-
Số nội dung
526 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by Lê Bá Trung
-
Kỳ lạ giếng nước 'chung thủy' nuôi 'cá thần ngàn tuổi' Năm ngoái, trong lễ mừng thượng thọ 103 tuổi, nhiều người trong làng hỏi về 3 “ông cá”, cụ Thị khẳng định như đinh đóng cột rằng, 3 “ông cá” đã bơi lội tung tăng trong giếng Ngọc từ ngày ông mới chập chững biết đi. >> Ly kỳ chuyện 3 'ông cá thần' nghìn năm ở Bắc Ninh Cha của cụ Thị, rồi ông bà của cụ Thị, cũng kể với cụ rằng, từ ngày bé xíu đã thấy 3 “ông cá” trong giếng. Giếng Ngọc (làng Diềm, xã Hòa Long, TP. Bắc Ninh) chỉ rộng chừng 20m2, hình bán nguyệt, gồm 11 bậc xây bằng gạch, 4 bậc đá và bậc cuối cùng bằng gỗ. Hai bên cửa xuống giếng dựng hai hòn đá, đẽo gọt hình “sinh thực khí”. Xưa kia, lan can giếng Ngọc được làm bằng gốm sứ, song mấy trận lụt làm vỡ, nên được xây lại bằng gạch cho chắc chắn. Các bậc gạch cũng mới được xây dựng hơn trăm năm nay, còn bậc đá, và đặc biệt là bậc gỗ, bậc cuối cùng, thì không biết có từ khi nào. Trải qua cả trăm năm, thậm chí có thể là ngàn năm, dù lúc nào cũng chìm trong nước, song khúc gỗ vẫn nguyên vẹn, không hề mục nát. Từ bậc gỗ trở xuống là lòng giếng. Toàn bộ lòng giếng là đá ong tự nhiên. Đáy giếng gồ lên ở giữa, lõm xung quanh, giống vết chân trâu dẫm. Dù mùa mưa hay mùa khô, mực nước trong giếng Ngọc cũng không thay đổi. Có người còn ví von đây là giếng "chung thủy" vì một điều khá đặc biệt là quanh năm suốt tháng, dù mùa mưa hay mùa khô, mực nước trong giếng cũng không thay đổi, luôn giữ độ sâu 6m. Dù mưa to đến mấy cũng không tràn, dù khô hạn cả năm giếng vẫn ăm ắp nước. Gần đáy giếng Ngọc có một cái hang nhỏ, hướng về phía đền Cùng, thờ hai nàng công chúa, người chui vừa, song độ sâu chỉ chừng 2m. Từ cái hang này, mạch nước nhỏ chảy ra đều đặn. Theo các cụ già làng Diềm, nước trong giếng bắt nguồn từ hai ngọn núi Kim Sơn và Kim Lĩnh, thấm qua lớp đá ong nguyên thủy dưới lòng đất, nên trong vắt, rất ngọt. Từ xưa đến nay, người dân làng Diềm vẫn giữ thói quen dùng nước giếng Ngọc. Mặc dù đã có nước máy về từng gia đình, song người dân chỉ dùng nước máy tắm giặt, còn ăn thì bằng nước giếng Ngọc. Phần lan can được xây lại bằng gạch sau khi trận lũ phá hủy lan can bằng gốm. Các bô lão trong làng dùng nước giếng Ngọc để pha trà, còn đàn bà phụ nữ thì gánh về gội đầu. Chị em phụ nữ kể rằng, gội đầu bằng nước giếng Ngọc, không cần dầu gội, dầu xả, tóc cũng mềm mượt, lại chẳng có gầu. Theo lời bác Nguyễn Ngọc Bích, thủ nhang của cụm di tích, dù tìm khắp nước Việt, cũng không tìm ra nguồn nước nào pha trà ngon như nước giếng Ngọc. Nước giếng Ngọc dùng pha trà không những rất ngọt mà còn giữ được màu chè nguyên bản. Đàn ông lấy nước pha trà, đàn bà lấy nước gội đầu. Để thuyết phục tôi, bác Nguyễn Ngọc Bích đã nấu nước giếng Ngọc pha trà. Quả thực, tôi cảm nhận rõ vị ngọt thanh của chén trà, dù loại trà pha chế không phải hảo hạng. Riêng du khách và người dân làng Diềm thì không cần nấu chín nước, cứ cầm cốc xuống giếng múc uống luôn. Đến giờ giải lao, tan học, học sinh trong trường cấp 1 và 2, cách giếng Ngọc không xa, lại kéo nhau ra giếng Ngọc múc nước uống. Mặc dù trường học đã phục vụ đầy đủ nước sạch, song các em học sinh lại chỉ thích uống nước giếng. Ban quản lý cụm di tích đã phải trang bị cả chục chiếc cốc nhựa để đáp ứng nhu cầu những người mê nước giếng Ngọc. Vô tư thưởng thức nước giếng Ngọc. Tôi cũng múc một cốc nước giếng Ngọc, nơi 3 “ông cá” đang tung tăng bơi lội nếm thử. Phải công nhận nước giếng Ngọc có vị ngọt, uống xong mát lịm cuống họng và đầu lưỡi, ngon hơn các loại nước khoáng, nước tinh khiết khác rất nhiều. Du khách đến đây đều tin rằng, những “ông cá” sống dưới giếng Ngọc là cá thần, do đó, giếng cũng là giếng thần và tin luôn nước dưới giếng cũng là nước thần, nên không những múc uống no nê, mà còn mang can đến múc đem về. Để phục vụ chu đáo du khách, mỗi ngày, ban quản lý cụm di tích làng Diềm phải mua hàng trăm chiếc can nhựa, chất đầy trong phòng, bán lại cho du khách với giá hợp lý, để du khách múc nước mang về lấy lộc. Một số hộ gia đình ở làng Diềm cũng chất đống can nhựa trong nhà, nhằm bán cho du khách kiếm lời. Ban quản lý di tích phải mua can để phục vụ du khách. Bác Bích kể rằng, có người ở Hà Nội, tuần nào cũng đánh xe lên tận làng Diềm, chở lô lốc những can, rồi múc nước giếng Ngọc chở đi. Ông ta bảo rằng, dùng nước giếng Ngọc pha trà uống, nên bị nghiện, không có nước giếng Ngọc, không uống nổi trà nữa. Lại có bà, cũng ở Hà Nội, vài hôm lại tìm đến làng Diềm, cúng vái giếng Ngọc, rồi múc nước mang về để… cúng tổ tiên. Theo bà ta, cúng bằng nước “giếng thần” thì mới… linh nghiệm. Lại nói về chuyện 3 “ông cá thần” ở giếng Ngọc. Dù truyền thuyết kể rằng, do hai nàng công chúa và một nàng hầu biến thành, song dân làng vẫn kính trọng gọi bằng “ông”, chứ không phải bằng “bà”, vì trong ý nghĩ của dân làng, khi đã quy y cửa Phật, thì dù nam hay nữ, cũng đều gọi bằng “thầy”. Do vậy, dù theo truyền thuyết cá là hóa thân của công chúa, dù thực tế là giống đực hay cái, cũng đều trân trọng gọi bằng “ông cá”. Nước giếng Ngọc trong vắt như gương. Tôi hỏi bác Bích rằng: “Liệu có chứng cứ gì khẳng định 3 “ông cá” này là cá thần và đã có tuổi gần ngàn năm?”. Ông Bích lắc đầu: “Chúng tôi cũng chịu thôi, chỉ biết dựa vào truyền thuyết từ đời trước mà kể lại cho đời sau”. Tuy nhiên, ông Bích lấy danh dự của một người già, đã ngoài 70 tuổi, khẳng định với tôi rằng, từ ngày còn bé xíu, ông đã thấy có 3 “ông cá” này trong giếng. Ngày đó, 3 “ông cá” đã lớn như bây giờ và hình thù cũng không có gì thay đổi. Cụ Nguyễn Văn Thị, người sống thọ nhất làng Diềm, tới 103 tuổi, là người nắm rõ nhất về 3 “ông cá thần”. Năm ngoái, trong lễ mừng thượng thọ, nhiều người trong làng hỏi về 3 “ông cá”, cụ Thị cũng khẳng định như đinh đóng cột rằng, 3 “ông cá” đã bơi lội tung tăng trong giếng Ngọc từ ngày ông mới chập chững biết đi. Cha của cụ Thị, rồi ông bà của cụ Thị, cũng kể với cụ rằng, từ ngày bé xíu đã thấy 3 “ông cá” trong giếng. Cụ Nguyễn Văn Thị đã mất hồi cuối năm ngoái. Rất nhiều du khách bỏ tiền vào hòm công đức đặt trên thành giếng Ngọc. Như vậy, nếu dựa vào truyền thuyết để khẳng định tuổi đời gần ngàn năm của 3 “ông cá” thì thiếu căn cứ, song dựa vào lời kể của các cụ già trong làng Diềm, rằng tuổi cá lên đến cả trăm năm, thì thật đáng suy ngẫm. Ông Đỗ Văn Hoan, Phó Chủ tịch UBND xã Hòa Long, trong cuộc trao đổi với tôi, cũng không dám khẳng định các “cụ cá” đã được ngàn năm tuổi hay chưa, vì chẳng có chứng cứ khoa học gì cả. Tuy nhiên, ông Hoan cũng khẳng định chắc chắn rằng, từ ngày còn bé, ông đã thấy sự hiện diện của 3 “ông cá” trong giếng Ngọc. Các cụ già trong làng cũng hay kể chuyện với thế hệ sau về sự tồn tại của 3 “ông cá” đặc biệt này. Theo VTC
-
Gia đình anh Cao ở Nghệ An vô cùng sợ hãi khi phát hiện 16 bộ hài cốt dưới nền nhà, ngay giữa vị trí phòng khách, tất cả đều đã phân hủy gần hết. Mới đây trong lúc sửa chữa nhà, gia đình anh Nguyễn Văn Cao (trú tại khối 1 xã Diễn Hồng, huyện Diễn Châu, Nghệ An) cùng nhóm thợ vô tình đào phải 16 bộ hài cốt được chôn sâu dưới đất, tất cả đều đã phân hủy gần hết. Hiện gia đình đã tiến hành chôn cất những bộ hài cốt này tại nghĩa trang xóm Đông Khê. Một trong những khu vực tìm thấy hài cốt trong phòng khách gia đình anh Cao Theo lời anh Cao, những năm 1990 gia đình chuyển lên đây ở thì khu vực này là bãi đất trống, có đôi cây phi lao trồng thưa thớt, bên dưới có nhiều ụ đất như là ngôi mộ chôn sơ sài. Lúc đào móng xây nhà gia đình cũng đã bắt gặp một vài mẩu xương người đang bị phân hủy. Cách nhà anh Cao khoảng 30m là nhà ông Cầm. Năm 2008 khi đào móng sâu để xây nhà cũng phát hiện được 6 bộ hài cốt bao gồm xương ống, xương sọ, răng...gần như đang còn nguyên vẹn. Đem sự việc trao đổi với các cụ cao niên trong làng thì được biết, vùng đất nơi tìm thấy 16 bộ hài cốt là khu vực nghĩa trang. Khi ấy người chết do chạy nạn, do đói... đều được đưa ra chôn ở đây. Sau này chính quyền xã di chuyển những ngôi mộ này đi nơi khác. Tuy nhiên có thể những nấm mộ bị san bằng do thời gian khiến việc di dời bị bỏ sót. Nguồn: VTC
-
Thân chào BQT. Kính nhờ BQT diễn đàn xem lại lỗi không thể sửa được bài viết! Cám ơn BQT. Chúc BQT nhiều sức khỏe và phát triển. Lê Bá Trung.
-
Tin đồn 'ma lửa tấn công': Quần áo đang mặc bỗng cháy Khi thì đống rơm, lúc cái ghế, thậm chí cả quần áo đang mặc trên người cũng bỗng nhiên bốc cháy. Câu chuyện “ma lửa” tại một xã ở Quỳnh Phụ, Thái Bình đã gây ra nhiều hoang mang trong người dân. Chưa đầy một tháng, hơn 20 vụ cháy không rõ nguyên nhân xảy ra tại khu đất của một gia đình ở tỉnh Thái Bình. Trưa ngày 19/3, chúng tôi có mặt tại nhà ông Bùi Văn Nghiễm ở thôn Đồng Tâm (An Đồng, Quỳnh Phụ, Thái Bình) và chứng kiến hàng trăm người dân hiếu kỳ tụ tập trước cửa nhà ông xì xào, bàn tán. Quần áo đang mặc bỗng dưng bốc cháy Tiếp chúng tôi với vẻ mặt đầy lo lắng, ông Bùi Văn Nghiễm kể: hiện tượng đồ đạc tự nhiên bốc cháy xảy ra lần đầu tiên vào buổi trưa ngày 21/2. Một đám khói bốc lên từ đống rơm của gia đình. Mặc dù đã hô hoán dân làng đến cứu, song chỉ ít phút sau cả đống rơm đã bị thiêu rụi hoàn toàn. Khi đó, ông chỉ nghĩ là do trẻ con nghịch ngợm đốt lửa. Nhưng ngay trong buổi chiều cùng ngày, một vụ cháy nữa lại được phát hiện, lần này là đống cây ngô khô dựng ở góc vườn. Mẹ ông Bùi Văn Nghiễm bên vết cháy đen trên tường nhà. Sự việc không dừng ở đó, chiều 25/2, trong gian bếp nhà cụ Bùi Văn Tác (bố đẻ ông Bùi Văn Nghiễm) liên tiếp xảy ra hai vụ cháy không rõ nguyên nhân. Rất may người nhà kịp thời phát hiện và dập tắt đám cháy nên không bị thiệt hại về tài sản. Vài ngày sau đó, cháu Bùi Thị Dịu (cháu cụ Tác) đang ngồi chơi trong nhà, thấy nóng ở lưng, quay lại thấy vạt áo đang mặc bốc cháy. Người nhà xúm lại kịp thời dập tắt ngọn lửa, nên cái áo chỉ bị lẹm một miếng nhỏ. Cũng theo lời kể của ông Nghiễm, chưa đầy một tháng qua đã có tới hơn 20 vụ cháy xảy ra. Khi thì đống rơm, đống củi, lúc cái ghế, cái áo treo mắc trên tường cũng tự nhiên bốc cháy. Các vụ cháy thường xảy ra từ 11 giờ trưa đến khoảng 2 giờ chiều. Đặc biệt, có ba vụ cháy quần áo đang mặc trên người của cháu Bùi Thị Dịu. Vụ gần đây nhất diễn ra vào buổi sáng qua (19/3), khi cháu đang học ở trường thì thấy nóng ở chân, cúi xuống thì thấy gấu quần bốc cháy. Ông Bùi Văn Y, công an viên thôn Đồng Tâm cho biết, vào hồi 15g ngày 18/3, khi mọi người trong gia đình ông Nghiễm đang tập trung ở khu đất sau nhà, thuật lại việc cháy cho một phóng viên báo tỉnh thì phát hiện thấy mùi khét, tiếp đó là luồng khói bốc lên. Tất cả tá hỏa chạy vào nhà thì thấy chiếc áo rét treo trên tường và ghế nhựa dưới nền nhà bốc cháy ngùn ngụt. Tàn tích còn lại sau những vụ cháy không rõ nguyên nhân. Công an vào cuộc Hiện tượng cháy không rõ nguyên nhân đã gây hiếu kỳ và hoang mang cho người dân trong vùng. “Cứ như là có “ma lửa” ấy. Tôi sống gần 60 năm nay, chưa từng thấy hiện tượng này. Cả gia đình tôi đang rất hoang mang lo lắng, không hiểu chuyện gì đang xảy ra. Đêm ngủ cũng không yên giấc, phải cắt cử người thức canh vì sợ cháy nhà. Tôi mong các nhà khoa học sớm về nghiên cứu để làm rõ hiện tượng này”, ông Nghiễm lo lắng nói. Anh Bùi Văn Nam, người không dưới hai lần tham gia chữa cháy ở nhà ông Nghiễm, cũng nhận định đây lạ hiện tượng lạ, chưa hề xảy ra ở vùng thôn quê yên bình này. “Rất mong các cơ quan chuyên môn về nghiên cứu làm rõ nguyên nhân, giải tỏa nỗi lo lắng cho gia đình. Tránh hiện tượng mê tín dị đoan xảy ra”, anh Nam khẩn thiết đề nghị. Chị Nguyễn Thị Khuyến, giáo viên trường mầm non của thôn (đối diện nhà ông Nghiễm) cũng xác nhận sự việc cháy ở nhà ông Nghiễm là có thật và nói: “Chính tôi đã nhiều lần tham gia dập tắt đám cháy. Nhưng nguyên nhân của cháy thì không ai biết là do đâu, vì tất cả các vụ cháy đều được phát hiện trong tình trạng đang cháy”. Trao đổi với chúng tôi xung quanh vụ việc này, Ông Nguyễn Trọng Hiện, Trưởng công an xã An Đồng cho biết, sau khi được gia đình ông Bùi Văn Nghiễm phản ánh, công an xã đã tiến hành theo dõi xem có kẻ nào phóng hỏa, nhưng đến nay vẫn chưa phát hiện được gì. Ông Hiện khẳng định: “Gia đình ông Nghiễm có nhân thân tốt, từ xưa đến nay không hề có hiện tượng mê tín dị đoan và cũng không có ai bị tâm thần phân liệt”. Hiện tại, Công an xã An Đồng đã báo cáo sự việc lên công anh huyện và các cơ quan chuyên môn để tiến hành làm rõ nguyên nhân sự việc. Theo Baodatviet
-
Hy vọng quẻ sẽ ứng nhanh thân chủ sẽ mau hồi phục.
-
(Kính gửi tất cả mọi người trong diễn đàn. Sau khi đọc những bài viết này thì thật sự không cầm lòng được. Sự đau xót thương tâm dành cho những đứa bé chưa được sanh ra đời mà đã phải rời khỏi thế giới này. Mỗi năm không biết có bao nhiêu đứa trẻ như vậy phải chịu đau đớn bị hành hạ thể xác khi còn đang trong lòng dạ của người mẹ. Nhân dịp trong Giáng Sinh này Trung muốn gửi đến tất cả mọi người trong diễn đàn bài viết này cũng muốn nhắn nhủ...Khi có một đứa bé được sinh ra thì thay vào đó là có một đứa bé khác phải lìa xa cõi đời này vĩnh viễn. Hy vọng rằng tất cả mọi người sẽ quan tâm đến bài viết này). THƯ GỬI MẸ Kính thưa Mẹ! Mặc dù con không biết mẹ là ai, vì con chưa một lần được thấy mặt mẹ! Nhưng con vẫn gọi người đã cưu mang con trong dạ một thời, là mẹ. Bởi, cho dù là con vật, nó cũng có mẹ, có con! Nhưng, từ xưa đến nay, không có con vật mẹ nào quyết định giết con mình, không cho nó được chào đời. Còn mẹ, mẹ đã cưu mang con đến 7-8 tháng mà còn quyết định mướn người giết con! Từ khi biết mẹ toan tính phá thai, khi đó con được khoảng 3-4 tháng. Biết mình sắp bị giết, con lo sợ lắm, con đau buồn lắm, luôn khóc than cho số phận suốt ... mấy tháng trời! Con muốn gào thét thật lớn, van xin thật to: "Mẹ ơi ! Mẹ nỡ lòng nào giết con, đứa con bé bỏng đang lớn dần lên trong dạ mẹ. Đứa con có trái tim cùng nhịp đập với trái tim mẹ! Máu mẹ đang chảy vào cơ thể con để nuôi con sống! Sao mẹ lại định giết con? Mẹ đừng giết con tội nghiệp! Con tội tình gì mẹ ơi! Con chắp hai tay, lạy mẹ trăm ngàn lạy, xin mẹ để cho con được sinh ra, được sống, được làm người.Con quyết suốt đời yêu thương và đáp đền ơn mẹ!" Nhưng chưa biết nói làm sao con nói được! Con vô phương, yếu ớt, bất lực, lo sợ từng ngày, từng phút... cho đến ngày Tết trẻ con được vui chơi dưới ánh trăng rằm, thì mẹ đã quyết định mang con đến "Lò sát sinh Thai Nhi"! Thế là hết! Người ta giết con trong dạ mẹ - một cách lạnh lùng!... không chút xót xa!... không tí thương tiếc! - Như một " đồ tể" lành nghề - chuyên giết thai nhi như giết súc vật!.Xong việc, họ đã khoan khoái nhận tiền công, như người làm thuê giết mổ heo, chó, gà, vịt, trâu bò...! Ôi! Đối với con vật, có đôi lúc, người ta còn động lòng trắc ẩn khi: cắt cổ một con gà, đập chết một con chó, mổ thịt một con bò đã nuôi lâu ngày! Còn con, là con người, sao không được như thế?! Mạng sống của con không bằng mạng sống của con bò, con chó, con gà...ư? Khi giết rồi, lôi xác con ra không được, vì con đã quá lớn! Nên họ dùng một cái kềm, có 4 cái mấu nhọn, đưa vào tử cung của mẹ - người giết con - một cách chuyên nghiệp, đã lựa thế cho mấu vào đầu con, một bên 2 mấu... siết thật chặt, móc thật sâu...óc não con vọt ra, trắng hếu, nhầy nhụa... họ mới kéo con ra được!!! Con đã chết rồi, không còn cảm giác gì. Nhưng, chắc lúc đó mẹ đau đớn khủng khiếp lắm? Chắc mẹ oằn người lên, hai tay níu chặt mép bàn sinh, rên rỉ, mặt mẹ tím tái, hai dòng lệ trào tuôn, thân thể mẹ ướt sủng mồ hôi và cả máu nữa!? Làm sao mẹ quên được cái giờ phút hãi hùng ấy, mặc dù đến nay đã 3 năm rồi? Sau đó mẹ lai thuê người đem xác con đi chôn. Khi đem đến Nghĩa Trang Đồng Nhi Pléiku, họ đâu có chôn, mà trao cho người khác chôn con ! (Lại một loại lương tâm bán rẻ hơn lương thực!) Nhờ lòng từ bi của nhóm người đi viếng Nghĩa Trang Đồng Nhi dịp Tết Trung Thu năm ấy, họ đã mua quách về tẩn liệm, chôn con và xây mộ đẹp lắm! Trên mộ con được ghi: "Cháu Trung Thu - Pleiku" Ngày Trung Thu năm 2004, cũng có một thai nhi bị giết chết. Con còn nhớ rất rõ - nhìn khiếp lắm mẹ ơi! - Bạn ấy bị cắt nát, bỏ trong một cái bao nilon máu me đỏ lòm, lầy nhầy, ... nhìn giống như một mớ thịt bằm để chuẩn bị nấu cho heo, vất cho chó - Trước đây, trong thời kỳ thực phẩm khan hiếm, có những người đã mang về từ phòng phá thai mỗi ngày cả " xô", để nuôi lợn cho chóng lớn!-Bởi thế nên không biết bạn là trai hay là gái?! Bạn được mang đến nghĩa trang chung một thùng giấy với con, và cũng được nhóm người có lòng bác ái nói trên, mai táng chu đáo, xây mộ sát bên con, bạn được ghi tên trên mộ là: " Vinh Sơn". Từ đó đến nay, chúng con là bạn của nhau, vui buồn có nhau, an ủi nhau trong cảnh quạnh quẽ, cô đơn, sưởi ấm nhau trong đêm đông mưa giầm, gió lạnh! Chúng con thương nhau lắm, bởi cũng đã chết oan ức, tức tưởi giống nhau. Thỉnh thoảng bạn Vinh Sơn nhớ lại cái chết của mình và khóc than thảm thiết, vì bạn bị giết còn tàn nhẫn hơn con nhiều: cơ thể bạn không còn nguyên vẹn hình hài! Mỗi lần như thế con chẳng biết an ủi bạn thế nào, chỉ biết cùng khóc với bạn, khóc thật nhiều, khóc thật lâu, để chia sẻ niềm đau của người bạn " xấu số hơn con", vì dù gì, thì con cũng là một đứa " con trai nguyên xi !" Mẹ ơi! Nếu mẹ không huỷ hoại con, thì năm nay - Trung thu này - con tròn 3 tuổi. Chắc con cũng được mặc quần áo mới, có mũ giày mới, tay xách đèn ông sao đẹp, đi xem múa lân với bạn bè, lại còn được ăn bánh Trung thu nữa! Con còn hát cho mẹ nghe: "Cháu lên ba... cháu đi mẫu giáo..." khi con tung tăng nhảy chân sáo, nắm tay mẹ dắt con đến trường. Nhưng điều ấy sẽ không còn bao giờ xảy ra nữa! Vì mẹ đã giết chết con rồi! Mẹ ôi! Mẹ đã thấy ảnh của con chưa? Ảnh "Cháu Trung Thu- Pleiku" đấy! Mẹ nhìn kỹ xem, vì con bị lôi ra bằng cái kềm, nên đầu con bị hằn sâu đến 4 lỗ... nhưng nhìn cũng đẹp trai, to con lắm phải không mẹ? Mẹ biết không? Có rất nhiều người rất xúc động, đã không sao giữ cho lệ khỏi trào tuôn khi nhìn ảnh con: mình không mảnh vải, nằm trần trụi trên tờ giấy báo, như đưa hai bàn tay nhỏ xíu chới với níu mấy ngón tay của "một ngưòi" mà con được biết, đó là bàn tay của một Linh mục có lòng từ tâm, ở Pleiku, chuyên lo xây mộ cho các thai nhi bị giết; như van xin: "Hãy thương con, cho con một nấm mộ, nhỏ thôi! Xin đừng để thân xác con lạnh lẽo, bị phơi nắng dầm mưa, bị làm mồi cho mèo tha, chó xé tội nghiệp!". Con bị chết tức tưởi lắm người ơi!... Con nổi tiếng lắm đó mẹ ơi! Có người đã làm thơ, phổ nhạc như để than khóc cho cái chết của con! Ai nghe hát bài "Lời cầu xin của con" do Ngọc Quang sáng tác (ngay đêm Trung thu năm ấy) đều xúc động - nhất là giới trẻ - không cầm được nước mắt! Và cũng nhờ đó mà có nhiều em bé đã được cứu sống! Khi người mẹ - đa số là các bà mẹ trẻ, có khi còn ở tuổi vị thành niên - đang mang con trong dạ cũng định giết bỏ nó - như mẹ cách đây 3 năm - đã khóc nức nở, khi nhìn ảnh của con, và quyết định giữ con mình lại, dù phải trả bất cứ giá nào! Mẹ ơi! Không biết 3 năm qua, mẹ còn giết thêm đứa em nào của con nữa không?! Con nghe nói có những bà mẹ đã huỷ hoại lên tiếp đến 3, 4 đứa con mình mà không thương tiếc, không ân hận xót xa, bởi đã quá quen với việc ác này rồi! Ôi mỉa mai cay đắng! Ôi thế thái nhân tình! Mẹ biết không, hơn 5.000 em bé, tại Nghĩa Trang Đồng Nhi Pleiku này. Còn tại "Nghĩa Trang Không Bia Mộ" ở núi Hòn Thơm Nha Trang, cũng chôn cất hơn 5.000 thai nhi bị giết, và còn nhiều nơi khác nữa: Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng, Buôn Ma Thuột, đường đèo Qui Hoà Qui Nhơn... Thân xác non nớt của chúng con tuy đã tan nát gần hết rồi! Nhưng phần "Anh linh" của chúng con, ai huỷ diệt được!? Con người đâu chỉ có thân xác vật chất mà thôi, như con chó, con bò chết là hết!, nếu chết là hết, sao người ta sợ chết và sợ người chết hả mẹ?! Sao đứng gần xác con chó, con bò chết chẳng ai sợ cả? Chắc bởi con người còn có cái "phần không chết", và người ta sợ cái phần "Anh linh không chết" đó mẹ ơi!? Nhất định là như thế, nếu không, tại sao mỗi năm, cứ đến ngày 27/7, người ta tổ chức đến nghĩa trang Liệt sĩ, để thăm viếng ,để truy điệu "Anh Linh các chiến sĩ"??? Nghĩa cử tưởng nhớ anh linh các chiến sĩ, thật đáng trân trọng vì tự nó đã nói lên một chân lý không thể chối cãi được, đó là: khi chết đi, phần thân xác ai cũng như ai, sẽ tanh hôi thối rữa, mục nát và trở về tro bụi như nhau. Nhưng phần anh linh vẫn còn tồn tại mãi mãi...Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn rất có lý khi đã tin, đã làm thơ, đã phổ nhạc, đã say sưa hát và nhiều người cùng hát lên say sưa : " Người chết nối linh thiêng vào đời... "Nếu chết là hết, thì lấy gì nối linh thiêng vào đời?"... Một lần nữa, con xin lặp lại với mẹ: "Chết không phải là hết". Cho nên một ngày nào đó, chúng con sẽ gặp lại những người đã giết hại chúng con một cách tàn nhẫn, vô nhân đạo và vô... lý đó! Giết người vô tội - mà kẻ bị giết như chúng con, không nói được tiếng van xin hay phản đối, không có một phương tiện nào để tự vệ, không được luật pháp chở che - là một loại tộí ác "Trời không dung Đất không tha"! Cho dù những kẻ đó không "thừa nhận có Trời! Cũng không sao tránh khỏi "lưới Trời lồng lộng" và "án Trời" rất công minh đâu! Họ đã từng lý luận để tự bào chữa: "Tôi không làm thì cũng có người khác làm mà. Họ còn nói: "Sở dĩ con chó, con bò...nó không chủ trương, không giết con còn trong dạ, vì nó không có trí khôn, không biết tính toán cho tương lai", "đồ ngu như bò", "đồ chó má" biết gì!? Theo con nghĩ: nếu con người - về vấn đề phá thai này thôi - cũng "không-khôn" như con vật! thì chúng con đã được bảo vệ, được sinh ra, được cất tiếng khóc chào đời và được sống, như vốn chúng con có quyền được sống, được làm người như mọi người ! Tại sao con người lại chủ trương cướp mất cái "quyền sống" mà Ông Trời đã ban cho chúng con? Mẹ ơi! Con không biết vì lý do nào mẹ đã phải huỷ diệt con? Bị cha con bỏ rơi? Bị gia đình xua đuổi? Vì không đủ ăn? Vì sợ mất chức mất quyền, mất ghế, mất việc? Sợ mất danh thơm tiếng tốt ? Sợ mất tiêu chuẩn để được hưởng quyền lợi?? Hôm nay nhân ngày giỗ 3 năm của con.- 2004-Trung Thu- 2007 - Con thương nhớ mẹ quá nên viết thư này gửi mẹ đây. Không biết bây giờ mẹ con đang ở đâu? Mẹ có được cha con nhìn nhận, yêu thương? Có được gia đình tha thứ? Có được ấm no hạnh phúc, được danh thơm tiếng tốt, được chức quyền địa vị... vì việc mẹ đã huỷ bỏ con không? Hay vẫn bị cha con bỏ rơi, bị gia đình từ chối, vẫn lầm than vất vả, vẫn cơ cực đói nghèo... và vô cùng ân hận, khổ đau? Thế thì việc giết bỏ con đã đem lại điều gì, như mẹ mong muốn? Con thương mẹ quá! Thương mẹ của con nhiều! Con đã tha thứ và luôn tha thứ cho mẹ ! Mẹ ơi! Thôi đừng khóc nữa ! Dù khóc cạn nước mắt, khóc suốt cả cuộc đời, mẹ cũng không làm con sống lại được nữa rồi! Giờ đây, để vơi đi phần nào nỗi khổ đau trong lòng mẹ, để chuộc lại lỗi lầm , mẹ hãy quyết tâm không tái phạm, và tìm mọi cách ngăn chặn hành động ác nhân này. Hãy nói cho người khác biết kinh nghiệm đớn đau trên thân thể, sự nguy hiểm đến tính mạng khi phá thai, và nhất là nỗi dằn vặt, lo sợ, đau khổ trong lòng mà mẹ phải chịu đựng từ ngày phá thai đến nay. Mẹ hãy giúp đỡ, khuyên lơn các cô gái lỡ dại, đừng phá huỷ con mình, và tìm cách giúp đỡ họ cho đến ngày sinh nở. Có khi còn phải tìm nơi nuôi giúp con họ, nếu họ lại muốn bỏ rơi con mình.! Làm được như thế mẹ sẽ lấy lại được sự thoải mái tâm hồn, sẽ không còn lo âu sợ sệt như xưa nay nữa. Con hy vọng mẹ lại có được " Nụ cười nở trên môi"!. Kính chào và hẹn gặp lại mẹ một ngày rất gần đây thôi! Vì cuộc sống này có là bao. Cho dù sống đến 100 năm đi nữa, thì cũng qua nhanh lắm mẹ ơi! Đứa con bất hạnh của mẹ. sau đây là trích lại lời của tác giả:"Những đôi tình nhân kia có biết nếu cha mẹ họ cũng hành động như vậy thì họ cũng không có trên cõi đời này không? Họ có biết thời khắc họ ngập tràn trong ái ân và hạnh phúc trước đó thì sau này những hình hài vô tội, những giọt máu của họ cầu cứu hay không? Tại sao trên đời lại có những người độc ác như vậy cơ chứ? " sau này có chết thề lun là ko bao jo bỏ thai. trừ trường hợp nó bỏ mình.ko thì tội chết. cầu cho những sinh linh bé bỏng đó đc siêu thoát Nguồn:thegioivohinh.net
