Lê Bá Trung

Hội Viên Ưu Tú
  • Số nội dung

    526
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

Everything posted by Lê Bá Trung

  1. Huyệt đường (21) Ruộng cao uốn xuống thì mạch táng trên. (22) Ruộng thấp uốn lên thì mạch táng dưới. (23) Bình dương mạch chẳng hề châm gối. (24) Hễ chính Long thì tả hữu chiều lai. (25) Đâu có chính Long thì sơn thuỷ gối kề. (26) Nhưng trên sơn cước non cao. (27) Cường Long thể mạch thể nào mới hay? (28) Tìm nơi mạch nhược Long gầy. (29) Nhất thời Oa huyệt nhị thời Tàng phong. (30) Đất có cát địa chân Long. (31) Táng cho phải phép anh hùng giàu sang. (32) Họ như dưới đất bình dương. (33) Mạch thính giác điền xem tường mới hay. (34) Bình dương lấy nước làm thầy. (35) Thứ nhất khai khẩu, thứ nhì nhũ Long (36) Thứ ba mạch thắt cổ bồng. (37) Thứ tư sơn chỉ hồi Long càng tài. Trên kia cụ TẢ AO giảng về phép phân tích các loại Long để đi theo nó tìm cho tới huyệt tràng là vùng đất trong đó có huyệt kết. Tới đây cụ đưa ta tới huyệt tràng và giảng tiếp: (21) Ruộng cao uốn xuống thì mạch táng trên. (22) Ruộng thấp uốn lên thì mạch táng dưới. Là nếu chỗ ruộng cao đã có Long Hổ ôm chầu vào, huyệt tràng ở chỗ cao mới cân đối. Còn mạch nhập huyệt nằm dưới thấp từ từ cao lên thì táng vào nơi cao vừa. Tiếp theo cụ nói tiếp đến phạm vi kết huyệt của loại mạch bình dương. (23) Bình dương mạch chẳng nề châm gối (24) Hễ chính Long thì tả hữu Chiều lai Là mạch bình dương tuy hay ẩn tàng không lộ như mạch sơn cước nên khó kiếm hơn. Nhưng mạch bình dương lại có đặc điểm dễ kiếm huyệt, là hễ gặp chính Long là có tả thanh Long, hữu bạch Hổ Chiều về và không nệ thiếu gò nổi bật ở sau huyệt làm Chằm. Có cũng hay mà không có cũng được vì ruộng đằng sau cao cũng là Chằm rồi. Được như vậy chỉ cần lập hướng đúng là được rồi, rất ít khi xẩy ra sai như đất sơn cước. Và tới đây cụ nói lên đến mạch sơn cước. Mạch bình dương thường lành hơn mạch sơn cước nên các thầy địa lý giỏi ưa kiếm mạch bình dương. Còn mạch sơn cước có núi cao ngạo nghễ hay phát võ anh hùng cường liệt, đa sát. Sát cho dòng họ người được đất và vì phát võ cách nhiễu nên nếu là đất lớn thì sự thành công của con cháu người được đất gây nên thảm sát cho thiên hạ nữa. “Nhất tướng thành công vạn cốt khô” Ta đã thấy vua Quang Trung sau khi được ngôi đất ở Sơn cước (Tây sơn An Khê) đã giết 20 vạn quân Tôn Sĩ Nghị và Sầm Nghi Đống đó là sát hay. Sát giở như Lý Tự Thành đời vua Sùng - Trinh nhà Mãn Thanh sau khi được đất sơn cước làm loạn đánh về tới kinh đô gây cho dân gian chết chóc vô kể. Đất sơn cước lắm hung nhiều sát song thấy râ ràng nhiều thầy địa lý non thường thích làm. Đất sơn cước nhiều tử khí nếu không tìm được tới Long chân huyệt địa thì có hại. Tuy nhiên khó thì khó thật mà nếu biết được phép chính tông địa lý là làm cho công phu cũng có thể giảm nhiều hung sát do đó cụ TẢ AO có nói: (26) Nhưng trên sơn cước non cao (27) Cường Long Thổ mạch thế nào mới hay? Có nghĩa là đất sơn cước có non cao hùng vĩ cường Long mạch Thổ phải để như thế nào mới tránh được hung sát. Cụ chỉ cho ta cách để như thế nào dưới đây. (28) Tìm nơi mạch nhược Long gầy. Câu này là cả một bí pháp về phép để đất trên sơn cước mà rất ít sách địa lý của tàu và ta nói đến. Nó có nghĩa: Đất sơn cước cường mạch hay sinh nhân đa sát nếu muốn tránh phải kiếm thứ Long nào sâu, khi rời núi non chạy xuống đồng còn chạy ngang dọc cho bớt hung hăng cường mạnh, đến khi Long dịu rồi mới vào huyệt. Hình dạng của Long đó, khi dịu rồi trông gầy và nhược. Đó là chân Long đất sơn cước kiếm được huyệt ở chỗ đó sẽ sinh nhân hùng hậu, quân tử không hung sát. Sau khi nói râ hai đặc tính của huyệt sơn cước và bình dương rồi cụ TẢ AO nói tiếp về hình dạng chỗ kết huyệt. Phải chỉ hình dáng chỗ kết huyệt mới dễ để mả. Cũng nên nói thêm rằng đại cuộc đất dù lớn mấy trăm mẫu, huyệt tràng dù rộng cả nghìn thước nhưng chỗ huyệt kết nhỏ bằng cái chiếu mà thôi. Như vậy nên phải chỉ râ hình tích của chỗ có huyệt kết để dễ kiếm. Sau khi theo Long tìm đến huyệt tràng rồi nếu ta tìm tại nơi huyệt tràng chỗ nào có dấu hiệu Oa, Kiềm, Nhũ, Đột thì ta phải nghi chỗ đó là chỗ có huyệt kết của cuộc đất. Thế nào là Oa, Kiềm, Nhũ đột? 1) Oa: Là khai oa khum khum như gọng vó. Cụ TẢ AO gọi nôm na là: “Khum khum gọng vó chẳng nó thì ai”. 2) Kiềm: Cụ TẢ AO gọi nôm na là “Thè lè lưìi trai chẳng ai thì nó” 3) Nhũ: Hai bên có Long Hổ cao, nghĩa thò ra như qua bí quả bầu. Cụ TẢ AO gọi là thắt cuống cà sa đít nhện cuống cà nhỏ và thấp, hai bên Long Hổ cao bằng huyệt tràng hay cao bằng mắt người ngồi ở huyệt. 4) Đột: hai bên long Hổ cao lên 5) Oa (lâm) Kiềm (kẹp) Nhũ (lồi) Đột (nhô) 6) Oa biến thể: Huyệt hình tam giác hai bên Long Hổ duỗi ra thăng bằng và hơi cao hơn huyệt như chữ nhân (nó là oa biến thành tam giác). 7) Oa đứng: Là xung quanh cao giữa thấp có thể hoặc tròn hoặc hình bầu dôc hoặc hình chữ điền, chữ nhật (ở chỗ Long đình khí chỉ). Chi tiết chỗ đất kết ở sơn cước để đặt xương người xuống cho thu được khí mạch hình oa, hình kiềm, hình nhũ, hình đột và hình oa biến thể hay oa đứng kể ở trên song nói về huyệt tàng phong hơn cả ở sơn cước thì huyệt khai: Oa, Kiềm vốn là tàng phong rồi. (29) Nhất là Oa huyệt, nhị thời tàng phong. Câu trên có nghĩa là oa kiềm đã có tàng phong sẵn rồi rất tốt vì oa huyệt có gọng vó cao hơn huyệt, che gió cho huyệt, kiềm cũng thế. Tuy nhiên ngoài oa kiềm còn có thể kết huyệt nhũ, đột nữa. Nhũ đột cũng cần Long Hổ cao thăng bằng với huyệt trường để che gió cho huyệt. Một huyệt kết mà không tàng phong dễ sinh ra tội (yểu hoặc bệnh tật). Nói tiếp về đất sơn cước. Đất này đã khó táng lại hiềm ít thuỷ tô nên nhiều đất kết anh hùng mà vẫn nghèo. Tuy nhiên cụ TẢ AO nói là nếu kiếm được chân Long: (30) Đất có cát địa chân Long Mà biết chọn Long điếm huyệt cho phải phép (dù là khó) thì có thể vừa anh hùng vừa giàu sang chứ không phải đất sơn cước nào cũng sinh anh hùng và nghèo đâu. (31) Táng cho người phép anh hùng giàu sang Tiếp theo cụ TẢ AO lại đề cập thêm về loại huyệt bình dương. (32) Nọ như dưới đất bình dương. (33) Mạch “Thính giác điền” xem tường mới hay. (34) Bình dương lấy nước làm thầy. Ba câu trên có nghĩa là huyệt bình dương tuy ít sát hơn huyệt sơn cước tuy nhiên đất bình dương cao thấp không chênh lệch nhau lắm nên khó xem hơn. Mà khó xem nhất là mạch thính giác điền đó là các thớ của Long mạch đi bằng những góc riêng. Các cụ sợ nhất là những mạch ruộng có núi nhọn đâm vào huyệt hay những góc ao quay mũi nhọn vào huyệt “Ruộng như mũi dao, ao như thước thợ”. Con người TẢ AO phóng khoáng sau khi căn dặn những gì quan trọng nguy hiểm khó khăn của huyệt cho con cháu biết mà phòng bị khi để huyệt thì bản tính dễ dãi yêu đời cố hữu lại trở về cụ giảng tiếp theo: (34) Bình dương lấy nước làm thầy. Để nhắc nhở lại cho chúng ta biết là mạch sơn cước lấy tàng phong làm quan trọng thì mạch bình dương lấy Minh đường làm chính hễ có nước mà có sơn thuỷ gối kề là tả hữu Chiều lai là hay có huyệt, để vào không án nhiều cũng án ít chứ ít khi bị sát nặng như đất sơn cước. Rồi cụ lại tiếp tục kể lể để nhắc lại những gì quan trọng. (35) Thứ nhất khai khẩu, thứ nhì nhũ Long. (36) Thứ ba mạch thắt cổ bồng. (37) Thứ tư sơn chỉ hồi Long càng tài. Câu (35) có nghĩa huyệt kết phải khai khẩu nghĩa là phải là oa kiềm hay nhũ, đột (sơn cước thì Oa, Kiềm; bình dương thì Nhũ, Đột). Câu (36) có nghĩa là khi Long chạy đến huyệt kết trước khi nhập thủ thì đất phải thắt lại như cổ bồng thì mới chắc. Nửa câu 37 nghĩa là đất có huyệt thì sơn phải chỉ mạch đến đó không tiếp tôc đi nữa mới kết được. Và nửa câu sau của câu 37 (hồi Long càng tài) là trong các huyệt kết thì hồi Long cố tổ là quý nhất vì nó mau phát mau ăn hơn loại huyệt hoành Long, trực Long.v.v... Nhưng chữ thứ nhất thứ hai, thứ ba và thứ tư câu 35, 36, 37 không phải là thứ tự tốt xấu mà chỉ kể lể 4 thứ quan trọng nhấn thêm để ta xem huyệt mà thôi. (38) Muốn cho con cháu Tam khôi. (39) Phương Nam có bút, phương Đoài có nghiên Lời bàn: Bút cũng giống Kiếm, Nghiên, cùng giống ấn. Nếu những chứng ứng này ở hướng phát Văn hay ở thế đất phát Văn thì gọi là Bút. Và khi nó ở hướng phát Võ hay ở thế đất phát Võ thì gọi là Kiếm Bút, Nghiên, Kiếm, ấn đều là những sa từ tay Long tay Hổ hay từ huyệt tràng thôi ra làm tôn quí cho huyệt nếu Bút đi với Nghiên hoặc Kiếm với ấn thì lại tôn quí hơn.
