-
Số nội dung
526 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by Lê Bá Trung
-
Thân Gửi Anh LeDien. Đúng như lời Huynh PHUTHUONG đã nói, việc làm nhà là rất quan trọng, nếu cứ tư vấn online như vậy thì chỉ đạt khoảng 20...30% thui. Làm phong thủy phải xét tổng quát mới đoán ra đựoc hung cát...Phong Thủy lấy Loan đầu làm trọng anh ạ. Anh nên mời sư phụ Thiên Sứ đến để xem xét cụ thể như vậy sẽ loại bỏ đựoc những yếu tố xấu tác động từ bên ngoài. Vài lời gửi Anh.
-
Nhìn con chim sắt này từ phía sau, giống như có 2 mũi tên sắt bắn trúng và rơi xuống đất.. :D
-
Phong Thủy Huyền Không Nói về hai chữ HUYỀN KHÔNG Chương trọng Sơn nói:” Vô định, vô cứ, không phương hướng, không góc cạnh, không khởi đầu, không kết thúc, không hình thể, không dấu vết, tồn tại khắp nơi, không lúc nào không có. Đấy gọi là Huyền Không” Lạc Sĩ Bằng viết:”Huyền nghĩa là trời đất khiến nó như thế. Không nghĩa là đất phải bẩm thụ như thế. Chính vì chú trọng mặt đất như thế thì có gì là “Không”? Nhưng đất cũng có lưu động, thông dòng. Đấy chính là chỗ “không” của mặt đất vậy. Đấy cũng chính là chỗ xảo diệu, khéo léo của đất vậy. Thẩm Trúc Nhưng giải thích về Huyền Không: “Huyền nghĩa là nhất (một) (Huyền giả nhất dã). Không cũng là vạch liền trong bát quái. Song “không “ở đây không phải là không có gì mà không ở đây vẫn bao hàm cái có. Các học giả Thiên Trúc (Ấn Độ) nói về chữ “không”: Sắc bất dị không Không bất dị sắc Sắc tức thị không Không tức thị sắc Thụ tưởng hành thức Diêc phục như thị “Sắc(vật) chẳng khác không, không chẳng khác sắc. Sắc tức là không, không tức là sắc. Cái cảm nhận và suy nghĩ cũng hệt như vậy”. Khái niệm không ở đây phải dựa vào khái niệm có mà nên vậy. HUYỀN KHÔNG là sự đến từ hư vô rồi trở về hư vô. Từ một đến chín, để suy đoán sự sinh ra hay mất đi, thăng hay giáng, âm hay dương trong trời đất. Thế giới chúng ta đang sống, con người – trời – đất , thời gian và không gian, mỗi cái đều khác nhau. Nhưng cùng tồn tại theo một qui luật chung trong mối quân bình hài hòa, Chúng đã ở đúng trong vị trí mà chúng phải tồn tại. Qui luật luôn biến đổi mà hài hòa cân đối đó chính là thuật “phong thủy” mà Huyền Không địa lý nghiên cứu. Sơn –tĩnh, Thủy – động, nhưng có mối quan hệ quân bình với nhau. Không thể chỉ dùng mắt thường để xem mà phải dùng “tâm nhãn” để xem nữa. HUYỀN KHÔNG nghiên cứu sự thay đổi, biến hóa của sự vật, biểu thị bằng các số từ 1 đến 9 di chuyển theo một quĩ đạo nhất định là vòng “Lường thiên xích” Bàn về vòng Lượng thiên xích, sách "Trạch vận tân án" có viết: Thùy đắc Lượng thiên Xích nhất chi, Bộ lường trung, ngoại cổ kim thi, Tử sinh đắc thất tùy thám sách, Quá hiện vị lai liễu liễu tri Tạm dịch: Nếu đã nắm được vòng Lượng thiên Xích, Có thể đo lường mọi chuyện trong, ngoài xưa nay, Tìm hiểu được sự sống chết và được mất, Biết rõ quá khứ, hiện tại và tương lai. Cho nên Huyền khôngđịa lý là môn Phong thủy dựa vào sự di chuyển của 9 con số theo quỹ đạo của vòng Lượng thiên Xích trên đồ hình Bát quái mà đoán định sự thịnh, suy, được, mất của từng căn nhà (dương trạch) hay phần mộ (âm trạch).Lạc thư, Hà đồ và Lượng thiên Xích Hãy coi thử ma phương sau: Tổng số của các cạnh hay đường chéo đều bằng 15. Đây chính là cân bằng của vũ trụ 1-Hà Đồ: Hà Đồ có 10 số: 1,2,3,4,5,6,7,8,9,10. Tổng số Hà Đồ là 55. Năm số lẻ là số dương tức số trời được biểu tượng bắng những chấm trắng. Tổng số các số trời là 1+3+5+7+9= 25. Năm số âm là số chẵn tức số đất biểu thị bằng những chấm đen. Tổng số các số đất: 2+4+6+8+10 = 30. Tổng cộng số trời đất là 55. Do đó “Dịch từ thượng” nói: số trời có 5, số đất có 5. Năm ngôi cùng tương tác mà hợp với nhau. Số trời là 25, số đất là 30, tổng số là 55, các số đó tạo nên sự biến hóa và điều hành quỷ thần. Theo Chu Hy, 5 ngôi tương đắc mà đều hợp với nhau. Theo “Dịch hệ từ thượng”: Ở trên là chỉ sự xếp đặt 5 cặp số của Hà Đồ, cứ một số trời hợp với một số đất, 1-6 ở dưới, 2-7 ở trên, 3-8 ở bên trái, 4-9 ở bên phải và 5 hợp với 10 ở trung cung. Hà Đồ là bức đồ đầu tiên của Kinh Dịch, sự vận hành của nó theo chiều tương sinh của ngũ hành, vì ngũ hành có tương sinh thì muôn vật mới luôn luôn tiến hóa , biểu hiện sự sinh sinh nối tiếp nhau không ngừng của đạo dịch. Bắt đầu từ Bắc đến Đông, vì Thủy sinh Mộc, qua Nam, vì Mộc sinh Hỏa, vào trung ương, vì Hỏa sinh Thổ, đi qua Tây , vì Thổ sinh Kim, trở về Bắc , vì Kim sinh Thủy. Vậy đường vận hành khởi từ Bắc ở dưới, qua bên trái, lên phía trên,vào trung ương, sang bên phải, lại về Bắc ( Theo quan điểm Á Đông vì ở Bắc bán cầu: Phía Bắc biểu trưng cho hàn lạnh nên thuộc Thủy, Phía Nam biểu trưng cho ấm nóng, nên thuộc Hỏa. Phía Đông biểu trưng cho sự trỗi dậy, nên thuộc Mộc. Phía Tây biểu trưng cho bền chắc, nên thuộc Kim. Trong khi đó Nam Bán Cầu thì vị trí Hỏa và Thủy sẽ đổi cho nhau, điều này lý giải phía Nam bán cầu “lường thiên xích” bay ngược với Bắc bán cầu) Theo truyền thuyết thì vua phục Hy bên tàu thấy thần Mã xuất hiện ở sông hoàng hà, trên lưng có chữ số theo 4 phương vị BẮC – NAM – ĐÔNG – TÂY nên ghi chép lại, gọi là hà đồ Khẩu quyết của hà đồ như sau: “Nhất – Lục công tông, vi Thủy cư BẮC. Nhị - Thất đồng đạo, vi Hỏa cư NAM. Tam – Bát vi bằng, vi Mộc cư ĐÔNG. Tứ - Cửu tác hữu, vi Kim cư TÂY. Ngũ – Thập cư trung, vi Thổ cư Trung” Tạm dịch là: “ 1 - 6 đồng tông (cùng gốc), là thủy cư phương BẮC. 2 – 7 đồng đạo (cùng chí hướng), là Hỏa đóng ở phương NAM 3 – 8 là bè bạn, là Mộc đóng ở phương ĐÔNG 4 – 9 anh em, là Kim đóng ở phương TÂY 5 – 10 là Thổ nằm ở chính giữa” Dựa vào khẩu quyết, có thể biết vào thời Phục Hy, ngưới ta chỉ biết có 4 hướng là : ĐÔNG-TÂY-NAM-BẮC mà thôi. 2 – Lạc Thư: Lạc Thư có 9 số. Số lẻ là số trời hay dương số. Tồng số các số lẻ 1+3+5+7+9 = 25. Số chẵn là số đất. Tổng số các số chẵn là 2+4+6+8 = 20. Lạc thư vận hành khởi từ Thủy qua đến Hỏa, vì Thủy khắc Hỏa, Hỏa lên Kim, vì Hỏa khắc kim, đến Mộc vì Kim khắc Mộc, vào Thổ, vì Mộc khắc Thổ, rồi lại về Thủy, vì Thổ khắc Thủy. Theo truyền thuyết vua VŨ khi trị thủy trên sông Lạc thì gặp rùa thần nổi lên, trên lưng có đồ hình phương vị của cửu tinh. Vua Vũ sao chép lại và gọi đó là Lạc Thư. Khẩu quyết của Lạc Thư : “Đời Cửu, lý Nhất; tả Tam, hữu Thất; Nhị-Tứ vi kiên; Lục-Bát vi túc; Ngũ cư trung vị” Có nghĩa là : “ Trên đội 9, dưới đạp 1; bên trái 3; bên phải 7; vai là 4 và 2; chân là 6 và 8; còn 5 ở chính giữa” 3- Tiên Thiên Bát Quái: từ Hà Đồ người đời sau này khi phát hiện được 8 quẻ dịch mới lập thành 8 hướng và đưa 8 quẻ dịch vào đó (các chữ số là số quẻ tiên thiên) 4-Hậu Thiên Bát Quái : Dựa vào lạc thư, sau này vua Văn Vương nhà Chu mới đổi lại phương vị của 8 quẻ trong Tiên Thiên Bát Quái theo với ý nghĩa và phương vị của 9 số trên Lạc Thư mà đặt ra Hậu Thiên Bát Quái (các chữ số là số của Lạc Thư và cũng là số quẻ Hậu Thiên) Với việc phát minh và sử dụng 8 hướng trên la bàn, vua Vũ đã có thể tách rời các cặp và phân bố chúng ra khắp 8 hướng, nhưng trên thực tế vẫn là qui tụ về những cặp số của hà đồ tức tiên thiên. Trong Hà Đồ, 1-6 đứng chung ở phía Bắc. Còn trong Lạc Thư , 1 vẫn nằm ở phía Bắc, còn 6 ở Tây Bắc. Nên tuy hình thức là tách rời, nhưng thật ra vẫn là kề vai sát cánh, đứng bên cạnh nhau mà tạo thành thế “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”. Và với sự ra đời của Hậu thiên bát quái, tính chất, phương vị, ngũ hành của cửu tinh và của 8 quẻ đều đã được khẳng định. Nên chúng chính là khởi điểm cho mọi ngành học thuật phương đông, trong đó có phong thủy. Các quẻ bát quái đứng trong Hậu thiên (cũng như lạc thư) tạo thành một vòng tương sinh. Phương vị của Cửu tinh trong Hậu thiên bát quái như sau: - Số 9 nằm ở trên tức hướng NAM. Vì phương NAM nóng, thuộc quẻ Ly-Hỏa nên số 9 mang hành Hỏa. - Số 1 nằm ở dưới nên thuộc hướng BẮC. Vì phương Bắc hàn lạnh, thuộc quẻ Khảm-Thủy nên số 1 mang hành Thủy. - Số 3 nằm bên trái thuộc phương ĐÔNG. Vì phương ĐÔNG là quẻ CHẤN-Mộc, nên số 3 mang hành Mộc. - Số 7 nằm bên phải thuộc phương TÂY. Vì phương TÂY là quẻ ĐOÀI-Kim, nên số 7 mang hành Kim. - Số 2 là "vai” bên phải, nên nằm tại phía TÂY NAM. Vì phía TÂY NAM thuộc quẻ KHÔN-Thổ, nên số 2 mang hành Thổ. - Số 4 là "vai” bên trái, nện nằm tại phía ĐÔNG NAM. Vì ĐÔNG NAM thuộc quẻ TỐN-Mộc, nên số 4 mang hành Mộc. - Số 6 là "chân” bên phải, nên nằm tại phía TÂY BẮC. Vì TÂY BẮC thuộc quẻ CÀN-Kim, nên số 6 có hành Kim. - Số 8 là "chân” bên trái, nên nằm tại phía ĐÔNG BẮC. Vì phía ĐÔNG BẮC thuộc quẻ CẤN-Thổ, nên số 8 mang hành Thổ. - Số 5 nằm ở chính giữa (tức trung cung). Vì trung cung là nơi phát sinh và cũng là nơi kết thúc của vạn vật, nên trung cung thuộc hành Thổ. Vì thế nên số 5 cũng mang hành Thổ. Do đó, phương vị của Cửu tinh trong Hậu thiên Bát quái như sau: đông nam..............nam...............tây nam ............4................9................2 đông.....3................5................7 tây ............8................1................6 đông bắc.............bắc..............tây bắc Đây chính là những phương vị "nguyên thủy” của Cửu tinh trong Lạc thư (hay Hậu thiên bát quái). Nhưng khi có những thay đổi về không gian và thời gian thì Cửu tinh cũng sẽ thay đổi hoặc di động theo 1 qũy đạo nhất định. Quỹ đạo đó được gọi là vòng Lượng thiên Xích.M DƯƠNG – NGŨ HÀNH Âm dương Trong cuộc sống chúng ta luôn luôn tồn tại 2 cái trái nghịch nhau: - Mặt phải và mặt trái - Vui và buồn - Quân tử và tiều nhân - Tối và sáng - Thuận và nghịch - Nóng và lạnh - V. v…….. Trong tất cả những cái giống nhau thì đều có điểm khác nhau Trong tất cả những cái khác nhau thì đều có điểm giống nhau Đó là Âm – Dương Âm dương là hai yếu tố quan trọng trong cuộc sinh thành tiến hoá của vạn vật. Ý nghĩa tuy trái ngược nhau nhưng âm dương luôn luôn dung hoà lẫn nhau, bổ túc cho nhau,… Âm dương là lưỡng nghi, phân ra làm 4 gọi là tứ tượng: Thiếu dương: Khí dương còn non. Thái dương : Dương cực mạnh Thiếu âm : Âm mới sinh Thái âm : Âm dày đặc. Đặc tính : Dương : Động, nóng, sáng, trong, nhẹ, nổi lên trên, khô ráo, cứng, mạnh, tiến đi xa, mau lẹ, mở. số lẻ, nam, ngày, mặt trới, hoả, bên trái cơ thể. Âm : Tĩnh, lạnh, tối, đục, nặng, chìm xuống dưới , ẩm ướt, mềm, yếu, lùi trở lại, chậm chạp, đóng, số chẵn, nữ, đất, đêm, mặt trăng, thuỷ, bên phải cơ thể Trong sự biến hoá tuần hoàn : Âm mạnh thì dương yếu; dương mạnh thì âm yếu Âm dương như 2 cực nam châm, cùng tính thì chống đẩy nhau, khác tính thì thu hút lẫn nhau. Nhưng trong mọi vật hai yếu tố ấy luôn dung hoà lẩn nhau, tương giao cùng nhau. Cả hai đóng vai trò quan trọng trong cuộc sinh thành của vạn vật. Âm Dương và sự hình thành tám quẻ tượng Chu Hy nói rằng : Dịch có Thái Cực sinh hai nghi (âm và dương) , hai nghi sinh bốn tượng (tức thiếu dương, thái dương, thiếu âm, thái âm), bốn tượng sinh bát quái (tức càn , đoài, ly, chấn, tốn, khảm, cấn, khôn) rồi bát quái lại sinh 64 quẻ cũng như rễ thì có gốc, gốc có cành, cành lớn càng ít thì cành nhỏ càng nhiều. Âm trường thì dương tiêu (âm lớn mạnh thì dương mất đi), dương trường thì âm tiêu (mặt trời càng lên cao thì bóng tối dần càng mất đi). Đó là lẽ sinh sinh diệt diệt trong vũ trụ. Như ta từ không mà đến rồi lại sẽ trở về không vậy. Khôn (địa) ☷ Khi trời đất còn là mội cõi hư vô . Do Đó tính của quẻ là Hư, Hình ảnh của quẻ là lục đoạn, lý là nhu thuận, thuận dã, mềm mỏng, như mặt đất yêu thương mọi vật trên đó (thổ), Dương thuận tòng,hòa theo lẽ, chịu lấy,ẩn, như tuân theo mà được lợi, thấp, nhỏ, tối,là hình ảnh cũa mẹ già. Số tiên thiên là 8, sô hậu thiên là 2 (cũng là số của cửu tinh) Cấn (sơn) ☶ Không còn ẩn nữa và dương bắt đầu xuất hiện nhưng còn non vì ở ngọn. Do đó tính làNgưng, hình ảnh quẻ là phủ hạ tức trùm lên cũng là hình trái núi (thổ). Lý là Ngưng nghỉ. Chỉ dã, ngăn giữ, ở, thôi, ngừng lại, đậy lại, để dành, Ngăn cấm, vừa đúng chỗ, che phủ. Ngôi thứ là trai út hay thiếu (dương còn non). Ngôi thứ là thiếu nam (trai út). Số tiên thiên 7, số hậu thiên là 8 Khảm (thủy) ☵ Dương lẩn vào trong tức được đứng vững. Do đó tính là Trụ (cây trụ muốn vững thì cần cắm xâu) hình ảnh là trung mãn (đầy bên trong) là eo thắt, như được bao kín (thủy) , Lý là hãm hiểm, hãm dã, hãm vào trong, bắt buộc, xuyên xâu vào trong, hố xâu, trắc trở, hiểm hóc, gập ghềnh. Ngôi thứ là trung nam (đồng lấy dị mà luận). Số tiên thiên là 6, số hậu thiên là 1 Tốn (phong) ☴ Xuất hiện thêm một hào dương, Âm lui dần về tức ẩn tàng, dấu diếm. Do đó tính là Tiềm. hình ảnh là hạ đoạn (đứt dưới), như cây cổ thụ có rễ tỏa ra (mộc cỗi). Lý là Thuận nhập, thuận dã (chiều theo), thuận theo ý trên, theo xuống, theo tới, theo lui, có sự dấu diếm ở trong. Ngôi thứ là trưởng nữ. Số tiên thiên là 5, số hậu thiên là 4 Chấn (lôi) ☳ Lúc này khí dương đã đủ sức xuống đến gốc để chuẩn bị chu kỳ mới bung lên. Do đó tính làKhởi. Hình ảnh là ngưỡng thượng (chén ngửa), như mầm non mới nhú (mộc non). Lý là động dụng, động dã, bung lên, khởi lên, sợ hải, nổ vang, chấn động, chấn kinh, phân phát. Ngôi thứ là trưởng nam. Số tiên thiên là 4, số hậu thiên là 3 Ly (hỏa) ☲ Xuất hiện một khí dương bên trên ngọn như ngọn lửa tỏa ra. Do đó tính là Vũ. Hình ảnh là trung hư, rỗng ở trong , như ngọn lửa thấy vậy mà trong rỗng mà thôi (hỏa). Lý là nóng sáng, lệ dã, sáng sủa, tỏa ra, bám vào, phụ vào, trưng bày, phô trương, trống trơn, không yên. Ngôi thứ là trung nữ (gái giữa). Số tiên thiên là 3, số hậu thiên là 9 Đoài (trạch) ☱ Lúc này dương đã làm chủ đẩy âm hiện lên trên. Do đó tính của quẻ là Hiển. hình ảnh là thượng khuyết, là khuyết mẻ , như lưỡi dao bị mẻ vậy (kim bén , mỏng) . Lý là hiện đẹp, duyệt dã, vui lòng, vui vẻ, ưa thích, nói năng, khuyết mẻ. Ngôi thứ là thiếu nữ (gái út). Số tiên thiên là 2, số hậu thiên là 7 Kiền (thiên) ☰ Dương đã hoàn toàn xuất hiện như một điều hiển nhiên. Do đó tính là Như. Hình ảnh tam liên, tròn đầy , cứng chắc như khối kim loại (kim khối, cục). Lý là cương kiện, kiện dã, mạnh mẽ, cứng mạnh, khỏe mạnh, khô, lớn , cao, dương sáng. Hình ảnh của người Chồng hoặc Cha. Số tiên thiên là 1, số hậu thiên là 6 Tóm lại: sự hình thành tính chất của 8 quẻ qua các giai đoạn từ hư không cho đến hiện tại: 8_Hư – 7_Ngưng – 6_Trụ - 5_Tiềm – 4_Khởi – 3_Vũ – 2_Hiển – 1_Như Từ tám quẻ tiên thiên khi chồng nên nhau giống như những sự kiện được liên kết lại mà hình thành nên 64 quẻ dịch.Ngũ hành Khí âm dương luân chuyển biến hoá mà tạo ra ngũ hành. Năm hành của ngũ hành được hình thành qua 2 giai đoạn 1- Giai đoạn sinh: Nói về số thì : Trời 1 sinh thuỷ, đất 2 sinh hoả, trời 3 sinh mộc, đất 4 sinh sinh kim, trời 5 sinh thổ. Vậy số 1,2,3,4,5 là số sinh của ngũ hành 2- Giai đoạn thành; Nói về số thì ; -Trời 1 sinh thuỷ, đất 6 thành thuỷ (1-6 là thuỷ tiên thiên) - Đất 2 sinh hoả, trời 7 thành hoả (2-7 là hoả tiên thiên) - trời 3 sinh mộc, đất 8 thành mộc (3-8 là mộc tiên thiên) - Đất 4 sinh kim, trời 9 thành kim (4-9 là kim tiên thiên ) - Trời 5 sinh thổ, đất 10 thành thổ (5-10 thành thổ) Phương hướng; Mộc ở phương đông, hoả ở phương nam, thổ ở trung ương, kim ở phương tây, thuỷ ở phương bắc. Đây chính là phương vị ngũ hành trong hà đồ. Ngũ khí ; - Phong khí ( gió)thuộc mộc - Thử khí và nhiệt khí( khí nóng) thuộc hoả - Thấp khí(khí ẩm ướt) thuộc thổ - Táo khí (khí khô) thuộc kim - Hàn khí ( khí lạnh) Tạng phủ - Kim: đầu, họng, lưỡi, phổi - Mộc: Lông, tóc, tay chân, gan, mật - Thuỷ: Máu, mồ hôi, nước mắt, tai, thận - Hoả: Mắt, tim - Thổ: dạ dày, lá lách, lưng, bụng Hình dáng: - Kim: Tròn, dày - Mộc: hẹp dài - Thuỷ : Khúc khuỷu - Hoả: nhọn sắc - Thổ: vuông vức Quẻ dịch; - Kim: 2 quẻ CÀN, ĐOÀI - Mộc: 2 quẻ CHẤN TỐN - Thuỷ: quẻ KHẢM - Hoả: Quẻ LY - Thổ; 2 quẻ KHÔN, CẤN Thiên can: - Kim: canh, tân - Mộc: Giáp, ất - Thuỷ: Nhâm, quí - Hoả: Bính đinh - Thổ: Mậu, kỷ Địa chi: - Kim: Thân, dậu - Mộc: dần, mão - Thuỷ: Hợi, tý - Hoả: Tỵ, ngọ - Thổ : Thìn, tuất, sửu, mùi Sinh khắc của ngũ hành Sinh: - kim sinh thuỷ - thuỷ sinh mộc - mộc sinh hoả - hoả sinh thổ - thổ sinh kim Khắc: - Kim khắc mộc - Mộc khắc thổ - Thổ khắc thuỷ - Thuỷ khắc hoả - Hoả khắc kim Trong những nguyên lý tương khắc chỉ là sự tương tác giữa những vật thể với nhau để đi đến sự hủy diệt. Như vậy, trong nguyên lý tương sinh, tương khắc của Ngũ hành, người xưa đã bao hàm cả triết lý sự sống là bắt nguồn từ Trời (Thượng Đế), nhưng trường tồn hay hủy diệt là do vạn vật trên trái đất quyết định mà thôi. Ngoài ra, nó cũng bao hàm hết cả quá trình Sinh-Vượng- Tử- Tuyệt của vạn vật rồi vậy. Ngũ hành phản sinh Tương sinh là quy luật phát triển của vạn vật, nhưng nếu sinh nhiều quá đôi khi lại trở thành tai hại. Điều này cũng tương tự như 1 em bé cần phải ăn uống cho nhiều thì mới mau lớn. Nhưng nếu ăn nhiều quá thì đôi khi có thể sinh bệnh tật hoặc tử vong. Đó là nguyên do có sự phản sinh trong Ngũ hành. Nguyên lý của Ngũ hành phản sinh là: - Kim cần có Thổ sinh, nhưng Thổ nhiều thì Kim bị vùi lấp. - Thổ cần có Hỏa sinh, nhưng Hỏa nhiều thì Thổ thành than. - Hỏa cần có Mộc sinh, nhưng Mộc nhiều thì Hỏa bị nghẹt. - Mộc cần có Thủy sinh, nhưng Thủy nhiều thì Mộc bị trôi dạt. - Thủy cần có Kim sinh, nhưng Kim nhiều thì Thủy bị đục. Ngũ hành phản khắc Khác với quy luật phản sinh, Ngũ hành phản khắc là khi một hành bị khắc, nhưng do lực của nó qúa lớn, khiến cho hành khắc nó đã không thể khắc được mà lại còn bị thương tổn, gây nên sự phản khắc. Nguyên lý của Ngũ hành phản khắc là: - Kim khắc được Mộc, nhưng Mộc cứng thì Kim bị gãy. - Mộc khắc được Thổ, nhưng Thổ nhiều thì Mộc bị gầy yếu. - Thổ khắc được Thủy, nhưng Thủy nhiều thì Thổ bị trôi dạt. - Thủy khắc được Hỏa, nhưng Hỏa nhiều thì Thủy phải cạn. - Hỏa khắc được Kim, nhưng Kim nhiều thì Hỏa sẽ tắt. Cho nên trong sự tương tác giữa Ngũ hành với nhau không chỉ đơn thuần là tương sinh hay tương khắc, mà còn có những trường hợp phản sinh, phản khắc sẽ xảy ra nữa. Biết hết được những điều này thì khi ứng dụng vào Huyền không mới đạt đến mức độ linh hoạt và tinh vi, chính xác hơn. Chẵng hạn như một ngôi nhà nơi phía ĐÔNG có các vận-sơn-hướng tinh 3-3-7. Nếu theo thông thường thì thấy 7 thuộc hành Kim khắc 3 thuộc hành Mộc, nên nếu nhà này có cửa ra vào tại nơi đó thì đoán là nhà sẽ có người bị gãy tay, chân vì Kim khắc Mộc. Nhưng nếu nhìn kỹ thì thấy nơi đó có tới hai sao hành Mộc. Lại thêm phía ĐÔNG cũng hành Mộc. Cho nên Mộc nơi này vượng, một sao Kim thế yếu không thể khắc được, mà còn bị phản khắc lại. Vì thế nhà này không có người bị gãy tay chân, mà chỉ có bị bệnh yếu phổi hay đau phổi mà thôi. Lượng thiên xích Là sự di chuyển của cửu tinh trong lạc thư hay hậu thiên bát quái còn gọi là "Cửu tinh đăng quái" 1- Lượng thiên xích thuận: đông nam.............nam.............tây nam ............9..............5..............7 đông.....8...............1..............3...tây ...........4................6..............2 đông bắc...............bắc...............tây bắc (1) Từ trung cung xuống TÂY BẮC. (2) Từ TÂY BẮC lên TÂY. (3) Từ TÂY xuống ĐÔNG BẮC. (4) Từ ĐÔNG BẮC lên NAM. (5) Từ NAM xuống BẮC. (6) Từ BẮC lên TÂY NAM. (7) Từ TÂY NAM sang ĐÔNG. (8) Từ ĐÔNG lên ĐÔNG NAM. (9) Từ ĐÔNG NAM trở về trung cung. 2- Lượng thiên xích nghịch đông nam..................nam...............tây nam ............2....................6................ ...4 đông.....3....................1................. ..8...tây ............7....................5................ ...9 đông bắc...................bắc.................tây bắc (1) Từ trung cung lên ĐÔNG NAM (2) Từ ĐÔNG NAM xuống ĐÔNG (3) Từ ĐÔNG lên TÂY NAM (4) Từ TÂY NAM xuống BẮC (5) Từ BẮC lên NAM. (6) Từ NAM xuống ĐÔNG BẮC. (7) Từ ĐÔNG BẮC sang TÂY. (8) Từ TÂY xuống TÂY BẮC. (9) Từ TÂY BẮC trở về trung cung. Sự di chuyển thuận, nghịch của Cửu tinh là hoàn toàn dựa vào nguyên tắc phân định âm-dương của Tam nguyên long. Cửu tinh và ý nghĩa - Số 1: Nhất bạch hay tham lang: Đệ nhất cát tinh. Nếu đương vượng mà hình thế loan đầu có thủy động thì khoa cử đỗ đạt, sinh con trai thông minh trí tuệ. Nếu suy tử thì hại vợ, không thọ, cuộc đời trôi nổi, mang nhiều bệnh tậ về huyết, thận hư... * về ngũ hành: thuộc thuỷ * Về màu sắc: màu trắng * Về cơ thể : Thận, tai, máu huyết * về người : con trai thứ * về tính chất : thuộc dương - Số 2 : Nhị hắc hay cự môn : Hung tinh. Nếu vượng thì giàu có, điền sản phát mạnh, nhân khẩu hưng vượng lại phát quí về binh nghiệp. Nếu suy tử thì vợ đoạt quyền chồng, tính tình nhỏ nhen, thâm hiểm, keo kiệt, khó sinh đẻ, có bệnh về bụng. Trong nhà thường phát sinh bệnh hoạn liên miên. * về ngũ hành: thuộc thổ * Về màu sắc: màu đen * Về cơ thể : bụng và dạ dày * về người: mẹ hoặc vợ trong gia đình * về tính chất : thuộc âm - Số 3 : Tam bích hay lộc tồn : Hung tinh. Nếu vượng thì tài lộc đầy đủ, chấn hưng gia tộc, cơ nghiệp vững vàng, con cái dòng trưởng rất hưng thịnh. Nếu suy tử thì người nhà dễ bị điên hoặc hen suyễn, chân tàn tật, khắc vợ, kiện tụng thị phi hoặc trở thành trộm cướp. * về ngũ hành: thuộc mộc * Về màu sắc: màu xanh lá cây * Về cơ thể : mật, vai và tay * về người: con trai trưởng * về tính chất : thuộc dương - Số 4 : Tứ lục hoặc văn xương : Cát tinh. Vượng thì văn chương lừng danh, khoa cử đỗ đạt, con gái dung mạo đoan trang lấy được con nhà quyền quí. Nếu suy tử thì phụ nhân dâm loạn, đàn ông đam mê tửu sắc, gia sản phá hoại, phải lang thang phiêu bạt. * về ngũ hành: thuộc mộc * Về màu sắc: màu xanh dương * Về cơ thể : đùi và 2 chân * về người: con gái trưởng * về tính chất : thuộc âm - Số 5 : Ngũ hoàng hoặc Liêm trinh :Đạt sát tinh. Vượng thì tài đinh đại phát. Nếu suy tử thì bất kể được sinh hay bị khắc đều rất xấu ví vậy nó tịnh không nên động. Nếu gặp sao thái tuế tới thì tính hung càng phát mạnh làm tổn đinh, phá tài , nhẹ thì ốm đau, nặng thì mất người * về ngũ hành: thuộc thổ * Về màu sắc: màu vàng * Về cơ thể : không * về người: không - Số 6 : Lục bạch hoặc vũ khúc : Cát tinh. Vượng thí quyền uy , làm võ tướng thì công trạng hiển hách, gia đình giáu có, nhiều nhân đinh. Nếu suy tử thì cô độc hoặc chết trong binh đao, người nhà thường góa bụa, có nhiều quả phụ. * về ngũ hành: thuộc kim * Về màu sắc: màu trắng bạc * Về cơ thể : đầu, mũi, cổ, xương, ruột già * về người: cha hoặc chồng trong gia đình * về tính chất : thuộc dương - Số 7 : Thât xích hoặc phá quân : tặc tinh. Vượng thì phát về võ quyền, đinh tài đều vượng. Nếu suy thì trong nhà xuất hiện trộm cướp hoặc có người chết trận hay bị giam cầm, gia đạo không yên có thể bị hỏa tai mà tổn đinh hoặc xuất hiện người ham mê tửu sắc * về ngũ hành: thuộc kim * Về màu sắc: màu đỏ * Về cơ thể : phổi, miệng, lưỡi * về người: con gái út * về tính chất : thuộc âm - Số 8 : Bát bạch hoặc tả phù: Cát tinh. Vượng thì trung hiếu, phú quí dài lâu, con cháu được hưởng phúc lộc của tổ tiên. Suy tử thì có tổn thương nhỏ hoặc bị bệnh dịch * về ngũ hành: thuộc thổ * Về màu sắc: màu trắng * Về cơ thể : lưng, ngực và lá lách. * về người: con trai út * về tính chất : thuộc dương - Số 9 : Cửu tử hay hữu bật : trung tính. vượng thì văn chương lừng lẫy, con cháu dòng giữa được hưởng phú quí. Suy thì hỏa tai hoặc tai họa chốn quan trường, bị bệnh về máu huyết, thần kinh, mắt hoặc sanh đẻ khó. * về ngũ hành: thuộc hoả * Về màu sắc: màu đỏ tía * Về cơ thể : mắt, tim, ấn đường * về người: con gái giữa * về tính chất : thuộc âm Còn như thế nào là vượng hay suy sẽ phân tích ở phần sau. Trên đây là những yếu tố căn bản tối thiểu mà người học huyền không phải nắm vững để ứng dụng sau này Nguồn:PhongThuyHuyenKhong.com