-
(Dân trí) - Nhìn cảnh toàn thân cháu bé băng bó, hai tay và chân phải treo lên cao để tránh những cơn đau khiến ai cũng phải chạnh lòng. Cháu bé đã trải qua cái Tết với những cơn vật vã do bỏng hành hạ, còn người mẹ thì lo lắng khi tiền đã cạn kiệt… Nằm trên giường bệnh, cậu bé Nguyễn Trang Nguyên (3 tuổi, quê ở xã Giao Phong, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định) 2 chân và 2 tay run lên bần bật, nhưng không dám cử động nhiều vì nếu không em sẽ đau đớn vô cùng. Toàn thân em quấn băng trắng kín từ chân tới cổ, chỉ chừa lại mỗi cái đầu là không bị bỏng xâm lấn. Chỉ vào con trai mình, chị Phạm Thị Thủy, mắt ngấn lệ nói không thành tiếng: “Cháu bị ngã vào hố vôi đợt trước tết khi nhà đang tô trát lại, vôi lút từ chân tới cổ gây bỏng nặng, điều trị cả tháng trời ở Viện Bỏng quốc gia vẫn chưa có dấu hiệu phục hồi nhiều”. Ngã vào hố vôi, bé Trang Nguyên bị bỏng 42%, trong đó bỏng độ 3 và độ 4 đến 35% Xác nhận với PV Dân trí, bác sĩ Nguyễn Như Lâm, trưởng khoa Hồi sức cấp cứu Viện bỏng quốc gia cho biết, so với trường hợp bị bỏng của bé Lê Đại Lợi mà Dân trí đã đăng tải, bé Nguyễn Trang Nguyên nặng hơn rất nhiều do em bị bỏng vôi tới 42%, mà trong đó 35% là bỏng sâu độ 3 và độ 4, lộ cả mỡ và gân ra ngoài. “Người bị bỏng vôi phải gánh 2 tác nhân lớn là nhiệt và bazơ, nguy cơ bị hoại tử dẫn đến tử vong rất lớn, nhất là với trẻ nhỏ như em Nguyên. Đây được đánh giá là một trong những ca bỏng nặng nhất ở Viện chúng tôi từ trước đến nay”. GS-TS Lê Năm, Giám đốc Viện Bỏng quốc gia cũng khẳng định, trường hợp bỏng của em Nguyên như đang gặp bão cấp 12, đang phải điều trị tích cực mới thoát được hiểm nghèo. Ông Lê Năm cũng cho biết, em Nguyên đã phải trải qua 4 lần phẫu thuật cấy ghép da đối với những mảng da đã bị hoại tử. Ngày 25/2, em Nguyên tiếp tục phẫu thuật cấy ghép da lần thứ 5, và khả năng sẽ còn nhiều lần phẫu thuật cấy ghép da trong thời gian tới. Lần phẫu thuật thứ 5 này khác với lần trước là không phải lấy phần da ở chân, bụng mà cắt da ở đầu để cấy ghép, bởi vì toàn bộ cơ thể của em Nguyên không còn chỗ nào lành lặn để cắt da nữa. Từ mái tóc đen nhánh, Nguyên đã phải cạo trọc đầu để chuẩn bị cho buổi cấy ghép vào ngày mai. Từ một cậu bé khỏe mạnh, hiền lạnh, Nguyên đang đối mặt và chống chọi trong đau đớn với nhưng vết thương do bỏng hành hạ. Nguyên những ngày đầu nhập viện Bây giờ em phải cạo trọc đầu để lấy da ghép cho những nơi đang bị hoại tử ở bụng và chân Khi thấy chúng tôi, Nguyên chỉ đưa mắt nhìn vừa tỏ vẻ lạ lẫm vừa cố gắng nín nhịn đau đớn. Em không cất một tiếng khóc, thi thoảng lại đưa ánh mắt nhìn mẹ như cầu cứu. “Cháu thấy người lạ thì nín, nhưng còn lại hai mẹ con thì cháu lại khóc ngằn ngặt vì đau. Thấy con đau lòng tôi cũng như xát muối trong lòng mà chẳng biết phải làm sao”, chị Thủy vừa cúi xuống vỗ về con trai vừa nói với chúng tôi. Điều quan trọng hơn, gia cảnh của chị Thủy cũng quá đỗi khó khăn. Ở quê nhà, nguồn thu nhập của chị Thủy chỉ dựa vào nghề làm muối. Chồng chị làm nghề thợ xây nên cũng rất long đong, vất vả. Số tiền mà chị Thủy vay mượn để chạy chữa cho cháu Nguyên hơn một tháng nay đã lên đến 100 triệu đồng, mà tương lai của cháu vẫn còn “thăm thẳm” ở phía trước. Tổng Biên tập Báo điện tử Dân trí Phạm Huy Hoàn trao tặng 3 triệu đồng cho em Nguyên để phẫu thuật cấy ghép da “Tiền đang cạn kiệt, chẳng biết vay mượn ở đâu được nữa. Có khi hết tiền đành phải đưa con về nhà thôi, nhưng mà nhìn con vật lộn với đau đớn thì tôi không nỡ. Ước gì tôi mới là người bị bỏng chứ không phải cháu”, chị Thủy cầu mong. Nhận số tiền ủng hộ 3.000.000 đồng của Tổng Biên tập Báo điện tử Dân trí Phạm Huy Hoàn, chị Thủy mừng mừng tủi tủi. Mọi đóng góp hảo tâm xin gửi về: 1. Chị Phạm Thị Thủy, xã Giao Phong, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định hoặc ủng hộ trực tiếp tại Khoa Hồi sức cấp cứu Viện Bỏng quốc gia, Hà Nội. ĐT: 01233910977 2. Quỹ Nhân ái - Báo Khuyến học và Dân trí - Báo điện tử Dân trí (Hà Nội) Số 2/48 Giảng Võ, Đống Đa, Hà Nội (Cạnh cây xăng Kim Mã) Tel: 04. 3. 7366.491/ Fax: 04. 3. 7366.490 Email: quynhanai@dantri.com.vn * Tài khoản VNĐ: Tên TK: Báo Khuyến học & Dân trí Số TK: 10 201 0000 220 639 Tại: Ngân hàng Thương mại Cổ phần Công Thương Việt Nam - Chi nhánh Hoàn Kiếm * Tài khoản USD: Tên TK : Báo Khuyến học & Dân trí Số TK : 10 202 0000 004346 SWIFT Code: ICBVVNVX106 Tại: Ngân hàng Thương mại Cổ phần Công Thương thành phố Hà Nội 3. Văn phòng đại diện của báo: VP Hà Tĩnh: 46 Nguyễn Công Trứ, Phường Tân Giang, TP Hà Tĩnh. Tel: 039.3.857.122 VP Đà Nẵng: 25 Nguyễn Tri Phương, Quận Thanh Khê, TP Đà Nẵng. Tel: 0511.3653.725 VP HCM: 40/17/16 Nguyễn Văn Đậu, phường 6 quận Bình Thạnh. Tel: 08. 35107. 331 VP Cần Thơ: 53/13 Lý Tự Trọng, Q Ninh Kiều, TP Cần Thơ. Tel: 071.3.733.269 Nguồn: Dantri
-
Cách đặt lò, bếp Những người tuổi Đông tứ trạch là Khảm, Ly, Chấn, Tốn phải để lò, bếp nơi Tây tứ trạch là để vào hướng: Khôn, Cấn, Càn, Đoài, nhưng phải lựa nơi sơn hướng tốt mà để. Như đặt lò, bếp tại hướng KHÔN thì phải để tại MÙI, THÂN kiết, KHÔN hung; đặt tại hướng CẤN phải để tại DẦN kiết, còn SỬU, CẤN hung; đặt tại hướng CÀN thì để tại TUẤT kiết còn CÀN, HỢI hung; đặt tại hướng ĐOÀI thì phải để tại CANH kiết, còn DẬU, TÂN hung. Nhưng miệng lò, bếp phải ngó ngay qua phía Khảm, Ly, Chấn, Tốn mới đúng. Những tuổi thuộc Tây tứ trạch (hay Tây tứ mạng cũng thế) là Khôn, Cấn, Càn, Đoài thì phải đặt lò, bếp nơi Khảm, Ly, Chân, Tốn và chọn sơn nào có khoanh trống là hướng kiết mà để, còn miệng lò, bếp thì cho ngó ngay qua 4 hướng: Khôn, Cấn, Càn, Đoài. CHÚ Ý: Phải tùy cung mạng của chủ nhà chớ không phải thấy cung tốt trong Bát quái mà dùng được đâu. Trong 24 sơn hướng có 12 sơn hướng hung kỵ tất cả cung mạng, dù Đông tứ trạch hay Tây tứ trạch, 12 sơn hướng ấy là: Càn, Hợi, Nhâm, Tý, Quý, Sửu, Cấn, Ất, Đính, Khôn, Dậu và Tân, 12 sơn hướng còn lại là: Tuất, Dần, Giáp, Mẹo, Thìn, Tốn, Tỵ, Bính, Ngọ, Mùi, Thân và Canh là 12 vị trí đặt lò, bếp lên đó được kiết, nhưng phải theo cung tuổi mà chọn. Bài thơ dưới đây có ý nói vị trí an lò, bếp quan trọng chẳng kém gì hướng day miệng lò, bếp. (Khai táo môn lộ an đồng táo vị) Táo nhập CÀN cung thị diệt môn NHÂM, HỢI nhị vị tổn nhi tôn GIÁP, DẦN đắc tài, THÌN, MẸO phú CẤN, ẤT thiêu hỏa tức tào ôn TÝ, QUÝ, KHÔN phương gia khốn khổ SỬU phương tổn súc, gia họa ương TỴ, BÍNH phát tài, CANH đại phú NGỌ phương vượng vị phú nhi tôn. TÂN, DẬU, ĐINH phương đa tật bịnh THÂN, TỐN, MÙI, TUẤT trạch hanh thông. Tác táo thiết kỵ dụng phấn thổ Tân chuyên cận thủy thiết an ninh NGHĨA: Táo đặt vào cung CÀN thì gia môn bị suy sụp Đặt vào 2 cung NHÂM, HỢI hại cho con, cháu. Đặt nơi 2 cung GIÁP, DẦN có tiền, THÌN, MẸO được giàu. Cung CẤN, cung ẤT bị ôn dịch. Ba cung Tý, QUÝ, KHÔN nhà bị khốn khổ. Phương SỬU hại lục súc, nhà gặp họa ương Hai sơn TỴ, BÍNH phát tài, phương CANH đại phú. Phương NGỌ là phương vượng, con cháu được giàu, TÂN, DÂU, ĐINH, 3 phương này nhiều tật bịnh. Cung: THÂN, TỐN, MÙI, TUẤT gia đạo được hanh thông. Làm bếp rất kỵ đất dơ, dùng: Gạch mới hay đá ở mé nước rất tốt. HỎA MÔN (Miệng Lò Bếp) Hướng day miệng Lò, Bếp có những ảnh hưởng tốt xấu ra sao? 1. Cầu tử nghi tác Sanh khí táo: muốn cầu con, nên day miệng lò bếp qua hướng Sanh khí. 2. Giải bịnh, trừ tai nghi tác Thiên y táo: Muốn giải bịnh, trừ tai họa, nên day miệng lò bếp qua hướng Thiên y. 3. Khước bịnh, tăng thọ nghi tác Diên niên táo: Muốn đẩy lui bịnh tật và tăng tuổi thọ nên day miệng lò bếp qua hướng Diên niên. 4. Cầu vi như y do tác Phục vì táo: Việc mong cầu được xứng ý do miệng lò, bếp day qua hướng Phục vì. 5. Tranh đấu, cừu thù do tác Họa hại táo: Xảy ra việc tranh đấu, cừu thù là do miệng lò bếp day phạm hướng Họa hại. 6. Hao tán, đạo thác do tác Lục sát táo: Bị Hư hao, trộm cắp làm mất mác do miệng lò bếp day phạm phải phương Lục sát. 7. Quan tụng, khẩu thiệt do tác Ngũ quỷ táo: Bị việc kiện thưa, đôi chối là do miệng lò bếp day phạm hướng Ngũ quỷ. 8. Tật bịnh, tử vong do tác Tuyệt mạng táo: Bị bịnh tật, chết chóc do miệng lò bếp day qua hướng Tuyệt mạng. TÁO TÒA (Vị trí đặt bếp) Vị trí để bếp chịu những ảnh hưởng tốt, xấu thế nào? Nếu để bếp: CHIẾM PHƯƠNG THIÊN Y: Bịnh hoạn liên miên, thuốc thang không hiệu. CHIẾM PHƯƠNG SANH KHÍ: Lâm quỷ thai, lạc thai, khó bề sanh sản. Có con cũng không thông minh, không đắc tài, không người trợ giúp, ruộng vườn, súc vật tổn thâu. CHIẾM PHƯƠNG PHỤC VÌ: Ắt vô tài, tổn thọ, cả đời túng khó. CHIẾM PHƯƠNG DIÊN NIÊN: Không thọ, hôn nhơn khó thành, vợ chồng không hạp, bị người gièm siểm, ruộng vườn hao tán, súc vật bịnh hoạn, gia đạo túng khó vân vân ... CHIẾM PHƯƠNG TUYỆT MẠNG: Sống lâu, không bịnh hoạn, nhiều của, không bị kiện thưa, đông con, tôi tớ không thiếu, không nạn tai thủy hỏa. CHIẾM PHƯƠNG LỤC SÁT: Được thêm người, phát tài, không đau ốm, không bị kiện thưa, khỏi nạn tai thủy hỏa, gia môn yên ổn. CHIẾM PHƯƠNG HỌA HẠI: Khỏi lo thối tài, không bị người hại, không bịnh hoạn, khỏi chuyện thị phi, thưa kiện. CHIẾM PHƯƠNG NGŨ QUỶ: Không tai họa, không lo trộm cướp, tôi tớ ngay thẳng, siêng năng, đắc lực, không bịnh hoạn, cửa nhà thạnh vượng, lục súc gia tăng. ĐIỀU CẤM KỴ NÊN TRÁNH Phòng hậu táo tiền gia đạo phá: Phòng ở phía sau, bếp ở phía trước gia đạo hư. - Táo hậu phòng tiền tử tôn bất hiền: Bếp ở phía sau, phòng ở phía trước con cháu chẳng hiền. - Phòng tiền hữu táo tại MÙI, KHÔN, SỬU, CẤN thượng, sanh tà quái chi họa: Trước phòng có bếp mà bếp lại đặt trên 4 cung MÙI, KHÔN, SỬU, CẤN sẽ sanh ra tai họa tà quái. - Phong tiền hữu táo, tâm thống khước tật: Trước buồng có để bếp bị bịnh tâm thống (đau tức ở tim) và bịnh ống chân. - Đồng hạ hữu táo chủ âm lao kiếp: Làm bếp ngay dưới cây đòn dông nhà chủ về người đàn bà bị bịnh lao và bị mất cướp. - Khai môn đối táo tài súc đa hao: Làm cửa đối diện với miệng lò bếp thì của cải và lục súc bị hao hớt đi nhiều. - Khanh hãm nhược đối táo, chủ nhãn tật, tà sự đa đoan: Hầm hố nếu đối diện với bếp thì chủ về bịnh mắt, sanh ra nhiều việc tà quái. - Táo hậu phòng tiền tai họa liên miên: Bếp phía sau buồng phía trước sẽ gặp tai họa liền liền. - Táo hậu phòng khanh tuyệt tự cô quả: Bếp để ở phía sau buồng và hầm bị tuyệt tự (không người nối dõ), cô quả (góa bụa). - Tỉnh táo tương liên cô, sưu bất hiền: Giếng và bếp đối diện nhau thì mẹ chồng và nàng dâu không có đạo đức. - Táo tại MẸO phương mạng phụ yểu vong: Bếp đặt tại phương MẸO thì bực Mạng phụ (phu nhơn = vợ) bị chết oan. - Táo tại CẤN biên gia đạo bất diên: Bếp ở về hướng CẤN gia đạo không bền lâu được. Nguồn: QuangDuc.com
-
Chào TNT. Nếu như nhà chị khuyết góc như vậy có thể dùng gương gắng đối diện góc khuyết của ngôi nhà để gương có thể làm đầy lại chỗ khuyết. Đông nam năm nay Ngũ hoàng đại sát đến hướng cho nên chị đừng nên động nhé, sẽ không tốt. Thân.
-
Như đệ đây cũng mạng lô trung hỏa ( Sách Tàu) cứ đi xe đỏ là bị mấy anh đoremon bắt, kể cả đứng đổ xăng. Vậy mà đi xem thầy, thầy nào cũng nói là màu đỏ hợp. Xem lại bên Lạc Việt mới biết mình là mạng Thủy hix. :D
-
Nhắc đến Khám Chí Hòa chắc hẳng ai ai cũng biết đến , nói thông thường thì có từ thời Pháp. Tuy nhiên Khám Chí Hòa không chỉ thông thường là một trai giam mà mọi người từng nghĩ mà nó là một Trận đồ triệt để về Âm Dương, Ngũ Hành và theo Kỳ Môn Trận Pháp. Nếu ai đã tìm hiểu về dịch lý, dịch thuật, Tam thức, nếu có cơ hội chứng kiến tận cảnh xây cất, sắp đặt của Khám Chí Hòa, nó là một trận đồ vô cùng màu nhiệm. Kỳ môn Độn Giáp nếu muốn đi đến tuyệt đỉnh của môn học này thì phải có thiên, địa giao lưu. Phải có cái lực trong cõi giới vô hình thì trận đồ mới hoàn toàn phát được cái lực uy vũ, vô cùng tận của nó. trận đồ này được bày ra do một vị thầy rất là cao tay ấn. Những vị thầy như thế này, thật sự không phải lúc nào cũng có thể gặp. Trong trận đồ này đã được 8 cô gái đồng trinh trấn giữ , cho nên, trong Khám Chí Hoà, trên nguyên tắc là những ai mà bị vô “sỗ bì đen” rồi, thì đừng bao giờ mà mong có thể thoát khỏi Khám Chí Hoá. Tuy nhiên, nếu nói theo ngôn ngữ của bên Tiên Gia thì vì ông trời có luôn có đức hiều sanh, cho nên trận đồ Kỳ Môn phải có cửa “Sanh”. Vị thầy này khi sắp đặt trần đồ này, vì phải làm theo tụi sự yêu cầu của Thực Dân Pháp, có thể ông ta biết, mà cũng có thể ông ta không biết cho nên trong 8 vị đồng trinh này, có một vị không còn là gái đồng trinh nửa. Khi trận pháp đã được dàn ra, trên nguyên lý là không có gì có thể thoát ra được trần đồ này, nhưng cũng vì có một ngưới con gái không còn là động trinh nửa, cho nên, Khám Chí Hoá, tuy bị giam nhưng cũng có người có thể thoát ngục được. Nếu có thoát đi chăng nửa, trước sau cũng bị bắt trở về. Trận Bát Quái đồ này rất sát, nếu như có một tù nhân nào chết trong đó thì linh hồn cũng không được siêu thoátlinh hồn của họ phần cũng bị giữ lại, không thể nào thoát được. Vị vậy ở đây, âm khí, lẫn oán khí rất là nặng, và cũng vì lý do này mà Khám Chí Hoà thường hay có Lôi Công, Lôi Mẫu đến thăm viếng luôn. Vì có duyên nên được vào tham quan trong trại vì nhà Trung cũng có người Bác làm trong trại giam ăn ở sinh hoạt ngay trong trại. Trại giam khi đi vào thì rất ngộp ngạt âm khí rất nhiều bao trùm xung quanh trại giam này. Khi vào nhà giam còn thấy một thanh kiếm rất to nghe nói là "Tru Tiên Kiếm" trấn hình như là ngay giữa Trại Giam này, nghe kể lại thanh kiếm này là toàn bộ kiến trúc trong trại này ,mà khi nghe kể lại thì tác dụng của thanh kiếm này dùng để trấn yếm những kẻ cao tay ấn khi bị bắt vào trong trai này, khi bị bắt vào đây mọi công lực sẽ bị mất hết không làm bất cứ thủ đoạn gì trong trại này được, nếu nhìn từ trên vệ tinh chụp hình lại thì quả thật đúng là một trận đồ khổng lồ ngay thành phố. Hình này chụp được từ vệ tinh google map. Lê Bá Trung
-
:( Chúc Mừng Sinh Nhật Huynh Thiên Đồng. :( :) Chúc huynh nhiều niềm vui và thành công trong cuộc sống. :) Lê Bá Trung.
-
Chúc Mừng Sinh Nhật Rin86. Chúc Thành đạt và luôn vui tươi trong cuộc sống. :)
-
:P Nhân dịp xuân Canh Dần. :( Kính chúc thầy Thiên Sứ :P và tất cả đại gia đình lý học đông phương một năm mới An Khang- Thịnh vượng-Sức khỏe dồi dào-Gia đình sum vầy-Phát lộc trong đầu năm mới :P
-
Chúc Mừng Sinh Nhật Anh Minh Châu. Chúc anh và Gia đình luôn tràn ngập niềm vui trong cuộc sống. :(
-
Ngôi nhà và chiếc hố chôn tội ác .... Nguồn: thegioivohinh.net Đó là ngôi nhà nhỏ, chỉ khoảng 40m2 nằm trong một con hẻm hẹp và thấp, thuộc khu xóm nghèo ở quận Tân Bình, cư dân đa phần là người lao động và dân nhập cư. Sẽ chẳng có gì đặc biệt nếu nơi đây không từng xảy ra một vụ án mạng nghiêm trọng, khiến dư luận bàng hoàng, phẫn nộ… Ngôi nhà dán bùa và những nữ sinh bỏ chạy Người vừa đến thuê chưa được 1 tuần đã dọn đi. Cửa lại được sơn mới và dán thêm bùa. (Ảnh chụp sáng ngày 29-5-2007. S.P.) Bao nhiêu năm qua, những thông tin về ngôi nhà luôn được cập nhật, là đề tài thời sự tại các quán cà phê quanh khu vực này. Câu chuyện về các nữ sinh viên đến trọ học, rồi lần lượt kẻ trước người sau… bỏ chạy luôn luôn được người ta kể đi, kể lại không biết bao nhiêu lần. “Người ở lâu nhất chưa được đầy tháng, còn người mau nhất chưa tới 1 tuần” – những người hàng xóm kể. “Nửa đêm, chợt thấy một cô sinh viên tung cửa lao bắn ra khỏi nhà, vừa chạy vừa khóc” – một người dân phụ họa. “Buổi trưa có anh sinh viên đến tìm bạn gái. Gõ, gọi rồi đập cửa mãi một lúc sau mới thấy cô bạn xuất hiện, mặt mũi thất thần, cô ấy nói không ra mở cửa được vì bị đến… 3 cái bóng đè” - một người khác thêm. Được biết, cách đây 1 tuần lại có người dọn đến rồi cũng vội vã dọn đi. Ngôi nhà lại được quét sơn mới và cửa lại dán thêm lá bùa mới chờ người kế tiếp đến thuê. Cú điện thoại khẩn của anh thợ hồ Vào một buổi trưa cuối năm 2000, khi người người tất bật, nhà nhà nô nức chuẩn bị đón tết Canh Thìn thì anh trực ban Công an phường 13, quận Tân Bình, bất ngờ nhận được một cú điện thoại lạ lùng của một người thợ hồ ngụ cùng phường, giọng rụt rè, nghi hoặc: “Tôi được thuê đào một cái hố vừa to, vừa sâu, lại gần như ngay giữa nhà, cạnh lối cửa ra vào, chủ nhà nói là đào hầm phân tự hoại. Vừa bước vào nhà tôi đã nghe mùi tanh hôi rất khó chịu, chủ nhà bảo do cống nghẹt nhưng tôi quan sát thấy phía chiếc giường được che chắn nhiều mùng màn, có một vệt nước đen chảy ra… Tôi ngờ có một vụ giết người và hình như người ta đang định thủ tiêu xác, các anh cho người tới đào chiếc hố này lên coi thử”. Thông tin lập tức được báo cáo, xác minh. Tại khu vực trên, nhiều bà con cũng phản ánh rằng vài ngày qua nghe có mùi khăn khẳn mà không biết xuất phát từ đâu. Đến gần căn nhà “có chiếc hố lạ lùng”, mùi hôi càng nồng. Nhà vắng. Công an phường phối hợp với cảnh sát hình sự, ban điều hành khu phố và tổ dân phố phá khóa bước vào. Trên nền gạch có dấu vết một chiếc hố to, hình chữ nhật vừa mới tráng xi-măng. Căn nhà lập tức được niêm phong chờ quyết định. Sáng sớm hôm sau, một thanh niên đến công an phường cự nự: “Tại sao niêm phong nhà có chủ?”. Anh ta lập tức bị giữ lại. Tra vấn đến hết ngày, anh ta cũng chỉ loanh quanh “không biết”, cho đến khi một cảnh sát hình sự nói thẳng: “Chúng tôi sẽ cho đào chiếc hố ở nhà anh lên xem có gì”. Anh thanh niên liền tái mặt… Mâu thuẫn từ anh em Thuận, Hòa Chủ nhân ngôi nhà đó là ông bà Nguyễn Thiếp, Nguyễn Thị Tuyết Lan - cán bộ hưu trí, quê quán Quy Nhơn, Bình Định, tạm trú TPHCM, diện KT3 - và 2 con trai “trên Thuận, dưới Hòa”. Anh con trưởng Nguyễn Minh Thuận được cha mẹ cho ăn học đến nơi đến chốn, tốt nghiệp ĐH Tài chính-Kế toán nhưng chưa tìm được việc làm. Nguyễn Minh Hòa chỉ học hết lớp 12 và đã đi làm vệ sĩ tại Công ty Bảo vệ Long Hải. “Hòa người cao, to nhưng tính tình hiền lành, chịu khó, siêng năng. Dạo đó, Hòa đang được phân công bảo vệ tòa nhà Sun Wah thì được tin anh bị giết” - Giám đốc Kế hoạch Công ty Bảo vệ Long Hải, bà Bùi Thị Hòa, nhớ lại. “Cả nhà chỉ trông cậy vào đồng lương của Hòa, bà Lan bị tai biến mạch máu não nên thường xuyên ra vào bệnh viện. Không có việc làm, Thuận lại là người thích ăn chơi, tiêu xài, nên thường “thó” tiền trong túi của em trai, vì thế anh em Thuận, Hòa liên tục cãi vã. Ông Thiếp, bà Lan thường bênh vực Hòa hơn. Với chút tiền hưu trí, ông bà có lần tiết lộ với hàng xóm “để dành lo cho thằng út lấy vợ”. Thuận biết được điều đó nên càng nuôi lòng thù ghét em” – anh Q., người hàng xóm nhà ở ngay đầu hẻm, kể. Lời khai ban đầu Thuận khai Hòa để mẹ té nên la mắng, Hòa cãi lại, Thuận lấy thanh ma trắc vụt vào mặt Hòa, Hòa quỵ xuống, tưởng Hòa giả bộ, Thuận đánh tiếp vào đầu cho đến khi Hòa chết. Bà Lan trông thấy cảnh ấy nên ngã bật ngửa đập đầu vào cạnh bếp, tắt thở. Ông Thiếp từ quê vào hỏi mẹ và em đâu, Thuận thú nhận đã lỡ tay giết và quỳ lạy, xin cha đừng tố giác, ông Thiếp nghe thế đập đầu vào cạnh giường, máu ra nhiều nên cũng chết ngay… Kết quả khám nghiệm tử thi Cả 3 người đều bị đánh vào vùng đầu nhiều nhát bằng ma trắc và côn nhị khúc đến lún, nứt, vỡ sọ. Tại hiện trường, công an tìm thấy 2 hung khí này với những vệt máu khô đen. Các nạn nhân bị vùi xuống hố ngay giữa nhà, lấp cát và tráng xi-măng, xác chảy nước, phân hủy, mùi hôi phủ trùm lên cả khu xóm… Tội ác trời không dung Trước khi xảy ra vụ án vài ngày, bà Lan xuất viện về trông nhà, còn ông Thiếp trở về quê để “chuyển hồ sơ bảo hiểm y tế cho bà Lan và chuyển sinh hoạt Đảng” - ông cho bạn bè biết. Vào một buổi tối, Thuận và Hòa lại tiếp tục cãi vã chuyện tiền bạc, máu nóng bốc lên cùng với bao nhiêu tỵ hiềm chất chứa, Thuận dùng thanh ma trắc bất ngờ đánh vào đầu Hòa từ phía sau. Bà Lan thấy thế bổ nhào vô ôm lấy Thuận, Thuận dùng côn nhị khúc vụt vào đầu bà, Hòa mất khả năng chống cự nên cả hai tiếp tục bị Thuận đánh cho đến chết trong cơn cuồng sát. Ông Thiếp từ quê lên cũng bị Thuận xô vào trong, giết nốt nhằm bịt đầu mối. Thuận chất xác cả gia đình mình lên chiếc giường, lấy mùng mền đậy lại. Vài hôm, xác bốc mùi, Thuận thuê người đến đào chiếc hố… Sự trừng phạt nghiêm minh Tháng 9-2000, phiên sơ thẩm Tòa án Nhân dân tối cao (TANDTC) tuyên Nguyễn Minh Thuận tội giết người: Tử hình. Đương sự làm đơn thú tội, xin Nhà nước khoan hồng, cho được sống để… thờ cúng cha mẹ (!). Tháng 2-2001, phiên phúc thẩm TANDTC tuyên Nguyễn Minh Thuận phạm tội giết người dã man, động cơ đê hèn, không còn nhân tính, tuyên y án sơ thẩm: Tử hình. Ngôi nhà… 0 người Vắng chủ nhân, không người thừa kế, ngôi nhà hoang tàn với chiếc hố được khai quật, đào xới lở lói, cát đá vương vãi… tiếp tục gây kinh hãi cho bà con lối xóm rất lâu sau đó. Một hôm, có người bà con đến lấp hố, quét vôi, sơn sửa, đổi số nhà. Tuy nhiên, nhà không có giấy chủ quyền nên không sang bán được, chỉ có người xa lạ đến thuê. Ám ảnh vì những lời đồn đãi, lần lượt hết người này, kẻ nọ đến rồi đi. Hiện ngôi nhà vẫn tiếp tục hoang vắng, lại chìm nổi trong những câu chuyện buồn về cả một gia đình trong phút chốc chẳng còn ai.