  2. Các chứng ứng khác thêm tôn quý của cuộc đất (71) Kìa như đất có ngũ tinh. (72) Nhận xem cho biết tương sinh loan hoàn. (73) Muốn cho con cháu nên quan. (74) Thì tìm Thiên mã phương Nam đứng chầu (75) Muốn cho kế thế công hầu. (76) Thì tìm chiêng trống dàn chầu hai bên. (77) Ngũ tinh cách tú chiều nguyên. (78) Kim, Mộc, Thủy, Hoả, bốn bên Loan hoàn. (79) Thổ tinh kết huyệt Trung ương. (80) ấy đất sinh thánh sinh vương đời đời. (81) Thiên sơn vạn thuỷ chiều lai. (82) Can chi bát quái trong ngoài tôn nghinh. (83) Nhị thập bát tú thiên tinh. (84) Tại thiên chiếu huyệt rành rành chẳng sai. Phần này bàn rộng về phép tương sinh của ngũ hành với khoa địa lý và những chứng ứng tôn thêm vẻ quý cho huyệt. (71) Kìa như đất có ngũ tinh. (72) Nhận xem cho biết tương sinh loan hoàn. Có nghĩa là muốn suy xét rộng ngoài lẽ âm dương đã nói ở trên ta phải nắm vững thêm ngũ hành. Tất cả các hình thể của đất trước nhất là phải chú trọng đến năm hành là Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ. 1- Hình tròn là Kim tinh hay con Kim. 2- Hình dài là Mộc tinh hay con Mộc. 3- Hình vuông Thổ tinh hay con Thổ. 4- Hình nhọn là Hoả tinh hay con Hoả. 5- Hình sóng gợn là Thuỷ tinh hay con Thuỷ. Những con này có thể đứng hay nằm. Nếu là đồi cao thì đứng mà giải đất thấp thì nằm. Đứng phải nhìn theo trắc diện của người đứng ở huyệt kết và nằm phải nhằm theo bình diện của người ở trên cao giữa hình đất để nhìn xuống. Ngoài các loại chứng ứng cần thiết như Kiếm, ấn, Bút, Nghiên lại còn những chứng ứng tôn thêm vẻ quý cho kiểu như Ngựa; Voi, Lân, Trâu, Chiêng, Trống, Cờ, Đình, Đài,.v.v... những chứng ứng này hoặc tay Long, tay Hổ hoặc trước án hoặc ở thuỷ khẩu cũng được. Càng nhiều chứng ứng càng rộng bao la, càng có la thành bao bọc nhiều tầng càng lớn càng quí. Cụ TẢ AO lấy một ví dô chứng ứng là con Ngựa (Thiên mã). (73) Muốn cho con cháu nên quan. (74) Thì tìm Thiên Mã phương Nam đứng chầu. Thiên mã ở tử vi thuộc Hoả, Hoả tinh và phương Nam cũng thuộc Hoả nên Thiên mã được chính vị là vượng nên có ảnh hưởng tốt cho huyệt kết. Cụ lấy chứng ứng là nhiều tầng Chiêng, Trống, Cờ bảng thì lớn hơn nữa. (75) Muốn cho kế thế “Công hầu” (76) Thì tìm cờ, trống giàn chầu hai bên Rồi cụ TẢ AO đề cập đến kiểu đất quý nhất làm ví dô: (77) Ngũ tinh cách tứ Chiều nguyên (78) Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả bốn bên Loan hoàn (79) Thổ tinh kết huyệt Trung ương (80) Ấy đất sinh Thánh, sinh Vương đời đời (81) Thiên, sơn vạn thuỷ Chiều lai (82) Can chi bát quái trong ngoài tôn nghinh (83) Nhị thập bát tú thiên tinh (84) Tại thiên chiếu huyệt rành rành chẳng sai Kiểu đất quý ở câu (77) đến câu (84) trên đây không sinh Thánh cũng sinh Vương có những đặc điểm như sau: 1- Giữa có Thổ tinh kết huyệt, phía Đông có con Mộc, phía Tây con Kim, phía Nam có con hoả và Bắc có con Thuỷ. 2- Nếu lớn thì phải có nhiều ngọn nước và nhiều núi chầu về (81) Thiên sơn vạn thuỷ Chiều lai 3- Các chứng ứng chầu về đều nằm đúng chính vị theo ngũ hành: (82) Can chi bát quái trong ngoài tôn nghinh. Để ứng về tử vi trên trời có 28 vị sao chầu về (83) Nhị thập bát tú thiên tinh. (84) Tại thiên chiếu huyệt rành rành chẳng sai. Cách qúi như trên sinh được Thánh vương rất khó kiếm nhưng được một phần cách đó cũng quí lắm rồi. Đất phát công hầu (75) Muốn cho kế thế “Công Hầu” (76) Thì tìm Chiêng, Trống dàn chầu hai bên Lời bàn: Đất kết hình vuông (Thổ) lại thêm nhiều tầng Long Hổ có hình cờ, bảng Trống (ở tay Long) Chiêng (ở tay Hổ) ôm chầu. Về ngũ hành thấy Huyền Vũ hình Mộc (dài) sinh Hoả (nhọn). Hoả lại sinh Thổ (vuông) là nơi có huyệt trưởng. Huyệt trưởng vuông (Thổ) lại sinh ra chiêng trống hình tròn (Kim) dàn trải hai bên huyệt. Ngoài ra còn cờ bảng ở tay Long nữa. Như thế là đất phát tới kế thế Công hầu. (77) Ngũ tinh cách tú chiều nguyên. (78) Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả bốn bên loan hoàn. (79) Thổ tinh kết huyệt Trung ương. (80) Ấy đất sinh Thánh sinh Vương đời đời. (81) Thiên, sơn, vạn Thuỷ chiều lai. (82) Can chi bát quái trong ngoài tôn nghinh. Đất phát đế vương Lời bàn: Càng nhiều hình thế thuộc ngũ hành ở đúng hướng càng phát lớn. Trên ba tầng Long Hổ, trên ba án trên ba đột Huyền Vũ và trên ba minh Đường là có thể phát đến Đế vương. Các chứng ứng ở xung quanh huyệt mà nằm đúng ngũ hành vị trí của nó càng chứng tá huyệt kết minh quân có lương tướng. Hình trên ta thấy hướng Bắc có ba hình Thuỷ, hướng Nam có ba hình Hoả, hướng Đông có ba hình mộc, hướng Tây có ba hình Kim, Thổ ở giữa.