-
Tìm được một ngôi nhà mà mắt ta cảm nhận thấy nó có hình thức đẹp, diện tích thích hợp với nhu cầu sử dụng, màu sắc trang trí và thiết kế nội thất vừa ý, ánh sáng đủ đầy, thông (thoáng) gió và hệ thống thoát nước tốt, môi trường đẹp, giao thông việc mua bán, việc học tập của con trẻ thuận tiện... có lẽ chẳng còn gì để nói. Điều này cũng trùng hợp với nội dungcảm xạ phong thủy học (CXPTH) về nhà cửa. Có điều, hầu như không phải ai cũng biết hướng nhà như thế nào thì phù hợp và đưa lại lợi ích nhiều mặt (sức khỏe, tài lộc, công danh, sự nghiệp, hạnh phúc, tương lai) với mình. Còn như hướng mà ta thích cũng như phương vị mà ta quen thuộc, thì CXPTH coi đó chính là hướng và phương vị phù hợp với ta hơn cả. Linh cảm, ý thức và trực giác của con người có vai trò quan trọng giúp cho sự lựa chọn được thích hợp. Thực tế gần 20 năm nay, nhiều người mua nhà (đất) có sự tư vấn của chúng tôi thì chưa hề thấy trường hợp nào chệch ra khỏi hay đảo ngược lại với quan điểm nêu trên. Nghĩa là, khi bước vào ngôi nhà định mua, trong 3 thời điểm gồm sáng, trưa/chiều và tối, người muốn mua chỉ cần ở lại trong ngôi nhà ấy một lát, mà linh cảm, ý thức và trực giác (nói đúng hơn là Trí tuệ cảm xúc -L'intélligence émotionelle) của người muốn mua nhà sẽ mách bảo cho ta cảm ứng về ngôi nhà ấy có thích hợp hay không thích hợp. Và bấy giờ, con lắc hay đũa cảm xạ được hỏi và trả lời hoàn toàn tương ứng. Nếu thích hợp, người mua sẽ cảm thấy dễ chịu và muốn ở lại thêm một lát nữa, chứ không hề muốn rời bỏ đi ngay. Trái lại, nếu người mua thấy khó chịu, thì ngay lập tức chỉ muốn ra khỏi ngôi nhà ấy. Nhược bằng ráng mà nán lại, ở thêm một lúc sẽ tự thấy trong người đứng ngồi bồn chồn không yên hoặc tâm và thần của ta sẽ hơi bối rối. Đấy là trường hợp "chống lại chỉ định", đồng nghĩa với việc phải đi tìm ngôi nhà khác.CXPTH có thể giải thích hiện tượng này: trái đất có từ trường, sức hút và những sóng hình thức khác. Trong máu con người có thành tố sắt, tuần hoàn máu chịu ảnh hưởng của địa từ trường và cả những sóng hình thể khác trong phạm vi không gian, môi trường cụ thể tác động mà sinh ra cảm ứng. Cảm ứng này bao giờ cũng thực hiện trong thời gian và không gian nhất định. Và nó hướng tác động vào cơ thể con người. Lý thuyết CXPTH giúp đỡ tích cực cho chúng ta, nhằm đánh giá từ trường + các sóng hình thể hiện hữu của ngôi nhà có thích hợp với cảm ứng của con người ở trong đó hay không. Nếu thích hợp thì tuần hoàn máu của người ở trong ngôi nhà đó sẽ hoạt động bình thường, cảm giác thấy khỏe mạnh, phấn khởi, sinh hoạt, làm ăn tốt đẹp. Ngược lại, nếu không thích hợp mà cứ ở ngôi nhà đó, sẽ ngày càng cảm thấy nhiều triệu chứng bất ổn, không an toàn, thoạt đầu chỉ mới cảm thấy yếu ớt, dần dần thấy rõ hơn, nặng nề hơn và cuối cùng có thể tai họa không mong muốn cứ ập tới.Ví dụ điển hình:+ Cằm con người ứng với nền móng nhà. Nếu có nước ngấm dưới nền móng nhà trầm trọng, mà nền móng lại làm ẩu hay không được tốt thì hậu quả không tránh khỏi, ngôi nhà sẽ phải chịu đựng độ ẩm rất cao. Người chủ ở lâu trong đó, cái cằm sẽ chẳng chóng thì chầy sẽ xuất hiện một thứ khí hắc ám. Nội tạng sẽ trục trặc, thường bị đau bụng, đau bão, bụng kêu và đi đại tiện lỏng./tiêu chảy... Quần áo, đồ dùng trong nhà ấy dễ bị ẩm mốc, có mùi hôi khó chịu.Giữa lông mày và mắt nổi gân xanh, rất có thể đó là ám thị cho biết nóc/mái nhà bị thẩm lậu, giột nát. Nếu vẫn bình chân như vại trong tình trạng như vậy, mà lao vào hoạt động sản xuất, kinh doanh hoặc tư vấn về nhà đấthay đứng ra nhận công trình kiến trúc, thiết kế xây dựng dù lớn hay nhỏ, hoặc mua nhà đất với giá hời đi nữa cũng không đưa lại lợi ích, thậm chí sẽ dẫn tới hậu quả đáng tiếc có thể hại người thiệt của và dĩ nhiên mối quan hệ làm ăn giữa mình với mọi người chắc chắn không tốt đẹp lắm. Nguồn:camxahoc.com
-
NGŨ HÀNH CỦA THIÊN CAN VÀ ĐỊA CHI + ĐẶC TRƯNG CỦA THIÊN CAN - Hành của thiên can: Giáp, Ất ………….hành Mộc Bính, Đinh………..hành Hỏa Mậu, Kỷ…………..hành Thổ Canh, Tân…………hành Kim Nhâm, Quý………..hành Thủy - Phương vị của thiên can: Giáp, Ất …………...thuộc phương Đông Bính, Đinh……….. .thuộc phương Nam Mậu, Kỷ………….. thuộc trung ương Canh, Tân………… thuộc phương Tây Nhâm, Quý……….. thuộc phương Bắc + ĐẶC TRƯNG CỦA ĐỊA CHI - Hành của địa chi: Tý, Hợi ………………………thuộc Thủy Dần, Mão …………………….thuộc Mộc Tỵ, Ngọ ………………………thuộc Hỏa Thân, dậu …………………….thuộc Kim Thìn, Tuất, Sửu, Mùi………….thuộc Thổ - Phương vị của địa chi: Mão…………thuộc phương Đông Ngọ …………thuộc phương Nam Dậu …………thuộc phương Tây Tý …………...thuộc phương Bắc Thìn, Tỵ ……..thuộc Đông Nam Mùi, Thân…...thuộc Tây Nam Tuất, Hợi…….thuộc Tây Bắc Sửu, Dần……..thuộc Đông Bắc NGŨ HÀNH PHƯƠNG VỊ Phương vị……Bát quái (quẻ tượng)…..Sơn vị…………Ngũ hành sở thuộc ---------------------------------------------------------------------------------------------- + Chính Bắc………Khảm………….Nhâm, Tý, Quý………..Âm Thủy + Đông Bắc……....Cấn……………..Sửu, Cấn, Dần………Dương Thổ + Chính Đông……Chấn…………….Giáp, Mão, Ất…………Dương Mộc + Đông Nam………Tốn…………….Thìn, Tốn, Tỵ…………..Âm Mộc + Chính Nam………Ly……………..Bính, Ngọ, Đinh……….Dương Hỏa + Tây Nam…………Khôn…………..Mùi, Khô, Thân………..Âm Thổ + Chính Tây……….Đoài……………Canh, Dậu, Tân………..Âm Kim + Tây Bắc………….Càn…………….Tuất, Càn, Hợi…………Dương Kim Mỗi phương vị chiếm 45 độ, mỗi sơn vị là 15 độ. Để dễ nhớ chúng ta cần tự vẽ cho mình Bảng đối chiếu 360 độ của 24 sơn vị, 8 hướng, bát quái và ngũ hành sở thuộc để tiện tra cứu khi thực hành nếu chưa thể nhớ hết được. Bảng này sẽ sử dụng thường xuyên trong việc xác định hướng nhà và xác định BÁT SAN theo Mệnh cung của chủ nhà. Nói về NGŨ HÀNH thì còn nhiều lắm, chưa kể những gì mà mình chưa biết đến có khi còn nhiều hơn cái mình đã biết. Trên đây tôi chỉ nêu tóm tắt một số mối quan hệ và biểu tượng của NGŨ HÀNH liên quan nhiều đến việc cải tạo Phong thủy của một ngôi nhà cho hợp với mệnh cung của chủ nhà. Khi tôi đã hiểu thì tôi cố nhớ nó để ứng dụng cho tiện lợi. Nguồn:hocphongthuy.blogtiengviet.net
-
Người phương Đông xưa tin rằng trái đất có những kênh dẫn khí thiên nhiên giống như kinh mạch trong cơ thể người và gọi đó là "địa mạch". Dòng khí trong các địa mạch tỏa bức xạ ra môi trường. Bức xạ này có thể tốt hoặc xấu cho sinh vật, kể cả con người sống trong môi trường đó Lý thuyết từng bị xem là huyền bí này đã được các nhà khoa học chứng minh là đúng qua những công trình nghiên cứu nghiêm túc.Có nhiều cách để xác định nơi nào có địa khí nguy hại. Cách cổ xưa nhất là "tìm mạch" được sử dụng ở châu Âu từ mấy nghìn năm nay. Một cách khác là dùng những dụng cụ khoa học đo lường mức độ rối loạn trong từ trường trái đất tính bằng nano Teslas.Giáo sư Deter Kugler, giảng dạy địa sinh học ở Heilbrunn, Đức, kể lại nhiều trường hợp giúp hóa giải tác dụng tiêu cực của địa khí. Có một bà nhờ ông xem nơi ở và không cho biết gì thêm. Giáo sư Deter khám phá ra giường của cháu trai bà nằm trên vùng tác động cao, đầu giường hướng thẳng về giao điểm của hai mạch nước trùng với một giao điểm địa khí Benker. Dựa vào kiến thức về các kiểu địa mạch, ông bảo nếu bà cứ để đứa cháu ngủ tại điểm này, nó có thể tự tử. Lúc đó, bà mới kêu lên cho biết cha của nó, cũng từng nằm ngủ nơi này, và đã treo cổ tự vẫn. Giường được chuyển qua vị trí tốt, đứa trẻ thấy thư thái hơn và không còn những hành vi bốc đồng.Một lần khác giáo sư Deter được mời đến giúp một phụ nữ, người mà cứ 7 giờ tối là lên cơn đau đầu chữa mãi không khỏi. Nhiều thầy phong thủy đã dùng đến những dụng cụ đo môi trường khác nhau để mong khám phá những "phạm vi thông thường" như lực tác động của địa khí hoặc trường điện từ, nhưng không ai tìm ra nguyên nhân của cơn đau đầu để giải quyết. Sau khi xem xét cẩn thận mọi góc độ của ngôi nhà và được biết bà chủ có thói quen ngồi độc sách báo hoặc xem tivi vào 6h30 tối, giáo sư Deter mở cửa bước vào căn phòng nhỏ phía sau cái ghế bà ngồi hằng ngày và thấy một cái giá cắm nến bằng sứ mà bà mang từ Tây Ban Nha về. Ông lấy dụng cụ ra đo và phát hiện có phóng xạ trong chất sứ của giá đèn. Bà chủ đem giá đèn ra chỗ khác và từ đó hết đau đầu.Năm 1960, chuyên gia nghiên cứu địa mạch Benker tìm ra hệ thống địa khí gồm những kênh rộng 80 đến 100 cm và cách nhau 10 đến 12 mét. Một kênh Benker gồm 3 phần: phần bên này có phóng xạ tiêu cực, phần bên kia có phóng xạ tích cực và phần giữa có thể có phóng xạ tiêu cực hoặc tích cực. Nếu một ngôi nhà xây trên "giao điểm khí" tích cực, người cư ngụ sẽ có cơ may khỏe mạnh. Trái lại, những giao điểm khí tiêu cực làm suy yếu người ở trên đó.Nhà vật lý W.O. Schumann đưa ra lý thuyết từ trường trái đất rung động cùng tần số như sóng alpha của não người (7,83 Hz hoặc chu kỳ mỗi giây), và lý thuyết này được Văn phòng tiêu chuẩn quốc gia Mỹ công nhận là đúng vào năm 1962. Có lẽ trong quá trình tiến hóa, các sóng não của con người rung động theo tần số nền tự nhiên của trái đất. Do đó, nếu tần số từ trường thay đổi, sức khỏe của con người sẽ bị ảnh hưởng."Sóng Schumann" rất có ý nghĩa ở mức tế bào trong việc điều hành các hệ thống sinh học của chúng ta. Những biến lệch trong từ trường sẽ gây rối loạn cho việc liên lạc giữa các tế bào và làm suy yếu các hệ thống trong cơ thể.Nếu chịu tác động lâu dài của lực địa khí tiêu cực, con người có thể các chứng bệnh như: viêm sưng, tê cứng, loạn nhịp tim, hệ miễn nhiễm suy yếu, bức xúc tâm thần, sút giảm sinh lực, mệt mỏi, hiếu động, bực bội, dễ gây gổ, đau đầu, mất ngủ, ngủ chập chờn, ác mộng...Nữ bác sĩ Ulrike Banis ở Stuttgart (Đức) nghiên cứu thấy lực địa khí tiêu cực làm trẻ con đái dầm và rơi khỏi giường khi ngủ. Bà còn cho rằng có thể lực này dính líu đến hội chứng đột tử ở trẻ.Bác sĩ Bannis chuyên trị ung thư hơn 10 năm nay và nhận thấy 100% bệnh nhân của mình đều bị ảnh hưởng của lực địa khí tiêu cực. Vì vậy, điều đầu tiên bà khuyên bệnh nhân là dời chỗ ngủ qua địa điểm an toàn, sau đó mới chỉ dẫn cách chữa.Trước đây đã có những nghiên cứu về mối liên hệ giữa bệnh ung thư và lực địa khí tiêu cực. Vào thập niên 1920, làng Vilsburgh ở miền nam nước Đức có số người chết vì ung thư tăng cao bất thường. Năm 1929, Giáo sư Freiherr von Pohl lập bản đồ các mạch nước ngầm và các kênh Benker trong ngôi làng nhỏ này và những vùng có các địa mạch chạy ngang qua nhà ở. Sau khi xem hồ sơ của bệnh viện địa phương, ông nhận thấy có tất cả 54 người chết vì ung thư nằm ngủ trên những địa điểm được đánh dấu là vùng nguy hiểm. Ông còn "tìm mạch" cho làng Grafenau có số bệnh nhân ung thư ít hơn (16 người chết) và cũng thấy kết quả tương tự. Năm 1972, giáo sư Jacob Stangle xác nhận kết quả nghiên cứu của giáo sư Pohl là chính xác.Vào thập niên 1970, bà Kathe Bachler tiến hành một chương trình nghiên cứu rộng ở Áo. Bà tìm mạch cho 3.000 căn hộ ở 14 vùng nông thôn và phỏng vấn khoảng 11.000 người. Một biểu mẫu 500 bệnh nhân ung thư cho thấy bệnh nhân nào cũng bị ảnh hưởng bởi lực địa khí tiêu cực.Nhiều nhà y học khác cũng tham gia nghiên cứu mối liên hệ giữa địa khí và ung thư. Tất cả đều kết luận gần 95% trường hợp ung thư có lực địa khí tiêu cực tác động. Đương nhiên cũng có những người nằm trên kênh tiêu cực không bị bệnh ung thư và có những bệnh nhân ung thư không bị ảnh hưởng của lực tiêu cực.Theo y học cổ truyền phương Đông, khí môi trường thiên nhiên là một loại khí hỗn hợp cả tiêu cực lẫn tích cực là có âm lẫn dương. Âm có tính nới giãn, khuyếch tán, làm lạnh; dương có tính thu gom, kết tụ, làm nóng. Tùy lúc tùy nơi, khí này có phần âm trội hơn thì gọi là "khí âm", nếu dương trội hơn thì gọi là "khí dương". Xét chung, hai loại khí âm dương không tốt không xấu đối với sức khỏe chúng ta, nhưng có thể trở thành xấu hoặc tốt do cách ăn ở của con người sống trong môi trường khí đó. Thí dụ ở nước ta, khí miền Nam là dương, nếu ăn nhiều muối (thực phẩm thịnh dương) tất sẽ sinh bệnh, trái lại khí miền Bắc âm hơn, nếu ăn nhiều trái cây (thực phẩm thịnh âm) thì sức khỏe sẽ có vấn đề.Giáo sư Ohsawa, nhà y học dưỡng sinh đề xướng phương pháp thực dưỡng Macrobiotics, đã nghiên cứu thấy những người ăn thực phẩm được nuôi trồng trong thiên nhiên ở nơi mình sống với tỷ lệ âm dương quân bình và sinh hoạt điều độ đều có sức khỏe tốt, và ít bị ảnh hưởng của những biến động trong khí môi trường (chuyển mùa, thời tiết thay đổi thất thường....). Trong khi những người có cơ thể rối loạn "mất quân bình âm dương" rất dễ phát bệnh khi lọt vào môi trường khí không thích hợp. Thí dụ ung thư là bệnh thịnh âm, phát triển âm thầm trong cơ thể một thời gian dài rồi mới lộ ra triệu chứng; nhưng những người mang mầm ung thư nếu thường xuyên tiếp xúc với môi trường khí âm - lực địa khí tiêu cực - thì bệnh sẽ bộc phát sớm và nặng.Vì vậy, theo giáo sư Ohsawa, muốn chữa bệnh ung thư và những bệnh khác, ngoài việc thay đổi môi trường sống, bệnh nhân còn phải điều chỉnh cách ăn uống cho cơ thể được quân bình âm dương (Theo khoa học và đời sống) Nguồn:blog.timnhanh.com
-
Vị trí phòng ngủ, chỗ kê giừơng, màu sắc bức tường … cũng đều ảnh hưởng ít nhiều đến cuộc sống lứa đôi. Để duy trì tình cảm nồng thắm, bạn phải biết bài trí khung cảnh sinh hoạt, tận dụng năng lượng tự nhiên theo thuật phong thủy. Phong thủy là nghệ thuật điều hòa năng lượng lưu thông trong nhà bằng cách xếp đặt các phòng và đồ vật. Phương thuật lâu đời này của Trung Quốc liên quan đến 4 yếu tố quan trọng trong cuộc sống : tiền bạc, sức khoẻ, cuộc sống nghề nghiệp và tình yêu (cả về hai khía cạnh tình cảm và tình dục). Vị trí phòng ngủ Theo thuật phong thủy, mọi thứ trong nhà phải được sắp xếp theo năm sinh (12 con vật trong lịch Trung Quốc) và theo ngũ hành (kim, mộc, thủy, hỏa, thổ). Dựa vào những đặc tính này, người ta bố trí các phòng trong nhà, đặc biệt là phòng ngủ, với sự trợ giúp của một la bàn. Cũng có một cách xếp đặt khác căn cứ vào cửa chính. Nhà được chia thành 9 ô và phòng ngủ phải nằm trong ô bên phải so với cửa chính để sinh hoạt chăn gối tốt đẹp … Bài trí phòng ngủ Phòng ngủ thường có mọi thứ : máy tính, sách, giấy … gây vướng víu, chật chội, không thuận lợi khiến sự tuần hoàn năng lượng không được suôn sẻ. – Vì vậy, bạn không nên để trong phòng những vật được tặng mà bạn không ưa thích – Không giữ lại giường hay khăn trải giường của người cũ (chồng, vợ) để chuyện rắc rối, chia tay không tái diễn. – Đồ đạc trong phòng ngủ phải do cả hai vợ chồng chọn lựa. Cả hai thỏa thuận mỗi người đều có chỗ trong phòng, người này không bị buộc phải theo sự lựa chọn của người kia. Nếu sự quân bình không được tôn trọng, sinh hoạt chăn gối cũng bị ảnh hưởng. Chỗ nằm trên giường cũng quan trọng vì năng lượng luôn lắng đọng trên người ngủ ở bên phải. Thay đổi thói quen có thể có ích. Vị trí giường Đầu giường đặt sát tường đối diện với cửa ra vào; nằm trên giừơng bạn có thể nhìn thấy cửa. Chiều cao và kích cỡ giừng cũng có vai trò đáng kể : không nên dùng giường qúa to hay qúa thấp. Bạn nên tránh đặt 2 tấm nệm cạnh nhau vì sẽ thể hiện xu hướng phân cách cuộc sống, ở bên cạnh cuộc đời nhau. Màu sắc Một số màu sắc thích hợp với phòng ngủ của một cặp vợ chồng : màu vàng tạo thuận lợi cho sự thành đạt, màu cam thuận lợi cho cuộc sống tình dục và cả sự thay đổi (nên dùng vừa phải), màu hồng gợi sự âu yếm và màu đỏ gợi sự đam mê …. Tranh ảnh và những vật khác Tất cả những đồ vật trong phòng ngủ đều có một vai trò trong sinh hoạt chăn gối nên bạn cần tránh những đồ vật thể hiện chiến tranh hoặc sự tàn bạo (vũ khí, đầu thú vật nhồi rơm …). Ngược lại, ảnh hay tranh gợi cảm tạo thuận lợi cho sinh hoạt yêu đương. Một hoạt chất khác là ảnh hai vợ chồng : bạn nên chọn ảnh chụp mới nhất. Nhiều người cũng thích đặt bình hoa với hai hoa mẫu đơn đỏ trong góc phòng. Gương gây ra tranh cãi Người ta có rất nhiều ý kiến trái ngược nhau về việc đặt gương trong phòng ngủ. Một số ý kiến cho rằng gương gây nhiều về địa sinh học và cho thấy hai cặp vợ chồng trong phòng gây sự bất ổn và thiếu chung thủy. Ngược lại, có ý kiến cho rằng hai yếu tố điều chỉnh cuộc sống tình dục là nước và lửa. Gương tượng trưng cho lửa nên đặt một tấm gương trong phòng sẽ có ích. Bạn nên bàn bạc về vấn đề này với người bạn đời. Những lời khuyên trên cũng có gía trị với những người sống một mình muốn cải thiện cuộc sống tình cảm. Bạn nên có thái độ sẳn sàng đón tiếp một người khác đến nhà. Phòng được bài trí như để chờ một người mới. Nếu phòng có nhiều đồ đạc gây vướng víu, điều đó cũng có nghĩa là bạn chưa sẵn sàng hành động. (Theo Santé Magazine, 9.2008 của Kim Phấn) Nguồn:HuyềnKhongLyHoc.com
-
Thân chào nuocvietthanyeu cùng toàn thể ACE. Trung cũng có một kinh nghiệm nho nhỏ muốn chia sẽ cùng toàn thế ACE. Trong việc tu tạo sửa sang nhà cửa, chắc hẳng trong chúng ta ai cũng muốn điều tốt đẹp sẽ đến với ngôi nhà của mình. Chính vì điều đó người thợ luôn là yếu tố chính hàng đầu. Có những người thợ nếu phúc đức tâm họ sẽ không có gì, ngược lại nếu nhẫn tâm họ có thể làm cho ngôi nhà đó trờ thành một ngôi nhà không chủ chẳng hạn..vv. Trong thực tế khi làm nhà chủ và tớ thường có những yếu tố xích mích mâu thuẫn lẫn nhau, điều đó dẫn đến thợ sẽ có những hành động như yểm đòn dông, bậc cầu thang vào cung tử, trên đòn dông để 1 cái gương và 1 chiếc lược gãy, chôn sắt trước cửa nhà chẳng hạn..Trong thực tế kế bên nhà Trung đã chứng kiến một sự việc thương tâm. Chủ và thợ xích mích lẫn nhau, dẫn đến thợ đã làm tất cả cửa và bậc cầu thang vào cung tử, Kết quả người chồng và cũng là người chủ trong gia đình bị chính xe tải của nhà cán chết sau khi làm nhà xong 2 tuần. Khi thợ khác vào sữa nhà đo đạc lại thì tất cả vào cung tử cả. Người vợ mới thật sự hỡi ơi và bán lại nhà sau khi đó...Trong dân gian còn rất nhiều bí truyền ông cha để lại nhưng hầu như cũng còn nhiều thứ bị thất truyền và đi vào quên lãng...Còn rất rất nhiều việc khác và bí truyền khác Trung không tiện nêu trên đây. Nhưng có 1 bí quyết nhỏ giúp cho người chủ nhà xây nhà yên tâm hơn, đó là khi xây dựng hoặc động thổ chúng ta nên lén giấu cái bai và cây búa của người thợ chính. Như vậy thợ sẽ không làm được ngôi nhà mình, nếu có yểm cũng không ăn thua gì, và hầu như nếu yểm thì chính người thợ chính đó sẽ lãnh đủ hậu quả khó lường.