-
CHÚC MỪNG SINH NHẬT ANH PHẠM THÁI HÒA, CHÚC ANH NHIỀU SỨC KHÒE VÀ THÀNH CÔNG TRONG MỌI LĨNH VỰC. :( :lol: :P
-
CHÚC MỪNG SINH NHẬT THẦY THIÊN SỨ. :lol: CHÚC THẦY NHIỀU SỨC KHỎE VÀ HOÀN THÀNH SỨ MỆNH 5000 NĂM CỦA NỀN VĂN HIẾN LẠC VIỆT. :rolleyes: :lol: :P
-
DƯƠNG TRẠCH TAM YẾU (KIẾN TRÚC HỌC PHƯƠNG ĐÔNG) Triệu Cửu Phong Tự Tự Dương trạch tam yếu là nhà ở dương thế có ba chỗ chính yếu đó là cửa cái, chủ-phòng và bếp. Nói tắt là cửa phòng và bếp. Mồ mả của người chết thuộc âm cơ có ảnh hưởng tốt xấu cho cả dòng họ. Nhà ở của người đang sống trên dương thế gọi là dương trạch cũmg vậy, cũng ảnh hưởng lớn lao tới gia trưởng, liên hệ tới vợ con, với tất cả thân thuộc trong nhà. Ví dụ như trong một quốc gia gốm nhiều tỉnh, quận, xã… phải được lập dựng ở những nơi thuận tiện, và tại mỗi cơ quan đó phải được cự trị bởi các bậc nhân tài có đức hạnh thì guồng máy chính trị mới thông đạt rồi quốc gia mới giàu mạnh, mới hưng lên được. Cũng như vậy tong một ngôi nhà gồm cửa cái, chủ phòng và bếp là ba chỗ chính yếu rất quan trong cần được đặt tại các cung vị tốt thì nhà mới hưng phát, người trong nhà mới sinh sống yên ổn, giàu sang. Trái lại đặt tại những cung vị xấu thì nhà cửa sẽ suy đồi, con người sẽ sa sút, bệnh hoạn nghèo túng. Rất vô ích mà đổ thừa là không biết. Luật thiên nhiên của tạo hóa không thiên vị người sang hay hèn, thuộc Đạo hay giống dân nào. Hễ ai đốt đuốc đi trong mưa ắt đuốc sẽ tắt, ai bắn trúng chim sẽ được thịt. Nước gió xuôi tất thuyền sẽ chèo mau tới mà dễ, nước gió ngược tất thuyền chèo đi lâu mà hay va chạm. “Thuận thiên gia tồn, nghịch thiên gia vong” là như vậy. Nhưng chúng ta cũng nên đặt nghi vấn để làm sáng tỏ môn Bá trạch: Tại sao có những người ở ngôi nhà hung hại (cửc, phòng, bếp đặt cung vị xấu) mà vẫn thịnh vượng, giàu sang? lại có những ngôi nhà kiết lợi (Cửa, phòng, bếp đặt cung vị tốt) mà vẫn không phát đạt – Sự thật có nhiều trường hợp như vậy, song chẳng phải do lý ấy mà môn bát trạch vô dụng, không đúng. Vì nơi đây chỉ luận riêng môn Bát trạch thuộc về phần địa lợi mà thôi. Ngoài phần địa lợi, chúng ta chưa luận đến can số tức là số phận và thời kỳ hung hại đềi là yếu tố quan trọng của sự thịnh suy hy giàu nghèo. Huống chi còn những dữ kiện khác nữa như: Người đạo đức khác người hung ác, người siêng năng khác với người biếng nhác, phóng túng….. Kết luận khái quát: Ngôi nhà kiết lợi hay ngôi nhà hung hại tất nhiên phải có ảnh hưởng tốt xấu tùy theo mnỗi con người như trên đã phân biệt. Đại khái ở ngôi nhà kiết lợi người có can số nghèo hèn hoặc vận đang suy cũng sẽ đủ ăn, người có can số tầm thường hoặc thời vận chưa thông sẽ được khá lên và dư ăn dư để, người có căn số giàu nhỏ hoặc thời vận thông đạt vừa sẽ phát lên giàu có lớn . . . Và tất cả những người đó đều có cuộc sống yên lành, ít bệnh hoạn, ít rủi ro. ít tai nạn, v ...v.... Đại khái ở ngôi nhà hung hại: Người có căn số giàu lớn hoặc đang thời kỳ thông đạt lớn cũng sẽ bị giảm bớt mà chỉ còn giàu có trung bình, người có căn số giàu nhỏ hoặc đang thời kỳ thông đạt vừa tất sẽ chỉ còn đủ ăn, người có căn số vừa đủ ăn hoặc đan thời kỳ không thông đạt ắt sẽ suy vi . . và tất cả những người đó đều có một cuộc sống khó khăn, hay bệnh hoạn, hay gặp rủi ro và tai nạn, v..v.. Tôi vì ba lẽ sau đây mà soạn lục bộ Dương trạch tam yếu này: 1. Một là tôi cố ý mong cho người dùng môn Bát trạch có một lối qui định và sử dụng nó một cách chính xác, có những phương pháp tính toán tường tận cùng sự chỉ dẫn đầy đủ. 2. Hai là vì tôi biết chắc chắn trăm phần trăm có sự ứng nghiệm hưng suy của môn bát trạch, sau nhiều năm đã dùng cho mình và đã giúp nhiều gia đình khác 3. Sau hết, còn một điều này nữa, chúng ta cũng nên biết, cổ nhân đã dạy: Muốn thành công viên mãn một sự việc nào, cần đủ ba điều thiết yếu: thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Như chỉ luận trong phạm vi nhà cửa thì Thiên thời là chọn năm, tháng, ngày, giờ tốt để khởi công xây dựng hay sửa chữa nhà cửa; Địa lợi là chọn phương hướng tốt để đặt nhà và cung vị tốt để an trí Cửa - cái, Chủ - phòng và Bếp; Nhân hòa là được lòng người như: hợp với lệ luật, hòa với thân nhân và lân nhân Tóm lại, trong muôn điều, cái biết là hơn tất cả. Biết cái dở để tránh và biết cái hay để làm theo, thật không còn chi bằng. Vậy nay có bộ Dương - trạch tam yếu, chúng ta hãy cùng học khảo cho biết rồi thực hành để tránh cái dở mà theo điều hay, tức là để khỏi ở một ngôi nhà hung hại mà được ở ngôi nhà kiết lợi. Đó chính là một cách xu kiết tị hung, tức theo lành mà lánh dữ vậy! Nhà khảo cứu môn Bát Trạch NGUYỄN MINH THIẾT Tháng 8 năm 1962 THIÊN I DẪN LỘ Dẫn lộ là dẫn đường. Thiên Dẫn Lộ gồm 25 bài, tuy chưng dùng vào việc xây cất hoặc sửa chữa nhà cửa, nhưng rất cần phải am hiểu trước, bằng không sẽ gặp khó khăn và bỡ ngỡ như người mới đến chốn xa lạ mà không được ai chỉ dẫn đường đi nước bước khi khảo cứu những thiên kế tiếp. Mặc dù ở những thiên kế tiếp vẫn có sự dẫn giải kỹ càng, vẫn có lắm chỗ đã nói rồi còn lập lại hoặc nói lại tương tự hoặc tóm tắt, hoặc thay đổi câu chữ .. nhưng đó chẳng qua vì ngại lời văn chưa sáng nghĩa thì có lời văn khác bổ túc. Tuy nhiên, chẳng thể nào để thiếu, thiên dẫn lộ cần thiết như cái địa bàn chỉ hướng. Bài 1 - TỨ TRẠCH Dương trạch tam yếu phân loại nhà ở làm 4 loại: Tịnh trạch, Động trạch, Biến trạch, Hoá trạch. 1) TỊNH TRẠCH: Nhà xây chỉ có một phòng, trong nhà không có tường ngăn. 2) ĐỘNG TRẠCH: Là từ mặt tiền tới mặt hậu được chia làm từ 2 ngăn tới 5 ngăn bởi tường vách chặn ngang có chừa cửa ra vào. Tủ, bình phong và màn trướng không kể là phòng, ngăn. 3) BIẾN TRẠCH: Là nhà từ mặt tiền tới mặt hậu được phân làm từ 6 ngăn tới 10 ngăn bởi tường vách chặn ngang có chừa cửa ra vào. Tủ, bình phong, màn trướng không được kể là phòng, ngăn. 4) HOÁ TRẠCH: Là nhà từ mặt tiền tới mặt hậu được phân làm từ 11 ngăn tới 15 ngăn bởi những tường vách chặn ngang có chừa cửa ra vào. Tủ, bình phong, màn giăng không được kể là tường vách. BÀI 2: ĐÔNG TÂY TRẠCH, TRÙ, MỆNH. - Năm chữ tựa đề trên là nói: gồm: Đông tứ trạch, Tây tứ trạch, Đông trù, tây trù, Đông Mệnh, Tây Mệnh. Trạch là nhà. Trù là táo, bếp. Mệnh là mệnh cung của chủ nhà tính theo tam nguyên. + Đông Tây: Môn Bát trạch dùng 8 cung nhưng chia làm 2 phe phía: Đông và Tây. Đông thuộc Mộc, Tây thuộc Kim. Đông cũng gọi là Đông tứ cung vì nó gồm 4 cung: Khảm, Ly, Chấn, Tốn. Chấn Tốn thuộc Mộc về Đông đã đành, nhưng thêm Khảm Ly nữa vì Khảm Thuỷ với Mộc tương sanh và Ly Hoả với Mộc cũng tương sanh. Bốn cung này đồng một phe phía với nhau cho nên gặp nhau tất hỗ biến thành những du niên tốt (Xem cách Bát biến du niên bài 8). Tây cũng gọi là Tây tứ cung vì nó gồm 4 cung: Kiền, Khôn, Cấn, Đoài. Kiền Đoài thuộc Kim đã đành, nhưng có thêm Khôn Cấn nữa vì Khôn Cấn Thổ với Kim là tương sanh. Bốn cung này đồng một phe phía với nhau cho nên gặp nhau tất hỗ biến được những kiết du niên tốt (xem bài 8). Nếu Đông tứ cung gặp Tây tứ cung hỗ biến với nhau tất gặp những hung du niên, xấu – vì hai phe khác nhau, phe Đông Mộc với phe Tây Kim tương khắc (xem bài 8). - Chú ý: Tây tứ cung là Kiền Khôn Cấn Đoài so với nhau đều đặng tương sanh hay tỵ hoà chớ không có tương khắc. Nhưng Đông từ cung là Khảm Ly Chấn Tốn so – đối với nhau đa số cũng tương sanh và tỵ hoà, song có Khảm với Ly là tương khắc, mặc dầu hỗ biến cũng được du niên tốt vậy. Đó là chỗ sai biệt vậy. – (Kiết du niên là du niên tốt gồm có: Sinh khí, Diên niên, Thiên y và Phục vị. Hung du niên gọi là du niên xấu gồm có: Tuyệt mệnh, Ngũ quỷ, Lục sát, Hoạ hại). + Đông tứ trạch: là nhà có Cửa cái và Chủ phòng hay Sơn chủ đều ở trong vòng 4 cung Khảm Ly Chấn Tốn thì nhà ở tất tốt vì cùng một phe với nhau. Nếu có lộn Tây tứ cung thì gọi là Đông Tây tương hỗn (hỗn loạn) nhà ở tất xấu. + Tây tứ trạch: là nhà có Cửa cái và Chủ phòng hay Sơn chủ đều ở trong vòng 4 cung Kiền Khôn Cấn Đoài thì nhà ở tất tốt vì cùng một phe với nhau. Nếu có lộn Đông tứ cung vào thì gọi là Đông Tây tương hỗn, nhà ở tất xấu. + Đông trù: là Bếp đông. Phàm Bếp đặt tại 1 trong 4 cung Khảm Ly Chấn Tốn thì gọi là Đông trù. Đông trù đem thịnh vượng cho Đông tứ trạch nhưng làm suy bại Tây tứ trạch. + Tây trù: là Bếp Tây. Phàm bếp đặt tại một trong 4 cung Kiền Khôn Cấn Đoài thì gọi là tây trù. Tây trù làm thịnh vượng cho Tây tứ trạch, nhưng gây suy bại cho Đông tứ trạch. + Đông mệnh: Mệnh của chủ nhà là 1 trong 4 cung Khảm Ly Chấn Tốn thì gọi là Đông Mệnh (xem cách tính ở bài 21). Đông Mệnh nên ở nhà Đông tứ trạch mới tốt, bằng ở nhà Tây tứ trạch không hợp, bớt tốt. Tóm lại: - Ở Đông tứ trạch phải dùng Đông trù mới tốt. Nếu chủ nhà thuộc Đông mệnh nữa là nhà trọn tốt, bằng chủ nhà thuộc Tây mệnh thì bớt tốt. - Ở Tây tứ trạch phải dùng Tây trù mới tốt. Nếu chủ nhà thuộc Tây mệnh nữa là nhà trọng tốt, bằng chủ nhà Đông mệnh thì bớt tốt. - Ở Đông tứ trạch mà dùng Tây trù là cái nhà bất lợi, không thể thịnh vượng. Nếu chủ nhà Đông mệnh còn khá một ít, bằng chủ nhà Tây mệnh càng suy vi. - Ở Tây tứ trạch mà dùng Đông trù là cái nhà bất lợi, không thịnh vượng được. Nếu chủ nhà thuộc Tây mệnh còn có thể đỡ một chút, bằng Đông mệnh càng suy vi. - Cửa cái thuộc Đông tứ cung mà Chủ phòng hay Sơn chủ thuộc Tây tứ cung là cái nhà Đông Tây hỗn loạn, bất phát. Nếu dùng Đông trù có thể đủ ăn, bằng dùng Tây trù là suy sụp. Nếu dùng Tây trù mà chủ là tây mệnh nữa thì cùng khổ cực điểm. - Cửa cái thuộc Tây tứ cung mà chủ phòng hay Sơn chủ thuộc Đông tứ cung là cái nhà Đông Tây hỗn loạn, chẳng phát lên được. Nếu dùng Tây trù còn có thể đủ ăn, bằng dùng Đông trù ắt suy sụp. Đã dùng Đông trù mà chủ nhà Đông mệnh nữa thì cùng khổ cực điểm. BÀI 3: BẢY CHỖ QUAN HỆ VỚI NHÀ - Một ngôi nhà có 7 chỗ quan hệ tức là có ảnh hưởng tốt xấu: Cửa - ngõ, Cửa - cái, Cửa - phòng, Cửa - bếp, Chủ - phòng hay Sơn - chủ, Bếp và Hướng - bếp. Sở dĩ nói Chủ - phòng hay Sơn - chủ bởi ở Tịnh - trạch dùng Chủ - phòng làm chỗ chủ yếu, còn ở Động - trạch và Biến - Hoá - trạch dùng Sơn - chủ làm chỗ chủ yếu. (Chú ý: tên các chỗ quan hệ luôn luôn có gạch nối.) - Trong 7 chỗ quan hệ có 3 chỗ chính yếu ảnh hưởng trọng đại để quyết định ngôi nhà tốt hay xấu. Còn 4 chỗ kia thuộc hàng thứ yếu (phụ thuộc), ảnh hưởng bình thường, chỉ có thể thêm bớt tốt xấu mà thôi. - Ở Tịnh - trạch, có 3 chỗ chính yếu là Cửa - cái, Chủ – phòng và Bếp. Còn 4 chỗ thứ yếu là Cửa - phòng, Cửa - bếp, Hướng - bếp và Cửa - ngõ. - Ở Động - trạch và Biến - hoá - trạch, 3 chỗ chính yếu là Cửa - cái, Sơn - chủ và Bếp. Còn 4 chỗ thứ yếu cũng như ở Tịnh - trạch là: Cửa - phòng, Cửa - bếp, Hướng bếp và Cửa - ngõ. SỰ SAI BIỆT TRONG BA CHỖ CHÍNH YẾU - Ở Tịnh - trạch dùng Chủ - phòng chỉ thừa một du - niên mà thôi và lấy tên du - niên này mà đặt tên cho nhà, như Sinh - khí - trạch hay Thiên - y - trạch chẳng hạn. Còn ở Động - trạch và biến - hoá - trạch thì dùng một Sơn - chủ đã thừa một du - niên lại còn thêm ảnh hưởng với một “Sao - chúa” rất trọng hệ nữa, vậy lấy tên du – niên và cả Sao – chúa để đặt tên cho nhà, như Diên – niên – trạch, như Tham – lang – trạch, Vũ – khúc – trạch chẳng hạn. - Cửa cái là một nơi chính yếu, vì nó là lối đi vào nhà, nếu dựng trúng tại cung tốt tức như người đi trúng vào chốn may mắn, bằng dựng tại cung xấu tức như người đi vào chốn nguy hiểm, tối – tăm, chông gai. Cửa – cái là mẹ sanh ra các du – niên cho chủ – phòng, cho Sơn – chủ và cho Bếp. Vì vậy, nên hễ Chủ – phòng, Sơn – chủ và bếp thừa du – niên tốt tức Cửa – cái tốt, vì mẹ tốt mới sanh ra các con tốt, bằng thừa du – niên xấu tức Cửa – cái xấu, vì mẹ xấu mới sanh con xấu. - Chủ – phòng hay Sơn – chủ đều là những nơi chính yếu, trụ cột, chủ yếu, làm chủ toàn thể ngôi nhà cho nên gọi là Chủ – phòng, là Sơn – chủ . Nếu có được ở nhằm cung tốt và thừa du – niên tốt hay Sao tốt là nhà ở thịnh vượng và yên lành. Bằng ở nhằm cung xấu và thừa du – niên xấu hay sao xấu là nhà ở suy vi, chẳng yên. - Bếp là chỗ chính yếu vì nơi sinh dưỡng, nuôi sống con người, nếu được an trí nơi cung tốt và thừa du – niên tốt thì sự sinh dưỡng mới đặng lợi ích, ít bệnh hoạn. Bằng an trí tại cung xấu và thừa du – niên xấu khác nào sự sinh dưỡng bị đầu độc gây ra đủ các bệnh chứng cả tai hoạ. Trăm bệnh đa số do nơi ăn uống sinh ra. TÓM LẠI: Ba chỗ chính yếu được đặt vào 3 cung tốt là đối với nhau được tương sinh hay tỵ hoà và 3 cung đều thừa kiết du – niên hay kiết – tinh thì quyết định một ngôi nhà thịnh vượng. Bằng trái lại đặt trúng vào 3 cung xấu là đối với nhau tương khắc và đồng thừa du – niên hay hung tinh thì quyết định ngôi nhà suy bại. Nhan đề quyển sách có hai chữ Tam – yếu đó là 3 chỗ chính yếu nói trong bài vậy. SỰ SAI BIỆT TRONG 4 CHỖ THỨ YẾU - Trong 4 chỗ thứ yếu thì Hướng – bếp có tầm quan trọng hơn cả, kế đó là Cửa – phòng và Cửa – bếp, sau hết là Cửa – ngõ. Người xưa không kể tới Cửa – ngõ, có lẽ vì nó không thuộc về ngôi nhà. - Cửa – phòng và Cửa – bếp ở Tịnh – trạch ít quan trọng, còn ở Động – trạch và Biến – hoá – trạch được quan trọng nhiều hơn. Đó là bởi ở Tịnh – trạch thì Chủ – phòng và Bếp bị lệ thuộc, tất cả các cửa của nó cũng bị lệ thuộc, còn ở Động – trạch và Biến – hoá – trạch thì Phòng – chúa và Bếp chiếm riêng một ngăn nhà độc lập, tức nó có tầm quan trọng hơn trong hàng thứ yếu. ĐO LƯỜNG TỐT XẤU CHO 7 CHỖ - Cái việc đo lường tốt xấu không lấy đâu là quyết định cho đúng từng phân ly như việc trắc lượng bằng toán pháp, nhưng đại khái cũng có thể phân biệt chỗ khinh chỗ trọng, nhiên – hậu mới giảo định được một cái nhà thịnh hay suy, thịnh suy nhiều hay ít. Vả lại còn sự phân lượng tốt xấu cho chỗ chính yếu thì khác, cho những chỗ thứ yếu thì khác. Những chỗ chính yếu và thứ yếu của loại trạch này với loại trạch kia cũng lại không hoàn toàn bằng nhau. Vậy tạm định như sau: - Ở Tịnh – trạch có 3 chỗ chính yếu là Cửa – cái, Chủ – phòng và Bếp. Còn 4 chỗ phụ thuộc kia là Hướng – bếp, Cửa – bếp, Cửa – phòng và Cửa – ngõ. - Động – trạch và Biến – hoá – trạch cũng có 3 chỗ chính yếu là Cửa – cái, Sơn – chủ và Bếp. Lại phải kể Phòng – chúa có Sao – chúa là chỗ thiết yếu nhất hạng. Còn 4 chỗ phụ thuộc kia, cũng như ở Tịnh – trạch, ảnh hưởng tam thường. - Mỗi chỗ chính yếu trọn tốt thì được 30% tốt, trung bình thì được 15% tốt, bằng trọn xấu thì 30% xấu. - Mỗi chỗ phụ thuộc trọn tốt thì được 10% tốt, trung bình thì được 5% tốt, bằng trọn xấu thì định 10% xấu. Ba hạng: trọn tốt, trung bình và trọn xấu là như vầy: * Trọn tốt: là chỗ gặp kiết du –niên hay kiết – tinh mà phải đắc vị hay đăng – diện. Có 3 kiết du – niên là Sinh – khí, Diên – niên và Thiên – y (Phục – vị cũng được gọi là kiết du – niên, nhưng chỉ tốt bằng phân nửa). Có 3 kiết tinh là Tham – lang, Vũ – khúc và Cự – môn (Phụ Bật cũng là kiết tinh nhưng chỉ tốt bằng phân nửa). Trọn tốt là được 30% tốt. Riêng Phục – vị và Phụ Bật trọn tốt là 15%. * Trung bình: là chỗ gặp kiết du – niên hay kiết – tinh nhưng thất vị, được 15% tốt. Riêng Phục – vị và Phụ Bật chỉ được trên dưới 5% tốt. *Trọn xấu: Là chỗ gặp hung du – niên như Tuyệt mệnh, Ngũ quỷ, Lục sát và Hoạ hại. Hoặc gặp hung tinh như Phá quân, Liêm trinh, Văn khúc và Lộc tồn. Phàm hung du – niên hay hung tinh cũng vậy, thì kể là trọn xấu 30%, dù đắc vị hay đăng diện cũng vậy. - Phàm kiết du – nên hay kiết tinh cũng vậy, đối với nó gặp cung tương khắc là thất vị. Gặp cung tương sanh là đắc vị, gặp cung tỵ hoà (đồng loại) là đăng – diện tốt bậc nhất, đắc vị tốt bậc nhì, thất vị tốt bậc ba. Đắc vị mà có sanh cung tốt hơn cung sanh nó. - Riêng kiết tinh đắc vị hay đăng diện mà được ở tại ngăn chót tức ngăn cuối cùng gọi là nhập miếu, không có cách nào tốt hơn nó được. Tính sẵn như sau: * Sinh khí và Phục vị thuộc Mộc: gặp các cung Kiền Đoài Cấn Khôn là thất vị, gặp các cung Khảm Ly là đắc vị, gặp các cung Chấn Tốn là đăng diện. * Thiên y thuộc Thổ: Gặp các cung Chấn Tốn Khảm là thất vị, gặp các cung Ly Đoài Kiền là đắc vị, gặp các cung Cấn Khôn là đăng diện. * Diên niên thuộc Kim: gặp các cung Ly Chấn Tốn là thất vị, gặp các cung Cấn Khôn Khảm là đắc vị, gặp các cung Kiền Đào là đăng diện. * Tham lang và Phụ Bật thuộc Mộc: gặp các Sơn – chủ Kiền Đoài Cấn Khôn là thất vị, gặp các Sơn – chủ Khảm Ly là đắc vị, gặp các Sơn – chủ Chấn Tốn là đăng diện. * Cự môn thuộc Thổ: gặp các sơn – chủ Chấn Tốn Khảm là thất vị, gặp các sơn – chủ Ly Kiền Đoài là đắc vị, gặp các sơn – chủ Cấn Khôn là đăng diện. * Vũ khúc thuộc Kim: gặp các sơn – chủ Ly Chấn Tốn là thất vị, gặp các Sơn – chủ Cấn Khôn Khảm là đắc vị, gặp các sơn – chủ Kiền Đoài là đăng diện. (Chú ý: Những kiết du – niên so đối với cung sở – thừa của nó mà tính. Còn những kiết tinh so đối với sơn – chủ mà tính. VƯỢNG TRẠCH CÁCH VÀ SANH TRẠCH CÁCH - Vượng trạch: phàm kiết tinh hay kiết du – niên đồng một loại với trạch là cách rất tốt, thêm sự thịnh vượng cho nhà. Như Đông – tứ – trạch (thuộc Mộc) mà dùng Tham lang Mộc tinh làm Sao – chúa, hoặc Chủ – phòng hay Sơn – chủ thừa sinh khí Mộc. Như Tây – tứ – trạch (thuộc Kim) mà dùng Vũ khúc Kim tinh làm Sao chúa hoặc Chủ – phòng hay Sơn – chủ thừa Diên – niên Kim. - Sanh – trạch: Phàm kiết tinh hay kiết du – niên sanh trạch là cách tốt, thêm sự phát đạt cho nhà. Như tây – tứ – trạch (thuộc Kim) mà dùng Cự môn Thổ tinh làm Sao – chúa, hoặc Chủ – phòng hay Sơn – chủ thừa Thiên – y Thổ. Phàm được hai cách trên (Vượng – trạch hay Sanh – trạch) mà kiết tinh hay kiết du – niên lại đăng diện hay đắc vị thì sự thịnh vượng, sự phát đạt càng mạnh càng lâu bền. (Còn nữa)
-