  3. (tiếp theo) Phước duyên của người được đất (85) Ngôi Đế vương mặc trời chẳng giám. (86) Huyệt Công khanh không kiếm ai cho. (87) Đất khai hoa nhìn xem cho kỹ. (88) Thấy thì làm chớ để lưu tâm. (89) Trên sơn cước xa xăm cũng táng. (90) Dưới bình dương nửa tháng cũng đi. (91) Minh sinh ám tử vô di. (92) Coi đi coi lại quản chi nhọc nhằn. (93) Quả nhiên huyệt chính Long chân. (94) Tiêu sa nạp, thuỷ chớ lầm một ly. (95) Táng thôi phúc lý tuy chi. (96) Trâm anh bất tuyệt thư thi gia truyền Những kiểu đất quá lớn sinh được Thánh vương đã đành không giám nghĩ đến mà ngay những kiểu đất Đế vương những người ít đức cũng nên làm ngơ để cho trời sắp đặt. (85) Ngôi Đế vương mặc trời chẳng giám. Tuy nhiên ngôi Công hầu Khanh tướng không phải là không có những vị phúc đức có thể hy vọng lắm. Ngay những người phúc đức vừa phải nếu được ngôi đất Công hầu Khanh tướng mà biết tu thân tạo đức thì chỉ gặp gian nan, trắc trở một thời gian đầu rồi sau cũng được hưởng đất đó. (86) Huyệt Công khanh không kiếm ai cho ở những tay Long Hổ, án, sa những ngôi đất Đế vương có rất nhiều đất kết Công hầu Khanh tướng. Đó là kiểu bàng của triều chính. (87) Đất khai hoa nhìn xem cho kỹ. (88) Thấy thì làm chớ để lưu tâm. (89) Trên sơn cước xa xăm cũng táng. (90) Dưới bình dương nửa tháng cũng đi. Hoa là phần tinh túy của cây do nhựa cây tạo ra thì đất có tô khí ở bên trong cũng có thể tô kết ở đâu để hiện ra huyệt kết: Oa, Kiềm, Nhũ, Đột những huyệt kết này là tinh hoa của đất hay là hoa địa. Đất khai hoa là kiểu đất kết, nếu thấy thì nên làm tuú duyên, tuú đức, cho những ai có duyên có đức. (87) Đất khai hoa nhìn xem cho kỹ. (88) Thấy thì làm chớ để lưu tâm. Đã làm thì có ngại gì xa xăm mệt nhọc, sơn cước hay bình dương (89) Trên sơn cước xa xăm cũng táng. (90) Dưới bình dương nửa tháng cũng đi. Kiếm được đất tốt rồi muốn để mả phải điểm huyệt. Điểm huyệt là kiếm chỗ nào tụ khí ở huyệt tràng mà chôn xương người chết xuống đó. Khi điểm huyệt phải phân kim làm sao thu được cái sáng cái tinh của Sa lẫn Thuỷ và tiêu diệt được khí ác khí xấu của Sa và Thuỷ đi. Làm như vậy gọi là thu minh sinh, phóng ám tử. Những sách địa lý viết tiếp của chúng tôi sẽ nói đến phân kim (91) Minh sinh, ám tử vô di Việc phân kim tức thu minh sinh, phóng ám tử rất khó khăn nhọc nhằn, vì phải cân nhắc cho thật kỹ, càng kỹ càng tốt, cần chỉ làm một lần cho xong tác phẩm đó chứ không thể để mả xuống rồi thấy sai đào lên làm lại (92) Coi đi coi lại quản chi nhọc nhằn Có huyệt tốt mà tiêu Sa nạp Thuỷ rất đúng không lầm lỗi gì cả thì: (93) Quả nhiên huyệt chính Long chân (94) Tiêu Sa nạp Thuỷ chớ lầm một ly Táng xong ta phải mừng là phúc nhà đã giúp cho được đất có một phần và nhờ sự tận tâm của thầy địa lý. Bởi vì được đất rồi dù gia thế trước kia có hèn kém cũng có thể trở nên Trâm anh Thế phiệt, con cháu gần xa đều được hưởng. Đất phát văn thì làm quan văn, đất phát võ thì hiển đạt về võ nghiệp và đất phát phú thì giàu có đời đời (95) Táng cho phúc lý tuy chi (96) Trâm anh thế phiệt thư thi gia truyền. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du nói nhà Kim Trọng được đát phát văn như “Nền phú quý bậc tài danh/Văn chương nếp đất thông minh tính trời/Thông tư tài mạo tuyệt vời/Vào trong phong nhã ra ngoài hào hoa”Việc để đất là quan trọng như thế, cho nên những ai muốn đất tốt cho ông cha ta chớ nên coi thường. Muốn kiếm một ngôi đất lớn không phải là dễ trước tiên phải kiếm thầy giái sau nữa thầy địa lý phải kì công kiếm đất rồi điểm huyệt phân kim cho thật chu đáo, mới có hy vọng. Vì vậy đã mấy người được toại nguyện. Một thầy địa lý có khi phải dông công học hỏi, nghiên cứu cả đời người cũng chưa chắc đã làm toàn vẹn được, nếu họ không phải là học được phép địa lý chính tông. Thầy chính tông hiện nay rất khó kiếm nhưng địa đạo diễn ca của cụ TẢ AO mà chúng tôi trình bày đây đều được các cụ giỏi địa lý công nhận là căn bản chính tông địa lý. Chúng ta chỗ cần phát huy cho hết dụng ý của nó cũng là ích lợi lắm rồi.
  4. Nói về lý khí (97) Muốn cho con trưởng phát tiên (98) Thì tìm Long nội đất liền quá cung (99) Thanh Long liên châu cao phong (100) Kim tinh thổ phô phát dòng trưởng nam (101) Con gái về bên Hổ sơn (102) Hồ cao thì phát sơn bàn cho thông (103) Phản Hổ con gái lợn chồng (104) Phản Long trai nó ra lòng bất nhân (105) Vô Long như người vô chân (106) Vô Hổ như đứa ở trần không tay (107) Trông Long Hổ lấy làm thầy trước (108) Sau sẽ tìm thấy chỗ huyệt chôn (109) Nước chẳng tô đường kể chi (110) Kiếm ăn cũng khá xong thì lại không (111) Con trai thì ở bất trung (112) Con gái thất tiết chả dùng cả hai Phần này cụ TẢ AO đề cập đến lý khí Các thế Long đi ở Việt Nam hay tạo ra những kiểu đất “Trưởng bại thứ thành” nghĩa là con trưởng nghèo khó và con thứ lại giàu sang quyền quý. Nhiều người để đất muốn xin thầy kiếm cho ngôi đất nâng ngành trưởng lên. Cụ TẢ AO chỉ cho phép tìm đất cho con trưởng phát dưới đây (97) Muốn cho con trưởng phát tiên (98) Thì tìm Long nội đất liền quá cung Có nghĩa là muốn cho con trưởng phát trước thì nên tìm hiểu đất mà tay Long ở bên trong cùng tức là Long nội (Nhiều kiểu đất có nhiều tầng Long hổ) dài ra ôm vòng trước án hay tay Long có đoạn cuối nổi lên như cái gò làm án. Được kiểu đất như vậy con trưởng sẽ phát trước con thứ. Trên kia là cách để đất cho con trưởng phát, nhưng nếu muốn con trưởng phát lớn thì phải kiếm đất. (99) Thanh Long Liên châu Cao phong (100) Kim tinh Thổ phô phát dòng trưởng nam Đó là kiểu đất trên tay Long nổi lên những ô cao tròn liền nhau (Liên châu Cao phong). Trên tay Long có gò cao tròn (Kim) hay vuông (Hổ) cũng đều tốt Còn nói đến con gái và em thứ thì phải nói đến tay Hổ (101) Con gái về bên Hổ sơn (102) Hồ cao thì phát sơn bàn cho thông Hổ sơn là tay Hổ của huyệt, nó là tay phải của huyệt ôm vòng vào trước huyệt. Tay Hổ có ô cao thì tốt, Long càng dài nhọn thì Hổ càng cao, thuú đầu càng tốt. Trên tay Hổ có khúc nào cao lên đúng vị trí cần thiết ứng vào gái trưởng, gái thứ, gái út thì người con gái đó sẽ phát. ở hướng Tốn con gái trưởng phát, ở hướng Ly con gái thứ phát, hướng Đoài con gái út phát. Câu “Hổ cao thì phát ” đã nói rồi còn “Sơn bàn cho thông ” ta phải hiểu rằng cụ TẢ AO khuyên ta nên hiểu và biết cắt nghĩa cho thông hình dáng của núi gò đống. Tất cả gọi là sơn bàn của cuộc đất. Tay Long và tay Hổ còn phải luôn luôn ôm chầu vào huyệt. Nếu tay Long Hổ quay ra (phản Long hay phản Hổ) hoặc phá nhau, đâm vào nhau Long Hổ kinh quyền) thì rất xấu. Cụ TẢ AO cắt nghĩa ở câu: (103) Phản Hổ con gái lợn chồng 1) Phản Long trai nó ra lòng bất nhân 2) Đất phản Hổ thì con gái không được đoan chính hay đường chồng con rất xấu. Nếu không con gái cũng bị tai nạn hình thương. Còn đất phản Long thì con trai lông bông vô tình với gia đình với xã hội hoặc bất nhân hoặc bạc ác hay bị khắc hại 3) Phản Long phản Hổ đã bàn rồi thế mà Long Hổ nhiều khi cũng xảy ra trường hợp đặc biệt nữa như kiểu đất