-
Số nội dung
526 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by Lê Bá Trung
-
SỰ TÍCH LÌ XÌ. Nguồn : nhantrachoc.net Tặng tiền mừng tuổi vào dịp đầu năm, hay những dịp lễ, là một phong tục phổ biến ở các nước Đông Á. Phong tục này vốn phổ biến ở Việt Nam từ rất lâu vào dịp Tết Nguyên Đán, gọi là lì xì. Vào những ngày Tết người lớn thường tặng cho trẻ con một khoản tiền nho nhỏ, bỏ trong phong bao màu đỏ in hoa văn rất đẹp thường có ý nghĩa tượng trưng cho may mắn và tài lộc, gọi là tiền mừng tuổi. Truyện dân gian Trung Quốc kể lại, ngày xưa ở Đông Hải có một cây đào to, có rất nhiều yêu quái sống trong bộng cây, nào là hồ ly tinh, chuột tinh, sói già… Chúng luôn muốn ra ngoài để gây hại, nhưng bình thường luôn có các thần tiên ở hạ giới canh giữ chúng nên không con nào thoát ra ngoài được. Nhưng hễ tới đêm giao thừa, tất cả thần tiên đều phải về trời để phân công lại nhiệm vụ, thế là lũ yêu tinh có cơ hội tự do nhân lúc chuyển giao nhiệm vụ của các vị thần. Nhân cơ hội đó, có một loại yêu quái gọi là con Tuy thường xuất hiện vào đêm giao thừa để xoa đầu trẻ con đang ngủ khiến lũ trẻ giật mình, khóc thét lên và sẽ bị bệnh sốt cao hoặc ngớ ngẩn. Vì thế những gia đình có con nhỏ phải thức cả đêm để canh không cho con Tuy hại con mình. Một lần, có mấy vị tiên đi ngang nhà kia, hóa thành những đồng tiền nằm bên chỗ đứa trẻ. Cha mẹ chúng đem gói những đồng tiền ấy vào vải đỏ. Khi con Tuy đến, những đồng tiền lóe sáng, nó sợ hãi bỏ chạy. Phép lạ này lan truyền ra, rồi cứ Tết đến, người ta lại bỏ tiền vào trong những chiếc túi màu đỏ tặng cho trẻ con. Tiền đó được gọi là tiền mừng tuổi. Một truyền thuyết khác kể rằng, tục tặng tiền mừng tuổi bắt nguồn từ hoàng cung nhà Đường (Trung Quốc). Năm đó, Dương Quý Phi sinh hạ hoàng tử, được tin mừng vua Đường Huyền Tôn đích thân đến thăm và ban cho Dương Quý Phi một số vàng bạc gói trong giấy đỏ. Dương Quý Phi coi đó vừa là tiền mừng, vừa là chiếc bùa Hoàng đế ban tặng con trẻ để trừ tà. Việc này được đồn đại ra ngoài, từ cung đình lan rộng ra dân gian, nhiều người bắt chước tặng tiền mừng và cũng bắt đầu coi như tặng món lộc trừ tai họa, mang lại nhiều điều may mắn cho trẻ con. Theo những nghiên cứu khác, tục mừng tuổi ở Trung Quốc đã có từ đời Tần. Vào thời gian đó, người ta dùng một sợi chỉ đỏ để xâu tiền thành một xâu theo hình con rồng hoặc thanh kiếm để ở chân giường hoặc cạnh gối trẻ em. Xâu tiền đó gọi là tiền Áp Tuế giống như cách gọi của người Trung Quốc ngày nay, có nghĩa là món tiền mừng cho đứa trẻ, với mong ước đứa trẻ được tiền, được lộc có thể vượt qua tuổi đó với những điều tốt lành và may mắn. Xưa kia, ở Trung Quốc, tiền mừng tuổi thường là một vòng đỏ xâu 100 cắc tiền đồng, biểu hiện cho lời chúc sống lâu trăm tuổi. Ngày nay, tiền mừng tuổi đầu năm, còn có ý nghĩa tượng trưng cho sức khỏe, may mắn, thành đạt được cho vào phong bao bằng giấy đỏ hoặc vải nhung đỏ, có những trang trí mang nghĩa cát tường, hạnh phúc và những câu chúc, an lành, phát đạt như “Hòa gia bình an”, “Kim ngọc mãn đường”, “Vạn sự như ý”… Vì vậy, tặng tiền Áp Tuế còn được gọi là tặng Hồng Bao. Từ lì xì trong tiếng Việt, sử dụng phổ biến ở miền Nam, được cho là có nguồn gốc từ tiếng Trung Quốc, là cách đọc trại của từ “lợi thị” hoặc “lợi sự” (phát âm theo giọng Quan Thoại là li shi, theo giọng Quảng Đông là lì xì, lầy xì), có nghĩa gốc là một món đồ hay món tiền mang đến lợi lộc, vận tốt, vận may. Tặng lì xì là tặng món tiền thể hiện điều lành và may mắn cho đứa trẻ. Ở Việt Nam, lì xì vốn chỉ là những đồng tiền xu bỏ trong phong bao giấy hồng điều, hoặc trang trí vàng son bắt mắt mà người lớn tặng cho trẻ con để chúng có cái rủng rẻng trong những ngày Tết vì tiếng cười của trẻ con có thể xua đuổi điều xấu. Vì vậy lì xì cũng có ý nghĩa cầu may, cầu phúc trong năm mới. Theo tục lệ ở một số địa phương thì người nhỏ tuổi không lì xì người lớn hơn, vì vừa không đúng ý nghĩa, vừa bị cho là “hỗn”. Tuy nhiên, ngày nay, tục lì xì đã cởi mở hơn, đặc biệt những người nhỏ tuổi nhưng đã lập gia đình, đã có thu nhập thì có thể mừng tuổi cho những bậc cao niên như cha mẹ, ông bà, để chúc tụng may mắn, sức khỏe, bình an. Thúy Huỳnh Nguồn:nhantrachoc.net.vn
-
YẾU TỐ QUAN TRỌNG CỦA CẢNH QUAN BÊN NGOÀI Nguồn: Nhantrachoc.net Đây là phần cực kỳ quan trọng đối với 1 ngôi nhà. Trong cổ thư Hoàng đế trạch kinh , chủ trương lấy hình thể làm thân thể , lấy nước sông suối làm huyết mạch , lấy đất đai làm da , lấy cây cỏ làm lông tóc , lấy nhà cửa làm quần áo , lấy cửa ngõ làm đai mũ... Trong cuốn Dương Trạch tập thành của đời Thanh cũng có nói : " Dương trạch phải chọn địa hình , tựa lưng vào núi , trước mặt là nước mới xứng với nhân tâm , Sơn có lai long thì đẹp mà phát , Thuỷ phải ôm bao làm hình vòng quanh , Minh Đường rộng lớn thì có phúc, Thủy khẩu thu tàng , tích vạn kim.Quan sát 2 bên không có chướng ngại , quang minh chính đại vượng môn đình...". Như vậy đủ thấy người xưa khi luận về PT đã xem trọng cảnh quan bên ngoài thế nào.Về mặt khoa học mà nói , khi chúng ta chọn mua 1 miếng đất, 1 căn nhà , hay thuê nhà đẩ ở chẳng hạn , ta cũng phải tìm hiểu môi trường xung quanh nơi đó, bởi nó tác động không nhỏ đến đời sống chúng ta. Thí dụ như : Dưới nền nhà là nơi giao nhau của 2 mạch nước ngầm sẽ làm cho sức khoẻ chúng ta suy nhược ; nhà làm gần các trạm điện cao thế sẽ ảnh hưởng đến hệ thần kinh những người cư ngụ nơi đó, những ai ở gần đó cũng có khả năng mắc bệnh ung thư máu cao hơn,trẻ em dễ mắc bệnh bạch cầu... Cũng như những phát hiện đó, có 1 số điều mà từ hàng nghìn năm trước các nhà Pt đã cảm nhận được nhưng không thể chứng minh. Như tại sao khi nhà chúng ta đối diện nóc nhà hàng xóm ( ý nói đòn dông nhà đối diện chĩa thẳng qua ) là không tốt. Các nhà Pt xưa chỉ kinh nghiệm thấy như vậy là không tốt , nhưng không đủ dụng cụ khoa học như ngày nay để chứng minh. Mới đây, 1 nhà khoa học người Pháp là Enel M.J.F. Balvanyi đã khám phá ra rằng có 1 loại tia nguy hiểm , gòi là tia Ác Xạ , tia này có chùm sóng ngắn gọi là Green Negative Waves. Chùm sóng ngắn này hiện hữu trong không khí. Chúng có tác hại làm khô các tế bào ở cơ thể sinh vật . Khi gặp các nóc nhà , chúng nương theo cái đòn dông ( ridge-board) phóng về phía trước, và xâm nhập vào căn nhà đối diện qua cửa chính , cửa sổ. Những thành viên trong nhà đó bị nhiễm tia này sẽ đau ốm , bệnh hoạn, đầu óc luôn căng thẳng , lo âu sinh ra bực bội, cáu kỉnh hay phát sinh tranh cãi trong nhà , hoặc tinh thần mất tập trung dễ bị tai nạn hơn. ......Nói chung , rất nhiều điều từ môi trường bên ngoài tác động đến ngôi nhà chúng ta đang ở, chứ không phải chỉ có các yếu tố nội thất bên trong nhà là đủ. Muốn đạt được sự hài hoà về Pt ,chúng ta trước tiên nên xem xét hình thể xung quanh nơi ta ở trước , thứ đến mới là nội thất. Ở đây , NCD tôi không bàn đến các hình thế Sơn Thuỷ theo trường phái xác định Huyệt vị Long Mạch , bởi phần đó đã đi vào chuyên môn , tôi chỉ muốn đề cập đến các vấn đề mà chúng ta thường có thể gặp trong cuộc sống hàng ngày thôi.Trong phần này , bởi những tác động từ môi trường xung quanh rất nhiều điều chúng ta cần xem xét , NCD xin chia ra thành 1 số đề mục sau ; _ Ao hồ : Hình dáng và vị trí. _ Đường đi dẫn vào nhà , các con lộ._ Cây cối và ảnh hưởng của nó. _ Các nhà láng giềng. _ Cuối cùng là : 1 số câu thiệu luận đoán cát hung ngoại hình. CÁC CON ĐƯỜNG VÀ CÁC LỐI DẪN VÀO NHÀ Trong khoa Pt hiện đại , các đường đi ở các khu đô thị, thành phố thay thế cho hình ảnh các con sông ở các vùng quê, nó cũng mang lại Khí . Những con đường cong lượn 1 cách dịu dàng như những con sông uốn lượn hữu tình , sẽ cho phép luồng Khí di chuyển nhẹ nhàng êm ái , có tác dụng tốt. Những đại lộ thẳng và xa lộ sẽ thúc đẩy luồng Khí quá nhanh chóng và thường gây nguy hiểm. Do đó , điểm đầu tiên mà NCD tôi muốn nhấn mạnh , đó là : _ Đừng nên chọn nhà hay đất mà trước mặt hoặc sau lưng có : Đường xe lửa , đường xa lộ (high-way ) , đường cao tốc (free-way ). Vì mật độ xe , và tốc độ nhanh của nó khiến dòng Khí như bị hút đi , từ Sinh Khí sẽ thành Ác Khí. Trong mục giải đáp_ phần trả lời cho chị NHDT _ tôi có nhắc đến Phản Cung Sát , là 1 loại Sát Khí hình thành từ 1 con đường cong như lưỡi liềm cắt trước mặt nhà, sau lưng nhà. Nhân hôm rồi tôi có đi TQ, nhìn thấy các cây cầu vượt đan xen nhau, nên hôm nay NCD cũng xin nói đến chúng , hầu giúp cho các anh chị , các bạn nào ở nước ngoài có gặp phải : _ Tuyệt đối tránh mua, thuê nhà trong các chung cư ( Apartment) mà bị Phản Cung Sát từ các cầu vượt, đường cao tốc ( free-way). Phản Cung Sát từ các con đường này còn nguy hiểm gấp mấy lần từ 1 con đường lộ thông thường.Hãy cẩn thận !!! _ Tuyệt đối tránh ở gần nơi giao nhau của các cây cầu vượt, các đường cao tốc. tầm Sát thương của chúng rất lớn, ảnh hưởng rất xa. Ở những nơi này , dòng Khí bị nhiễu loạn , sẽ có ảnh hưởng rất xấu với sức khoẻ, tinh thần của chúng ta. _ Tuyệt đối tránh mua , thuê các nhà nằm trên đường hầm , tàu xe chạy xuyên qua phía dưới, sẽ phạm phải Xuyên Tâm Sát. Người ở đó sẽ bị tài vận kém, sức khoẻ kém, dễ sinh bệnh chảy máu. Cả 3 loại này không phải là không có cách hóa giải , nhưng tốt hơn là tránh , vì khi bất đắc dĩ lắm , trong trường hợp không thể chọn lựa, ta buộc phải ở đó thì hãy dùng hóa giải. Dù sao, ở 1 nơi không bị Hình Sát gì vẫn tốt hơn mà ! _ Một con đường ( Cũng như là 1 con sông , nhánh sông ) chĩ thẳng vào cửa hoặc cửa sổ nhà là bị Thương Sát . Người trong nhà thường bị tai nạn chảy máu , bệnh tật. _ Một con đường xe chạy giống như chiếc nĩa ( như lưỡi bồ cào ) ở trước cửa : Cha con bất hòa , mỗi người tự làm theo ý mình. _ Một con đường hình thành 3 cạnh của Bát Quái ở trước cửa : rất xấu cho các mối quan hệ giửa các thế hệ trong nhà. _ Nhà ở trong các chung cư ( Apartment ) : Đại kỵ mở cửa ra nhìn thấy ngay cầu thang đi xuống hay cửa thang máy. _ Nhà ở hoặc cửa hàng tránh ở trên 1 đoạn dốc xuống.Khí cũng như nước , luôn chảy từ cao xuống thấp. Nếu nhất định phải chọn nhà ở khu vực đó , thì nên đến đó quan sát khi trời mưa,nước mưa chảy đọng vào ngôi nhà nào , thì hỏi mua , thuê nơi đó là tốt nhất. Vì Thủy tụ là Khí dừng mà. _ Nhà ở tận cùng 1 ngõ hẽm , luôn phải chịu lời thị phi. _ Một con đường dẫn vào nhà mà quá hẹp ( nhỏ hơn cả cửa chính ) là rất xấu. Bởi lối vào là 1 bước đầu chuẩn bị , để chúng ta có thể cảm thấy 1 khi chúng ta bước vào nhà ; hay là chỗ giúp chúng ta xác định cách chúng ta đến với thế giới bên ngoài , sau khi ra khỏi nhà. Lối vào nên có vẻ khang trang và dễ đi , và lối ra cũng nên có 1 quang cảnh sáng sủa và không bị cản trở. _ Nếu nhà ở cao hơn mặt đường , có những bậc lên xuống , chúng nên thoai thoải và không được quá dốc , cửa đi phải mở ra trên 1 khoảng đất rộng rãi. Các bậc hẹp và dốc sẽ làm trôi tuột tiền của , may mắn ra khỏi căn nhà. Nều nhà ở thấp hơn mặt đường , các bậc cấp dẫn xuống là 1 điều xấu. khiến những người cư ngụ luôn cảm thấy căng thẳng , vì phải luôn tranh đấu , phấn đấu , làm việc cật lực. _ Hai bên lối vào nhà nếu có 2 bụi cây thì không nên để rậm rạp quá , phải tỉa gọn bớt. _ Nếu làm mái hiên phía trước , hãy cẩn thận các cây cột chống. Nếu các cây cột này quá lớn sẽ cản trở dòng Khí. Nếu chúng lại là cột vuông thì dễ bị phá sản. _ Một đường hẽm thẳng và dài , hẹp thì Sát Khí chứa ở trong đó, làm cho nhà bị u ám , người bị tai họa.Nếu mở cho hẽm dài ra càng bị thất bại. Nếu đường hẽm đó xông thẳng hay xông nghiêng vào nhà : Sẽ chết đường. Nếu đường hẽm đó xông vào bên trái hay bên phải nhà : Sẽ bệnh tật , cô quả. Nếu đường hẽm đó x6ng thẳng vào Cửa Cái nhà : Con nhỏ chết non. _ Một đường hẽm như hình lưỡi dao _ đầu lớn đầu nhỏ : Thường bị trộm cướp. Đầu lớn chĩa vào : Bị người ta giết chết. Đầu nhỏ chĩa vào : Giết người phải thường mạng. _ Hẽm nhỏ giaop nhau thành ngả tư : Ở đó cãi lộn luôn. _ Cửa hẽm hình chữ Nhân ( chữ Hán ) : Hại nhân mạng. Cửa hẽm hình chữ Thập ( + ) : Bệnh nặng , thưa kiện. _ Trước nhà có giao lộ chữ T đâm vào là xấu. _ nhà nằm trong giao lộ chữ Y là xấu. Nguon:nhantrachoc.net.vn
-
Như chúng ta đã biêt Phong Thủy đã có lịch sử hàng nghìn năm nay rồi, tư bản thân nó là 1 bộ môn khoa học, chứ không phải mang đậm màu sắc mê tín như 1 số người cố tình tạo ra. Trước đây, vì lợi ích riêng tư cá nhân mà các triều đại Vua chúa không cho phổ biến rộng rãi bộ môn này, cũng như các thầy Địa lý cố tình tạo nên sự huyền hoặc nhằm trục lợi những người nhẹ dạ cả tin. Ngày nay , khoa học hiện đại đã vén tấm màn bí mật của Phong Thủy ,cho chúng ta thấy đó là tập hợp những kinh nghiệm của ngươi xưa về môi trường sống chung quanh , sao cho đạt sự hài hòa,thẩm mỹ. Tuy nhiên, bên cạnh đó, cũng có 1 số vấn đề mà khoa học cũng chỉ lý giải được 1 cách khiên cưỡng. Do đó, chúng ta mới gọi Phong Thủy là bộ môn Khoa Học...Huyền bí ! Trong cuộc sống chúng ta thường nghe nói :"nhất thời, nhì vận, tam phong thủy ". Thời ở đây thời cơ, là vận may. Có người suốt đời luôn gặp vận may nhưng không biết nắm bắt, có người cả đời chỉ có 1 vận may duy nhất nhưng biết nắm bắt nên thành công, cũng có người cả đời không gặp vận may nhưng họ biết tạo ra thời cơ để thắng lợi. Vận may, thời cơ của 1 người còn tùy thuộc vào đức độ của người đó thể hiện trong cuộc sống. Nếu người ấy sống có đạo đức thì dễ dàng nhận được sự tưởng thưởng của những người xung quanh, và tất nhiên sẽ có thêm nhiều người ủng hộ. Vận ở đây chính là Mệnh vận của 1 người , nó phụ thuộc vào năm,tháng,ngày,giờ sinh của người ấy. Bản thân mỗi người trong chúng ta đều có 1 từ trường riêng, không ai giống ai cả, đó là do năm tháng ngày giờ sinh của chúng ta khác nhau. Thế những người có cùng năm tháng ngày giờ sinh thì sao? Xin thưa cũng không thể có từ trường giống y nhau được, vì nó còn phụ thuộc bởi 1 số yếu tố khác như : _Cha mẹ, anh chị em có năm tháng ngày giờ sinh khác nhau. Vì từ trường của những người xung quanh sẽ ảnh hưởng đến từ trường của người ấy _ Người sinh ở miền Nam, miền Bắc khác nhau. Tỷ như cái cây trái ngọt vùng Xích đạo mà đem lên vùng Bắc Cực trồng sao tốt được? ........ Phong Thủy là yếu tố thứ ba trong đó, cũng là một yếu tố mà người ta có thể thay đổi được. Do đó, nghành địa lý ngày xưa rất được xem trọng. 3 yếu tố này tượng trưng cho Tam Tài : THIÊN- ĐỊA- NHÂN trong vũ trụ, cả 3 tương hỗ cho nhau. Nói đến Phong thủy là nói đến sự hài hòa-hợp lý-thẩm mỹ, thực hành trọn vẹn,Phong Thủy sẽ thể hiện tính CHÂN-THIỆN-MỸ. Nói CHÂN là vì thực hành PT phải thật sự chính xác, chỉ cần "sai 1 ly đi 1 dặm " ngay. Nói đến THIỆN là nói đến người thực hành PT phải có cái TÂM của nghề nghiệp, không nên vì lợi ích cá nhân mà làm ảnh hưởng đến PT của những người xung quanh, cũng như làm hư hoại PT tốt đẹp của vùng đất ấy. Nói đến MỸ là nói đến sự hài hòa,hợp lý,thẩm mỹ trong việc trang trí nội-ngoại thất cũng như trong việc sắp xếp,bài trí đồ đạc trong nhà. Tóm lại, nghiên cứu & thực hành PT, chúng ta có thể cải thiện phần nào cuộc sống của chúng ta, làm cho "cuộc sống tốt đẹp hơn". Chưa biết kết quả thế nào, nhưng trước mắt, về mặt tâm lý nó giúp chúng ta có thêm sự tự tin, lạc quan hơn. Thế thì tại sao ta không thử nhỉ ? Trước tiên, ncd tui xin nói sơ qua về Lục Thập Hoa Giáp. Trong tuổi Âm lịch, người ta có 2 tiêu chí để xác định 1 người sinh nhằm năm hoa giáp gì. Đó là: _10 Thiên can : Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý. _12 Địa chi : Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tị, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi. Mỗi năm sẽ có 1 Thiên can đi kèm với 1 Địa chi, như vậy sẽ có 60 năm khác nhau , từ Giáp Tý, Ất Sửu, Bính Dần......