đại súc là mình vì mọi người, bất gia thực là mọi người vì mình. b) Lời tượng: Đại súc, quân tử dĩ đa thức, tiền ngôn vãng hành dĩ súc kỳ đức Chứa sự to lớn, bậc trưởng nhân bằng nhiều cách, học hỏi lời xưa tích cũ của tiền nhân, lấy đấy làm tấm gương noi theo để rèn luyện nuôi dưỡng đạo đức tốt lành nơi mình. c) Lời Hào c.1) Hào Sơ Hữu lệ – lợi dĩ Có điều phải lo, dừng lại tốt hơn. Hào sơ ở vị trí thấp nhất, ở quẻ này chỉ công đức nơi mình còn mỏng lắm. Chưa thể tiến lên vị trí cao hơn, phải dừng lại để lo bồi dưỡng đức độ. Tạo nền tảng cho vững đã. c.2) Hào nhị: Dư thoát phúc (bức) Xe văng mất bánh Phát triển xã hội phải dựa trên tiến bộ khoa học kỹ thuật, tức sự phát triển đòi hỏi phải có cơ sở vật chất tương ứng. Không thể tiến lên nếu xe không có bánh là vậy. Nghĩa thứ 2 là: địa vị xã hội phải dựa trên nền tảng tài và đức. Không đủ tài đức mà bon chen địa vị thì khác gì xe không bánh làm sao mà tiến được. c.3) Hào Tam Lương mã trục, lợi gian trinh, nhật nhàn dư vệ, hữu du vãng. Cơ sở vật chất kỹ thuật và chế độ xã hội như 2 con ngựa đuổi nhau, con này tiến đi, con kia đuổi theo vượt qua, con này lại đuổi theo cứ như thế mà tiến tới, công cuộc tiến hóa rất gian nan khúc khuỷu phải bền lòng mới thắng lợi. Phải nắm vững quy luật tiến hóa để điều khiển công cuộc phát triển mới có thể thành công hay tiến triển tốt đẹp (hữu du vãng) c.4) Hào tứ Đồng ngưu chi cốc, nguyên cát . phải cột buộc con nghé ngay khi chưa mọc sừng, rất tốt. Ý hào là: dạy con từ thuở còn thơ, trẻ con tâm hồn trong trắng tính khí chưa ngả theo hướng nào nếu biết uốn nắn chỉ bảo ngay từ lúc đó nó sẽ hướng thiện ngay bước đầu và cứ con đường đó mà đi mãi về sau. Còn gì tốt hơn nữa. c.5) Hào Ngũ Phần chỉ chi nha, cát. Thiến con heo có nanh đi , tốt. Heo có nanh là heo rừng, sở dĩ nó hung hăng là nó động dục, thiến nó thì đâu còn hung hăng nữa nên cái nanh của nó cũng đâu còn nguy hiểm gì. Ý hào nói là ngăn ngừa từ gốc xóa đi các nguyên nhân đẩy đưa người ta đến chỗ phạm tội. Thí dụ muốn xóa nạn trộm cắp vặt ra thì ngoài việc trừng trị, nhà nước phải lo công ăn việc làm cho dân ai cũng no đủ thì làm gì còn .việc..“bần cùng sinh đạo tặc” . c.6) Hào Thượng Hà thiên chi cù hanh Ôi, thiên đạo thênh thang, hanh thông hết mực. Đại súc với nghĩa tích chứa đạo đức, hào lục là tột cùng, đức đã tích chứa đến hết mực thì trở thành tiên thành thánh đâu còn là người phàm nữa, vì vậy hào này nói đường trời thênh thang không còn gì cản trở nữa bậc thần tiên chu du khắp nơi, hào này nói đến việc tu tiên đắc đạo cưỡi hạc chu du.