thiếu một tay Long hoặc một tay Hổ. (105) Vô Long như người vô chân (106) Vô Hổ như đứa ở trần không tay Thật vậy trong một kiểu đất dù kết mà thiếu một tay Long hay một tay Hổ trông nó lệch lạc khó coi làm sao. Khi nhìn ta có cảm tưởng như nhìn một người thiếu một tay hay thiếu một chân. Đây là loại đất đặc biệt vô Long vô Hổ thì có tội nhưng thay vào tay Long tay Hổ khiếm khuyết đó mà có một dòng nước hay ngoại Long ngoại Hổ bổ khuyết vào thì cũng có thể có đất to. Tuy nhiên đất này đôi khi trong nhà trong dòng họ vẫn có người tội lỗi bệnh tật kinh niên. Như thế là họ gánh cái xấu cho những người khác. Họ là người đáng thương của dòng họ nào có kiểu đất vô Long hoặc vô Hổ. Long Hổ không cân đối ta cũng nên bàn thêm là. Đất có tay Long dài thì vượng về âm phần, đất có tay Hổ dài thì vượng về dương. Long Hổ là con cháu của nhà được đất kết nên phải cho là quan trọng. Do đó khi được đất kết rồi trước khi điểm huyệt phân kim cân nhắc lại Sơn bàn về Long Hổ cho kỹ. (107) Trông Long Hổ lấy làm thầy trước (108) Sau sẽ tìm thấy chỗ huyệt chôn Phần linh tinh sau cùng này cụ TẢ AO nhấn lại và thăm ý kiến cho những gì quan trọng mà cụ đã nói qua ở trên. Sau khi nhấn thêm về Long Hổ rồi cụ lại đề cập đến Minh đường một lần nữa: (109) Nước chẳng tô đường kể chi (110) Kiếm ăn cũng khó xong thì lại không (111) Con trai thì ở bất trung (112) Con gái thất tiết chả dùng cả hai Có nghĩa là Minh đường cần thiết là phải có thuỷ tô thì mới có tiền, mới giàu có được. Nếu Minh đường mà không có nước thì có làm cũng không hưởng. (109) Nước chẳng tô đường kể chi (110) Kiếm ăn cũng khó xong thì lại không. Về phần của nước thì khi Minh đường có nước trong sẽ tốt hơn Minh đường có nước đôc. Minh đường rộng lớn quanh năm tô thuỷ mà lại trong đẹp như mặt gương là loại minh đường quý, con cái nhà đó sẽ học giái thông minh. Trái lại lòng Minh đường lệch lạc nghiêng lệch không tô nước thì ứng vào trai bất trung, gái bất tiết: (111) Con trai thì ở bất trung (112) Con gái thất tiết chả dùng cả hai Cũng nên bàn thêm về nội Minh đường và ngoại Minh đường cho đầy đủ hơn. Ta đã biết trước huyệt có án Chiều về, cứ lấy án gần huyệt làm đích phân ra. Nội minh đường là loại Minh đường nằm trước huyệt sau án gần nhất. Còn ngoại Minh đường là những chỗ nước tô ở ngoài án đó. Có nội và ngoại Minh đường thì cũng có thể có nội án và ngoại án. Cần nhất là nội Minh đường phải có nước, còn ngoại Minh đường càng có nhiều càng tốt có ít cũng không sao. Đất to có 3 Minh Đường trở lên và không dưới 3 tầng Long Hổ.
  5. Các phương pháp tính kim lâu: hiện tại tôi biết có tất cả 6 cách tính kim lâu 1. Cách tính theo dân gian: Dân gian ta thường có câu : “Lấy vợ xem tuổi đàn bà, làm nhà xem tuổi đàn ông”. “Xem tuổi” ở đây ngụ ý chỉ tuổi Kim Lâu. Lại có câu : Một, ba, sáu, tám Kim Lâu Làm nhà, cưới gả hàng đầu phải kiêng - Nam: Lấy số tuổi chia cho 9, số dư mà = 1, 3, 6, 8 thì là phạm Kim Lâu (tính để xem tuổi làm nhà, sửa nhà) + Nếu dư 1 là phạm Kim lâu thân (Gây tai hoạ cho bản thân người chủ); + Nếu dư 3 là phạm Kim lâu thê (Gây tai hoạ cho vợ của người chủ); + Nếu dư 6 là phạm Kim lâu tử (Gây tai hoạ cho con của người chủ); + Nếu dư 8 là phạm Kim lục súc (Gây tai hoạ cho con vật nuôi trong nhà); Riêng cái này có phạm cũng không sao nếu bạn không phải người kinh doanh chăn nuôi hoặc quá yêu quý động vật . - Nữ: hàng đơn vị của tuổi mà = 1, 3, 6, 8 là phạm Kim Lâu (tính để xem tuổi lấy chồng) 2. Cách tính theo sách “Thông thư” của Trung quốc: Trong sách “Thông thư” lý giải như sau : Lấy 24 phương vị gồm 4 quẻ, 8 thiên can và 12 địa chi, sắp xếp thành : phương Bắc gồm Nhâm– Tí – Quý ; Đông Bắc gồm Sửu – Cấn – Dần ; phương Đông gồm Giáp – Mão – ất ; Đông Nam gồm Thìn – Tốn – Tị ; phương Nam gồm Bính – Ngọ - Đinh ; Tây Nam gồm Mùi – Khôn – Thân ; phương Tây gồm Canh – Dậu – Tân và Tây Bắc gồm Tuất – Càn – Hợi. Bắt đầu tính khởi 1 ở góc Tây Nam, 2 đến Tây, 3 đến Tây Bắc, 4 đến Bắc, 5 vào cung giữa (trung cung), 6 ở Đông Bắc, 7 ở Đông, 8 ở Đông Nam, 9 ở Nam, đến 10 lại về cung giữa rồi tiếp hàng đơn vị 1 ở hướng Tây Nam v.v... Tính như vậy thì luôn luôn ta thấy 1 – 3 – 6- 8 ở các phương, góc có Tứ Mộ (Thìn, Tuất, Sửu, Mùi) có Tứ Sinh (Dần, Thân, Tị, Hợi). Vừa có “Mộ”, lại vừa là “Sinh” nên gọi Kim Lâu, ẩn chứa nhiều hung nguy hơn cát tường nên cần phải kiêng tránh. 3. Cách tính theo Kim Oanh Ký Tính Kim Lâu trước 50 Tuổi Khẩu quyết: khôn - đoài - càn - khảm - cấn - chấn - tốn - ly. Tính Kim Lâu sau 50 tuổi.(Tính từ 50 trở đi). Khấu quyết: Trung cung - khôn - đoài - càn - khảm - cấn - chấn - tốn - ly. Phạm cung Khôn: Nhất Kim lâu thân: Chính kỵ nhất. Phạm cung Càn: Nhị Kim Lâu thê: kỵ người vợ. Phạm cung Cấn: Tam Kim Lâu tử: kỵ cho con cái Phạm cung Tốn: Tứ Kim Lâu lục súc: kỵ súc vật nuôi. Có tám tuổi không cấm kỵ kim lâu khi tạo tác, và khi chết cũng không sợ trùng là tuổi : KỸ SỮU - TÂN SỮU KỸ MÙI - TÂN MÙI CANH DẦN - CANH THÂN NHÂM DẦN - NHÂM THÂN 4. Cách tính theo phương pháp của Hoà thượng Thích Hoàn Thông Hoà Thượng Thích Hoàn Thông có cách tính và lập luận thống nhất với tuyệt đại đa số cách sách và "thày", Cụ chỉ nêu mọt điểm khác biệt là tuổi nhập "trung cung". Cụ cho rằng nhập trung cung không chỉ có tuổi 50 mà còn các tuổi lẻ 5 cũng nên cho nhập trung cung. Cụ viết: "Đại, tiểu số đều liên tiết, thuận hành. Khi gặp số 5 và 50 thì nhập Trung cung (chỗ này, các nhà chỉ cho con số 50 mới nhập Trung cung còn các con số 5 khác thì đi luôn, nhưng xét kỹ thì đã gọi là cung Ngũ trung thì con số 5 phải nhập Trung cung mới đúng)". 5. Cách tính đổi chỗ Tốn Khôn và khởi từ cung Cấn của chú Thiên Sứ: 6. Một dị bản khác còn lưu truyền: Có sách lưu hành cũng khá rộng rãi, nhưng sách này không có tên tác giả, không nhà xuất bản thì dạy tính tuổi kim lâu: Tính 10 tuổi, 20 tuổi, 30 tuổi vào cung Khôn, số lẻ của tuổi vào cung Đoài, Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, tổi gặp các cung Đoài, Khảm, Chấn, Ly là tốt, không phạm Kim lâu. Như vậy, với cách tính này thì các tuổi 21, 23, 25 và 27 tuổi là tuổi tốt, không phạm kim lâu. Ai sử dụng cách tính này thì có kết luận như vậy Các sách nói về thuật trạch cát của Trung Quốc không thấy đề cập đến khái niệm Kim Lâu. Kim Lâu chỉ có các cụ ta ngày xưa tính và coi trọng. Công thức Hoang ốc tính theo số tuổi của chủ nhân tại thời điểm muốn xây dựng, tu tạo. Từ năm muốn xây cất, tính lui về năm sanh âm âm lịch để tìm số tuổi. Số tuổi chẵn khởi tại vị trí A, B, C, D, E, F. Qúa 60 thì tại A = 70, tại B = 80, nhưng thường ở tuổi qúa cao thì ít ai phải xây dựng. Tại A là nhứt kiết Tại B là nhì nghiTạiC là tam sát Tại D là tứ tấn tài Tại E là ngũ thọ tử Tại F là lục hoang ốc Ý nghĩa : Nhứt kiết an cư thông vạn sự Nhì nghi tấn phát địa sanh tài Tam sát nhơn do giai đắc bệnh Tứ tấn tài phước lộc lai Ngũ thọ tử ly thên phòng tử biệt Lục ốc tạo gia bất khả thành Đối với số tuổi lẽ ngoài 10, ngoài 20, ngoài 30, ngoài 40, ngoài 50, ngoài 60 thì khởi từ hàng chục đó, theo chiều kim đồng hồ với mỗi lóng tay một tuổi cho đến số tuổi xây dưng. Chỗ dừng gặp phải A, B, C, D, E, F có ý nghĩa tại đó. Nguồn my.opera.com/NgVanTruong