Trước khi đọc bài này, bạn phải cân nhắc kỹ. Vì muốn chuyển tải những thông điệp cảnh báo về tai nạn giao thông có hiệu quả, tác giả buộc lòng phải kể những chi tiết tương đối nhạy cảm. Mặc dù có gia giảm mức độ mang tính kinh dị nhưng sẽ ảnh hưởng đối với những người dễ xúc động. Hầu như dọc các tuyến đường bộ, đường trên khắp đất nước, nơi nào cũng có những ngôi miếu nhỏ. Bình thường, ít ai chú ý đến những ngôi miếu nhỏ xíu, cất đơn sơ, nằm khiêm tốn bên vệ đường hoặc bờ sông, mép rạch. Thế nhưng thử hỏi thăm lai lịch những ngôi miếu ấy, khi nghe kể xong, chắc chắc ai cũng phải rùng mình. Ngoại trừ một số tín đồ tôn giáo xây miếu trước cửa nhà đề thờ thổ thần, còn lại, hầu hết những nơi khác, người ta cất miếu để nhang khói cho những người chết oan, chết thảm khốc giữa đường. Vì vậy những ngôi miếu ấy được gọi lả “miếu oan hồn”, “miếu cô hồn” hoặc “miếu vong hồn”. Những cái chết rùng rợn, chết oan giữa đường chiếm số ít là do ngã bệnh, đột quị, số đông còn lại thuộc về tai nạn giao thông. Mà đã chết tại chỗ do tai nạn giao thông thì hiếm có cái chết “hiền”. Chuyện nạn nhân bị phanh thây, tay một nơi, đầu một nẻo đã ám ảnh tâm trí những cư dân sống ven quốc lộ thường xuyên. Có lẽ do chứng kiến và bị ám ảnh những cái chết thảm khốc ấy, người ta thường thấy ma, quỉ. Và khi có người bị ma nhát, quỉ ghẹo, những nơi ấy, người ta lập ngay miếu thờ. Về mặt tâm linh, người ta cho rằng những ngôi miếu ấy sẽ giúp vong hồn người chết sẽ được siêu thoát, không quấy rầy người sống. Về mặt xã hội, những cái miếu ấy xem như “biển báo” cho những người điều khiển xe trên đường biết rằng “nơi đây thường xảy ra tai nạn chết người rùng rợn”. Tại cây số thứ 25, Bàu Cỏ, xã Tân Hung, huyện Tân Châu, Tây Ninh có một ngôi miếu nhỏ. Theo lời người dân nơi đây kể lại, cái chết đầu tiên xảy ra nơi đây vào nằm 1975 là một cô gái. Thời điểm đó, con đường này chưa tráng nhựa, nhà cửa thưa thớt. Đó là con đường của cánh xe “be” tải gỗ đại thụ nặng hàng chục tấn từ rừng già Campuchia về. Hàng đêm từng đoàn xe “be” chạy rung rinh mặt đất cho đến sáng. Để trốn thuế kiểm lâm đặt chốt tại Tân Trung, mỗi đoàn xe chỉ mở đèn chiếc đầu tiên và chiếc cuối cùng. Những chiếc chạy giữa chỉ mở đèn gầm. Một buổi sáng sớm, người dân địa phương rúng động khi phát hiện xác chết của một cô gái nát bấy nằm giữa đường. Có lẽ, tai nạn xảy ra từ lúc nửa đêm và từng chiếc xe nằng hàng chục tấn cứ liên tiếp nghiền xác cô gái cho đến khi phát hiện. Người dân địa phương phải nhặt từng mẩu xương và chút thịt vương vãi lẫn với đất cát để mai táng. Không hiểu vì sao, cái đầu cô gái còn nguyên vẹn nằm lăn lốc trong một vạt cỏ hôi cao quá đầu người. Bẳng một thời gian, đêm nọ, bà Hai là người mẹ chiến sỹ đã từng bám trụ vùng đất cách mạng từ thưở kháng chiến đến lúc đất nước thống nhất, có chuyện cần phải đi ngang qua nơi xảy ra tai nạn vào ban đêm. Bỗng nhiên bà trông thấy một mái tóc đen, dài xõa xuống từ ngọn cây xay xuống đến mặt đường. Bà không thuộc loại yếu bóng vía nên bình tĩnh bước đến gần để xem đó là chuyện gì. Qua ánh sáng nhập nhoạng của ánh trăng non bà trông thấy một cái đầu không có thân hình. Cái đầu mang gương mặt đầy máu đang lơ lửng trên cành cây xay đang nhe răng cười. Bà quét lia ánh đèn bình ac quy soi vào thẳng gương mặt kia. Ngay lập tức gương mặt biến mất. Không tin dị đoan, bà quay trở về nhà báo với Chính quyền Cách mạng Lâm Thời rồi xách súng AR15 huy động mấy đứa con đang là du lích xã ra bao vây khu vực đó. Bà nghĩ một phần tử nào đó đang mượn chuyện ma quỉ nhát bà với mục đích quấy rối trị an. Thế nhưng lùng sục suốt đêm vẫn chẳng thấy dấu vết gì. Ngày hôm sau, chính anh con trai út của bà đi ngang chổ cây xay lại bị “ai đó” nắm tóc giật. Anh ngước nhìn lên và trông thấy những gì hôm qua mẹ anh trông thấy. Một tháng sau, người con rể thứ năm của bà Hai sử dụng chiếc xe hon da 67 đi công việc. Khoảng 12 giờ trưa, anh về đến ngỏ nhưng không quẹo vào mà đâm thẳng vào gốc cây xay chấn thương sọ. Khi người nhà chạy ra sơ cứu, mặc cho mồm, khóe mắt lẫn lỗ tai ứa máu, anh vẫn cố thều thào nói đứt quãng: “Nó ở trên cây xay…”. Chỉ nói có vậy, anh tắt thở. Sau này, rất nhiều người dân đi ngang qua đó vào ban đếm hoặc trưa vắng thỉnh thoảng lại thấy cái đầu có mái tóc dài lơ lửng trên ngọn cây xay. Sự việc được báo cáo về Công an huyện. Lúc đó, ông Sáu M. là trưởng Công an huyện đã ghi nhận sự việc vào sổ tay để đặc biệt quan tâm theo dõi hiện tượng nhưng không có kết luận. Người dân đã tự nguyện đem cây, lá đến gốc cây xay lẳng lặng cất ngôi miểu nhỏ đốt nhang khấn vái, cầu xin cô gái đừng quấy phá để họ yên tâm đi thăm đồng khuya sớm. Từ đó, cái đầu không còn thấy xuất hiện nữa. Cho đến tận bây giờ, khi con đường đã được tráng nhựa khang trang, rộng rãi, thoáng đãng nhưng thỉnh thoảng nơi đó vẫn xảy ra tai nạn giao thông. Ven quốc lộ I A đoạn Bình Thuận có ngôi miếu được người dân cho là thờ Hông Hài Nhi. Cánh tài xế Bắc Nam truyền miệng nhau rằng, đó là ngôi miếu linh thiêng nhất tuyến đường vạn lý này. Và bất cứ tài xế nào đi ngang qua đều phải nhấn còi chào “cậu”. Họ kể rằng, cách nay khoảng 20 năm, mẹ con người ăn xin đi bộ dọc từ miền Trung hướng về Sài Gòn, khi đến đoạn đường này thì quá nửa đêm. Hai mẹ con chui vào sau một tảng đá ngủ chờ sáng đi tiếp. Gần sáng, khi mẹ còn ngủ đứa bé chỉ mới 5 tuổi đi ra đường và bị một chiếc xe tải cán chết. Sáng dậy, bà mẹ vùi tạm xác đứa con sau tảng đá rồi tiếp tục hành trình. Từ đó, cánh tài xế đi đêm ngang đoạn đường này thường trông thấy bất ngờ một đứa bé đứng giữa đường ngay trước mũi xe. Phãn xạ tự nhiên, họ thắng thật gấp thế là xe lật nghiêng. Hầu hết những vụ tai nạn giao thông xảy ra nơi đây, khi tài xế thoát chết đều khẳng định đã lâm vào tình huống y như vậy. Ông Chiêu, cư ngụ ở xã Khánh Hậu, Long An, có thâm niên 40 năm lái xe, nay đã giải nghệ kể, chính ông đã từng “vướng tay lái” một lần tại đoạn miếu “cậu Hồng Hài Nhi”. Lần đó ông chở trái cây từ Tiền Giang ra cửa khẩu Móng Cái. Trên xe ngoài ông còn 1 lái phụ và bà chủ hàng. Xe đang ngon trớn với tốc độ khoảng 80 km/giờ. Chợt lái phụ hét: “Có đứa con nít nhà ai đứng đón xe kìa”. Ông nhìn theo ánh đèn pha dài ra phía trước nhưng chẳng thấy gì cả. Đột nhiên, ngay trước đầu xe khoảng 5 mét, ông chợt thấy một đứa bé trần truồng đứng giữa đường. Bà chủ hàng thét hoảng: “Coi chừng con nít!”. Ông đạp thắng sát sàn xe. Chiếc xe bị thắng đột ngột quay ngang rồi lộn 2 vòng. Giây phút kinh hoàng trôi qua, ông chui ra khỏi chiếc xe bẹp dúm để quan sát xem đứa bé có bị chiếc xe cán trúng không. Không có đứa bé nào cả. Bà chủ lẫn anh phụ xế cũng thoát chết nhưng bị xây xát, máu me đầy người đã cùng ông dùng đèn pin rọi nát mặt đất vẫn không thấy đứa bé nào cả. Qua cánh tài xế dừng xe chia buồn, ông mới hay đoạn đường này có ngôi miếu của “cậu”. Đến sáng, bà chủ hàng kinh sợ bỏ tiền nhờ người xây sửa ngôi miếu bằng cây đã mục thành ngôi miếu xi măng. Từ đó, ông bắt chước cánh tài xế khác, cứ đến đoạn đường này là bóp còi “chào”. Những chuyến hàng đi ngang miếu “cậu” nhằm ngày mùng 1 hoặc 15 âm lịch, ông đều dừng xe đốt nén nhang van vái “cậu” độ trì tay lái. Đoạn đường kinh hoàng thứ hai đối với cánh tài xế Nam Bắc là cung đường cũ qua đèo Hải Vân. Cung đường dài 25 km này có hơn 42 ngôi miếu. Theo anh Dũng, cư dân địa phương cho biết: “Con số 42 là bề nỗi. Nếu tính luôn những ngôi miếu đã mục nát tự hủy thì có hơn 60 cái. Một số miếu không còn tồn tại nhưng người ta vẫn cứ thắp nhang dưới các gốc cây ven đường”. Mỗi ngôi miếu ở đây đều gắn liền đến “sự tích” của ít nhất 10 vụ tai nạn giao thông thảm khốc. Ngôi miếu ở cung đường cuối trước đi lên đỉnh đèo là nơi xảy ra vụ đổ xe vận tải hành khách làm chết 50 người vào năm 1998. Chiêc xe chở hành khách từ tp, Hồ Chí Minh đi Hà Nội đang rặn ga bò chậm rãi lên đỉnh đèo. Bất ngờ từ phía ngược chiều, nơi đầu khúc cua, một chiếc xe tải xuất hiện lao nhanh xuống. Chiếc xe tải đã mất thắng. Ông Hải - Tài xế xe khách, cư ngụ ở phường I, quận 8, tp. HCM chỉ còn biết nép xe ven mép thung lũng sâu hun hút nhắm mắt chờ đợi thảm họa. Bị chiếc xe tải lao thẳng vào, chiếc xe khách văng ra khỏi thanh chắn bảo vệ và lao vụt xuống thung lũng. Không ai còn sống, chỉ mỗi người tài xế vướng người vào một nhánh cây nhô ra lưng chừng thung lũng. Người tài xế ôm nhánh cây chịu trận suốt một ngày mới được những người cứu hộ tìm thấy. Người tài xế bị khủng hoảnh tinh thần, suốt ngày lơ ngơ như người đã mất hồn. Hơn 10 năm sau ông mới quên được thảm họa và trở lại bình thường nhưng vẫn chưa đủ can đảm đặt tay vào vô lăng. Vụ tai nạn giao thông thảm khốc của đoàn từ thiện một phường thuộc quận Phú Nhuận đi cứu trợ Nha Trang đã tạo cú sốc đối với dư luận cả nước vài tháng sau đó. Những người chứng kiến vụ tai nạn vẫn cứ bị ám ảnh mãi. Sau này, đoạn đường đó cứ liên tiếp xảy ra những vụ tai nạn chết người. Một số thân nhân của đoàn từ thiện bị tử vong đã thuê thầy cúng đến hiện trường “trục hồn” người chết về tp. Hồ Chí Minh cho con cháu đốt nhang. Chị N.Th. A. – có mặt trong nhóm cúng trục hồn kể, khi đang cúng, đột nhiên một bà đi cùng đột nhiên ngã lăn ra đất, sùi bọt mép, mắt trợn ngược. Sau đó, bà ta ngồi dậy quơ chân múa tay cho biết bà là một trong những vong hồn của đoàn từ thiện bị chết oan đang nhập xác. Thầy cúng đọc kinh, chú liên tục để “mời” vong hồn theo lá phướng về tp. Hồ Chí Minh gần gũi gia đình để được nhang khói. Vong hồn trong xác bà cốt trả lời: “Không về. Ở lại đây.. xô xe vui hơn”. Một số tài xế đường dài còn truyền miệng nhau nhiều chuyện ly kỳ, huyền bí xảy ra ở cung đường đó. Bây giờ, ngay nơi xảy ra tai nạn, một ngôi miếu nhỏ mọc lên nhưng thỉnh thoảng vẫn xảy ra tai nạn giao đến nỗi địa phương phải cắm một biển báo: “Nơi đây thường xảy ra tai nạn giao thông”. Ven đường xuyên Á, từ cầu vượt An Sương đến Củ Chi có 25 cái miếu mọc ven đường. Từ Bình Chánh đến thị xã Tân An, Long An có 16 cái miếu. Miếu ven đường nhiều nhất có lẽ thuộc đoạn đường từ Ngã ba Trung Lươnh đến Vĩnh Long. Cứ vài km là có một ngôi miếu. Khi giải tỏa mở rộng đường một số ngôi miêu đã bị phá bỏ dẹp đi, nhưng sau đó xảy ra liên tiếp những vụ tai nạn giao thong, thế là người ta lại xây mới. Thông thường, một ngôi miếu oan hồn “cất” theo kiểu nhà ngói ba gian có diện tích khoảng 160 cm vuông. Nhưng tại Bến Lức có một ngôi miếu lớn hơn gấp 10 lần ngôi miếu thông thường. Một người dân sống lâu năm gần đó nhẩm tính theo trí nhớ cho biết, từ khoảng năm 1975 trở lại đây có hơn 100 vụ tai nạn giao thông xảy tại nơi đây, trong đó có ít nhất 30 người tử vong. Đặc biệt có vụ tai nạn xảy ra rất thảm khốc. Một người phụ nữ dắt bò đi trên đường. Do con bò thấy xe thường nhảy hoảng, bà ngoáy dây mũi bò vào bàn tay để tránh tuột tay khi bò nhảy. Bất ngờ một chiếc xe tải chạy ngang qua bóp kèn. Con bò hoảng hốt lồng lên chạy băng qua đường. Sợi dây mũi xiết chặt bàn tay người phụ nữ kéo bà ngã xoãi xuống đất rồi lê ra giữa đường vào ngay đầu xe tải. Tài xế bị bất ngờ đã đạp xiết thắng. Bánh xe bị thắng bắt dừng quay nhưng quán tính đẩy toàn thân chiếc xe lao tới. Vì vậy, thân hình người phụ nữ bị bánh xe nghiến dài dưới mặt đường hơn 10 mét. Từ đó, cứ đến đoạn đường này, những tài xế hành nghề lâu năm đều giảm tốc độ, chạy xe hết sức thận trọng và không quên bóp 3 tiếng còi “xin” oan hồn đừng xô tay lái. Tuy vậy, thỉnh thoảng một vài chiếc xe gắn máy vẫn cứ đâm vào nhau. Ngôi miếu này được xem là một trong những ngôi miếu xảy ra nhiều chuyện kỳ bí. Vì vậy, rất nhiều người đến đây cúng vái, cầu xin mua may, bán đắt lẫn xin…số đề. Nhiều người ở nhiều tín ngưỡng khác nhau đến cúng vái, riết rồi ngôi miếu trở thành nơi thờ đủ loại thần như Quan Công, Bà Chúa Ngũ hành, Thổ địa, Thần tài…chứ không còn thờ oan hồn như lúc ban đầu. Dần dà, ngôi miếu này sắp được “nâng cấp” lên thành miểu. CHUYỆN KỂ DỰNG TÓC GÁY Nếu đề cập đến những ngôi miếu oan hồn mà không đề cập đến những câu chuyện huyễn hoặc gắn liền với ngôi miếu, xem như chưa biết gì về miếu. Bởi không có những mẫu chuyện mang tính tâm linh thì chẳng ai cất công xây miếu. Bà Đặng Thị Mười, 70 tuổi, cư ngụ ấp Long Hòa, phường Thới Long, quận Ô Môn, tp. Cần Thơ, kể: “Quốc lộ 91B, đoạn gần Viện Lúa Đồng Bằng Sông Cửu Long (thuộc quận Ô Môn) có một cái miếu oan hồn. Nhiều người đã từng bị những oan hồn này trêu ghẹo. Tôi cũng bị một lần”. Rất nhiều ô lão sống tại nơi đây đều xác nhận những câu chuyện kể của bà Mười. Họ cho biết, cách nay khoảng 50 năm, một chiếc xe lam 3 bánh chở khách đi chợ khuya bị vướng trái nổ khiến 14 người trên xe đầu chết tan xác. Trong đó có 2 người phụ nữ mang thai. 1 tuần lễ sau, những người đi bộ ra chợ khuya ngang qua chỗ ấy thường bị ai đó xô té ngã trặc chân. Chính bà Mười trông thấy tận mắt hai lần một người phụ nữ mặc đồ trắng, tóc xõa dài, tay bế một đứa trẻ bay là là trên ngọn gió theo hướng gió thổi. Bà Mười không sợ ma nên đứng quan sát rất lâu cho đến khi bóng ma khuất sau ngọn cây. Bà Thế, cùng chứng kiến vụ việc với bà Mười đã xác nhận: “Tôi vừa trông thấy đã hoảng hốt bỏ chạy thục mạng về nhà. Riêng bà Mười vẫn đứng lại xem”. Người ta đã hùn tiền cất cho 14 oan hồn người lớn và 2 oan hồn sơ sinh một ngôi miếu ven đường, sơ sài để hồn ma không quấy nhiễu nữa. Bẵng một thời gian dài, cách nay 3 năm, một cô gái trẻ chạy xe đạp đến nơi đó bị một chiếc xe tải cán… đứt đầu. Gia đình cô gái nhờ người lên đồng nhập xác. Cô gái nhập xác bà đồng cho biết, có lần cô và đám bạn gái đi ngang miếu, bảo với nhau rằng, chuyện ngôi miếu linh thiêng là chuyện tầm phơ tầm phào. Vì vậy, ma “mẹ bồng con” cư ngụ ngôi miếu bắt cô phải thế chỗ. Cô phải bắt đủ 9 người cà nam lẫn nữ mới được siêu thoát. Không biết chuyện lên đồng là có thật hay mê tín dị đoan, mà vài tháng sau, một cô gái trẻ khác chạy xe đạp đến nơi đó lại bị xe tải cán đứt hai người. Liên tục trong 5 năm, tại nơi này xảy ra hàng chục vụ tai nạn, làm cả chục người bị thương và đã có 8 người tử vong thảm khốc. Ông Lê Th. C., cư ngụ gần ngôi miếu khẳng định: “Còn một mạng người nữa mới đủ số 9. Tôi luôn dặn dò con cháu, khi đi đến đoạn đường đó phải thận trọng hết mức. Nhiều người cho là chuyện dị đoan, mê tín nhưng hầu hết những người sống quanh khu vực này đều tin chuyện đó có thật”. Ông kể thêm rằng, mẹ cô gái bị đứt người làm hai khẳng định, đêm trước tai nạn, cô gái có kể cho bà biết rằng, cô nằm mơ gặp cô gái đứt đầu rủ đi xô xe chơi. Nghe xong gai61c mơ, bà mẹ rầy con gái rằng, đó là chuyện nhảm nhí. Vì vậy, ngay sau khi cô con gái bị tai nạn, bà đã thuê ngay thầy cùng “trục” vong linh nhưng thất bại. Bà Cẩm H., 42 tuổi cư ngụ gần ngôi miếu khẳng định: “Tôi chạy xe trước con nhỏ bị cán đứt hai. Trước khi xảy ra tai nạn vài giây, tôi nghe thoảng trong gió tiếng một người phụ nữ hét: Xô nó té đi! Tôi ngoãnh lại để xem ai nói, nhờ vậy tôi chứng kiến trọn vẹn cảnh tai nạn. Ngay khi đó, tôi mất hồn mất vía, phải xuống xe ngồi xuống vạt cỏ một hồi lâu mới tỉnh hồn”. Ở ngay cung đường này, đã từng xảy ra một vụ tai nạn làm chết tại chỗ 3 học sinh cấp 3 nhưng cách ngôi miếu khoảng 1 km nên người dân không tính tai nạn đó là do các oan hồn ngôi miếu xô đấy. Ba cô cậu học sinh đi học ngoại khóa môn thể dục. Tan học, cả ba gồm 2 cậu một cô, chất nhau lên một chiếc xe dream, chạy thật nhanh. Họ vừa chạy vừa cười giỡn. Họ đâm thẳng vào bánh trái chiếc xe vận tải hành khách chạy ngược chiều từ hướng Cần Thơ về Ngã ba Lộ Tẻ. Chiếc xe dream bị cuốn vào bánh xe vận tải hành khách. Cả ba cô cậu đập mặt vào ca pô xe khách rồi cũng bị cuốn vào bánh xe. Mỗi thi thể bị ném văng xa cách nhau hơn 10 mét. Tất cả đều biến dạng, trông rất gớm ghiếc. Các cơ quan chức năng điều tra đều nhận định chung về các vụ tai nạn xảy ra tại cung đường này: Đường hẹp do mép lề ven song bị sạt lở, các nạn nhân hoặc người gây tai nạn phóng nhanh vượt ẩu, vi phạm lậut giao thông. Để hạn chế tai nạn, một biển báo “đoạn đường thường xảy ra tai nạn” được UB An toàn Giao thông địa phương cắm ven đường. Tuy vậy, thỉnh thoảng, một vài người tham gia giao thông vẫn cứ tạo điều kiện cho ngôi miếu oan hồn có thêm… “uy tín”. Chuyện hồn xô đẩy dẫn đến tai nạn giao thông chết người, có thể là chuyện hoang đường do một số người chứng kiến tai nạn bị ám ảnh. Tuy nhiên, nếu tham gia giao thông đến đoạn đường có cất miếu oan hồn ven đường, bạn cần tin rằng, nơi ấy đã từng xảy ra những vụ tai nạn giao thông thảm khốc. Nếu không tin vào những chuyện huyền bí, hoang đường, bạn cũng nên tin rằng, đoạn đường ấy có vần đề về độ an toàn như: Tán cây che khuất tầm nhìn, mặt đường có ổ gà, chiều ngang đường bị hẹp, mặt đường trơn… Đó là môi trường tạo nên những vụ tai nạn giao thông chết người. Hãy cẩn thận tay lái và giảm tốc độ khi trông thấy miếu oan hồn. Một vài UB An toàn Giao thông của vài địa phương đã từng đặt những tấm bảng in hình ảnh những thi thể kinh dị, biến dạng vì tai nạn giao thông để nhắc nhở mọi người cẩn thận khi tham gia giao thông ở những cung đường nguy hiểm thường xày ra tai nạn. Tuy nhiên, vẫn không hiệu quả bằng những ngôi miếu ven đường. Điều này, tất cả những tay lái lụa xe tải đường dài đều thuộc nằm lòng. Nguồn : Blog dienbatn
-
LA KINH THẤU GIẢI BÀI TỰA VỀ LA KINH XÉT VỀ PHƯƠNG PHÁP CHẾ TẠO LA KINH : Trước hết do vua Hiến Đế chế tạo ra, sau ông Chu Công bắt chước và dùng kim chỉ nam,để định phương vị . Tuy nhiên , khi ấy chỉ có 12 địa chi . Đến ông Trương Lương nhà Hán , mới phối hợp với bát can,(tám phương vị về thiên can) , và tứ duy( là 4 phương :kiền ,khôn ,cấn ,đoài vào khoảng giửa 12 chữ hàng chi và đặt tên là Địa bàn .Đến Dương Công và Lại công hai vị thêm hai 2 tầng nữa ,gọi là Thiên bàn và Nhân bàn ,tất cả gộp lại gọi là Thấu bàn tức Tam tài ).Trong đó tất cả hành độ của các tinh tú đều được trình bày đầy đủ , diễn tả được những bí mật và ngũ hành của Hà Đồ, Lạc Thư ; phơi bày những sự hiện, tàng ,kỳ diệu của các quẻ .Đến vua Phục Hy và Văn Vương , những cái kỳ diệu của các quẽ ,biết được tinh vi và thể ,dụng rộng rãi , biến hoá vô cùng ! Bao la vậy thay ! Gồm hết thảy muôn ngàn hiện tượng cả dọc ngang trên trời đất . Trên có thể hiểu thấu được hành độ của các vì sao luân chuyển ;dưới có thể phân biệt được núi, sông , phương hướng tốt xấu ;giửa có thể định được Dương cơ ,Âm phần cho mọi người , về sự phúc hoạ v. v. .dùng làm được muôn việc, thật là quý báu vô cùng ! Từ đời Hán , Tấn , Đường , Tống đến nay , nhiều bậc danh nhân , hiền sĩ nổi tiếng , ngoài 4 vị họ Dương , Tăng , Liêu , Lại ra , cũng không thiếu gì những người làm việc phúc đức để giúp ích cho những người nghèo , rất là linh nghiệm . Xét về cách trước thư lập ngôn của các vị này , ta thấy căn cứ vào các Tinh thể , Sơn loan , nhưng thực dụng lại phải căn cứ vào La Kinh . Những nhà Địa lý sau này , giảng về Loan Đầu , chọn hình tượng , đặt cách đo hoạch , chia ra nhiều môn , nhiều kiểu , đua nhau ra đời . Tuy nhiên giảng về La Kinh mà không biết yếu điểm của Địa lý : là "lấy Loan Đầu làm Thể , La Kinh làm Dụng " là chưa rõ nghĩa của La Kinh , mà làm sai 1 ly thì sai đi 1 dặm . Nếu La Kinh không rành thì không thể căn cứ vào đâu để phân biệt Long , Huyệt , Sa , Thủy ; thật , giả , tốt , xấu . Như vậy , dẫu có được Loan Đầu thích hợp , cũng luôn luôn lâqnx lộn vị trí giửa tốt và xấu ,khiến cho nước hung , khí sát xung vào hài cốt , làm cho hao người tán của , sự tai hại là vô cùng không thể tránh thoát . Ngưới đời thường nói : Thầy Địa lý không rành làm tai hại cả toàn gia tông tộc ! Lời ngạn ngữ ấy rất đáng tin . Tôi đã học tập nhiều năm về Địa lý , hiểu biết khá rộng về sự tốt xấu của các Tinh , Loan , thế mà , khi chọn lựa Tinh đẩu vẫn còn sợ chưa hiểu thấu rành rẽ về La Kinh , rất khó quyết định được họa , phúc . Sau đó tôi tìm tòi các sách cổ , kim và tìm thầy học đạo , đem hết tâm trí đẻ nghiên cứu La Kinh , lặn lội đi khắp mọi nơi , thăm những ngôi mộ danh tiếng để khảo nghiệm về họa phúc , không 1 chút điểm sai lầm . Như vậy mới hiểu rằng 3 yếu tố quan trọng của Địa lý : trong có thể tự hỏi mình , ngoài có thể chất vấn người khác , và khi chọn 1 ngôi mộ cho ai phải làm sao chọn được chỗ tốt , tránh được nơi xấu , không xảy ra sự suy bại tai hại cho người . Bởi vì khoa Địa lý rất là tinh vi , nào là Xuyên Sơn Thấu Địa , Tiêu Sa , Nạp Thủy , Phân Kim , Tọa Độ , tầng thứ rất phiền phức , lý luận rất sâu xa . Có khi nhiều tầng chia ra để dùng , có khi 2 tầng kiêm dụng chung cả , có khi 1 tầng dùng cho 2 việc , có khi nhiều tầng hợp lại mà thông dụng , đó là những biến hóa vô cùng huyền diệu , ta phải có linh cảm để mà hiểu thấu chi ly , nếu sai 1 chút , sẽ bị ảnh hưởng rất lớn . Nay tôi căn cứ vào La Kinh gồm có 36 tầng của người xưa , viết thành sách để phổ biến ra 4 phương , cho mọi người đời sau cùng biết , có thể căn cứ vào các đồ án để chọn Loan Đầu , cho tận thiện , tận mỹ , để việc tạo phước khỏi bị sai nhầm . Bài tựa này làm tại : Thái Nguyên Tứ hợp đường âm dương học Vương Đạo Hanh viết ở Phượng Sơn thư trai Mùa thu năm Quý Mùi , thời vua Đạo Quang thứ 3 . __________________ BÀI TỰA II Ngày xưa bậc Thánh nhân làm ra Kinh Dịch , ngẩng lên có thể xem Thiên Văn , cúi xuống có thể xét Địa Lý . Người ta còn nói : cái Đạo dựng lên Trời là Âm Dương , cái Đạo dựng lên Đất là Cương Nhu ( cứng mềm ) , đó là nguyên nhân của thuyết Địa Lý . Vậy trong Kinh Thi nói : Quan sát về Âm Dương , nhìn xem dòng suối chảy lại càng rõ rệt nghĩa lý hơn nữa . Từ đời nhà Tần , nhà Hán tới nay , không thiếu những người tinh rành về Địa Lý : Quách Cảnh Thuần đời Tấn , Dương Quân Tùng đời Đường , thông hiểu thấu đáo lẽ huyền diệu của Địa Lý , hiếm có trên đời . Gần đây đa số các nhà nho không nghiên cứu về Địa Lý , thường chôn hài cốt của thân nhân vào nơi không Long , không Huyệt , Thủy tán , Sa phi , khiến cho nước ngấm , kiến mối phá hoại , làm cho tuyệt tự hậu nhân , thật là đáng thương ! Người đời thường nói : Muốn thành người hay , nên biết làm thuốc và địa lý . Lại có chỗ nói : nếu núi sông mà biết nói thì mặt thầy địa lý sẽ xám như đất chết , phủ tạng của con người mà biết bảo thì thầy thuốc không có chỗ hành nghề ! Như thế nói rõ là Địa Lý rất khó , còn quan trọng hơn làm thuốc ! Cho nên học thấp kém mà ra làm thầy , lừa dối người không biết , thì mang tội vào người không ít ! Đời Tống có hai nhà nho là ông Chu , ông Thái , tinh thông về khoa Địa Lý , có viết những cuốn sách bất hủ truyền cho đời sau . Tại sao người ta không kiếm những sách ấy mà coi ? Vì vậy , khoa Địa Lý ngoài 4 ông Dương , Tăng , Liêu , Lại , ít có người tinh thông . Tóm lại , về Địa Lý chỉ có Loan Đầu và Thiên Tinh mà thôi ! Loan Đầu tức là Hình Thể , Thiên Tinh tức là Lý Khí . Hai yếu tố quan trọng như nhau . Hình Thể ở trong Trời Đất , khiến cho người ta có thể nhìn ngang , nhìn dọc , trông xa , trông gần ; người tinh mắt có thể quan sát dễ dàng . Những cuốn sách như : Trầm Tân Chu Địa Học , Toàn Phong Nguyên Bản , Sơn Dương Chỉ Nê , Kham Dư , Nhất Quán ...vv...