-
Đào và Hồng thường đi đôi và có cùng chung một đặc tính. Đào hành Mộc, Hồng hành Thủy. Những sách Tử Vi không đề cập đến những vị trí đắc địa hay hãm địa của Đào Hồng. Tuy nhiên, có người căn cứ trên thực tại để định những vị trí tốt xấu của Đào Hồng. Như cung Mão được xem là vị trí tốt nhất của Đào Hoa vì cung Mão là thời điểm của bình minh, những cánh hoa còn đọng sương mai, khởi đầu của sự khoe sắc tươi thắm rực rở nhất trong ngày. Cung Ngọ là giữa trưa, hoa không còn tươi thắm nữa vì bị nắng cháy. Cung Tí thì ở vào ban đêm, là thời điểm mà hoa đã khép cánh. Quan niệm này cũng hợp lý, tuy nhiên vẫn có những loài hoa chỉ nở về đêm như hoa Quỳnh, Dạ Lý Hương, Thiết Mộc Lan v.v… chỉ khoe sắc và tỏa hương nồng trong bóng tối mà thôi. Đã mang kiếp hoa thì tất phải sớm nở tối tàn, dù cho rực rở trong buổi bình minh thì có còn tươi thắm được đến buổi bình minh hôm sau chăng? http://' target="_blank">Nhưng nếu nói theo quan điểm trên, Đào đắc địa ở Tí, Ngọ, Mão, Dậu tức là Tứ Tuyệt, Hồng đắc địa ở Dần Thân Tỵ Hợi tức Tứ Sinh, thì quan điểm cũng có cái triết lý khi phân tích về bản chất của Đào Hồng, là hai sao biểu tượng cho phái nữ. Khi nói Đào ở Tứ Tuyệt, chúng ta có thể tưởng tượng hoàn cảnh của một cô con gái có nhan sắc nhưng tư nhỏ đã sinh sống trong một hoàn cảnh rất nghiệt ngã, khiến cho người con gái này phải có đầy đủ thủ đoạn để sinh tồn. Còn ngược lại, Hồng ở tứ sinh như một người con gái khuê các, nên bản chất hiền lương đoan chính. Tuy vậy, theo thiển ý của người viết, vị trí của Đào Hồng không quan trọng bằng những sao mà Đào Hồng trao duyên gởi phận, và điều này sẽ được dẫn chứng ở phần sau. Ở đây, chỉ lấy một ví dụ, bất kể Đào ở vị trí nào mà khi gặp Hồng và Thiên Hỷ thì trở thành bộ sao tốt gọi tắt là Đào Hồng Hỷ hay còn gọi là Tam Minh. Đối với Tử Vi, Đào Hồng đều là biểu tượng của sự sinh đẹp, cho nên có ý nghĩa chỉ về phái nữ nhiều hơn phái nam. Người có Đào hay Hồng thủ mệnh, dù nam hay nữ đều có nhan sắc, đẹp trai, đẹp gái. Nét mặt lúc nào cũng vui tươi, tính tình vui vẻ cởi mở. Tuy nhiên, chúng ta phải phân biệt cái đẹp và cái nết của hai sao Đào Hồng khác nhau ở điểm nào? Khi nói về nhan sắc, hàm ý nói về phái nữ, cái đẹp của Đào là nét đẹp lộ liễu ra bên ngoài, lồ lộ như một đóa hải đường, vẻ đẹp mà khoa Tướng Mệnh gọi là Đào Hoa Diện, hoặc Đào Hoa Nhãn, là nét đẹp có sức hấp dẫn, lôi cuốn thu hút người đối diện ngay từ phút ban đầu từ khuôn mặt, đôi mắt, cử chỉ, lời ăn tiến nói có vẽ lôi cuốn, lẳng lơ, hoặc có một lối sống buông thả… Cái đẹp của Đào có thể nhìn thấy ở bất cứ tầng lớp nào trong xã hội, từ một mệnh phụ phu nhân cho đến một người mẫu, một diễn viên, một thôn nữ, thậm chí một cô gái giang hồ… Nhưng địa vị và vẻ đẹp bên ngoài đó không bảo đảm là nết hạnh của họ cũng tốt đẹp như vậy. Còn nét đẹp của Hồng là nét đẹp của sự nhu tình, duyên dáng, thanh cao, quý phái, đài các. Cái đẹp nghiêng nhiều về tinh thần hơn là vật chất. Nữ mệnh có Hồng có thể chỉ là một người đàn bà nhan sắc trung bình, nhưng có duyên, là mẫu người nhu mì và có chiều sâu tâm hồn. Tuy nhiên, khi đi chung với Đào cả hai sẽ có ảnh hưởng tương hỗ nhau. Hồng chỉ chế giảm được một phần nhỏ khuynh hướng vật chất và buông thả của Đào mà thôi, còn phần lớn là bị lôi cuốn bởi Đào. Ngoài ý nghĩa về nét đẹp và tính nết, Đào Hồng còn chủ sự nhanh chóng, sớm sủa, dễ dàng và may mắn. Chẳng hạn, Đào Hồng tọa thủ ở Mệnh, cung Di, hay cung Quan là số của những người ra đời sớm, đi làm sớm hay có công danh sự nghiệp sớm hơn những người cùng lúa tuổi với mình. Đây cũng là số của những người có nhiều may mắn trong vấn đề học hành thi cử, và khi ra trường lại tìm được việc làm dễ dàng hơn những người khác. Nếu cung Tài có Đào Hồng tọa thủ thì đương số sớm làm ra tiền và kiếm tiền một cách dễ dàng. Nếu hai sao Đào Hồng gặp thêm Hỷ Thần hay Thiên Hỷ chủ sự may mắn về thi cử, sự thăng quan tiến chức, cũng là việc cưới hỏi. Hạn gặp Đào Hồng Hỷ là sự báo hiệu một tin vui sắp đến. Trong lãnh vực nghề nghiệp, Đào Hồng Hỷ chỉ những người sinh hoạt trong các bộ môn ca nhạc kịch, điện ảnh. Trong gia đình, Hồng là biểu tượng của con gái, nếu Hồng gặp Thiên Khôi là chỉ người trưởng nữ. Nhu vậy đối với khoa Tử Vi, mẫu người Đào là những người cung Mệnh có Đào hay Hồng tọa thủ hay xung chiếu. Đặc tính đáng chú ý của họ là sức thu hút đối với người khác phái, họ là những người đắt đào, đắt kép, bước ra khỏi nhà là có người thương, người theo, có người sẳn sàng gánh vác, nâng đỡ mọi điều… Tuy nhiên, người Đào không phải lúc nào cũng được may mắn tốt đẹp như vậy, nhất là đối với nữ phái. Nếu Đào Hồng bất hạnh trao duyên gởi phận cho những sao xấu thì thà đừng có Đào Hồng còn hơn. Chẳng hạn nữ Mệnh có Đào Hồng tọa thủ, gặp Hóa Kỵ, Riêu hay Thai đồng cung hay hợp chiếu, thì đương số là người đàn bà đẹp nhưng lẳng lơ, buông thả và cuộc đời sẽ trầm luân với những buồn thương sầu hận. Nếu Đào Hồng những sát tinh như KHÔNG KIẾP thì có thể nói là một nỗi bất hạnh cho đương số. Chúng ta lấy cuộc đời của Vương Thúy Kiều để làm một ví dụ điển hình: mối tình đầu vừa chớm nở đã đành trao lại cho em để bán mình vào lầu xanh. Tấm thân đã phải đổi chủ biết bao nhiêu lần, rồi xuống tóc, rồi trầm mình, nhưng nợ trần đâu dễ phủi tay? Đó là mẫu người Đào Hoa lụy vì tình, oan nghiệt vì tình, vì nhan sắc mà gặp tai họa, hoặc là lâm vào hoàn cảnh mà người đời thường hay gọi “trao duyên nhầm tướng cướp” Nếu Đào Hồng ngộ Thiên Không thì cũng như Đào gặp lửa, chắc chắn duyên phận phải bẽ bàng và có thể xa lánh cõi đời bằng con đường tu hành như chuyện Lan và Điệp. Đối với nam giới, nếu cung Quan có Đào Hồng thì đương số ra đời sớm lý do có thể là do tính thích tự lập hoặc vì hoàn cảnh đưa đẩy. Họ cũng là người lập được công danh sự nghiệp rất sớm, và điều đáng nói là sự thành công đó không hẳn hoàn toàn do khả năng của chính họ mà một phần là do sự nâng đỡ, giúp sức của người khác phái, nguyên nhân chính là vấn đề tình cảm. Tương tự, đối với nam mệnh mà cung Tài có Đào Hồng thì đương số làm ra tiền một cách dễ dàng. Nếu lá số tốt đẹp họ có thể là những người giàu có lúc còn trẻ tuổi, và chắc chắn rằng sự thành đạt đó không thể thiếu sự góp phần của người khác phái bởi những quan hệ tình cảm đặc biệt nào đó., và đôi khi đó chỉ là tình cảm một chiều. Chúng ta thường nghe câu: “sau lưng một người đàn ông thành công là bóng dáng của một người đàn bà tài giỏi” Nhưng không phải Đào Hồng lúc nào cũng cũng được may mắn tọa thủ trong một lá số tốt đẹp để biểu tượng cho một người đàn bà giỏi. Nam số nếu Mệnh hay cung Quan có Đào Hồng gặp hung tinh, sát tinh thì hậu qủa sẽ là những gì mà cựu Tổng Thống Clinton hay Thái Tử Charles đã gánh chịu. Bởi vậy, trong lá số của người đàn ông nếu Đào Hồng gặp những sao tốt như Tử Phủ hay Nhật Nguyệt…thì đương số được công thành danh toại. Với phái nữ, đó là hình ảnh của một người vợ “vượng phu ích tử”, một hồng nhan tri kỷ. Ngược lại, Đào Hồng gặp những sao xấu, thì Đào Hồng cũng là một hồng nhan nhưng cũng là họa thủy. Chẳng hạn như Đào Hồng ngộ KHÔNG KIẾP ở cung Mệnh hay cung Quan, nhẹ thì như đã nói ở trên, nặng thì chung cuộc có khác gì cảnh Hạng Võ phải biệt Ngu Cơ rồi tự vẫn bên bờ Ô Giang. Hoặc nam mệnh có Đào Hồng tọa thủ ở cung Tài gặp Song Hao, Địa Kiếp thì tiền kiếp được cũng nhờ đàn bà, tán gia bại sản cũng vì đàn bà. Đối với khoa Tử Vi, không phải chỉ có hai sao Đào Hoa và Hồng Loan là biểu tượng cho mẫu người đào hoa mà còn có nhiều sao khác như Liêm Trinh, là một sao võ cách nhưng vẫn được mệnh danh là đào hoa tinh. Ý nghĩa đào hoa của Liêm Trinh thường dùng cho Nam nhiều hơn Nữ. Đàn ông cung Mệnh có Liêm Trinh, dù đắc hay hãm cũng là người có số đào hoa họ có duyên ngầm, có một nét đa tình nào đó dễ thu hút người khác phái. Tuy Liêm Trinh là một sao về võ cách nhưng bản tính vốn liêm khiết và tự trọng cho nên trong tình trường, họ thường bị người khác phái chủ động và tấn công trước. Trong lĩnh vực tình cảm, Liêm Trinh có những đặc tính gần với Hồng Loan hơn là Đào Hoa. Tham cũng là một đào hoa tinh, nhưng tình cảm của Tham Lam rất giống Đào Hoa, nặng về vật chất, buông thả, sa đọa. Nếu cung Mệnh an tại Tí có Tham tọa thủ là cách “Phiếm Thủy Đào Hoa” Hoa đào trôi theo dòng nước, chỉ những người có tâm hồn lãng mạn, đường tình lao đao lận đận, hoặc những người có cuộc sống buông thả, phong trần. Cách Phiếm Thủy Đào Hoa có nghĩa ý đối với phái nữ nhiều hơn Nam. Nguyệt cũng là biểu tượng của người đào hoa bởi vì Nguyệt mặt trăng, là nguồn cảm hứng bất tận cho người văn nghệ sĩ từ cổ chí kim. Cho nên, người mà cung Mệnh hay cung Phúc có Nguyệt thì ít nhiều cũng là người đa tình lãng mạn, yêu chuộng văn chương nghệ thật, là mẫu người sống vì nhạc, thác vì tình. Đặc biệt đối với nam mệnh, nếu Nguyệt tọa thủ tại cung Thê thì đương số là người đào hoa, thích bay bướm, nhưng nể vợ, sợ vợ như Thúc Sinh trong truyện Kiều vậy. Ngoài ra một số sao khác như Cự Môn, Xương Khúc, Hoa Cái…hoặc một vài cách như Thai Phục Vượng Tướng, Cự Kỵ, Tham Kỵ, Hoa Cái cư Di…. đều là đặc tính của mẫu người đào hoa, ít hay nhiều, tốt hay xấu còn tùy vào mỗi lá số hoặc những sao mà chúng đi chung. Những sao khắc chế được tính Đào có Nhật, Hóa Khoa, Lộc Tồn, Tứ Đức, Thiên Hình, Thiên Không…riêng đối với nữ, Thiên Hình và Thiên Không có tác dụng khắc chế qúa mạnh, không những làm mất hết tánh đào hoa mà còn phải chịu cảnh lận đận trên đường tình duyên. Chẳng hạn nữ có Đào gặp Thiên Hình, đây là người đàn bà có nhan sắc, nhưng tâm hồn khô khan, ăn nói không duyên dáng…hay nói một cách khác, đúng xa mà nhìn thì thấy đẹp, nhưng đến gần thì chỉ là một cành hoa giấy. Từ những nét vừa nêu trên, chúng ta thấy rằng ý nghĩa chính của Đào Hồng là sự sinh đẹp và tình ái. Cho nên Đào Hồng thích hợp với tuổi trẻ hơn là lúc về già. Vì vậy, trong tiền vận hay trung vận nếu gặp Đào Hồng cộng với sát tinh nhập hạn thì cũng không đáng sơ như khi ở hậu vận, nhất là đối với những người mệnh Vô Chính Diệu. Và sau hết, mẫu người đào hoa giống như lúc nào cũng nắm trong tay con dao hai lưỡi. Con dao Đào trong cái tốt có ẩn tàng cái xấu. trong hạnh phúc có mầm móng của sự đau khổ. Chúng ta thấy Đào Hồng cũng cùng một nguyên tắc như Nhật Nguyệt đó là “chính bất như chiếu” Do đó cách tốt đẹp hơn hết là Đào Hồng không nên tọa thủ ở Mệnh, nhất là đối với nữ. Một chút nhan sắc trời cho mà phải đánh đổi cả một đời truân chuyên, điều này thử nghĩ có đắng hay không? Vị trí tốt nhất cho Đào Hồng là cung Quan hay cung Tài. Tại đây, Đào Hồng chiếu về Mệnh thì đương số vẫn là người có nhan sắc, tuy nhan sắc không rực rỡ và phô bày cái đẹp ra bên ngoài nhưng lại tránh được bốn chữ “Hồng Nhan Đa Truân” Và nói chung cho cả nam nữ thì Đào Hồng ở hai cung Tài và Quan giúp cho đương số thành công dễ dàng hơn trên phương diện công danh và sự nghiệp chứ không chỉ trói buộc đương số vào cái vòng tình cảm như khi Đào Hồng thủ Mệnh. Đối với đàn bà, nhan sắc là trời cho nhưng “Hồng Nhan Đa Truân” hay “Hồng Nhan Bạc Mệnh” thì cũng là ý trời. Dù nam hay nữ, có thể một lúc nào đó, người đào hoa phải tự hỏi mình được nhiều người thương là hạnh phúc hay phiền muộn? Cũng như mấy ai biết được giữa hồng nhan tri kỷ va hồng nhan họa thủy phải chăng chỉ là một đường tơ? Phúc hay họa thì chỉ có khoa Tử Vi mới trả lời cho chúng ta rõ ràng mà thôi. Nguon:quehuongyeudau.blogtiengviet.net
-
Xin lỗi ACE. Những bài viết trên đã post nhầm topic, kính nhờ BQT diễn đàn di chuyển sang mục Tử Vi. Chân thành cám ơn BQT.
-
Thân chào nướcvietthanyeu. Xin nuocviet đừng gọi Trung bằng ngài,thất lễ quá, thật là ngại. Những đoạn viết trên là của một Cao Nhân dich lại. Trung chỉ copy về cho mọi người cùng tham khảo trao đổi thêm về học thuật mà thôi. Cám ơn nuocviet đã dành thời gian đọc qua chủ đề trên. Thân . Lê Bá Trung.