đến Nhâm Tuất, Quý Hợi. Đó chính là Lục Thập Hoa Giáp. Như tui đã nói ở phần trước, mỗi chúng ta đều có 1 từ trường riêng, nhưng trong lĩnh vực PT, chỉ cần xác định năm sinh là ta có thể biết ngay được hướng tốt xấu của bản thân, không như bên xem số mạng đòi hỏi phải đủ năm tháng ngày giờ. Trong PT có nhiều trường phái lắm, trong đó, trường phái mà nhiều người hiện nay hay dùng nhất chính là chia con người ra làm 2 nhóm: Đông Tứ Trạch & Tây Tứ Trạch. Muốn biết bản thân mình thuộc nhóm Trạch Đ hay T, chúng ta trước tiên hãy nói đến ý niệm Bát Quái. Ở đây, ncd tui không có ý đi sâu vào nguồn gốc của BQ , chỉ xin giới thiệu luôn về 8 quẽ của BQ, đó là: CÀN-KHẢM-CẤN-CHẤN-TỐN-LY-KHÔN-ĐOÀI. Mỗi người khi sinh ra là đã chịu sự ảnh hưởng của 1 vì sao chủ vận của năm ấy, và vì sao này sẽ giúp chúng ta xác định mình thuộc nhóm Trạch Đ hay T. Có rất nhiều cách tìm sao chủ vận năm sinh của mình, nhưng ở đây, ncd tui xin chỉ các bạn 1 cách rất là đơn giản. Các bạn lấy 2 số cuối của năm sinh của mình cộng lại với nhau, nếu vẫn còn trên 10 thì cộng tiếp cho đến kết quả cuối cùng<10 VD : Bạn sinh năm 1987 chẳng hạn 8+7=15 >10 1+5=6 Đến đây, nếu là Nam thì lấy 10 trừ đi số mới tìm được đó nếu là Nữ thì lấy 5 cộng với số mới tìm được Theo VD trên: Nếu bạn là Nam thì : 10-6=4 . Số chủ vận của bạn là 4 Nếu bạn là Nữ thì : 5+6=11 1+1=2 . Số chủ vận của bạn là 2 Nếu là số 5 thì nam là cung KHÔN, nữ là cung CẤN **LƯU Ý : Nếu các bạn sinh từ năm 2000 trở lại đây, thì Nam : Lấy 9 trừ đi số của năm sinh mới cộng ra Nữ : Lấy 6 cộng số................................... VD : bạn nào sinh năm 2001 chẳng hạn 0+1=1 Nam : 9-1=8 . Số của bạn ấy là 8 Nữ : 6+1=7 . Số của bạn ấy là 7 Đến đây , khi các bạn đã biết số chủ vận của mình rồi thì theo bảng sau sẽ biết mình thuộc nhóm Trạch nào: Đông Tứ Trạch Tây Tứ Trạch Sao Nhất Bạch- số 1-KHẢM Sao Nhị Hắc- số 2-KHÔN Sao Tam Bích- số 3-CHẤN Sao Lục Bạch-số 6-CÀN Sao Tứ Lục- số 4- TỐN Sao Thất Xích-số 7- ĐOÀI Sao Cửu Tử - số 9 - LY Sao Bát Bạch -số 8 - CẤN Khi nhà của các bạn xoay 1 trong 4 hướng thuộc cùng nhóm với mình, thì đó là hướng tốt của các bạn đấy. Các bạn hãy xem thử từng số chủ vận, ứng với phương hướng gì sau đây, sẽ biết mình thích hợp với hướng nào ngay thôi số 1- cung KHẢM-hướng Chánh Bắc số 2- cung KHÔN-hướng TÂY NAM số 3- cung CHẤN-hướng Chánh Đông số 4- cung TỐN -hướng Đông Nam số 5- nam lấy cung KHÔN, nữ lấy cung CẤN số 6- cung CÀN -hướng TÂY BẮC số 7- cung ĐOÀI -hướng Chánh Tây số 8- cung CẤN -hướng ĐÔNG BẮC số 9- cung LY -hướng Chánh NAM VD: như vd trên kia chẳng hạn, bạn nào sinh năm 1987 * nếu là nam, số chủ vận là 4, thuộc cung TỐN, hướng Đông Nam. Ta xem bảng thấy cung TỐN ở nhóm Đông Tứ Trạch. Vậy thì các hướng hợp của bạn ấy sẽ là các số cùng nhóm :1-3-4-9 , ứng với các hướng : Chánh Bắc, Chánh Đông, Đông Nam & Chánh Nam * nếu là nữ , số chủ vận là 2, thuộc cung KHÔN, hướng Tây Nam . Ta xem bảng thấy cung KHÔN ở nhóm TÂY Tứ Trạch. Vậy thì các hướng hợp của bạn ấy sẽ là các số cùng nhóm : 2-6-7-8 , ứng với các hướng : Tây Nam, Tây Bắc, Chánh Tây & Đông Bắc Tóm lại, bất kỳ ai cũng có 4 hướng tốt, dĩ nhiên cũng có 4 hướng xấu là 4 hướng thuộc nhóm còn lại. Hy vọng các bạn có thể tự mình tìm thấy hướng thích hợp cho ngôi nhà của các bạn. Lần tới tui xin nói tiếp 1 tý về từng hướng nào sẽ tốt cho vấn đề gì? Và những hướng xấu thì nên đặt gì để trấn lại? Trước tiên , chúng ta điểm sơ lại phần bài hôm trước. Như các bạn đã biết, mỗi người chúng ta có 1 Quái Số riêng của mình. Mà trong trường phái PT La Bàn đơn giản thì có 8 hướng. Như vậy, khi ta đem Quái Số của mình phối với 8 hướng sẽ có 8 trường hợp xảy ra cho từng người, và 8 trường hợp đó ta gọi nôm na là Bát San vậy. Như NCD đã nói ở phần trước, mỗi người trong chúng ta ,ai cũng có 4 hướng tốt là 4 hướng đồng nhóm Đông hay Tây với mình, và 4 hướng xấu là 4 hướng khác nhóm. Ở đây ,tui xin gửi các bạn 1 bảng thành lập sẵn sự phối hợp giữa 8 Quái Số và 8 hướng để tiện lợi cho các bạn nào chưa biết gì về PT : Các Quái Số 1 2 3 4 5 6 7 8 9 Các hướng tốt Hướng Sinh Khí : Đ N Đ B Nam Bắc Đ B Tây T B T N Đông T N Hướng Thiên Y : Đông Tây Bắc Nam Tây Đ B T N T B Đ N T B Hướng Diên Niên :Nam TB Đ N Đông T B T N Đ B Tây Bắc Tây Hướng Phục Vì : Bắc T N Đông Đ N T N T B Tây Đ B Nam Đ B Các Quái Số 1 2 3 4 5 6 7 8 9 Các hướng xấu TUYỆT MỆNH : T N Bắc Tây Đ B Bắc Nam Đông Đ N T B Đ N NGŨ QUỶ : Đ B Đ N T B T N Đ N Đông Nam Bắc Tây Bắc LỤC SÁT : T B Nam Đ B Tây Nam Bắc Đ N Đông T N Đông HỌA HẠI : Tây Đông T N T B Đông Đ N Bắc Nam Đ B Nam Ở quái số 5 : hàng trên là của nam, hàng dưới là của nữ NCD xin Vd thử nhé : Quái số của bạn là 9_cung LY thì hướng tốt nhất của bạn cho việc làm ăn là hướng ĐÔNG. Nếu bạn chưa kết hôn cần tìm người bạn đời hay người yêu thì bạn nên dùng hướng BẮC. Nếu bạn cần về vấn đề sức khoẻ thì hãy chọn hướng ĐÔNG NAM. Nếu bạn cần củng cố việc học hành thì hãy chú ý đến hướng NAM. Bạn hãy thử thực hành xem nhé ! Nhưng bạn cũng đừng quên 1 điều : thức ăn dù có bổ nhưng dùng nhiều quá vẫn có hại đấy nhe. Đừng lạm dụng Ngũ hành thái quá sẽ không tốt. Khi thực hành PT chưa quen, bạn hãy từ từ, đừng vội tăng cường Ngũ Hành nơi cần thiết đó quá nhiều. Ít thì bạn có thể thêm vào từ từ được, nhưng để đến lúc nhiều thì phiền lắm đấy 1.SANH KHÍ (Sheng Chi ) : là hướng tốt nhất trong 4 hướng tốt ,biểu hiện của sự thành công, danh tiếng, địa vị, giàu sang. Muốn hưởng được những sự tốt đẹp của hướng Sanh Khí này, tốt nhất là cửa chính của căn nhà ở vị trí này hoặc xây về hướng này , hoặc phòng ngủ hay phòng làm việc của gia chủ ở tại vị trí này. 2.THIÊN Y ( Tien Yi ) : là hướng biểu hiện cho sức khoẻ và sự sống lâu. Cho nên đây là vị trí tốt cho người nào trong nhà mà vấn đề sức khoẻ cần quan tâm. Ngoài ra, khoa PT còn quan niệm Bếp là nơi cung cấp năng lượng , là nguồn gốc của sức khoẻ cho mọi người trong gia đình. Cho nên, Bếp hoặc nồi cơm điện nên đặt xoay miệng về hướng Thiên Y ( về điều này, NCD tui sẽ đề cập đến khi đi vào chi tiết từng bộ phận bài trí trong nhà ). 3.DIÊN NIÊN ( yen nien ) : là vị trí ảnh hưởng đến hạnh phúc của gia đình : Tình cảm giửa vợ chồng, sự liên hệ giửa cha mẹ và con cái tốt đẹp, bền vững hay không, đều có thể tác động ở vị trí này. Đây là hướng mà các bậc cha mẹ cần lưu ý, nếu trong nhà có con cái bị trắc trở về đường Tình Yêu. * Và đây cũng là vị trí dùng để cứu chữa cho đôi vợ chồng nào mà tình nghĩa đang trên đà gãy đổ. Vd :1 đôi vợ chồng đang có những chuyện cơm không lành, canh không ngọt, có thể đi đến chia tay. Để cứu chữa tình trạng này, 2 vợ chồng có thể dời phòng ngủ về căn phòng ở hướng Diên Niên. 4. PHỤC VÌ ( Fu Wei ) : là hướng có độ tốt trung bình : cuộc sống gia đình yên vui, no ấm. Nhà xây về hướng PV hoặc phòng ngủ của gia chủ ở vị trí này , nhà sẽ có con trai nhiều hơn con gái. Đấy là 4 hướng tốt sắp theo thứ tự từ tốt nhất trở xuống, bây giờ là 4 hướng xấu sắp từ xấu nhất xuống 1.TUYỆT MẠNG : Đây là hướng xấu nhất trong 4 hướng. Không nên đặt cửa chính hoặc phòng ngủ ở vị trí này. Nhà xây về hướng TUYỆT MẠNG sẽ đưa đến việc làm ăn suy sụp và có thể đi đến sự khánh tận ; mất mát con cái và bệnh tật kinh niên. Vị trí này chỉ nên đặt Toilet, phòng tắm hoặc Bếp. Nếu đặt Bếp ở đây, miệng Bếp phải xoay về 4 hướng tốt của gia chủ. 2.LỤC SÁT : Đây là hướng chuyên gây nên những thất bại trong công việc làm ăn, bệnh tật, tai nạn và sự chết chóc. Vị trí này cũng chỉ để làm Toilet hoặc phòng chứa đồ thôi. 3.NGŨ QUỶ : Đây là hướng mang đến những tai họa như bị trộm cắp, cháy nhà, mất việc. Trong gia đình,vợ chồng con cái thường bất hòa và hay tranh cãi với nhau. Ngoài xã hội, cũng thường hay bất hòa với đồng nghiệp. Bởi vậy, vị trí này đặt Toilet là hợp nhất , vì những tai họa sẽ bị nước cuốn trôi đi. 4.HỌA HẠI : Đây là hướng đưa đến sự khó khăn và thất thoát về tiền bạc. Vị trí này tốt nhất chỉ làm phòng chứa đồ đạc. Như đã nói lần trước, lần này NCD tui xin nói qua về các nhà bị khuyết góc. Trong phần phân định phương hướng hay các cung cho 1 căn nhà, giả sử căn nhà có dạng hình vuông, hình chữ nhật, đầy đặn không bị lồi lõm thì quá tốt rồi. Nhưng trong thực tế, có nhiều trường hợp_mà nhất là ở các vùng nông thôn VN ta_nhà xây dựng có dạng chữ L , chữ T và thậm chí có nhà còn xây hình như chữ U nữa. Với những trường hợp như thế, khi ta chia ô để xác định cung cho từng vị trí trong nhà, sẽ khuyết đi 1 hoặc 2 cung , Và điều mà chúng ta nói đến hôm nay là việc gì sẽ xảy ra khi căn nhà có 1 hay nhiều cung bị khuyết CUNG KHIẾM KHUYẾT : khi kiến trúc của 1 căn nhà không được vuông vắn thì sẽ đưa đến tình trạng 1 hoằc trong 8 cung bị khuyết. Tùy theo cung nào bị khiếm khuyết mà gia chủ sẽ bị yếu kém hoặc trở ngại trong lĩnh vực đó. Theo trường phái PT La Bàn thì 8 cung Bát quái , mỗi cung sẽ ảnh hưởng 1 lĩnh vực như sau : _Cung CÀN : hướng TB , ảnh hưởng đến lĩnh vực Quý Nhân của gia chủ. Cũng như là những người nâng đỡ, giúp đỡ mình trong cuộc sống. Hay là những khách hàng nếu đó là 1 cơ sỏ kinh doanh. _cung KHẢM: hướng Bắc ,ảnh hưởng đến Sự Nghiệp của gia chủ. Nơi đây cũng có thể coi như là nơi ảnh hưởng đến nghề nghiệp của gia chủ và những người trong nhà. _Cung CẤN : hướng ĐB , ảnh hưởng đến vấn đề Kiến Thức. Tác động nơi đây là tác động đến sự học tập của những người sống trong nhà. _Cung CHẤN : hướng ĐÔNG , ảnh hưởng đến Gia Đạo . Nơi đây ảnh hưởng đến tất cả những mối tương quan giữa những người trong nhà với nhau. _Cung TỐN : hướng ĐN , ảnh hưởng đến TÀI LỘC. Khi việc làm ăn của bạn gặp vấn đề xin hãy nghĩ ngay đến cung này. hay khi tài chính khó khăn, hãy tác động đến nó. _Cung LY : hướng Nam , ảnh hưởng đến DANH TIẾNG _ ĐỊA Vị. Những ai làm công tác nghiên cứu, nghệ thuật, thì cung này rất quan trọng. _Cung KHÔN :hướng TN ,ảnh hưởng đến TÌNH YÊU_HÔN NHÂN. Hạnh Phúc gia đình đều ở đây, ai đã lập gia đình xin chú ý đến cung này. Những ai chưa lập gia đình , cần tìm T.Y , cũng xin tác động nó. ĐẶC BIỆT : Năng lượng THỔ ở cung này có sức ảnh hưởng rất lớn đến tất cả các cung còn lại _cung ĐOÀI : hướng Tây , ảnh hưởng đến con cái. Khi bạn muốn tốt cho con cái hãy tác động cung này của nhà minh,và xem đứa con đó là con trai gái, thứ mấy trong nhà, đối chiếu với BQ sở thuộc rồi tác động thêm cung đó. Biết được ảnh hưởng của các cung BQ và BQ sở thuộc, ta sẽ dễ dàng hóa giải những khiếm khuyết của nhà. CÁCH HÓA GIẢI : Theo quan niệm của khoa PT, khi 1 cung bị khiếm khuyết, chúng ta sẽ làm cho nó "hiện hữu " bằng cách đặt ngay tại góc này 1 trong những thứ sau đây : _1 hàng rào thấp. _1 cây đèn, loại đèn ngoài trời. -1 cái cây, 1 bụi hoa hay 1 bồn hoa. _1 cột nước phun, 1 hòn non bộ hay 1 bức tượng. _1 giàn hoa. _làm thêm phòng hay patio ở phần bị khuyết. Tuy nhiên, không phải lúc nào chúng ta cũng có thể sửa đổi, đặt thêm, tỷ như nhà ở chung cư chẳng hạn. Khi không điều chỉnh bên ngoài được, chúng ta có thể điều chỉnh bên trong bằng 1 trong những phương cách sau : _Gắn kiếng mặt trong những vách tường của phần bị khuyết. _Nếu 2 mặt vách tường của phần bị khuyết nay có cửa sổ : Hãy treo quả cầu thủy tinh nhỏ ở cửa sổ, và chưng thêm cây tươi tốt ở gần cửa sổ để hấp dẫn Sinh Khí. *** Quả cầu thủy tinh : Là 1 công cụ Hóa Sát rất hay trong PT. Đó là 1 quả cầu làm bằng Pha Lê, được cắt nhiều mặt để tạo độ phản chiếu. Khi có ánh nắng rọi xuyên qua, nó sẽ phản chiếu vào nhà lấp lánh đủ 7 sắc màu như 7 sắc cầu vồng vậy. Quả cầu thủy tinh có thể biến đổi những tia Ác khí rọi vào nhà thành những tia Sinh Khí. _Tác động vào cung bị khiếm khuyết trong các phòng mà cung này không bị khiếm khuyết. VD : Căn nhà bị thiếu cung TÀI LỘC , thì nên tác động vào tất cả các cung TÀI LỘC của các phòng còn lại trong nhà. LƯU Ý : tùy theo hành của cung bị khiếm khuyết là hành gì, mà chọn những vật có hành hợp hay tương sinh với nó mà thiết trí. Ví Dụ : Nhà khuyết góc Tây Nam thuộc hành THỔ, thì nên đặt 1 bức tượng là hành THỔ , hoặc 1 cây đèn là hành HỎA , vì HỎA sinh THỔ. Trong cuộc sống hàng ngày, có nhiều việc nhỏ nhặt mà chúng ta không để ý đến. Nhưng có đôi khi, những chuyên nhỏ ấy lại làm thay đổi cả cuộc sống của chúng ta mà chúng ta không hề biết. Chẳng hạn, khi chúng ta dời cái giường ngủ, hay xê dịch cái bàn làm việc ở văn phòng. Làm sao chúng ta hiểu được rằng, từ sự dời đổi vô tình đó, gia đình đang yên vui bỗng nhiên trở nên sóng gió bởi những chuyện không đâu. Hay là công việc làm ăn đang thuận lợi , đều đặn bỗng nhiên bao chuyện khó khăn, rắc rối ập đến. Đó chỉ là những việc nhỏ là dời giường, dịch bàn, nếu là những việc lớn như xây lồi ra thêm 1 phòng nữa thì các bạn nghĩ sao? cho nên NCD tui khuyên các bạn, khi muốn xây thêm 1 căn phòng hay làm thêm 1 cái vườn hoa cho đẹp thì hãy : Cố gắng đừng để kiến trúc nhà trở thành dạng lồi lõm ! Nếu phần làm thêm ở sau nhà , hãy làm bằng hết chiều ngang nhà. Nếu phần làm thêm ở bên hông, hãy làm bằng hết chiều dài nhà. Được như thế, thì coi như ta chỉ nới rộng diện tích nhà , chứ không thay đổi kiểu dáng nhà thành bất thường. http://www.nhantrachoc.net.vn/nthportal/fo...add&p=13618Cửa cái _ Cửa sổ Trong trường phái PT La Bàn cũng có nhiều trường phái nhỏ,nhưng dù là thuộc truồng phái nào thì CỬA CÁI vẫn là 1 trong những điểm trọng yếu. Bởi theo như người xưa thì ông bà ta gọi CỬA CÁI là Môn Khẩu , mà người ta nói : " Bệnh tòng khẩu nhập , họa tòng khẩu xuất ". Nếu như nói cái miệng là nơi thu nhận năng lượng cho cơ thể cũng không sai , vì thức ăn vào từ miệng ; nếu thức ăn bổ thì tốt cho cơ thể, thức ăn độc hại thì gây họa cho cơ thể. Cửa Cái cũng như cái miệng của 1 căn nhà vậy. Nó là nơi thu nạp KHÍ của Vũ trụ vảo nhà , nên cực kỳ quan trọng. Nói đến KHÍ , ngay từ ngàn xưa, các nhà PT đã nhận thấy KHÍ hiện hữu khắp nơi, tràn đầy khắp không gian. Ngày nay, các nhà khoa học phát hiện ra có 1 loại khí hiện hữu khắp nơi trong không gian _ giống như lý luận của các nhà PT xưa _là KHÍ Vi Ba (Microwaves).KHÍ không nhìn thấy bằng mắt thường, chỉ qua sự cảm nhận, qua kinh nghiệm tích lũy ,mà những người hành nghề PT xác định được hướng đi của KHÍ. Qua đó các nhà PT mới đề nghị người này sử dụng hướng cửa này, người kia sử dụng hướng cửa kia. Cũng như có người nằm quay đầu hướng này thì dễ ngủ, nhưng với người khác thì hướng đó lại khiến họ mất ngủ vậy. Nói đến CỬA CÁI, ngoài việc lấy hướng thích hợp như đã nói ở các phần trên , chúng ta còn phải tuân theo 1 số điều kiện như : 1/. Phải tạo cảm giác hấp dẫn Sinh Khí vào nhà : Vì đây là nơi tiếp nhận Sinh Khí cũng như ta đón khách vậy, nên phải có 1 cảm giác thân thiện thì Sinh Khí mới vào được. Nghĩa là : từ hình dáng, tay nắm, màu sơn, thảm lót trước cửa......đều phải hài hòa, thích hợp với ngũ hành của gia chủ. VD : Gia chủ có quái số là cung LY, hướng của cửa là hướng KHẢM Tuy 2 cung LY _ KHẢM hỗ biến nhau ra du niên tốt là Diên Niên, nhưng KHẢM thuộc Thủy, LY thuộc Hỏa Thủy khắc Hỏa, nên ta có thể dùng hành Mộc làm trung gian như sơn màu xanh lá , xanh da trời lợt, hoặc dùng thảm lót trước cửa màu xanh lá chẳng hạn. 2/. Phải tạo cảm giác an toàn cho Sinh Khí vào : Nghĩa là phải tránh những " mũi tên độc " nhắm vào cửa trước, hay nói theo thuật ngữ PT thì phải tránh những SÁT KHÍ từ bên ngoài nhắm vào nhà , mà nhất là nó ngay cửa trước. Những tia Ác Khí này có thể là : _ Đòn dông nhà đối diện. _ Cạnh tường nhà đối diện, hay cạnh 1 nhà cao tầng, 1 chung cư bên kia đường. _ Một cột điện, 1 trụ điện cao thế trước cửa nhà. _ Đối diện bên kia là : 1 nhà tang lễ , 1 nhà thương , 1 nghĩa địa , 1 nhà thờ _chùa miễu , 1 pháp trường, 1 căn nhà mục nát....vv... _ 1 tượng đài chiến sĩ, 1 Đài Liệt sĩ, 1 doanh trại quân đội, 1 tòa án....vv... _ Những cọc rào nhọn nhà đối diện chĩa sang. ........ Nói chung,những gì bất lợi đều nên tránh. Tuy nhiên, trong cuộc sống, không phải lúc nào chúng ta cũng có thể tìm được mảnh đất như ý để cất nhà.Nếu như vì 1 tình thế bắt buộc, khiến chúng ta phải cất nhà ở những nơi có điều kiện không hay như thế, thì ta sẽ dùng đến những công cụ hóa sát mà tôi sẽ nói đến vào lúc khác. 3/.Phải hài hòa với tổng thể của nhà : Như đã nói ở những phần trước, PT là 1 bộ môn nghệ thuật, nó cần 1 sự thẩm mỹ tương đối.Khi thiết kế CỬA CÁI , không nên : _ Nhà quá lớn so với cửa : Khi đó KHÍ vào nhà bị hạn chế, cũng như hạn chế những vận may, những cơ hội của gia chủ vậy. _ Nhà nhỏ mà cửa quá lớn : Khi ấy, KHÍ vào nhà nhiều quá gây sự mất quân bình Âm Dương trong nhà. 4/. Phải để KHÍ luân lưu từ từ khắp nhà : Để đạt được điều này, không nên để CỬA CÁI thông thẳng 1 đường ra tới cửa sau. Vì như vậy, KHÍ vào nhà sẽ đi thẳng ra cửa sau mà thoát luôn. Cũng như gia chủ thấy vận may, thấy cơ hội đó nhưng không thể nào nắm bắt được. Nếu đã lỡ xây dựng, kiến thiết nhà như thế thì phải dùng đến những biện pháp hóa giải làm nguồn KHÍ đi chậm lại vậy. 5/. Không nên chận đường đi vào của Sinh Khí : Trước nhà phải quang đãng , không nên để gò đống hay kiến trúc nào làm cản trở dòng Sinh Khí vào nhà. Vừa bước vào cửa không nên gặp ngay bức tường, Sinh Khí sẽ dội trở ra ngay. 6/. Trang trí bắt mắt : CỬA CÁI cũng như diện mạo của căn nhà vậy. Gương mặt ta thì cần trang điểm, vậy tại sao CỬA CÁI lại không thể? Hãy trang trí ,sơn phết mặt tiền nhà với những màu tươi sáng , bắt mắt. Điều này cũng như gặp người mặt mũi sáng sủa thì dễ có cảm tình hơn vậy. 7/. Kích thước hợp qui cách PT : Ngoài vấn đề kích thước phù hợp với kích thước nhà ra, còn phải chú ý đến kích thước cửa theo Thước PT. Thước PT chính là thước LỖ BAN , 1 loại thước chuyên dùng trong PT. Về thước LỠ BAN , tôi sẽ nói riêng 1 bài vào khi khác, sẽ giới thiệu loại thước LỖ BAN nào thông dụng hiện nay. 8/. Không nên để KHÍ trôi tuột đi : Đại kỵ để cầu thang hướng thẳng ra cửa trước, khiến tất cả Sinh Khí trôi tuột ra ngoài hết. Về cửa sổ thì : _ 1 phòng không quá 3 cửa sổ. _ 2 cửa sổ không nên đối diện nhau. _ Cảnh quan bên ngoài cửa sổ phải là cảnh quan đẹp đẽ, không nên là những cảnh hoang tàn, đổ nát. _ Nếu là văn phòng làm việc thì không nên thiết kế cửa sổ sau lưng bàn làm việc ( điều này tôi sẽ nói cặn kẽ hơn ở phần PT với văn phòng làm việc. _Nếu là phòng ngủ thì không nên thiết kế cửa sổ ngay sát giường ngủ ( tôi cũng sẽ nói cặn kẽ hơn về vấn đề này ở phần Sắp xếp phòng ngủ theo PT. _ Không nên để cửa sổ gần với Bếp ( tôi cũng sẽ nói rõ hơn ở phần Bếp và Phòng ăn trong PT ). _ Không nên thiết kế quá nhiều cửa sổ cho 1 căn nhà, vì như vậy, KHÍ vào nhà sẽ thoát ra nhanh chóng,không có lợi. _ Không nên để cửa sổ đối diện với cửa chính, hãy dung tấm màn vải dày ngăn ở cửa sổ. Phòng ngủ và vấn đề Hôn nhân. Phòng ngủ NCD tôi nhớ có xem 1 đoạn quảng cáo về nệm giường, trong ấy có nói "1/3 cuộc đời của bạn nằm trên giường ngủ". Vâng, nói như thế cũng gần đúng, vì theo tôi thì ít nhất 1/3 cuộc đời mình nằm trên giường ngủ mới đúng. Bởi khi lớn chúng ta ngủ 8 giờ 1 ngày (chiếm 1/3) , nhưng lúc nhỏ chúng ta ngủ 1 ngày hơn 8 giờ cơ mà? Nói như thế để thấy cái tầm quan trọng của cái giường ngủ, hay nói chung là sự quan trọng của 1 phòng ngủ trong cuộc sống hằng ngày. Khi ngủ, chúng ta vừa nghĩ ngơi về thể xác cả về tinh thần. Một giấc ngủ ngon có thể đem lại nhiều hữu ích cho chúng ta,vì khi ta ngủ thì đó là thời gian để cơ thể tái tạo lại năng lượng ta đã tiêu haotrong ngày (do làm việc,suy nghĩ ,lo lắng,cảm xúc....). Ngoài ra, 1 giấc ngủ ngon còn giúp chúng ta tăng cường trí nhớ, tăng cường khả năng tư duy, sáng tạo, giúp chúng ta dễ dàng đưa ra những quyết định sáng suốt hơn dẫn đến thành công hơn trong cuộc sống. Nói đến thiết kế phòng ngủ theo PT,trước tiên,ta hãy xét đến hình thể của phòng ngủ trước.Trong cuộc sống hiện đại ngày nay, rất nhiều nhà khi xây cất,để thuận tiện sinh hoạt ,đã làm thêm phòng tắm và toilet riêng trong phòng ngủ.Và đa số trong những trường hợp này , phòng ngủ sẽ có hình chữ L vì phòng tắm + toilet kế bên. Như vậy, khi đem Bát Quái sơ đồ đặt vào phòng ngủ, nó sẽ bị khuyết ngay 1 hoặc 2 cung. Trong khi chúng ta lo định hướng, thiết kế nhà sao cho hợp PT, thì chính sự tiện lợi không đáng này 1/. Nếu chưa xây, mà muốn làm thêm phòng tắm + toilet trong phòng , thì hãy tính sao cho hình dạng phòng vẫn vuông vắn, đầy đặn, không khuyết góc nào là được. 2/. Nếu đã lỡ làm rồi, thì dúng bình phong chắn ngang để phòng trở lại dạng hình chữ nhật cân đối. Ngoài ra, khi thiết kế phòng ngủ cũng nên lưu ý đến vị trí của phòng ngủ so với căn nhà. Về điều này, có 2 điểm cần lưu ý như sau : 1/. Nếu chia căn nhà ra làm 2 phần tính từ trước ra sau, thì phòng ngủ tránh nằm ở nửa trước của căn nhà. Vì Sinh Khí di chuyển từ ngoài đường vào nhà, nên phần trước sẽ chịu sự dao động mạnh của Khí, khiến giấc ngủ dễ bị xáo trộn. 2/. Tránh làm phòng ngủ dưới 1 mái dốc đáng kể. Vì đó là nơi các luồng Ác Khí trượt đi. Nếu không tránh được thì cũng không nên đặt giường ngủ nơi mái dốc đổ thấp xuống. Ngoài 2 điều trên, vị trí phòng ngủ còn có 1 số điều kiêng kỵ sau : _Phòng ngủ đối diện cửa chính :Nếu vừa bước vào Cửa Cái đã thấy phòng ngủ đối diện ( ý tôi là cửa phòng ngủ cũng quay ra cửa cái ), thì ở trong phòng này : Gia chủ sẽ mất dần hết nghị lực làm việc, hay cảm thấy mệt mõi, và có ý nghĩ về chuyện chăn gối nhiều hơn. _Phòng ngủ nằm dưới xà ngang, xà dọc trên trần : Những cây xà này phát sinh những áp lực rất mạnh đè xuống Sinh Khí đang luân lưu trong phòng. Nếu xà ngang trên giường ngủ thì người ngủ trên đó thường hay bị nhức đầu, dễ bị mất ngủ, ăn khó tiêu. Nếu là xà dọc chia đôi giường ngủ thì càng nguy hiểm hơn cho vợ chồng , vì nó là biểu tượng của sự chia cách, vợ chồng sẽ bất hòa rồi dẫn đến chia ly không xa. _Phòng ngủ không có phòng tắm+toilet nhưng chung vách lại xoay đầu về hướng đó. Cơ thể con người gồm 1 phần lớn là nước, trong trường hợp này, Sinh Khí trong cơ thể sẽ dễ bị sự di chuyển của nước bên phòng tắm cuốn hút đi, tạo nên sự mất quân bình trong cơ thể chúng ta. Sau khi tạm lướt qua về hình dáng, vị trí của phòng ngủ, chúng ta hãy đi sâu vào chi tiết hơn 1 tý. Nguyên tắc đầu tiên và căn bản nhất đối với phòng ngủ là phải thuộc Âm. Vì phòng ngủ là nơi nghĩ ngơi cần sự yên tĩnh, mà Dương thì động, Âm mới là tịnh. Vì đặc tính này , mà người ta hay bảo không nên để tivi, radio, máy hát, máy vi tính...trong phòng ngủ, bởi những thứ này là động; mặt khác, những điện từ trường của chúng sẽ làm nhiễu loạn từ trường trong cơ thể chúng ta làm cho giấc ngủ chúng ta bị gián đoạn. Hãy xem phòng ngủ như 1 vùng không gian thiêng liêng, vì đó là nơi chúng ta trải qua tất cả thời gian trong vô thức, rời khỏi thế giới của thực tại để đi vào những vùng không gian khác. Đừng để phòng ngủ tích tụ năng lượng Âm có hại, có mùi hôi ( Âm Khí này là Tà Khí chứ không phải năng lượng Âm tích cực ) ; hãy bỏ quần áo bẩn vào 1 chỗ gọn gàng,quần áo bẩn chứa Âm Khí nhiều nhất và lan tỏa nhanh nhất. Đừng để đồ đạc linh tinh bên dưới, bên trên hoặc bên cạnh giường ngủ. Đừng biến phòng ngủ thành nơi chứa đồ đạc , vì khi đó, Sinh Khí sẽ bị bế tắc, dồn ép khiến người ngủ trong phòng cảm thấy ngột ngạt, dễ bị chứng mất ngủ. Nói đến PT phòng ngủ là không thể không nói đến vị trí đặt giường. Bởi đó mới chính là nơi chúng ta trực tiếp nằm lên mà. Về vị trí đặt giường thì nó theo 1 số nguyên tắc cơ bản : 1/. Giường ngủ phải luôn nhìn ra cửa, hãy đặt giường ngủ làm sao để người nằm trên giường luôn thấy được cửa phòng. 2/. Giường ngủ ĐẠI KỴ đặt trực diện với cửa phòng. Vì nơi đây, Sinh Khí mới vào phòng sẽ rất mạnh, làm chúng ta mất ngủ. Mặt khác, theo người HOA, thì chỉ có......quan tài mới đặt trực diện cửa như vậy. 3/. Giường ngủ phải đặt đúng hướng tốt của người nằm trên đó. Hướng tốt nhất cho giường ngủ là hướng Sinh Khí ( Xin xem ở trên để biết ). Nếu không được, thì chọn 1 trong 3 hướng trên cũng đủ tốt. 4/. Giường ngủ tránh đặt quay đầu ra cửa sổ. Nếu không thể dời giường sang nơi khác thì hãy : Đóng cửa sổ đó lại và thả rèm cửa dầy luôn. đã vô tình phá hỏng các bước tốt đẹp bên ngoài. Cho nên, lời khuyên của tôi cho trường hợp này có 2 cách : Hôn nhân & Tình yêu trong Phòng ngủSở dĩ NCD tôi tách biệt nó ra, không đưa những nguyên tắc, những cấm kỵ của phần này nhập chung vào phần thiết kế phòng ngủ , là vì tôi muốn nhấn mạnh hơn cho các anh chị, các bạn nào đã lập gia đình, hoặc có ý tìm người bạn đời , để dễ nhớ hơn, không bị các nguyên tắc, các cấm kỵ trên kia làm rối tung lên. PHÒNG NGỦ VỢ CHỒNG : Để có được 1 cuộc sống vợ chồng hòa hợp, hạnh phúc chỉ cần các anh chị , các bạn thực hiện những điều đơn giản sau : _Những năm đầu sau khi cưới : Nên trang trí phòng ngủ bằng màu ĐỎ. Nếu e màu Đỏ quá mạnh (khi tuổi của 2 vợ chồng đã là Mạng Hỏa ) , thì hãy dùng màu HỒNG. Gam mau này là gam màu nóng , thuộc Dương, tại sao lại xài được trong phòng ngủ? Xin thưa, vì đây là dùng cho vợ chồng còn trẻ, vợ chồng son mới cưới mà. Màu ĐỎ tạo ra cảm xúc mạnh mẽ về Tình Dục, và năng lượng Dương của nó sẽ đem lại vận may cho sự hợp nhất. Đây là điều vì sao mà người HOA luôn dùng màu ĐỎ trang trí phòng cưới đấy ! Tấm drap trải giường nên màu trắng là tốt nhất, không nên dùng màu xanh dương, nó sẽ làm nguội lạnh tình cảm đôi vợ chồng trẻ. Tuy nhiên, thảm và sơn tường thì màu xanh dương lại tốt. _Đừng mang cây và hoa thật vào phòng ngủ : Ngược lại, trái cây thì tốt. Đặc biệt là quả LỰU , vì nó là biểu tượng của sự sung mãn. _Đặt những ngọn đèn nhỏ màu đỏ trong phòng : Nên nhớ chỉ là những bóng đèn nhỏ thôi. Nó tăng cường sự đam mê và sung mãn. _Nên treo tranh ảnh trẻ em và trái cây chín : Đây là những biểu tượng mang ý nghĩa tượng trưng cho kết quả của việc hợp nhất tốt đẹp. _ĐẠI KỴ để biểu tượng hành Thủy trong phòng ngủ , như bồn cá, bồn rửa mặt, tranh sông biển....vv...Vì sự có mặt của nước ở đây sẽ tạo ra sự mất mát tiền bạc và người thân. _ĐẠI KỴ đặt hoa Mẫu Đơn ( kể cả tranh hoa Mẫu Đơn ) trong phòng ngủ vợ chồng , vì nó khiến người đàn ông có thói trăng hoa , và chắc chắn sẽ ngoại tình !!! _ĐẠI KỴ có nước ở bên phải phòng ngủ ( hay ở bên phải nhà ) , vì nó cũng khiến người chồng ngoại tình, và .....lập "phòng nhì" ở bên ngoài !!! _ĐẠI KỴ đặt giường dưới cây xà ( đà ) dọc, mà nó chia đôi giường theo chiều dọc. Đây cũng là biểu tượng của sự chia ly đối với vợ chồng. _ĐẠI KỴ đặt gương soi trong phòng ngủ , nhất là khi nó rọi vào giường. Về mặt sức khoẻ, khi chúng ta ngủ thì từ trường trong cơ thể chúng ta xuống thấp, gương sẽ hút thêm nữa, khiến chúng ta ngủ dậy sẽ rất mệt. Về phương diện tình cảm , gương soi tạo ra hình ảnh người thứ 3 , nó khiến cho 1 trong 2 người sẽ ngoại tình. _Phòng ngủ ở phía Bắc của nhà, sẽ không thích hợp với tuổi trẻ hoặc những cặp vợ chồng son. Người ngủ trong phòng này lâu ngày sẽ trở nên bi quan, yếm thế, thích sống tịch mịch, cô đơn 1 mình thôi ; cho nên không thích hợp cho vợ chồng ngủ. _Nếu thích chưng hoa hồng trong nhà, nên cắt hết gai nhọn của nó. _Nếu sử dụng giường đôi , ĐẠI KỴ dùng 2 tấm nệm ghép lại , vì nó tượng trưng cho sự chia cách. _NÊN treo tranh đôi uyên ương ở góc Tây Nam của nhà-của phòng ngủ ; hoặc đặt 1 đôi uyên ương bằng sành sứ trong phòng. Nhưng nếu nó bị bể, vỡ 1 con thì nên thay cả 1 cặp. Không nên chưng 3 con ! hay là số lẻ. _ Dùng những biểu tượng và những biện pháp chuyên môn khác để tăng cường năng lượng cho cung Tình Duyên ở Tây Nam. PHÒNG NGỦ NHỮNG NGƯỜI CHƯA LẬP GIA ĐÌNH : _ Nếu bạn nữ nào còn độc thân muốn tìm ý trung nhân nên dùng biểu tượng, hình vẽ, hoặc hoa Mẫu Đơn thật trong phòng ngủ. Vì nó là biểu hiện của người phụ nữ đa tình nên không thích hợp cho phụ nữ có chồng, nhưng với các cô gái thì đây là 1 biểu tượng tốt, rất tốt nữa là khác. Hãy để biểu tượng này ở góc Tây Nam của nhà, và cả góc Tây Nam của phòng ngủ. _ Hãy đeo đồ trang sức có biểu tượng Song Hỷ. _ Đặt biểu tượng đôi Uyên Ương, đôi Vịt Bắc Kinh ở góc Tây Nam nhà, và cả góc Tây Nam của phòng ngủ. _ Đặt giường ngủ quay đầu về hướng Diên Niên. _ Đặt 1 tấm gương soi gần cửa sổ làm sao để ánh trăng phản chiếu vào nó soi vào phòng. Năng lượng cực Âm của Mặt Trăng sẽ đem lại hạnh phúc cho bạn !!! _ Vào những đêm trăng sáng như RẰM chẳng hạn, hoặc những đêm Trăng Non , bạn hãy tắm mình trong năng lượng Thái Âm huyền diệu của Mặt Trăng !!! BẾP và các vị trí đặt BẾP * * * * Nói đến BẾP,nhiều người vẫn lầm lẫn 1 cách tai hại,nhân đây, NCD xin nói rõ rằng : hướng BẾP và Miệng lò.....hoàn toàn không phải là 1 ! Hướng BẾP là : Mép , bìa của khuôn đặt BẾP,nó đối diện trực tiếp với mặt người nấu tức là Táo khẩu. Miệng lò là : Chỗ đưa củi vào đốt, hay nói cách khác , đó chính là Hỏa môn. Có danh từ Táo khẩu vì : Bếp xưa kia có đóng khung 4 bên vách, vách ở Hướng Bếp được cắt đôi, chừa 1 khoảng trống để quét tro, than trên mặt khuôn bếp ra cho sạch sẽ. Chỗ đó làm thành cái Miệng của Bếp nên gọi là Táo khẩu. Cho nên Táo khẩu xác định Hướng bếp BẾP ngày nay không có đóng khung 4 vách,chỉ là 1 tấm bê-tông để đặt Lò,Bếp gaz lên nấu nướng thôi. Vậy thì : Hướng bếp là bìa đối nghịch với lưng Bếp. BẾP là nơi nấu nướng thức ăn để nuôi dưỡng chúng ta , nên có thể nói BẾP hút dưỡng chất trong không khí vào để giúp lửa cháy. Do đó, nếu Hỏa môn hút những trược khí, nghịch hay ác khí, tất sẽ đem lại những ảnh hưởng tai hại. Cũng ví như ta hút những chất độc hại đó vào thức ăn vậy. Cho nên, Hỏa môn phải thuận hợp cung mạng của Trạch chủ. Mặt sau của BẾP là nơi Hỏa khí thịnh vượng, vì sức lửa cháy dồn tới mà, cho nên nó có tác dụng trấn áp hung hại, cần xoay mặt sau về hướng xấu. Mặt trước của Bếp ( trước Hỏa môn và Hướng bếp ) không nên trực diện với nhà xí, nhà tắm, nơi có uế khí, bồn chứa nước, bồn rửa mặt,sàn rửa chén bát,lu nước, giếng nước. Vì Thủy Hỏa tương khắc nên nếu là Nước thì trong nhà sẽ gây gỗ , cải vã ; còn nếu là ô uế thì sẽ bệnh đau. Trước BẾP và trước trang thờ Ông Táo không nên làm phòng ngủ hay để giường ngủ vì sẽ khiến người nằm ở đó đau tim, đau ngực, con cháu không lương thiện, gia đạo bị phá tán, tai nạn liên miên. Không nên để Hỏa môn xoay ra phía cửa, đây là điều đại kỵ trong PT với BẾP , nó là "Khai môn đối Táo, tài súc đa hao ". Không nên trổ cửa sổ hướng Tây trong nhà Bếp. Nghe có vẻ phi lý, nhưng theo NCD nghĩ có lẽ thuyết này có từ suy nghĩ : nắng chiều tuy nhàn nhạt nhưng rất nóng, không mở cửa sổ ở đây là tránh ánh nắng chiếu rọi vào làm thức ăn dễ ôi thiu thôi. Không nên đào hầm hố ngay trước Bếp, nếu có nước thì càng nguy , nó gây nên hư mắt, bệnh tật, xảy ra nhiều việc quái đản. Không nên để BẾP và Giếng nước, hồ -lu nước liền kế bên nhau : Mẹ chồng - nàng dâu bất hòa. BẾP đặt trên đường nước, hầm nước : gia đạo ly tán, bất hòa. Phòng ngủ và Hầm nước trước BẾP : Cô quả , tuyệt tự. 2 bên Bếp gaz có vòi nước là quẻ LY, tối kỵ. Vòi nước ở giữa, 2 bên là 2 bếp gaz , quẻ Khảm, được. ĐẠI KỴ để BẾP nằm dưới giường ngủ ở tầng trên. Không nên để mặt sau của BẾP hướng về chuồng gia súc : gia súc tiêu hao ; hướng về phòng ngủ : bệnh đau, tai nạn. Về Hỏa môn, nên xoay theo 1 trong 4 hướng tốt của gia chủ và Du niên tốt của BẾP với Quái số của gia chủ sẽ có thể hóa giải Hướng nhà xấu. VD : Gia chủ có quái số là 1 - cung KHẢM Cửa cái nhà là hướng KHÔN KHẢM_ KHÔN biến du niên TUYỆT MẠNG. Dùng Hỏa môn hướng về CHẤN. Ta sẽ có : KHẢM _ CHẤN biến du niên THIÊN Y đủ sức hóa giải TUYỆT MẠNG. Về Hỏa môn hóa giải Hướng nhà xấu, có 3 trường hợp hóa giải đối với 3 hướng xấu nhất , xin hãy nhớ kỹ : _ Sanh Khí giáng Ngũ Quỷ _ Thiên Y chế Tuyệt Mạng _ Diên Niên yểm Lục Sát Ngoài ra, khi xoay hướng Hỏa Môn, cần lưu ý điểm sau : Xét 3 cung : Hỏa môn _ Cửa cái _ Quái số của gia chủ xem có rơi vào thuần Dương hay thuần Âm không. Vì theo Dịch lý "Cô Dương bất trưởng _ Độc Âm bất sinh ". Và đây là bảng phân biệt Âm Dương của 8 cung _ Các cung DƯƠNG : CÀN _KHẢM _ CẤN _ CHẤN _ Các cung ÂM : TỐN _ LY _ KHÔN _ ĐOÀI Nếu cung Mệnh gia chủ đã là Dương, gặp cửa cái cũng thuộc Dương, thì ta nên tìm Hỏa môn thuộc Âm Đấy là kinh nghiệm của người đi xem nhà. Nếu để rơi vào trường hợp Cô Dương hay Độc Âm : Ở lâu nhà đó sẽ TUYỆT TỰ. Nếu gia chủ kém phúc thì chỉ trong 1 đời , chậm thì cũng chỉ tối đa là đến đời thứ 3 ,là nhà dần không còn con trai nối dõi, phụ nữ chấp trưởng trong nhà. http://www.nhantrachoc.net.vn/nthportal/fo...add&p=13621BẾP ở giữa mái hiên mà 2 đầu không có cột : Chỉ sống nhờ người khác Có xưởng lớn trước Cửa Bếp thì tán tài. BẾP ở trước cửa : Bị Hỏa tai hay có bịnh về máu huyết. BẾP ở liền với cối giã gạo : Có người trong nhà thắt cổ hay tự trầm. Trước Cửa Bếp có khối đá chắn ngang : Trẻ con nhiều bệnh. BẾP và Giếng cùng 1 hành lang : Con dâu và con gái lục đục. BẾP đối diện với chuồng gà : Sinh chuyện dâm dục bị chê cười. BẾP đặt phương NGỌ : Thường bị Hỏa tai và đau Mắt ( bởi NGỌ là thuộc LY Hỏa , nên Hỏa càng vượng , mà Hỏa vượng thì Mắt mờ _ theo y khoa ). Sau BẾP mở cửa sổ sáng láng : Tiêu hao tiền của. Trước sau tả hữu BẾP có cửa mở xông vào : Bị thưa kiện tán tài. BẾP đặt ở chỗ mọi người đều trông thấy : Tán tài. BẾP đặt ở hướng Đông Bắc : Bị Thủy tai hoặc trộm cướp. Cửa Bếp thông với Cửa Buồng : Bị bệnh thổ huyết. Vị trí đặt BẾP : Như đã nói ở trên,BẾP nên đặt ở Hung phương nhằm trấn áp Hung khí, Tà khí ở đó. Còn Hỏa môn thì xoay 1 trong 4 hướng tốt, thuận hợp với Quái số của gia chủ. Vậy thì,nếu BẾP đặt đúng vị trí thì có ích lợi gì? đặt sai vị trí thì bị hung hại gì? Đây là 8 vị trí đặt BẾP ở các hướng trong nhà và ảnh hưởng của nó : 1/. BẾP đặt tại cung Sanh Khí của gia chủ : thì phụ nữ sinh quái thai hoặc hư thai, hay không đẻ được, hoặc có con mà không thông minh ; không được tài lộc, điền địa ; lục súc tổn hại. 2/. BẾP đặt tại cung Diên Niên của gia chủ : thì không thọ ; hôn nhân không thành , nếu đã có gia đình thì vợ chồng bất hòa hợp ; tốn của ; hao người ; bệnh hoạn ; cùng quẩn. 3/. BẾP đặt tại cung Thiên Y của gia chủ : thì lâm bệnh nặng , thân thể ốm yếu , phục thuốc thang lâu khỏi. 4/. BẾP đặt tại cung Phục Vì của gia chủ : thì vô tài ; vô thọ ; suốt đời nghèo khổ. 5/. BẾP đặt tại cung Tuyệt Mạng của gia chủ : thì không bệnh tật,tăng thọ , phát tài , nhiều con , tìm được gia nô , không bị Hỏa tai. 6/. BẾP đặt tại cung Lục Sát của gia chủ : thì phát cả Đinh lẫn Tài (là người lẫn của),vô bệnh tật,vô kiện cáo,vô Hỏa tai,cửa nhà yên ổn. 7/. BẾP đặt tại cung Ngũ Quỷ của gia chủ : thì vô Hỏa tai,vô đạo tặc(không trộm cướp),gia nô(người giúp việc) trung thành-cần mẫn-đắc lực,vô bệnh hoạn , phát tài, lục súc thịnh vượng. 8/. BẾP đặt tại cung Họa Hại của gia chủ : thì bất thoái tài, bất thương nhân(là không hao tổn tiền của,không hại người),vô bệnh hoạn,vô kiện tụng. Ngoài ra, trong việc đặt vị trí BẾP , khoa PT còn tính chi li hơn khi tính đến vị trí của từng SƠN. Đọc đến đây là các anh chị, các bạn đã tiến thêm 1 bước nữa vào khoa PT, vì bây giờ không chỉ nói đến 8 hướng BQ căn bản nữa, mà mỗi hướng BQ lại chia ra 3 SƠN nhỏ trong đó nữa. Cụ thể như sau : _CÀN gồm 3 SƠN : TUẤT-CÀN-HỢI. _KHẢM ................ : NHÂM-TÝ-QUÝ. _CẤN ................ : SỬU-CẤN-DẦN. _CHẤN ................ : GIÁP-MẸO-ẤT. _TỐN ................ : THÌN-TỐN-Tỵ . _LY ................. : BÍNH-NGỌ-ĐINH. _KHÔN ................ : MÙI-KHÔN-THÂN. _ĐOÀI ................ : CANH-DẬU-TÂN. Đến đây, hẳn các anh chị , các bạn có thể thấy những tên gọi này hơi quen quen phải không? Xin thưa, trở ngược lên trên quý vị sẽ thấy ngay hình vòng tròn BQ có 24 SƠN này, và không chỉ thế, nó còn có thêm các chấm tròn trắng hoặc đen ngay kế bên nữa. Rất dễ xác định SƠN nào tốt để đặt BẾP , xin cứ chọn những ô có chấm tròn trắng là Cát, đen là Hung. Và NCD xin đăng luôn 1 bài thiệu để các anh chị, các bạn dễ nhớ : Táo (tức là BẾP đấy quý vị) nhập CÀN cung thị diệt môn ( thế nào cũng chết người ) NHÂM-HỢI nhị vị tổn nhi tôn ( là hại con cháu ) GIÁP-DẦN đắc tài , THÌN-MẸO phú ẤT-CẤN tao(là tao ngộ ) Hỏa tất tai ôn ( là gặp tai họa, bệnh tật ). TÝ-QUÝ-KHÔN cung gia bần khốn (là nhà nghèo khổ,nạn tai liên miên ). SỬU thương lục súc, phúc nan tồn( khó nuôi súc vật, phúc đức tiêu hết ). TỴ-BÍNH ích tàm , CANH đại cát ( ích tàm là lợi về nuôi tằm,dệt vải ). Nhược phùng NGỌ vị vượng nhi tôn ( nhiều con cháu ). TÂN-DẬU-ĐINH phương đa tật bệnh ( nhiều bệnh tật ). TỐN-THÂN-MÙI-TUẤT trạch hanh xương ( hanh thông, thuận lợi mọi việc ). CẦU TỬ bí pháp : Cầu tử ở đây là cầu con đấy, xin đừng hiểu lầm là chữ Tử kia thì phiền lắm đa ! Theo các " tiền bối " xưa thì có 2 cách , nhưng qua kinh nghiệm đi xem của tôi, thì thấy cách thứ 2 ứng nghiệm xác suất cao hơn. Tuy nhiên, tôi cũng ghi ra đây cả 2 cách để các anh chị, các bạn tham khảo và thử xem : 1/. Đặt BẾP trấn tại Hung phương của gia chủ và Hỏa môn xoay hướng SANH KHÍ sẽ sớm sinh quý tử. 2/. Đặt BẾP trấn tại Hung phương và Hỏa môn xoay hướng PHỤC VÌ của gia chủ, đến năm sao THIÊN ẤT QUÝ NHÂN chiếu đến cung này sẽ ứng nghiệm ngay. Thế sao THIÊN ẤT QUÝ NHÂN là gì? Đó là sao Nhị Hắc đấy, là sao số 2 đó quý vị. Còn cách tính đường đi của sao đây : Muốn hiểu được phần này, xin quý vi chịu khó xem qua phần bài KINH DỊCH....của chị NHDT , trong đó có đoạn vẽ các ô vuông LẠC THƯ. Ở đây tôi không vẽ được, chắc phải nhờ chị NHDT ra tay nghĩa hiệp rồi , chỉ xin ghi các số thành từng hàng để giải thích với quý vị vậy : 4 9 2 tốn ly khôn 3 5 7 chấn trung đoài 8 1 6 cấn khảm càn Ở đây tôi không muốn đi sâu vào phần nguồn gốc các ô vuông này ( bởi nó đã có trong bài của chị NHDT _KINH DỊCH.....) , chỉ nói về đường di chuyển của các sao. Xin quý vị lưu ý cho , phần tính đường đi của các sao này rất quan trọng. Luôn luôn khởi từ Trung cung (cung giửa) và kế đến là ô số 6 , rồi 7, rồi 8...cho đến số 4, rồi quay lại Trung cung, cứ thế mà di chuyển.Để cho dễ nhớ , quý vị hãy thuộc làu thứ tự sau : Nhất KHẢM - Nhì KHÔN - Tam CHẤN- Tứ TỐN -Ngũ TRUNG- Lục CÀN- Thất ĐOÀI- Bát CẤN- Cửu LY. Đó là ô vuông căn bản, nếu ô giửa không phải là số 5 thì cũng vậy, đường di chuyển cũng vậy, và các số cứ tăng dần như thế. Ví dụ : Cho số 8 vào giửa chẳng hạn , ô vuông lúc đó sẽ thành thế này sau khi di chuyển các SAO 7 3 5 Vì sao số 8 ở giửa nên sao số 9 di chuyển xuống theo thứ tự đến ô góc TB và an ở đó ; kế số 9 là số 1 sẽ di 6 8 1 chuyển theo đường như vậy lên an ở ô hướng tây... cứ vậy mà di chuyển.Khi quý vị đã nhó đường đi của 2 4 9 ô vuông Lạc Thư rồi thì rất dễ , bước đầu có hơi khó 1 tí, nhưng xin hãy cố mà nhớ đường đi này của các Sao, vì sau này nó ứng dụng rất nhiều trong việc hỗ trợ chúng ta bằng PT. Xin trở lại với Sao THIÊN ẤT kia, như đã nói nó là sao số 2. Vậy bây giờ, giả sử gia chủ có quái số là 8 chẳng hạn. Ta xoay Hỏa môn hướng Phục vì tức là xoay hướng cung CẤN Xem hình căn bản, ta thầy để đi đến cung này, từ trung cung phải đếm tới 3 cung nữa. Bây giờ , điều ta cần là số 2 ở đó, tức là : số 1 ở Đoài , số 9 ở CÀN , số 8 ở giữa. Vậy khi nào số 8 ở giữa ? Con số ở giửa là con số của Sao chủ tinh năm đó. Vậy làm sao tìm Sao chủ tinh của năm ? Xin mách các anh chị, các bạn 1 cách tìm cực kỳ nhanh khỏi cần phải tra sách do NCD để ý thấy : Xin tính Quái số của Nam năm cần tìm, thì đó là Sao chủ năm đó Ví dụ : Năm 1987 , tìm xem Sao chủ năm đó là gì nhé , ta tính y như tìm Quái số 8+7=15 1+5=6 10-6=4 Vậy năm đó Sao số 4 nằm ở Trung cung.Đưa số 4 vào giửa rồi di chuyển các sao, ta sẽ có 9 ô vuông năm đó là: 3 8 1 2 4 6 7 9 5 Ví dụ nữa ở thời điểm năm sau đi : năm 2008 0+8=8 vì sau năm 2000 nên lấy 9 trừ đi thôi, xin đừng quên ! 9-8=1 vậy Sao chủ tinh của năm nay là số 1, hay nói cách khác, năm 2008 số 1 nằm ở trung cung Nhập số 1 vào giửa rồi di chuyển theo hướng đi căn bản ở trên, ta có 9 ô sau : 9 5 7 8 1 3 4 6 2 Vậy sang năm sau số 2 cần tìm nằm ở cung CÀN Có nghĩa là những ai có quái số là 6, xoay Hỏa môn hướng TB, sang năm sẽ sinh con( wao, dĩ nhiên ở đây là NCD nói những ai có gia đình và muốn có con đó nghen ! Chứ những người không có gia đình mà hỏi cắc cớ là tội NCD lắm; hay là có gia đình mà chưa muốn có con, đi kế hoạch thì làm sao có con được?! Cái gì cũng phải hợp lý phải không quý vị? ) ừm, cái vụ này rắc rối quá, thôi thư giản chút vậy. NCD xin chỉ vụ này dễ hơn và tin rằng ai cũng muốn biết, đó là Cầu Tài bí pháp Cái này thì rất đơn giản, chỉ cần đặt BẾP trấn Hung phương, Hỏa môn xoay hướng Diên Niên, thế là....xong ! đơn giản không quý vị? Dĩ nhiên, bất cứ làm việc gì trong khoa PT này cũng cần xem ngày giờ , và đó là điều...QUAN TRỌNG NHẤT !!! Phòng tắm và Nhà vệ sinh 1/. Phòng tắm không nên ở cuối 1 hành lang dài : Lối đi sẽ lùa luồng khí di chuyển nhanh trở thành Ác Khí, qua cửa Phòng tắm , làm thương tổn các vấn đề nội tạng, cũng như sự sáng tạo của các thành viên trong nhà. 2/. Tránh làm Phòng tắm chung vách hoặc đối diện với Phòng ngủ, nếu có đối diện thì nên tránh làm 2 cửa đối diện . Nhưng nếu làm Toilet chung với nó thì tốt nhất nên tránh đi. 3/. Tránh 2 cửa Phòng tắm đối diện nhau: những người cư ngụ ở đó thường có cảm giác bệnh tật chạy dọc theo đường trung tâm cơ thể của họ ,hoặc phải chịu đau đớn của cơ thể , và các vấn đề về tài chánh sẽ suy giảm. 4/. Phòng tắm không nên làm 2 cửa : Vì Phòng tắm là nơi tập trung nguồn nước nhiều nhất _ mà theo quan niệm PT, nước là biểu tượng của tiền bạc _ nếu 2 cửa , thì lợi nhuận sẽ tuôn chảy mất hết. 5/. Phòng tắm và Toilet đối diện cửa chính : nghĩa là vừa bước vào cửa đã thấy ngay Phòng tắm hay Toilet . Ở vị trí này , Sinh Khí mới chuyển vào nhà , đã bị Phòng tắm và Toilet cuốn trôi đi hết. 6/. Phòng tắm và Toilet đối diện với nhà Bếp hoặc ở trong nhà bếp : Trường hợp này thường thấy ở những nơi diện tích nhà nhỏ hẹp, hay ở 1 số nhà hàng nhỏ ở VN ta . Về mặt khoa học . Bếp và Toilet gần nhau là điều mất vệ sinh . Về PT , Bếp là Hỏa ,Toilet là Thủy , nếu Thủy vượng tất Hỏa phải tắt. Hỏa tắt thì Bếp nguội lạnh. Một căn nhà mà Bếp nguội lạnh là điều không tốt rồi , huống hồ là 1 tiệm ăn, 1 nhà hàng , sẽ vắng khách là điều tất nhiên. 7/. Phòng tắm hay Toilet quá nhỏ : Có nhiều người suy nghĩ được nhiều điều hay, giải quyết được nhiều vấn đề, hoặc có những sáng kiến mới lạ, là cũng ngay trong những giây phút riêng tư trong Phòng tắm hay Toilet. Bởi vậy, nếu Phòng tắm hay Toilet quá nhỏ , sẽ giới hạn Sinh Khí vào nơi này . Cũng có nghĩa là giới hạn sự suy nghĩ và sáng tạo của những người có thói quen như vậy . Nhưng điều trở ngại chính là Sinh Khí vào đây gặp không gian tù túng sẽ khó luân lưu , Khí bị tù hãm , từ Sinh Khí sẽ thành Ác Khí. 8/.Phòng tắm và Toilet tối kỵ nền cao hơn nền Phòng ngủ 9/. Phòng tắm riêng thì không nên to rộng quá : Nó tạo cảm giác lạnh lẽo , thiếu sự kín đáo , nghiêm túc , khiến người tắm hay có cảm giác bất an. 10/. ĐẠI KỴ đặt Phòng tắm hay Toilet ở Đông Nam hoặc Tây Nam : Như đã nói ở các phần trước, góc Đông Nam là cung TÀI LỘC , góc Tây Nam là cung TÌNH DUYÊN và HÔN NHÂN . Như vậy, mỗi lần chúng ta tắm hay giật nước bồn cầu là mỗi lần sinh Khí bị cuốn trôi. Đó cũng có nghĩa là những may mắn, tiền bạc, Tình yêu, hạnh phúc gia đình sẽ bị cuốn trôi theo dòng nước. Đấy là trường hợp nhà ở đô thị, Phòng tắm và Toilet ở hẳn trong nhà. Ở vùng nông thôn , các nhà VS thường được làm riêng bên ngoài . Tuy nhiên , dù có làm ở trong hay ngoài thì nó vẫn theo 1 số điều căn bản bắt buộc : _Nhà VS không nên đặt ở 2 phương Bắc và Đông Bắc: thường khiến Nam, Nữ chủ nhân mắc bệnh động mạch xơ cứng, gan cứng, mật kết sỏi, đi lỵ , đau dạ dầy , đại tiện bí, ăn bị trúng độc , khí huyết không lưu thông. Với người già thì sức khoẻ càng không tốt . Nếu quý vị nhận thấy bị đau lưng dai dẳng, thường ruột hay bị bệnh thì hãy kiểm tra nhà xí. Chắc chắn nhà xí ở đó đã có vấn đề không hợp. Nếu đã lỡ đặt nhà xí tại đây và không thể dời được , thì hãy xoay hướng bàn cầu lại, tránh đặt ở 15 độ của cung TÝ , và 15 độ của cung SỬU và thêm cách Hóa giải Tà Khí ( nếu quý vị nào cần biết, xin sang hỏi ở mục PT_ giải đáp thắc mắc , NCd sẽ chỉ cho . Còn trong phạm vi bài viết này, NCd chỉ giới thiệu những bước căn bản của việc đặt Phòng tắm và Nhà Vs thôi ). _ Nhà VS nên tránh đặt ở những cung địa chi trong 24 SƠN đã nói ở phần trước, vì sẽ phạm phải Thái Tuế vào những năm trùng tên với địa chi ấy, hoặc 6 năm sau phạm Tuế Phá. Ví dụ : đặt Toilet ở cung SỬU chẳng hạn Đến năm SỬU , sẽ phạm Thái Tuế . 6 năm sau , đến năm MÙI , sẽ bị phạm Tuế Phá. Đó là lý do vì sao ở trên NCD khuyên nên tránh 2 cung TÝ và SỬU. _ Nhà VS nên đặt ở những nơi nghịch với nhóm Quái số của gia chủ. Ví dụ : Gia chủ có Quái số là 4 _ cung Đoài. Thì nên tránh đặt Toilet trấn ngay cung Đoài. Nhà VS mà đặt nơi Sinh phương tức là phá vỡ Cát tinh , rất bất lợi. _Nhà VS ĐẠI KỴ an tại trung cung ( kể cả hầm cầu ). Đây là cách cục XÚ UẾ NHẬP TRUNG CUNG _ cực kỳ xấu về mặt PT. Ngoài những điều căn bản nói trên , NCD xin nhắc các anh chị, các bạn thêm 3 điểm nữa : _ Trong nhà , nếu có bất kỳ vòi nước , ống nước nào bị rò rĩ, xin hãy sửa hoặc thay ngay Bởi Nước là Tiền mà ! Để nước chảy rỉ rả như thế là hiện tượng thất thoát,hao tổn tài sản, tiền của đấy ! _ Hãy làm sạch vùng không gian Phòng tắm và Toilet : Hãy dẹp bỏ những thứ gây bề bộn trong phòng tắm như : Giỏ rác đầy ứ , chai lọ hoặc ống kem đánh răng rỗng, đĩa đựng xà bông không cần thiết , thuốc hết hạn sử dụng , mỹ phẩm khuyến mãi....không dùng đến , dầu tắm và nước hoa....không bao giờ dùng....vv.. Tất cả những thứ này đều là những thứ có thể tích tụ năng lượng Âm xấu, gây hại cho ta. _ Nhiều người cho rằng để xóa ảnh hưởng xấu của toilet thì nên trang trí Toilet bằng tranh ảnh , chưng hoa trong đó. Nhưng theo NCD , xin khuyên các anh chị, các bạn đừng nên. Vừa lãng phí, vừa vô bổ không ích lợi gì , nếu không muốn nói là còn gây hại. Xin quý vị hãy cẩn thận ! Phòng khách Nói đến PT , điều đầu tiên mà người ta cần khảo sát có lẽ phải là Cảnh quan môi trường xung quanh nhà và khu đất , kế đến là định Sơn Hướng thuận hợp với gia chủ. Còn về bố trí trong nội thất thì bước vào nhà đầu tiên là phòng khách mới đến các phòng khác . Thế tại sao NCD tôi lại không nói 2 phần đầu tiên của bên ngoài &bên trong ngôi nhà trước mà lại nói sau? Xin thưa rằng vì phần này chính vì nó quan trọng nên NCD mới nói sau , bởi phòng khách khác các phòng Bếp , phòng ngủ , phòng tắm...ở chỗ nó còn kèm theo vài yếu tố khác nữa. Tỷ như bố trí ghế salon, màu sắc tường, tranh treo trang trí, rồi bàn trà, thảm trải,.....vv... Chính vì nó nhiều yếu tố đi kèm nên NCD tôi mới tách nó ra sau . Cũng như ,với cảnh quan bên ngoài nhà cũng có quá nhiều yếu tố kèm theo như : Đường đi lối lại , cây cối , Xung sát , sông ngòi hay núi non, các nhà láng giềng....vv...nên NCD cũng phải tách ra sau thôi . Mong các anh chị , các bạn thông cảm nhé ! A/. Màu sắc của Phòng khách : Muốn chọn màu sắc thích hợp với PT , đem lại điều tốt cho gia đình , trước hết là phải biết phương hướng của Phòng khách , sau đó chọn màu sắc theo Ngũ Hành. Có 1 điều mà nhiều người hay bị lầm khi xác định vị trí Phòng khách , đó là xem hướng nhà là hướng của Phòng Khách . Thật ra hướng của Phòng Khách chính là hướng của.....Cửa sổ Phòng Khách . Cửa sổ mở về hướng Đông thì Phòng Khách thuộc về hướng Đông , cửa sổ mở về hướng Tây thì Phòng Khách thuộc về hướng Tây.....vv.... _ Phòng Khách hướng Đông : Để chọn màu sắc thích hợp cho Phòng Khách hướng Đông , PT học lập luận như sau : Phương Đông Chấn thuộc Mộc , khí Mộc rất vượng . Theo Dịch Lý thì Mộc khắc Thổ sẽ sinh tài lộc ( vì Thổ là hào Thê Tài của Mộc ) Do đó , chọn màu vàng hoặc màu cafe sữa làm màu chủ cho Phòng Khách. _ phòng Khách hướng Nam : Phương Nam thuộc Hỏa , khí của Hỏa rất vượng . Hỏa khắc Kim sẽ sinh Tài Lộc . Đại biểu cho kim là màu Trắng, màu tro nhạt. _ Phòng Khách hướng Tây : Phương Tây thuộc Kim , khí của Kim rất vượng. Kim khắc Mộc sinh Tài lộc . Đại biểu cho Mộc là màu xanh, lục . Người ta chọn màu xanh lục làm màu chủ cho tường Phòng Khách, salon, thảm trải sàn nhà. Tương tự như vậy , ta có : _ Phòng Khách hướng Đông Nam : Màu vàng , màu cafe sữa. _............................ Tây Nam : Màu lam, màu xanh dương. _ ........................... Tây Bắc : Màu lục, xanh lá. _ ........................... Đông Bắc : Màu lam , màu xanh dương. _ ........................... Bắc : Màu hồng , màu tím, màu đỏ, màu hồng phấn. B/. Phương vị thích hợp bố trí salon : Ghế ngồi ở PK, người VN ta quen gọi theo tiếng Pháp là Salon. Thông thường chủ nhà muốn chọn màu sắc , kiểu dáng và bố trí như thế nào tùy theo thị hiếu & sở thích của mình. Nhưng theo PT học, ghế salon ngoài việc là chỗ tiếp khch1, còn là chỗ mọi người trong gia đình ngồi quây quần trò chuyện hoặc nghĩ ngơi.... là nơi trung tâm sinh hoạt của gia đình . Do đó , phải đặc biệt lưu ý : khi mua sắm nên chọn lựa màu sắc thích hợp với hướng của PK, như đã nói ở trên. Ngoài ra , phải bố trí ghế salon ở những nơi thích hợp thì mới tốt. 1_Salon phải bố trí ở phươpng vị tốt : Do ảnh hưởng của salon như đã nói ở trên, nên phải bố trí ở phương tốt gọi là Cát phương. Cát phương là nơi Vượng khí , bảo đảm sức khoẻ và sự thư thái,cát lợi cho người ngồi. Việc tìm Cát phương rất đơn giản , theo nguyên tắc xét nhà TỌA ở Đông Tứ Trạch hay Tây Tứ Trạch , hễ nhà TỌA ở 1 trong 4 hướng Đ _ N _ B _ Đ N là nhà Đông Tứ Trạch ; nhà mà TỌA ở 1 trong 4 hướng ĐB _ TN _TB _ T là nhà thuộc Tây Tứ Trạch . Hay nói cách đơn giản hơn , như các phần trước đã đề cập , xét nhà TỌA ở hướng Quái số nào thì chọn hướng hợp với Quái số đó mà đặt salon vậy . Tuy vậy rồi , nhưng nhà TỌA khác nhau, tất vị trí đặt salon cũng phải khác. Theo PT , thì hướng tốt nhất của ghế salon là hướng Sanh Khí , kế đến là Thiên y , tuy nhiên, khi PK ở vị trí mà 2 hướng này không thể đặt ghế salon thì 2 hướng còn lại cũng tốt thôi. ***LƯU Ý : TỌA , xin nhắc lại là nơi mà căn nhà tọa lạc , nó trái với HƯỚNG là mặt tiền . Nói cho dễ hiểu, TỌA là mặt sau của nhà đấy ! TỌA còn gọi là TỌA SƠN , là SƠN CHỦ . Trong phái Dương Trạch Tam Yếu thì 1 căn nhà có 3 phần quan trọng nhất : Cửa Cái , Bếp và Sơn Chủ ( hoặc Phòng Chủ _ nếu nhà không phân ngăn nào cả ). Trong phái Lý Khí thì lấy Sơn , Hướng để xác định sơ đồ Trạch Vận , và luận đoán Phi Tinh. Nói như vậy để chúng ta thấy TỌA SƠN hay SƠN CHỦ rất quan trọng.Xin hãy nhớ ! 2_ Thế salon phải tựa vào núi : Khi bố trí salon phải tựa vào tường, tượng như dựa vào thế núi. Tâm lý thông thường, như vậy làm cho người ta cảm thấy yên tâm , cảm thấy vững vàng. Khi con người ta ngồi ở đó mà thấy tinh thần thoải mái là hợp PT rồi ! Do yếu tố đó , nên khi bố trí ghế salon rất kỵ quay lưng về phía Cửa Cái , Cửa Sổ , làm người ta cảm thấy không an toàn. Khi tâm trạng phập phồng , bất an thường xuyên xảy ra như vậy , sẽ ảnh hưởng tới sức khoẻ, tâm trí những người ngụ ở đó. Vậy là không hợp PT. Nếu PK không thể bố trí salon tựa vào tường,người ta dùng cái tủ thấp hoặc bình phong để tạo thế núi sau lưng ghế salon. ***LƯU Ý : Không nên để hồ nuôi cá ngay sau lưng salon để tạo thế núi . Vì hình ảnh nước ở vị trí này là không nên. Như thế sẽ không còn tác dụng tốt về mặt PT nữa. 3_ Tranh treo tường : Người ta thường treo tranh trên tường ngay trên phần ghế salon Nếu bố trí salon ở phương vị thích hợp thì tốt càng thêm tốt, như Gấm thêu Hoa.Bố trí tranh treo tường nên theo 1 số nguyên tắc sau : _ Treo theo chiều ngang : theo PT học , treo tranh nên treo theo chiều ngang , 2 đường ngang salon và tranh tạo thành 2 đường song song. Tức là chọn tranh có chiều ngang dài hơn chiều dọc. Treo theo chiều dọc là không thích hợp , vì đường ngang salon và đường dọc bức tranh sẽ cắt nhau. _ Cách chọn tranh : việc chọn tranh treo tường tất nhiên phải có giá trị tiền bạc, giá trị nghệ thuật.... Treo tranh để làm đẹp PK nhưng đồng thời nó cũng nói lên được tâm tư, tình cảm, ước muốn ; trình độ văn hóa, thẩm mỹ của người chơi tranh . Một trong những ước muốn đó là gia đình yên vui , thịnh vượng. Vì thế, chọn tranh dù tranh phương Tây hoặc phương Đông cũng không nên chọn các chủ đề sau đây : * Không nên chọn tranh có cảnh đau đớn, giãy giụa ; cảnh mưa gió tơi bời, núi đồi sạt lỡ,hoa rơi lá rụng . Nó gây cho người xem cảm giác sợ hãi, kinh hoàng . * Không nên chọn tranh cảnh Thu tiêu điều hoang sơ như Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san ( truyện Kiều ) ; hoặc cảnh thu lá vàng rơi rụng như trong thơ của nhà thơ LƯU TRỌNG LƯ Lá thu rơi xào xạc. Con nai vàng ngơ ngác. Đạp trên lá vàng khô....;hoặc cảnh Trăng như Trăng mờ thổn thức.... Mùa thu khí liễm kết mờ mịt, mùa của u uất tâm sự. Kẻ tha phương tráng sĩ đao thước nhớ nhà. Người chinh phụ nhớ chồng với tiếng chày giặt áo..... Đó là những đề tài rất phổ biến trong Thơ và Họa, và đã tạo ra không ít tác phẩm bất hũ ; những hình ảnh rất lãn mạn rất hay ấy.......rất tiếc lại không hề hợp với PT tý tẹo nào !!! Trong PT học , NCD xin khuyên quý vị đừng nên treo tranh có cảnh Thu. * không nên chọn tranh có ánh chiều tà , bóng xế, nắng chiều vàng vọt . Tạo cảm giác buồn mênh mang , làm cho người ta không còn sinh lực, tâm ý mà phấn đấu trong cuộc sống. * Không nên chọn tranh người lữ hành cô độc...