đã nói rõ ràng và đầy đủ . Còn về Lý Khí thì chắc chắn phải nghiên cứu La Kinh , tìm hiểu sâu xa về Nhị Khí , Ngũ hành , mặc khải được những huyền bí của Hà Đồ , Lạc Thư . Rộng ra thì có 36 tầng , hẹp lại thì có 15 tầng , rất quảng đại , rất tinh vi . Nếu không có người chỉ dẫn , giảng dạy , thì không có thể căn cứ vào đâu để ý thức được sự huyền diệu . Có người nói rằng : Hình Thể không đẹp , dầu Lý Khí có hợp cục cũng không dùng được ! Lời đó cũng đúng . Nhưng Hình Thể tốt , mà Lý Khí không hợp , thì đất tốt nhưng cách táng xấu cũng không phát phúc được . Phương chi đại địa rất ít , không phải người có đại đức thì không thể được . Còn những núi đồi tầm thường , thì dẫu có Lý Khí không hợp lắm , mà muốn cho con cháu nối truyền , no cơm , lành áo , bình an , cũng phải dùng La Kinh để tìm Địa Lý cho khỏi phạm sát thì mới được . Vì vậy người làm Địa Lý phải tận tâm phân tách tỉ mỉ để phân tim tốt , tránh xấu . Ông Định Ấp Vương Đạo An khi còn nhỏ học nho , lớn lên học Địa Lý , ngấm ngẫm nhiều năm , thường chê người đời chỉ giảng Hình Thể mà không tìm học Lý Khí , nên đã gây tai hại vô cùng ! Vậy sau khi đọc hết các sách nghiên cứu , các ngôi mộ có danh tiếng , tìm hiểu về nguồn gốc của phúc , họa , thực nghiệm nguyên nhân của sự giàu nghèo , ông viết ra cuốn La Kinh Thấu Giải này , và nhờ tôi viết bài tựa , khi đó tôi làm Tri Huyện ở Mậu Châu , nhân có kỳ thi tại tỉnh đọc sách của ông , mới biết là ông lưu tâm giúp đời để mọi người an táng cho thân nhân mình , được hài cốt yên lành , gầy hạnh phúc cho con cháu đời đời thịnh vượng . Còn việc tìm đất thì cần phải hợp với thiên lý , . Người có Đức lớn , thì gặp được đất lớn , đó là tất nhiên , không còn ngờ vực gì nữa . Người đời đừng cho là lời bàn tầm thường của các ông già quê mùa , mà không chịu lưu ý đến những lời chỉ dẫn quan trọng về âm chất thẩm , thiên của cổ nhân . Bài tựa này làm tại Mậu Châu , viết vào hạ tuần tháng 5 , năm Quý Mùi , niên hiệu Đạo Quang thứ 3 . Học Chính Nhiếp Nguyên Chương soạn . VƯƠNG THỊ LA KINH THẤU GIẢI TÂN ĐÍNH QUYỂN ĐẦU Biên soạn : Thục Đồng Âm dương học , Vương Đạo Hanh Hiệu chính: Định Ấp Nho trí Vương Thiệu Chí Tham duyệt: học trò là : Lý Duy Tân,Chu Quốc Hồng,Đặng Quan Vũ,Trần Vạn Bằng. ------------------------------- Long mạch chia làm 24 vị khí , thuộc về Ngũ Hành , Âm Dương mất hay còn mặc dầu , căn cứ vào Hướng , Long , Huyệt , Sa , Thủy , nhưng then chốt của họa phúc đều căn cứ ở trong một cái huyệt. Chính giửa huyệt mà chiếu đủ Tiêu Sa , Nạp Thủy và Thừa Khí , cần phải rành rẽ cách phân châm , để thực hiện 3 điều trọng yếu : _ Khi xét về Long , phải coi kỹ chỗ Xuất mạch _ Coi về Huyệt , phải nhận kỹ chỗ Động khí. _ Coi về Thủy lai , phải coi kỹ chỗ Thủy triều lại ; ở trước mặt Huyệt coi Thủy khứ , phải coi kỹ chỗ cửa miệng nước chảy ra đi. Coi về thủy phải coi về sự hợp cục và phá cục. Coi về Long lai thì phải coi chỗ Long Nhập Huyệt ( hoặc là phía sau ). Coi về Hướng thì phải coi ở đằng trước. Coi Thủy lai thì phải coi ở chỗ nước chảy tới tới ( Minh Đường). Coi Thủy khứ thì phải coi chỗ nước chảy đi ra ( Ngoại Minh Đường) Nếu không rõ hình thế mà đặt La Kinh cẩu thả , bậy bạ , thì tai hại vô cùng ! Người đời xưa nay đều nói : Thầy thuốc lầm chỉ hại 1 mạng người , thầy địa lý lầm làm hại cả dòng họ người ta ! Bởi vì , chỉ có Tuyệt Hướng mà không có Tuyệt Long , tức là không sai về Sa , Thủy , mà chỉ bị về Lập Hướng sai vào phương Khắc Sát , mà bị Tuyệt thôi ! Xin các Thầy Địa Lý trong thiên hạ , nên lưu ý để cho những người hiếu tử , hiếu tôn được nhờ ơn Thầy , được ngôi mộ của Tiền nhân an lành , phát phúc cho cháu chắt đời sau , thì không phúc gì bằng ! Những sách tham khảo : _ Thanh triều khâm định hiệp kỷ : để phân biệt Ngũ Hành , bàn về các sao và ngày tháng. _ Duyên đàn tử : Phân biệt Sa , Thủy và phân chia cung vị. _ Lưu thị gia tàng : Nói về ngày tháng. _ Nhất quán kham dư : Nói về tinh thể và La Kinh. _ Tứ đàn tử : Nói về các Tinh thể và Thủy pháp. _ Tượng cát : Nói về năm tháng. _ Chính kỷ nhất thống : Nói về Xuyên sơn thấu địa. _ Thiên cơ hội nguyên : Nói về Tinh thể địa bàn. _ Ngao đẩu : Nói về năm tháng và quái lệ ( các quẽ ) _ Đính hỗn châm : Nói về Ngũ hành , Thiên Văn , Địa lý. _ Bình địa ngũ tinh : Nói về Dương Trạch. _ Nguyên chân : Nói về Thủy khẩu và Tam hợp. _ Địa lý bất cầu nhân : Nói về Tinh thể địa bàn. _ Thanh lang kinh : Nói về Quái lệ ( các quẽ ). _ Tào an phong : Nói về Tinh thể ( hình dạng sơn sa ) _ Tuyết tâm phú : Nói về Tinh thể. _ Ngọc tủy kinh : Nói về Tinh thể _ Sơn dương chỉ mê : Nói về Tinh thể. _ Ngũ chủng bí khiếu : Nói về các quẽ và Địa bàn. _ Sùng Chính tịch mậu : Nói về năm tháng và Ngũ Hành. _ trần tân chu : Nói về Tinh thể. _ Địa lý thống nhất toàn thư : Nói về Tinh thể. _ Trần tử tánh : Nói về năm tháng ngày giờ. _ Ngọc xích kinh : Nói về Thiên văn và Địa lý. _ Địa lý đại thành. Cần phải đọc sách của các bậc danh sư , trong đó có nhiều điều chỉ dạy huyền bí. MỤC LỤC CÁC TẦNG CỦA LA KINH Tầng 1 : Là Tiên Thiên bát Quái biến thành Hậu Thiên Bát Quái. Tiên Thiên làm cái bản thể , Hậu Thiên làm cái sử dụng. Dùng Hậu Thiên không được phá Tiên Thiên , chỉ dùng Hậu Thiên chứ không dùng Tiên Thiên , nhưng vẫn có Tiên Thiên ở bên trong. Tầng 2 : Lạc Thư biến thành Tứ Tượng. Hóa Hậu Thiên thành Cửu Tinh ( 9 sao ) , chia Lục Giáp thành 120 phân kim , ngang dọc 16 cái và 5 số. Tầng 3 : Bát Quái Hoàng Tuyền , tức là Quan và Quỹ của Tiên Thiên Bát Quái , hòa hợp với Ngũ hành để sử dụng trong việc : Long thời kỵ Thủy lai , Lập Hướng thì kỵ khắc Long. Tầng 4 : Là tứ lộ và Bát lộ Hoàng Tuyền bạch Hổ ( tức sao sát ) của Địa Chi , quay đi trở lại. Hướng về Bát can thì kỵ Tứ duy Thủy lai , Hướng Tứ duy thì kỵ bát can Thủy lai ; nghĩa là 4 phương Hoàng Tuyền , 8 phương Khắc Sát ,l nước chảy đi thì tốt , nước chảy lại thì xấu. Nếu phạm thì hao người tốn của. Tầng 5 : Cửu tinh ứng vào cục đất để phân biệt Long tốt xấu , coi sắc đất biến đổi mà tìm Huyệt , tương ứng với thứ vị của 24 vì Thiên tinh mà lấy dùng. Tầng 6 : Kim chính thức của Địa bàn dùng để xem Long lai , định hướng , thừa khí nhập Huyệt ; Lập Trạch , An Phần chọn âm dương. Tóm lại , cả 36 tầng đều căn cứ ở tầng này vận chuyển mà sử dụng. Tầng 7 : Âm và Dương Long của Tiên Thiên Bát Quái , Kiền Nam , Khôn Bắc , Ly Đông , Khảm Tây , ở 4 phương chính là Dương ; Chấn , Tốn , Cấn , Đoài ở 4 phương góc tức là Tứ Duy của Tiên Thiên là Âm. Mỗi quái Nạp Âm đều có Can và Chi là nửa Âm , nửa Dương. Phép biến Thủy không được sai lầm về Âm Dương. Tầng 8 : Chính Ngũ Hành , tóm hết thảy cả trong địa bàn , nguồn gốc là do Hà Đồ mà ra , phân Đông Tây Nam Bắc , 24 sơn và sự tương khắc của Kim , Mộc , Thủy , Hỏa , Thổ để sử dụng. Tầng 9 : Là Kiếp sát , lấy Tọa Sơn làm chủ , chỉ kỵ 1 sơn xấu , hoặc nghiêng ngã , vỡ lỡ thôi , còn tốt thì không kỵ. Tầng 10 : Là 72 Long Xuyên Sơn , ở trong Địa Bàn ghi 60 Giáp Tý , trong 5 cung Tý có 12 chữ chính màu đỏ là để chỉ 4 phương tứ duy và 8 phương bát can , thấu thành 72 Long , lấy lẽ Long Nhập Thủ thừa tiếp với thấu địa khí 1 mạch rót suốt vào Huyệt , và để phù hợp với 72 thời tiết mỗi năm. Tầng 11 : Xuyên Sơn làm quẽ gốc , sách Chu Dịch gọi là Thiên Thông. Trong Kinh Dịch lấy quẽ Kiền làm đầu , nói : Thiên Địa biến hóa ra quái , hào để bổ trợ cho Lai Long ; Tọa Huyệt là chủ của Thể , Dụng. Tầng 12 : Là Trung Châm thuộc về Nhân Bàn , tham hợp với Thiên-Địa 2 bàn , là Thiên-Địa-Nhân tam tài. Ông Lại Công lấy để Tiêu Sa và tham hợp với Ai Thiên Tinh và Nhị Thập Bát Tú , để làm biểu lý , bàn về Thái Dương đáo Sơn , và 12 vị Tiến Xá Tinh ; và đến 12 cung phân ranh giới 24 vị Thiên Tinh , Thấu Địa Kỳ Môn , tất cả đều do tầng Trung bàn này thông dụng. __________________ Tầng 13 : Là 60 Long Thấu Địa. gọi là Thiên Kỷ , ở phía sau ngôi mộ hay là ngôi nhà khoảng 8 thước chỗ Loan Đầu phân khí dẫn suốt tới. Có các chữ Vượng , Tướng , Châu Bảo , sát Diệu , Hỏa Khanh , Cô Hư , Sai Thác và Không Vong , để phân biệt lấy quẽ xung hòa 9x6= 54 là Vượng Tướng , không xung hòa là Không Vong. Tầng 14 : Là Thấu Địa Kỳ Môn , người ta lấy 2 quẽ độn Tử Phụ, Tài Quan , Lộc Mã Quý Nhân , Âm Dương làm gốc để khởi lệ. Tầng 15 : Là Thấu Địa Quái , lấy Thấu Địa làm nội quái , gọi là quẽ Liên Sơn. Nhà Hạ dùng Nhân Thông , nên Kinh Dịch lấy quẽ Cấn làm đầu , quẽ phối thì lấy Hỗn Thiên Ngũ Hành , phối hợp với quẽ Tử Phụ , Tài Quan , Lộc Mã Quý Nhân là Tứ Cát ( 4 cái tốt ) của Sa , Thuỷ làm đắc dụng. Tầng 16 : là Thấu Địa 60 Long phối hợp với 28 ngôi sao , ngũ thân ( 5 cái gần ) Sa , Thủy , Cầm Tinh, để quản cục trì thế , một cách tự nhiên mà dùng. Tầng 17 : Định phương vị của Tứ Cát là : Ngũ Thân , Tam Kỳ , Bát Môn , Cửu Tinh đáo Sơn. Tầng 18 : Là Phùng Châm Thiên Bàn để biến Thủy Lai và Khứ. Đây là quẽ phiên của Dương Công , gồm có có 9 sao là Thiên Phụ Quái , phiên : Bật , Phụ , Vũ , Phá , Liêm , Tham , Cự , Lộc , Văn làm Cát , Hung thần , để đoán phúc họa do ở luật Tịnh Âm , Tịnh Dương mà ra. Tầng 19 : Là 240 phân số , do Lạc Thư chia ra 16 cái , 15 số dọc , ngang thành 240 phân số , chia cho 24 sơn , mỗi sơn 10 số. Đây là nguồn gốc của phân kim. Tầng 20 : tầng Địa bàn phân kim , gia giảm 2 phân , 8 phân ( 2/8 ) : giảm Sa , Thủy , Minh Đường không ngay , Khắc Mệnh , Khắc Long , vì vậy mới có sự gia giảm bên 3 phân , bên 7 phân ( 3/7 ). Tầng 21 : là tầng Thiên bàn phân kim , gia , giảm tam , thất ( 3/7 ). Mỗi Sơn có 5 chữ phân kim , như Tý Sơn thì có : Giáp Tý , Bính Tý , Mậu Tý , Canh Tý , Nhâm Tý , thì Giáp Ất là Cô ; Nhâm Quý là Hư ; Mậu Kỷ là Sát ; Bính Đinh là Vượng ; Canh Tân là Tướng ; để tránh sự gác giây , sai lầm vào Không Vong...vv..thì tai hại lắm ! Tầng 22 : là phân biệt khoảng Vượng , Tướng , Cô , Hư. Lấy Bính , Đinh , Canh , Tân , chỉ vào khuyên chữ đỏ là Vượng Tướng. Mậu Kỷ chỉ chữ Thoa ( X ) là Sát Diệu. Giáp , Ất , Nhâm , Quý chỉ điểm đen là Cô , Hư , Không , Vong. Tầng 23 : là phân kim phối với Địa Nguyên , thuộc quẽ Ly tàng , là quẽ ở ngoài. Nhà Ân dùng Địa thống , nên Kinh Dịch lấy quẽ Khôn làm đầu. 60 quẽ phối với 60 phân kim , lấy quẽ Kim lưỡng toàn làm Vượng , Tướng , gọi là Đắc Kim. Ngoại trừ 4 quẽ Khảm , Ly , Chấn , Đoài , là quẽ Tiên Thiên chính thức ứng với 4 mùa Xuân Hạ Thu Đông , mỗi mùa giữ 1 quẽ , mỗi quẽ 6 hào , mỗi hào gồm 15 ngày ( 4x6=24 ) , 24 hào gồm 24 tiết khí , ngoài 60 quẽ , mỗi tháng 5 quẽ , mỗi quẽ 6 ngày ( 6x60=360 ) , nên mỗi năm có 360 ngày. Tầng 24 : là Nạp Âm Ngũ Hành , 60 Giáp Tý , Thiên Can , Địa Chi phối hợp , do Tiên Thiên Bát Quái lấy Nạp Giáp phối. Ngoại trừ quẽ Kiền và quẽ Khôn là Đại Phụ Mẫu không kể , nếu Thiên Can gặp Tý , Ngọ , Sửu , Mùi tại Chấn , Tốn , sẽ do 2 quẽ suy luận ; Thiên Can gặp Dần , Mẹo , Thân , Dậu tại Khảm , Ly sẽ do 2 quẽ suy luận ; Thiên Can gặp Tuất , Hợi , Thìn , Tị tại Cấn , Đoài sẽ do 2 quẽ suy luận ; Theo phương pháp Dụng , lấy 9 Mộc , 7 Kim , 5 Thủy , 3 Hỏa , 1 Thổ. Đặt tại cửa đầu kim , phải biết ý nghĩa sâu xa. Tầng 25 : là phương vị của 12 cung , nếu được Tinh phong đẹp đẽ , Sa -Thủy trong sáng , được chứng ứng ở phương nào , thì cung ấy phát quý , hưởng lộc. Tầng 26 : là vị trí của 28 ngôi sao , ngôi nào đóng ở độ số nào , thì ứng với tỉnh , châu , thành , huyện ở cung ấy ( ở dưới đất ). Tầng 27 : là 24 khí tiết của hàng tháng đón Thái Dương đến cung , tránh Hung sát , tìm Tốt lành : tức là cung Trục Nguyệt , lấy 4 cái Đại Cát Thời làm Thần Tàng sát để Tạo , Táng , thì được Thượng Cát ( tốt trên hết ). Tầng 28 : là vị trí của 12 Tướng Đăng Minh , đón Thái Dương đến cung , nửa tháng tới 1 Sơn , mỗi tháng qua 1 cung , đi ngược lại 24 sơn , tức là cung Đăng Minh. Tầng 29 : là 12 vị tinh thể Nghinh Thái Dương đáo cung triều xá , mỗi tháng giửa kỳ khí tiết , để rước Quý Nhân lên Thiên môn. Tầng 30 : là cung xá quán dịch , tức Thần Thái Dương. Đem văn , võ bá quan đến chỗ chân thủ , mỗi tháng cùng Thái Dương qua 1 cung , Tạo Táng gặp ở cung này rất tốt, mọi cái sát tiềm tàng hết. Tầng 31 : là 24 ngôi Thiên Tinh chiếu vào cục đất , chia ra Tam Cát , Lục Tú , Cửu Tinh ; Sa , Thủy Thôi Quan , phát phúc. Nếu được Sơn quý tất xuất Đại Cát Quý. Tiên Thánh nói : Long lấy xung hòa làm đẹp ; Tinh lấy được phối làm tốt , chính chỗ này vậy. Tầng 32 : là Hỗn Thiên Ngũ Hành tinh độ , tại 28 vì sao , chia làm Thất Chính ( 7 vị Chủ tinh ) đều có định , sở , thuộc 1 sao ; cũng có ngũ hành ở trên : Kim 12 , Mộc 13 , Thủy 12 , Hỏa 12 , Thổ 12 , cộng có 61 vị. Duy có cung Cấn là nhiều thêm chữ Mộc. Đây là Ngũ Tinh Đăng Viên ( 5 sao đến cục ) , Ngũ hành cùng với Xuyên sơn , Thấu địa , Phân kim , sự Cát , Hung cùng là cái ở trong , cái ở ngoài , lại hợp với 72 khí tiết , 365 độ trong 1 năm. Tầng 33 : là chia đều 60 Long , tham hợp với 61 Hỗn Thiên ( tức Hỗn Thiên Ngũ Hành ) , mỗi chữ 1 Long , mỗi chữ quản 6 ngày , thành ra 365 ngày 3 giờ , để ứng với 72 thời tiết của độ số trong 1 năm. Địa bàn căn cứ vào đó căng giây , Phân kim , Thấu địa , Toa huyệt mà dùng. Trong sách Ngỏa Vương hợp tượng cát thư , còn có 24 sơn Thấu Địa Long , thừa khí nhập huyệt. Tầng 34 : là ngang , dọc độ số của 28 sao , hợp với Nhân bàn có 365 vạch. Trong giới hạn độ số của mỗi sao , chia ra Thượng quan , Trung quan , Hạ quan ( quan là cửa ) để dùng làm cung vị Tiêu sa , là phép của Ai tinh. Tầng 35 : là định sự Sai thác và Không vong , có điểm đỏ , chấm đen để gát dây Phân kim , cùng với Xuyên sơn , Thấu địa làm cái ở trong , cái ở ngoài liên quan nhau. Khi giăng dây Phân kim phải đặt trên điểm đỏ , không được đặt vào điểm đen , nếu lọt vào khoảng của chấm đen một nửa sợi tơ tóc là hỏng. Tầng 36 : là 28 sao phối hợp với 24 sơn , và Trung châm Tiêu sa của Nhân bàn , gọi là phép Ai tinh. Lấy sao của sơn Tọa Huyệt làm chủ ; lấy sao ở đằng trước làm Hướng ; và tả , hữu làm Khách. Huyệt trường là Ngôi Bắc Thần ( sao Chính chủ ) , Sa , Thủy là Nhị Thập Bát Tú ( sao phụ tá ). Cũng như sao Bắc Đẩu có các sao khác chầu vào. Vậy sách nho có câu " Thí như Bắc Thần cư kỳ sở , nhi chúng Tinh củng chi " chính là bảo về nghĩa thế. Trên đây là 36 tầng La Kinh , tôi tham khảo các kinh sách của các vị Tiền Hiền , lập ra La Kinh toàn đồ và chỉ dẫn phép sử dụng minh bạch. Phân phối phổ thông ra bốn phương trong thiên hạ , để mọi người cùng biết sử dụng mà tìm lành , tránh dữ cho công việc tạo phúc khỏi bị nghi hoặc và sai nhầm. KHÂM ĐỊNH LA KINH THẤU GIẢI QUYỂN THƯỢNG. Bàn về việc dùng La Kinh không khác gì : Đứng trên bờ suối , lượng bóng cây. đo chiều sâu... La Kinh đầu tiên là do Hiên Viên Hoàng Đế đi đánh Si Vưu bị lạc đường. Thượng Đế sai bà Cửu Thiên Huyền Nữ hiện xuống , chỉ cho cách mà đặt ra phương hướng , mới phá tan được yêu thuật của Si Vưu. Phép dùng kim -chỉ -nam là có từ khi đó , tuy nhiên , câu chuyện có vẻ hoang đường. Có người nói do ở vua Thành Vương nhà Chu. Khi ấy nước Việt thường đến triều cống. Khi về sứ giả quên đường cũ , sợ lạc lối , nên vua nhà Chu cho chế ra Chỉ-nam-xa ( xe có kim chỉ nam bắc ) để dẫn đường. Từ đó La Kinh mới dùng kim pháp để định vị trí , quan sát khí thế để thừa khí vào huyệt mà đặt táng Âm phần. Xét hành độ của các thiên tinh xung hợp , lấy sinh, vượng khí , phân tích rõ rệt tính chất của Tiên Thiên , dùng Hậu Thiên để xem Thủy lộ chảy đi , chảy lại ; xét kỹ càng về họa phúc do hào ly ở nơi sai, đúng , làm cho Trời không đổi được mạng người. Vì vậy người trí thức có tài năng , am hiểu về địa lý , thiên văn , thì có thể đoạt được thần công , cải được Thiên mệnh ! vậy đất có nhiều cái không hoàn toàn mỹ mãn , nên phải thay đổi , thêm bớt ít nhiều để tránh sự hung , tìm cái lành. Vì vậy ý nghĩa của Tam Tài là cần yếu phải xem ở La Kinh , mới rõ ràng được chí lý. Trên xem được Thiên thời , dưới xét được Địa lợi , giửa có thể quyết định được nhân sự. Ngoài ra không còn cái gì khác và phải đạo lý hơn cả. Luận Thái Cực Hóa Sinh : 1/. Thái Cực là Hoàng Đạo , Ngũ Hành thiên biến , vạn hóa là do ở đó. 2/. Tượng ( Lưỡng Nghi ) tức Âm và Dương , là Kiền Khôn ( trời đất ) 3/. Tam Tài ( là Trời , Đất , Người ). 4/. Tứ Tượng ( là Đông , Tây , Nam , Bắc ). 5/. Ngũ Hành ( là Kim , Mộc , Thủy , Hỏa , Thổ ). 6/. Lục Giáp ( là mỗi 60 năm là 1 Nguyên , có Thượng Trung Hạ Nguyên ). 7/. Thất Chính ( là Nhật cầu , Nguyệt cầu và 5 vì Tinh tú ). 8/. Bát Quái ( là Kiền , Khảm , Cấn , Chấn , Tốn , Ly , Khôn , Đoài ). 9/. Cửu Cung ( là Tham , Cự , Lộc , Văn , Liêm , Vũ , Phá , Phụ , Bật ). 