-
Rishikesh! Một tên gọi linh thiêng, thành phố của các vị thánh. Từ lâu nay người ta đã coi thành phố này như một thánh địa mà tất cả những kẻ cầu đạo đều phải đến để đắm mình trong bầu không khí thiêng liêng. Rishikesh nằm ở một vị trí đặc biệt và là cánh cửa vào rặng Hy Mã Lạp Sơn. Từ đó đi lên hướng bắc là rặng núi hùng vĩ, chứa đựng những điều huyền bí. Phía nam là con sông Hằng, dòng sông thiêng của Ấn giáo. Một người Ấn bất kể giai cấp, trí thức, đều ít nhất một lần trầm mình trong dòng nước này để đón nhận những ân phược mà dòng sông mang lại. http://' target="_blank">Đúng như lời người Ấn bí mật thành Benares đã nói, khắp nơi đâu đâu cũng có các đạo sĩ và tín đồ hành hương. Có những đạo sĩ mình hạc, xương mai vừa đi vừa tụng niệm các câu thần chú. Có các đạo sĩ khổ hạnh, chống gậy trầm tư bên dòng nước sông Hằng. Chen chúc bên các tín đồ huyên náo là các thuật sĩ , quần áo sặc sỡ biểu diễn những trò lạ lùng. Một đạo sĩ to lớn, lực lưỡng, quấn khố bằng da cọp, uốn mình trong tư thế Yoga. Bên cạnh một thuật sĩ gầy gò, nằm lăn trên đất, lâm râm cầu nguyện. Có các vị tăng sang sảng đọc kinh bên cạnh những giáo sĩ vừa đánh trống vừa nhẩy nhót, ca hát tên các vị thần. Có những tu sĩ thiền định trong những hang đá đục sâu vào núi, không màng thế sự, bên cạnh những đạo sĩ râu tóc xồm xoàm, quấn mình trong những mảnh vải rách như một xác ướp. Có các tu sĩ nằm yên lặng, hơi thở thoi thóp như sắp chết, bên cạnh những thuật sĩ say sưa gọi tên thượng đế một cách ồn ào. Trong làn khói hương nghi ngút, các tín đồ hành hưoong chen vai thích cánh, trên mặt ai cũng một niềm thành kính rõ rệt. Phái đoàn cảm tưởng như đang lạc vào một thế giới lạ lùng, huyền ảo, với những nhân vật kỳ dị , khác thường. Bác sĩ Kavir, giám đốc viện nghiên cứư Phạn ngữ (Sanskrit) của chính phủ là một học giả nổi tiếng, có một kiến thức rộng và đã sống ở Rishikesh nhiều năm . Theo ông ta thì Rishikesh không còn là một thành phố của các bậc chân tu đạo hạnh như xưa, mà là một nơi quy tụ rất nhiều thành phần hỗn tạp. Đa số là các đạo sĩ, tu sĩ nghèo nàn từ hình thức đến tinh thần. Họ góp nhặt vài phép tu, vài phương pháp dưỡng sinh, vài câu thần chú, rồi kiếm ăn qua sự mê tín của dân chúng. Phần lớn những tu sĩ này đều là những kẻ thất bại ngoài đời, lười biếng, không chịu làm việc. Đối với một quốc gia chậm tiến như Ấn độ, thì hình thức dễ nhất để có cơm ăn, áo mặc, và một mái nhà, là trở nên một tu sĩ, sống trên lòng sùng tín của dân chúng. Vì không có một tiêu chuẩn kiểm soát nào, nên bất cứ ai cũng có thể trở thành tu sĩ; chỉ cần mặc áo tu sĩ, học thuộc vài câu kinh, vài hình thức lễ nghi, cúng tế là có thể tự xưng đạo sĩ, thánh nhân được rồi. Chính các tu sĩ, đạo sĩ giả mạo này là những kẻ làm hoen ố danh dự tôn giáo, lợi dụng đức tin để làm chuyện xằng bậy, ích kỷ cá nhân. Đã thế, họ còn tụ tập phe nhóm, phong chức tước, ca tụng lẫn nhau và đả kích những tu sĩ không cùng phe nhóm. Được tin có phái đoàn ngoại quốc đến nghiên cứu nền minh triết cổ truyền, rất đông đạo sĩ, gíao sĩ tìm đến để tiết lộ những pháp môn huyền bí, dĩ nhiên, là với một giá biểu. Khi bị từ chối, lập tức họ sụt giá như người mua bán. Một đạo sĩ đòi bán một cuốn sách bí truyền với giá 50 đồng tiền vàng, sau nhiều lần sụt giá, y bằng lòng để lại cuốn sách với giá một bữa ăn. Một nhóm tu sĩ danh xưng trọng vọng, chức tước đầy người đòi đến thảo luận triết lý với phái đoàn. Khi nghe họ giới thiệu về thành tích và đạo quả đạt được, phái đoàn cực kỳ ngẩn ngơ, vì toàn các bậc thần thánh gì đâu, chứ không phải người. Ai cũng tu cả trăm năm, đủ các phép thuật thần thông biến hoá. Tuy nhiên, khi một viên cảnh sát ở đâu bước vào thì các bậc “thần tiên” mặt mày lơ láo, kéo nhau bỏ chạy hết. Quanh các chợ , có rất nhiều tu sĩ khổ hạnh phô trương thân thể tàn phế bị huỷ hoại như một công trình vĩ đại. Phái đoàn không hiểu họ có thể đạt đến điều gì, ngoài ít xu lẻ mà khách bộ hành ném cho. Một số các đạo sĩ sử dụng tà thuật công khai. Với một giá biểu, họ sẵn sàng làm bùa chú, thư phù, nguyền rủa một kẻ thù của bạn, đem đến cho bạn một cô gái đẹp hoặc giúp bạn thành công trên thương trường. Đâu đâu cũng có đạo sĩ rao bán bùa ngãi hoặc xưng là đấng này, đấng nọ. Một tu sĩ đến gặp phái đoàn xưng là hậu thân của đấng Krishna và đã từng là Phật Thích Ca trong một tiền kiếp. Bác sĩ Kavir nổi giận ra lệnh tống giam ngay tu sĩ này. Khi cảnh sát đến còng tay, tu sĩ thú nhận, y chỉ là một học sinh thi rớt tiểu học, không sao kiếm được việc làm. Y đã lười biếng còn thích làm thầy kẻ khác, nên làm gì một thời gian cũng gặp khó khăn. Sau cùng, y cạo đầu, mặc áo tu và tự xưng là Krishna giáng thế, một số dân quê tin những lời tuyên bố của y. Họ quyên góp, xây cho y một ngôi đền. Y sống trên phẩm vật dâng cúng của tín đồ, một cách ung dung chẳng tu hành gì hết. Đã thế, y còn đòi hỏi này nọ, chê ngôi đền quá nhỏ bé không xứng với chức tước của y. Quen thói hống hách, lừa bịp, khi nghe tin có phái đoàn ngoại quốc đến thăm viếng, y dở trò bịp bợm để mong kiếm được món tiền nhỏ. Lịch sử Ấn độ cho thấy khi xưa Rishikesh là một thánh địa thiêng liêng, một nơi các tu sĩ thánh thiện đến để tu học. Sau này, khách hành hương quá đông, một số hành khất kéo nhau đến đây hành nghề. Thấy làm đạo sĩ coi bộ dễ kiếm ăn hơn nên nhiều hành khất đã “chuyển nghề” trở thành các đạo sư, gíao sĩ chuyên làm tiền các tín đồ ngây thơ, nhẹ dạ. Dĩ nhiên, Rishikesh vẫn còn các tu sĩ học thức, dành trọn đời cho việc đi tìm chân lý. Họ vẫn tu hành quanh đó không để ý đến sự kiện các tu sĩ giả lợi dụng sự có mặt của họ để mưu cầu lợi lộc. Đó cũng là một nét đặc thù của nền văn hoá xứ này. Một người Âu Mỹ chắc chắn không thể chấp nhận sự kiện như thế, họ sẽ nhờ luật pháp can thiệp hoặc cảnh cáo những tu sĩ bất lương. Nhưng Ấn giáo không có một tổ chức chặt chẽ như Thiên chúa giáo. Các giáo sĩ quan niệm có nhiều đường tu khác nhau, ai tu nấy chịu và những kẻ mạo danh, lợi dụng sẽ phải chịu hậu quả ở một kiếp sau. Giáo sư Kavir cho biết, theo thời gian, khi nền văn hoá suy đồi, cuộc sống trở nên khó khăn, các bậc tu sĩ thánh thiện mỗi ngày một hiếm, thì các đạo sĩ, thuật sĩ giả mạo nổi lên mỗi ngày một nhiều. Hàng ngàn người dốt nát, vô học đi lang thang với các chức tước rất lớn như đạo sư, giáo sĩ, thánh nhân. Họ chỉ chờ những ngày hội, ngày lễ là xuất hiện quanh các đền, chùa lên mặt này nọ để quyên tiền. Dĩ nhiên họ là gánh nặng của xã hội, vì chỉ thụ hưởng mà không làm lợi ích gì. Đó cũng là lý do nhiều người Âu Mỹ đã coi thường gia tài văn hoá xứ Ấn. Xét cho cùng, một phần lỗi cũng là do sự tôn sùng tôn giáo quá mạnh của dân chúng. Họ không phân biệt một đạo sư tu hành chân chính, gìn giữ giới luật nghiêm minh, với những kẻ bịp đời. Lòng sùng tín khiến họ trở nên ngây thơ, nhẹ dạ, sẵn sàng làm theo sự mách bảo của các bậc tu hành. Một lý do nữa là sự ỷ lại vào sức mạnh thần quyền. Đa số các tín đồ mải mê với sinh kế, không có thì giờ lo việc tinh thần, nên họ uỷ thác cho các giáo sĩ cầu nguyện dùm, và đồng hoá việc giải thoát với việc trung thành vào một bậc giáo sĩ. Đa số các giáo sĩ lợi dụng vấn đề này tối đa, hứa hẹn sẽ chăm lo tinh thần giáo dân bằng cách cầu nguyện cho họ. Các giáo sĩ này tự hào đã tu hành đắc đạo, đã có thể nói chuyện trực tiếp với thượng đế. Và là người trung gian giữa trời và người. Họ sống trong các đền đài đẹp đẽ, hưởng thụ vật dụng được cúng, và nhân danh thượng đế để đòi hỏi này nọ. Người Á châu bản tính không thích hoài nghi, chấp nhận việc các tu sĩ nói ra ý muốn của thượng đế, và tuân hành triệt để. Cũng vì thế, các tài liệu tôn giáo Ấn độ đã bị sửa đổi rất nhiều, không phân biệt được điều có thật với những sự kiện huyền hoặc. Các tu sĩ tha hồ trích dẫn những câu nói bí ẩn, và giảng ra theo ý nghĩa có lợi nhất cho họ. Xứ Ấn độ phân biệt giai cấp rõ ràng, tu sĩ luôn đứng hàng đầu trên cả vua chúa, quý phái. Giai cấp tu sĩ không làm gì, chỉ hưởng thụ và các giai cấp khác có bổn phận phải cung cấp các nhu cầu đòi hỏi của tu sĩ. Cũng vì không làm gì, quá nhàn hạ, họ đâm ra chống báng , đả kích lẫn nhau. Mỗi người tự lập một giáo phái, xưng hùng, xưng bá, giảng kinh điển theo quan niệm của mình từ cụ thể đến trừu tượng, như Thời gian luận, Phương hướng luận, Đa nguyên luận…Không ai chịu theo ai, và còn tranh luận lung tung khiến các tín đồ không còn biết đâu mà lần. Cũng vì xã hội nghèo đói, rối ren, tinh thần lại điên đảo bởi các tà thuyết, nên từ bao năm nay, Ấn độ không sao trở nên một quốc gia hùng cường, thịnh vượng như các xứ khác. Tuy thế, với gia tài minh triết lớn lao tiềm ẩn, vẫn có các bậc chân tu đạo hạnh, sống kín đáo để giữ cho ngọn lửa tâm linh luôn cháy sáng và vẫn có những người tha thiết mong cầu chân lý, sẵn sàng từ bỏ tất cả để đi tìm chân lý. Sự kiện từ bỏ tất cả để đi tìm đạo cũng là một nét rất đặc biệt của Á châu, vì người Âu Mỹ khó có thể chấp nhận vấn đề từ bỏ của cải, vật chất, để chạy theo một viễn ảnh trừu tượng, viễn vông, không thiết thực. Người Âu cả quyết rằng sự tìm kiếm chân lý là vô ích, hạnh phúc là hưởng thụ tất cả những gì cuộc đời có thể mang lại vì chết là hết! Nếu như thế, thì mục đích cuộc đời là gì ? Tại sao chúng ta lại sinh ra để chết ? Văn hoá Âu tây đã không giải thích được vấn đề này một cách rốt ráo. Biết bao nhà triết học nổi danh đã nhức óc về đề tài này, nhưng đa số đều chỉ nói một cách quanh co, không đi đến một kết luận nào chắc chắn. Họ chỉ nói rằng có thể như thế này, hay cũng có thể như thế khác mà thôi. Cho đến khi người Âu thật sự giao tiếp với người Á châu, thì họ bỗng bật ngửa, vì tất cả những gì họ thắc mắc thì người Á châu đã có những câu trả lời từ nhiều ngàn năm về trước. Lịch sử đã ghi nhận có những người Âu đến viếng thăm Á châu và say mê nền minh triết xứ này, đến nổi quên cả mục đích chính của chuyến đi. Điển hình là đại đế Alexander xứ Hy Lạp, vị hoàng đế, bách chiến bách thắng đã chinh phục thế giới, dẹp tan Ai cập, quét sạch Ba tư , mở rộng bờ cỏi đến tận Ấn độ dương. Khi đến Ấn độ, ông là một kẻ chinh phục, oai danh lừng lẫy nhưng khi trở về nước, ông đã trở nên một triết gia khiêm tốn, nhã nhặn. Hoàng đế Alexander, học trò của hiền triết Aristotle đã bị các bậc hiền giả xứ Ấn chinh phục. Khi dẹp tan các đạo binh của hoàng đế Ấn độ, Alexander cho mang tất cả những tướng chỉ huy xứ Ấn đến hạch hỏi. Ông vua kiêu căng lớn tiếng, “Thua trận như vậy, các người đã chịu phục ta chưa ?”. Nếu là trường hợp các quốc gia khác, thì vua chúa đều quỳ mọp xin tha tội, và xin thần phục trước sức mạnh của Hy Lạp. Nhà chỉ huy xứ Ấn đã dõng dạc trả lời, “Nhà ngươi chỉ là một kẻ vũ phu, tàn ác làm sao ta phục cho được. Người có thể thắng bằng quân sự, nhưng cai trị thế nào nổi dân của ta?” Alexander nổi giận, “Ta đã cai trị toàn thế giới, có nước nào không phục tài ta, nơi nào làm phản, ta giêt trọn cả nước. Ngươi không thấy các đại cường quốc như Ai cập, Ba tư còn xin thần phục huống chi Ấn độ yếu đuối ?” Vị chỉ huy xứ Ấn bật cười, “Chinh phục bàng sức mạnh quân sự thì dễ, chứ chinh phục nhân tâm còn khó gấp trăm ngàn lần. Một kẻ vũ phu như ngươi, làm sao có thể cai trị được Ấn độ ?” Câu nói bất ngờ làm đại đế Alexander giật mình. Nên nhớ, ông là một hoàng đế văn võ toàn tài, chứ không phải là một kẻ chỉ ỷ vào sức mạnh. Từ nhỏ, ông đã được giáo dục bởi các bậc hiền triết Hy Lạp và năm 14 tuổi, ông đã đem quân chinh phạt khắp Địa trung hải, tạo các chiến công hiển hách. Ông theo học với triết gia Aristotle và lúc nào cũng có vài chục hiền giả chung quanh để thảo luận. Câu nói của vị tướng lãnh chỉ huy xứ Ấn, làm ông suy nghĩ. Thay vì ra lệnh giết ngay viên tướng này để làm gương, ông đã không giận dữ, lại còn mang ngay đề tài chinh phục nhân tâm ra thảo luận với y. Trong suốt lịch sử Âu châu, chỉ có Alexander là hoàng đế duy nhất đã tranh luận ôn tồn cho đến khi kẻ thù kính phục mới thôi. Chi tiết cuộc thảo luận này ra sao, không thấy lịch sử ghi chép nhưng chỉ ít lâu sau, hoàng đế Alexander đã cho mời các bậc hiền triết xứ Ấn đến thảo luận với các học giả Hy Lạp vẫn tháp tùng theo đoàn viễn chinh. Chỉ một thời gian ngắn, Alexander nhận thấy các triết gia Hy Lạp không thể sánh kịp với các hiền giả Ấn độ. Nhà vua bèn đổi thái độ, lấy lễ nghĩa đối xử với các vị này. Thay vì cai trị bằng sức mạnh như vẫn làm với các quốc gia khác, ông ghi nhận những lời khuyên của các bậc hiền triết, tôn trọng quyền lợi dân chúng xứ này. Đoàn quân viễn chinh ngừng lại, không đi sâu vào nội địa xứ Ấn, để ông có thời gian học hỏi, đàm đạo với các bậc thánh nhân, hiền triết. Các cuộc thảo luận nhiều khi kéo dài đến cả tuần lễ, có khi cả tháng. Sau đó, ông đã ra lệnh rút binh trở về Hy Lạp, vì giấc mộng bá vương không còn nữa. Ông dự định sẽ cải tổ lại guồng máy cai trị thế giới theo gương Ấn độ. Tiếc thay, nhà vua lại chết sớm khi chưa đầy 30 tuổi. Một sử gia đã than, “Nếu Alexander sống lâu thêm ít năm nữa, thì biết đâu lịch sử Tây phương đã khác hẳn. Trong các hiền triết nổi danh, Ramakrishna được coi là một vị thánh của Ấn giáo. Danh tiếng ông này vang sang tận Âu châu. Phái đoàn tìm đến đức Mahayasa, môn đệ của ông này đang tu ở một ngôi đền gần đó. Ngang qua một khoảng sân nhỏ đến một căn phòng kiến trúc kiểu xưa, cổ kính. Mọi người được mời ngồi xuống thảm. Khoảng vài phút sau, có tiếng chân người chậm rãi bước lại, đó là một ông lão khoẻ mạnh, râu dài trắng phếu, dung mạo nghiêm trang, và đôi mắt chói sáng toả ra một cái gì thánh thiện, khiến mọi người có cảm giác rung động lạ thường. Giaó sư Evans-Wentz lên tiếng bày tỏ mục địch của phái đoàn, Mahayasa mỉm cười : - Ơn trên đã dẫn dắt các ông đến đây, các ông sẽ có dịp tiếp xúc nhiều với những bậc hiền triết xứ này. Ơn trên có một mục đích rõ ràng rồi các ông sẽ thấy. - Chúng tôi nghe nói nhiều về đạo sư Ramakrishna, ông có thể cho chúng tôi biết thêm về ngài không ? - Tôi rất thích nói về ngài. Ngài mất đã nửa thế kỷ rồi, nhưng vẫn còn lưu lại nhiều kỷ niệm linh động trong lòng tôi. Tôi gặp ngài hồi 27 tuổi, và luôn luôn ở bên ngài, cho đến những ngày cuối cùng. Nhờ ngài, tôi đã trở thành một con người mới, và quan niệm của tôi đối với cuộc đời cũng thay đổi hẳn. Ảnh hưởng của ngài thật sâu đậm, ai đến với ngài cũng được cảm hoá như vậy, kể cả những kẻ hoài nghi, chế nhạo… - Nhưng nếu người ta không tin, làm sao người ta có thể được cảm hoá ? Đức Mahayasa mỉm cười: - Trước ảnh hưởng an lành toả ra từ con người thánh thiện của đức Ramakrishna dù có hoài nghi thế nào, người ta cũng thấy thanh thoát. Giaó sư Allen rụt rè : - Chúng tôi được biết ngài rất ít học. - Đúng thế, ngài là con người đơn giản, biết ít, học ít, nhưng ngay cả những bậc học rộng , tài cao của Ấn độ đều ngưỡng mộ ngài. Họ cúi đầu trước hào quang tâm linh của ngài. Ngài vẫn dạy rằng tiền bạc, chức tước, địa vị chẳng qua chỉ là phù vân, hư ảo trước các giá trị tâm linh… - Nhưng người Âu không thể hiểu tại sao những vua chúa, học giả nổi tiếng lại có thể cúi đầu trưóoc một người không học hết bậc trung học. Đức Mahayasa mỉm cười : - Sở dĩ họ không hiểu được, vì họ quan niệm đạo sư phải là người có bằng cấp, tốt nghiệp những đại học nổi tiếng, có tài ăn nói hấp dẫn. Quan niệm người Ấn không như vậy. Một đạo sư không nhất thiết phải tốt nghiệp trường học chuyên môn, viết những sách vở cao siêu, mà ở những điều ngài khêu gợi, thức tỉnh tâm thức được cho mình. Có gần ngài, mới hiểu thế nào là bình an. Những ngày bên ngài tốt đẹp biết bao. Ngài thường đắm mình trong những cơn thiền định sâu xa, khiến chúng tôi có cảm tưởng như tiếp xúc với một vị thánh hơn một người phàm. Tôi xin kể cho các ông về cảm tưởng của tôi. Tôi được giáo dục theo phương pháp Âu tây, tôi rất tự đắc được đọc nhiều biết rộng hơn những người chung quanh. Khi đó tôi là giáo sư dạy Anh ngữ cho trường trung học ở Calcutta. Đức Ramakrishna tu ở đạo viện Dakshinewar cách đó không xa. Một hôm, tôi theo các bạn đến nghe ngài thuyết giảng, thực ra tôi có ý muốn biện luận với một vị, được dân chúng coi là thánh nhân, hơn là muốn nghe giảng. Nhưng một sự lạ lùng đã xảy ra, khi vừa nghe những lời nói của ngài, tôithấy trong lòng rộn rã một cảm giác lạ lùng, yên tĩnh. Ngài không nói bằng ngôn ngữ thông thường, sử dụng các danh từ bóng bẩy như tôi nghĩ, mà bằng tiếng nói của trái tim. Tôi say mê uống những lời giảng giản dị, chân thành như người khát nước lâu ngày, sau đó, tuần nào tôi cũng đến nghe giảng. Một thời gian sau, tôi được ngài thu nhận làm đệ tử, chính ngài khuyên tôi, “Xem tướng, thầy biết con sẽ trở nên một tu sĩ (Yogi). Con hãy làm tròn công việc hàng ngày của mình với đời. Nhưng tâm hồn lúc nào cũng tưởng nhớ đến thượng đế.” - Chúng tôi nghe nói về Ramakrishna ngay từ khi còn ở Âu châu, nhưng dư luận người Anh có lẽ không hiểu rõ về ngài, ngoại trừ việc ngài là một người không có học thức… Mahayasa gật đầu mỉm cười : - Theo sự hiểu biết của tôi, sở dĩ ngài không thích học vì bản tính ngài thiên hẳn về vấn đề tâm linh. Một người như thế tất nhiên không để ý đến những từ chương , bằng cấp hay quyền quí, danh lợi. Năm ngài bắt đầu vào tuổi thanh niên, một sự lạ xảy ra. Tuổi 16,17 là lúc đứa trẻ thường bị khủng hoảng hoặc thay đổi tâm tính nhất là trên phương diện tình ái. Đối với người cao thượng, đó là lúc mở màn cho một đời sống thật sự với sự phát triển các năng khiếu tâm linh siêu việt. Sự mở màn ấy bắt đầu vói sự hoảng hốt trước cái chết. Đa số con người ít nhiều cũng đã nghĩ đến sự chết nhưng họ chỉ nghĩ một lát rồi quên ngay, ít ai chịu tìm hiểu sâu xa. Các bậc hiền triết thì khác, họ tận lực tìm hiểu thế nào là sự chết, đức Ramakrishna cũng phản ứng như vậy, ngài suy ngẫm, “cái gì là chết? Thể xác này chết nhưng còn tôi, tôi có chết không ? Nếu tôi là thể xác này, tôi chết nhưng tôi có phải là thể xác này không ? Nếu tôi không là thể xác này, tôi sẽ không chết, nhưng làm sao tìm ra điều này? Chỉ có một cách là kinh nghiệm sự chết”. Sau đó, ngài quyết tâm tham thiền, suy gẫm về đề tài này. Ngài tưởng tượng thân thể ngài đã chết, không còn thở, không còn cảm xúc. Với một ý chí mãnh liệt, ngài rút hết sinh lực ra khỏi thể xác và một ngày kia ngài thành công. Thân thể ngài cứng đơ, bất động như người chết, nhưng ngay lúc đó một quyền lực khôn tả phát ra từ đáy lòng và tràn ngập tâm tư ngài. Chuyện gì xảy ra sau đó, không thấy ngài nói đến nhưng chúng ta có thể đoán ra, xuyên qua lời dạy của ngài. Chúng ta có thể nghĩ rằng quyền lực ấy là cái mà ta gọi là Ân huệ, và khi được mặc khải đó thì ta tiến sâu vào nguồn sống để hoà hợp với đấng vô cùng. Ngài đã hợp nhất với Chân Ngã. Từ đó, ngài kinh nghiệm rằng Chân Ngã ngự sâu trong lòng nhưng ngài chưa kinh nghiệm được một chân lý khác. Chân Ngã là sự thật duy nhất, ngoài sự thật đó không có gì nữa cả. Khi tiến sâu vào nội tâm, ngài thấy sự bình an nhưng khi ngài tỉnh dậy, ngài vẫn không thoả mãn vì điều ngài mới đạt đến chỉ là sự bình an của các vị thánh. Ngài ra tâm suy gẫm về cảm giác thiếu thốn này, thân thể ngài khi đó thường nóng hực kéo dài trong nhiều tháng. Dĩ nhiên ,những người chung quanh không hiểu, và cho rằng ngài mắc bệnh. Ngài đắm mình trong trạng thái Vô Ngã rất lâu, không màng đến những việc chung quanh. Chú của ngài không hiểu, nên thường trách mắng ngài lười biếng, không chịu học hành. Một hôm, ngài nghe nói đến ngôi đền Dakshiniwar, danh từ này có một sức hấp dẫn lạ lùng, thế là ngài quyết định đến đó. Đến nơi, ngài bước ngay đến trước tượng Shiva và nói, “Hỡi cha, cha đã gọi, nay con đến với cha.” Ngay lúc đó các cảm giác nóng hực, thiếu thốn hoàn toàn biến mất. Ngài chứng nghiệm được một chân lý mới, cha ta và ta là một. Từ đó