  25. Dịch học họ HÙNG . bài 41 22. Cặp Quẻ : Kể – Quyết (cả) Dịch học của Tàu gọi là: Cáo – quyết, cáo cũng nghĩa là kể ra, nói ra. Ý là: luật pháp hay những điều triều đình đã quyết phải phổ biến cho mọi người tức là tính công khai và minh bạch của luật pháp. Quyết là dứt khoát như thế không thay đổi,. Đã quyết rồi mà không phổ biến rộng rãi thì ai biết rõ mà chấp hành. Dứt khoát, cứng rắn và công khai minh bạch là yếu tính của nền pháp trị. Ta thấy ngay từ thời phong kiến mà các tác giả Dịch học đã có quan điểm vượt rất xa thời đại mình, hơn 3000 năm sau vẫn hoàn toàn đúng, ngay người “đương thời” cũng vẫn phải noi theo. A- Quẻ: Kể (cả) Thiên/ Phong Gió di chuyển dưới trời tức sát mặt đất đấy là tượng truyền thông, hay phổ biến thông tin rộng khắp đến mọi nơi cho mọi người. a) Lời Quẻ: Cáo, nữ tráng vật dụng thú nữ. bọn tiểu nhân đang thịnh thời, không thể bộc trực lôi ruột lôi gan mình ra lúc này. Ở nước Việt ta như Chu Văn An bộc trực khẳng khái dâng sớ xin chém 7 tên nịnh thần hại nước hại dân, nhưng nào có kết quả bọn chúng vẫn phây phây, muốn vạch tội chúng tức “cáo” thì cũng phải lựa thời thế, cả triều chính là vây cánh của lũ gian thần ấy thì vua cũng chẳng dám nghe mình, bộc trực lúc này coi chừng thiệt thân mà thôi. b) Lời tượng: Thiên hạ hữu phong, cáo, hậu dĩ thí mệnh cáo tứ phương Dưới trời có gió là tượng quẻ cáo-kể lãnh đạo xem tượng đó mà ban lệnh truyền cho 4 phương, khắp nơi đều rõ. Mệnh lệnh ban ra mà không phổ biến tới mọi người thì cũng như không, phong ở đây tượng trưng cho sự truyền thông hay đưa tin, nói theo lối nói ngày nay thì luật pháp và mệnh lệnh ban ra phải công khai và minh bạch thì mới thực hiện được. c) Lời Hào c.1) Hào Sơ Hệ vu kim nị, trinh cát hữu du vãng kiến hung, luy thỉ phụ trục trịch. Ngừng công việc cải cách lại, giữ nguyên như thế thì tốt, tiến hành công việc sẽ gặp nguy, đám tiểu nhân nhảy nhót múa may quay cuồng lôi kéo mọi người Hào Sơ là thời buổi ban sơ dân trí còn thấp lắm, đưa ra những cải cách sẽ gặp phản ứng không tốt, thậm chí nguy hiểm cho đại cuộc, vì quyền lợi của nó đám tiểu nhân đang vận động, kéo bè cánh lung tung để chống lại mình. c.2) Hào nhị Bào hữu ngư vô cữu, bất lợi tân Bỏ cá vào cái bao, không lỗi đâu. Không cho nó gặp khách, giữ bí mật thông tin về tình hình quốc gia không lỗi gì, khách ra vào nhà không có lợi.(khó cho sự bảo mật) Kẻ địch muốn tiến đánh nước mình trước hết bao giờ chúng cũng thu thập tin tức, dựa vào tin tức đó chúng mới có thể phác thảo kế hoạch tấn công. Bất lợi khách ra vào nhà là trong số đó thế nào cũng có gián điệp đi nắm tình hình. Ý hào là có những lúc phải cách biệt thông tin giữa trong nước và ngoài nước. c.3) Hào Tam Đồn vô phu, kỳ hành từ thư, lệ vô đại cữu Mông đít không da, đi chập choạng, có nguy nhưng không lỗi. Chỉ huy mà không nắm được thông tin nơi chiến trường thì dựa vào đâu mà suy nghĩ quyết định kế hoạch nên hào từ nói không có cơ sở và tiến đi chập choạng. Không có kế hoạch chặt chẽ hướng dẫn, mò mẫm bước đi, có phần lo nhưng không mắc lỗi lớn. c.4) Hào Tứ Bào vô ngư, khởi hung . không có cá trong bao, bắt đầu việc cải cách sẽ nguy hiểm. Bọn tiểu nhân không có đứa nào bị bắt giữ cả, tức là bọn chúng đang rộng đường tác yêu tác quái, quân tử không thể phát động việc cải cách lúc này sẽ rất nguy hiểm, cũng có thể