10/. Thành số ( theo ở Lạc Thư , thì 1 được thêm 9 thành 10 , gọi là Hợp Thập ). __________________ KHẢO NGHIỆM LA KINH ( Khởi lệ , dụng pháp , đối chứng ). ------------------------- La KInh chế ra tập trung được tất cả mọi tinh hoa của Trời Đất. Nguyên bản Thái Cực là tinh chất của Thiên Địa ngưng đọng lại , là căn bản của vạn vật. Đặt tên là La Kinh , vì chữ La có nghĩa là " bao la vạn vật " ; Kinh có nghĩa là kinh luận " Kinh Thiên Vĩ Địa , là trải khắp cả ngang Trời , dọc Đất ". Sở dĩ lập ra có qui cũ ( khuôn mẫu ) quyền cái , khinh trọng , thành ra vuông , tròn , chẳng cái gì mà không do cái Kim Châm ( kim vàng chỉ nam , bắc ) và cái Thiên Trì ( vòng tròn ). Trước hết để định về Phong Thủy , giả sử cái La Kinh mà không có Thiên Trì , thì không quyết định được phương Tý , Ngọ ; không phân biệt được Âm Dương ; không hoạch định được Bát Quái , Cửu Cung ; Ngũ Hành lẫn lộn , không sử dụng được 2 đầu mối của Can Chi ; không biết được Long , Hướng , Khí , Mạch hay dỡ thế nào , lấy gì mà làm căn cứ ? Vậy nên phải có Kim Châm ở trong vòng Thiên Trì. Động thì Dương , Tĩnh thì Âm . Lưỡng Nghi phân ra Tứ Tượng , phân ra Bát Quái ; định vị Cát Hung , tự nhiên hóa hóa , sinh sinh , vô cùng vô hạn ! Nguyên bản của Trời Đất không phải là ở đầu cực , mà ở 1 điểm chính giửa đỉnh châm làm tổ khí , và cũng là căn bản của vạn vật , vạn hóa. Phân xét : Ngoài Thiên Trì ra thì La Kinh tức là Thái Cực , phải lấy giửa Tý , Ngọ mà phân làm Lưỡng Tượng ; Lưỡng Tượng hợp với Mẹo , Dậu làm Tứ Tượng ; Tứ Tượng hợp với Tứ Duy làm Bát Quái ; Bát Quái định được rồi thì mọi phân vị đều được minh bạch quyền hành phận sự. Tức là Thiên Đạo , Địa Đạo , Nhân Đạo đã thiết lập định hoạch tinh tường. Có bài thơ : Hư , Nguy chi gian châm độ minh. Nam phương Trương độ thượng tam thừa. Khảm Ly chính vị , nhân nan thức. Sai khước hào ly , đoán bất linh. Nghĩa là : trong khoảng sao Hư và sao Nguy đã phân rõ ranh giới ; phương Nam thuộc về độ phận của sao Trương , trên có 3 vị liên tiếp ( Bính , Ngọ , Đinh ) ; Khảm và Ly là ngôi chính khí , đời ít có người biết ! Nếu làm sai 1 li , thì đoán họa , phúc không linh nghiệm. -------------------------------------------------------------------------- TẦNG THỨ 1 : TIÊN THIÊN BÁT QUÁI Tiên thiên bát quái là do 2 vị thánh :Văn Phục Hy và Văn Vương chế tạo ra, phù hợp với đức độ của trời đất và sự quang minh của nhật nguyệt thứ tự thời tiết của 4 mùa, cùng sự cát hung của nhân gian, như là có linh ứng của quỷ thần. Do thái cực chia ra động và tĩnh để làm lưỡng tượng tức Âm Dương...Do ở trong Dương tượng mà sinh ra Thái Dương và Thiếu Âm. Do trong Âm lượng mà sinh ra Thái Âm và Thiếu Dương:tức lá tứ tượng. Do Thái Dương mà sinh ra Kiền 1, Đoài 2. Do Thiếu Âm mà sinh ra Ly 3, Chấn 4 Do Thiếu Dương mà sinh ra Tốn 5, Khảm 6. Do Thái Âm mà sinh ra Cấn 7, Khôn 8 Đó là 8 cung của bát quái. Bát quái quyết định việc tốt xấu; tốt xấu sinh ra tất cả mọi việc hay dở. Nét vạch của quái(tức quẻ) thì có chẳn,lẻ như là : quẻ Kiền thì tam liên (tức 3 gạch liền ).Khôn lục đoạn( 6 nét đứt). Chấn ngưỡng bồn(tức hình cái chậu để ngửa). Cấn phúc uyển (hình cái chén úp). Ly trung hư (hình rỗng giữa). Khảm trung mãn(liền ở giữa). Đoài thượng khuyết (nét trên thiếu, đứt đôi). Tốn hạ đoạn (nét dưới đứt đôi ) Theo hiện tượng thì Kiền là Trời, Khôn là Đất, Chấn là Sấm, Cấn là Núi, Ly là Lửa, Khảm là Nước, Đoài là Đầm ao, Tốn là Gió. Theo Ngũ Hành phân biệt thì Kiền Đoài là Kim, , Khôn Cấn là Thổ, Ly là Hỏa, Khảm là Thủy, Chấn Tốn là Mộc. Theo 8 phương thì Kiến là Nam, Khôn là Bắc, Ly là Đông, Khảm là Tây, Chấn là Đông Bắc, Cấn là Tây Bắc, Đoài là Đông Nam, Tốn là Tây Nam. Kinh Dịch nói: Trời Đất định vị, núi sông thông khí, sấm gió cùng nhẹ (tức tương bạc), thủy hỏa bất tương xạ ( nước lửa chẳng diệt nhau ?!). Phân biệt thuận nghịch thì Tả toàn là từ Chấn đến Kiền , đều được những quẻ đã sinh là thuận; Hữu toàn là từ Khôn đến Tốn, gặp những quẻ chưa sinh là nghịch. Cương vị của quẻ Tiên Thiên là lấy nghĩa tương đối với nhau, xuất xứ từ chỗ còn hết của Âm Dương tự nhiên mà có sự kỳ diệu, vậy lấy Dương sinh ở Tý mà Cực (hêt) ở Ngọ, cho nên Chính Nam là Kiền, mà Kiền cũng chính là chỗ Dương Cực (hết) Dược Cực thì nhất Âm sinh, lấy Tây Nam làm Tốn; Tốn chính là chỗ nhất Âm bắt đầu sinh, Âm sinh thì khí hẳn là thịnh mà bao bọc Dương. Vậy nên chính Tây là Khảm, mà Khảm cũng là chỗ nhất Dương tàng ẩn ở trong mà bao bọc ở trong chỗ thịnh Âm. Âm thịnh thì Dương suy dần đi, tức là thời kỳ đang bị chiếm lần để lập lên Cấn ở Tây Bắc. Cấn chẳng phải là nhị Âm thịnh mà là nhất Dương đã bị tiêu dần. Âm sinh ở Ngọ mà Cực ở Tý, cho nên lấy chính Bắc làm Khôn, Khôn chính là Âm Cực, mà Âm Cực thì nhất dương sinh. Cho nên lấy Đông Bắc làm Chấn, Chấn chính là chỗ nhất Dương bắt đầu sinh. Dương sinh thì khí hẳn thịnh mà bao bọc Âm, cho nên lấy Chín Đông làm Ly, Ly chính là chỗ nhất Âm trung tàng mà được bọc ở trong chỗ thịnh Dương. Dương sinh thì Âm sắp tiêu dần đi, cho nên lấy Đông Nam làm Đoài, Đoài không phải là chỗ nhị Dương Thịnh mà là chỗ thịnh Âm sắp tiêu dần hay sao ? Vậy Kiền, Khôn ở chính vị Nam, Bắc là suy xét ở lẽ Âm, Dương tiêu trưởng (mòn hết , lớn lên) tự nhiên mà có như vậy. Khảm, Ly chính vị ở Đông Tây là lấy lý do xem sự tròn khuyết của mặt trời, mặt trăng ở những ngày Hối, Sóc, Huyền, Vọng (30, mùng 1, 14 và ngày Rằm) làm bằng cớ. Từ Hạ Huyền lúc méo mờ, dần dần lớn lên, đến khi tròn sáng, là Âm tiêu, Dương trưởng, là từ dưới lớn dần lên. Vì vậy quẻ Tả Toàn nhất Dương Chấn, nhị Dương Đoài, tam Dương Kiền, lấy cái hình tượng như thế đấy! Bởi từ Thượng Huyền mờ dần đến khi tối vẹn là Dương tiêu, Âm tức (nghỉ). Vì vậy quẻ Hữu Toàn nhất Âm Tốn, nhị Âm Cấn, tam Âm Khôn, là lấy có tượng như thế đấy! Sở dĩ như vậy mà Dương sáng, Âm tối. Cho nên mặt trăng chịu ảnh hưởng của ánh sáng mặt trời. Ngày Hối (30) thì ánh sáng của mặt trời khuất sau lưng của Trái đất, nên mặt trăng tối. Hôm Rằm (ngày Vọng) thì mặt trời đối chiếu vào mặt trăng nên mặt trăng sáng vẹn toàn. Biết cái sự sáng, tối, tròn, khuyết của mặt trăng thì biết là mặt trời ở giửa. Khàm, Ly là ngôi chính vị liệt ở Đông Tây. Âm Dương tiêu trưởng là lẽ tự nhiên. Người đời chỉ biết quẻ đối đãi của Tiên Thiên mà không hiểu cái lẽ hay của Âm Dương tiêu trưởng. Sở dĩ cái Thể của Lý Khí bao quát vô cùng là vậy đó. TẦNG THỨ HAI: LẠC THƯ (tức hậu thiên bát quái) Lạc thư là chữ số ghi trên lưng con rủa ở sông Lạc, hiện lên thấy có: số 9 ở đầu, số 1 ở chân, số 3 bên tả, số 7 bên hữu, số 2 và số 4 ở vai, số 6 và số 8 ở chân, số 5 ở trung cung. Đây là thần quy phụ đế ở trên giữa sông Lạc. Lấy đó mà thành biến vô cùng, 1-Khảm-Thuỷ, 2-Khôn-Thổ, 3-Chấn-Mộc, 4-Tốn-Mộc, 5-Trung-Thổ, 6-Kiền-Kim, 7-Đoài-Kim, 8-Cấn-Thổ, 9-Ly-Hoả. Bát quái do đó lập thành. Phép làm lịch nhân đó mà có nhất bạch, nhị hắc, tam bích, tứ lục, ngũ hoàng, lục bạch, thất xích, bát bạch, cửu tử. Lấy hình tượng để hoá tứ tượng. Thái dương ở số 1, liền với số 9 nên thành ra 4x9=36. Thái âm ở số 4 liền với số 6 nên thành ra 4x6=24, cộng lại 36+24=60 số, để thành 60 giáp tý. Thiếu dương ở số 3 mà liền với số 7 nên thành ra 4x7=28. Thiếu âm ở số 2 mà liền với số 8 nên thành ra 4x8=32, cộng lại 28+32=60, để thành 60 hoa giáp, hợp với 60 trước hoá ra 120, là nguồn gốc của 120 phân kim, còn về sự hoá ra số chẵn, lẻ, âm, dương thì số 1, 3, 5, 7, 9 là số lẻ thuộc về dương; số 2, 4, 6, 8,10 là số chẵn thuộc âm. Kiền, Khôn, Khảm, Ly là 4 quẻ thuộc dương. Chấn, Tốn, Cấn, Đoài là 4 quẻ thuộc âm. Theo hậu thiên 1 được 9 thành 10, tức hướng Tý, Ngọ(Khảm, Ly) 2 được 8 thành 10, tức hướng Khôn, Cấn, 3 được 7 thành 10, tức hướng Chấn, Đoài(Mão, Dậu) 4 được 6 thành 10, tức là hướng Kiền, Tốn là hậu thiên phu phụ đối đãi. Theo số của Lạc thư thì Khảm 1, Kiền 6, Cấn 8 cộng là 15 số ở phương Bắc; Tốn 4, Ly 9, Khôn 2 cộng là 15 số ở phương Nam; Chấn 3, Tốn 4, Cấn 8 cộng là 15 số ở phương Đông; Đoài 7, Khôn 2, Kiền 6 cộng là 15 số ở phương Tây; tổng cộng là 60 số để ứng với 60 long. Do ở nguồn gốc đó mà ra; Tứ chính, tứ duy, trung ương cộng là 60 số, hợp cả 60 số trước lại là 120 phân kim. Ngang 15, dọc 16 cái thành ra 240 phân, mỗi sơn 10 phân, lấy ứng 240 sơn, để dùng làm việc phân kim, biết số vượng, tướng, cô, hư, sát diệu. Về Hà đồ thì 1 cùng tông với 6, nên Giáp và Kỷ hợp; 2 cùng đạo với 7 nên Ất và Canh hợp; 3 với 8 là bạn nên Bính với Tân hợp; 4 với 9 cùng hội nên Đinh với Nhâm hợp; 5 với 10 cùng đường nên Mậu với Quý hợp. Như vậy ta thấy Hà đồ Lạc thư vận dụng rất rộng rãi, hễ gặp hợp thì hoá, tất được 5 mà thành 10. Cho nên giáp kỷ bắt đầu khởi từ Giáp Tý đến 5 vị gặp Mậu Thìn hoá thổ; Ất Canh khởi Bính Tý tiến 5 vị gặp Canh Thìn thì hoá kim; Bính Tân khởi Mậu Tý tiến 5 vị gặp Nhâm Thìn thì hoá thuỷ; Đinh Nhâm khởi Canh Tý tiến 5 vị gặp Giáp Thìn thì hoá mộc; Mậu Quý khởi Nhâm Tý tiến 5 vị gặp Bính Thìn thì hoá hoả. Đó là tương hợp tương hoá, tương tòng, nguyên tắc của phép độn ngũ tý; gặp dần mà sinh, gặp thìn mà biến là lẽ thường như: Giáp Kỷ khởi Giáp Tý, đến Dần là Bính hoả mà sinh ra Mậu Thìn thổ. 4 cung sau cũng vậy theo đó sẽ suy ra. Lạc thư 1 được 5 thành 6 nên Giáp với Kỷ hợp; 2 được 5 thành 7 nên Ất với Canh hợp; 3 được 5 thành 8 nên Bính với Tân hợp; 4 được 5 thành 9 nên Đinh với Nhâm hợp; 5 được 5 thành 10 nên Mậu với Quý hợp. Theo Hà đồ 1-6 là Thuỷ, 2-7 là hoả, 3-8 là Mộc, 4-9 là Kim, 5-10 là Thổ. Thiên 1, địa 2, thiên 3, địa 4, thiên 5, địa 6, thiên 7, địa 8, thiên 9, địa 10. Nói về thiên số thì giáp, bính, mậu, canh, nhâm là 5 vị dương can. Về địa số thì ất, tân, đinh, kỷ, quý là 5 âm can. Theo số đại diễn thì thiên số có 25, địa số có 30, cộng là 55 rất tinh vi và diệu dụng vô cùng. TẦNG THỨ BA: BÁT SÁT HOÀNG TUYỀN Khảm Long, Khôn Thố, Chấn sơn Hầu Tốn Kê, Kiền Mã, Đoài Xà đầu Cấn Hổ, Ly Trư, vi sát diệu Trach, mộ phùng chi, nhất khắc hưu Trên đây là cái sát hàng đầu, rất kỵ cho việc tạo táng. Người ta thường gọi là Bát sát, chỉ có 8 cái phương sát: Khảm long kỵ Thìn và Tuất 2 thuỷ lại, Khôn long kỵ Mão thuỷ lại, Chấn long kỵ Thân thuỷ lại, Tốn long kỵ Dậu thuỷ lại, Kiền long kỵ Ngọ thuỷ lại, Đoài long kỵ Tỵ thuỷ lại, Cấn long kỵ Dần thuỷ lại, Ly long kỵ Hợi thuỷ lại, mỗi long chỉ có 1 sát.Còn về chọn ngày tạo mệnh thì ở năm, tháng, ngày, giờ kỵ dụng. Ví dụ như Khảm sơ thì kỵ mậu thìn, mậu tuất, Khôn sơn kỵ ất mão, Chấn sơn kỵ canh thân, Tốn sơn kỵ tân mậu, kiền sơn kỵ nhâm ngọ, Đoài sơn kỵ đinh tỵ, Cấn sơn kỵ bính dần, Ly sơn kỵ kỷ hợi. Đó, đều do ở hào quan quỹ của hỗn thiên ngũ hành phạm sát. Nếu tạo táng hay sửa chữa mộ ở phương đó cả hai việc; Trước hết đem thái tuế của năm, vào trung cung, tiến theo chiều thuận phi luân chuyển; sau lấy nguyệt kiến của tháng và ngày giờ phi ra 9 cung, như gặp quý tỵ, quý hợi của năm tháng ngày giờ vào trung cung, thì mậu tuất, mậu thìn đến nhất bạch, không nên sửa chữa ở phương khảm và tạo táng ở khảm sơn. Nếu gặp kỷ dậu niên, kỷ dậu nguyệt, kỷ dậu nhật, kỷ dậu thời nhập trung cung, chuyển đến ất mão là nhị hắc đáo khôn sơn thì có thể sửa hay là tạo táng ở khôn sơn được. Nếu như quý sửu niên, hay nguyệt, nhật, thời nhập trung cung phi chuyển đến canh thân, tân dậu đáo tam bạch, tứ lục thì không nên tu tạo ở 2 sơn chấn, tốn. Tân tỵ niên, nguyệt, nhật, thời nhập trung cung, luân chuyển tới ngọ là lục bạch, đáo kiền thì không nên tu tạo ở kiền sơn. Quý hợi niên, nguyệt, nhật, thời vào trung cung, luân chuyển đến bính dần là bát bạch đáo cấn thì không nên tu tạo ở cấn sơn. Ất mão niên, nguyệt, nhật, thời nhập trung cung phi chuyển đến đinh tỵ là thất xích đoài thì không nên tu tạo ở đoài sơn. Ất mùi niên, nguyệt, nhật, thời nhập trung cung phi chuyển đến kỷ hợi là cửu tử đáo ly, thì không thể tu tạo ở ly sơn được.Đó đều là bát sát quy cung, thì quyết định bách nhật nội, đại sinh hung hoạ thật nên tránh, đó là 8 cung sát nên cẩn thận chơ phạm vào. Bài ca về hỗn thiên ngũ hành: Kiền Kim, Giáp Tý, ngoại Nhâm Ngọ Khảm Thuỷ, Mậu Dần, ngoại Mậu Thân Cấn Thổ, Bính Thìn, ngoại Bính Tuất Chấn Mộc, Canh Tý, Canh Ngọ lân Tốn Mộc, Tân Sửu ngoại Tân vị Ly Hoả, Kỷ Mão, Kỷ Dậu tầm Khôn Thổ, Ất Mùi gia Quý Sửu Đoài Kim, Đinh Tỵ, Đinh Hợi bình Nghĩa là Kiền thuộc kim thì kỵ giáp tý và nhâm ngọ 2 phương, 7 cung kia cũng theo như thế mà suy nhận.Không kể chính sát hay bàng sát, chỉ kỵ ở chổ nạp giáp. Canh, Thân, Tân, Dậu đồng phạm với Ất, Mão; Cấn, Dần đồng phạm Nhâm, Hợi. Sơn và thuỷ đều có sát, sơn có sơn sát, thuỷ có thuỷ sát. Lập hướng gồm kỵ cả. Cho nên thuỷ hai dòng chảy lại, nước bên hữu lại thì trưởng tử bại, nước bên tả lại thì con thứ hai bại, nước chảy ngang trước mặt thì con thứ ba bại. Xem nước ở trên mặt ruộng sẽ thấy. Hướng kỵ: Khảm long thì kỵ Thìn Tuất hướng Cấn long thì lỵ Dần hướng Chấn long thì kỵ Thân hướng Tốn long thì kỵ Dậu hướng Ly long thì kỵ Hợi hướng Khôn long thì kỵ Mão hướng Đoài long thì kỵ Tỵ hướng Kiền long thì kỵ Ngọ hướng Đây là hào quan quỷ về hỗn thiên ngũ hành của tiên thiên bát quái. **Theo mình thì riêng Kiền Mã tức Kiền Ly thì không kỵ, vì sao ? Chính bởi Kiền của Tiên Thiên cũng chính là Ly của Hậu Thiên vậy. TẦNG THỨ TƯ TỨ LỘ VÀ BÁT LỘ HOÀNG TUYỀN Bài thi ca : Canh Đinh , Khôn thượng thị Hoàng Tuyền Khôn Hướng, Canh Đinh thiết mạc ngôn Ất Bính tu phòng Tốn Thủy tiên Tốn Hướng kỵ hành Ất Bính thượng Giáp Quý Hướng trung ưu kiến Cấn Cấn phùng Giáp Quý họa liên liên Tân Nhâm, Kiền lộ tối nghi kỵ Kiền Hướng, Tân Nhâm họa diệt nhiên Bốn cài Sát này là Tứ Lộ, đảo lộn lại hóa ra Bát Lộ Hoàng Tuyền, cũng sát kỵ như nhau. Đó là kỵ ở trên phương vị Lập Hướng có nước chảy lại Minh Đường ngay trước mặt. Khai Môn, Phóng Thủy càng kỵ nữa. Lấy Tọa Sơn khởi lệ, dùng bàn tay mà định 12 vị của vòng Trường Sinh, tính đến số Mộ, Tuyệt là phương Tiêu Thủy ở đó. Ví dụ như : Giáp Sơn Canh Hướng, thì Giáp là Mộc, Mộc Trường sinh ở Hợi, Mộc Dục ở Tý, Quan Đới ở Sửu...Mộ ở Đinh Mùi, Tuyệt ở Khôn Thân. Đây là mượn Hướng thược để lấy bàn về Tọa Sơn. Như Canh Hướng thì Tọa Giáp Sơn, Đinh Hướng thì Tọa Quý Sơn, đó chính là nghĩa câu " Kim Dương thu Quý Giáp chi linh", tức là nước ở phương Mùi Khôn nên chảy đi, không nên chảy lại trước Huyệt, Thủy triều vào là bại, phạm Hoàng Tuyền đại sát, bị yểu vong, cô quả. Chỉ lấy Tọa Sơn làm chủ, không cần bàn đến Long Tả Toàn hay Long Hữu Toàn gì cả. Thánh Nhân nói : Sinh-Vượng-Mộ hợp lại mà Mạnh-Trọng-Quý 3 phòng phân biệt; là ý nói : 2 phương Sinh, Vượng nên chảy lại, Mộ khố phương nên chảy đi. Nếu nên chảy vào mà lại chảy đi là phản! Là Sinh-Dưỡng Thủy khứ thì Mạnh phòng, tức là con trưởng bại. Nếu Vượng Thủy mà chảy đi thì trung phòng, tức con thứ hai bại. Nếu như Thủy nên chảy đi mà chảy lại, như là Thủy phượng Tử, Mộ chảy lại vào trước Huyệt đó thì Quý phòng, con thứ ba bại. Ví dụ ở cục này như thế, các cục khác cũng tương tự vậy mà suy ra. ĐỊA CHI HOÀNG TUYỀN: Mẹo Thìn Tị Ngọ phạ Tốn cung Ngọ Mùi Thân Dậu, Khôn nhược phùng Dậu Tuất Hợi Tý, Kiến cung thị Tý Sửu Dần Mẹo, Cấn tao hung. Nghĩa là: Mẹo Thìn Tị Ngọ thì Hoàng Tuyền ở Tốn Ngọ Mùi Thân Dậu thì Hoàng Tuyền ở Khôn Dậu Tuất Hợi Tý thì Hoàng Tuyền ở Kiền Tý Sửu Dần Mẹo thì Hoàng Tuyền ở Cấn BẠCH HỔ HOÀNG TUYỀN: Kiền Giáp Khảm Quý Thân Thìn sơn Bạch Hổ chuyển tại Đinh Mùi gian Cánh hữu Ly Nhâm Dần kiêm Tuất Hợi sơn lưu Thủy chủ ưu phiền Chấn Canh Hợi Mùi tứ sơn kỳ Thủy nhược lưu Thân khước bất nghi Cánh hữu Đoài Đinh Tị kiêm Sửu Phạm trước Ất Thìn Bạch Hổ khi. Khôn Ất nhị cung Sửu mạc phạm Thủy lai tất nam định vô nghì Cấn Bính sầu phùng Ly thượng hạ Tốn Tân ngộ Khảm họa nan di Nghĩa là : Kiền Giáp Khảm Quý Thân Thìn thì Bạch Hổ Hoàng Tuyền ở Đinh Mùi Ly Nhâm Dần Tuất .................................. Hợi Chấn Canh Hợi Mùi .................................. Thân Đoài Đinh Tị Sửu ....................................Ất Thìn Khôn Ất ....................................Sửu Cấn Bính ....................................Ly Tốn Tân ....................................Khảm Cả 2 cái Hoàng Tuyền trên đây ( Địa Chi Hoàng Tuyền và Bạch Hổ Hoàng Tuyền) đều lấy Hướng làm chủ, kiêng kỵ mở cửa và chỗ nước chảy tiêu đi ở phương đó. Tóm lại : Quyết (phép) này lấy Hướng thượng để luận định về Thủy lai đáo đường, hoặc Thủy khẩu, chỗ tiêu đi và đường ngõ đi, rất sợ phạm vào phương kỵ sát đó, sẽ hao người tốn của, tai họa và ly hương biệt tổ, nghiệm lắm! Cần dựa vào Thủy để lấy Hướng thì không bị những cái sát đó. Như Khôn Thủy lai thì lập 2 hướng Khôn Thân mà thu Thủy thì tốt, nếu lập Hướng Canh tức bị phạm Hoàng Tuyền thì xấu TẦNG THỨ NĂM CỬU TINH ĐẾ ỨNG TỨ VIÊN CỤC Cửu tinh là: Tham, Cự, Lộc, Văn, Liêm, Vũ, Phá, Phụ, Bật phối hợp với 24 sơn, dụng Địa mẫu quái để định, theo Bát Quái biến sao. Lấy cung đối với cung khôn khởi Tham Lang để phối hướng. Như Cấn Bính là Tham Lang thuộc Mộc, Cự Môn Thổ ở Tốn Tân, Kiến Giáp là Lộc Tồn Thổ, Ly Nhâm Dần Tuất là Văn Khúc Thủy, Chấn Canh Hợi Mùi là Liêm Trinh Hỏa, Đoài Đinh Tị Sửu là Vũ Khúc Kim, Khmả Quý Thân Thìn là Phá Quân Kim, Khôn Ất là Phụ Bật thuộc Thổ Mộc đó vậy. Kinh Dịch nói: Nhìn khí tượng bay trên trời rũ xuống thấy cát hung, ở trên trời thành khí tượng, ở dưới đất thành cái hình thể, chiếu xuống 24 sơn. Tinh có tốt có xấu, cho nên đất cũng có lành có dữ. Bảo rằng: Trời che Đất chở là lấy sao Thiên Hoàng ở Hợi, chiếu vào Tử-vi-viên ở trên đó, và Cấn là Thiên-thị-viên, Tốn là Thái-vi-viên, Đoài là Thiếu-vi-viên. Bốn cục này là 4 Vi-Thiên-Tinh rất quý. Thiến Quý chiếu vào Bính, Thiên Ất thì chiếu vàoTân, Nam Cực chiếu Đinh hợp Cấn, Tốn Đoài gọi là Lục Tú. Lại còn Thiên Bình chiếu vào Tị là đối cung Tử-vi-viên, gọi là Đế đô minh đường. Nên Hợi Tị hợp với Lục Tú gọi là Bát Quý. Ly cư chính nam là chính giửa trời đất đều tốt lành, nếu là mọi Dương Long thì là hạ (kém). Tóm lại, lấy Tử-Vi, Thiên-Thị, Thái-Vi, Thiếu-Vi làm 4 vị Thiên Tinh quý, trong 4 viên này thì có Tử-Vi, Thiên-Thị, Thái-Vi là 3 viên có cái hiệu nghiệm lập quốc, kiến đô, hợp 3 viên là tốt. Còn như Thiếu-Vi không phải là Đế tòa, là Huyền Đô không nên lấy dùng. Lấy 24 vị Thiên tinh này phối với sơn, sa, thủy ứng nghiệm. Lại còn lấy cái Long của Tam Dương, Lục Kiền là Thiên Hợi, Địa Cấn, Nhân Đinh, Tài Mão, Lộc Tốn, Mã Bính, tinh thần là Ngũ Cát đinh. Ngọc môn Tốn, Văn bút Tân, Học đường Bính, Xá đường Mão, Trường bịnh Bính Đinh. Kim đới Canh Dậu Tân, Ngân đới Mão Cấn, Cấu Phú Văn Quý Tốn Tân. Trên đây, trong cái Tam Cát, Lục Tú này thì Dương Trạch đại vượng, nhân đinh phú quý, và bền vững lâu dài; còn Âm Phần không bị mối, kiến, bùn nước vào quan tài mà phát phúc lâu dài. Đó là cùng vị về Thiên Tinh, Sa, Thủy, tốt hay xấu do đó mà định đoán. Hễ Sa quý thì sinh ra người quý, Sa tiện thì sinh ra người tiện. Còn Tầm Long nhập huyệt ở chỗ quá giáp, hễ thấy Thổ sắc biến khác thì tìm huyệt ở chỗ quá giáp đó. Như là: Quá giáp là đá thì huyệt cũng có đá, sắc đất màu đỏ là Liêm Trinh, vàng là Cự Môn... tất cả đều lấy Cửu Tinh mà luận. Xem Thổ sắc thì chuyên xem Long quá giáp, chỗ quá giáp với chỗ huyệt tính tình cũng tương tự. Phép xem Thổ sắc biến thì cần yếu lấy chỗ Long Nhập Thủ ở chỗ quá giáp đặt La Kinh coi. Như Cấn Bính là Tham Lang thuộc Mộc, mà Long đến lại huyệt thì sắc đất hẳn xanh; Tân Tốn là Cự Môn thuộc Thổ thì sắc đất vàng; Kiền Giáp là Lộc Tồn Thổ thì chỗ huyệt sắc đất cũng vàng; Ly Nhâm Dần Ngọ Tuất là Văn Khúc Thủy thì sắc đất chỗ huyệt hẳn đen; Chấn Canh Hợi Mùi là Liêm Trinh Hỏa thì sắc đất chỗ huyệt hẳn đỏ; Đoài Đinh Tị Sửu là Vũ Khúc Kim thì sắc đất hẳn trắng; Khảm Quý Thân Thìn là Phá Quân Kim thì đất chỗ huyệt hẳn là đen và trắng; Khôn Ất là Phụ Bật Thổ Mộc thì có phân ra Phụ thuộc Mộc, Bật thuộc Thổ, do vậy sắc đất chỗ huyệt hẳn là xanh vàng. Lấy màu sắc hồng hoàng, sáng tươi, mềm dẻo thì tốt; đen khô, rời vụn thì rật xấu. Thổ phì hậu thì tốt, kiên ngạnh và đá cứng cũng hung. Trên đây, trước nói về các công dụng của Cửu Tinh, sau kế Tứ-Viên Cửu tinh để ứng với viên-cục thiên tinh của 24 phương vị, phân hoạch kinh độ của một kinh bàn đều ra trong và ngoài thông, hợp cẩn trọng cả. PHÉP XEM SẮC ĐẤT: Thiên Thôi Quan nói: Chỗ quá giáp màu sắc đất tía thì huyệt cũng tía, hồng là Liêm Trinh, hoàng là Cự Môn. Thuyết an táng của tiền hiền nói: Bói để tìm chỗ đất táng mộ hay làm nhà ở xem tốt xấu, thì xem lấy chỗ đất sắc màu tươi sáng có cỏ cây mọc xanh tốt, chỗ ấy trước kia không phải là sông, đầm, thành trì và không có đường đi áp bức thì tốt. Chỗ đất có khí mạch tốt thì hài cốt tốt, vong hồn được yên ổn, con cháu được thịnh vượng, đó là lẽ cố nhiên. Nên người xưa định đặt huyệt chỗ nào thì bên ngoài xem hình thể núi sông, bên trong thì xem màu sắc đất tốt xấu, mới chắc chắn là được. Cốt nhất là được đất chắc mịn, mềm dẻo, sắc tươi sáng, thấy hồng hoàng như viên ngọc hay như thớ thịt, nửa nạc nửa mỡ là tốt thượng hạng. Nếu khô khan, rời rã như cát sỏi vụn thì xấu không có khí mạch. Tụ khí là hành Kim thì đất trắng, là Thủy khí thì đất đen, Mộc khí thì sắc xanh, Hỏa khí thì đất đỏ, là Thổ khí thì sắc vàng. Có nơi đất như cẩm thạch, óng ánh như long não, như ngọc bích là rất quý. Cần phải lựa xem chỗ nào có tính cách đặc biệt mới là thật tốt. Ví dụ: Cả vùng đất đó đều bình thường như nhau, chỉ có một chỗ khác sắc, hoặc mịn tươi hơn là rất tốt, khi khai đào huyệt thấy có sinh vật nào như rùa, cá là tinh túy của Thiên Địa, là có điềm tốt. Còn nếu thấy rắn, chuột, sâu bọ, kiến là xấu. Cấn phải nhận định rõ ràng kỹ lưỡng. Khi xem Âm phần, Dương trạch, cả hai bên đầu tối kỵ không được phạm vào Long Thể, phải để dư ra rộng rãi tư nhiên. Nếu bị phá thương Long sẽ sinh ra kiện tụng, hao tài, tổn nhân đinh, đã kinh nghiệm thấy nhiều không sai. Nếu không, hãy xem những nhà không biết, khi Tạo Táng đào xẻ phạm vào Long Thể thì sẽ thấy sự tai hại. Ngoài ra còn, ở ngoài chỗ Thủy Khẩu có tượng đá đặc biệt, hoặc có những diệu tinh, cũng không được phá hoại, phạm đến cũng sẽ bị ảnh hưởng như thế. Nguồn:HuyenKhongLySo.com