đường thênh thang chưa biết về đâu trên vai mang một gánh ưu sầu.... Bức tranh tạo nên cảm giác cô đơn ,lẻ bạn ( Càng nguy hiểm hơn nếu treo trong phòng ngủ vợ chồng ). * Không nên chọn cảnh hoang dã tịch liêu ,cỏ dại mang mang ....đường trong làng hoa dại với mùi rơm... ........Tóm lại , tranh treo ở PK nên chọn những cảnh vật có sinh khí , giàu sức sống , tạo cho con người cảm giác vui tươi , hưng phấn, yêu đời. 4_ Phòng khách có xà ngang : PK có xà ngang , nếu để salon dưới xà ngang là không tốt, ảnh hưởng đến tâm lý người ngồi đó , có cảm giác như bị đè xuống, nặng nề. 5_ Không bố trí salon đối xung với cửa cái : Khi bố trí salon và Cửa Cái theo 1 đường thẳng , PT gọi là đối xung. 5 thì 10 họa người ta mới ngồi ở PK để nhìn ra ngoài cho vui mắt , thông thường thì ngồi nghỉ ngơi hay suy nghĩ . Bố trí salon đối diện Cửa Cái , tâm trí bị chi phối bởi ngoại cảnh, sẽ ảnh hưởng đến suy nghĩ hoặc sự nghĩ ngơi. 6_ Hình ảnh cửa khẩu , vòng tay tráng sĩ : Theo PT học, nên bố trí các ghế salon theo hình cửa khẩu, theo hình vòng tay tráng sĩ , hay 1 cái vịnh lõm vào , như hình chữ U là tốt nhất. Người ta tưởng tượng Cửa khẩu, vùng Vịnh là nơi biển lặng, sóng yên , thuyền bè hội tụ, ra vào tấp nập, hàng hóa dồi dào......Bố trí salon theo hình cửa khẩu chữ U để khí tốt , tài lộc tụ vào. Không nên bố trí salon theo hình chữ L , vì như vậy giống như tráng sĩ có 1 cánh tay vậy, không thu nạp được hết nguồn sinh khí , không che chở bao bọc hết của cải, cũng như sự hưng thịnh của gia đình . Vả lại , người chỉ có 1 cánh tay sẽ khó xoay sở , bộc lộ hết khả năng, sức mạnh của bản thân. Nếu Cửa Cái nằm 1 bên , TỐI KỴ đặt salon ở góc chéo với Cửa > Sinh Khí từ ngoài Cửa tràn vào , gặp salon sẽ gấp quay ngược trở lại, gọi là hiện tượng NGHỊCH THỦY. 7_ Đèn trần nhà và salon : Không bố trí salon ngay dưới đén trần chiếu sáng hoặc đèn trang trí. Xét về mặt khoa học , đèn chiếu ngay đỉnh đầu , lóa mắt, có hại cho mắt. Về mặt tâm lý thấy có cái gì gấp gáp khó chịu, không an toàn vì đèn có thể rơi vỡ nguy hiểm . Về PT, như vậy là không tốt rồi , bởi PT là hợp lý mà ! Nếu không di chuyển được salon , người ta cho đèn ẩn vào trong trần nhà, hoặc thiết kế thế nào để đèn vẫn chiếu sáng nhưng không chiếu ngay trên salon. 8_ Không để kiếng tráng thủy sau salon : Có 2 lý do : _ Một là,khi tiếp khách,khách khứa sẽ nhìn thấy sau gáy của gia chủ hoặc ngượclại.Thường người ta rất khó chịu khi bị người khác cứ nhìn chằm chằm vào gáy của mình. Ngay sau ót có 1 vị trí gọi là Sinh điểm , rất nhạy cảm , có cảm giác lo sợ hốt hoảng khi bị nhìn vào gáy. _ Hai là , theo PT học , kiếng tráng thủy có công dụng phản chiếu nên có tác dụng ngược lại. Kiếng phản chiếu hình ảnh con người tượng như hồn phách con người in vào đó phần nào. Do vậy , kiếng chỉ dùng trang điểm , ngắm nghía khi cần thiết hoặc để làm công cụ Hóa Sát ,không phải lúc nào cũng để hình bóng mình phản chiếu trong gương.Phòng Khách (tt) B/.Bàn trà : Bàn trà là bàn để đặt ấm trà, ly tách uống trà ; người ta còn gọi là Kỷ trà.Việc đặt bàn trà theo 1 số nguyên lý sau : _ Chủ khách tương hợp : Theo PT học , salon là núi , bàn trà là nước hay là bờ cát bãi biển. Vì vậy , salon phải cao hơn bàn trà , tạo ra thế Sơn Thủy hữu tình . Đấy là 1 trong những cách làm cho chủ khách tương hợp, ăn ý với nhau. _ Còn 1 ý tưởng nữa : Salon là chủ , Bàn trà là khách . Để có 1 quan hệ tốt đẹp, tốt nhất là đôi bên tương kính lẫn nhau, hay nói cách khác : Không để khách lấn chủ , cũng không nên bố trí chủ lấn lướt khách . Đây là 1 điều rất tế nhị ! Nếu chúng ta phải giao tế , tiếp xúc với 1 người khách rành về PT , khi nhận thấy chúng ta bố trí salon & bàn trà theo thế chủ lấn khách như vậy, dù chúng ta có thân thiện , hòa nhã cách mấy , có lẽ ông khách ấy cũng thấy gút mắc. Nếu làm ngược lại , chúng ta chịu thiệt thì áp dụng PT làm gì nữa ?! Salon cao quá là chủ đoạt khách. Bàn trà quá rộng là khách lấn chủ. Vậy chắc quý vị cũng biết phải chọn cho nhà mình 1 bộ salon & bàn trà thế nào cho hợp rồi _ Khoảng cách : Không nên để salon và bàn trà xa quá hoặc gần quá, đều bất tiện,không hợp với PT. Núi và nước , Sơn và Thủy là hữu tình nhưng nước sát vách núi là hình tượng xói mòn . Nếu gần quá, cũng tạo cảm giác thúc ép, bực bội. Để xa thì không tiện sử dụng. Thông thường , khoảng cách hợp lý là từ 2,2 tấc đến 2,5 tấc là vừa phải. _ Hình dạng : Tránh các hình có các góc nhọn, góc cạnh C/. Thảm trải Phòng Khách : Ngày nay do điều kiện kinh tế thay đổi, nhiều nhà làm ăn khấm khá lên , mua đất cất nhà , và đã mời hẳn KTS trang trí nội thất cho mình. Trong điều kiện đó, không ít KTS đã bày cho gia chủ trải thảm ở Phòng Khách , vừa đẹp vừa sang trọng, quý phái như ở nước ngoài vậy. Hỏi ai không thích nhà mình đẹp , sang ?! Và thế là họ trải thảm 1 cách vô tội vạ. người may mắn thì gặp KTS rành về PT , người không may thì giao phó cho KTS phối màu gì cho hợp....nhãn thì phối (?!). Để giúp các anh chị , các bạn có thêm chút kinh nghiệm khi chọn thảm cho PK, NCD xin đưa ra 1 vài điểm sau : 1/. Tránh dùng thảm xanh rì như 1 đám cỏ : Nhiều người cho rằng Mạng gia chủ màu này là thích hợp, hay màu này là phối hợp với màu tường là đẹp nhất...vv...Tôi không lạm bàn về màu sắc, bởi các KTS là chuyên gia vấn đề đó mà ; tôi chỉ muốn nói rằng : dù có chọn màu xanh đó cũng không nên giống như 1 đám cỏ quá. Trong lĩnh vực PT dùng để trang trí , đa số là dùng biểu tượng, hình tượng, giống như cái này, giống như cái kia, hay những hình ảnh liên tưởng ra...vv.. Và cái "thảm cỏ xanh rì " kia khiến cho 1 số người có cảm giác như......1 nấm mồ xanh cỏ (!?). Nghe phi lý quá , nhưng 1 khi miệng thiên hạ đã cất lên rồi, 1 đồn 10, chục đồn trăm, thì...không cũng thành có ! Ta nên tránh là hơn. 2/. Đừng nên chọn màu u ám : Nhìn vào 1 tấm thảm u ám, hay buồn tẻ, nhạt nhẻo khiến cho người ta thấy nhàm chán . Những gam màu này không thu hút khí sinh vượng , không tốt trong PT. Nên chọn các gam màu sáng , màu tươi vui mắt như hồng, vàng kim.... 3/. Tránh chọn chủ đề xấu : Cũng như chọn tranh treo tường, chọn thảm cũng có 1 số nguyên tắc : _ Không chọn thảm hoa hoè , nhìn vào gây nhức mắt. _ Không nên chọn thảm không có gốc Vật bất ly kỳ tông mà , nghĩa là không có nền tảng chung , phải có chủ đề làm nền. _ Nên chọn thảm có màu sắc , cảnh vật, hình tượng....ngụ ý tốt lành, sinh vượng. Vừa thích hợp với PT , vừa có thẩm mỹ; tạo nên tâm lý thoải mái, hưng phấn cho người nhìn là hợp cách. D/. Trần nhà : Người Anh gọi là ceiling , người Trung Hoa gọi nó là Thiên Hoa , người Vn ta gọi đơn giản là trần nhà. Về trần nhà có 1 số nguyên tắc sau : 1/. Hợp cao, không hợp thấp : Thiên Hoa còn được gọi là Đỉnh Thiên Hoa . Chỉ nội cái tên cũng đủ nói lên yếu tố cần phải cao rồi . Về mặt tâm lý, vào 1 cái nhà trần thấp , gây cho người ta cảm giác ngột ngạt, như khó thở hơn, tim đập nhanh ; trần nhà cao làm người ta thấy tâm hồn mình khoảng khoát, cởi mở hơn. Ngày nay, đa số các nhà đều đóng la-phông, không còn để lộ các xà ngang như trước. Tuy nhiên tôi cũng xin ghi ra đây để các anh chị, các bạn làm tài liệu tham khảo thêm. Ngày trước , khi gặp các nhà có PK bị các xà ngang ở giửa như thế, các nhà PT khuyên gia chủ làm 1 cái Giả Thiên Hoa để hóa giải , vừa đẹp vừa hợp PT. Nghĩa là tại các thanh xà đó, người ta dùng nẹp bọc nó lại, đóng thêm vào cho nó tạo thành hình vuông lõm ở giửa.Nếu từ dưới nhìn lên, ta luôn có cảm giác ngay đó như cao hơn, không còn cảm giác bị đè nặng nữa. Phần lõm đó , PT gọi đó là Thiên Trì , là ao của Trời , tượng trưng cho tài lộc của Trời ban cho vậy. Không những thế,các nhà PT còn khuyên gia chủ thiết kế 1 hoa văn trang trí ngay giửa Thiên Trì , y như 1 cái chén vàng ngọc vậy, và xung quanh đó người ta trang trí bằng chùm đèn , và họ đặt cho nó cái tên là...Long Tĩnh ! Ý nghĩa Thiên Hoa như có Rồng ẩn nấp, hoặc như có cái chén đựng vàng ngọc....toàn là ý nghĩa tốt đẹp ! 2/. Màu sắc : Luôn luôn là màu sắc nhẹ và sáng hơn nền màu tường, hay sàn nhà. Và đa số người ta chọn màu Trắng tinh khôi , trắng của mây trắng lững lờ trôi Hạc vàng đã tếch nơi đâu ? Ngàn năm mây trắng bây giờ còn bay. ( Thôi Hiệu ) 3/. Ánh sáng : Thiên Hoa tượng của Trời cao . Trời mà u ám là báo hiệu mưa gió , bão bùng không tốt . Nên trần nhà tối kỵ sự u ám và đen tối. Nếu 1 căn nhà tối tăm và u ám thì trần nhà làm sao sáng sủa được ? Nhà tối ám sẽ sinh cảm giác ẩm thấp, là nơi sản sinh muỗi mòng, vi trùng.... sẽ sinh ra bệnh tật . Đây cũng là lý do vì sao trong PT tối kỵ nhà ở u ám , tối tăm. Nên thắp đèn sáng trên trần nhà , cũng như thiết kế sao cho khi vào nhà ban ngày cũng đủ ánh sáng cho trần nhà. Bởi vì điều này , người ta hay dùng màu Trắng cho trần nhà tạo cảm giác sáng sủa hơn. D/. Cửa Sổ Phòng Khách : Trong PT học, Cửa sổ PK cũng có 1 vị trí đặc biệt, ảnh hưởng đến tốt xấu của nhà & gia chủ . Nếu quá rộng thì khí sẽ thoát ra nhanh . Nếu quá hẹp thì khí khó thoát , sinh nóng nực, ngột ngạt. Thông thường , Cửa sổ thì có Bệ cửa, người xưa gọi nó là Song Đài , phần này chúng ta nói về nó. 1/. Vật trang trí : Khi xây Bệ cửa sổ nên cố định, bằng phẳng, ngay ngắn. Những Bệ Cửa sổ thường là để các vật Trấn Yểm trong PT, hay nói cách khác, nó như 1 tuyến phòng thủ của ngôi nhà vậy. Những con vật để trang trí ở đó không nên xung khắc với tuổi chủ nhà. ( ví dụ : Chủ nhà tuổi Tý thì không nên đặt các con vật như : rắn-tị ; dê-mùi ; ngựa-ngọ ; gà-dậu ; mèo-mẹo ) Những tượng con vật người ta hay dùng nhất khi Trấn Yểm ở Bệ Cửa sổ là : Rồng , Sư tử , Kỳ lân , Gà ,Voi.... Hay những công cụ Hóa Sát khác như : Chuông gió kỳ lân , Chuông gió Bát Quái , Chuông gió kim loại-gỗ , Hồ lô , các xâu chuỗi Minh Chú , Chén Liên Hoa , Kim Tiền Ngũ Đế ,.....vv... Nói chung rất là nhiều, mỗi trường hợp Hung Sát đều có cách hóa giải cả, và mỗi cách dùng vật Trấn Yểm khác nhau, tùy trường hợp mà sử dụng,xin đùng nên đặt bừa bãi sẽ phản tác dụng. Cẩn thận ! 2/.Màu sắc : Trước tiên ta nên chọn vật liệu chịu nhiệt, và không hấp thu nhiệt. Nếu không , để ngoài nắng nó sẽ mau hư, và nó hấp thụ nhiệt và làm cho PK nóng lên, không tốt. Về màu sắc cũng dùng như màu tường , cùng 1 nguyên tắc. 3/. Màn cửa : Về màn cửa, hiện nay trên thị trường có rất nhiều loại, nhiều màu sắc, nhiều chất liệu, nhiều kiểu dáng, thiên hình vạn trạng . Tuy nhiên , khi chọn màn cửa cần lư ý 1 số điểm sau : _ Nếu cửa sổ nắng nhiều : Nên chọn màn dầy, màu sắc đậm. Nếu cửa sổ ít nắng : Nên chọn màn mỏng và màu sáng hơn. Nếu Cửa sổ đối diện Cửa Cái hoặc những Hung Sát bên ngoài , nếu không muốn dùng vật Trấn Yểm thì nên dùng loại cửa lá sách cố định, không mở ra , để che đi. _ Tuyệt đối kỵ làm khung cửa Sổ hình chữ nhật rồi, bên trong lại làm cái cửa có hình vòm, hoặc cưa lộng thành hình vòm cho đẹp. Đây là điều ĐẠI KỴ trong kiến trúc CỬA , vì nó là biểu tượng giống như cái Bia mộ của người Trung Hoa. _ Về màu sắc , vẫn lấy Màu sắc như của Bệ Cửa sổ làm nền, nhưng thêm các hoa văn, họa tiết cho không nhàm chán , nên chọn sự phối hợp sao cho tươi mắt , không loè loẹt là được E/. Đường thông - Cửa thông : Là nói đến đường thông suốt từ PK ra nhà sau, và cánh cửa ngăn PK với các kiến trúc phía sau. Về đường thông, NCd chỉ góp vài ý nhỏ sau : _ Tránh làm hẹp quá. _ Tránh dẫn thẳng tới Cửa hậu hay Cửa sổ hậu. _ Tránh dẫn thẳng tới 1 nhà vệ sinh. _ Tránh tối tăm. Đấy là đường thông, còn Cửa thông? 1/. Vì sao phải có cửa này ? Có 1 và nguyên do : _ Không ai muốn khách vào nhà có thể nhìn thấu ra sau nhà, soi mói chuyện riêng tư của họ, nên thiết kế cửa ngăn này là hợp lý. _ Ngay từ ngàn xưa đến nay, đã có quá nhiều bài học trả giá bằng xương máu của các bậc tiền nhân, do việc bí mật bị tiết lộ do bàn bạc ở PK ; tin tức rò rĩ có thể do người trong nhà nghe rồi vô tình tiết ộ, có thể do nội gián đối phương cài vào....Trong thời đại hiện nay, khi mà tính cạnh tranh trên thị trường gay gắt, khốc liệt , thì việc bảo mật thông tin càng cần được xem trọng ( Sơ nhi bất lậu mà ) . Như vậy , cánh cửa này càng cần phải có , và nó có thể ví như cánh cửa an toàn vậy. _ Thường Phòng ngủ là nơi bề bộn, để khách không thấy sự luộm thuộm này, làm cửa thông là hợp lý nhất Nếu chúng ta thiết kế Cửa thông đẹp, khéo, nó có thể góp phần tô điểm thêm cho PK chúng ta vậy. 2/. Tác dụng và những điều nên tránh : _ Đường thông là dường nối từ PK ra nhà sau , nên nó có tác dụng dẫn khí vào nhà , giao lưu với khí trong nhà. Khi Cửa Cái và Cửa thông , Cửa sổ hậu nằm trên 1 đường thẳng là 1 điều TỐI KỴ. Bởi Vượng Khí vào nhà sẽ theo Cửa sổ hậu kia nhanh chóng thoát ra mà không vào các phòng. Giồng như tiền bạc chỉ đi qua mà không ghé vào, hao tổn tiền bạc. Về mặt thiết kế, gió từ Cửa Cái vào nhà , xộc thẳng vào và nhanh chóng thoát ra Cửa sổ hậu, làm nhà rơi vào tình trạng "Lộng gió " . Thơ xưa hay dùng hình ảnh gió vào phòng ngủ ,thổi vào màn cửa , biểu hiện sự lả lơi, rạo rực xuân tình . Nhà thơ LÝ BẠCH đời ĐƯỜNG cũng nói : Xuân phong bất tương thức Hà sự nhập la vi ? Cái "Xuân phong " ấy trong phòng ngủ vợ chồng còn có thể tạm chấp nhận, nhưng với những ai độc thân chẳng phải..... lạnh lẽo lắm ru ? Tệ hơn nữa là ngọn gió mùa làm cho người ta cảm thấy cô đơn chiếc bóng Gió Thu se lạnh chốn phòng không Chiếc bóng mình ta mòn mõi trông Gió Xuân còn chịu được, gió Thu hiu hắt làm lòng người chớm lạnh. Đến gió Đông thì...chỉ gây bệnh cảm thôi. _ Nếu Cửa Cái dẫn thẳng tới nhà VS( như phần trên NCD đã nói, giờ mới giải thích vì sao ) Ngồi ở PK mà nhìn thấy nhà VS là điều mất thẩm mỹ vô cùng , nó lại mất VS khi gặp phải cảnh......" cuốn theo chiều gió " ngược Trường hợp này xây Cửa ngăn cách là hợp lý nhất. _ Khi thiết kế Cửa thông này nên tránh làm các kiểu có vẻ như bưng bít , gây cảm giác chật chội, ngột ngạt, Sinh Khí không vào nhà được. Tốt nhất nên có 1 khoảng kính để tạo cảm giác thoáng hơn, và cho Sinh Khí đi qua được. TUYỆT ĐỐI TRÁNH kiểu mẩu như đã nói ở phần Cửa sổ : Giống bia mộ người Trung Hoa. Tránh kiểu thiết kế đắp thêm 2 trụ 2 bên cửa , vừa thiếu sự thẩm mỹ ( trông rất cheap ) vừa gây cảm giác chật chội , tù túng. ĐẠI KỴ làm 2 trụ , rồi gọt đẽo hay đắp 2 đầu trụ thành 2 cục tròn ( như cái đầu vậy ) lại sơn màu trắng . Đây là dấu hiệu TANG CHẾ , tuyệt đối không dùng , ngay cả cho cột ở cổng rào. Khi không có Cửa sổ người ta không nên làm Cửa thông , vì nó tạo ra hiện tượng Nghịch Thủy , Sinh Khí sẽ dội ngược trở lại. Khi phòng khách chật hẹp , cũng không nên làm cửa thông , bởi nó chỉ gây thêm cảm giác tù túng. http://www.nhantrachoc.net.vn/nthportal/fo...add&p=13625 E/. HỒ CÁ : Nhiều người thích trang trí PK bằng hồ cá & thích nuôi cá. Phòng khách có hồ cá thì sinh động hơn , và những lúc rảnh rỗi ,nhìn cá tung tăng bơi lội trong hồ cũng thấy tâm hồn mình thoải mái hơn , như nhẹ bớt những ưu phiền trong cuộc sống vậy. Nói đến hồ cá là ta nghĩ ngay đến Nước , hành Thuỷ. Hành Thuỷ phải nói là 1 hành....rất khó chịu nhất trong PT, vì theo Dịch, lý của quẻ Khảm là hảm dã mà.Nước mà đặt sai vị trí trong PT thì rất nguy hiểm _ nhất là khi ta sử dụng Trạch vận và Phi Tinh ,chỉ cần nơi Sơn Bàn vượng mà có nước là chiêu tai hoạ liền tức thì ( nhẹ thì hao tổn tiền bạc, phá sản ; nặng thì thương tật, chết người ). Cho nên , việc nuôi cá kiểng trong nhà coi thế mà lại cả 1 vấn đề. NCD hôm nay chỉ xin góp vài ý kiến với các anh chị , các bạn về hồ cá đặt trong nhà : _ Các anh chị , các bạn muốn nuôi bao nhiêu con tuỳ thích ,nhưng theo NCD tôi thì nên chọn con số 9 con , hoặc bội số của số 9 đối với nuôi cá vàng -đỏ hây cá chép. Với cá Kim Long thì không nhất thiết , tuỳ khả năng và tuỳ nhà quý vị lớn nhỏ nữa. Nên nhớ , nhà nhỏ mà để hành Thuỷ nhiều quá là rất nguy hiểm _ Không nên để hồ cá quá cao , hồ không nên quá lớn so với phòng. _ Không nên đặt hồ cá sau salon. _ Không nên đặt hồ cá trong nhà Bếp. _ Không nên đặt 3 tượng PHÚC - LỘC - THỌ hoặc Tài Bạch Tinh Quân trên hồ cá . Vì các vị Thần này tượng trưng cho việc ban Phúc , ban Tài Lộc , nay đặt trên hồ cá khác nào..tiền của trôi theo giòng nước. _TUYỆT ĐỐI không nên để hồ cá dưới chân cầu thang. _ ĐẠI KỴ để hồ cá ở bên phải , từ trong nhìn ra. _ Hồ cá nên đặt tốt nhất ở các hướng : Bắc _ Đông Nam _ Đông http://www.nhantrachoc.net.vn/nthportal/fo...add&p=13626 Nguon: nhantrachoc.net.vn