  6. Khi làm nhà, người ta rất chú trọng đến việc tính toán sao cho ngôi nhà tương xứng với khu đất, tránh làm nhà lọt thỏm trong đất hoặc ngược lại – chiếm hết diện tích đất. Điều này liên quan chặt chẽ đến vấn đề sử dụng không gian sao cho hài hòa về quy mô, tiện ích và khí hậu. Trường hợp đất hẹpSân trước không nên chừa diện tích quá dài rộng Xác định ngôi nhà thế nào với khu đất thực ra chỉ tương đối, vì phụ thuộc nhiều yếu tố như kích thước, chiều cao nhà, vị thế với đường giao thông và mục đích sử dụng, công năng của ngôi nhà. Ta xét trường hợp đất hẹp (đối với nhà ống trong đô thị) thì ngôi nhà phải có tối thiểu 1/10 đến 2/10 diện tích là khoảng trống thông thoáng. Điều này giúp hình thành nên những miệng đối lưu không khí và đường dẫn khí luân chuyển (Khí Khẩu - Khí Đạo) từ ngoài vào trong, từ dưới lên trên (theo nguyên tắc khí nóng bốc lên, khí lạnh đi xuống). Nguyên tắc này thông qua những Thiên Tỉnh (giếng trời) để từ đó ngôi nhà được cân bằng khí với môi trường bên ngoài (có thể đưa mưa nắng trực tiếp xuống hoặc có mái che nhưng vẫn hở ngang để lấy sáng và thông thoáng). Cần lưu ý nếu nhà càng cao thì diện tích phần đất chừa ra làm khoảng giếng trời càng cần linh hoạt mở rộng chứ không thể cố định giống như nhà thấp tầng được. Trường hợp đất rộng Nếu điều kiện diện tích đất rộng (biệt thự, nhà vườn) thì vấn đề xác định sự cân đối liên quan đến cách thức chừa khuôn viên và đặt ngôi nhà lên phần này… Phép xem hình thế và định vị nhà trên đất luôn bắt đầu theo tiến trình: Định trung cung - phân vùng cát hung - Khoanh vị trí xây nhà - Lập nội minh đường và khuôn viên quanh nhà. Như vậy thì dù đất có rộng cỡ nào (ví dụ trang trại) vẫn hoàn toàn có thể đặt ngôi nhà không bị lọt thỏm bằng cách chọn vùng tốt của khu đất, sau đó khoanh khu vực dự định làm nhà trong vùng tốt đó. Khu vực này sẽ có khuôn viên riêng với nội minh đường của ngôi nhà, có thể làm tường rào hoặc ngăn ước lệ bằng cây xanh, hồ nước… Khi đó dù vùng trang trại bên ngoài có rộng lớn bao nhiêu thì ngôi nhà vẫn được bao bọc ở bên trong của một khuôn viên vừa phải, không bị tán khí hay lọt thỏm trong diện tích đất lớn. Đối với đất nhà biệt thự hay nhà phố rộng khi xây dựng thường có sân trước và sân sau. Tại sân trước ta không nên chừa diện tích quá rộng quá dài (sân gấp hai đến ba lần chiều dài nhà là thuộc loại dài). Theo nguyên lý âm dương trong phong thủy thì sân trước là vùng Dương, biểu lộ quan hệ đối ngoại, cần che chắn tránh “trực xung” nhưng nếu làm dài rộng quá thì sẽ quá trống trải. Nếu mua nhà có sẵn sân trước dài rộng thì có thể khắc phục bằng cách tạo những đường dẫn khí thông qua hệ thống cây trồng, ví dụ trồng những cây thân thẳng và cao theo khoảng cách đều (cau cảnh hay cọ), và những cây hoa có mùi thơm, màu sắc tươi vui để dẫn dắt luồng khí; tránh trồng những cây ủ rũ, gai góc hoặc lá dày quá che khuất tầm nhìn của nhà (từ trong ra cũng như từ ngoài vào).Ngược lại khi sân trước quá nhỏ, thậm chí không đủ để đậu xe thì ngôi nhà rất dễ bị “trực xung” do ngoại cảnh gây nên. Chấn lực, bụi bặm, tiếng ồn và tầm nhìn xoi mói từ bên ngoài con đường sẽ tác động vào người cư ngụ mỗi ngày, dù ngôi nhà có thể buôn bán thuận lợi do gần đường nhưng về lâu dài không phải là nơi cư ngụ an lành. Sân sau quá lớn Thuật phong thủy chia khuôn viên sau nhà ra làm hai phần, phần bảo vệ và phần hỗ trợ. Phần hỗ trợ tiếp xúc gần ngôi nhà và phần bao bên ngoài là bảo vệ. Phần hỗ trợ khi cần thiết là không gian mở rộng của nhà bếp, sàn nước, sân phơi hay chuồng nuôi gia súc (tùy nhu cầu mỗi nhà). Do vậy phần này không nên trồng nhiều cây cối áp sát vừa gây um tùm khó sử dụng sân, vừa dễ bị lá rụng, rễ cây xuyên phá nền sau nhà. Phần bảo vệ thì nên trồng cây, thậm chí cây lá dày hoặc gai nhọn để ngăn gió lạnh,. Câu nói “trước cau sau chuối” chính là chỉ cách trồng cây cho nhà ở, với cây chuối lá dày trồng sau nhà để che chắn, cây cau thẳng cao trồng trước nhà để đón chào. Hai phần hỗ trợ và bảo vệ nên cân bằng không được quá chênh lệch, và điều cơ bản là phải tạo được thế “tọa sơn” cho Dương trạch, tức là phần đất sau nhà nên cao hơn phía trước, có thể cao tự nhiên hay nhân tạo, để gia chủ luôn có chỗ dựa, tầm nhìn bao quát, nhà và vườn hài hòa cảnh quan. Theo Sài Gòn Giải Phóng Nguồn:Blogphongthuy.com
  7. Xin chân thành cám ơn Chú Linh Trang rất nhiều.
  8. Kính Gửi Chú Linh Trang. Xin phép chú Linh Trang cho cháu hỏi, xây thêm 1 tụ nhỏ ở đầu hồi hình dạng nó như thế nào ạ.Cám ơn chú Linh Trang rất nhiều. Lúc trước sư phụ Thiên Sứ có đến mần phong thủy cũng có bảo cháu chuyển cừa sang bên phải, nhưng do cửa chính mời sửa lại cách đây không lâu, bây giờ chỉnh sửa lại thì ba mẹ cháu không đồng ý, cháu đành phải giữ nguyên trạng thái cũ chỉ có chỉnh cho cửa cao hơn và làm lại phần nền trứoc cho bằng với nền nhà không phạm khốc khấp..Chân thành cám ơn Chú Linh Trang rất nhiều.
  9. Kính Gửi anh Minh Châu. Nhà này của em được xây dựng vào năm 2006 năm Bính Tuất và cũng nhập trạch vào năm Bính Tuất. Hình như nhà em phạm động thổ vào năm Thái tuế . Cám ơn anh Minh Châu. Lê Bá Trung.
  10. Kính Gửi chị Thanh Vân. Em xin cám ơn chị Thanh Vân đã bò thời gian công sức nghiên cứu dùm cho nhà của em. Đây là hình em vẽ lại những nhà chung quanh, nhờ chị và các huynh tỉ xem sơ qua dùm cho em. :mellow: Khu đất đựoc chụp lại từ Vệ Tinh.
  11. Kính Gửi PHUTHUONG. 1. Bức Tường Ngay Giữa Nhà Không phải là Bức Tường Chịu lực, nó là bức tường để ngăn phòng khách và phòng Bếp. Nếu đập bỏ sẽ thấy Bếp và toilet không tốt. 2. Bức vách che toilet để tránh toilet đối môn, nếu đập sẽ thấy toilet không tốt Còn cách nào khác không ạ ? Cám ơn PHUTHUONG đã quan tâm.
  12. Kính thưa chị Thanh Vân cùng toàn thể ACE. Theo như yêu cầu của chị Thanh Vân, nay em đã chụp và post lên một số hình Nhà Bếp, Cầu Thang, Wc. Để cho mọi người thuận tiện trong việc nghiên cứu tìm ra giải pháp. Hầm cầu, Bể phốt nhà em nằm ngay dưới bức Vách che Toilet. Cầu thang đã khắc phục được hiện trạng thoái khí, nhưng có một cái cửa trên sân thượng mỗi khi gió mạnh thì cầu thang ở dưới hút gió rất mạnh, không biết như vậy có làm tán khí xung quanh khu vực Bếp hay không? Bể Phốt nằm ngay dưới Bức vách che Toilet có ảnh hưởng đường đi của khí dẫn đến Bếp hay không? Sơ đồ phân cung và kích thước nhà. Cửa chính và 4 cánh cửa phụ vào nhà. Bàn thờ ông bà tổ tiên. Hồ cá, Tủ Lạnh, và bàn máy Vi tính. Toilet và Bếp. Bức vách che cầu thang và lưng tựa của Bếp. Bức vách che toilet. Riêng cái Máy Giặt em đã dời vào nhà kho, đằng sau lưng cái bồn rửa chén, trong Gầm Cầu Thang. Kính nhờ mọi người xem qua và cho thêm ý kiến cần bổ sung gì thêm Trung sẽ cố gắng bổ sung. Chân thành cám ơn chị Thanh Vân cùng toàn thể mọi người.