ngài không cần tĩnh tâm mới có cảm giác an lạc, mà lúc nào cũng ở trạng thái này. Ramakrishna bị rất nhiều thử thách. Bị trẻ con chọc phá và các tu sĩ khác dèm pha, gây hấn, nhưng lòng ngài lúc nào cũng bình thản, lặng yên, không một chút vọng động. Kinh Gita dạy rằng một khi đã đạt đến trạng thái Vô Ngã, lòng người không còn bị xao động bởi các sự kiện bên ngoài, dù khắc khe, đau khổ đến đâu. Một sự an lạc tràn ngập thân ngài lôi cuốn những người chung quanh khiến họ khâm phục, kính mến và số người này mỗi ngày một đông. Một điều cần lưu ý là ngài không học hay đọc những sách vở gì về trạng thái Vô Ngã mà ngài đạt được lúc thanh xuân. Cũng không ai chỉ dẫn ngài về trạng thái siêu việt này. Nhưng mỗi khi tín đồ nhờ ngài giảng giải một đoạn kinh sách gì, ngài mới đọc và thông hiểu nó một cách dễ dàng. Các sách vở đó rất ư khó hiểu, nhưng ngài chỉ đọc lướt qua đã quán triệt được ngay, vì ngài đã chứng nghiệm được những điều nói trong sách đó. Ngài dạy đạo bằng sự lặng thinh hơn là lời nói, nhiều người đến với ngài để chất vấn, nhưng khi vừa gặp ngài thì mọi thắc mắc tự nhiên tiêu tan như đã được phúc đáp. Nếu một câu hỏi đặt ra, ngài thường trả lời một cách dịu dàng, vắn tắt, dễ hiểu. Ngài không viết sách như những đạo sư khác, mà chỉ dạy đạo qua cử chỉ yên lặng hay vài câu nói giản dị. Môn đệ của ngài đến từ khắp xứ và tuỳ theo căn cơ lãnh hội ít hay nhiều. Ý kiến của họ vê ngài tuy khác nhau, nhưng ai cũng nhìn nhận ngài là một đạo sư vào bậc nhất, và hết sức kính mến ngài. Vì đã đạt trạng thái Vô Ngã, Ramakrishna không phân biệt giữa ngài và những người khác, giữa người giàu, kẻ nghèo, hay nam nữ, đối với ngài, tất cả đều bình đẳng tuyệt đối kể cả những loài cầm thú. - Vì Ramakrishna không hề để lại sách vở, giáo lý, nên người Âu không hiểu tại sao ngài lại nổi tiếng như vậy? Ông có thể cho chúng tôi biết một chút về giáo lý của ngài không ? Mahayasa mỉm cười : - Sau khi ngài qua đời, nhiều đệ tử đã xuất gia để truyền bá giáo lý, riêng tôi vẫn còn là cư sĩ, hàng ngày tôi vẫn đi làm nhưng sống giữa cõi đời, mà tôi không còn tuỳ thuộc vào đời. Tôi còn nhớ rõ một lần ngài đã dạy như sau, “chúng ta xông pha trong cuộc đời với ý niệm cho rằng ta có thể tìm hạnh phúc trong cõi đời. Cho đến lúc gần đất, xa trời, nhiều người cũng không buồn hỏi rằng ý niệm đó có đúng không ? Thật sự là chúng ta chả bao giờ chịu ngừng lại để suy nghĩ, lúc nào chúng ta cũng nghĩ rằng mình gần đạt được những điều mình mong mỏi. Chúng ta chỉ chịu dừng chân khi nào bị cuộc đời hắt hủi, giày vò. Ramakrishna cho rằng đó là việc dĩ nhiên, và giải thích bằng giấc mộng . Trong giấc mộng, nếu ta chỉ gặp những điều thích thú, chúng ta vẫn mơ mộng mãi và chỉ giật mình tỉnh giấc khi gặp những chuyện đau buồn. Một cuộc đời êm đẹp không tiện cho sự suy tư về các vấn đề quan trọng, nhưng nếu là mộng thì chắc chắn cũng phải có lúc tỉnh. Trong nhiều năm ròng rã, chúng ta cố tìm hạnh phúc, và nhiều lần tưởng đã đạt được nó để hưởng một cách lâu bền. Nhưng lần nào ta cũng thất vọng. Sau đó, ta lại tiếp tục chạy theo ảo ảnh đó như trước. Nếu biết dừng chân suy nghĩ, ta sẽ thấy chúng ta đuổi theo hạnh phúc nhưng không hề biết đến bản chất thật sự của nó , và không biết phải dùng phương tiện nào để đạt nó. Hãy thử tìm hiểu thế nào là hạnh phúc. Ai cũng biết đặc tính của hạnh phúc là “thường hằng”, nghĩa là nó ở mãi với ta; suốt đời ta lúc nào cũng vui sướng, tươi tắn. Nhưng tất cả những gì cuộc đời mang lại cho ta đều là vô thường, chỉ có những khoái cảm nhất thời, chứ có gì lâu bền đâu. Vì khoái cảm nhiều và đến với ta như dòng nước chảy, chúng ta tưởng nó là hạnh phúc và kết luận rằng bao giờ dòng khoái cảm đó còn tiếp tục đến với ta, chúng ta được hưởng hạnh phúc. Suy gẫm kỹ thì khoái cảm chẳng qua chỉ là phản ứng của lòng ta trước sự vật bên ngoài, nó lôi cuốn chúng ta. Các sự vật này khi thì tạo vui, lúc thì gây khổ. Hơn nữa cùng một sự vật mà có thể tạo vui hay gây khổ tuỳ lúc, bởi thế ta phải nhận thức rằng “Hạnh phúc” không có ở sự vật bên ngoài. Nếu nó là sự vật bên ngoài, chúng ta phải càng có hạnh phúc khi càng có nhiều sự vật mới đúng chứ. Thật sự, người giàu có, lắm sự vật, chưa chắc đã hạnh phúc hơn kẻ nghèo. Nói cách khác, kẻ nghèo ít của cải, chưa chắc thiếu hạnh phúc hơn người giàu. Tóm lại, chúng ta thấy rõ ràng mình theo đuổi hạnh phúc nhưng không biết thế nào là hạnh phúc và cũng chả biết phải dùng cách nào để đạt hạnh phúc ?!! Những người tìm hiểu một cách chân thành sớm muộn gì cũng thấy rằng hạnh phúc nằm ở ngay nội tâm ta. Các khoái cảm không có tính cách tư hữu, mà chỉ là một tia nhỏ của hạnh phúc chân thật thuộc bản tính tự nhiên của con người ,bị che lấp bởi vô minh. Một con chó gậm xương bị trầy miệng, chảy máu nó lại tưởng rằng máu phát xuất từ khúc xương. Chúng ta cũng thế cứ tưởng sẽ được hạnh phúc khi chạy theo những vật ngoại giới. Có lẽ các ông khó chấp nhận quan niệm này, nhưng ít ra cũng tin rằng những nỗi vui hay buồn tuỳ ở chúng ta nhiều hơn là sự vật bên ngoài. Dù sao, sự chấp nhận này cũng chưa đủ đem lại cho ta hạnh phúc, vì có hai nỗi đe doạ : sự ham muốn và sợ hãi. Chúng ta càng ham muốn thì càng sợ hãi, và càng sợ hãi lại càng đau khổ. Thay vì diệt trừ những đe doạ này, chúng ta lại quỳ luỵ chúng . Khi ham muốn lên tiếng, “hãy đạt được vật đó đi, rồi sẽ sung sướng”, thì chúng ta tin tưởng và tìm mọi cách đạt kỳ được vật đó. Nếu chúng ta không đạt được, thì chúng ta đau khổ, mà nếu đạt được thì ham muốn lại thúc dục ta tìm đến một vật khác nữa. Thế mà chúng ta vẫn không thấy mình bị lừa gạt chút nào mới lạ, quả là ham muốn như lửa đỏ, càng cháy dữ khi càng đổ thêm dầu. Bao giờ chúng ta là nô lệ của dục vọng, chúng ta không sao đạt được hạnh phúc. Nếu đạt được lại sợ mất đi, càng có nhiều càng lo sợ nhiều, có đúng thế không ? Tóm lại, muốn có hạnh phúc thật sự, phải vượt lên khỏi sợ hãi và ham muốn. Đức Mahayasa im lặng như đắm chìm vào một quá khứ rồi tiếp tục : - Đến đây chúng ta cần được một vị thầy hướng dẫn thêm. Người này phải hiểu rõ hạnh phúc ở đâu, phải theo đường lối nào. Người này phải thắng được các đe doạ như sợ hãi, ham muốn, và thật sự đã đạt được niềm hạnh phúc vô biên; như vậy mới có đủ kinh nghiệm dìu dắt chúng ta. Như con bệnh phải đi tìm danh y thì kẻ cầu đạo cần một vị thầy. Ramakrishna chính là vị thầy mà tôi gặp. Kinh sách xưa xác nhận sự minh triết có thể giúp con người thoát khỏi khổ đau, nhưng ta không thể tìm nó bằng lý luận hay trong sách vở. Trong quá khứ, đã có những bậc đạo sư như đức Phật, đấng Christ đã tìm được hạnh phúc và hướng dẫn những kẻ khác. Sau khi các ngài tịch diệt, môn đệ có trình bày giáo lý của các ngài trong kinh sách, nhưng dù sao đi nữa, kinh sách cũng có những khiếm khuyết, ngôn ngữ làm sao diễn tả hết được, làm sao bằng lời những vị đạo sư hãy còn sống bên cạnh chúng ta. Ramakrishna đã dạy rằng, nguyên nhân các đau khổ đều ở trong ta chứ không phải ở bên ngoài. Có người hỏi thế giới chúng ta đang sống có điều gì xấu xa không? Thì ngài đã trả lời rằng nó rất tốt đẹp, có xấu xa chăng là lòng người, vì con người đã hiểu sainó. Công việc của chúng ta hiện nay là phải đi ngược dòng tìm cho ra sự sai lầm nguyên thuỷ để diệt trừ nó, thì mọi việc sẽ tốt đẹp… Phát giác và trừ tuyệt cái sai lầm căn bản là phương thuốc chánh, tất cả phương tiện khác đều chỉ là tạm bợ. Nhiều lắm là chúng giúp ta tìm ra phương thuốc nói trên. Đó là giá trị của các tôn giáo, các nghi lễ, tiếc thay tôn giáo hay gây sự chia rẽ, đôi khi còn làm cho tâm trí suy kém, cản trở bước tiến của tín đồ. Có người đã hỏi tại sao con người luôn luôn đau khổ, sợ hãi, thì ngài trả lời rằng, sự kiện đó là do lầm lạc phát sinh, từ sự thiếu hiểu biết chính mình. Có nhiều người, họ biết mình rất rõ ràng, hoặc lại cho rằng điều này không cần thiết, vì trong đời sống hàng ngày đầy rẫy những phức tạp, điểu ta cần khai thác là làm gì cho có lợi, kiếm được thật nhiều tiền. Để khai thác, con người gán cho kiến thức một giá trị quá mức, như bắt mọi người phải đến trưòong. Từ xưa đến nay nhân loại thu thập biết bao kiến thức nào là sử ký, địa dư, thiên văn, vật lý, triết học và siêu hình học nữa… Nếu những kiến thức này là sự hiểu biết đứng đắn thì nó phải đem lại hạnh phúc cho nhân loại chứ. Sự thật lại khác hẳn, chúng ta học cách chế ngự quyền lực thiên nhiên, đi ngược luật tạo hoá, khiến cho xã hội càng ngày càng đau khổ, bất mãn thêm. Sự chế ngự này, con đẻ của khoa học chỉ đem lại lợi ích cho một thiểu số thôi. Do đó, lắm kẻ giàu sang sung sướng nhưng vẫn không sao hạnh phúc được trước khổ đau của đa số. Tóm lại, khoa học đã tạo cho con người nhiều khó khăn hơn là giải quyết các điều kiện căn bản của cuộc sống. Đức Mahayasa nhìn mọi người trong phái đoàn, rồi tiếp tục : - Đã có một giáo sư đại học hỏi Ramakrishna về bức tường vô minh mà khoa học không sao vượt qua được. Họ biết các vật vi tế như nguyên tử, điện tử nhưng đó cũng chỉ qua sự ức đoán mà thôi, không phải biết một cách trực tiếp. Họ cũng biết các vật vĩ đại như các dãy thiên hà nhưng cũng chỉ ngưng ở đây thôi. Ngài đã trả lời rằng, ngoại cảnh chỉ đưa con người tới chỗ vô minh mà thôi. Theo ngài, nếu nhân loại cố tìm tòi những gì káhc hơn là bản chất con người thì những kiến thức ấy không phải sự hiểu biết thật sự. Lời nói này có vẻ làm giảm giá trị của khoa học, nhưng nếu suy nghĩ kỹ ta thấy ngài rất có lý. Sự hiểu biết về khoa học hiện nay còn nhiều điểm đáng nghi. Các khoa học gia vẫn còn bất đồng ý kiến về một chuyện gì, thì quần chúng đã lên tiếng ủng hộ, do đó những người bất đồng ý kiến cũng phải im, dù có thể họ rất có lý và số đông đã sai. Trong phạm vi khoa học, cũng như triết học và tôn giáo, ý kiến thưòong sai biệt ít nhiều, tuỳ tâm trí nhà bác học. Sự tìm hiểu chân lý bắt buộc một học giả phải có những đức tính cao quý vì tâm trí học giả có một ảnh hưởng to lớn trong sự tìm hiểu và sự hiểu biết chỉ cóthể xem như một chánh keí6n, khi người tìm kiếm có đủ tư cách. Vì thế khoa học đã vấp nhiều lỗi lầm khó sửa. Sự thất bại của khoa học phát sinh từ một lầm lỗi nguyên thuỷ là các bác học tưởng mình đã biết, không cần sự tự biết mình. Trong cả hai trường hợp, họ bắt đầu cuộc đi tìm với những thành kiến sai lầm về bản chất của họ. Do đó, những điều họ tìm ra dù có giá trị vẫn bắt đầu từ những sai lầm căn bản, hậu quả là khoa học ngày nay đã đưa nhân loại đến những hố thẳm, thay vì chân trời sáng lạng. Một hôm có tín đồ đến hỏi Ramakrishna về các thần tượng mà họ không thích. Họ muốn ngài chấp nhận ý kiến của họ là không nên thờ thượng đế dưới hình thức thần tượng. Một người hỏi ngài : - Thượng đế có sắc tướng không?. Ngài đáp: - “Ai nói rằng thượng đế có sắc tướng. - “Nếu thượng đế không có sắc tướng thì tại sao lại thờ ngài trong các hình tượng làm gì ? - Chúng ta hãy để thượng đế sang một bên, và xin anh cho tôi biết anh có sắc tướng không ? - Dĩ nhiên là có chứ, hãy nhìn thân thể này… - Nhưng anh có phải cái xác thân đen xám, râu tóc xồm xoàm này không? - Dĩ nhiên tôi là xác thân này chứ còn gì nữa. - Trong lúc ngủ say, không mơ mộng, anh có phải là nó không? - Có chứ, vì khi thức dậy tôi thấy tôi đâu thay đổi gì. - Và rồi khi anh chết. - Thì tôi cũng còn là nó. - Vậy thì tại sao khi người ta hoả thiêu nó, nó không nói nó không chịu đi, và muốn ở lại nhà ? Khi người này ý thức rằng mình đã sai và đáp rằng : - Tôi không phải là thể xác này, mà là sự sống trong nó. - Anh hãy suy gẫm kỹ về điều này. Hồi nãy anh nói rằng anh là thể xác này. Bây giờ anh lại nói rằng không phải. Cho mình là xác thân này là một lỗi lầm nguyên thuỷ. Bao giờ sự sai lầm này còn, dù anh nói thượng đế có sắc tướng hay không cũng không ăn thua gì . Khi sự sai lầm này được đánh tan thì mọi việc sẽ sáng tỏ. Tóm lại, theo Ramakrishna thì nguyên nhân của sợ hãi, dục vọng, ham muốn là do sai lầm đầu tiên, tự cho mình là xác thân này, vì sợ hãi hay ham muốn đều bắt đầu từ thể xác này. Dĩ nhiên, rất nhiều người cũng đồng ý như thế , và tin rằng con người không phải là thể xác mà là một sự sống trường cửu. Sách vở cũng nói như thế rất nhiều. Nhưng trong đời sống thực tế, họ có làm gì khác đâu. Lúc đầu họ nghĩ rằng nhờ kiến thức thu thập, hiểu biết các chân lý cao siêu họ sẽ khác người thường. Nhưng tại sao họ vẫn hành động y như họ là thể xác này vậy? Nếu xác thân họ nhỏ bé, họ cho rằng mình bé nhỏ. Nếu xác thân họ to lớn, đẹp đẽ, họ cho rằng mình lớn đẹp. Nếu xác thân họ ốm đau, họ cho rang mình bệnh hoạn. Nếu tư tưởng họ phong phú, họ cho rằng mình thông minh….Tóm lại, sự sợ hãi và dục vọng vẫn y như xưa, có thể lại còn gia tăng hơn vì họ hãnh diện về sự hiểu biết của mình hơn xưa. Nói một cách khác, sở dĩ họ làm thế, vì chưa chứng nghiệm được con người thật của mình, sự sai lầm nguyên thuỷ vẫn còn tác động mạnh mẽ nơi họ. Kiến thức của họ chưa tạo được một sự biến chuyển thật sự…. Ramakrishna đã dạy rằng, kiến thức về tâm linh thu thập qua sách vở thường tai hại hơn là một người thất học, dốt nát. Những người kiến văn quảng bác, lịch thiệp, bằng cấp, danh vọng thường ích kỷ, lại còn ngạo mạn, họ cho rằng mình biết nhiều, hiểu nhiều, và không chịu tìm hiểu, thực hành đào sâu vào thêm nữa. Đó là sự hiểu biết hời hợt qua sách vở, chứ đâu phải là một chứng nghiệm nội tâm. Sách vở chỉ là la-bàn hướng dẫn, chứ đâu phải minh triết thật sự. Sự thu thập kiến thức kiểu này, tạo nên tình trạng hỗn độn trong triết lý và thần học. Các triết gia và nhà thần học đã thảo luận không ngừng về những vấn đề khó khăn, như nguyên nhân đầu tiên, sự thật cuối cùng, bản chất thời gian, định mệnh con người, tự do, giải thoát, v..v… và chả đạt đến một kết quả nào. Các bậc hiền triết đứng bên ngoài cuộc thảo luận đó, vì họ có lối giải quyết riêng , trái với các giải pháp trí thức. Thay vì thảo luận, họ cố khám phá lấy sự thật, và khi tìm ra sự thật, các vấn đề trên sẽ đương nhiên được giải quyết. Nói đến đây, đức Mahayasa lặng yên chìm đắm trong một không khí êm đềm nào đó. Giaó sư Evans-Wentz cố gắng : - Nhưng con người không thể sốgn bằng đức tin, mà còn phải thoả mãn lý trí nữa, đối với những người thiên về lý trí, không biết ngài nghĩ sao ? Mahayasa mỉm cười : - Nếu thầy tôi Ramakrishna còn sống có lẽ ngài sẽ khuyên ông nên cầu nguyện. - Tại sao như vậy ? - Cầu nguyện là phương tiện cuối cùng của con người. Khi nào lý luận tỏ ra bất lực thì sự cầu nguyện sẽ bổ sung , phù trì, cứu độ… - Nhưng nếu tôi không thể cầu nguyện thì phải làm sao ? Đức Mahayasa nhìn giáo sư Wentz, ánh mắt ngài long lanh một niềm ưu ái : - Ông nên tiếp xúc với các bậc chân tu, các vị này sẽ hướng dẫn tâm hồn ông lên cõi thiêng liêng, và thức động các khả năng thiêng liêng nhất của ông. Có lẻ ông cần một vị thầy. Nguon:quehuongyeudau.blogtiengviet.net
-
Dịch Lý, Tử Vi, Phong Thủy và Tướng Mệnh là những khoa học huyền bí nhưng lại rất sát thực với cuộc sống hiện tại và giúp ích cho chúng ta rất nhiều trong những sinh hoạt hằng ngày. Chẳng hạn, khoa Phong Thủy giúp cho chúng ta khi đang sống trên đời biết chọn lựa, điều chỉnh, sửa đổi cho tốt đẹp hơn căn nhà chúng ta đang ở, cơ sở thương mãi chúng ta đang điều hành, và khi chúng ta buông tay từ giã cõi đời thì cũng biết chọn lựa một nơi để yên giấc ngàn thu. Quan niệm này rất quan trọng đối với người xưa, vì đây không phải cho chính bản thân chúng ta nữa mà cho con cháu chúng ta sau này. Chẳng hạn, vua Gia Long khi còn tại vị, ngài đã đích thân chọn địa điểm để xây lăng cho mình, bởi vậy, những triều vua về sau, tuy không có mấy ai tài giỏi như vua Gia Long, lại thêm lịch sử đã có nhiều biến chuyển, nhưng nhà Nguyễn vẫn kéo dài được hơn 150 năm. Khoa Tướng Mệnh giúp chúng ta biết người, biết ta trong vấn đề dùng người, kết bạn hoặc trong những việc giao dịch hằng ngày rất dễ dàng, chỉ qua một cái bắt tay nhau, đối diện nhau trong vài giây phút hoặc trao đổi với nhau vài câu chuyện mà có thể tránh được “lầm người” như chúng ta thường thấy. Còn thâm sâu hơn, như khoa Tử Vi Đẩu Số cũng giúp cho chúng ta biết mình, biết người một cách tường tận từ những chi tiết nhỏ nhặt cho đến tổng quát cả một đời người... http://' target="_blank">Những khoa học huyền bí nêu trên tuy có đối tượng khác nhau, nhưng mục đích giống nhau, ví dụ, đối tượng của khoa Phong Thủy là nơi chúng ta ở, lúc sống là nhà, là cơ sở làm ăn, lúc chết là mộ phần, còn đối tượng của khoa Tử Vi Đẩu Số là con người. Còn điểm tương đồng là những lãnh vực mà các khoa này diễn đạt và chi phối trong cuộc sống hằng ngày của một đời người. Chẳng hạn, khoa Phong Thủy chia căn nhà của chúng ta ra làm 8 cung, mỗi cung là biểu tượng một lãnh vực trong đời sống hằng ngày của chúng ta, đó là các cung Quan Lộc, cung Học Vấn, cung Gia Đạo, cung Tài Lộc, cung Địa Vị, cung Tình Duyên, cung Tử Tức và cung Quý Nhân, mỗi cung là mỗi hướng của căn nhà. Khoa Tử Vi cũng diễn đạt đời người qua 12 cung, cung Mệnh, cung Phụ Mẫu, cung Phúc Đức, cung Điền Trạch, cung Quan Lộc, cung Nô Bộc, cung Thiên Di, cung Tật Ách, cung Tài Lộc, cung Tử Tức, Cung Phu Thê, và cung Huynh Đệ. Trong ba bộ môn, Tử Vi, Phong Thủy và Tướng Mệnh, thì Tử Vi là khoa nặng về thiên mệnh hơn cả. Khi nghiên cứu về khoa Tử Vi Đẩu Số, chúng ta sẽ thấy rằng, một người sinh ra đời vào giờ nào, tháng nào và năm nào thì cuộc đời của người này đã được an bài từ giây phút đó. Bởi vậy, chúng ta có thể nói, đời người mười hai bến nước, Thân cư bến nào thì cuộc đời của mình sẽ có sắc thái của bến mà thuyền đời mình đã buông neo. Tử Vi chia cuộc sống của một người thành 12 lãnh vực là chúng ta chưa diễn đạt rõ trong 12 lãnh vực này thì lãnh vực nào sẽ nỗi bật nhất trong cuộc đời của người ấy? Khoa Tử Vi diễn đạt điều này bằng cung thứ mười ba, đó là cung Thân. Cung Thân không có một vị trí nhất định trong Thiên Bàn của lá số như 12 cung đã nêu trên, mà vị trí của cung Thân tùy thuộc vào giờ sinh của mỗi người và cung Thân chỉ đóng vào 1 trong 6 cung chính yếu là cung Mệnh, cung Phúc Đức, cung Quan Lộc, cung Tài Lộc, cung Thiên Di và cung Phu Thê mà thôi. Điều này phản ảnh một nhân sinh quan hợp lý của xã hội phong kiến: cuộc đời một người lúc sinh ra đã bị chi phối bởi số mệnh của mình (Tân cư Mệnh- Thân Mệnh đồng cung), khi ra đời thì bị chi phối bởi xã hội (Di), bởi công danh sự nghiệp (Quan hay Tài), bởi vợ chồng (Phu Thê) và bởi phúc đức của chính mình tạo ra hoặc thừa hưởng của ông bà cha mẹ (Phúc), chứ không bị chi phối bởi con cái (Tử), anh chị em (Bào) hoặc bạn bè hay người ăn người làm của mình (Nô)... Khoa Tử Vi Đẩu Số cũng cho rằng, trong 13 cung của một lá số thì cung Mệnh và cung Thân là hai cung quan trọng nhất. Cung Mệnh nói lên nét tổng quát cả cuộc đời của người đó và nhấn mạnh giai đoạn khởi đầu của cuộc đời gọi là tiền vận, tức là từ lúc sinh ra cho đến đoạn đời trong khoảng 30 đến 36 tuổi và cung Thân là bức tranh của đoạn đời còn lại hay còn gọi là hậu vận. Bởi sự quan trọng của cung Thân như vậy, cho nên một nguyên tắc căn bản của khoa Tử Vi là: “Thân cư cung nào thì cung đó sẽ là lãnh vực sinh hoạt chính yếu trong cuộc đời của người đó”. Như chúng ta đã nói ở trên, Thân chỉ vào 1 trong 6 cung chính và theo giờ sinh, những người sinh vào giờ Tý và giờ Ngọ thì Thân đóng ở cung Mệnh, gọi là Thân cư Mệnh, hay Thân Mệnh đồng cung, giờ Sửu và giờ Mùi thì Thân cư Phúc Đức, giờ Dần và Thân thì Thân cư Quan Lộc, vào giờ Mão và giờ Dậu thì Thân cư Thiên Di, vào giờ Thìn và giờ Tuất thì Thân cư Tài Lộc, giờ Tỵ và giờ Hợi thì Thân cư Phu Thê. Nguon:quehuongyeudau.blogtiengviet.net
-