-
I. Luận Ngũ Hành: Ngũ hành là 1 cương lĩnh lớn trong phong thuỷ, nhưng nhiều người vẫn băn khoăn về việc xác định ngũ hành của Nhị thập tứ sơn, ví dụ sơn Đinh vì sao lúc lại thuộc Hoả, lúc lại thuộc Mộc, lúc lại thuộc Kim? lý do là Nhị thập tứ sơn được dùng với mục đích khác nhau thì ngũ hành cũng khác nhau: 1. Bát quái ngũ hành: Chấn Canh Hợi Mùi Tốn Tân thuộc Mộc Đoài Đinh Tỵ Sửu Kiền Giáp thuộc Kim Khảm Thìn Thân Quý thuộc Thuỷ Ly Nhâm Dần Tuất thuộc Hoả Khôn Ất Cấn Bính thuộc Thổ Bát quái ngũ hành phối hợp với thiên can, địa chi mà luận thuật ngũ hành quy thuộc. Bát quái ngũ hành có thể đem vận dụng vào việc bố cục, tiêu sa, nạp thuỷ(âm trạch) 2. Chính ngũ hành: Khôn Cấn thuộc Thổ, vị trí trung ương Thìn Tuất Sửu Mùi, thuộc Thổ cùng ở trung ương Hợi Nhâm Tý Quý, thuộc Thuỷ ở phương Bắc Dần Giáp Mão Ất Tốn, thuộc Mộc ở phương Đông Tỵ Bính Ngọ Đinh, thuộc Hoả ở phương Nam Thân Canh Dậu Tân Kiền, thuộc Kim ở phương Tây Chính ngũ hành căn cứ Lạc Thư để thiên 1 cư ở phương Bắc, đem Hợi Nhâm Tý Quý quy về thuỷ; thiên 9 cư ở phương Nam, đem Tỵ Bính Ngọ Đinh quy về hoả; thiên 3 cư ở phương Đông, đem Giáp Dần Ất Mão quy về mộc; thiên 7 cư ở phương Tây, đem Thân Canh Dậu Tân quy về kim; địa 2 cư ở Tây Nam, đem Khôn quy về Thổ; địa 4 cư ở Đông Nam, đem Tốn quy về Mộc; địa 6 cư ở Tây Bắc, đem Kiền quy về Kim; địa 8 ở Đông Bắc, đem Cấn quy về Thổ. Thiên 5 cư ở chính trung, nhờ vượng 4 mùa, Thìn Tuất Sửu Mùi vì vậy quy về Thổ. Đây cũng là Hậu thiên ngũ hành, chuyên dùng để luận xét phương vị, luận xét sinh khí long mạch và âm dương thuận nghịch. 3. Huyền không ngũ hành: Bính Đinh Dậu Ất thuộc Hoả Kiền Khôn Mão Ngọ thuộc Kim Quý Hợi Giáp Cấn thuộc Mộc Tuất Canh Sửu Mùi thuộc Thổ Tý Dần Thìn Tốn Tân Tỵ Thâm Nhâm thuộc Thuỷ Huyền không ngũ hành dùng kiểm chứng vấn đề sinh khắc trong khai môn phóng thuỷ(cả âm trạch và dương trạch). Kỵ phạm vào sinh xuất, khắc xuất. 4. Song sơn ngũ hành: Kiền Hợi, GIáp Mão, Đinh Mùi thuộc Mộc Khôn Thân, Nhâm Tý, Ất Thìn thuộc Thuỷ Cấn Dần, Bính Ngọ, Tân Tuất thuộc Hoả Tốn Tỵ, Canh Dậu, Quý Sửu thuộc Kim Song sơn ngũ hành cũng gọi là Tam hợp ngũ hành. Hai sơn hợp lại thiên can địa chi để lấy vượng thế long mạch. Dùng vòng trường sinh để định long, huyệt, hướng(cho cả âm trạch và dương trạch) 5. Hỗn thiên ngũ hành: cung Kiền, nội quái Giáp Tý, ngoại quái Nhâm Ngọ cung Khảm, nội quái Mậu Dần, ngoại quái Mậu Thân cung Cấn, nội quái Bính Thìn, ngoại quái Bính Tuất cung Chấn, nội quái Canh Tý, ngoại quái Canh Ngọ cung Tốn, nội quái Tân Sửu, ngoại quái Tân Mùi cung Ly, nội quái Kỷ Mão, ngoại quái Kỷ Dậu cung Khôn, nội quái Kỷ Mùi, ngoại quái Quý Sửu cung Đoài, nội quái Đinh Tỵ, ngoại quái Đinh Hợi Hỗn thiên ngũ hành chuyên dùng cho quy tắc bát quái, để khảo sát Tứ cát, Ngũ thân. Ngũ hành luận tới đây cũng đã khá đầy đủ, quý vị dụng thuật nên lưu tâm, tuỳ việc mà định cho đúng ngũ hành. II. Luận nạp giáp: 1. Nạp giáp nguyệt thể: Từ ngày 3 đến 7 mặt trăng xuất hiện ở phương Canh, dương bắt đầu sinh ra, trăng một phần sáng ở dưới, hai phần tối ở trên, tượng quẻ Chấn nên Chấn nạp Canh. Hợi Mão Mùi là tam hợp cục đồng quy về Mão nên Chấn nạp Canh, Hợi, Mão, Mùi. Mùng 8-12 là thượng huyền, dương bắt đầu trưởng, trăng sáng hai phần bên dưới, tối một phần bên trên, tượng quẻ Đoài xuất hiện ở phương Đinh. Tỵ Dậu Sửu là tam hợp cục đồng quy về Dậu nên Đoài nạp Đinh, Tỵ, Dậu, Sửu. Ngày 13-17 mặt trăng tròn đầy ở phương Giáp, dương trưởng âm tiêu đến cực nên Càn nạp Giáp. Ba quẻ trên là lý dương trưởng âm tiêu. Ngày 18-22 trăng xuất hiện ở phương Tân, vì dương đã cực nên âm bắt đầu sinh, trăng bắt đầu tối một phần bên dưới, sáng hai phần bên trên có tượng quẻ Tốn, do đó mà Tốn nạp Tân. Ngày 23-27 hạ huyền trăng xuất hiện phương Bính, âm dần tăng trưởng nên trăng tối hai phần bên dưới, sáng một phần bên trên có tượng quẻ Cấn, do đó mà Cấn nạp Bính. Ngày 28-2 vẫn thấy trăng ở phương Ất nhưng tối hoàn toàn, âm trưởng đến cực có tượng thuần âm quẻ Khôn nên Khôn nạp Ất. Ba quẻ này là lý âm trưởng dương tiêu Sáu quẻ vừa nêu đều sinh sinh diệt diệt không ngừng, duy có Khảm Ly được nhật nguyệt chính thể là không bị tiêu diệt. Trong tiên thiên chúng là một Đông một Tây, trong hậu thiên là một Nam một Bắc. Lấy trung tâm Lạc thư Mậu Kỷ hình thành kinh vĩ. Khảm vốn là Khôn được một vạch giữa của Càn mà thành dương nên nạp Mậu, Ly vốn là Càn được một vạch giữa của Khôn mà thành âm nên nạp Kỷ. Âm dương giao thác thiên biến vạn hoá vì vậy mà dương sinh ở Giáp mà tàng ở Nhâm, âm sinh ở Ất mà tàng ở Quý. Do đó Khảm nạp Quý, Ly nạp Nhâm để thành dụng hoá sinh của âm dương giao thác. Thân Tý Thìn vốn hợp cục tại Khảm nên Khảm cũng nạp Thân Tý Thìn. Dần Ngọ Tuất vốn hợp cục tại Ly nên Ly cũng nạp Dần Ngọ Tuất. 2. Nạp giáp bát đại cục thuỷ: Ly:-----toạ hướng Ly kiến Nhâm Dần Tuất Thuỷ ---------toạ hướng Nhâm Dần Tuất kiến Ly thuỷ Khảm:--toạ hướng Khảm kiến Quý Thân Thìn thuỷ ---------toạ hướng Quý Thân Thìn kiến Khảm thuỷ Chấn:--toạ hướng Chấn kiến Canh Hợi Mùi thuỷ ---------toạ hướng Canh Hợi Mùi kiến Chấn Thuỷ Đoài:--toạ hướng Đoài kiến Đinh Tỵ Sửu thuỷ --------toạ hướng Đinh Tỵ Sửu kiến Đoài thuỷ Càn:--toạ hướng Càn kiến Giáp thuỷ -------toạ hướng Giáp kiến Càn thuỷ Tốn:--toạ hướng Tốn kiến Tân thuỷ -------toạ hướng Tân kiến Tốn thuỷ Cấn:--toạ hướng Cấn kiến Bính thuỷ -------toạ hướng Bính kiến Cấn thuỷ Khôn:--toạ hướng Khôn kiến Ất thuỷ -------toạ hướng Ất kiến Khôn thuỷ Thuỷ được nạp đến bản quái là có ý con đến thăm mẹ; thuỷ của bản quái đến hướng được nạp thì có ý mẹ đến thăm con. 3. Nạp giáp bát đại cục quy nguyên thuỷ: Càn long kiến Giáp thuỷ Đoài long kiến Đinh thuỷ Khảm long kiến Quý thuỷ Chấn long kiến Canh thuỷ Tốn long kiến Tân thuỷ Ly long kiến Nhâm thuỷ Cấn long kiến Bính thuỷ Khôn long kiến Ất thuỷ Bát đại cục thuỷ quy nguyên trừ Khảm long Quý thuỷ nghịch hành, các quái khác nếu gặp quy nguyên thuỷ thì đón thuỷ lập hướng, chủ đại phú đại quý. Riêng phần nạp giáp hào quan quỷ sẽ nói ở phần khác vì liên quan mật thiết với Bát sát hoàng tuyền. Lưu ý rằng nạp giáp bên trên là dùng trong phong thuỷ, có khác với nạp giáp của Kinh Dịch, tuy nhiên cả hai đều xuất từ một mối là Nhật Nguyệt thể, vì mục đích dùng khác nhau nên phương pháp mới khác nhau. III. Âm dương nhị thập tứ sơn: 1. Tịnh âm tịnh dương nhị thập tứ sơn: 24 phương vị, mỗi phương vị đều có phân biệt âm dương. Phân âm dương là do Tiên thiên quái kết hợp với sô Lạc thư mà thành nên gọi tịnh âm tịnh dương. Trong tiên thiên quái Kiền ở phương Nam, Khôn ở phương Bắc. Theo số Lạc thư là 1 và 9, đều là số dương nên Kiền và Khôn là dương. Tiên thiên quái Ly ở Đông, Khảm ở Tây. Số Lạc thư là 3 và 7, đều là số dương nên Ly, Khảm cũng dương. Tiên thiên quái Cấn ở Tây Bắc, Đoài ở Đông Nam. Số Lạc thư là 6 và 4, đều là số âm nên Cấn, Đoài là âm. Tiên thiên quái Chấn ở Đông Bắc, Tốn ở Tây Nam. Số Lạc thư là 8 và 2, đều là số âm nên Chấn, Tốn là âm. Càn nạp Giáp nên Giáp cũng là dương Khôn nạp Ất nên Ất cũng là dương Khảm nạp Thân Tý Thìn Quý nên các sơn này cũng thuộc dương Ly nạp Dần Ngọ Tuất Nhâm nên các sơn này cũng thuộc dương Tốn nạp Tân nên Tân cũng thuộc âm Cấn nạp Bính nên Bính cũng thuộc âm Chấn nạp Hợi Mão Mùi Canh nên các sơn này cũng thuộc âm Đoài nạp Tỵ Dậu Sửu Đinh nên các sơn này cũng thuộc âm vậy dương long: Càn Giáp Khôn Ất Thân Tý Thìn Quý Dần Ngọ Tuất Nhâm âm long: Tốn Tân Cấn Bính Hợi Mão Mùi Canh Tỵ Dậu Sửu Đinh 2. Âm dương thế tinh của cửu tinh trong nhị thập tứ sơn: Huyền Không sử dụng âm dương thế tinh của cửu tinh trong nhị thập tứ sơn để xác định khi vận của tinh bàn. Tiếc rằng sau này Phạm Nghi Tân đem âm dương thế tinh này gia vào phương vị của nhị thập tứ sơn để phân âm phân dương, chia 3 quẻ làm Thiên Địa Nhân mà làm cho nhiều người mắc phải sai lầm, sai lầm về việc định xuất quái và sai lầm về việc định sai thác âm dương. Đâu biết rằng định xuất quái phải dùng quẻ khí của tiên thiên, định sai thác âm dương phải dựa vào tịnh âm tịnh dương của long, huyệt, sa, thuỷ, hướng. Hai cái vốn ở cạnh bên mà thật xa ngàn dặm. Quẻ dương vốn nhiều âm như quẻ Chấn, Khảm, Cấn đều một dương mà hai âm, quẻ âm vốn nhiều dương như quẻ Tốn, Ly, Đoài đều một âm mà hai dương, hai quẻ Càn và Khôn già nên không dùng mà dùng Chấn thay Càn, Tốn thay Khôn. Đây chính là cái lý của âm dương thế tinh của cửu tinh. Chính Bắc 1 bạch, quẻ dương, thế tinh là quẻ 1(Nhâm), quẻ 2(Tý), quẻ 3(quý) là dương âm âm. Đông Bắc 8 bạch, quẻ âm, thế tinh Sửu Cấn Dần là âm dương dương. Đông 3 bích, quẻ dương, thế tinh Giáp Mão Ất là dương âm âm. Đông Nam 4 lục, quẻ âm, thế tinh Thìn Tốn Tị là âm dương dương. Nam 9 tử, quẻ dương, thế tinh Bính Ngọ Đinh là dương âm âm. Tây Nam 2 hắc, quẻ âm, thế tinh Mùi Khôn Thân là âm dương dương. Tây 7 xích, quẻ dương, thế tinh Canh Dậu Tân là dương âm âm. Tây Bắc 6 bạch, quẻ âm, thế tinh Tuất Kiền Hợi là âm dương dương. Âm dương nhị thập tứ sơn như vậy là đầy đủ rồi. IV. Vài vấn đề Huyền không: 1. Thành môn: Nhiều người dụng Huyền không khi đề cập đến Thành môn thường nói hướng, xem sao hướng ở hai cung kề bên, sao nào hợp với hướng tinh thành các cặp 1-6, 2-7, 8-3, 4-9 thì dụng làm Thành môn để hỗ trợ cho hướng tinh. Đây là một trong các cách dụng của Hà đồ. Ví dụ như vận 8 Càn sơn Tốn hướng: 178---533---351 269---987---715 624---442---896 vì hướng tinh của cung Ly hợp với hướng tinh Tốn thành cặp 3-8 nên Ly là thành môn, trong cung Ly chỉ dụng được sơn Ngọ mới hợp quẻ âm dương tương phối với Tốn. Bính, Đinh không dùng được vì Bính cô dương, Đinh lạc quẻ. Thành môn bên trên gọi là Thành môn hướng, ngoài ra còn Thành môn sơn. Ví dụ như vận 8 Tốn sơn Càn hướng: 871---335---153 962---789---517 426---244---698 vì sơn tinh của cung Ly hợp với sơn tinh Tốn thành cặp 3-8 nên Ly là thành môn sơn, trong cung Ly chỉ dụng được sơn Ngọ mới hợp quẻ âm dương tương phối với Tốn. Bính, Đinh không dùng được vì Bính cô dương, Đinh lạc quẻ. Thành môn sơn thì đặt sơn, thành môn hướng thì đặt thuỷ, thực sơn đương nhiên hơn hư sơn, thực thuỷ đương nhiên hơn hư thuỷ. Thành môn hướng và Thành môn sơn mỗi cái điều có diệu dụng của nó, tuỳ cục mà cân nhắc quyết định, nhưng suy cho cùng Thành môn sơn mới là gốc, Thành môn hướng là ngọn. Cầu cái lâu dài thì dụng Thành môn sơn, muốn được trước mắt thì dùng Thành môn hướng. 2. Di cung phi tinh trong huyền không: Lập tinh bàn trong Huyền không thông thường có 2 cách: hạ quái và khởi tinh, dù dùng cách nào cũng theo nguyên tắc: lấy vận tinh sơn, hướng làm chủ, định âm dương để thuận phi hoặc nghịch phi. Trường hợp khởi tinh thì có khi phải dùng thế tinh, có khi không phải thế. Tuy nhiên lập tinh bàn nhiều khi không nên cứng nhắc như vậy, có những trường hợp phải dùng di cung phi tinh. Di cung phi tinh xuất phát từ Kỳ môn, kỳ môn có một phương thức gọi là "di cung hoán bộ" dùng trong những trường hợp bất đắc dĩ để thừa cát tránh hung. Gia cát Võ hầu ngày xưa đã từng dùng nhưng rất tiếc giờ cuối lại bị Nguỵ Diên phá hỏng nên ôm hận trên đồi Ngũ Trượng. Phương thức này không thể tách rời khỏi "Thất tinh": Thiên Khu, Thiên Tuyền, Thiên Cơ, Thiên Quyền, Ngọc Hoành, Khai Dương, Dao Quang. Ai từng tìm hiểu về sao Bắc đẩu chắc không lạ gì các sao này, đây chính là 7 sao hình thành nên sao Bắc Đẩu có hình dáng cái gáo múc nước, hai bên cán gáo(sao Dao Quang) có 2 sao nữa gọi là Tả Phụ và Hữu Bật, chính vì vậy gọi là Thất tinh chứ kỳ thực lại là Cửu tinh. Cửu tinh Bắc đẩu hợp với cửu tinh phi tinh như sau: Thiên Khu-Nhất Bạch-Tham Lang Thiên Tuyền-Nhị Hắc-Cự Môn Thiên Cơ-Tam Bích-Lộc Tồn Thiên Quyền-Tứ Lục-Văn Khúc Ngọc Hoành-Ngũ Hoàng-Liêm Trinh Khai Dương-Lục Bạch-Vũ Khúc Dao Quang-Thất Xích-Phá Quân và 2 sao bên cạnh Dao Quang Tả Phụ-Bát Bạch-Tả Phụ Hữu Bật-Cửu Tử-Hữu Bật Dùng di cung phi tinh cần xem kỹ tinh bàn và hình thế sơn thuỷ. Trên tinh bàn không lấy vận tinh đầu hướng làm hướng tinh mà lấy vận tinh chính môn làm hướng tinh là cách sơn điên thuỷ đảo di cung phi tinh vậy, cách này cần nơi chính môn phải nạp được nhiều khí, khí nạp ít không dùng được, cố chấp dùng thì không cầu được sơn điên thuỷ đảo mà lại gặp hoạ. "điên điên đảo nhị thập tứ sơn hữu châu bảo thuận nghịch hành nhị thập tứ sơn hữu hoả khanh" Hai câu này nghĩa bao quát cả Di cung phi tinh bên trên đấy. Vì những phần thuộc Kỳ môn kinh nghiệm tôi thấy chỉ tuỳ Tâm lĩnh hội nên tôi chỉ giải nghĩa cách dùng chứ không minh hoạ cụ thể. Quý vị phải cân nhắc thận trọng khi dùng, phải hiểu Huyền không rất trọng khí, mà khí có sinh, vượng, thoái, tử thì mới được. Nhớ đọc kỹ những dòng in đậm. V. Tiên Thiên-Hậu Thiên tương kiến: "Tiên thiên quái vị là bản thể của địa lý phong thuỷ; Hậu thiên quái vị là vận dụng của địa lý phong thuỷ" Có bản thể, không thể không có vận dụng, phải vận dụng mới có thể thể hiện được bản thể. Từ xưa đến nay Long, Huyệt, Sa, Thuỷ, Hướng đều không vượt ra ngoài phạm vi tương hỗ giữa bản thể và vận dụng. Kiền, Tiên thiên cư ở Ly, chính Nam, Hậu thiên cư ở Cấn, Đông Bắc. Ly chính là Kiền của tiên thiên, Cấn chính là Kiền của hậu thiên. Nói đúng ra không phải chỉ có Kiền Ly Cấn mới là Kiền mà cả Giáp Nhâm Dần Tuất và Bính cũng là Kiền(do nạp giáp). Khôn, Tiên thiên cư ở Khảm, chính Bắc, Hậu thiên cư ở Tốn, Đông Nam. Khảm chính là Khôn của tiên thiên, Tốn chính là Khôn của hậu thiên. Nói đúng ra không phải chỉ có Khôn Khảm Tốn mới là Khôn mà cả Ất Quý Thân Thìn và Tân cũng là Khôn(do nạp giáp). Ly, Tiên thiên cư ở Chấn, chính Đông, Hậu thiên cư ở Kiền, chính Nam. Chấn chính là Ly của tiên thiên, Kiền chính là Ly của hậu thiên. Nói đúng ra không phải chỉ có Ly Chấn Kiền mới là Ly mà cả Nhâm Dần Tuất Canh Hợi Mùi và Giáp cũng là Ly(do nạp giáp). Các quẻ còn lại cứ theo đó mà suy. Sự tương kiến Tiên Hậu thiên là như vậy. Thôi quan thiên viết: "Thiên hoàng là Hợi, Thiên thị là trưởng, Hợi là Chấn, Chấn hoán vị Cấn, là Hậu thiên tiến vào Tiên thiên" Thiên Ngọc Kinh có các câu: "Kiền sơn Kiền hướng thuỷ triều Kiền Kiền phong xuất trạng nguyên .... Khôn sơn Khôn hướng Khôn thuỷ lưu Phú quỹ vĩnh vô hưu" Hoàn toàn không có nghĩa là tại phương Kiền phải có cả sơn, thuỷ, cao phong... Mà ý nói Kiền long Ngọ hướng, Giáp thuỷ chảy đến, Tuất thuỷ chảy đi, tại các phương Cấn Nhâm Bính có sơn cao, là Tiên Hậu thiên tương kiến, là một nhà đều vui nên "xuất Trạng nguyên", "phú quý vĩnh vô hưu".... Như vậy không cứ phải Kiền sơn mà các sơn khác cũng có thể "xuất trạng nguyên" hay "phú quỹ vĩnh vô hưu", nếu tác pháp phù hợp lý Tiên hậu thiên tương kiến. Như vậy Tiên Hậu thiên tương kiến thực chất là cát chứ không phải hung, không phải là Tiên Hậu thiên tương phá như một số sách viết. 3. Tứ Hành Liên Châu hợp Huyền Không Ngũ Hành(hay dụng pháp Khai môn lập hướng của Huyền Không): Nhiều người dùng Huyền Không lập hướng được tinh bàn vượng sơn vượng hướng nhưng rốt cục lại bại, đương nhiên có nhiều yếu tố dẫn đến cục vượng sơn vượng hướng bại nhưng trong đó Tứ hành liên châu hợp Huyền không ngũ hành phạm khắc sát là một yếu tố quan trọng. Khi nghiên cứu về Huyền không hẳn nhiều người gặp dạng tinh bàn đặc biệt: Tam ban quái. Tam ban quái có 3 loại: Xảo quái, Liên châu và Thất tinh đã kiếp. Dụng Tam ban quái có thể sẽ phát cực nhanh hoặc suy cùng tận. Các sách nói về Tam ban quái chỉ nói ngắn gọn một câu: "cần xem xét loan đầu và bố trí ngũ hành giữa các cung sao cho thông khí và không khắc sát". Chẳng khác nào một câu đánh đố nhau. Loan đầu thì ở phạm vi bài này tôi không bàn đến nhưng "bố trí ngũ hành giữa các cung sao cho thông khí và không khắc sát" kỳ thực là việc dụng Tứ hành liên châu hợp Huyền không ngũ hành khai môn lập hướng không phạm khắc sát. Huyền không ngũ hành Bính Đinh Dậu Ất thuộc Hoả Kiền Khôn Mão Ngọ thuộc Kim Quý Hợi Giáp Cấn thuộc Mộc Tuất Canh Sửu Mùi thuộc Thổ Tý Dần Thìn Tốn Tân Tỵ Thân Nhâm thuộc Thuỷ Kinh viết: "hướng tòng thuỷ lập" Dựa vào thuỷ để lập hướng, nơi thành thị không có thực thuỷ thì dùng hư thuỷ, chính là ngã ba, ngã tư gần nhất nhà hay con đường lớn gần nhà. "vạn thuỷ đô tòng thiên thượng khứ quần long giai hướng địa trung hành" Thuỷ xem ở thiên can, long định ở địa chi. Dụng Huyền không ngũ hành nhận thuỷ lập hướng, khai môn cầu sinh tránh sát: Như thuỷ ở Bính, Đinh thì lập hướng, khai môn ở Tuất, Canh, Sửu, Mùi là tương sinh. Ở Dậu, Ất là đồng hành. Là tốt. Nếu lập hướng, khai môn ở Tý Dần Thìn Tốn Tân Tỵ Thân Nhâm là sát, hung hiểm. (còn tiếp 3 phần: - Tứ hành liên châu - Tứ hành