  13. Xin cám ơn chị Thanh Vân đã cố gắng bỏ thời gian phân cung lại giúp nhà Trung. Thưa sư phụ bản vẽ này đệ tử làm theo đúng như lời sư phụ đã dặn, chỉ còn mỗi cửa chính không di chuyển sang bên kia được. Cái bồn rửa chén nằm rất sát với Bếp. Vì nhà đệ tử mới sửa được vài ngày. Có cách nào hạn chế được không ạ ? Hầm cầu Bể phốt nhà đệ tử nằm trên sơn Mão gần bức vách che Toilet. Cho đệ tử hỏi cái bức vách che toilet có ảnh hưởng gì đến Bếp không? Đệ tử đã bo tròn góc nhọn của tường tránh đâm vào Bếp rồi ạ. Ngày mai đệ tử sẽ chụp 1 số hình up lên để mọi người xem xét cho thuận tiện. Chân thành cám ơn sư phụ và chị Thanh Vân đã giúp đỡ.
  14. Chúc Mừng Sinh Nhật Cô Wildlavender.Kính chúc cô nhiều sức khỏe gặt hái được nhiều thành công. Còn rất nhiều người đang mong chờ vào tâm lòng nhân ái của Cô... Lê Bá Trung
  15. Thân chào chị Thanh Vân. Em gửi bản vẽ nhờ mọi người phân cung dùm.. Cám ơn chị Thanh vân rất nhiều.
  16. Cám ơn chị Thanh Vân đã gợi ý. Đây là bản vẽ của nhà chưa phân cung. Kính nhờ mọi người phân cung lại dùm cho Trung. Thưa sư phụ vách ngăn ở bếp chiều dài che hết cửa toilet, lúc đầu đệ tử thấy góc nhọn của bức vách này đâm vào Bếp, đệ tử đã cho thợ bo tròn cái vách đó lại thành vách kiểu để không thấy góc nhọn, đệ tử đứng ngay Bếp thì thấy bức vách đó không đâm vào bếp ạ, không biết ngay chỗ đó đặt 1 chậu cây hay kiếm hình bầu trời mây gì đó che cái bức vách lại được không ạ ?
  17. Chúc Mừng ! Chúc Mừng Chúc 2 Huynh hoàn thành tốt công việc trọng trách của diễn đàn. Chúc sức khỏe và Vạn Sự An Lành.
  18. Sau chục năm bỏ công sức để nghiên cứu về La Kinh cũng như những kiến thức về phong thủy. :P Huynh Laido đã thực hiện được tác phẩm của mình, từ trước đến nay những La Kinh được sử dụng hầu như là tiếng Tàu, lợi bất cập hại :rolleyes: , cũng rất người biết và sử dụng cho đúng. Nay sau bao nhiêu trăn trở khó khăn, huynh đã chế tác ra được 1 La Kinh Made in Việt Nam chính gốc. Xin chúc mừng Huynh Laido. Đó cũng là một bước ngoặc mới trong Phong Thủy Lạc Việt 5000 năm... :( :lol: :lol: Lê Bá Trung.
  19. Huynh Vothuong rất nhiệt tình ! Bạn thật may mắn và có duyên đấy..Hy vọng rằng bạn Crecent sẽ mau có giải pháp cho ngôi nhà của mình..Trung đây cũng đang sửa chữa phong thủy theo giải pháp của sư phụ Thiên Sứ ! Lúc trước nhà Trung cầu thang cũng thuộc loại '' Thoái Khí " như nhà của bạn. Người ở trên lầu sống trên đó cảm giác rất mệt mỏi, mấy ngày hôm nay làm lại cái cầu thang, công nhân có sự thay đổi rõ rệt..Sau khi sửa nhà xong. 30 ngày sau sẽ cho Crescent kết quả thực tế khi ứng dụng phong thủy của Lạc Việt. Thân Chào ! Lê Bá Trung.
  20. Chúc Mừng Sinh Nhật Nữ Hoàng.. Chúc Nữ Hoàng luôn xinh đẹp, vui vẻ và mạnh khỏe
  21. Kính Gửi anh LeDien. Những bài viết này em tham khảo được ở một số trang web, em post lên đây cho mọi người tham khảo coi như một sự so sánh khác nhau giữa tàu và Lạc Việt...Nếu có gì không đúng, sơ xuất mong anh bỏ qua cho.
  22. 1. Tùy tháng mà chọn ngày Tháng giêng 2, 4, 6, 10, 12, 15, 16, 17, 19, 24, 25, 26, 28, 29, 30 Tháng hai 2, 4, 6, 10, 11, 12, 15, 16, 17, 21, 24, 25, 26, 28, 29, 30 Tháng ba 2, 4, 6, 9, 10, 11, 12, 17, 21, 24, 25, 26, 28, 29, 30 Tháng bốn 2, 4, 8, 10, 11, 12, 15, 16, 19, 20, 21, 24, 25, 26, 28 Tháng năm 2, 6, 8,10, 11, 12, 15, 19, 20, 21, 24, 25, 26, 28 Tháng sáu 2, 6, 8, 9,11, 12, 15, 19, 21, 24, 25, 26, 30 Tháng bảy 4, 6, 9, 10, 11, 12, 15, 17, 19, 20, 21, 24, 25, 28, 29, 30 Tháng tám 4, 6, 8, 10, 11, 12, 15, 16, 17, 19, 20, 21, 24, 28, 30 Tháng chín 4, 6, 8, 9,10, 12, 15, 16, 17, 19, 20, 21, 24, 28, 29 Tháng mười 2, 4, 6, 8, 9,10, 15, 16, 17, 19, 20, 21, 25, 26, 28, 29, 30 Tháng mười một 4, 6, 8, 9, 10, 11, 16, 17, 19, 20, 21, 26, 28. 29, 30 Tháng mười hai 2, 4, 6, 8, 9, 11, 15, 16, 17, 19, 20, 21, 24, 25, 26, 28, 29 2. Nên chọn ngày Bất tương mà dùng. Tức là không dùng ngày Âm tương, Dương tương và Âm dương cụ tương (tương là sát khắc lẫn nhau) vì: Âm dương nữ tử (hại cho bên nữ) Dương tương nam vong (hại cho bên nam) Âm Dương câu tương nam nữ cụ thương (hại cho cả nam và nữ) Âm Dương bất tương nam nữ kiết xương (Âm Dương bất tương nam nữ đều tốt). Bảng lập thành ngày Bất tương Tháng 1Bính, Nhâm: tý; Ất, Kỷ, Tân, Quý: mẹo. Tháng 2 Bính, Canh, Mậu: tý, tuất; Ất, Đinh, Kỷ: sửu. Tháng 3 Ất, Đinh, Kỷ: dậu, sửu. Tháng 4 Giáp, Bính, Mậu: tý; Giáp, Bính: thân; Ất Đinh: dậu; Giáp, Mậu: tuất. Tháng 5 Kỷ Mùi, Mậu Tuất; Ất, Quý: mùi, dậu; Giáp, Bính: thân, tuất. Tháng 6 Giáp, Nhâm: ngọ, thân, tuất; Ất, Quý: mùi, dậu; Mậu tuất, Kỷ mùi. Tháng 7 Ất, Kỷ, Quý: tỵ, mùi; Giáp, Nhâm, Mậu: ngọ; Ất, Quý: dậu; Giáp, Nhâm: thân. Tháng 8 Giáp, Nhâm, Mậu: ngọ, thìn; Giáp Tuất; Tân, Kỷ, Quý: tỵ, mùi. Tháng 9 Kỷ, Tân: tỵ, mùi; Canh, Nhâm, Mậu: ngọ; Quý; Tân: mẹo; Quý mùi. Tháng 10 Mậu tý; Mậu, Canh, Nhâm: dần, thìn; Kỷ, Tân, Quý: mẹo. Tháng 11 Canh, Nhâm, Mậu: thìn; Đinh, Kỷ: mẹo; Đinh, Tân, Kỷ: tỵ, sửu. Tháng 12 Đinh, Tân, Kỷ: sửu, mẹo; Bính, Canh, Mậu: dần, thìn. 3. Tránh các ngày kỵ: a. Coi lại ở bảng chọn ngày. b. Ngày Hợi và Phá; Bình, Thâu. c. Ngày xung khắc bổn mạng. d. Ngày Tứ tuyệt, Tứ ly, Kim thần thất sát. e. Ngày Hoàng thiên châu tước: mùng 1. f. Ngày tam nương: 3, 7, 13, 15, 22, 25. g. Ngày Nguyệt kỵ: 5, 14, 23. h. Ngày Không vong, coi trong lịch Tàu có để. i. Ngày Xích khẩu: Tháng 1 mùng 3, 9, 15 Tháng 2 mùng 2, 6, 14 Tháng 3 mùng 1, 7, 13 Tháng 4 mùng 6, 11, 12, 18, 19 Tháng 5 mùng 5, 11, 17, 27 Tháng 6 mùng 4, 10, 16 Tháng 7 mùng 3, 9, 