-
Nhận dạng đất Tại sao phải nhận dạng đất ? Trước hết,hãy bỏ qua các yếu tố thần bí,mà đặt trọng yếu tối kinh nghiệm được đúc kết qua ngàn năm.Từ việc con người xem các chân cột để thấy được độ ẩm của đất,xem vầng sáng quanh mặt trăng để tiên đoán thời tiết,và ngay cả mầu xanh một chậu kiểng của một loài thực vật,hay nhìn ngắm con chó,con mèo nuôi mập ốm,để biết được sự mầu mỡ an lành của một vùng đất,đến việc khám phá ra rằng nhà mở cửa hướng Nam thường mát mẻ và mở hướng Bắc thường lạnh giá,nhà trên sườn đồi tránh được lụt lội và nhà trông ra biển người cư ngụ thường khỏe mạnh,ít đau bệnh.Những giải đoán có tính kinh nghiệm đó đã góp phần gây dựng và tồn tại cho đến bây giờ thuyết lý phong thủy. Và phong thủy giải đoán sự cát hung của đất đai qua diện mạo của nó với môi trường xung quanh.Diện mạo đó,vị trí đó được coi là địa mạo.Không nhất thiết phải có "cặp mắt phong thủy" mới quan sát được địa mạo,mà mọi người,với khả năng và kinh nghiệm sống của mình đều nhận ra khí của đất với những quan sát mắt thường,tiền đề cho những giải đoán sau này. Quan sát mắt thường là thế nào ? Là quan sát bằng cặp mắt của người không bận tậm đến phong thủy mà chỉ bận tậm đến việc lựa chọn mảnh đất xây dựng căn nhà cho mình.Đó là những quan sát thoạt tiên,nhất thiết không thể bỏ qua.Trước hết quan sát thực vật và động vật xung quanh vùng đất muốn lựa chọn.Nếu cỏ cây có mầu tươi xanh,khí ắt tốt lành và khỏe mạnh.Những vùng đất mầu nâu,mầu vàng hoặc trần trụi tỏ rằng dòng khí đã chảy khỏi mặt đất,nôm na gọi là đất bạc mầu.Long mạch chính là nơi tươi xanh những thảm cỏ,chồi lộc nhú trên cành xanh,bảo rằng chỗ ấy khí sung mãn,nên dựng nhà ở đó.Những động vật hoang dã và gia cầm,mà sắc diện của chúng khỏe mạnh,tươi vui,giúp ta dự đoán sự sung túc, xum họp.Các loại động vật như quạ,cú,chim móng nhọn,chim ăn thịt,chó mèo hoang là điềm báo khí hãm xấu.Nếu không có động thực vật thì cần quan sát những người quanh vùng,những người xóm giềng,xấu tốt hiện ra nơi mặt họ.Sống gần bên những người nổi tiếng,những người giầu sang,những người quân tử,những người cao thượng, đạo đức là cũng đơợc thụ hưởng nguồn khí tốt lành,cát vượng.Ngược lại sống bên những người trộm cắp,thấp hèn,luôn tranh dành cãi cọ,thật khó tránh khỏi những hãm xấu của môi trường.Do đó,việc quan sát cát hung của đất ở,nói chung,mỗi người đều có một khả năng phong thủy nhất định. Nhưng ? Nhưng đó chỉ là sự quan sát lựa chọn trong mơ,chỉ có trong thời cổ xưa khi đất đai mênh mông dân cư thưa thớt,người ta có thể lựa chọn cà hình sông thế núi để xây dưng căn nhà cư ngụ cho người sống và miệng rồng để táng nhà cho người chết.Còn giờ đây,tấc đất tấc vàng ao dầm san lấp,ruộng hoang nên nhà,thì việc lựa chọn một vùng đất thuận theo phong thuỷ cho một căn nhà không phải cứ muốn là được,mà phải chấp nhận theo hoàn cảnh,theo môi trường,và cố sao cho căn nhà được hưởng lợi nhiều nhất cát khí của môi trường tự nhiên ấy.Đất lành chim đậu.Không có vùng heo hút nào cư dân vùng ấy không quần tụ thành xóm,bản,thành thôn làng.Nơi quần tụ ấy chính là đất phong thuỷ nhất của vùng heo hút ấy.Nên việc được cư ngụ trên đất kinh đô,thành phố,thị xã,thị trấn,làng xóm đã là được hưởng cái phước của phong thuỷ chốn ấy.Vấn đề còn lại là sự đua tranh nhau dành những miếng đất cát tường hơn.Phong thuỷ hiện đại tham gia vào cuộc đua tranh ấy với những quan sát thông thoáng hơn và những giải pháp tích cực hơn,ví thể như con đường được coi như dòng sông,nhà cao tầng được coi như là núi,âm thanh,màu sắc,các vật sống,chuyển động,các vật phát sáng...được coi là giải pháp.Và việc lựa chọn những giải pháp nào cho thoả cái ý muốn Phúc Lộc Thọ là nội lực tự thân của người biết cầu thị,biết nhận sự tham góp ý kiến hay và đúng của phong thuỷ. Một vài cách quan sát Đã nói là quan sát,thì phải cố vận động trí tưởng ,bởi không có một địa mạo nào giống như mẫu vẽ.Mẫu vẽ chỉ mang ý nghĩa tham khảo.Và nên thuộc địa mạo quan sát trong trí tưởng để suy ngẫm giải đoán. Thuộc mặt đất,đó là việc không thể không làm được nếu muốn.Nhưng quan sát dòng khí là điều khó khăn hơn,đòi hỏi chuyên cần,tỉ mỷ và kiến thức.Có thể quan sát dòng khí như quan sát dòng chảy con sông hay con đường.Dòng chảy nào cũng có thượng lưu và hạ lưu,mặt trước của căn nhà ở phía thượng lưu. Sẽ nhận ra rằng : Quanh nhà ở có đường đi hay dòng sông hiền hoà bao bọc,liền lạc,không phân nhánh,cắt khúc,đó là đất tụ khí,tụ tài lộc.Lại bảo,trước cửa nhà có dòng sông hay đường đi bao quanh,nước chảy êm đềm,thật cát tường cho sinh tồn sinh lý.Lại bảo,dòng chảy thượng lưu chảy ngang qua mặt nhà (là con đường thì quan sát dòng chảy khi trời mưa),đất này vượng thuỷ khí,lợi việc giao tiếp. Và cũng dễ nhận ra rằng : Nếu dòng chảy từ hai bên nhà ở hợp lại phía trước cửa nhà,sau đó chảy đi,là đất tán khí.Lại thấy,dòng chảy đâm thẳng vào cửa chính,sau đó phân làm hai nhánh sang hai bên chảy đi,là khí xung sát,xấu hãm.Lại thấy,lưng hình cung của dòng chảy nằm ở phía trước nhà,như cánh cung ngược,cổ nhân cho rằng đất này gia đạo khó yên,hôn nhân trắc trở.Lại thấy,dòng chảy đi qua phía sau căn nhà nhô ra,ưỡn vào lưng nhà,gọi là đất lưỡi nhô,chủ về thị phi,tranh tụng.Dòng chảy đâm vào sau lưng nhà đến gần nhà chảy về hướng khác,gọi là đất nước xói,thuỷ khí sau lưng sự cố bất ngờ.Dòng chảy càng đẹp thì sát khí càng mạnh.Thác Cam Ly tuyệt đẹp,người ta có thể đến tham quan thưởng ngoạn và nghỉ lại đôi ba ngày.Nhưng nếu làm nhà ở bên thác (nếu có thể) cuộc sống cụng không thể cát vượng,nếu không muốn nói là có nguy cơ điên loạn,đau ốm,bệnh tật.Dòng chảy cong ngược đâm vào sau lưng nhà cũng gọi là đất hung.Hoặc trên dòng chảy hình thành một cung lượn thì gọi là đất Bạch Hổ quay đầu,loại địa hình này rất kiêng kỵ,mất láng giềng,luôn họa ách. Tóm lại,dòng chảy ôm căn nhà cư ngụ căn bản là cát,dòng chảy tấn công hoặc xói tán khí của căn nhà cư ngụ là hung. Nhận dạng công trình kiến trúc? Nắm vững lý thuyết ngũ hành sinh khắc để nhận định. Hình dạng kiến trúc có dạng hành kim : Hình dáng là cong tròn.Máu sắc là xám trắng.Công năng là an toàn,là nơi làm việc sinh ra và cất giữ tiền bạc.Vật liệu xây dựng là sắt thép.Một số ví dụ : Cấu,gò,đường cong vòm nóc,nhà làm việc,đường xe lửa,dao kéo,tiền,nữ trang,cung kiếm... Hình dạng kiến trúc có dạng hành thuỷ: Hình dáng uốn lượn,lên xuống.Màu sắc từ trắng trong đến đen.Công năng là chuyển động,giao tiếp,ngôn ngữ.Một số ví dụ : Phòng tắm,nhà bưu điện,nhà giặt ủi,rượu bia,tin học,điện toán,điện lực,viễn thông quảng cáo,giao thông,kính... Hình dạng kiến trúc có dạng hành mộc : Hình dáng vuông cao.Màu sắc là xanh lá cây.Công năng là sinh,dưỡng,tự trọng.Vật liệu xây dựng là mộc.Một số ví dụ : Cột tròn,tháp,tháp canh,phòng ngủ,phòng trẻ nhỏ,phòng ăn,nhà dưỡng nhi,màu hoạ sĩ,đồ đạc,rau cỏ,nghề mộc,cư xá,cà phê,nhà thương,khách sạn,cây cỏ... Hình dạng kiến trúc có dạng hành hoả : Hình dáng nhọn đầu,hình ngọn lửa.Màu sắc là đỏ tía.Công năng là thành tích.Một số ví dụ : Tháp nhà thờ,mũi nhọn,nhà bếp,công nghệ hoá chất,động vật,màu đỏ,đồ da,trí thức... Hình dạng kiến trúc có dạng hành thổ : Hình dáng vuông thấp.Màu sắc là hoàng thổ.Vật liệu xây dựng là gạch,cát,đá vôi,gốm...thuộc thổ.Công năng là sinh tồn,sinh lý.Một số ví dụ : Dãy nhà chung cư,mái bằng,nhà thấp tầng,hình vuông,tường hầm,nhà để xe,nhà kho,nông nghiệp,đồ gốm,công chánh,nơi bằng phẳng,đất sét,gạch... Hình thể mảnh đất xây dựng nhà ở nên như thế nào? Các hình thể mảnh đất: Hình thể mảnh đất chắc chắn còn nhiều hơn hình thể toán học.Nào vuông,nào chữ nhật,tròn,méo,nửa tròn,méo tròn,méo vuông,tam giác cân,tam giác vuông,ngũ giác,lục giác,bát giác,hình thang,hình bình hành,hình gà,hình cóc,hình rắn,hình chuột,hình hổ quay đầu,hình voi phục,hình lưỡi liềm,hình ngôi sao...Tóm lại là không thể kể hết. Xu thế chung của phong thuỷ truyền thống chuộng hình tròn và vuông.Có thể tròn là Trời,vuông là Đất (quan niệm cổ) tượng hình trong đồng tiền chinh cổtròn ngoài,vuông trong.Cũng có thể bởi vuông và tròn chứa đầy một cái bát quái` với tám điều mà người đời cho là thiết yếuvới cuộc sống của mình.Tám điều ấy là: Sự Nghiệp (1),Hôn Nhân (2),Gia Đình (3),Tiền Của (4),May Mắn (6),Con Cái (7),Trí Thức (8),Danh Tiếng (9),Tám điều này xoay quanh trục Trung Tâm (5) chủ hai căn bản của con người là Sinh Tồn và Sinh Lý.Hình vuông và tròn đầy một bát quái,chứa đầy đủ tám điều kể trên,là vậy. Vậy nên,mảnh đất hình dạng gì chăng nữa cũng nên xây dựng căn nhà trên một hình vuông hoặc chữ nhật,để được tiện ích,cát tường. Với mảnh đất rộng,thực hiện điều này không khó khăn.Nhưng với miếng đất quá hẹp hoặc không thể bố cục thành hình vuông hoặc hình chữ nhật,thì nên sử dụng các giải pháp nhập thế đưa miếng đất về hình vuông hoặc chữ nhật trong phạm vi có thể của nó. Nói thật dễ,nhưng dịch chuyển một miếng đất hình tam giác,hình méo tròn,hình đuôi chuột...về khuôn vuông hay chữ nhật là điều vô cùng khó.Khó không phải là bởi không thể làm được mà khó thuộc về suy nghĩ,tập quán và hoàn cảnh khiến chủ đầu tư không thể thực hiện.Trong các trường hợp nan giải này,xuất thế là giải pháp. Nguồn:phongthuybnn.com
-
Những vấn đề nêu ra dưới đây, có điều phong thủy lý giải được, có điều không, dù rằng rất thông dụng trong dân gian. Và cũng chính vì những điều thông dụng ấy, nên chép lại cùng tham khảo. CHỌN NGÀY LÀM NHÀ ? 1. Theo kinh nghiệm và phong tục tập quán : Nguyên tắc chọn ngày tốt nhất là ngày Rằm, ngày mồng Một mỗi tháng, nếu các ngày Rằm, Mồng Một đó không rơi vào các ngày Hoang Ốc sau đây :Mùa xuân tránh ngày Thân/Mùa Hạ tránh ngày Dần/Mùa Thu tránh ngày Mão/Mùa Đông tránh ngày Dậu. Và cần tránh Ngày Sát Chủ : Mùa xuân kỵ ngày Ngọ/Mùa Hạ kỵ ngày Tí/Mùa Thu kỵ ngày Dậu/Mùa Đông kỵ ngày Mão. 2.Theo Âm Dương Ngũ Hành : Tìm quẻ ngày để biết hành của ngày đó, căn cứ vào ngũ hành sinh khắc mà lựa chọn ngày làm nhà, sửa chữa nhà, dọn nhà, cho thích hợp. Tìm quẻ giờ để biết hành của giờ cúng động thổ hoặc sửa chữa hoặc cúng mừng dọn về nhà mới. Những tính toán này theo âm lịch, cần am tường ngũ hành và nội dung quẻ dịch mà tùy nghi ứng dụng, nếu xét thấy cần thiết. Quy số theo chi đối với Năm và Giờ : Tí(1),Sửu(2),Dần(3),Mão(4),Thìn(5),Tỵ(6),Ngọ(7),Mùi(8),Thân(9),Dậ u(10),Tuất(11),Hợi(12). Ngũ hành tương sinh và tương khắc : Tương sinh : Thổ-Kim-Thủy-Mộc-Hỏa. Tương khắc : Thổ-Thủy-Hỏa-Kim-Mộc. Ngũ hành Bát Quái : Thổ : Khôn,Cấn. Kim : Càn,Đoài. Thủy : Khảm. Mộc : Chấn,Tốn. Hỏa : Ly. Phương pháp tìm quẻ ngày : Tổng số Ngày, Tháng, Năm chia cho 8, số dư là quẻ ngày (quẻ Thượng). Ví dụ, Ngày 22 tháng 12 năm Ất Dậu (năm Dậu quy số là 10), ta có : 22+12+10=44 : 8 = 5 lần dư 4 = Ngày Chấn thuộc mộc (còn gọi là Lôi) = Quẻ Thượng là quẻ Lôi. Phương pháp tìm quẻ giờ : Tổng số Giờ, Ngày, Tháng, Năm chia cho 8, số dư là quẻ giờ (quẻ Hạ). Ví dụ : Giờ Thìn (quy số là 5), ngày 22 tháng 12 năm Ất Dậu, ta có : 5 + 22 + 12 + 10 = 49 : 8 = 6 lần dư 1= giờ Càn (còn gọi là Thiên, Kim) = Quẻ Hạ là quẻ Thiên. Tổng số Giờ, Ngày, Tháng, Năm chia cho 8, số dư là quẻ giờ (quẻ Hạ).Ví dụ : Giờ Thìn (quy số là 5), ngày 22 tháng 12 năm Ất Dậu, ta có :5 + 22 + 12 + 10 = 49 : 8 = 6 lần dư 1= giờ Càn (còn gọi là Thiên, Kim) = Quẻ Hạ là quẻ Thiên. Thiết lập trùng quái, ta có quẻ Lôi/Thiên Đại Tráng (Chấn trên, Càn dưới), trên trời có sấm là quẻ Tráng. Quẻ này lợi cho việc cầu tài, cầu quan, nhưng bất lợi cho việc xây cất.Từ quẻ ngày và quẻ giờ, luận (lý, tượng, số) với mệnh người chủ đầu tư mà quyết định công việc nên hay không nên khởi công xây cất nhà. Ví dụ , với người thổ khởi công nhà ngày Địa là tốt, giờ cúng động thổ nên là giờ Địa / Phong Thăng (giờ Thìn, 7 – 9 giờ sáng), là cát tường. CÁCH TÍNH HẠN TAM TAI ? Trên thiên bàn Bát quái 12 cung, cổ nhân định vị các cung số mạch lạc, rõ ràng tính hành của từng cung trong mối tương quan sinh, khắc với các cung khác. Dưới đây tuần tự lược trình các thế cung trong Kinh Dịch, mong rằng qua đó nhận biết thêm về hung cát của tam tai mà tùy nghi tham khảo, ứng dụng. Có 6 nhị hợp. Tí Sửu : Nhị hợp hóa thổ. Dần Hợi : Nhị hợp hóa mộc. Mão Tuất : Nhị hợp hóa hỏa. Thìn Dậu : Nhị hợp hóa kim. Tỵ Thân : Nhị hợp hóa thủy. Ngọ Mùi : Nhị hợp hóa thổ. Có 4 tam hợp. Thân Tí Thìn : Tam hợp thuộc thủy. Dần Ngọ Tuất : Tam hợp thuộc hỏa. Tỵ Dậu Sửu : Tam hợp thuộc kim. Hợi Mão Mùi : Tam hợp thuộc mộc. Có ba cục diện tứ. Dần Thân Tỵ Hợi : Tứ Sinh hay còn gọi là Tứ xung theo từng cặp. Thìn Tuất Sửu Mùi : Tứ thổ hoặc Tứ Mộ. Tí Ngọ Mão Dậu : Tứ tuyệt còn gọi là tứ hướng Bắc Nam Đông tây. Từ thế cung Nhị hợp, Tam hợp, Tứ cục diện hình thành Tam Tai ( ba năm liên tiếp hung cát) Người trong tam hợp tuổi Thân Tí Thìn : tam tai các năm Dần, Mão, Thìn. Người trong tam hợp tuổi Dần Ngọ Tuất : tam tai các năm Thân, Dậu, Tuất. Người trong tam hợp tuổi Tỵ Dậu Sửu : tam tai các năm Hợi, Tí, Sửu. Người trong tam hợp tuổi Hợi Mão Mùi : tam tai các năm Tỵ, Ngọ, Mùi. Phong tục và kinh nghiệm dân gian cho rằng làm nhà các năm hạn Tam Tai là không nên vì xấu hãm.Điều này nên tham khảo, bởi đây là kinh nghiệm, tập tục dân gian. CÁCH CHỌN TUỔI LÀM NHÀ ? Ngoài việc xem Tam Tai,người làm nhà thường xem Kim Lâu,Hoang Ốc. NHỮNG HUYỆT KÍCH HOẠT KHÍ CHỦ YẾU THƯỜNG DỤNG Huyệt kích hoạt trường khí dương trạch còn gọi là huyệt Phúc, huyệt gia cường nền móng nhà. Huyệt trấn trạch. Huyệt nghênh lộc và thụ lộc. Huyệt tấn học, nghiệp học, danh tiếng. Huyệt sức khỏe và tuổi trời. Huyệt Thanh Sắc. Huyệt vọng nước cầu Long. Vân vân… Một ví dụ đặt huyệt sức khỏe tuổi trởi : Kích hoạt sức khỏe và tuổi trời bằng rùa đá. Vị trí kích hoạt : tùy theo dương trạch, nhưng vị trí chủ yếu ở không gian đất dựng trạch hoặc không gian cư ngụ thuộc Hậu Vũ (huyền Vũ – Rùa Đen). Tìm ý nghĩa và đức tin trong phong tục dân gian đo rùa sau đây : Một cây tăm nhang. Đo kỹ, hết chiều dài 5 ngón ngửa bàn tay. Rồi đo úp bàn tay (mu rùa). Lóng giữa ngón cái là đầu rùa. Lóng giữa các ngón trỏ, giữa và áp út là sáu khúc mình rùa. Lóng giữa ngón út là 4 chân và đuôi rùa. Đuôi rùa bằng chân và dư là ruột rùa. Luận : Rùa thiếu chân (Thiên/Địa Bĩ). Rùa thiếu đuôi (Hỏa/Sơn Lữ), thế sinh xuất, vất và tranh đấu tìm cơ may thành tựu. Đuôi bằng chân (Địa/Thiên thái), tích phúc tu thân hưởng phúc lộc thọ. Rùa có ruột (Hỏa/ Thiên Đại Hữu), biết dụng được cát tường. Từ ý nghĩa trên Rùa được coi là vật thiêng đặt huyệt sức khỏe và tuổi trời. Các Huyệt kích hoạt khác căn cứ theo ý nghĩa của Cửu Đức mà thiết lập : 1/Thiên Trạch Lý/2.Địa Sơn Khiêm/3Địa Lôi Phục/4.Lôi Phong Hằng/5.Sơn Trạch Tổn/6.Phong Lôi Ích/7.Trạch Thủy Khổn/8.Thủy Phong Tỉnh/9.Thuần Tốn. VẤN ĐỀ SAU CÙNG THỜ CÚNG Ở DƯƠNG TRẠCH. Không nên hiểu việc thờ cúng là một tôn giáo, dù tôn giáo có thờ cúng, mà nên hiểu đó là một phong tục, một luật tục. Có 5 loại bàn thờ trong một dương trạch. Bàn thờ thiên, đơn thuần là cầu xin thiên nhiên mưa thuận gió hòa, để dương trạch được tươi tốt, gia đình được an khang, xum vầy đầm ấm. Bàn thờ đơn giản đặt ngoài trời, chỗ cao nhất, đẹp nhất của dương trạch. Bàn thờ tôn giáo ( Đức Phật, Đức Chúa hay Đức Thánh, tùy theo tôn giáo). Bàn thờ này chủ về đức tin mà gia chủ dương trạch nuôi dưỡng và theo đuổi. Bàn thờ này nên đặt nơi trang trọng nhất trong nhà, cùng hướng với môn tiền của dương trạch. Bàn thờ gia tiên, hầu như nhà nào cũng lập, để tưởng nhớ cội nguồn, tri ân đấng sinh thành và nuôi dưỡng gia tộc, gia đình. Bàn thờ này nên đặt ở nơi trang trọng, không nhất thiết phải cùng hướng với dương trạch, nhưng nên đặt không gian cả gia đình thường xuyên xum họp quây quần, vì bản chất của bàn thờ này là hướng nội tâm là tưởng nhớ, tri ân. Bàn thờ Táo quân (đã trình bày trong mục Nhà Bếp). Bàn thờ Thổ Địa, Thần Tài cầu xin đất đai yên lành, cầu xin tiền bạc cơm áo, nên đặt sát đất và hướng về môn tiền dương trạch. Dương trạch có đặt huyệt kích hoạt khí, đó là các huyệt xuất thế, không phải bàn thờ, không cần hương khói. Với năm loại bàn thờ vừa dẫn, nên chú ý những kiêng kỵ sau : Tối kỵ đặt cho có, đặt mà trong lòng không có đức tin. Tối kỵ nơi xú uế, bẩn thỉu, hôi hám. Không nên đặt bàn thờ trên vách tường nhà bếp, nhà WC, đặt dưới nhà bếp hoặc nhà WC trên lầu, thậm chí hướng bàn thờ nhìn vào bếp hoặc nhà WC. Đặt bàn thờ chỗ gia đình xum họp (tĩnh nơi động mà tĩnh) khác với đặt nơi đường đi lối lại, nơi gầm cầu thang (tĩnh động giao tranh hung xấu). Tránh đặt bàn thờ tọa trên cửa sổ hoặc nơi cửa ra vào, thiếu tôn trọng, gây xấu hãm cho trường khí dương trạch. Việc cúng kiếng là tùy tâm, tùy nơi đức tin, không nhất thiết phải bầy vẽ và điều quan trọng nhất là không nên dị đoan mù quáng. Cúng động thổ, chủ dương trạch nên làm, chỉ cần hương hoa lòng thành, và cần nhất là có : muối, gạo và rượu trắng (thức ăn thuộc thổ, côn trùng được ăn và quá trình ăn là đánh thức đất), rượu trắng chỉ nên 99 giọt trộn với gạo muối và rắc xung quanh miếng đất xây dựng hoặc nơi sửa chữa. Những người thợ xây cất ngôi nhà có thể cúng Tam xên, đây là phong tục với ý nguyện cầu xin việc xây dựng ngôi nhà được an toàn, tốt đẹp. Cúng nhập trạch (mừng nhà mới), ý nghĩa nhiều hơn với người sống, tùy hoàn cảnh, điều kiện và tùy tâm. Ngoài ra không cần kiêng kỵ, cúng kiếng gì khác. Nguồn:phongthuybnn.com
-