liên châu hợp Huyền không ngũ hành. Ứng dụng vào tinh bàn Huyền không Và một phần phụ lục bàn thêm về việc kết hợp Huyền không và Bát trạch) Tứ hành liên châu(Huyền không đại quái) Xuất từ tứ kinh: - Thiên bảo kinh: Cấn Bính Ất Tý Dần Thìn, 6 vị thuộc Kim, danh xưng Nhất long, 6 vị thuộc Dương - Long tử kinh: Khôn Nhâm Tân Ngọ Thân Tuất, 6 vị thuộc Mộc, danh xưng Nhị Long, 6 vị thuộc Âm - Huyền nữ kinh: Càn Canh Đinh Mão Tỵ Sửu, 6 vị thuộc Thuỷ Thổ, danh xưng Tam long, 6 vị thuộc Dương - Bảo chiếu kinh: Tốn Giáp Quý Hợi Dậu Mùi, 6 vị thuộc Hoả, danh xưng Tam long, 6 vị thuộc Âm Đây là Thiên Địa âm dương quái trong Ngũ hành, nên gọi Tứ kinh. Bốn long vị Kim Mộc Thuỷ Hoả, tương sinh thì cát, tương khắc thì hung , hoạ phúc ở trong tương sinh tương cát. Gọi tứ hành liên châu vì cách nhau 4 vị, như Cấn cách Ất 4 vị, Dần cách Thìn 4 vị... Khẩu quyết dụng Tứ hành liên châu chỉ có bấy nhiêu, nhưng hoạ phúc do nó mang lại không phải nhỏ. Tứ hành liên châu cũng như Huyền không ngũ hành, nhận thuỷ lập hướng khai môn, dùng sơn hướng để xét. Định thuỷ lai hay ngã ba, ngã tư đường, lộ lớn gần nhà xem đến sơn nào trong bát can tứ duy: Càn Khôn Cấn Tốn Giáp Ất Bính Đinh Canh Tân Nhâm Quý - Dựa vào tứ hành liên châu để xét: dùng đồng hành và tương sinh + Nhất long thuộc Kim phải hợp cùng Tam long Thuỷ Thổ là cát + Nhị long thuộc Mộc phải hợp với Tứ long thuộc Hoả là cát Cách đồng hành: hướng(hay môn): Tý Dần Thìn gặp thuỷ Cấn Bính Ất hướng(hay môn): Ngọ Thân Tuất gặp thuỷ Khôn Nhâm Tân hướng(hay môn): Mão Tỵ Sửu gặp thuỷ Càn Canh Đinh hướng(hay môn): Hợi Dậu Mùi gặp thuỷ Tốn Giáp Quý Cách tương sinh: hướng(hay môn): Tý Dần Thìn gặp thuỷ Càn Canh Đinh hướng(hay môn): Mão Tỵ Sửu gặp thuỷ Cấn Bính Ất đây là Nhất log gặp Tam long, Thổ sinh Kim, Kim sinh Thuỷ hướng(hay môn): Ngọ Thân Tuất gặp thuỷ Tốn Giáp Quý hướng(hay môn): Hợi Dậu Mùi gặp thuỷ Khôn Nhâm Tân đây là Nhị long gặp Tứ long, Mộc sinh Hoả Ví dụ: khi xây nhà ở phương Ất gần đó có ngã ba lớn, đây là cục Nhất long hành Kim, các hướng có thể lập và khai môn là: Tý Dần Thìn Mão Tỵ Sửu. Đây là Nhất long hợp Tam long: đồng hành và tương sinh, dương hướng, dương môn, dương thuỷ mới thuần tuý không tạp loạn Âm Dương. Nếu hợp với Nhị long và Tứ long là Âm Dương sai thác. Đây mới thực là nghĩa lý Nhất khí đồng nguyên(chỉ mới nhất khí thôi, còn chữ đồng nguyên phần kết hợp với tinh bàn Huyền không mới rõ). Do vậy nói Nhâm Tý sai thác âm dương là đúng nhưng nói Sửu Cấn sai thác âm dương là sai, ở điểm này Thẩm Trúc Nhưng đã nhầm. Phần in đậm này hy vọng các bạn hiểu được và vận dụng được thêm với thế quái(bàn khởi tinh), bàn thế tinh không nên cứng nhắc theo cách họ Thẩm: "Thiên kiêm Nhân, Nhân kiêm Thiên, Địa là nghịch tử nên Thiên không thể kiêm...". Vì tôi không thể nói toạc mọi thứ: có dụng tâm để hiểu thì dùng mới không sai lầm. Tứ hành liên châu hợp Huyền không ngũ hành: Tức là xét khai môn lập hướng cho cục hợp với Tứ hành liên châu và cả Huyền không ngũ hành: ví dụ: ở phương Cấn của cuộc đất có Thuỷ hoặc ngã ba, ngã tư đường. Tính tứ hành liên châu thì cuộc đất này thuộc Nhất long hành Kim, hợp với Tam long Thuỷ Thổ nên hướng và khai môn ở các sơn: Tý Dần Thìn Mão Tỵ Sửu. Theo Huyền không ngũ hành thì lại thuộc Mộc, dụng tương sinh là lấy Thuỷ sinh cho Mộc nên các sơn lập hướng khai môn là: Quý Hợi Giáp Cấn Tý Dần Thìn Tốn Tân Tỵ Thân Nhâm. Vậy chúng ta có các sơn vừa hợp Tứ hành liên châu vừa hợp Huyền không ngũ hành là: Tý Dần Thìn Tỵ. Dụng vào tinh bàn Huyền không:Như vậy theo Tứ hành liên châu và Huyền không ngũ hành cục trên có 4 hướng hợp để lập hướng khai môn là Tý Dần Thìn Tỵ. Lập tinh bàn vận 8 chính hướng cho 4 hướng trên như sau: Hướng Tý toạ Ngọ: 473---838---651 562---384---116 927---749---295 Nhận xét: song tinh đáo toạ, hướng đầy hoả, nếu gặp cách toạ không triều mãn có thể dụng cách sơn điên thuỷ đảo: dụng Thành môn hướng tại sơn, dụng thành môn sơn tại hướng mà tốc phát. Đánh giá: cục không dễ dùng Hướng Dần toạ Thân: 471---936---258 369---582---714 825---147---693 Nhận xét: tinh bàn thượng sơn hạ thuỷ, sơn tinh phục ngâm toàn bàn. Bàn đắc cách tam ban xảo quái giải được thượng sơn hạ thuỷ nhưng không giải được phục ngâm của sơn tinh. Lại thêm ở hướng có thuỷ nên sơn thần nguy nan. Vì đắc Tam ban, hợp ngũ hành thông khí nên phát tài nhưng khó tránh hao người. Đánh giá: cục có thuỷ sát người dù phát tài cũng không nên dùng Hướng Tỵ toạ Hợi: 178---533---351 269---987---715 624---442---896 Nhận xét: tinh bàn được vượng sơn vượng hướng lại thông khí được toàn bàn nên cát tường, tuy vậy do 8 thổ sát 1 thuỷ nên đối với người mệnh thổ không được tốt. Đánh giá: nên dụng hướng này xây nhà lập hướng, khai môn. Hướng Thìn toạ Tuất: 876---432---654 765---987---219 321---543---198 Nhận xét: tinh bàn thượng sơn hạ thuỷ, nhìn sơ qua thì rất xấu không dùng được. Tuy nhiên bàn này lại được Liên châu tam ban quái, nhờ hợp Từ hành liên châu và Huyền không ngũ hành nên Liên châu tam ban phát huy tác dụng, giải trừ được thượng sơn hạ thuỷ. Nếu hướng này phía hướng cao hơn phía toạ hoặc phía trước có nhiều nhà cao, phía sau trống không là đất cát lành. Nếu bằng nhau cũng dùng được, nhược bằng hướng thấp hơn toạ thì không nên dùng. Đánh giá: cục này dùng được, trừ khi phía trước thấp phía sau cao mới phải bỏ mà thôi. Trên đây là một ví dụ dụng Huyền không thực thụ lập hướng khai môn. So với cách dùng của Thẩm thị huyền không học thì có khác nhiều. Một cục xét ban đầu có đến gần 10 cách, rút lại từ từ còn 2 cách để dùng. Cách dùng này cũng đã gần hoà hợp với Tam hợp. Nếu phối thêm Tam hợp để xét, Bát trạch để định Cung cát, Tam cát tinh tìm sơn cát là tuyệt vời, vì khi ấy Thiên-Địa-Nhân đã toàn hợp Tuy nhiên cuộc sống vốn không toàn vẹn, nếu tính được đến đây cũng tốt lắm rồi, xin chớ cầu toàn quá mà cuối cùng không được gì cả. Nguon:nhantrachoc.net.vn
-
Lẽ trời đất có thủy khởi phải có tận cùng, một năm đã bắt đầu ắt phải có hết, bắt đầu từ lúc giao thừa, cũng lại hết vào lúc giao thừa. Theo Hán Việt Từ Ðiển của Ðào Duy Anh nghĩa là cũ giao lại, mới tiếp lấy. Chính vì ý nghĩa ấy, nên hàng năm vào lúc giao tiếp giữa hai năm cũ mới này, có lễ Trừ Tịch. Ý nghĩa của lễ này là đem bỏ đi hết những điều xấu dở cũ kỹ của năm cũ sắp qua để đón những cái mới mẻ tốt đẹp của năm mới sắp tới. Lễ Trừ Tịch theo người Tàu còn là một lễ khu trừ ma quỷ. Tục Tàu xưa vào ngày trừ Tịch, tức là ngày 30 Tết có dùng 120 trẻ con trạc chín mười tuổi, mặc áo thâm, đội mũ đỏ, cầm trống vừa đi đường vừa đánh để trừ khử ma quỷ, do đó có danh từ Trừ Tịch. Lễ Trừ Tịch cử hành vào lúc giao thừa nên lễ này còn mang tên là lễ Giao Thừa. Xưa kia người ta cúng giao thừa ở đình, ông Tiên chỉ hoặc thủ từ đứng làm chủ lễ, nhưng người ta cũng cúng giao thừa ở thôn xóm nữa. Lễ giao thừa ở thôn xóm được tổ chức hoặc tại các văn chỉ nếu văn chỉ làng xây tại xóm, nếu không thì cũng tổ chức ngay ở điểm canh đầu xóm. Ở đây vị được cử ra làm chủ lễ là vị niên trưởng hoặc vị chức sắc cao nhất trong thôn xóm. Một chiếc hương án được kê ra, trên hương án có đỉnh trầm hương hoặc bình hương thắp tỏa khói nghi ngút. Hai bên đỉnh trầm hương có hai ngọn Ðèn dầu hoặc hai ngọn nến. Lễ vật gồm chiếc thủ lợn hoặc con gà, bánh chưng, mứt kẹo, trầu cau, hoa quả, rượu nước và vàng mã, đôi khi có thêm cỗ mũ của Ðại Vương hành khiển. Lễ quý hồ thành bất quý hồ đa, nhưng dù nhiều dù ít, lễ vật bao giờ cũng phải gồm có vàng hương, vàng lá hay vàng thoi tùy tục địa phương và nhất là không quên được rượu, vì vô tửu bất thành lễ. Ðến giờ phút này, chuông trống vang lên, ông chủ tế ra khấn lễ, rồi dân chúng kế đó lễ theo, với tất cả sự tin tưởng ở vị tân vương hành khiển, cầu xin ngài phù hộ độ trì cho được một năm may mắn, bao nhiêu sự không may năm trước sẽ qua hết. Tại đình làng, cùng với lễ cúng ngoài trời còn lễ thành hoàng hoặc vị phúc thần tại vị nữa. Các chùa chiền cũng có cúng lễ giao thừa, nhưng lễ vật và Ðồ chay, đồng thời với lễ giao thừa nhà chùa còn cúng Phật, tụng kinh và cúng Ðức Ông tại chùa. Ở các tư gia, các gia trưởng thường lập bàn thờ ở giữa sân, hoặc ở trước cửa nhà, trường hợp những người ở thành phố không có sân, cũng một chiếc hương án, hoặc một chiếc bàn kê ra với lễ vật như trên. Ngày nay trước mọi biến chuyển dồn dập của thời cuộc nước nhà, ở thôn quê, rất ít nơi còn cúng lễ giao thừa ở các thôn xóm, ngoài lễ cúng tại đình đền. Và ở các tư gia, tuy người ta vẫn cúng lễ giao thừa với sự thành kính như xưa, nhưng bàn thờ thì thật là giản tiện. Có khi chỉ là chiếc bàn con với mâm lễ vât, có khi lễ vật được đặt trên một chiếc ghế đẩu. Hương thắp lên được cắm vào một chiếc ly đầy gạo hoặc vào một chiếc lọ nhỏ để giữ chân hương. Có nhiều gia đình hương thắp đặt ngay trên mâm lễ, hoặc cấm vào các khe nải chuối dùng làm đồ lễ. Cúng giao thừa ở ngoài trời Ngày xưa quan niệm rằng mỗi năm Thiên đình lại thay toàn bộ quan quân trông nom công việc dưới hạ giới, đứng đầu là một người có trí như quan toàn quyền. Năm nào quan toàn quyền giỏi giang anh minh, liêm khiết thì hạ giới được nhờ như: Ðược mùa, ít thiên tai, không có chiến tranh, bệnh tật...Trái lại, gặp phải ông lười biếng kém cỏi, tham lam...thì hạ giới chịu mọi thứ khổ. Và các cụ hình dung phút giao thừa là lúc bàn giao, các quan quân quản hạ giới hết hạn kéo về trời và quan quân mới được cử thì ào ạt kéo xuống hạ giới tiếp quản thiên hạ. Các cụ cũng hình dung phút ấy ngang trời quân đi, quân về đây không trung tấp nập, vội vã, thậm chí có quan, quân còn chưa kịp ăn uống gì. Những phút ấy, các gia đình đưa xôi gà, bánh trái, hoa quả, toàn đồ ăn nguội ra ngoài trời cúng, với lòng thành tiễn đưa người nhà trời đã cai quản mình năm cũ và Ðón người nhà trời mới xuống làm nhiệm vụ cai quản hạ giới năm tới. Vì việc bàn giao, tiếp quản công việc hết sức khẩn trương nên các vị không thể vào trong nhà khề khà mâm bát mà chỉ có thể dừng vài giây ăn vội vàng hoặc mang theo, thậm chí chỉ chứng kiến lòng thành của chủ nhà. Vì cứ tưởng tượng thêm thắt các hình ảnh nhà trời theo mình như vậy nên nhiều nhà có của đua nhau cúng giao thừa rất to và nghĩ cách làm mâm cúng giao thừa nổi lên bởi những của ngon vật lạ, trang trí cầu kỳ để các quan chú ý, quan tâm Ðến chủ hảo tâm mà phủ hộ cho họ với những ưu ái đặc biệt. Trong Ðêm Giao Thừa, sau khi làm lễ giao thừa xong, có những tục lễ riêng mà cho tới ngày nay từ thôn quê Ðến thành thị vẫn còn nhiều người theo giữ. Lễ chùa, đình, đền Lễ giao thừa ở nhà xong, người ta kéo nhau đi lễ các đình, chùa, miếu, điện để cầy phúc cầu may, để xin Phật, Thần phù hộ độ trì cho bản thân và cho gia đình. Và nhân dịp người ta thường xin quẻ đầu năm. Kén hướng xuất hành Khi đi lễ, người ta kén giờ và kén hướng xuất hành, đi đúng hướng đúng giờ để gặp sự may mắn quanh năm. Ngày nay, người ta đi lễ nhưng ít người kén giờ và kén hướng. Hái lộc Ði lễ đình, chùa, miếu, điện xong, lúc trở về người ta có tục hái một cành cây mang về ngụ ý là lấy lộc của Trời đất Phật Thần ban cho. Trước cửa đình cửa đền, thường có những cây đa, cây đề, cây si cổ thụ, cành lá xùm xòa, khách đi lễ mỗi người bẻ một nhánh, gọi là cành lộc. Cành lộc này mang về người ta cắm trước bàn thờ cho đến khi tàn khô. Với tin tưởng lộc hái về trong Ðêm giao thừa sẽ đem lại may mắn quanh năm, người Việt Nam trong buổi xuất hành đầu tiên bao giờ cũng hái lộc. Cành lộc tượng trưng cho tốt lành may mắn. Về tục xuất hành cũng như tục hái lộc có nhiều người không đi trong Ðêm giao thừa, mà họ kén ngày tốt giờ tố trong mấy ngày đầu năm và Ði đúng theo hướng chỉ dẫn trong các cuốn lịch đầu năm để có thể có được một năm hoàn toàn may mắn. Hương lộc Có nhiều người trong lúc xuất hành đi lễ, thay vì hái lộc cành cây, lại xin lộc tại các đình đền chùa miếu bằng các đốt một nắm hương hoặc một cây hương lớn, đứng khấn vái trước bàn thờ, rồi mang hương đó cắm tại bình hương bàn thờ Tổ tiên hoặc bàn thờ Thổ Công ở nhà. Ngọn lửa tượng trưng cho sự phát đạt. Lấy lửa tự các nơi thờ tự mang về, tức là xin Phật Thánh phù hộ cho được phát đạt tốt lộc quanh năm. Trong lúc mang nấm hương từ nơi thờ tự trở về, nhiều khi gặp gió, nấm hương bốc cháy, người ta tin đó là một điềm tốt báo trước sự may mắn quanh năm. Thường những người làm ăn buôn bán hay xin hương lộc tại các nơi thờ tự. Xông nhà Thường cúng giao thừa ở nhà xong, người gia chủ mới đi lễ đền chùa. Gia đình có nhiều người, thường người ta kén một người dễ vía ra đi từ lúc chưa đúng giờ trừ tịch, rồi khi lễ trừ tịch tới thì dự lễ tại đình chùa hoặc ở thôn xóm, sau đó xin hương lộc hoặc hái cành lộc về. Lúc trở về đã sang năm mới, người này đã tự xông nhà cho gia đình mình, mang sự tốt đẹp quanh năm về cho gia đình. Ði xông nhà như vậy tránh được sự phải nhờ một người tốt, vía khác đến xông nhà cho mình. Nếu không có người nhà dễ vía để xông nhà lấy, người ta phải nhờ một người khác trong thân bằng cố hữu tốt vía để sớm ngày mồng một Tết đến xông nhà, trước khi có khách tới chúc Tết, để người này đem lại sự dễ dãi may mắn lại. Nguon:nhantrachoc.net.vn
-
1 - nếu nhà ở tầng triệt. thì các bạn cần xem trước cửa nhà và cửa sổ có bị : _Bị các bảng hiệu giao thông, cột đèn, cành cây nhọn, cây Thập Tự Giá khổng lồ....vv...chĩa vô không? Đó là ĐỈNH TÂM SÁT. _Bị con đường đâm vào nhà không? Đó là THƯƠNG SÁT. _Bị THIÊN TRẢM SÁT không? Đó là 1 khoảng hẹp hình thành bởi 2 nhà cao tầng hay 2 chung cư đối diện , nó y như một lưỡi dao từ trên trời chém thẳng xuống vậy. _Nằm trên đường Phản Cung không? Dù nhà có ở trên lầu chung cư, nhưng cả chung cư bị PHẢN CUNG SÁT thì tài chính của mình cũng gặp vấn đề khi ở đó. _Gần trước cửa nhà có trạm xăng, trạm biến điện, nơi bán gaz không ? Đó là CÔ DƯƠNG SÁT Gần trước cửa nhà có nhà xí công cộng,hoặc nơi thu gom rác không ? Đó là ĐỘC ÂM SÁT Theo Dịch lý thì : " Cô Dương bất trưởng, Độc Âm bất sinh ", nên tránh xa ra thì hơn. _Gần sân bay, đường xe lửa, ga tàu hoặc ở gần nơi công trình đang thi công có tiếng ầm ì thường xuyên. Đó là THANH SÁT _Gần đó có bị mùi hôi thối từ cống rãnh, sông rạch bốc mùi lên hay gần với lò thiêu...vvv...Đó là VỊ SÁT _Có đối diện với vật phản quang như kiếng mặt tiền nhà cao tầng bên kia, hay gần bên sông nước bị nắng chiếu lấp loáng...Đó là PHẢN QUANG SÁT _Có đối diện 1 chảo parabol thu sóng không? Đó là HOẠCH HÌNH SÁT _Có bị các vật thể sắc nhọn chĩa vào không ? Đó là HỎA HÌNH SÁT Như góc tường nhà cao tầng thành góc 90 độ chĩa thẳng qua, nhà máy có từ 3 ống khói trở lên, tam giác-góc nhọn-góc rẽ của con đường.... 2/. Nếu nhà ở trên lầu : Các bạn hãy xem ngoài hành lang có bị 1 trong những thứ HUNG SÁT kia không nhé ! Khi các bạn chọn được 1 căn nhà không bị những HUNG SÁT trên, thì coi như đã thành công được 50% rồi đó. sau đó các bạn mới xét đến thiết kế nhà, hướng nhà...vv... Còn nói về nhà chung cư thì không thể không tính trường hợp nhà đã từng có người ở. Đây là 1 điều RẤT QUAN TRỌNG , vì trong PT có 1 luật gọi là LUẬT LƯU TRUYỀN Khi đến xem để mướn, mua 1 căn nhà đã từng có người ở , chị phải tìm hiểu thêm 1 số điều sau : _Người chủ trước ở đó việc lám ăn thế nào? thành công hay phá sản? _người chủ trước ở đó sức khoẻ có bị vấn đề gì không? người nhà họ có ai bệnh nan y hay chết ở đó không? _Nhà đó có ai bị giết hay treo cổ tự tử không? _ Về mặt tình cảm, người chủ trước ở đó tình cảm vợ chồng họ thế nào? nếu chưa có gia đình thì tình cảm trai gái của họ có tốt đẹp không hay bị thất tình? ..................vv.. Nói chung, các bạn phải tìm hiểu những bất lợi đối với chủ trước , khi ở đó. Nguồn Khí của họ sinh sống ở đó sẽ còn lưu lại đấy. Hãy cẩn thận điều này ! Nguon:nhantrachoc.net.vn
-