Lời nói đầu: Vấn đề cốt tử của cách lý giải Tử Vi là ở giờ, tuy nhiên hiện nay mỗi người mỗi cách vì xuất phát từ múi giờ địa lý, thêm vào đó lịch của "tiền nhân" bị thay đổi nhiều lần nên đã "tam sao thất bản". Theo kinh nghiệm của người viết (QHYD) thì lấy theo giờ của "Diễn cần tam thế" là chuẩn. Mọi người kiểm chứng và góp ý thêm nhé. Cảm ơn ***Tháng 1 và 9: Giờ Tý: 0,20- 2,20; Giờ Sửu: 2,20 -4,20; Giờ Dần: 4,20-6,20; Giờ Mão: 6,20-8,20; Giờ Thìn: 8,20-10,20; Giờ Tỵ: 10,00-12,20; Giờ Ngọ: 12,20-14,20; Giờ Mùi: 14,20-16,20; Giờ Thân: 16,20-18,20; Giờ Dậu: 18,20-0,20; Giờ Tuất: 20,20-22,20; Giờ Hợi:22,20-0,20 ***Tháng 2,8,10 và 12: Giờ Tý: 0,00-2,00; Giờ Sửu: 2,00-4,00; Giờ Dần: 4,00-6,00; Giờ Mão: 6,00-8,00; Giờ Thìn: 8,00-10,00; Giờ Tỵ: 10,00-12,00; Giờ Ngọ: 12,00-14,00; Giờ Mùi: 14,00-16,00; Giờ Thân: 16,00-18,00; Giờ Dậu: 18,00-20,00; Giờ Tuất: 20,00-22,00; Giờ Hợi: 22,00-24,00 ***Tháng 3 và 7: Giờ Tý: 0,30-2,30; Giờ Sửu: 2,30-4,30; Giờ Dần: 4,30-6,30; Giờ Mão: 6,30-8,30; Giờ Thìn: 8,30-10,30; Giờ Tỵ: 10,30-12,30; Giờ Ngọ: 12,30-14,30; Giờ Mùi: 14,30-16,30; Giờ Thân: 16,30-18,30; Giờ Dậu: 18,30-20,30; Giờ Tuất: 20,30-22,30; Giờ Hợi: 22,30-24,30 ***Tháng 4 và 6: Giờ Tý: 0,40-2,40; Giờ Sửu: 2,40-4,40; Giờ Dần: 4,40-6,40; Giờ Mão: 6,40-8,40; Giờ Thìn: 8,40-10,40; Giờ Tỵ: 10,40-12,40; Giờ Ngọ: 12,40-14,40; Giờ Mùi: 14,40-16,40; Giờ Thân:1 6,40-18,40; Giờ Dậu: 18,40-20,40; Giờ Tuất: 20,40-22,40; Giờ Hợi: 22,40-24,40 ***Tháng 5: Giờ Tý: 1,00-3,00; Giờ Sửu: 3,00-5,00;; Giờ Dần: 5,00-7,00; Giờ Mão: 7,00-9,00; Giờ Thìn: 9,00-11,00; Giờ Tỵ: 11,00-13,00; Giờ Ngọ: 13,00-15,00; Giờ Mùi: 15,00-17,00; Giờ Thân: 17,00-19,00; Giờ Dậu: 19,00-21,00; Giờ Tuất: 21,00-;3,00; Giờ Hợi: 23,00-1,00 ***Tháng 11: Giờ Tý: 1,40- 3,40; Giờ Sửu: 3,40-5,40; Giờ Dần: 5,40-7,40; Giờ Mão: 7,40-9,40; Giờ Thìn: 9,40-11,40; Giờ Tỵ: 11,40-13,40; Giờ Ngọ: 13,40-15,40; Giờ Mùi: 15,40-17,40; Giờ Thân: 17,40-19,40; Giờ Dậu: 19,40-21,40; Giờ Tuất: 21,40-23,40; Giờ Hợi: 23,40-1,40 Nguồn:quehuongyeudau.blogtiengviet.net
-
Hoa Cái chỉ là một sao nhỏ cho nên có nhiều người khi giải đoán lá số thường ít khi để ý đến sao này. Thật ra, tuy chỉ la phụ tinh nhỏ, Hoa Cái cũng có thể tạo nên bản chất đặc biệt của mẫu người mà chúng ta vẫn thường gặp trong cuộc sống hằng ngày. Biết đâu, có thể người đó là chính mình, chồng mình, vợ mình, người yêu của mình, bạn bè của mình hay một người nào đó mà mình quen biết. Hoa Cái là biểu tượng của cái lọng, thuộc hành Kim và không thấy sách vở đề cập dến những vị trí đắc hãm của phụ tinh này. Hoa Cái còn được gọi với tên rất đẹp là Đài Các Tinh. Chỉ hai chữ Đài Các cũng đã nói lên bản chất của những người Hoa Cái thủ Mệnh hoặc Hoa Cái cư Di và có thể gọi chung là mẫu người Đài Các. http://' target="_blank">Hoa Cái chủ về sắc đẹp, sự chưng diện, sự sang trọng quý phái. Cho nên, về hình dáng, người có Hoa Cái thủ Mệnh, dù là đàn ông hay đàn bà đều có nét mặt thanh tú, vóc dáng thanh nhã, nói năng và cư xử nhẹ nhàng, lịch sự. Đây là mẫu người rất chú trọng bề ngoài, từ mái tóc cho đến cách ăn mặc. Họ không ngại bỏ công bỏ của ra để sửa soạn cho mái tóc, chọn lựa một cái cà vạt cho hợp với màu áo, một hiệu son phấn nào đó cho phù hợp với màu da.v.v..Sự chưng diện đối với họ là một nghệ thuật, cũng là một nhu cầu cần thiết như việc ăn uống vậy. Họ như những loại công thích múa để khoe sắc cho người đời thưởng thức những gì trời ưu đãi họ. Bởi vậy trong lĩnh vực sinh hoạt, người có Hoa Cái thủ Mệnh nếu gặp thêm những sao Xương Khúc, Nguyệt, Đào Hồng Hỷ…là những người của ngành quảng cáo hay trình diễn thời trang, diễn viên kịch nghệ, điện ảnh, cải lương v.v…Nếu là những người cầm bút, cầm cọ, cầm đàn thì nét vẽ nhẹ nhàng, dòng nhạc trữ tình, văn phong chải chuốt và đều mang nặng khuynh hướng lãng mạn. Dưới thời đại phong kiến của Trung Hoa, cái quan niệm vương quyền được biểu tượng bằng những hình ảnh như Long chầu, Hổ phục, phượng múa lọng che, và Hoa Cái là một trong 4 biểu tượng đó, gọi tắt là Tứ Linh (Long Trì, Phượng Các, Hoa Cái, Bạch Hổ) chỉ sự uy quyền, hiễn đạt hay công danh sự nghiệp. Trường hợp nếu Hoa Cái không thủ Mệnh nhưng phía trước của Mệnh, Thân, Di, Quan có Hoa Cái, phía sau có Thiên Mã tọa thủ thì đây là cách Tiền Cái Hậu Mã, có nghĩa là lọng đi trước, ngựa theo sau, là cảnh tiền hô hậu ủng mà chúng ta thường gọi là cảnh vinh quy bái tổ, chỉ sự hiễn đạt về công danh và sự nghiệp. Nếu Hoa Cái không thủ Mệnh mà tọa thủ ở cung Di, bản tính cũng giống như Hoa Cái thủ Mệnh nhưng có một điểm đặc biệt là khi họ ra khỏi nhà là được người trên kẻ dưới thương mến. Có thể vì tính tình của họ vui vẻ, thân thiện, cởi mở. Cũng có thể vì cách ăn mặc, lời lẽ, cử chỉ của họ nhẹ nhàng, lịch thiệp, họ có cái duyên ngầm nào đó nên dễ có cảm tình với mọi người. Với những ưu điểm đó, người có Hoa Cái cư Di rất thích hợp với những công việc như chào hàng, tiếp tân, đại diện thưong mại, ngoại giao v.v… Tuy nhiên những đặc tính của Hoa Cái có thể thay đổi tùy theo ảnh hưởng của một số sao khác. Chẳng hạn, người có Hoa Cái thủ Mệnh sẵn có khuynh hướng lãng mạn, nếu gặp thêm Đào Hoa, Mộc Dục, Riêu…thì sự lãng mạn sẽ đi qúa trớn đưa đến sự buông thả cả hai mặt tình cảm và tình dục. Vì Hoa Cái là biểu tượng của sự sang trọng, quý phái, đài các…Cho nên những người có khuynh hướng sa đọa này cũng thuộc loại giai cấp thượng lưu, của những kẻ có tiền, có quyền lực. Riêng với phái Nam có Hoa Cái thủ Mệnh cũng thích sửa soạn, chưng diện, nước bông, nước hoa…Hoa Cái ở đây cũng nói lên phần nào sự biến thái về tâm sinh lý của đương số. Mức độ nặng hay nhẹ thì còn tùy thuộc vào toàn bộ lá số. Nguon:quehuongyeudau.blogtiengviet.net
-
Trong Tử Vi, nên lưu ý là không phải chỉ những chính tình như Tử Vi, Thiên Phủ, Liêm trinh, Thất Sát v.v… mới là những sao làm nên chuyện lớn. Đối với những phụ tinh, nếu ở đúng cách, đúng chỗ thì vẫn giúp đương số làm nên sự nghiệp một cách dễ dàng. Đó chính là trường hợp của sao Kình Dương mà khoa Tử Vi thường gọi là cách Kình Dương Độc Thủ, hay còn gọi là mẫu người Bạch Thủ Thành Gia, có nghĩa là tay trắng làm nên sự nghiệp. http://' target="_blank">Kình Dương thuộc nhóm Bắc đẩu tinh, hành Kim, có tên là Dương Nhẫn, chủ về sát phạt và hình khắc. Kinh Dương đắc địa ở tứ mộ (Thìn, Tuất, Sửu, Mùi). Người có Kình Dương đắc địa tọa thủ tại Mệnh thì thân hình cao và gầy, mặt xương, tánh qủa quyết, can đảm, dũng mãnh, thích phiêu lưu mạo hiểm, làm việc gì cũng muốn mau chóng. Là người túc trí đa mưu, đa tài, đa năng và có lẽ vì vậy mà cái “tôi” rất lớn, dù cho có giữ sự khiêm cung nhưng cũng khó có thể che giấu được nét kiêu căng tự phụ vốn sẳn là bản chất. Bởi những đặc tính vừa nêu trên, người có Kình Dương thủ Mệnh rất thích hợp với võ nghiệp hoặc các ngành kinh doanh về kỹ nghệ. Nam phái, Mệnh có Kình Dương đi kèm với bộ sao Sát Phá Liêm Tham thì dễ làm nên sự nghiệp trên chiến trường. Nhưng nếu Kình gặp thêm Linh Hỏa và Kiếp Sát thì đây cũng là cách sinh nghề tử nghiệp, khó tránh được chuyện phơi thây ngoài chiến địa. Như chúng ta có nói, Tham Vũ đồng hành ở tứ mộ là mẫu người của thương trường, nhưng nếu gặp thêm Kình Dương thì đấy lại là người nghiêng về quân đội, là những quân nhân rất gan dạ và cũng là cấp chỉ huy có khả năng trong lãnh vực tham mưu, chiến lược. Nếu Kình Dương hãm địa thủ Mệnh mà không có những sao tốt đi kèm thì cho dù nam hay nữ, tánh tình cũng rất hung bạo, liều lĩnh, nông nổi, bướng bỉnh, ương ngạnh, xảo trá. Cuộc đời chỉ gặp toàn là những tai họa, bệnh tật, và dễ dính dáng đến chuyện tù tội. Kình Dương hãm ở Mệnh cũng là người khéo tay, có năng khiếu về nghành thủ công. Nếu Kình hãm đi cùng với những sao biểu tượng cho nghệ thuật như Nhật Nguyệt, Xương Khúc v.v… đây là những nghệ nhân trong các lãnh vực như điêu khắc, hội họa, trang trí nhà cửa, làm nữ trang… Nhưng dù đắc hay hãm địa, người có Kình Dương thủ Mệnh, nếu không có những sao chế giải, là người chủ trương sống ở đời “vô độc bất trượng Phối” Đối với họ, cứu cách mới quan trọng, không cần phải câu nệ đến phương tiện. Ngoài 4 vị trí tốt đẹp của Kình Dương là tứ mộ, Kình Dương cũng có nhiều ý nghĩa đáng kể tại một vài vị trí khác như Tí Ngọ và Mão Dậu. Tại 4 cung này, nếu không có những sao tốt chế giải thì Kình Dương chủ sự bệnh tật, tai họa và chết yểu. Tuy nhiên, đặc biệt tại cung Ngọ, Kình Dương đóng một vai trò hai mặt tốt và xấu. Kình Dương tọa thủ tại Ngọ là cách Mã Đầu Đới Kiếm, kiếm treo đầu ngựa, là kẻ anh hùng lập công trên lưng và chết cũng trên lưng ngựa. Kình tại Ngọ, gặp được những sao tốt đẹp tọa thủ đồng cung như Thiên Đồng, Thái Âm, hay Khoa Quyền Lộc…thì đây là cách phát về võ nghiệp, là số của những bậc danh tướng, công trạng hiển hách, thường được bổ nhậm trấn giữ biên cương. Nhưng với cách này, trong cái tốt luôn ẩn tàng những điều bất hạnh. Lưỡi kiếm Kình Dương giúp anh hùng tạo nên sự nghiệp, và cũng chính lưỡi kiếm oan nghiệt này đã giữ đúng định luật khắc khe của tạo hóa: Đó chính là số của Quan Vân Trường thời Tam Quốc. Cách Mã Đầu Đới Kiếm đã đưa đến cái chết bi thảm của một đấng anh hùng. Ngoài ra hai cung Dần, Thân cũng không phải là vị trí tốt lành cho Kình Dương. Tại hai cung này. Kình Dương chỉ sự bệnh tật tai họa, thất bại… Nói chung, Mệnh ở Dần, Thân có Kình Dương thì cuộc đời có thể diễn tả trong bốn chữ “tay làm hàm nhai” tệ hại nhất đối với người tuổi Giáp và Mậu, dù cho có may mắn được thừa hưởng di sản của ông bà, cha mẹ thì cũng phá tán hết tổ nghiệp mà thôi. Tuy nhiên, nếu Mệnh ở Dần, Thân có Kình, được những sao tốt khác cùng tọa thủ thì cuộc đời sẽ được cơm no áo ấm nhờ bẩm sinh có năng khiếu về nghề thủ công. Nếu có thêm những sao chế giải bớt sự phá hoại của Kình thì vào trung hay hậu vận có thể sẽ trở mình thành đại phú bởi một ngành thủ công nào đó như dệt, kim hoàn, điêu khắc v.v… Như vậy chúng ta thấy rằng, trong 12 cung, chỉ có 4 cung tứ mộ là đất dụng võ của Kình. Đối với nam, Mệnh an tứ mộ có Kình với những sao tốt đẹp là phát về võ nghiệp. Nhưng nếu ở tứ mộ, Kình gặp Tử Phủ thì lại phát về kinh thương. Với những cách vừa nêu trên mà gặp những người có các tuổi Thìn, Tuất, Sửu, Mùi thì có sự ứng hợp, nên mức độ tốt đẹp được tăng lên gấp bội, và khoa Tử Vi gọi là cách kình Dương Nhập Miếu. Đối với Nữ, Mệnh tại tứ mộ có Kình là người đàn bà đảm đang, hành xử ngoài đời không thua gì đấng mày râu, là người dám nói, dám làm. Có thể nói đây là mẫu người đàn bà làm quan cho chồng. Điều này không phải chỉ ảnh hưởng của một Kình đắc địa mà chúng ta phải nhớ rằng, đàn bà có Mệnh an ở tứ mộ là người rất thông minh, sắc sảo, ít nhất là trong một lãnh vực nào đó. Bởi vậy, nữ phái, Mệnh ở tứ mộ có Kình, cùng với những sao tốt đẹp là người đàn bà “vượng Phối ích Tử” chỉ nên hiểu theo ý nghĩa của một người đàn bà đảm đang, có khả năng từ hai bàn tay trắng tự mình, hay giúp chồng tạo dựng sự nghiệp. Còn trên những khía cạnh khác vấn đề tình cảm, sự tâm đầu ý hợp giữa hai vợ chồng… chắc chắn không nhiều thì ít cũng khó tránh khỏi sự xung khắc trong gia đạo. Điều này chúng ta sẽ thấy rõ ràng hơn trong trường hợp Kình tọa thủ đồng cung với Nhật Nguyệt, là hai sao biểu tượng cho vợ chồng, thì ý nghĩa lúc đó sẽ ngược lại, nam thì khắc vợ, gái thì lúc trẻ cao số, lập gia đình thì khắc chồng, sát chồng. Từ đó, chúng ta cũng thấy thêm một điều nữa là Nhật Nguyệt không sợ Không Kiếp mà chỉ sợ Kình Đà. Trong một lá số, Nhật Nguyệt dù miếu vượng mà gặp phải Kình Đà thì sớm muộn gì cũng sẽ đau khổ, bệnh tật về mắt, vợ chồng xung khắc, và nếu không có những sao hóa giải, nhẹ thì sinh ly, nặng thì tử biệt. Tóm lại cách Kình Độc Thủ trong một lá số tương đối tốt đẹp sẽ giúp đạt được công danh sự nghiệp. Cuộc đời của người có Kình thủ Mệnh là con đường đầy chông gai. Sự thành công của họ là từ hai bàn tay trắng, bằng sức phấn đấu cũng như khả năng của chính bản thân. Cho nên lúc thiếu thời thường gian nan vất vả, cho đến trung vận hay hậu vận thì mới được công thành doanh toại. Nguon:quehuongyeudau.blogtiengviet.net
-
Trong Tử Vi, người ta ít chú trọng đến sao Thiên Không, một phụ tinh nhỏ xếp vào hàng em út so với đại sát tinh Không Kiếp mà chúng đã đề cập trong chương trước, nhưng rất đáng lưu ý khi giải đoán nhất là lúc xem hạn. Ngoài những ý nghĩa căn bản và đơn giản của một ác tinh, Thiên Không còn mang nhiều sắc thái đối nghịch nhau rất lý thú mà chúng ta phải cân nhắc thận trọng khi giải đoán một lá số có Thiên Không thủ Mệnh để khỏi đi đến những kết luận sai lầm đáng tiếc. Thiên Không thuộc hành Hỏa, đắc địa ở Dần, Thân, Tỵ, Hợi và đó cũng là nơi đắc địa của Không Kiếp, cho nên tại những vị trí này, Thiên Không sẽ có uy lực không kém gì Không Kiếp, và cũng như các đàn anh, Thiên Không chủ sự phá tán, thất bại, gãy đổ nửa chừng. Người có Thiên Không hãm địa thủ mệnh thì tính xảo quyệt, chuyên dùng sự gian dối, thủ đoạn để ăn ở với người, để mưu sự với đời, nhưng rốt cuộc cũng không làm được việc gì ngoài những trò tiểu xảo hầu thủ lợi cho cá nhân mình, nhưng chung cuộc thì cũng tự hại mình mà thôi. http://' target="_blank">Người có Thiên Không đắc địa thủ mệnh tính tình táo bạo, thăng trầm, túc trí đa mưu, thích toan tính những chuyện lớn lao, nhưng nếu không có những sao chế giải thì từ anh hùng trở thành gian hùng dễ như trở bàn tay. Bởi vậy, như đã nói ở trên, ý nghĩa lý thú của Thiên Không là chúng ta có thể ví người Thiên Không là người “nhị trùng bản ngã”. Trong con người Thiên Không có một người thiện, một người ác, có chính, có tà…Một lá số với cách cục tốt đẹp nào đó khiến chúng ta kết luận đương số là anh hùng, nhưng cẩn thận, anh hùng có thể là gian hùng nếu có thêm Thiên Không đồng thủ mệnh. Cái bản ngã thứ nhì của Thiên Không hiểu theo triết lý nhà Phật thì Thiên Không còn có ý nghĩa “sắc sắc không không” Cho nên, người có Thiên Không đắc địa thủ mệnh gần giống với mẫu người Tử Tham Mão Dậu, bẩm sinh từ lúc còn trẻ đã có khuynh hướng yếm thế, có những ý nghĩ và cuộc sống gần gũi với tôn giáo. Cái khổ của người Thiên Không là sự dằn vặt trong nội tâm bởi hai cánh tay của Thiên Không, một thiện một ác, một chánh một tà, một đời một đạo, lôi kéo, giằng co cả cuộc đời: Mệnh tọa Thiên Không định xuất gia, có nghĩa là người Thiên Không thủ mệnh lòng chỉ muốn xa lánh cõi đời, nhưng thực hiện được hay không đớ còn tùy thuộc vào những sao phối hợp mà chúng ta đề cập sao đây. Với lá số Thiên Không lại càng nên thận trọng hơn đối với hai sao Đào Hồng, là biểu tượng cho sắc đẹp, nghệ thuật và nhất là nữ. Có nhiều sách cho rằng Thiên Không thủ mệnh gặp Đào Hoa, dù nam hay nữ, cũng là những người có khả năng quyến rũ người khác phái bằng những ngón nghề riêng của mình. Theo thiển ý của người viết, chúng ta phải phân biệt hai trường hợp. 1) Đối với nam, Thiên Không biểu tượng cho bản chất của đương số, và Đào Hoa là đối tượng đeo đuổi. Cho nên nam phái có Thiên Không và Đào Hoa ở mệnh là người đào hoa và biết dùng những ưu điểm trời phú cho mình như nhân dáng, lời ăn, tiếng nói ngọt ngào, địa vị, quyền thế..v.v…Nói chung là dùng mọi khả năng quyến rũ của mình dễ lợi dụng đàn bà vào một mục đích nào đó. Nếu gặp thêm những sao như Phục Binh, Quan Phù, Quan Phủ… thì mức độ lợi dụng sẽ đi đến chuyện dụ dỗ, lừa gạt, phản bội một cách trắng trợn. 2) Đối với nữ, Đào Hoa là biểu tượng chính của đương số, là cánh hoa biết nói, còn Thiên Không là lửa trên trời. Đào Hoa gặp lửa thì làm sao không khô héo? Bởi vậy, nữ phái gặp cách này là người có nhan sắc nhưng lại không có duyên. Chữ duyên ở đây bao hàm cả hai ý nghĩa: Sự duyên dáng và duyên phận. Chúng ta thường thấy những người đàn bà có sắc đẹp bên ngoài nhưng khi tiếp xúc thì không tìm thấy một nét hấp dẫn nào qua tính tình hay nội tâm. Hữu sắc vô hương, vì vậy mà Đào Hoa ngộ Thiên Không thì duyên kiếp phải bẽ bàng, chứ không hẳn có sức quyến rũ nam phái. Và tương tự, Mệnh có Thiên Không, Hồng Loan là người có tư cách thanh cao, thích an nhàn, ẩn dật, và khuynh hướng xa lánh trần tục rất rõ ràng. Hai chữ “không hồng” với quan niện triết lý của nhà Phật, phải chăng là không vướng bụi hồng trần? Một ý nghĩa đáng kể mà chúng ta đã nói ở trên là sự thất bại, sự đổ gãy nửa chừng của người có Thiên Không thủ mệnh. Sự gãy đổ này có thể xảy ra trên mọi lãnh vực từ công danh, sự nghiệp cho đến chuyện tình cảm gia đạo v.v…Bởi vậy, chúng ta có thể gọi người Thiên Không thủ Mệnh là mẫu người Bán Thiên Triết Sỉ (Lưng Trời Gãy Cánh). Người có cách Tham Vũ Đồng Hành là người làm nên sự nghiệp từ thương trường. Nhưng nếu mệnh có Thiên Không thì chắc chắn thì đương số ít nhất cũng phải một lần thất bại đau thương rồi mới làm nên sự nghiệp. Tùy theo mỗi lá số, có người đổ vỡ trên đường công danh, có người gãy đổ trên đường tình ái… Và cho đến việc tu hành cũng không phải là con đường nhẹ nhàng đối với những người đã có lòng thoát tục. Cho nên cuối cùng họ đành chấp nhận cuộc sống nửa đời nửa đạo, hoặc là bỏ đạo trở lại với đời. Chúng ta cũng thấy rất rõ đặc tính lưng trời gãy cánh khi Thiên Không nhập hạn. Một tay chọc trời khuấy nước như Hạng Võ mà hạn gặp Thiên Không cũng đành phải mất nước, biệt Ngu Cơ và tự vẫn bên dòng Ô Giang. Hạn gặp Thiên Không thì tốt nhất là khoanh tay ngồi yên, chớ mưu tính chuyện gì cho tốn công phí sức. Dù có mưu cầu toan tính tới đâu thì chung cuộc cũng chỉ là đầu voi đuôi chuột mà thôi. Nếu gặp hạn xấu thì kết quả có thể còn tệ hại hơn, kể cả chuyện tán gia bại sản hay gia đình ly tán. Tác hại của Thiên Không sẽ nhẹ nhàng hơn đối với những người Vô Chính Diệu vì Mệnh của họ vốn đã là “không” nếu gặp thêm không nữa thì cũng không gì đáng ngại. Nhật Nguyệt thủ mệnh không sợ Thiên Không vi hai vầng nhật nguyệt lại càng sáng dưới bầu trời không gợn áng mây. Cuối cùng, một đặc điểm oái oăm khác của mẫu người Thiên Không là cho dù hôm nay có làm nên công danh sự nghiệp, có quyền cao chức trọng, thì cũng nên hiểu rằng chung cuộc của mình rồi cũng hai bàn tay trắng mà thôi. Nguon:quehuongyeudau.blogtiengviet.net
-
Hiện nay có rất nhiều sách và bài viết về chu kỳ sinh học, để tìm hiểu được là phức tạp chứ nói gì đến sử dụng. Có nhiều thông số (sức khỏe, tình cảm, tâm linh...) mà mỗi thông số lại có một chu kỳ riêng. Nên chăng có thể tìm ra một chu kỳ chung cho tất cả các thông số đó cho mỗi cá nhân cụ thể; như vậy may ra khả thi trong sử dụng. Mỗi người có một chu kỳ sinh học chung cho các thông số đó, chu kỳ đó phản ánh khả năng hấp thụ năng lượng sinh học của vũ trụ. Năng lượng sinh học của vũ trụ từ cổ xưa đã được khám phá và khẳng định (xem bài Khái quát về Năng lượng Sinh học sẽ entry trong vài ngày tới). Vũ trụ vận hành theo thập thiên can (Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý). Con người sinh ra trong vũ trụ, biến hóa từ sinh trưởng, hưng vượng, đến suy, đến bệnh chết theo quy luật phát triển tất yếu của sự vật. http://' target="_blank">Thập thiên can được đưa vào nhân thể học để tiến hành dự đoán đã trải qua mấy nghìn năm. Thực tiễn chứng minh nó là khoa học, vì sự sắp xếp thập thiên can trong năm tháng ngày giờ sinh của con người, gắn với nó là những thông tin vượng suy của sự vật. Vấn đề này không thể phủ nhận được, nhưng vì khoa học chưa giải thích được nên có người cho đó là duy tâm. Trong bảng: - Trường sinh: ví như người vừa sinh ra. - Mộc dục: giai đoạn kế theo như được tắm rửa - Quan đái: như trẻ vừa mới biết mặc áo, đội mũ - Lâm quan: cũng gọi là tiến lộc là giai đoạn kế theo - Đế vượng: đến giai đoạn thân vượng - Suy đến tuyệt là giai đoạn yếu dần đến chết - Thai, Dưỡng là giai đoạn mang thai và thai nhi lớn dần Cách xem: Một người sinh ra vào giờ, ngày, tháng, năm nào đều mang can chi của giờ, ngày, tháng, năm sinh đó. Và can để tra bảng là can của ngày sinh. Để cho dễ hiểu ta ví dụ: Một đứa trẻ sinh ra lúc 10 giờ ngày 20/1997 tức giờ Canh Dần, ngày Ất Sửu, tháng Tân Hợi, năm Đinh sửu (20/10 Đinh Sửu); như vậy can ngày sinh của cháu là Canh. Từ can ngày sinh là Canh tra bảng 5 can dương hàng trên cùng và theo cột thì biết được chu kỳ sinh học của bé theo ngày tháng năm. Cụ thể là giờ, ngày tháng năm Dậu là tốt nhất và giờ ngày tháng năm Dần là tồi nhất Nguon;quehuongyeudau.blogtiengviet.net