15 Tháng 8 mùng 2, 8, 14 Tháng 9 mùng 1, 7, 13, 15 Tháng 10 mùng 6, 12, 18 Tháng 11 mùng 3, 5, 11, 17 Tháng 12 mùng 4, 10, 16 4. Cẩn thận nên coi theo 3 ô vuông sau đây mà chọn dùng. <H1 style="MARGIN: 0in 0in 0pt">GIÁ THÚ CHÂU ĐƯỜNG KIẾT HUNG</H1>Luận tháng không luận tiếc. Tháng đủ khởi mùng 1 tại cung PHU thuận hành, tháng thiếu mùng 1 tại cung PHỤ nghịch hành. Được: ĐƯỜNG, ĐỆ, TÁO, TRÙ KIẾT; Phụ, Phu, Cô, Ông hung. Có khi gặp ngày hung vẫn dùng tốt, như: ngày phạm Ông có Thiên đức, phạm Cô có Nguyệt đức, phạm Phụ có Thiên hậu, phạm Phu có Thiên đế, vẫn gả cưới tốt. Phụ ● TRÙ o Phu ● TÁO o Cô ● ĐỆ o Ông ● ĐƯỜNG o <H1 style="MARGIN: 0in 0in 0pt">BẠCH HỔ HÀNH GIÁ KIẾT HUNG</H1>Luận tháng không luận tiếc. Tháng đủ khởi mùng 1 tại cung TÁO thuận hành, tháng thiếu khởi mùng 1 tại cung TRÙ nghịch hành. Gặp: ĐƯỜNG, SÀNG, MÔN, LỘ KIẾT; Trù, Táo, Tử, Đệ hung. LỘ o Trù ● Táo ● MÔN o ĐƯỜNG o Đệ ● Tử ● SÀNG o <H1 style="MARGIN: 0in 0in 0pt">NẠP TẾ CHÂU ĐƯỜNG KIẾT HUNG</H1>Luận tháng không luận tiếc. Tháng đủ khởi mùng 1 tại cung PHU thuận hành, tháng thiếu khởi mùng 1 tại cung HỘ nghịch hành. Gặp: ĐỆ, MÔN,TÁO, TRÙ, HỘ KIẾT; Phu, Cô, Ông hung. TRÙ o HỘ o Phu ● TÁO o Cô ● MÔN o Ông ● ĐỆ o NHỮNG TUỔI BỊ LƯƠNG DUYÊN TRẮC TRỞ NAM: Tuổi Hợi, Tỵ, Sửu, Tý, Ngọ, Mùi sanh tháng: 1, 7 phạm. Dần, Mẹo, Thìn, Thân, Dậu, Tuất sanh tháng: 4, 10 phạm. NỮ: Tuổi: Tỵ, Hợi sanh tháng: 1, 7, phạm Tý, Ngọ sanh tháng: 2, 8 phạm Sửu, Mùi sanh tháng: 3, 9 phạm Dần, Thân sanh tháng: 4, 10 phạm Mẹo, Dậu sanh tháng: 5, 11 phạm Thìn, Tuất sanh tháng: 6, 12 phạm. ---o0o--- Nguồn:QuangDuc.com
  23. HUỲNH TUYỀN QUYẾT Trên 24 cung sơn hướng, 12 cung Địa chi không phạm Huỳnh tuyền là: Tý, Sửu, Dần, Mẹo, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi; còn 12 cung kia là: Càn, Khôn, Cấn, Tốn và Giáp, Ất, Bính, Đinh, Canh, Tân, Nhâm, Quý thường phạm Huỳnh tuyền. Khai môn (làm cửa) cung Phước đức mà bị phạm Huyền tuyền vẫn hung. Nếu phạm lầm Huỳnh tuyền thì đến ĐÔ THIÊN ắt làm tai họa (Đô thiên sẽ nói ở sau). Canh, Đinh, Khôn thượng thị Huỳnh Tuyền. (hướng Canh và Đinh kỵ Khôn sơn và Huỳnh tuyền) Khôn hướng Canh, Đinh bất khả ngôn, (hướng Khôn kỵ Canh sơn và Đinh sơn là Huỳnh tuyền) Ất, Bính tu phòng Tốn thủy tiên (hướng Ất và Bính kỵ Tốn sơn là Huỳnh tuyền) Tốn hướng, Ất, Bính họa diệc nhiên (hướng Tốn kỵ Ất sơn và Bính sơn là Huỳnh tuyền) Giáp, Quý hướng, trung hữu kiến Cấn (hướng Giáp và Quý kỵ Cấn sơn phạm Huỳnh tuyền) Cấn kiến Giáp, Quý hung bá niên (hướng Cấn kỵ Giáp sơn và Quý sơn là Huỳnh tuyền) Tân, Nhâm thủy lộ phạ đương Càn (hướng Tân và Nhâm kỵ Càn sơn là Huỳnh tuyền) Càn hướng, Tân, Nhâm họa thâm thiên (hướng Càn kỵ Tân sơn và Nhâm sơn là Huỳnh tuyền). Thí dụ: Nhà day mặt hướng Canh sơn hay Đinh sơn thì kỵ cung Khôn sơn, chẳng nên mở giếng, cửa chánh hay đường đi nơi cung này, nếu mở là phạm Huỳnh tuyền hung. Hoặc nhà ngó ngay hướng Khôn thì hai hướng kia là Canh sơn và Đinh sơn là Huỳnh tuyền, kỵ mở cửa, mở giếng hay đường đi nơi đó. ---o0o--- <H1 style="TEXT-INDENT: 0px" align=center>ĐÔ THIÊN</H1>Giáp, Kỷ niên, Đô thiên tại Thìn, Tỵ sơn. Ất, Canh niên, Đô thiên tại Dần, Mẹo sơn. Bính, Tân niên, Đô thiên tại Tuất, Hợi sơn. Đinh, Nhâm niên, Đô thiên tại Thân, Dậu sơn. Mậu, Quý niên, Đô thiên tại Ngọ, Mùi sơn. Dương niên trọng Mồ đô, Âm niên trọng Kỷ đô (trọng là kỵ nặng, Mồ đô và Kỷ đô gọi là Mồ Kỷ Đô thiên). ---o0o--- <H1 style="TEXT-INDENT: 0px" align=center>XUYÊN TỈNH QUYẾT</H1>(Phép đào giếng) Tý thượng xuyên tỉnh xuất hạng nhân Sửu thượng huỳnh đệ bất tuơng thân Dần, Mẹo, Thìn, Tỵ giai bất kiết Bất lợi Ngọ, Tuất địa, cầu tân (tìm nơi khác) Đại hung Mùi Hợi phương khai tỉnh Thân, Dậu tiền hung hậu kiết luân Tuy hữu Càn hung ưng hoại chiếu Giáp, Canh, Nhâm, Bính tú tuyền thâm. Tỉnh táo tương khán nữ nam dâm loạn, xuyên tỉnh bất nghi tại Đoài phương, Đoài vi Thiếu nữ chủ đại dâm (con gái út hư). ---o0o--- Nguồn:QuangDuc.com
  24. TRẠCH CÀN TU TẠO CÀN phối với ĐOÀI tuy được SANH KHÍ nhưng kỵ nhau chớ dùng ---o0o--- TRẠCH KHẢM TU TẠO KHẢM phối với CHẤN được THIÊN Y nhưng kỵ chớ dùng ---o0o--- TRẠCH CẤN TU TẠO Tuổi CẤN Trạch CẤN được PHỤC VÌ, nhưng kỵ tuổi này. Tuổi KHÔN Trạch CẤN được SANH KHÍ nhưng tinh khắc Cung Đại hung, chớ dùng ---o0o--- TRẠCH CHẤN TU TẠO Tuổi TỐn ĐƯỢC diên niên, Tuổi KHẢM được THIÊN Y, nhưng hai tuổi này kỵ, chớ dùng ---o0o--- TRẠCH TỐN TU TẠO Tuổi LY được THIÊN Y, Tuổi CHẤN được DIÊN NIÊN, nhưng hai tuổi này kỵ, chớ dùng ---o0o--- TRẠCH LY TU TẠO Tuổi LY được PHỤC VÌ, Tuổi KHẢM được DIÊN NIÊN, nhưng hai tuổi này kỵ, chớ dùng ---o0o--- TRẠCH KHÔN TU TẠO Tuổi KHÔN được PHỤC VÌ, Tuổi CẤN được SANH KHÍ, nhưng hai tuổi này kỵ, chớ dùng ---o0o--- TRẠCH ĐOÀI TU TẠO Tuổi CÀN trạch ĐOÀI tuy được SANH KHÍ, nhưng kỵ, chớ dùng Nguồn:QuangDuc.com