Chữ huyệt trong phong thủy hàm chứa nhiều bí ẩn hoang đường.Những nhà dịch học thời mới muốn né tránh chữ huyệt đổi thành chữ kích hoạt,thực chất nên gọi đầy đủ quan niệm này là huyệt kích hoạt*TAM TÀI PHÚC, LỘC,THỌ*Sẽ thật hoang đường,mơ hồ nếu bảo có thể nếu bảo có thể cầu xin một đấng siêu nhiên nào đó thay đổi được phúc,lộc thọ của con người ta,từ hung thành cát,từ cát thành hưng vượng hơn.Quả nếu có phép thuật đó thì ngưới biết sẽ chẳng truyền nghề cho ai và sẽ chỉ làm cho phúc lộc thọ của đời mình muôn năm hưng thịnh.Nhưng nếu nghĩ về tam tài phúc lộc thọ như một sức nuôi dưỡng,một đức tin tu thân,một ám thị nhắc nhở,một nội lực phấn đấu,thì việc đặt các huyệt kích hoạt tam tài phúc,lộc,thọ sẽ bớt đi phần dị đoan,mơ hổ và dễ dàng được cảm thông, tiếp nhận như một tập tục văn hóa mang ý nghĩa đạo đức nguồn cội.Tam tài là ba cõi lớn,gọi là thiên,địa,nhân hay gọi là phúc lộc thọ cũng vậy.Người ta ở đời chinh phục hoặc khuất phục ba cõi thiên địa nhân,phấn đấu hoặc cầu xin ba điều phúc lộc thọ cũng là lẽ thường tình,không có gì xấu,phải né tránh.Vì vậy việc đặt huyệt tam tài cầu nguyện phúc lộc thọ,thực lòng ai cũng đều muốn cả,muốn vì một nhu cầu có thật : Yên lòng.Trong ba huyệt Phúc,Lộc,Thọ con người ta thường tình xem trọng huyệt Lộc hơn cả,vì tin rằng huyệt Lộc tham gia vào cuộc sống đời thường,là hiện hữu,là có ý nghĩa thiết thực.Không phản bác sở thích này,tuy nhiên chớ nên quên rằng cả ba huyệt đều quan trọng như nhau,nếu không muốn nói rằng huyệt Phúc và huyệt Thọ còn cao hơn huyệt Lộc một bậc.Kích hoạt huyệt là gồm : Kích hoạt âm và kích hoạt dương.Kích hoạt âm thường gọi là các huyệt hạ thổ và phần mộ dòng tộc,ông bà cha mẹ.Kích hoạt dương thường gọi là các huyệt Bình thổ,Bích thổ,Ốc thổ,các phương vị bàn thờ,các vật dụng kích hoạt sinh hoạt và đời sống.La kinh là công cụ để thiết lập các huyệt hạ thổ.Cung Phúc Đức là định hướng kích hoạt mộ phần gia tộc.Chòm sao Thái Tuế dụng kích hoạt Phúc,chòm sao Thiên Lộc dụng kích hoạt Lộc,chòm sao Tràng Sinh dụng kích hoạt Thọ và Ma trận Bát Quái là công cụ để xác lập các huyệt kích hoạt Bình thổ,Ốc thổ,Bích thổ và các vật thiêng.*1.Kích hoạt tam tài Phúc.Mộ phần họ tộc : Căn cứ cung Phúc Đức mà xác định mộ phần.Cần biết Phúc và Đức là hai phạm trù chung làn ranh rõ ràng,mạch lạc.Những người khi đã về cõi thổ là thuộc phần Phúc,những người đang sống ở cõi dương gian là thuộc phần Đức.Nhưng người sống chỉ có thể tu thân tích thiện đức khi chết đi thiện đức ấy sẽ hóa thành phúc,làm cội rễ cho dòng tộc,cho con cháu. Xem Tứ tượng để biết cát hung của mộ huyệt dòng tộc.Cung tọa có vững chãi,cao ráo,sạch đẹp ? Cung tiền án có phong quang,sáng sủa,có bị ám xấu che lấp ? Cung Tả Thanh Long (dòng dương) và cung Hữu Bạch Hổ (dòng âm) cát vượng,xấu hãm thế nào ? Định Tứ tượng để tu chỉnh,sửa sang,chăm sóc mộ phần.Phải tự giác coi đây như một nếp văn hóa mang đậm ý nghĩa đạo lý nguồn cội. Cát và đất thịt sạch thật tốt cho việc tôn tạo,chỉnh trang phần mộ.Hai loại xương rồng dại dân gian gọi là xương rồng ông và xương rồng bà,thật có ích cho việc bài trừ hung xấu,giữ gìn phần mộ. Các loại bàn thờ : Bàn thờ Thiên,đặt nơi cao nghiêm,giữa trời,ngoài trời,cầu nguyện mưa nắng thuận hòa. Bàn thờ tôn giáo ( tùy theo tôn chỉ,quy tắc thờ cúng của từng loại tôn giáo ),nói riêng về bàn thờ Phật (vì phổ biến hơn cả) thì chỉ nên thỉnh thờ Phật Quan Thế Âm,được coi là độ phần Phúc ba cõi.Bàn thờ đặt nơi cao ráo,tôn nghiêm,tượng Phật quay mặt ra đường chính. Bàn thờ gia tiên đặt nơi tôn nghiêm,hoặc nơi có động người trong gia tộc tụ họp,không cần phải quay ra đường,nhưng nhất thiết không được quay về các phương xấu hãm xú uế. Bàn thờ Thổ Công và Thần tài,có thể thờ chung,đặt sát sàn đất,nên loại trang thờ chất liệu thổ ưu tiên 1,chất liệu mộc ưu tiên 2. Bàn thờ Táo quân (Táo lò không phải táo tòa) đặt ngang bằng với mặt lò nơi góc không gian thuận tiện. Chòm sao Thái Tuế kích hoạt Phúc. Chòm sao Thái Tuế an theo tuổi,theo năm.Chòm Thái Tuế gồm 12 sao,theo tuần tự xuất hiện : Thái Tuế/Thiếu Dương/Tang Môn/Thiếu Âm/Quan Phù/Tử Phù/Tuế Phá/Long Đức/Bạch Hổ/Phúc Đức/Điều Khách/Trực Phù. Định vị sao Thái Tuế theo cửa ra vào chính của không gian.Ba vị trí kích hoạt phúc tốt nhất là : Thái Tuế,Quan Phù,Bạch Hổ,gọi tắt là tam vị Phù-Tuế-Hổ. Vật dụng kích hoạt nên là vật dụng thuộc thổ như gốm,sứ.Chớ nên kích hoạt các vật dụng thuộc kim,như đao kiếm. 2.Kích hoạt tam tài Lộc.So trong Tam Tài Phúc Lộc Thọ,con người ta xem trọng việc cầu Lộc hơn cầu Phúc cầu Thọ.Kể cũng là phải,vì đời sống của con người là hiện thực,là ngay trong tay, ngay trước mặt nhìn thấy,sờ mó được,còn việc Phúc việc Thọ dẫu sao cũng bí hiểm đôi phần ảo. Cũng vì quan niệm ấy phong thủy rất ít khi dụng các huyệt kích hoạt hạ thổ cho việc cầu lộc.Phần lớn dụng các huyệt Ốc thổ,Bích thổ,Bình thổ để cầu lộc.Ví trị kích hoạt thường căn cứ theo khuynh hướng cát vượng của Thiên Lộc và Địa lộc. Thiên Lộc hàm nghĩa là lộc của Càn Khôn (Trời đất),còn có tên gọi là Lộc Tồn,thuộc thổ,thiết lập theo can tuổi,khởi từ Giáp tại cung Dần.Chòm sao Lộc Tồn bao gồm 12 sao : Lộc Tồn / Lực Sĩ / Thanh Long /Tiểu Hao/ Tướng quân / Tấu Thư / Phì Liêm / Hỉ Thần / Bệnh phù / Đại Hao / Phục Binh / Quan Phủ. Ba vị trí được ưa chuộng để kích hoạt lộc là : Lộc Tồn/Thanh Long và Phi Liêm.Tất nhiên vị trí Lộc Tồn coi là quan trọng nhất. Việc định hướng kích hoạt lộc nói ở trên là việc khó,tùy theo các trường phái và kinh nghiệm riêng của các thầy phong thủy.Tính thống nhất không cao và có nhiều dị biệt. Tuy nhiên Bát quái đồ đều được các trường phái thừa nhận là công cụ tín nhiêm nhất và được coi là căn cứ thiết lập các huyệt kích họat. Mười chử số thập phân (1-10) phân chia trên thiên bàn bát quái theo trình tự : 1 (Khảm),2 (Khôn),3 (Chấn),4 (Tốn),5 (trung cung),6 (Càn),7 (Đoài),8 (Cấn),9 (Ly) và số 0 (trung cung).Các số này tạo thành các trục ngang,chéo,dọc,tổng cộng là 15,nên gọi là ma trận 15 hay ma trận tam phương.Việc đặt các huyệt kích hoạt căn cứ trên sự cân bằng của từng trục. Các giải pháp,công cụ,phương hướng,ý nghĩa kích hoạt : Khảm,thủy,phương chính Bắc,tên cung Sự Nghiệp. Khôn,thổ đất,thổ lớn,phương Tây Nam,tên cung Hôn Nhân. Chấn,mộc sấm,phương chính Đông,tên cung Gia Đình. Tốn,mộc gió,phương Đông nam,tên cung Phú Quí. Trung cung,thổ,phương trung tâm,tên cung Đức Tin. Càn,kim,trời,cha,phương Tây Bắc,tên cung Quí Nhân. Đoài,kim,phương chính Tây,tên cung Tử Tức. Cấn,thổ núi,thổ nhỏ,phương Đông Bắc,tên cung Trí Thức. Ly,hỏa,phương chính Nam,tên cung Danh Vọng. Các vị trí kích họat được ưa chuộng nhất : 4/5/6.Số 5 thường là huyệt cóc đá,số 6 là huyệt Nghênh và số 4 là huyệt Nén.3.Kích hoạt tam tài Thọ. Chòm sao Tràng Sinh được coi là căn cứ kích hoạt các huyệt thọ.Chòm sao Tràng Sinh an theo cục diện hay còn gọi là cội nguồn sinh.Tràng Kim an tại tam sơn Thìn-Tốn-Ty,phương Đông Nam.Tràng Mộc an tại tam sơn Tuất-Càn-Hợi,phương Tây Bắc.Tràng Hỏa an tại tam sơn Sửu-Cấn-Dần,phương Đông Bắc.Tràng Thủy Thổ (cả cục thủy và cục thổ) đều an tại tam sơn Mùi-Khôn-Thân,phương Tây Nam. Chòm sao Tràng Sinh gồm 12 sao,theo thứ tự thuận : Tràng Sinh/Mộc Dục/Quan Đới/Lâm Quan/Đế Vượng/Suy/Bệnh/Tử/Mộ/Tuyệt/Thai/Dưỡng. Chòm sao Tràng Sinh tuần tự một vòng đời lập đi lập lại luân hồi mãi mãi.Và ai cũng muốn vòng đời mình được bền vững dài lâu hơn,vì lẽ đó Tràng Sinh được coi là chòm sao kích hoạt tam tài Thọ.Các vị trí sao ở ba ngôi Sinh,Vượng,Mộ được coi là ba vị trí kích hoạt mầu nhiệm nhất. Vật kích hoạt thọ làm từ đá,hình tượng phổ biến là Mầm Sơn và Rùa đá. Nguồn:phongthuybnn.com
-
Dù giải thích cách nào thì hai chữ Phong Thủy cũng tàng ẩn những năng lực thần bí trong trang phục thánh thần.Chương sách này là những thực nghiệm dụng biến các năng lực thần bí ấy, bắt đầu từ Địa Lý Tả A ĐỊA LÝ TẢ AO Ông tổ của phong thủy Việt là cụ Tả Ao (Nguyễn Đức Huyền, người làng Tả Ao, huyện Nghi Xuân, Tỉnh Hà Tĩnh), xin bắt đầu từ câu bốn trong sách Địa Đạo Diễn Ca vẻn vẹn 120 câu văn vần của Cụ. Bốn Là Mở Sách La Bàn Cho Thông. La bàn cái nhỏ gọi là Tróc Long, cái lớn gọi là La Kinh hay La Bàn. La bàn thường có 13 vòng, nhưng quan trọng nhất là 3 vòng Thiên Bàn, Địa Bàn và Nhân Bàn. Vòng ngoài cùng là Thiên Bàn, ứng dụng vào hướng thu thủy, phóng thủy. Vòng trong cùng là Địa Bàn, dùng án định long mạch. Vòng giữa là Nhân Bàn, dùng vào việc tiêu sa để xem sa nào tốt, sa nào xấu. Cả ba vòng đều chia làm 24 ô, mỗi ô 15 o trong 1 vòng tròn 360 o. Các chữ trong ba vòng đều giống nhau, chỉ khác nhau ở chỗ nếu lấy vòng trong cùng, vòng Địa bàn làm đích thì vòng Thiên bàn lệch sang bên phải nửa ô và vòng Nhân lệch sang bên trái nửa ô. Những chữ đề trong 24 vòng đó, chính Đông ở Mão, chính Tây ở Dậu, chính Nam ở Ngọ và chính Bắc ở Tí. Nếu đọc theo chiều thuận, từ Mão, theo kim đồng hồ thì thứ tự 24 chữ là : Mão, Thìn, Tốn, Tỵ, Bính, Ngọ, Đinh, Mùi, Khôn, Thân, Canh, Dậu, Tân, Tuất, Càn, Hợi, Nhâm, Tí, Quý, Sửu, Cấn, Dần, Giáp. Nếu phân chia thành tám hướng thì : Đông : Giáp, Mão, Ất. Đông Nam : Thìn, Tốn, Tỵ. Nam : Bính, Ngọ, Đinh. Tây Nam : Mùi, Khôn, Thân. Tây : Canh, Dậu, Tân. Tây Bắc : Tuất, Càn, Hợi. Bắc : Nhâm, Tí, Quí. Đông Bắc : Sửu, Cấn, Dần. 24 phương vị này, có 12 phương vị thuộc địa chi, 8 phương vị thuộc thiên can và 4 phương vị thuộc Bát Quái. Ba tầng Thiên-Địa-Nhân là vậy. NỘI DUNG CỦA ĐỊA LÝ TẢ AO Nội dung của Địa Lý Tả Ao gồm hai điều : Lý thuyết (lý khí) và thực hành (tầm long). Cả hai đều diễn nôm sơ sài, nhưng ý nghĩa thật sâu xa. Lý thuyết : Khuyên ai học làm thầy địa lý. Trước phải đọc sách sau là lượng cao. Dù ai khôn khéo thế nào. Học mà chẳng xét ấy là vô tông. Bốn câu này nhấn mạnh hai điểm : Hai câu trên hàm nghĩa khi xem phong thủy phải lượng cho cao và hai câu dưới hàm nghĩa phải xét cho đúng. Muốn lượng cao và xét đúng thực không dễ dàng. Đọc sách địa lý cho kỹ để có năng lực ước lượng cho rành mà còn phải thông hiểu dịch lý học, âm dương ngũ hành để suy xét cuộc đất, tìm sự quân bình cho mọi chi tiết kỹ thuật của khoa địa lý. 1) Trước tiên đất bình dương phẳng là dương, thì gò đống nổi cao là âm và đất sơn cước nhiều đồi núi là âm thì thung lũng bãi của nó là dương. Đất sơn cước cường dũng nên chọn huyệt ở chỗ mạch nhỏ long gẩy, nơi bình dương thấp phẳng phải chọn nơi cao làm huyệt (khởi đột). Như thế mới là âm dương cân đối. 2) Rồi đến tay Long là dương phát ngành trưởng và con trai thì tay Hổ phát ngành thứ hay con gái. Long Hổ phải tương nhượng nhau. Long là anh phải dài hơn Hổ là em. Long dài hơn nên cần nhọn đầu thì Hổ ngắn hơn cần thùy đầu hay tròn đầu. 3) Sau đến núi (Sơn) chủ tĩnh là âm thì nước (thủy) chủ đông là dương. Khi đến huyệt kết phải có sơn thủy giao lai âm dương giao hội, nghĩa là núi chủ tĩnh đến đó phải quay đầu vẫy đuôi như động và nước chủ động đến huyệt kết phải lưu luyến nửa muốn ở, nửa muốn đi, tụ lại trước huyệt rồi mới chảy đi. 4) Núi và nước, một động một tĩnh đi song song như vợ chồng che chở nâng đỡ hộ vệ nhau. Nước từ khe núi chảy ra ngoài thì nước lại theo núi mà nuôi dưỡng cho khí mạch của núi, cho núi đỡ khô. Long, mạch đi có vẻ âm thì chuyển dương mới vào huyệt. Trái lại, long, mạch đi đang dương thì nhập thủ huyệt trường phải âm. Bốn diễn giải sơ lược âm dương nói trên, dịch biến trong ngũ hành : tròn là kim, dài là mộc, vuông là thổ, nhọn là hỏa, gợn sóng là thủy. Phương hướng cũng chia ngũ hành : Đông thuộc mộc, Tây thuộc kim, Nam thuộc hỏa, Bắc thuộc thủy, bốn hướng Đông Tây Nam Bắc hội về trung ương thuộc thổ. Bốn phương lại chia thành 24 vị, vị theo hành. Lý thuyết của Địa Lý Tả Ao chỉ gồm vậy, tin hay không tin, kế thừa hay cho là hoang đường bỏ đi, tùy quan niệm từng người, không cần nghĩ ngợi bàn thêm. Phần thực hành (tầm long) của Địa Lý Tả Ao (Tỏ mạch, tỏ nước, tỏ long mới tường), trình tự như sau : Long mạch : Long mạch là mạch đất chạy trên mặt đất trong có khí mạch (cũng như cây trong có nhựa cây). Long có thể đi cao như dãy đồi núi và cũng có thể đi rất thấp, nó là những thớ đất, có khi chỉ cao chừng 4 cm. Nước : Nước từ long chảy ra và chảy theo nuôi dưỡng và hộ vệ long. Những chỗ nước tụ có khi là minh đường, có khi chỉ là hộ tống thủy (nước dẫn long). Long nhập thủ : Là Long kết huyệt. Huyệt trường : Là nơi kết huyệt. Huyền vũ : Thế đất đằng sau huyệt trường. Thanh Long : Thớ đất ở bên trái huyệt trường mọc ra ôm chầu vào huyệt. Bạch Hổ : Thớ đất ở bên phải huyệt trường mọc ra ôm chầu vào huyệt. Tiền án : Đất nổi trước mặt huyệt. Sa : Là gò đống, chứng cứ hiện ra, nổi lên xung quanh huyệt cả trước và sau, bao gồm : bút, bảng, chiêng, trống, voi, ngựa, kiếm, ấn… Thủy khấu : Nơi nước đến minh đường và nơi nước từ minh đường đi (cấp và thoát nước). Minh đường : Nước tụ trước huyệt để nuôi dưỡng khí mạch của huyệt. Long sinh : Long mạch sống động, bò ngoằn ngoèo, quay đầu, vẫy đuôi. Long tử ; Long mạch nằm ngay đơ, đuồn đuỗn như lươn, cá chết. Long cường : Long mạch nổi lên to lớn hùng vĩ, ngạo nghễ. Long nhược : Long mạch nhỏ nhắn, sắc thái thư thả, ung dung. Tóm lại cái gì có nước là thủy, cái gì có thớ đất là long, bất kỳ không gian nào (nhà và các phòng ốc) cũng dụng phép tỏ trạch, tỏ nước, tỏ long mà xét đoán. Thời hiện tại, đất hẹp, người đông, các khu dân cư xây dựng theo quy hoạch, khó thể tự ý tầm long và lập trạch theo ý muốn cá nhân. Tuy nhiên, trí tuệ và tập quán của con người vẫn là thiết lập các khu dân cư trên đất lành chim đậu, và kiến thức tầm long của Địa Lý Tả Ao vẫn được con cháu kế thừa. TẦM LONG DƯƠNG TRẠCH LÀ THẾ NÀO ? Tầm long trong ngôi nhà cư ngụ là một dụng pháp kế thừa Địa Lý Tả Ao. Dụng pháp này xin trình bày như một tham khảo. Cửa cái là khẩu khí của dương trạch (cửa vào các phòng ốc trong dương trạch cũng là khẩu khí của không gian ấy) dẫn khí mạch theo Bát Quái hậu thiên, với lẽ thuận lộ là cát, nghịch lộ là hung. BÁT QUÁI HẬU THIÊN MÔN SỐ 1 BƯỚC ĐI KHÍ MẠCH 1-2-3-4-5-6-7-8-9-1 4 9 2 3 5 7 8 1Môn BÁT QUÁI HẬU THIÊN MÔN SỐ 6 BƯỚC ĐI KHÍ MẠCH 6-7-8-9-1-2-3-4-5-6 4 9 2 3 5 7 8 1 6.Môn BÁT QUÁI HẬU THIÊN MÔN SỐ 8 BƯỚC ĐI KHÍ MẠCH 8-9-1-2-3-4-5-6-7-8 4 9 2 3 5 7 8-Môn 1 6 Bát quái Hậu thiên định danh theo số mà gọi là Bát quái đồ, như sau : Số 1 : Mệnh của chủ dương trạch là cung Sự Nghiệp.Số 2 : Người đồng lập trạch là cung Hôn Nhân. Số 3 : Âm dương hòa hợp là cung Gia Đình. Số 4 : Mục tiêu của đời sống là cung Phú Quí. Số 5 : Tích trữ, cân bằng nội lực là Trung Cung. Số 6 : Thu nhận ngoại lực từ may mắn là cung Quí Nhân Phò Trợ. Số 7 : Sinh dưỡng con cháu là cung Tử Tức. Số 8 : Sự nghiệp lập thành là cung Trí Thức. Số 9 : Thành đạt của người đời là cung Danh Tiếng. Từ Bát quái Hậu thiên và Bát quái đồ nhận thấy, dương trạch cát thuận với môn tiền mở ở vị trí số 1. Các phòng ốc trong nhà tùy theo sở nguyện có thể cát tường với cửa ra vào ở vị trí số 6 hoặc số 8. Ví dụ, phòng trẻ em nên mở cửa ra vào vị trí số 6 vì khí vào từ số 6 đi lên vị trí số 7 là cung Tử Tức. Ngược lại, thư phòng hoặc phòng làm việc thì lại nên mở cửa ra vào ở vị trí số 8 vì khí sẽ lên số 9 là cung Danh Tiêng. TRỞ LẠI ĐỊA LÝ TẢ AO. Muốn cho con cháu Trạng Nguyên. Thì tìm bút lập đôi bên sắp bầy. Nhất là Tân, Tốn mới hay.Bính, Đinh, Đoài, Cấn sắp bày đột lên. LÀ THẾ NÀO ? Nhìn la bàn hay hình đồ bát quái, chú ý các phương vị Tân, Tốn, Bính, Đinh, Đoài, Cấn (in đậm). TỴ TỐN THÌN BÍNH,NGỌ,ĐINH MÙI KHÔN THÂN ẤT MÃO GIÁP CANH DẬU TÂN DẦN CẤN SỬU QUÝ, TÍ, NHÂM TUẤT CÀN HỢI Việc tấn học, nghiệp học rất chuộng phương vị Nam, cung Danh Tiếng. Chuộng nhất là hai phương vị Bính và Đinh (không chuộng Ngọ vì là chính Nam, tuyệt hỏa), nghĩa rằng đất nơi phương Nam,tả có huyệt bút (phương Tốn, huyệt bút) và hữu có huyệt nghiên (phương Đoài, huyệt nghiên) triều về, thì việc tiến thân đường học hành, thi cử, khoa bảng là vượng địa. Bút tượng hình như trái núi, như cây bút nhọn đầu, ý nghĩa là giải đất nằm, đầu nhọn, ôm chầu về huyệt. Có hai loại bút, bút nằm và bút đứng. Bút nằm là bút giác điền, bút đứng là bút lập. Bút lập còn gọi bút kình thiên (chống trời). Nghiên là gò đống hay mảnh ruộng con hình vuông, chữ nhật, cũng có thể có nghiên hình tròn hay bán nguyệt. Đây là những căn bản nên ứng dụng vào việc kích hoạt cung Sự Nghiệp của dương trạch, các phòng ốc dành cho việc học tập và phòng trẻ em, thậm chí dụng được ngay trên bàn làm việc, bàn học.PHÂN BIỆT HUYỆT TRƯỜNG MỘC TIẾT, KIM LOAN ? Mộc Tiết văn đỗ Trạng Nguyên. Kim Loan võ được tước quyền Quận Công. LÀ THẾ NÀO ? Là phân biệt được cuộc đất phát văn hay phát võ. Một đất sinh nhân như thế nào, đầu tiên phải biết đất đó thuộc về văn hay võ. Văn cao nhất là Trạng Nguyên, Tể Tướng, xuống thấp dần đến thư ký. Võ cao nhất là Quận Công, Nguyên Soái xuống thấp nhất là lính. Muốn biết mức độ cát hung thế nào phải biết cuộc đất đó phát văn hay phát võ. Nếu phát văn thì cuộc đất hình dài,dài là hình mộc,nếu võ thì cuộc đất hình tròn, mà tròn là hình kim.Trường hợp đất vừa dài, vừa tròn có thể cho là phát cả văn lẫn võ. Thời hiện đại, xã hội phát triển, ý nghĩa cuộc đất không chỉ đơn thuần hai ý nghĩa phát văn hay võ, mà được luận theo ngũ hành, như sau : Cuộc đất hình vuông, thuộc thổ, phát vượng nghĩa sinh tồn, sinh lý, thuộc văn võ cách. Cuộc đất hình tròn, thuộc kim, phát vượng ý nghĩa an toàn, kim lộc, thuộc võ cách. Cuộc đất uốn lượn, gợn sóng, thuộc thủy, phát vượng ý nghĩa giao tiếp, thuộc văn cách. Cuộc đất hình dài, thuộc mộc, phát vượng nghĩa sinh, dưỡng, tự trọng, thuộc văn cách. Cuộc đất hình tam giác, nhọn đầu, thuộc hỏa, phát vượng ý nghĩa thành tích, thuộc võ cách. Năm cuộc đất này, hình thổ, hình mộc được ưa chuộng nhất. Hình kim dụng khó, dụng được tất giầu có. Hình thủy và hỏa ít được dụng, dụng được hình thủy chủ thọ, hình hỏa chủ danh. Trong thực tế, hình hỏa gây ra nạn ách, họa hại nhiều hơn phúc thọ. Nhấn mạnh : không có cuộc đất nào toàn cát và không cuộc đất nào toàn hung. Hung cát luôn song hành, chủ cư ngụ tiếp nhận hung cát thế nào chính là bản chất của phong thủy. Ý nghĩa hình dài mộc (phát văn) và hình tròn kim (phát võ) là một gợi ý các giải pháp xuất và nhập thế cho dương trạch và phòng ốc. HUYỆT HUNG CÁT. Xem cho biết huyệt cát, huyệt hung.Huyệt cát nước tụ vào lòng.Đôi bên Long Hổ uốn vòng triều lai.Huyệt hung minh đường bất khai.Sơn tà, thủy xạ,hướng ngoài tà thiên. LÀ SAO? Một đất kết (nền đất) cần phải xem xét đó là đất kết cát hay đất kết hung. Huyệt hung thì minh đường không tụ nước và sơn thủy xấu. Sơn thủy xấu là Sơn tà, thủy xạ, hướng ngoài tà thiên. Sơn tà : là sơn không chính.Sơn là các xa như bút (dài, nhọn), bảng (hình chữ nhật), ấn (hình vuông), ngựa, voi, trâu, lân, hổ,(hình thú).Những sa này không chầu vào huyệt , chiều cao không cân đối (gần thì ngang huyệt, càng xa càng cao hơn) đều là sơn tà (không chính), không quân bình. Sơn xấu làm cho huyệt kết thành kết hung. Thủy xạ : là các ngọn nước đáng lẽ phải bao (chảy êm đềm) chầu về huyệt thì lại đâm thẳng vào huyệt hay vào giữa minh đường. Nước như thế là thủy xạ. Thủy như thế là thủy xấu làm cho huyệt kết thành kết hung. Hướng ngoài tà thiên : là sơn hay thủy đáng lẽ chầu vào huyệt thì lại quay lưng lại huyệt và chầu ra ngoài (hướng ngoài). Các sa méo mó, lệch lạc siêu vẹo lở đứt. Sơn thủy hướng ngoài tà thiên cũng làm cho huyệt kết trở thành kết hung. Không những sa (sơn) và thủy (ngọn nước) hướng ngoài tà thiên là xấu, mà chính ngay Minh Đường hướng ngoài tà thiên cũng là xấu. Minh Đường hướng ngoài tà thiên là loại minh đường nghiêng lệch, đổ nước ra ngoài chứ không thu nước vào trước huyệt. Minh Đường mà nghiêng lệch thì con cháu sẽ có tâm địa tà dâm, bất chính. Tóm lại, muốn biết huyệt cát hay huyệt hung nhất thiết phải quan sát tứ tượng. Một huyệt cát trước tiên và cần thiết nhất là : Minh Đường phải có nước tụ và hai bên Long Hổ phải ôm chầu về huyệt. Đối với dương trạch hay phòng ốc, phong thủy còn có khả năng dịch chuyển hóa giải hung cát, nhưng với âm phần thì không. Do vậy các thể thức an táng và bố trí dương trạch nên tuân theo các nguyên tắc truyền thống chung. ĐỊA LÝ TẢ AO ĐƯỢC KẾ THỪA THẾ NÀO ? Phải chăng cha ông ta chỉ chuộng thực hành mà không chuộng thuyết lý, nên gần như không để lại một cuốn sách kinh điển nào về phong thủy cho hậu thế. Các vị hóa thân vào nhân gian truyền khẩu phong thủy Việt bằng ca dao, tục ngữ. Thật đáng tiếc. Địa Lý Tả Ao cũng chỉ là những ghi chép mang mầu sắc kinh nghiệm, không đủ cơ sở để thành giáo khoa, nên việc đời sau kế thừa và phát triển là không đáng kể. Các nhà tập sự phong thủy thời nay gần như không có cội nguồn để thiết lập lý thuyết phong thủy Việt. Cái hiện có chỉ là những lý thuyết phong thủy sao chép, trích dịch từ sách vở Trung Hoa, Nhật Bản, Ấn Độ, Triều Tiên, thậm chí cả Anh,Mỹ. Người nọ sao chép của người kia và tự cho là khởi phát từ nguồn cội. Cuốn sách Phong Thủy Ứng Dụng này cũng vậy, chỉ là cuốn sách sao chép, nên người chép sách cố ý không vinh danh bất kỳ nhà nghiên cứu phong thủy Việt nào, mà gộp chung đóng góp của mọi cá nhân (nếu có) cho nền móng phong thủy Việt Nam. Nguồn:phongthuybnn.com