hiểu: Mù tịt, làm sao phát động, liều lĩnh sẽ nguy hiểm. Binh pháp có câu: Biết người biết ta trăm trận trăm thắng, không biết một chút gì về địch quân, không thể xuất quân hành binh được, tình thế vô cùng nguy hiểm. c.5) Hào ngũ Dĩ kỷ bao qua, hàm chương, hữu vẫn tự thiên. Dây leo dựa vào thân cây gỗ, phải có sẵn chương trình hành động thì trời mới mở cho thời cơ hành động, không có sự sẵn sàng thì trời cũng đành bó tay. Cây dây leo phát triển được nhờ bám vào thân cây gỗ, lý luận là sự tổng kết cô đọng từ thực tiễn lý luận muốn phát huy buộc phải dựa trên thực tiễn. Hoặc cũng có thể hiểu: Bậc trưởng nhân phải bao dung, nuôi dưỡng các hiền sĩ, như chứa sẵn sự tốt đẹp vậy, có sẵn sàng như thế thì trời mới ban cho thời cơ hành động. Như Mạnh Thường Quân trong nhà nuôi cả ngàn tân khách, để gặp thời sẽ dùng đến. Thân đau ốm mà không chịu uống thuốc chỉ cầu nguyện ơn trên... thì trên cũng đành bó tay vì ơn ích không có cầu dẫn suất làm sao đến nơi được, không sẵn sàng kế hoạch hành động thì thời cơ không thể đến, trời muốn giúp lắm cũng đành chịu. c.6) Hào Thượng Cáo kỳ giác, lận, vô cữu Việc đã gần xong mới báo cáo, đáng tiếc vì đâu còn gì mà xử lý… nhưng không lỗi là do khách quan, khoảng cách quá xa, thông tin đến không kịp thời. Giác là cái sừng ở trên đầu là vị trí cao nhất tượng là việc đã sắp xong rồi , không sửa đổi gì được nữa, có báo cáo cũng bằng thừa. B- Quả Quyết = Trạch/ Thiên Trạch là sự hiểu biết hay tri thức, thiên hay kiền là sự cương mãnh. Quyết là quyết định dứt khoát mạnh bạo dựa trên cơ sở tri thức khoa học a) Lời quẻ: Quyết, dương vu vương đình, phu hiệu hữu lệ, cáo tự ấp, bất lợi tức nhung, lợi hữu du vãng. Tuyên cáo tội trạng của nó trước triều đình, lấy lòng chí tín mà phát nghiêm lệnh, thông báo cho cả ấp quốc biết, mối đe dọa của giặc “Từ Nhung”, tiến lên ắt thắng lợi. Vũ Canh con của Trụ Vương được phong tước hầu cai trị ở kinh đô cũ của triều Ân Thương – đã âm mưu cùng người Đông Di, Từ Nhung nổi loạn chống lại triều Chu, Chu Công đã phát binh đích thân đánh dẹp, 3 năm mới đem lại bình yên, cuộc hành quân này gọi là cuộc Đông chinh, đám quí tộc nhà Ân Thương gọi là ngoan dân (dân ngoan cố) bị Chu công dời về sinh sống ở Lạc Ấp, Chu Công cho xây ở đấy Đô Thành thứ 2 của triều Chu và đích thân trấn nhậm ở đấy để giáo hóa đám ngoan dân này . b) Lời tượng: Quyết, quân tử dĩ minh thứ chính vô cảm chiết ngục. Quân tử làm sáng tỏ chính sự và không để tình cảm chen vào và khi phán quyết tội trạng và hình phạt. Làm sáng tỏ chính sự là mọi quyết định về chính sách quốc gia đều công khai, rõ ràng ở triều đình. Phán quyết về tội danh và án hình một cách hết sức cẩn trọng, dứt khoát “pháp bất vị thân” tức không để tình cảm chen vào sự luận tội . c) Lời Hào c.1) Hào Sơ Tráng vu tiền chỉ, vãng bất thắng vi cữu. Chủ mạnh ở ngón chân thì làm sao mà đi, ngón chân không có công dụng gì trong việc bước đi, nó phụ thuộc hoàn toàn vào hệ cơ bắp