  25. TÁM ĐỒ BÁT QUÁI LẬP THÀNH Về ĐẠI MÔN, ta nên đọc thêm bài này ở Thông Thiên Chiếu Thủy Kinh cho rộng nghĩa: 1. Quỷ nhập Lôi môn thương Trưởng tử, 2. Hỏa kiến Thiên môn thương Lão Ông, 3. Ly xâm Tây Đoài phương thương Nữ. 4. Tốn nhập Khôn vị Mẫu ly Ông, 5. Đoài phòng Chấn, Tốn Trưởng nhi nữ, 6. Cấn, Ly Âm phụ hoại gia phong, 7. Cấn, Khảm tiểu khẩu đa tật bịnh 8. Khôn, Khảm Trung nam mạng tảo chung. Muốn hiểu bài này, cần phải nhắc lại mấy điểm sau đây: 1. NGŨ HÀNH TƯƠNG SANH: Kim sanh Thủy, Thủy sanh Mộc, Mộc sanh Hỏa, Hỏa sanh Thổ, Thổ sanh Kim. 2. NGŨ HÀNH TƯƠNG KHẮC: Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim. 3. BÁT QUÁI SỞ THUỘC NGŨ HÀNH: Càn, Đoài thuộc Kim, Khôn, Cấn thuộc Thổ, Chấn, Tốn thuộc Mộc, Khảm=Thủy, Ly=Hỏa. 4. BÁT QUÁI TIÊU BIỂU: CÀN: Trời, Cha, Ông già, Chồng. KHÔN: Đất, Mẹ, Bà gia, Vợ. CHẤN: Sấm, Trưởng nam (con trai lớn) TỐN: Gió, Trưởng nữ (con gái lớn) KHẢM: Nước, Trung nam (con trai giữa) LY: Lửa, Trung nữ (con gái giữa) CẤN: Núi, Thiếu nam (con trai út) ĐOÀI: Đầm (hồ), Thiếu nữ (con gái út) (Càn vi Thiên, Khôn vi Địa, Chấn vi Lôi, Tốn vi Phong, Khảm vi Thủy, Ly vi Hỏa, Cấn vi Sơn, Đoài vi Trạch) Giải thích bài trên: CÂU 1: Quỷ nhập Lôi môn thương Trưởng tử: Quỷ tức Ngũ quỷ. Lôi môn, Lôi là Chấn Mộc. Chấn mà phạm Ngũ quỷ tức Chấn phối với Càn (Càn phối với Chấn cũng phạm Ngũ quỷ). Như chồng Càn vợ Chấn hay chủ nhà Càn tu tạo phương Chấn hoặc trái lại, đều phạm Ngũ quỷ. Cửa chánh phương Càn, khởi tạo phòng ốc hướng Đông Chấn là hung. Bởi Càn thuộc Kim khắc Chấn Mộc. Chấn thuộc Trưởng nam, nên ứng hại ngưòi con trai trưởng. Cung Càn thuộc Tây tứ trạch, cung Chấn thuộc Đông tứ trạch, Tây phối với Đông không hợp, nên bất cứ người mạng nào ở đó cũng hung. Để bàn thờ hướng Chấn cũng kỵ người mạng Càn, người mạng Càn mà cửa hướng Chấn cũng hại Trưởng tử, cưới tuổi Chấn sanh con cũng khó dạy, tạo phòng hướng Chấn đến ngày tháng ứng hung chết Trưởng tử. Nam, nữ mạng Càn đường ra vào hướng Chấn cũng hung. CÂU 2: Hỏa kiến Thiên môn thương Lão ông: Hỏa là cung Ly (Ly vi Hỏa), Thiên môn: Thiên là cung Càn (Càn vi Thiên). Càn phối Ly phạm Tuyệt mạng. Đại môn hướng Ly Hỏa, nhà hướng Càn Kim là cung khắc cung. Càn thuộc Lão ông bị Ly khắc nên Lão ông thọ hại. CÂU 3: Ly xâm Tây Đoài phương thương nữ: Đại môn Chánh Nam thuộc Ly Hỏa khắc phòng nhà phương Tây Đoài Kim cũng giống như câu 2 trên, nhưng đây là cung Đoài, Đoài thuộc Thiếu nữ, nên Thiếu nữ bị hại. CÂU 4: Tốn nhập Khôn vị Mẫu ly Ông: Đại môn phương Tốn (cũng như phương Chấn bởi Chấn, Tốn đều thuộc Mộc), phòng, nhà thuộc hướng Khôn Thổ bị Tốn Mộc khắc. Khôn thuộc Lão mẫu (Khôn vi Mẫu) nên Lão mẫu thọ hại (chết) lìa Lão ông. CÂU 5: Đoài phòng Chấn, Tôn trưởng nhi nữ: Đại môn phương Đoài dựng nhà trạch Chấn, Chấn vi Trưởng nam. Chấn Mộc bị Đoài Kim nhắc tổn Trưởng nam (trưởng nhi), nếu dùng Tốn thuộc Trưởng nữ, Tốn thuộc Mộc vẫn bị Đoài Kim khắc tất hại Trưởng nữ. CÂU 6: Cấn, Ly Âm phu hoại gia phong: Đại môn phương Cấn Thổ thuộc Dương, phòng trang (buồng hoặc nhà ở) an hướng Ly Hỏa thuộc Âm. Hỏa sanh Thổ, tức Âm tượng Hỏa sanh ra Dương tượng Thổ là Âm thạnh Dương suy. Đây bị đàn bà lộng quyền làm hư hoại gia phong. Vì Cấn phối hợp với Ly phạm Họa hại. CÂU 7: Cấn Khảm tiểu khẩu đa tật bịnh: Đại môn phương Cấn, phòng ốc phương Khảm. Cấn phối với Khảm phạm Ngũ quỷ. Cấn Thổ khắc Khảm Thủy. Cấn thuộc Thiếu nam, Khảm thuộc Trung nam, tức là kỵ con trai thứ và út, sẽ sanh bất hòa và nhiều tật bịnh. CÂU 8: Khôn, Khảm Trung nam mạng tảo chung: Đại môn phương Khôn, phòng ốc phương Khảm, Khôn Thổ khắc khảm Thủy, Khôn phối với Khảm phạm Tuyệt mạng, Khảm thuộc Trung nam, nên Trung tử bị hại. PHỤ CHÚ: 1. BÁT QUÁ ĐỊNH ÂM DƯƠNG: - Càn vi Phụ, Chấn Trưởng nam, Khảm trung nam, Cấn thiếu nan: Bốn cung này thuộc DƯƠNG. - Khôn vi Mẫu, Tốn Trưởng nữ, Ly Trung nữ, Đoài Thiếu nữ: Bốn cung này thuộc Âm. 2. CHỦ TINH KIẾT HUNG: Sanh khí Tham lang Mộc tinh kiết: Phát Trưởng tử (con lớn). Thiên y Cự môn Thổ tinh kiết: Phát Nhị phòng (những đứa giữa). Diên niên Võ khúc tinh kiết: Phát Tiểu phòng (những đứa út). Phục vì Bồ chúc Thủy tinh kiết: Lợi cho con gái. Tuyệt mạng Phá quân Kim tinh hung: Bại Trưởng nam( con trai lớn). Ngũ quỷ Liêm trinh Hỏa tinh hung: Bại Trưởng phòng (những đứa con lớn), Họa hại Lộc tồn Thổ tinh hung: Bại Nhị phòng (những đứa giữa). Lục sát Văn xương Thủy tinh hung: Bại Tiểu phòng (mấy đứa út sau). 3. NIÊN NGOẠT ỨNG KIẾT HUNG: - Sanh khí, Phục vì (Bồ chúc): Hợi, Mẹo, Mùi, hai vị này ứng với Năm và Tháng: Hợi, Mẹo, Mùi. - Diên niên, Tuyệt mạng Tỵ, Dậu, Sửu, ứng với Năm, Tháng: Tỵ, Dậu, Sửu. - Thiên y, Họa hại (Lộc tồn) hợp với 4 Thổ cung, ứng với Năm, tháng: Thìn, Tuất, Sửu, Mùi. - Ngũ quỷ hung niên Dần, Ngọ, Tuất, ứng với Năm, Tháng: Dần, Ngọ, Tuất. - Lục sát ứng với Năm, Tháng: Thân, Tý, Thìn. Nếu dùng những phương hướng hợp với cung tốt hay phạm cung hung, đến Năm, Tháng nói trên thì kiết ứng kiết, hung ứng hung. ---o0o--- Sau đây là đồ Bát quái để coi phương hướng, phòng trang (phòng ốc), bếp núc và cửa nẻo. Tám đồ này chỉ rõ nhà trạch nào hạp tuổi nào, cũng có thể coi người mạng gì (Càn hay Khảm ...) phương nào tốt, phương nào xấu. Vòng trong là 8 tượng Bát quái, vòng 2 là 8 phương, vòng 3 là 24 sơn để bếp, vòng 4 là 24 sơn để cửa. Khi tìm phương hướng phải dùng La bàn mới đúng được. Cây kim La bàn lúc nào cũng chỉ hướng Chánh Bắc, đuôi kim là Chánh Nam. Nếu ta đứng nhìn theo hướng cây kim của La bàn chỉ, thì trước mặt là Chánh Bắc, sau lưng là Chánh Nam, bên tay mặt là Chánh Đông, bên tay trái là Chánh Tây. Trong La bàn người ta chỉ về bốn phương chánh, thường dùng những chữ viết tắc này: N=Bắc=North; S=Nam=South; E=Đông=East; W=Tây=West. Khi muốn tìm phương tùy theo chủ nhà mạng gì: Càn hay Khảm ... để chọn đồ Bát quái ở sau, rồi lấy La bàn đặt lên giữa đồ Bát quái đó, xây cái La bàn sao cho cây kim của La bàn chỉ đúng chữ N trong La bàn và xây bảng đồ Bát quái cho phương Bắc đúng chỗ cây kim La bàn. Bấy giờ mới tìm phương tốt xấu. Nên biết các tượng Bát quái trong 8 đồ Bát quái ở sau đều xây đầu vào trong đuôi trở ra ngoài (thượng hào bên trong, hạ hào bên ngoài). Nguồn:QuangDuc.com