-
Khi phác họa về mẫu người Nhật Nguyệt Đồng Lâm, chúng ta đã nêu rõ những đặc tính của sao Thái Dương trong một vài vị trí đặc biệt. Ở đây, chúng ta chỉ nhắc lại những đặc tính của Thái Dương trong những vị trí tốt đẹp trước khi nói đến Thái Dương sẽ như thế nào ở vào các vị trí hãm địa. Thái Dương thuộc Nam Đẩu tinh, hành Hỏa, miếu ở hai cung Tỵ Ngọ, tức là mặt trời lúc giữa trưa và vượng địa ở hai cung Dần Mão, là lúc mặt trời lúc bình minh. Ở 4 vị trí này, Thái Dương chủ sự thông minh, lòng nhân đức, Tài và uy quyền. Thái Dương hợp với những người Dương Nam, Dương Nữ và những người sinh vào ban ngày. Ngoài những vị trí miếu vượng vừa nêu trên, hai cung Sửu Mùi cũng là hai vị trí đắc địa của Thái Dương, mặc dù đó là thời gian đã là giao điểm giữa đêm và ngày. http://' target="_blank">Như vậy sáu cung còn lại từ cung Thân đến cung Tí là những vị trí hãm địa của Thái Dương, là thời điểm của bóng đêm, mặt trời không ánh sáng. Trong sáu cung hãm địa này, Thái Dương có hai vị trí khá đặc biệt là cung Tí và Hợi, khoa Tử Vi gọi là cách Nhật Trầm Thủy Bể), nghĩa là mặt trời chìm xuống đáy nước. Tuy vậy, nhưng ít nhiều mặt trời vẫn còn giữ được ánh quang huy, vẫn còn giá trị của một vầng Thái Dương. Người có Thái Dương thủ Mệnh tại hai cung Tí Hợi là người hiền lương rộng lượng, có lòng nhân từ với mọi người nhưng đôi lúc tính tình cũng hơi cố chấp, có lẽ vì lúc nào cũng đối xử tốt đẹp với mọi người, cho nên nghĩ rằng người khác cũng sẽ đối xử với mình như vậy. Là người thông minh, tuy nhiên không được bền chí, làm việc gì cũng muốn nhanh chóng, gặp trở ngại thì dễ dàng nản lòng, bỏ cuộc. tính khí thanh cao, thích sự tao nhã, thích cuộc sống an nhàn, đặc biệt là có năng khiếu về thẩm mỹ, văn chương và nghệ thuật. Mẫu người Nhật Trầm Thủy Bể từ nhỏ đã có nhiều bệnh tật. Đáng kể nhất là những bệnh về mắt, bệnh về máu huyết như áp huyết cao, thần kinh dễ bị suy yếu, hay bị chứng đau đầu kinh niên. Nếu muốn qua khỏi bệnh tật này, lúc trẻ phải sống xa gia đình hoặc xa quê hương càng tốt. Được như vậy thì sức khỏe sẽ ngày một khá hơn và tuổi thọ cũng kéo dài hơn. Tuy nhiên vẫn phải thận trọng với đôi mắt của mình, nếu trong người hay tay chân không bị khuyết tật gì bẩm sinh, và nếu có thêm nhưng sao như Kình Đà, Thiên Hình, Kiếp Sát thì mắt có thể bị vật nhọn đâm vào hay phải chịu sự mổ xẻ. Nói về đường công danh sự nghiệp thì mẫu người Nhật Trầm Thủy Bể là những người có khả năng thiên phú, nổi bật nhất là trong lãnh vực văn học, nghệ thuật. Nhưng oái oăm thay, tài năng của họ cũng như mặt trời chìm sâu đáy nước cho nên hầu hết họ là những ngưới bất đắc chí. Trong cuộc sống, trong công việc, hoặc trong những môi trường sinh hoạt hàng ngày họ thường gặp phải những hoàn cảnh khiến cho họ không thể thi thố hết tài năng của mình được. Đây cũng là trường hợp những người mang khả năng tâm huyết đạt thành qủa, nhưng thành qủa đó lại do người khác hưởng chứ người đời không biết đến mình. Chẳng hạn như những người chuyên dự thảo chương trình, kế hoạch, tham mưu, cố vấn, các chuyên viên, các khoa học gia âm thầm làm việc trong những phòng thí nghiệm v.v… Nhật Trầm Thủy Bể dù nam hay nữ cũng là những người khéo tay và có khiếu về thẩm mỹ. Họ xuất sắc trong những lãnh vực như nấu ăn, trang điểm, thêu thùa, trang trí nhà cửa… Nếu có thêm những sao về văn học như Thái Âm, Xương Khúc, Khôi Việt, Đào Hồng Hỷ… hợp chiếu thì họ là những nghệ sĩ có thực tài nhưng vì hoàn cảnh mà tài năng phải bị mai một, hoặc là tác phẩm của họ chỉ được người đời biết đến khi họ đã khuất. Và những trường hợp mà chúng ta vẫn thường thấy là đôi lúc tên tuổi của một ca sĩ, một diễn viên trên sân khấu, màn ảnh… lại được nhiều người biết đến và hâm mộ hơn là những nhạc sĩ, người soạn tuồng, đạo diễn. Cũng như những tác phẩm nổi tiếng, những hồi ký của một chính khách, một nhân vật nào đó, thường vẫn do một người khác viết dùm (người Mỹ gọi là Ghost Writer). Đó là ý nghĩa của mặt trời chìm đáy nước. Riêng với nữ mệnh, Thái Dương ở Tí Hợi là người có nhan sắc nhưng nét mặt lúc nào cũng phảng phất một nét buồn bởi có câu “Nhật lạc nhàn cung, sắc thiểu xuân dung.” Tính tình đa sầu đa cảm, tâm địa hiền thục thanh cao và có thể nói bốn chữ công dung ngôn hạnh đều hội đủ. Họ thường hợp và sống gần với cha hơn mẹ, nhưng cũng vì Thái Dương hãm, cho nên khi lập gia đình thì lại khắc chồng, chuyện tình duyên buồn nhiều hơn vui. Nói chung, Thái Dương dù hãm nhưng nếu không gặp những hung tinh hay ám tinh thì cuộc đời cũng đủ ăn đủ mặc. Nếu may mắn được những sao tốt đi kèm, hoặc được Tuần Triệt án ngữ thì hậu vận cũng có một cuộc sống an nhàn sung sướng. Người Thái Dương hãm địa thủ mệnh thiếu thời thường gặp những nghịch cảnh để rồi lúc nào cũng phải phấn đấu, chỉ khi về già thì cuộc sống mới có phần toại nguyện. Nhưng đặc biệt với những người tuổi Bính và tuổi Đinh thì lại rất hợp với Thái Dương tại cung Tí, cuộc đời vẫn được giàu sang phú qúy: “Thái Dương cư tí, Bính Đinh phú qúy trung lương.” Với các tuổi khác, tuy là có tài năng, nhưng suốt đời chỉ gặp toàn là những cảnh bất đắc chí, cũng giống như nhà thơ Tú Xương hay Cao Bá Quát mà thôi. Nguon:quehuongyeudau.blogtiengviet.net
-
Học thuyết ngũ hành là sự sáng tạo độc đáo của văn hóa Phương Đông (đến nay vẫn chưa rõ là của Việt Nam Hay của Trung Quốc). Theo học thuyết ngũ hành thế giới được tạo ra từ năm loại vật chất cơ bản: mộc, thổ, hỏa, kim, thủy. Sự phát triển biến hóa của mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên (bao gồm cả con người) đều là kết quả không ngừng vận động, chuyển hóa lẫn nhau của năm loại vật chất này. Ngũ hành ở đây phải hiểu theo nghĩa biểu trưng của nó chứ không được hiểu theo nghĩa đen. Cổ nhân chỉ đưa nghĩa đen (mộc: cây, hỏa: lửa, thổ: đất, kim: sắt, thủy: nước) cho dễ hiểu mà thôi. Trong mỗi hành đều có âm, dương. Mộc: Có tính sinh sôi, nảy nở, dài thẳng. Hỏa: Sáng, nóng và hướng lên trên. Thổ: là nền, nuôi lớn, hóa dục. Kim: có tính thanh tĩnh, cứng, thu sát. Thủy: là hàn, lạnh, hướng xuống, lọc, gột rửa. Trong con người từ tính cách cho đến phủ tạng đều mang năm đặc trưng này. Ví dụ bàn về tính cách: - Cởi mở, hòa đồng: mang tính mộc - Nóng nảy, minh bạch: mang tính hỏa. - Lỳ, dễ hài lòng: mang tính thổ - Lạnh lùng, sắc lạnh: mang tính kim - Điềm đạm, xét đoán: mang tính thủy. Hoặc phủ: - Mật: dương mộc - Ruột non; dương hỏa - Dạ dày: dương thổ - Ruột già: dương kim - Bàng quang: dương thủy Hoặc tạng: - Gan: âm mộc - Tim: âm hỏa - Lá lách: âm thổ. - Phổi: âm kim - Thận: âm thủy. Nguon:Quehuongyeudau.blogtiengviet.net
-
Tuần Triệt an theo hàng can của năm sinh, và đặc biệt là vị trí của Tuần Triệt nằm giữa ranh giới của hai cung chứ không tọa thủ trong một cung nào như các sao khác. Điểm đặc biệt thứ hai là vị trí đắc hãm và hành của chúng. Đây cũng là một vấn đề tranh cãi rất nhiều. Có người cho rằng Tuần thuộc hành hỏa và Triệt hành kim. Cũng có người cho rằng Tuần và Triệt đều hành thủy. Một số khác lại cho rằng Tuần và Triệt không có hành cố định, đóng ở cung nào thì mang hành của cung đó. Như vậy, lập luận này sẽ đưa đến kết qủa là Tuần Triệt có lúc chỉ có một hành trong trường hợp chúng đóng giữa hai cung Thân và Dậu đều thuộc hành kim. Nhưng giả sử Tuần Triệt đóng giữa hai cung Ngọ và Mùi thì Tuần Triệt phải mang hai hành Hỏa của cung Ngọ và Thổ của cung Mùi. Xét cho cùng, điều này xem ra không hợp lý lắm. Khi nói về ngũ hành, ví dụ như nói về hành của một hướng, như Đông Nam thì chúng ta nói là Mộc đới Hỏa, hoặc hành của Phượng Các là Mộc đới Thổ chứ không thấy ai nói vừa mang hành Mộc và mang hành Thổ. Chữ “đới” ở đây có nghĩa là “nghiêng về” hay “thiên về” Trong cuốn tử vi Ảo Bí của Việt Viêm Tử, tác giả cho rằng Triệt có hành Kim đới Thủy và Tuần có hành Hỏa đới Mộc. http://' target="_blank">Về những vị trí đắc hãm của Tuần Triệt thì cũng có người cho rằng Tuần Triệt chỉ đắc địa ở Tỵ Ngọ và Thân Dậu, còn những vị trí khác đều hãm địa. Nhưng điều này cũng không hợp lý vì chúng ta biết Triệt không đóng ở Tỵ Ngọ. Và cũng theo quan điểm này thì nếu Tuần Triệt đắc địa sẽ không tác hại, còn nếu hãm địa thì sẽ tác hại. Đây là điều không hợp lý thứ hai. Sau khi nói đến ý nghĩa của hai sao Tuần Triệt dưới đây, chúng ta sẽ thấy bản chất của Tuần Triệt là như thế nào. Tóm lại, người viết đồng ý với quan điểm của Thái Thứ Lang, tác giả của cuốn Tử Vi Tân Biên, “hai sao Tuần Triệt không có những vị trí đắc địa hay hãm địa và cũng không thuộc một hành nào trong ngũ hành.” Đầu tiên chúng ta thấy rằng, chỉ với cái tên của hai sao này cũng đã nói lên rất nhiều ý nghĩa. Tuần có nghĩa là tuần tiểu, tuần phòng, canh giữ, vây hãm. Triệt là chặc đứt, phá tan, tiêu tán, làm mất hết. Từ đó, hai sao Tuần Triệt vừa đóng vai trò vừa chính vừa tà, vừa thiện vừa ác đối với các sao trong cung mà chúng trấn đóng. Khi nói đến ảnh hưởng của Tuần Triệt, có hai quan điểm khác nhau. Quan điểm thứ nhất cho rằng Tuần Triệt làm đảo ngược ý nghĩa tốt xấu của tất cả những sao trong hai cung mà chúng đóng. Ví dụ: một sao đắc địa gặp Tuần Triệt thì những đặc tính tốt đẹp của sao này bị mất đi và trở nên hãm. Ngược lại nếu sao hãm địa gặp Tuần Triệt thì lại trở nên tốt đẹp giống như đắc địa. Như vậy thì uy lực của Tuần Triệt qúa lớn vì Tuần Triệt không phải chỉ ảnh hưởng lên 1 sao mà chúng ảnh hưởng lên tất cả các sao mà chúng trấn đóng. Quan điểm đảo ngược này chúng ta thấy trong một vài trường hợp đặc biệt. Ví dụ: Liêm Tham ở Tỵ, Hợi rất xấu, nhưng nếu gặp Tuần Triệt thì trở nên tốt đẹp, và được gọi là phản vi kỳ cách, đổi xấu thành tốt. Quan điểm thứ hai thì cho rằng Tuần Triệt không hề đảo ngược ý nghĩa của các sao trong vòng ảnh hưởng của chúng, mà chỉ giảm bớt những đặc tính tốt xấu của các sao. Theo thiển ý của người viết, quan điểm này xem ra có phần hợp lý hơn. Tỉ lệ chiết giảm của Triệt tuy rất cao nhưng cũng chưa đến mức độ 100% để có thể thay đổi hẳn bản chất của một sao nào đó. Hơn nữa, cũng có trường hợp những sao đắc địa mà gặp Tuần Triệt thì lại càng tốt hơn chứ không hề bị đảo ngược, như trường hợp Cự Cơ ở hai cung Tí Ngọ (Thạch Trung Ẩn Ngọc) là ngọc còn ẩn trong đá, nếu gặp Tuần Triệt phá vỡ cho ngọc lộ ra bên ngoài thì càng đúng cách. Khi nói về mẫu người Mệnh Tuần Thân Triệt hay Mệnh Triệt Thân Tuần, Thái Thứ Lang đã gián tiếp xác định mức độ ảnh hưởng của Tuần Triệt nói chung. Theo Thái Thứ Lang, người Mệnh Tuần Thân Triệt cần có Cơ Nguyệt Đồng Lương đắc địa thứ mệnh thì cuộc đời về già mới được xứng ý toại lòng. Như vậy chúng ta có thể ghi nhận một điều, đối với Tuần, thà có chính tinh đắc địa để chấp nhận mức độ tốt bị giảm bớt còn hơn là gặp chính tinh hãm địa rồi trông chờ Tuần làm cho tốt đẹp. Đối với người Mệnh Triệt Thân Tuần thì Thái Thứ Lang cho rằng, Mệnh cần phải Vô Chính Diệu thì lúc về già mới được xứng ý toại lòng. Như vậy chúng ta thấy rằng, ảnh hưởng của của Tirệt mạnh mẽ hơn Tuần nhiều, cho nên cung Mệnh thà không có chính tinh vẫn còn tốt hơn có chính tinh, dù đắc hay hãm địa. Trên thực tế chúng ta thấy hai sao Tuần Triệt không có uy lực để thay trắng đổi đen một cách hoàn toàn, chẳng hạn, một người có Thái Dương đắc địa thủ Mệnh gặp Tuần Triệt thì bản tính của người này không thể trở thành giống bản tính của người có Địa Kiếp thủ Mệnh được. Nói một cách khác, Tuần Triệt chỉ ảnh hưởng mạnh mẽ trên lãnh vực công danh, sự nghiệp của đương số chứ không triệt tiêu được bản chất lương thiện của một Thái Dương vốn đã đắc địa. Ngoài ra, ảnh hưởng của Tuần Triệt ở mức độ nào còn tùy thuộc vào ý nghĩa của mỗi sao, hay ý nghĩa của một cách do nhiều sao hợp lại, chứ không hoàn toàn giống nhau. Chẳng hạn như sao Thiên Hình, Thiên Mã, Thiên Tướng, Tướng Quân…dù đắc hay hãm cũng tối kỵ Tuần Triệt hơn các sao khác bởi vì kiếm gãy, ngựa què, tướng mất đầu…thì tất nhiên là vô dụng. Tương tự, Thất Sát ở Dần thân là người anh hùng một mình một kiếm, nhất hô bá ứng, nhưng gặp Triệt lại trở thành anh hùng gãy kiếm. Tuy vậy, cũng có những trường hợp đặc biệt, ví dụ như hai sao Cự Cơ ở Tí Ngọ như chúng ta đã nói ở trên. Vì ý nghĩa của cách Thạch Trung Ẩn Ngọc cho nên Tuần Triệt lại rất cần thiết. Chúng ta vừa nói đến ảnh hưởng của Tuần Triệt trên các sao, còn ảnh hưởng của Tuần Triệt trên các cung thì như thế nào? Có phải sự ảnh hưởng của Tuần Triệt trên hai cung mà chúng trấn đóng đều như nhau? Điều này chúng ta cũng có hai quan điểm: 1) Ảnh hưởng của Tuần Triệt trên mỗi cung nặng hay nhẹ còn tùy thuộc đương số là Dương Nam, Âm Nữ hay là Âm Nam, Dương Nữ. Nói một cách khác là theo chiều của vòng đại hạn của mỗi lá số. Ví dụ: Lá số có vòng đại hạn đi theo chiều thuận, có nghĩa là từ cung Mệnh rồi qua Phụ Mẫu, Phúc v.v… Và nếu Triệt đóng giữa cung Mệnh và cung Bào, như vậy chúng ta nói là Triệt chặn đầu cung Bào và vuốt đuôi cung Mệnh. Khi nói Triệt chặn đầu một cung nào thì ảnh hưởng của Triệt ở cung đó sẽ mạnh hơn đối với cung mà Triệt vuốt đuôi, và tỉ lệ ảnh hưởng được xác định cũng theo nguyên tắc Âm Dương: Dương hành tam thất (3/7) Âm quy nhị bát (2/8) Như vậy, nếu theo chiều thuận của vòng đại hạn thì cung nào bị Tuần Triệt chận đầu sẽ chịu ảnh hưởng 7 phần, nếu đi ngược sẽ chịu ảnh hưởng 8 phần và tương tự các cung xung chiếu hay tam hợp chiếu với các cung có Tuần Triệt đóng cũng chịu ảnh hưởng nặng nhẹ theo nguyên tắc này. 2) Ảnh hưởng của Tuần Triệt phân phối đều trên hai cung mà chúng trấn đóng chứ không có cung nào nặng hơn cung nào như ý nghĩa của quan điểm thứ nhất. Người viết đồng ý với quan điểm thứ hai vì chúng ta thấy rằng ảnh hưởng của Tuần Triệt chỉ khác nhau trên các cung có chính tinh mà thôi. Thường những cung có chính tinh không nên gặp Tuần Triệt. Trái lại, những cung nào Vô Chính Diệu thì lại rất cần có Tuần Triệt . Trong trường hợp này Tuần Triệt đóng vai trò của một người giám hộ để bảo vệ cho một gia đình không có gia chủ. Từ đó, chúng ta rút ra một hệ luận là ảnh hưởng của Tuần Triệt đối với chính tinh có tầm quan trọng hơn đối với các phụ tinh. Ngoài ra, Tuần Triệt đôi lúc còn đóng hai vai trò khác nhau, một thiện, một ác. Chẳng hạn nếu ba cung tam hợp, gọi là tam phương, bị nhiều sát tinh thủ hay hợp chiếu mà được Triệt đóng thì mọi sự hung hiểm cũng giảm đi rất nhiều. Ngược lại, bốn cung Mệnh, tài Quan, Di, gọi là Tứ Chính, dù có đắc cách tới đâu nhưng đã gặp Tuần thì cũng xem như bị phá hết: “Tam phương vô sát hạnh nhất Triệt nhi khả bằng. Tứ chính giao phù kỵ, nhất không chi trực phá.” Và trên đây chúng ta mới nói đến vùng ảnh hưởng của Tuần Triệt, còn thời gian ảnh hưởng của hai sao này thì như thế nào? Thường có người cho rằng Triệt ảnh hưởng 30 năm đầu của cuộc đời, Tuần ảnh hưởng 30 năm sau của cuộc đời. Theo thiển ý của cá nhân, Triệt ảnh hưởng mạnh mẽ nhất trong khoảng tiền vận, rồi từ yếu dần ở trung vận và hậu vận. Ảnh hưởng của Tuần thì không có khoảng thời gian nào mạnh hay yếu, cứ ở mức trung bình, đều đặn và bền bỉ từ tiền vận cho đến hậu vận. Trường hợp cung Mệnh có Triệt thì ảnh hưởng của Triệt sẽ như thế nào? Cung Mệnh cũng như các cung khác thông thường có đủ sao xấu và tốt xen lẫn nhau. Có sao đắc địa, có sao hãm địa. Đối với những sao tốt đắc địa thủ Mệnh, đương số sẽ gặp sự bất lợi vì Triệt sẽ làm giảm bớt những ý nghĩa tốt đẹp của các sao này. Sự bất lợi sẽ xảy ra trong thời ky tiền vận của đương số, và sau đó, khi uy lực của Triệt yếu dần thì sự tốt đẹp của các sao tốt sẽ được phục hồi ở một mức độ nào đó mà thôi chứ không thể nào được 100% như trường hợp không bị Triệt. Ngược lại, trong khoảng tiền vận thì đương số lại được một lợi điểm là, giả sử, nếu có những hung tinh hay sát tinh thủ mệnh, thì nhờ ảnh hưởng của Triệt mà đương số tránh được phần nào những điều không tốt do các hung sát tinh gây nên. Nhưng từ trung vận trở lên, khi Triệt yếu dần, không còn đủ uy lực để trói buộc hung sát tinh nữa, và sự tốt xấu lúc đó chỉ còn tùy thuộc vào công lực của các sao tốt và sao xấu, bên nào mạnh thì chế ngự được bên đó. Triệt đóng tại Mệnh (giữa mệnh và phụ mẫu) thì tiền vận lao đao lận đận và dễ gặp hoàn cảnh mồ côi sớm, Trường hợp Triệt đóng tại cung Thân thì ảnh hưởng của Triệt không có gì đáng kể vì uy lực của Triệt mất dần trong khoảng trung vận và hậu vận, có thể xem Triệt như một áng mây, gây rắc rối trở ngại cho đương số những lúc khởi sự một việc gì mới mà thôi. Trường hợp cung Mệnh có Tuần đóng thì tất cả những gì tốt đẹp do các sao tốt mang đến, cũng như những hung họa do hung sát tinh gây ra cho đương số đều giảm xuống ở mức trung bình, và muốn biết cuộc đời của đương số thế nào trong khoảng tiền vận thì chúng ta phải đặt cả tốt và xấu lên bàn cân. Thường người ta cho rằng Mệnh ứng với tiền vận, nhưng thật ra Mệnh vẫn là cái gốc của đời người, cho nên sau tiền vận, Mệnh vẫn còn ảnh hưởng ở mức độ nhẹ. Như vậy, khi Tuần đóng ở Mệnh, thì sau khoảng thời gian của tiền vận những mức độ tốt hay xấu của cung Mệnh do Tuần chi phối vẫn còn âm hưởng. Nếu Tuần đóng tại cung Thân thì vấn đề tốt hay xấu cũng tương tự như trên. Nếu có khác thì trong trường hợp này là Tuần chỉ chi phối trong khoảng thời gian trung vận và hậu vận mà thôi. Nếu cả Tuần và Triệt cùng đóng ở cung Mệnh hay cung Thân thì thế nào? Điều này cũng có hai ý kiến khác nhau. 1. Một số cho rằng khi Tuần Triệt gặp nhau thì sẽ tự hoá giải cho nhau và hai cung đó xem như không có mặt của Tuần Triệt nữa. Điều này xét ra không hợp lý lắm bởi vì khoa Tử vi không có những sao nào cùng nhóm lại triệt tiêu nhau. Những sao cùng nhóm luôn hỗ trợ cho nhau, tốt thì tốt thêm, xấu thì xấu hơn. Chẳng hạn như Nhật Nguyệt gặp Xương Khúc, hay hủy hại nặng nề khi Không Kiếp gặp thêm Hỏa Linh. Chỉ có những sao khác nhóm mới khắc chế nhau như Thiên Hình khắc chế và làm giảm đi sự lẳng lơ của Đào Hoa. 2. Mệnh có cả Tuần Triệt như một nhà tù có hai ông cai ngục. Ông chính là Triệt, ông phụ là Tuần. Hết khoảng thời gian của tiền vận khi Triệt về hưu thì cũng còn ông Tuần cai quản, chứ không hề nhà giam được bỏ ngỏ. Sau hết, trường hợp chúng ta muốn nói ở đây là những lá số có Tuần đóng ở Mệnh và Triệt đóng ở Thân mà chúng ta thường nghe là mẫu người Mệnh Tuần Thân Triệt, hay trường hợp Mệnh Triệt Thân Tuần, thì cuộc dời của hai mẫu người này như thế nào? Để có câu trả lời, cách tốt nhất là chúng ta để lên bàn cân từng phần một rồi cộng trừ các số thành với nhau để có đáp số cuối cùng. Mệnh có Tuần đóng, nếu Mệnh tốt thì mức độ chiết giảm do Tuần gây ra tương đối nhẹ nhàng, còn nếu cung Mệnh xấu, thì sự cứu vãn của Tuần cũng không được bao nhiêu. Những hung sát tinh cũng như những đúa con phá gia chi tử trong một gia đình bất hạnh. Họa chăng chỉ có người cha là triệt còn đủ uy lực để chế ngự, chứ còn mẹ Tuần thì không đủ sức. Qua trung vận và hậu vận thì ứng vào cung Thân. Nếu cung Thân tốt mà có Triệt đóng thì cũng không gây ảnh hưởng gì đáng kể, có chăng chỉ là những trở ngại gây rắc rối lúc ban đầu mà thôi. Trường hợp nếu cung Thân xấu thì Triệt ở đây cũng như người nộm dùng để dọa chim chứ không có năng lực gì đáng kể. Như vậy, nếu người Mệnh Tuần Thân Triệt mà có cung Thân tốt đẹp thì về già cuộc đời cũng đạt được nhiều mãn nguyện. Trường hợp đối với những người Mệnh Triệt Thân Tuần thì cũng tương tự. Mức độ tốt xấu của cung Mệnh sẽ bị chiết giảm nhiều hơn, và sự ảnh hưởng này chỉ xảy ra trong khoảng tiền vận mà thôi. Rồi từ đó cho đến hết cuộc đời, ảnh hưởng của sự tốt xấu trên cung Thân chỉ ở mức độ ôn hoà. Như vậy đối với mẫu người Mệnh Triệt Thân Tuần thì thời gian thử thách nhất là thời thanh xuân, sau đó, nếu cung Thân tốt đẹp thì cuộc đời tương đối cũng được bình ổn. Người Mệnh Thân Tuần Triệt, nếu cung Mệnh hay cung Thân Vô Chính Diệu mà có Tuần hay Triệt đóng thì tốt hơn. Hoặc là cung Mệnh vừa có cả Tuần lẫn Triệt vừa thêm hai sao Thiên Không và Địa Không, tùy theo có bao nhiêu sao Không, chúng ta gọi là cách Mệnh Vô Chính Diệu đắc nhị không, tam không hay tứ không, đều là những cách hoạch phát. Hoặc là nếu Tuần Triệt đóng tại Mệnh hay Thân mà hai cung này Vô Chính Diệu lại được Nhật Nguyệt hợp chiếu thì cũng rất tốt đẹp. Tuần Triệt là hai sao đặc biệt nhất và là đề tài tranh luận. Tùy theo kinh nghiệm thực tiễn mà mỗi người tự chọn cho mình một quan điểm riêng. Dù sao, khi nói đến Tuần Triệt, chúng ta đều thấy ảnh hưởng tốt xấu của hai sao này trên một lá số nào đó không phải là điều đơn giản. Như một người bị chứng đau nhức phải uống thuốc giảm đau, uống thuốc giảm đau nhiều thì lại sinh ra đau bao tử, uống thuốc chữa bệnh đau bao tử nhiều thì lại sinh ra chứng bất lực.. Ảnh hưởng của Tuần Triệt cũng tương tự như vậy, giúp ta bên này thì phá bên kia, và có lẽ cái thâm sâu của khoa Tử Vi là ở chổ đó. Nguon:Quehuongyeudau.blogtiengviet.net