của chân, sức như vậy mà cứ tiến thì nên công trạng gì ? Đấy là lỗi lầm. Đại khái như một đạo quân xung trận mà chỉ mạnh ở “công binh” thì thắng ai được, vậy mà cứ tiến bừa là lỗi của người cầm quân. c.2) Hào nhị Dịch hào, mộ dạ hữu nhung vật tuất Lúc nào cũng sẵn sàng tác chiến dù ban đêm giặc Từ nhung kéo đến cũng không lo gì. Dịch hào là hô hào, cảnh giác. c.3) Hào Tam Tráng vu cưu (quỳ) hữu hung, quân tử quyết quyết, độc hành ngộ vũ, nhược nhu, hữu uẩn, vô cữu. Hăng mạnh lộ ra mặt là điều nguy hiểm, quân tử hay bậc trưởng nhân quyết thực hiện điều đã quyết, một mình đi bị mưa ướt hết trang phục, có chút điều tiếng bực mình nhưng không lỗi gì. Sự hăng mạnh lộ ra mặt, nguy hiểm vì bọn tiểu nhân có thể đoán biết mà ra tay trước trừ khử mình, bậc trưởng nhân khi đã quyết là quyết tới cùng, một mình cũng tiến đi dù gian lao vất vả tới đâu đi nữa , dù có điều tiếng gì đi nữa cũng bỏ ngoài tai đường ta ta cứ đi chó sủa mặc chó, như vậy đâu có lỗi gì. Hào từ này mô tả tình cảm và hành động của ông Chu Công. Anh ông là Vũ Vương thăng hà, cháu ông là Thành Vương còn nhỏ nối ngôi cha, ông nắm quyền nhiếp chính cai quản quốc gia, khi Vũ Canh là hậu duệ nhà Ân Thương cùng bọn Đông Di Từ Nhung nổi loạn Chu Công thống lãnh binh quyền đánh dẹp , ở triều đình có người nghi ngờ về lòng trung quân của ông, thống lãnh binh lực và mọi quyền hành trong tay sợ ông cướp ngôi của cháu…. Ông bỏ ngoài tai tất cả và kiên quyết đông chinh , sau này Thành Vương trưởng thành ông đã không chút đắn đo trao trả quyền điều hành đất nước cho cháu và một lòng cúc cung tận tụy phục vụ nhà Chu tới cuối đời. c.4) Hào Tứ Đồn vô phu, kỳ hành từ thư, khiên dương, hối vong, văn ngôn bất tín. Mông đít không da, đi chập choạng như dắt dê, hối hận không còn, nghe nói nhưng không tin. Hào cửu tứ chỉ sự thái quá, không có lý luận khoa học dẫn đường, mò mẵm mà đi (vừa chạy vừa xếp hàng); Hành động cách mạng phải đi sau lý luận cách mạng như người chăn dê thì đi sau đàn dê như thế sẽ không phải ăn năn, dù địch học đã chỉ dạy mà không tin theo nên mới ra như vậy. Học thuyết tiến hóa hay lý luận khoa học chính là Dịch học, ý hào này là trước khi tiến hành việc quốc gia đại sự phải cẩn thận dựa trên cơ sở khoa học mà hoạch định kế hoạch tỉ mỉ c.5) Hào ngũ Nghiễn lục quyết quyết, trung hành vô cữu Nhổ cỏ nhổ tận gốc, hay dứt khoát dọn sạch cỏ rác, cứ đường ngay nẻo chính mà đi thì còn lỗi gì. c.6) Hào thượng Vô hào, chung hữu hung Không nghe lời cảnh báo, cuối cùng sẽ mắc nguy hiểm. Hào thượng chỉ sự tột cùng, quyết tột cùng trở thành độc đoán, độc tài nên mắc hung. Cạnh lãnh đạo bao giờ cũng có cơ quan tham mưu, cơ quan này dựa trên khoa học và các yếu tố khách quan mà dự đoán xu thế phát triển của sự vật mà phác thảo kế hoạch trình cho lãnh đạo, không thèm để ý đến các ý kiến tham mưu tự quyết đoán theo cảm tính hay ý định chủ quan của riêng mình, như vua Trụ nhà Ân Thương cuối cùng mang họa sát thân.