-
Cự Môn là một Bắc đẩu tinh, thuộc hành Thủy. Có lẽ hành Thủy khiến cho Cự Môn trở nên uyển chuyển theo hoàn cảnh, “ở bầu thì tròn, ở ống thì dài” Cự đắc địa đi với những võ tinh thì sẽ hỗ trợ cho võ tinh thêm mạnh mẽ để phát về võ nghiệp. nếu đi với những sao văn tinh thì sẽ thành công trong lãnh vực văn học, nghệ thuật, nếu đi với những sao có khuynh hướng về kinh doanh thì sẽ trở thành những tay kinh doanh cự phách, và tương tự, khi đi với dâm tinh thì Cự rất buông thả. Cự miếu địa ở Mão Dậu, vượng địa ở Tý Ngọ Dần, đắc địa ở Thân và Hợi, hãm ở Thìn Tuất Sửu Mùi, Tỵ. Mặc dù bị xếp hạng là ám tinh nhưng Cự miếu vượng thủ Mệnh là người thông minh và nhân hậu. Cự hãm thì thật sự đúng với biệt danh là ám tinh. Cự là cái miệng, của lời ăn tiếng nói…cho nên khi đắc địa thì khéo ăn nói, có tài hùng biện, có khả năng thuyết phục người. Nhưng nếu hãm thì lời nói thiếu suy nghĩ, thiếu thận trọng dễ mất lòng người và dễ bị tai tiếng thị phi, đôi lúc còn đưa đến tai họa cũng vì cái miệng. http://' target="_blank">Với bản tính bất nhất như đã nói trên, may mắn cho Cự tại hai vị trí miếu địa Mão Dậu, ám tinh này gặp được thiện tinh Thiên Cơ, thuộc Nam đẩu tinh, hành Mộc. Thiên Cơ cũng góp một phần bản chất vào mẫu người doanh thương Cự Cơ Mão Dậu này. Thiên Cơ miếu ở Thìn Tuất Mão Dậu, vượng ở Tỵ, Thân, đắc ở Tí Ngọ Sửu, hãm ở Dần Hợi. Cơ là một phúc thiện tinh cho nên dù hãm cũng không hề mất hết thiện tính của mình. Khi đắc địa, Cơ chỉ sự khéo léo về tay chân, sáng suốt về trí óc, có mưu trí nhưng lại xử sự nhân từ và cởi mở. Nếu ở vị trí miếu vượng thì chủ về phú quý, phúc thọ, và đặc biệt là có năng khiếu về kinh doanh. Như vậy, hai sao Cự Cơ cùng miếu tại Mão Dậu. Hành Thủy của Cự càng sinh vượng cho hành Mộc của Cơ, hơn nữa, cũng tại vị trí này, Cơ đặc biệt có năng khiếu về kinh doanh, cho nên Cự trở thành kẻ đồng hành rất tốt. Với bản tánh gan dạ, liều lĩnh, Cự hỗ trợ Cơ mạnh mẽ trong lãnh vực này. Người Cự Cơ Mãu Dậu là những người trong thương trường. Nhưng chúng ta cần phân biệt lãnh vực hoạt động của đôi bên. Người Tham Vũ Đồng Hành thường hoạt động trong lãnh vực kỹ nghệ chuyên môn v.v… Còn người Cự Cơ Mão Dậu không chuyên về một lãnh vực nào cả, có thể là ngành hàng tiêu dùng, có thể là những sản phẩm về văn học nghệ thuật v.v…Hay nói một cách khác là bản tính uyển chuyển của Cự, cho nên những sao đi kèm với Cự Cơ sẽ quyết định đương số sẽ kinh doanh trong lãnh vực nào. Ví dụ: Mệnh ở Mão hay Dậu có Cự Cơ với Hổ Tuế Phù, thì đây là những người có năng khiếu về luật pháp, những nhà làm luật, những quan tòa hay những danh sư danh tiếng, và chắc chắn những tổ hợp luật sư sẽ là những lãnh vực kinh doanh của họ. Mệnh ở Mão Dậu có Cự Cơ thêm Xương Khúc, Khôi Việt, Khoa, Tấu là người có năng khiếu về văn học, nghệ thuật, cho nên khi vào đường kinh doanh thì lãnh vực hoạt động thường là những nhà xuất bản sách, báo chí, nhạc, hay phim… Mệnh ở Mão Dậu có Cự Cơ thêm Tả Hữu, Lộc, Hình, Y, Quang, Qúy là người kinh doanh trong y dược học. Nhỏ thì là phòng mạch, lớn thì một bệnh viện, một viện bào chế dược phẩm… Nhưng cách Cự Cơ Mão Dậu cũng chỉ mới là giới tiểu thương, nếu muốn kinh doanh với tầm vóc lớn thì phải có thêm Song Hao mới gọi là đắc cách Chúng Thủy Triều Đông, có nghĩa là tất cả các dòng sông đều chảy về hướng Đông. Song Hao thuộc hành Thủy, lại được hành Kim của cung Dậu tương sinh, cho nên nguồn nước sẽ được dồi dào bất tận. Trong thiên nhiên, nước là biểu tượng của tiền bạc. Song Hao lại là biểu tượng của số nhiều. Những dòng sông từ Dậu là phương Tây, chảy về Mão là phương Đông, khiến cho hành Mộc của Thiên Cơ được hưng thịnh, và đây mới đúng là tầm vóc của mẫu người kinh doanh Cự Cơ Mão Dậu. Cũng vì thế mà Mệnh an tại Mão tốt hơn ở Dậu, tốt nhất đối với những tuổi Ất, Tân, Kỷ và Bính, những tuổi này sẽ đạt phú quý một cách dễ dàng hơn những tuổi khác. Nếu Mệnh ở Dậu, thì đương số cũng là người kinh doanh mà trở nên giàu có, nhưng càng giàu thì tuổi thọ càng giảm: “Cự Cơ Dậu, thượng hóa cát dã Túng hữu tài quan, dã bất chung” Nhưng Cự Cơ Mão Dậu đắc cách Chúng Thủy Triều Đông thì lại có người cho rằng Cự Cơ đã gặp Song Hao thì chớ nên có Hóa Lộc mà bị phá cách. Lý do quan điểm này cho rằng Hóa Lộc hành Thổ, khắc với hành thủy của Song Hao khiến cho Thiên Cơ thiếu nước. Lý luận này xét ra không được ổn vì cũng có nhiều sao khác thuộc hành Thổ như Lộc Tồn, tại sao chỉ áp dụng cho Hóa Lộc mà thôi? “Song Hao Mão Dậu ái ngộ Cự Cơ, tối hiềm Hóa Lộc” Thật ra Song Hao ở Mão Dậu kỵ với Hóa Lộc không phải nguyên nhân chính là do sự sinh khắc của ngũ hành mà là do ý nghĩa của Song Hao mà ra. Hao là hao tốn, tiêu hao. Với ý nghĩa đó cho nên Hóa Lộc, Lộc Tồn không nên gặp Hao, nếu gặp thì khác nào mang tiền thả trôi theo dòng nước. Tóm lại, Mệnh ở Mão Dậu có Cự Cơ Song Hao Hóa Lộc hay Lộc Tồn thì đương số cũng là ra tiền một cách dễ dàng, nhưng tiền vào tay mặt thì ra tay trái. Đối với nữ phái, Mệnh ở Mão Dậu có Cự Cơ là người đàn bà có tay làm ăn buôn bán, trên thương trường đương số không thua gì những đấng mày râu. Tuy nhiên, Cơ hiền lành không thể trói buộc nổi Cự với bản tánh liều lĩnh, phóng khoáng. Cự dù miếu vượng cũng có điều bất lợi cho phái nữ bởi vì Cự là cái miệng, là lời ăn tiếng nói, là khẩu thiệt thị phi, khắc khẩu, vợ chồng xa nhau thì thương nhớ, gần nhau thì cãi vã suốt ngày…Cho nên đàn bà có Cự thủ Mệnh hay Thân thì bên ngoài giỏi, tháo vát nhưng bên trong gia đạo thường vẫn có điều không ổn, ít nhiều hạnh phúc gia đình bị những đám mây đen của Cự lãng vãng đâu đó. Đó chính là nguyên nhân khiến cho Cự Môn phải mang danh là ám tinh. Nhưng nếu dùng lăng kính của Freud mà chiếu rọi cho tận cùng, thì một phần chính cũng vì đàn bà Cự Cơ Mão Dậu có khá nhiều tham vọng và khuynh hướng tình dục rất mạnh mẽ. Với bản chất đặc biệt đó chúng ta thấy có hai mẫu người đàn bà Cự Cơ Mão Dậu: 1) Họ có thể che dấu hay dồn nén khuynh hướng tình dục của mình thành những tham vọng trên lãnh vực làm ăn kinh doanh của họ, và đây chính là con đường mà Freud gọi là “tình dục thăng hoa thành tài năng” Trong những trường hợp tương tự như thế, chúng ta mới thấy quan điểm của Freud đã được khoa Tử Vi chứng nghiệm. Thật vậy, khi xét đến những là số của những vị chân tu chúng ta đều thấy hầu hết những lá số này đều có bóng dáng của Đào Hồng hay những dâm tinh khác. Điều này không có gì nghịch lý, kẻ chân tu vốn cũng đầy đủ thất tình lục dục như mọi người, có khi còn mạnh hơn, nhưng cái hay là họ đẩy tất cả những thất tình lục dục đó vào một chữ “không” biến tình dục thành tài năng, và được như vậy họ mới quán triệt được chữ “đạo”, rồi mới hiểu được chữ “ngộ” là gì. 2) Là người có cuộc sống buông thả, phóng khoáng. Họ dùng những thành qủa, giai cấp mà họ đạt được trong xã hội đễ biện minh cho quan niệm sống của họ. Và trên thương trường, đây cũng là người đàn bà không thua sút ai, mà cả trong cuộc chơi, họ cũng là người dám bỏ ngàn vàng để mua lấy trận cười làm vui…Đó chính là mẫu người đàn bà mà chúng ta thường gọi là “đàn bà dễ có mấy ai” Nguon:Quehuongyeudau.blogtiengviet.net
-
Chúng ta vẫn thấy những người tuy sống trong một hoàn cảnh thoải mái, một cuộc sống tương đối đầy đủ nhưng nét mặt của họ lúc nào cũng có sự tư lự, một nét suy tư nào đó, hay phảng phất trên mặt một thoáng buồn miên man như người đang ôm một nỗi niềm tâm sự sâu kín. Khoa Tử Vi, những người này thường cung Mệnh của họ đều có Tang Môn hoặc Bạch Hổ tọa thủ, và chúng ta gọi là mẫu người Tang Hổ.Hai sao Tang Môn, Bạch Hổ là hai bại tinh trong nhóm lục bại. Tuy là hai bại tinh, nhưng người Tang Hổ không phải là người bất tài vô tướng theo cái ý nghĩa mà chúng ta vừa nói đến. Ngược lại, có rất nhiều người đã thành danh cũng nhờ vào hai sao Tang Hổ. http://' target="_blank">Tang Môn thuộc hành Mộc. Bạch Hổ thuộc hành Kim, cả hai đắc địa tại Dần Thân Mão Dậu. hai sao này lúc nào cũng đi đôi với nhau ở vị trí xung chiếu. Tang Hổ đắc địa thủ mệnh là người gan dạ, cương quyết và ngay thẳng. Người Tang Hổ có đủ sự gan lì để thử thách với nghịch cảnh. Khả năng đó có thể xem như ông Trời dành riêng cho họ vì cuộc đời của những người này kể từ lúc lột lòng mẹ thì sự thử thách dành cho họ đã chờ sẳn rồi. Người Tang Hổ thường chịu cảnh mồ côi từ lúc còn bé, nếu không thì tuổi thơ ấu cũng phài chịu cảnh xa cha mẹ, gia đình ly tán, thiếu tình thương và sự đùm bọc của cha mẹ, anh chị. Phải chăng vì vậy mà người Tang Hổ luôn có một nét buồn sâu kín trên khuôn mặt, và nét buồn này sâu đậm nhất trong khoảng thời gian của tuổi thanh xuân tức là khoảng tiền vận rồi sau đó sẽ phai nhạt dần. Để bù trừ cho những bất hạnh đó, người có Tang Hổ đắc địa là người đa tài đa năng, đa hiệu. Tuy tính tình cương quyết và đôi khi trở thành ương ngạnh, nhưng họ là người quyền biến và có khả năng giải quyết công việc cho thích ứng với hoàn cảnh. Năng khiếu nổi bậc nhất của họ là sự suy luận và phán đoán rất sắc bén. Đó chính là yếu tố căn bản cho khả năng hùng biện cũng như khả năng thuyết phục người khác. Vì vậy, những lãnh vực về chính trị, ngoại giao và luật pháp đều là những sở trường của người Tang Hổ. Trong trường hợp Tang Hổ hãm địa thủ mệnh thì cuộc đời luôn gặp nhiều nghịch cảnh đau thương, ngang trái. Nếu không làm những ngành nghề liên quan như cảnh sát, toà án, luật sư…thì dễ vướng vào vòng tù tội và tuổi thọ cũng ngắn ngủi. Về vấn đề bệnh tật, nói chung cả nam lẫn nữ, dù đắc hay hãm, người Tang Hổ thường hay bị đau ốm bệnh tật, nhất là những bệnh về xương, máu như cao huyết áp, mỡ trong máu…Riêng với nữ mệnh thì nét mặt u sầu, chưa lập gia đình thì tình duyên trắc trở, lận đận, khi có gia đình rồi lại khắc chồng khắc con, nếu gặp thêm Thiên Riêu thì mức độ hình khắc có thể thành sát Phối. Cho nên nếu lập gia đình muộn cũng có thể chế giải được phần nào. Nữ mệnh Tang Hổ thì vấn đề sinh nở thường hay gặp khó khăn, khi có con thì lại khổ vì con cái và dễ mắc những bệnh về các bộ phận sinh sản như tử cung, buồng trứng…Ngoài ra, người Tang Hổ, dù nam hay nữ, lúc còn trẻ không có tay nuôi súc vật, sau đó giảm dần. Mệnh an tại Dần có Bạch Hổ là cách Hổ Cư Hổ Vị là cọp trong rừng sâu. Đây chỉ người có tài, có địa vị, quyền uy, và thường phát về võ nghiệp. Mệnh an tại Mão có Bạch Hổ là cách Hổ Xuất Sơn Lâm. Cung Mão thuộc phương đông, là thời gian của bình minh, là thời điểm bắt đầu của một ngày, ánh mặt trời vừa rực rỡ, biểu tượng cho một vận hội tốt đẹp đang chờ đón. Cho nên, người đắc cách này, cuộc đời thường hay gặp được những may mắn đưa đến sự thành công dễ dàng. Bạch Hổ ở hai vị trí Mão Dậu còng gọi là cách “tứ phương củng phục anh hùng” ý nói những người có khả năng lãnh đạo, thâu phục được anh hùng hào kiệt bốn phương. Người mệnh an tại Dậu có Bạch Hổ là cách Hổ Khiếu Tây Phương. Cung Dậu thuộc phương Tây, là thời gian của hoàng hôn vì vậy có người cho rằng Bạch Hổ ở Dậu không tác hại vì đó là lúc cọp đã ăn no nên vào sâu trong rừng mà ngủ. Theo ý của người viết thì hai chữ Tây Phương hàm ý là “cõi Phật” Khiếu Tây Phương là hướng về phương Tây là lạy, cũng có nghĩa là có lòng hướng Phật. Người có cách này là người có tánh tình nhân hậu và thường có khuynh hướng tôn giáo mạnh mẽ. Chỉ nói riêng về lĩnh vực tâm linh, thì người Bạch Hổ Khiếu Tây Phương có phần nào giống người Tử Tham Mão Dậu. Trong hai sao Tang Hổ thì Hổ có tầm ảnh hưởng đáng kể hơn Tang, Ví dụ Hổ đi với Tấu là Hổ mang hòm sách, chỉ người có số khoa bảng, học rộng hiểu nhiều. Hổ gặp Phi Liêm (Phi Hổ) như Hổ mọc thêm cánh, cách này giống như Phi Mã, chỉ những người thường gặp được các vận hội may mắn đưa đến sự thành công rất dễ dàng trong cuộc đời. Hạn gặp Phi Hổ hay Phi Mã là vận may đang đến, nếu dự tính điều gì thì nên mạnh dạn xúc tiến, thi cử sẽ đỗ đạt, tìm việc làm sẽ được như ý, có việc rồi thì sẽ được thăng chức thăng lương… Bạch Hổ cũng là một trong Tứ Linh (Long Phượng Hổ Cái) Mệnh, Quan, Phúc, Di đắc Tứ Linh thì đường công danh thuận lợi và có địa vị trong xã hội. Bộ Tứ Linh cũng chế giải được phần nào những tai họa do các hung sát tinh gây ra. Hạn Tứ Linh là cơ hội tốt cho vấn đề công danh. Bạch Hổ và Thiên Hình hay Kình Dương đồng cung thủ Mệnh là cách “hổ hàm kiếm” (Hổ ngậm kiếm), chỉ người gan dạ, oai dũng, có tư cách và chí khí, nếu có thêm những võ tinh hội họp thì đường binh nghiệp sẽ phát rất nhanh. Tang Hổ cũng là những sao lưu, cho nên hạn có Tang Hổ, gặp Lưu Tang, Lưu Hổ là có tang trong hạn đó. Tang Hổ nhập hạn gặp Khốc Hư cũng cùng một ý nghĩa. Ngoài việc có tang, hạn gặp Tang Hổ cũng nên đề phòng tai nạn và bệnh tật, nhất là những chứng bệnh về máu huyết và bệnh về xương như đau khớp, rỗng xương… Đàn bà lúc có thai và sinh nở mà hạn gặp Tang Hổ cũng nên đề phòng việc sinh khó hoặc hư thai. “Nam nhân Tang Hổ hữu tài uyên bác Nữ mệnh Hổ Riêu đa sự qủa ưu” Hai câu trên có thể dùng để tóm lược những nét đặc thù của mẫu người Tang Hổ: đàn ông Tang Hổ thì đa tài đa năng. Đàn bà Tang Hổ tình duyên ngang trái, gia đạo buồn phiền. Nguon:quehuongyeudau.blogtiengviet.net
-
Đây là ưu điểm tuyệt vời của Phong Thủy Lạc Việt. :blink: Còn Phong Thủy Tàu không có nhắc đến việc hầm cầu nằm cung nào, và khi làm pt cũng không quan tâm là Hầm cầu Bể Phốt đặt tại cung nào ?Chỉ coi hướng và xoay hứong Bếp 360 độ, như nhà Trung. :D Thầy Tàu đến coi, mỗi ngừơi 1 hướng xoay như chong chóng, nhưng cũng không đưa ra đựơc kết luận khả thi. Cố nhân ngày xưa có câu : Hỏa Thiêu Thiên Môn, Thủy Ủng Địa Hộ...Phương Pháp này chỉ có trong Phong Thùy Lạc Việt. :lol:
-
Vài nét về khám Chí Hòa Toàn bộ khu nhà giam rộng bảy hécta. Khu khám lớn gồm một tầng trệt và ba tầng lầu, xây theo hình tám cạnh, mỗi cạnh là một ô. Gồm các ô : A, B, C, D, E, F, G, H và chia thành sáu khu : AB, BC, ED, FG, AH, ID, (có lúc chia thành tám khu); có chấn song sắt kiên cố. Ở mỗi khu được sơn màu sơn khác nhau và can phạm nào ở khu nào cũng đều có mang biển số trên người cùng màu với khu giam của mình. Sự phân biệt này nhằm tạo thuận lợi dễ dàng cho việc kiểm soát của lực lượng canh giữ trại. Một phạm nhân ở khu này tự ý đi vào khu khác đều có thể bị phát hiện được ngay. Ngoài ra còn có ba khu nằm nối lưng với khu bát giác, mà bọn cai ngục gọi là khu hỏa thực, khu bệnh xá, khu kỷ luật. Tại khu kỷ luật có phòng "điện ảnh" và phòng "truyền hình". Tên gọi đẹp đẽ là thế, nhưng mỉa mai thay, đây lại là nơi tra tấn người nghiệt ngã nhất. Năm 1972, do yêu cầu của Bộ tư lệnh cảnh sát quốc gia Sài Gòn, mặc dù có giám thị chịu trách nhiệm phòng an ninh của nhà lao, nhưng vẫn được tăng cường thêm một toán cảnh sát để theo dõi tình hình phạm nhân, nhân viên giám thị và phát hiện những điều đáng nghi qua việc thăm nuôi. Cũng từ đó, quyền hành dần dần lọt vào tay bọn cảnh sát chìm. Khám Chí Hòa tổng cộng có 238 phòng giam, gồm : Khu AB có : 52 phòng Khu ID có : 17 phòng Phòng an ninh : 3 phòng (biệt giam) Khu D có : 65 phòng (diện tích hẹp). Số 101 phòng còn lại đều có diện tích giống nhau. Khu trung tâm lô cốt có dựng một thanh gươm lớn với các hình dấu âm dương, càn khôn, vũ trụ mang ý nghĩa rằng, đây là một thế giới riêng biệt mà những kẻ trót vào đây là không thể nào lọt ra được. Đã từ lâu, có lắm huyền thoại về khu đất "linh thiêng" này. Nhiều người cho rằng, do sự chuyển động của âm dương ở đây như thế nào đó đã gây ra xung khí mạnh. Vì thế ở khu này thường bị sét đánh. Thực tế, sét đã đánh ở khu này nhiều lần. Xây đi, xây lại mấy lượt vẫn bị "đánh". Ngày nay, vào Chí Hòa, các mái ngói của khu bát giác đều đều nhau, nhưng khu FG bị khuyết thấp xuống. Đó là dấu vết còn lại của một ngàn lẻ một câu chuyện ở khám Chí Hòa ngày trước. Ngoài công trình chính của nhà giam, còn có ngôi nhà hai tầng làm văn phòng ban quản đốc và một phòng tuyên úy cạnh lối vào khu AB. Một niệm Phật đài, một ngôi chùa và một nhà thờ được xây dựng trong khu vực khám Chí Hòa. Ở chính giữa nhà tù, một tháp nước có trổ lỗ châu mai, với bốn loa phóng thanh và một cột cờ trên đỉnh. Mùa mưa, sân nhà tù ngập nước, có khi tràn cả vào xà lim ở tầng dưới. Ở khám Chí Hòa có một chiếc máy chém. Chiếc máy chém này có từ thời Pháp được chuyển từ khám Catina sang, do tên đội Phước phụ trách. Theo tài liệu cũ để lại, người cuối cùng chết với chiếc máy chém này là Ba Cụt, tức Nguyễn Văn Vinh, tướng Cao Đài, bị Ngô Đình Diệm giết. Ngày trước, hàng năm vào ngày rằm tháng bảy âm lịch, bọn quản đốc nhà giam tổ chức cúng chiếc máy chém này. Nhiều tù nhân cũng đến thắp hương, lễ bái. Theo nhiều tài liệu để lại, thời Mỹ - ngụy, số lượng tù nhân ở nhà lao Chí Hòa trung bình là 6.000 người, có lúc lên tới 7.000 người. Cũng có tài liệu nói, cá biệt có đợt vọt lên ngót một vạn ! Trong số những phạm nhân vào Chí Hòa có những nhân vật cao cấp trong chính quyền Sài Gòn, như Ngô Đình Cẩn (đã bị bắn chết ngay tại Chí Hòa), Phan Khắc Sửu, Nguyễn Tường Tam, Vũ Hồng Khanh, tướng Vũ Vũ Gia, tướng Lam Sơn... Nghị sĩ Trương Đình Dzu, dân biểu Trần Ngọc Châu..., cũng bị vào Chí Hòa. Cũng như Côn Đảo, Phú Quốc và nhiều nhà tù khác ở miền Nam, bọn địch đã huấn luyện cho nhân viên phụ trách các nhà lao hết sức cẩn mật. Dưới đây là vài điều chúng đã quy định tại những nơi giam cầm tù chính trị, và chưa phải là tài liệu cuối cùng quy định về việc này. Phải có một kho vũ khí, đạn dược chắc chắn, riêng biệt. Nơi đây cấm ngặt sự lai vãng của bất cứ nhân viên nào không phận sự giữ kho. Cũng như hệ thống phòng thủ đồn bót, phải có một sơ đồ hỏa lực để cho mỗi tháp canh có thể khai thác hết khả năng của những vũ khí tự động một cách kiến hiệu. Khám chí Hòa khu đất xưa Nếu được, song song với sơ đồ hỏa lực, mỗi tháp canh phải có đèn rọi mạnh để kiểm soát các rào kẽm gai. Đặt một hệ thống liên lạc giữa các tháp canh với điểm gác cổng chính bằng điện thoại. Tại điểm canh, lúc nào cũng phải có mặt ít nhất hai phần ba quân số và số tối thiểu quân số có mặt bao giờ cũng không thể dưới một tiểu đội. Chặn bắt mọi kẻ khả nghi. Cho phạm nhân ăn cơm sớm, để có đủ thời giờ kiểm điểm lại nhân số trước khi họ vào nhà giam... (Kho Lưu trữ Trung ương 2, hồ sơ mang ký hiệu SC.02, H.184, HS.3512). Nguồn:ChuDu24.com