Sơn - hướng và trạch trong Phong thủy? Nguồn: Blog Nhị Địa Sinh Như anh Thiên Sứ đã có nhận xét: Khoa Phong Thủy vốn được xem là khởi thủy tại Trung Quốc từ hàng ngàn năm nay, chỉ là những mảnh vụn ít nhiều được hoàn chỉnh cục bộ, nên không gắn bó với nhau và còn mâu thuẫn nhau. Xét riêng môn Bát Trạch, ta thấy các khái niệm chính được đưa ra không kèm theo một định nghĩa nhất quán và do đó đã đưa đến những quan niệm trái ngược về Tả, Hữu, Sơn, Hướng, Trạch mệnh… Sau khi căn cứ vào biến quái và quan hệ sinh khắc để định Bát Trạch du niên, người ta căn cứ vào vị trí các cung cát hung để quy ra Đông Tứ Trạch và Tây Tứ Trạch phối hợp với Đông tứ mệnh và Tây tứ mệnh từ 8 Quái mệnh. Cách định danh Trạch không được quy định chặt chẽ nên sách này theo Hướng, sách kia theo Sơn. Người học theo sách phối hợp Trạch và Mệnh quái không biết thế nào là đúng. Với quan điểm Âm trạch có ảnh hưởng đến nhiều thế hệ cháu con trong khi Dương trạch chẳng qua chỉ thích nghi với một chủ gia đình, Khoa Phong Thủy Dương trạch hẳn chỉ là phần ngọn của trái núi băng mà thôi. Vì người ta cho rằng khoa Âm Trạch dựa trên những đặc tính đảo chiều của Dương Trạch, nên khó tin rằng Phong Thủy Âm Trạch có mức độ lý luận hoàn hảo hơn Phong Thủy của Dương Trạch. Có lẽ Phong Thủy – như nhiều người đã khẳng định – là một thuật quý tộc, ban đầu chỉ dành cho vua chúa và giới thượng lưu sử dụng. Những tầng lớp này dùng PT để chọn đất làm kinh đô, xây thành lũy, đền đài, cung điện và dinh thự. Những công trình này bao giờ cũng có hình dáng có thể quy về hình vuông, có tỷ lệ diện tích xây dựng trên chiều dài tường bao thuận lợi hơn cả. Những công trình này đặc biệt thích hợp cho việc áp dụng các quan hệ Bát quái đơn thuần hoặc các quy tắc của thuật Bát Trạch. Những tác giả sau này của giới Phong Thủy Trung Quốc cũng nhận thấy những nhược điểm trong hệ thống lý thuyết của Phong Thủy, nhất là của Bát Trạch nên họ cố gắng đưa ra những định nghĩa cho các khái niệm chủ yếu của Phong Thủy nói chung và Bát Trạch nói riêng như Eva Wong, Joey Yap… Sau tham khảo những tư liệu của họ. Tôi có suy luận sau, có thể anh em cùng tham khảo, chỉnh lý. Xuất sứ của Sơn và Hướng Có tác giả đưa ra nhận định rằng, người xưa khi chọn chỗ xây nhà thường dựa trên quan điểm ghế bành, tức là phải có Sơn để tựa lưng và hai bên Tả Hữu che chắn cho an toàn. Chính vì ưu tiên làm nhà tựa lưng vào gò, núi nên mới có từ Sơn chỉ lưng nhà, chứng tỏ những người lập ra môn Phong Thủy vốn sinh sống ở vùng nhiều núi, như Nam Trung Quốc ngày nay. Quan điểm tìm chỗ dựa lưng này cũng thể hiện trong thuật tác chiến, tự vệ. Như Hồ Dzếnh đã nói đến trong tác phẩm của ông, cho đến giữa thế kỷ trước TQ có hai loại người chính, một loại làm lụng kiếm ăn còn loại kia chuyên đi ăn cướp. Nếu lập một gia trang có ba mặt được thiên nhiên bảo vệ trừ mặt trước, chắc chắn việc phòng vệ sẽ dễ dàng hơn cho người trong nhà. Như vậy, chắc chắn sẽ có những học giả hoặc những người ứng dụng Phong Thủy xuất phát từ thực tế đi chọn đất làm nhà mà xem Sơn quan trọng hơn Hướng. Nếu những dân tộc du mục trên thảo nguyên lập ra môn Phong Thủy, chắc sẽ không có danh từ Sơn. Ta có thể tin rằng họ sẽ xem Hướng quan trọng hơn vì phải bố trí cửa lều thích hợp tránh ảnh hưởng gió mạnh. Nếu Phong Thủy là một học thuật ứng dụng được trên toàn cầu, nó sẽ phải trút bỏ những giới hạn gây ra bởi ngôn ngữ như từ Sơn… hoặc những ảnh hưởng mang tính thực dụng phụ thuộc vào địa phương, khu vực văn hóa… Thực ra, để tránh những xung đột của hai cách định danh Hai dạng cư xá theo Hướng hoặc theo Sơn ta chỉ cần hiểu các khái niệm Đông Tứ Gia, Tây Tứ Gia căn cứ vào hai nhóm chính phân bố các cung Cát, Hung của Nhà ở và của Mệnh để phối hợp sao cho hợp lý là đủ. Điều quan trọng ở đây là phải xác định được Hướng hậu (Sơn) hay Hướng tiền (Hướng), yếu tố nào có tác dụng mạnh hơn đối với con người cư ngụ trong căn nhà hay căn hộ đó. Xác định Hướng Theo nhiều tác giả và hợp với suy luận, Hướng hậu và Hướng tiền gọi chung là Hướng nhà phải nằm trên một đường thẳng đi qua tâm nhà. Xác định được Hướng tiền sẽ biết Hướng hậu. Xuất phát từ một căn nhà tiêu chuẩn hình vuông, Hướng nhà sẽ đi qua điểm giữa cạnh trước và cạnh sau của nhà. Ở đây lại nẩy ra một khái niệm mới: Trước (và Sau), thế nào là Trước. Nếu ta quan niệm một người ngồi mặt, ngực, bụng bao giờ cũng hướng về phía trước thì một cái nhà chắc cũng không thể khác. Nếu Hướng chính là phía mắt ta nhìn tới thì một căn nhà có chiều dài áp sát một minh đường rộng rãi như bãi đá bóng chẳng hạn, ta cũng không thể theo “Thẩm thị Huyền Không học“ mà quyết định rằng đó chính là mặt trước của nhà nếu như bờ tường nhà phía này không có cửa sổ hoặc ít hơn hẳn so với các bờ tường phía khác. Đó là vì căn nhà ấy đang hướng về phía khác thông qua những cặp mắt cửa sổ của nó. Một cửa ra vào có thể thường xuyên đóng kín, nhưng các cửa sổ đưa ánh sáng, không khí vào nhà không mấy khi bị bịt kín. Phong Thủy quan tâm đến Khí, phía tường có nhiều cửa sổ có lẽ là phía tiếp nhận Khí chính của căn nhà. Người ta nói nhiều về thuộc tính của Khí. Kinh nghiệm cũng ít nhiều chứng minh là khi một vật nhọn (tập trung ác khí) chĩa thẳng vào cửa sổ nguy hiểm với người trong nhà hơn là khi nó chĩa vào một bờ tường kín. Ngược lại, một cái cửa ra vào trổ rất đúng cát hướng nhưng nhìn vào bờ tường hàng xóm ở cự ly 1,5 thước thì cái Cát ấy cũng bằng không. Các ngôi nhà, căn hộ trong thực tế có nhiều hình nhiều dạng, có lẽ trực quan người làm Phong Thủy có kinh nghiệm sẽ nhận ra được đâu là Hướng nhà thực sự. Cũng theo quan điểm đã trình bầy trên,Hướng tiền sẽ có ảnh hưởng chính yếu. Trạch là gì Theo Tự điển Hán Việt của Đào Duy Anh từ Trạch có nhiều nghĩa trong đó có một cách viết chữ Trạch mang nghĩa là nhà ở, mồ mả. Từ đó có các từ ghép như trạch-khoán là khế ước bán nhà, trạch-ưu là nỗi buồn trong nhà. Danh từ đặc trưng cho nhà ở chắc phải ra đời ít nhất là khi người ta thôi ở hang và biết cất lều để cư trú. Do đó, nếu người Tàu không có từ nào thông dụng hơn từ Trạch để chỉ nhà ở bình thường /(TP không sành Hán tự )/ thì chắc khó thể chứng minh từ Trạch xuất xứ từ tiếng Việt cổ. Phong Thủy Lạc Việt đưa ra khái niệm Trạch – như anh Thiên Sứ đã giải thích – khái niệm này không thể lẫn lộn với khái niệm Trạch trong từ Bát Trạch nói trên, vì khái niệm Bát Trạch này được xác định dựa vào Hướng hậu (Sơn) hoặc Hướng tiền (Hướng) của một ngôi nhà. Vì khái niệm Trạch trong Phong Thủy Lạc Việt có tương quan với long mạch, tức là mang yếu tố đường truyền dẫn Khí.Nên ta có thể có nhận xét là: Trạch của một căn nhà là phần nối tiếp của một chi (nhánh) dẫn Khí xuất phát từ một nguồn Khí nhất định. Do Khí tồn tại trong Hình, có những hình thể hiện Khí tụ, ngược lại những con đường là mạch khí vận hành định hướng. Ngõ vào nhà xuất phát từ một con đường xa lộ chắc chắn không thu được Khí tốt như khi xuất phát từ một khu vực tụ Khí. Với suy luận như vậy, Trạch sẽ là một thứ Khí mạch từ xa tới đi qua cửa chính của ngôi nhà và ra khỏi cửa thoái khí trở về với tự nhiên - như anh Thiên Sứ cho rằng: Thiết kế nhà nên tránh hiện tượng bế khí. Nếu vậy Trạch sẽ là con đường thuận tiện nhất để Khí sau khi qua cửa vào trong nhà tìm cửa Thoái khí mà ra ngoài. Nếu nhận xét này là hợp lý ta sẽ thấy nên bố trí nội thất sao cho Khí qua cửa chính đi vào trong nhà có thể qua hết các khu vực sinh hoạt chính để trục hết tà khí đi rồi mới ra ngoài trời. Nhận xét này ít nhất cũng hợp lý ở kinh nghiệm phong thủy, tránh không để cửa ra vào cùng các cửa trong và cửa sổ tường hậu hay cửa hậu thông nhau trên một đường thẳng là đường Khí đi ngắn nhất (Những tai hại xẩy ra không phải chỉ thuần túy vì gió lồng). Trong một cuốn sách Phong Thủy, tác giả tuy không nên khái niệm Trạch, nhưng nhấn mạnh việc phải bố trí Khí khẩu sao cho Khí vào nhà không lưu thông với tốc độ quá cao không chỉ gây gió lồng ảnh hưởng đến sức khoẻ mà còn gây các thiệt hại tài lộc khác. Tác giả đề nghị nên bố trí để dòng khí lưu thông được dễ dàng lần lượt qua các khu vực chính trong nhà. Một cuốn sách khác nhấn mạnh rằng , đối với một tòa nhà thì xét Hướng tiền là quan trọng, nhưng trong nhà phải xét Khí khẩu theo Bát quái du niên, vì phải chú ý đến đường khí lưu chuyển. Nhiều nhà tuy có cửa chính, nhưng phần lớn thời gian trong ngày chỉ dùng cửa phụ. Như vậy Trạch của họ chỉ mang tính lý thuyết. Khi xét cụ thể có lẽ phải xét Trạch của cửa phụ. Cũng qua cách suy luận trên đây ta phải đi đến kết luận là dù Trạch được bố trí tốt đẹp đến đâu, nhưng nếu nó không có nguồn Khí dồi dào nuôi cho thì cũng chỉ là Trạch giả. Thí dụ một căn nhà nhà cao cửa lớn nhưng lối vào phải lách qua mấy cái ngõ nhỏ xuyên qua sân nhà khác. Như vậy ý nghĩa của Trạch theo quan điểm Phong Thủy Lạc Việt không thể tách rời Hình Lý Khí của mội trường kiến trúc. Nguồn: trích từ Blog Nhị Địa Sinh sưu tập.
-
Quan niệm phương Đông về Vũ trụ ở thời thượng cổ và trung cổ Vào cuối thế kỷ thứ 5, trong bộ Thiên Văn Lục có phân biệt ba trường phái về quan niệm cấu trúc Vũ trụ. Đó là thuyết Cái thiên (Trời có cái nắp đậy), Tuyên dạ (đêm tối lan tràn khắp nơi, không trung vô tận) và Hồn Thiên (thiên cấu mênh mông bao gồm cả Trái đất). Các nhà hiền triết muốn mở đường "Thiên Lô" cho Hoàng Đế lên trời nên những lý thuyết này, tuy có mục tiêu khoa học để tìm hiểu Vũ trụ, nhưng vẫn chịu ảnh hưởng của tư tưởng siêu hình và chiêm tinh học. Lý thuyết Cái Thiên, cổ nhất, hình dung vòm trời như một cái nắp hình bán cầu và Trái đất như một cái bát úp ngược cùng một trung tâm. Phía dưới chân Trái đất không phải hình tròn mà vuông như một bàn cờ, có lẽ là do quan niệm có bốn phương trời (đông, tây, nam, bắc). Mưa từ vòm trời, nơi có sao, rơi xuống bốn góc Trái đất thành bốn bể. Hiện nay ta biết là những hạt nước mưa đọng trên tầng khí quyển Trái đất, chứ không phải từ Vũ trụ rơi xuống. vòm trời quay lôi theo Mặt trăng cùng Mặt trời. Hai thiên thể này chuyển động từ từ n,gược chiều với vòm trời. Trong "khung (lớn) Thiên Luận" viết ở thế kỷ 3 ví vòm trời như cái màng trứng trong có "nguyên khí"nên không chìm xuống mặt bốn bể. Mặt trời giống một ngọn đèn chuyển động trên vòm trời và chỉ chiếu sáng từng khu vực một.Tam Diệu tức là Mặt trời, Mặt trăng và sao khi ẩn khi hiện thành có đêm ngày. thật ra thuyết "Cái Thiên" có hai giai đoạn, thời Đông Chu (thế kỷ 5 TCN) thuyết "Thiên Viên Địa Phương" (Trời tròn đất vuông) cho Trái đất đứng yên, Mặt trăng, Mặt trời và tinh tú chuyển vận trên bầu trời. Sang đến thời Chiến Quốc thuyết này mới phát triển thành thuyết cho vòm trời hình bán cầu, Trái đất như một cái bát. Từ giai đoạn một cho Trái đất phẳng như bàn cờ đến giai đoạn hai cho Trái đất gồm đường cung tròn là một bước tiến của thuyết "Cái Thiên" Thuyết "Hồn thiên" của Trương Hành (78-139) thời Đông Hán, ví vòm trời như một quả trứng gà nhưng hình tròn, ở giữa là lòng đỏ tượng trưng Trái đất. Vòm trời có "khí" ở trong và chân trời có nước, Trái đất nổi trên mặt nước. Trên trời có ba "thần" có lẽ là Mặt trời, Mặt trăng và sao, còn Trái đất có ba "hình" có thể thổ, thủy và khí. Thần và hình đều có thể quan sát thấy được. Mặt trời như trên một bánh xe quay không ngừng. Khoảng không gian ở ngoài vòm trời không giới hạn (vô cực, vô cùng), được gọi là "Vũ trụ" và coi là bí hiểm. Như vậy, thuyết Hồn Thiên đã hình dung được là ngoài phạm vi Mặt trời, Mặt trăng và sao còn có Vũ trụ mông mênh nhưng chưa thăm dò được. Thuyết Tuyên Dạ cho rằng vòm trời trống rỗng (vô chất) xa lắc và rộng mênh mông (vô cực). Mặt trời, Mặt trăng và sao là nơi đọng tích (tích khí) bay lên không trung. Bảy tinh tú (Thất diệu) tức là Mặt trời, Mặt trăng và năm hành tinh trong vòm trời không dính vào vòm trời nhưng chuyển động tự do, đi đi lại lại. Năm hành tinh này là năm hành tinh nhìn thấy được bằng mắt trần, tức là Thủy, Kim, Hỏa, Mộc và Thổ. Sao Bắc Đẩu bao giờ cũng đứng một chỗ (vì nằm gần trục quay của vòm trời). Quan niệm không trung vô tận phải chăng có mối liên hệ với tư tưởng "hư vô" của đạo Lão và "hư không" của đạo Phật. Trời và Trái đất tuy rộng lớn, nhưng chỉ như hột gạo so với hư không trong đó có thể có những Trời và Trái đất khác. Từ thế kỷ thứ 6, quan niệm hai bán cầu có khí, tượng trưng Trời và Đất của thuyết "Hồn thiên" được chấp nhận. Tuy nhiên, đã có câu hỏi được đặt ra là nếu chỉ nhìn thấy nửa quả cầu, tức là chỉ nhìn thấy một nửa sự thật. Qua những thế kỷ sau, mô hình Vũ trụ dần dần được cải tiến. Chẳng hạn, sao và hành tinh không dính vào vòm trời, nhưng được một luồng "gió cứng" (cương phong) nâng lên, như khí nén của động cơ phản lực. Trên trời có chín tầng khí có áp lực và tốc độ khác nhau tương tự như cửu trùng. Sự vận hành tuần hoàn của Trái đất và thủy triều đều do lực âm dương quy định. Mặt trời là Thái Dương (thái là lớn) và các ngôi sao khác là Tiểu Dương (tiểu là nhỏ). Còn Mặt trăng là Thái âm và các hành tinh khác là Tiểu Âm. Trái đất cũng thuộc về loại âm. Hiện nay ta biết rằng Mặt trăng là vệ tinh của Trái đất. Mặt trời à sao rất nóng và tự phát xạ vì có năng lượng tạo ra bởi những phản ứng nhiệt hạch trong lòng chúng. Trá lại Trái đất, Mặt trăng và các hành tinh vì lạnh nên không tự phát xạ mà chỉ phản xạ ánh sáng Mặt trời chiếu tới chúng. Cho nên xếp Mặt trời và sao vào loại dương, còn Trái đất, Mặt trăng và các hành tinh vào loại âm có phần đúng. Chính Mặt trời là một ngôi sao như hàng chục tỉ sao khác trong dải Ngân hà và Mặt trăng là một trong những hành tinh của Hệ mặt trời. Vì Mặt trời và Mặt trăng gần Trái đất nên trông to lớn và được gọi là Thái Dương và Thái Âm. Quá trình tiến hóa của ngành thiên văn Trung Quốc qua nhiều thời đại đã chịu ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo của Khổng Tử (thế kỷ thứ 6 TCN) và Phật giáo. Theo Nho giáo, Vũ trụ lúc đầu mông lung mờ mịt trong một trạng thái gọi là "Thái Cực" và biến hóa ra "âm" và "dương". Hai thực thể âm dương tuy tương khắc với nhau, nhưng được phối hợp theo phép điều hòa và tương đối, để tạo ra khí chất tức là kim, mộc, thủy, hỏa, thổ (ngũ hành). Đạo sống của con người trong xã hội cũng dựa vào thực thể âm dương trong Vũ trụ. Ta có thể ví thực thể trừu tượng âm dương như hai loại hạt cơ bản trong vật lý hiện đại, hạt và phân hạt có khả năng tự hủy khi chạm nhau. Thuyết Nho giáo tuy có phần duy lý nhưng không đặc biệt lưu tâm đến thiên nhiên. Học thuyết đạo Lão thì đề cập nhiều đến thiên nhiên, nhưng lại thiếu duy lý. Trang tử (thế kỷ thứ 4 TCN) tự hỏi tại sao Trời lại quay mà Trái đất lại đứng? Mặt trời và Mặt trăng lại thay nhau hiện lên trên trời? Những tư tưởng ở thời thượng cổ về Vũ trụ, tuy có tính chất thần bí và siêu hình, nhưng đôi khi cũng phản ánh những sự kiện tìm thấy bằng những lý luận khoa học hiện đại. Qua những phương tiện quan sát và tính toán, vật lý thiên văn hiện đại cho rằng Vũ trụ được tạo ra cách đây 15 tỉ năm do một Vụ Nổ Nguyên Thủy Vĩ Đại gọi là Big Bang. Vũ trụ nguyên thủy chỉ là một đám sương mù mờ ảo (xem chi tiết ở mục sau) hình dung bởi học thuyết Nho giáo. Vương Sung, một nhà triết học nổi tiếng triều Đông Hán cho rằng Trái đất được hình thành do sự đông đặc của một đám khí. Giả thuyết này không được phát triển vì thiếu cơ sở vật lý và toán học. Theo những thuyết nghiên cứu hiện đại, những thiên thể như sao và hành tinh được hình thành từ những dám khí khổng lồ bị co và đông lại vì sức hút của trường hấp dẫn trong đám khí. Theo luật luân hồi của đạo Phật, tạo hóa xoay vần như một bánh xe. Những trạng thái hỗn độn của vạn vật có thể tái diễn sau những tạng thái bình thường. Lý thuyết nghiên cứu cấu trúc và sự tiến hóa của Vũ trụ (Vũ trụ luận) dựa trên cơ sở khoa học hiện nay dã đề xuất vũ trụ cũng có thể trải qua những giai đoạn co giãn tuần hoàn và Vũ trụ nguyên thủy ở trong một trạng thái hỗn độn. Tóm lại, các nhà thiên văn học phương Đông thời xưa không có một mô hình chính xác về Vũ trụ và quỹ đạo của các hành tinh trong Hệ mặt trời, vì ngành vật lý và toán học, đặc biệt là hình học chưa được phát triển. Tuy nhiên, quan niệm của họ về Vũ trụ có khả năng thay đổi tương đối đúng với thực tế. Nhờ sự phát triển của khoa học qua các thời đại, hiện nay chúng ta biết rằng Trái đất là một trong 9 hành tinh trong Hệ mặt trời. Trái đất quay chung quanh Mặt trời với chu kỳ khoảng 365 ngày theo một quỹ đạo hình ellip hầu như tròn mà Mặt trời ở một tiêu điểm. Mặt trang là một vệ tinh quay chung quanh Trái đất. Các ngôi sao không dính trên vòm trời mà xa trái dất ở những khoảng cách khác nhau. vũ trụ có hàng trăm tỉ thiên hà, mỗi thiên hà có hàng chục tỉ ngôi sao như mặt trời. Mỗi sao có hàng chục hành tinh. Dải Ngân hà là một trong những thiên hà, chỉ khác là trong Ngân hà có hệ mặt trời và có trái đất chúng ta ở. Vì vậy Ngân hà còn được gọi là "thiên hà của chúng ta". Trung tâm Ngân hà cách Trái đất khoảng 30 nghìn năm ánh sáng. Trái đất quay chung quanh Mặt trời với tố độ 30 km/s và quay cùng tất cả Hệ mặt trời chung quanh trung tâm Ngân hà với tốc độ 250 km/s. Với tốc độ lớn, nhưng vì Ngân hà vĩ đại, nên trái đất phải để 200 triệu năm mới quay hết một vòng chung quanh tâm Ngân hà. Trích từ quyển Vũ Trụ phòng thí nghiệm thiên nhiên vĩ đại của nhà thiên văn Nguyễn Quang Riệu Nguon:nhantrachoc.net.vn
-
Phi tinh và Loan đầu (loan đầu đây là nói về hình thể bên ngoài, không liên quan tới phái Loan đầu) là 2 yếu tố gắn bó chặt chẽ với nhau trong việc quyết định cát, hung của 1 căn nhà, còn thiết kế bên trong cũng có tác dụng nhưng yếu hơn, nên chỉ là phụ thuộc mà thôi. Cũng giống như 1 căn nhà tuy phía trước có biển lớn, phía sau có núi cao, 2 bên Long, Hổ hùng tráng bảo vệ. Nhưng nếu phi tinh lại gặp phải cách vượng khí của Sơn tinh tới phía trước, Vượng khí của Hướng tinh tới phía sau thì vẫn bị cách "Thượng Sơn, Hạ Thuỷ" mà gia nghiệp suy bại thê thảm. Nếu những căn nhà đã bị như thế thì dù thiết kế bên trong có hoàn mỹ tới đâu cũng không thể làm thay đổi cục diện xấu của căn nhà. Ngược lại, 1 nhà tuy phía trước có núi cao, còn phía sau có biển lớn, tuy đối với phái Loan đầu là cục diện thất bại, nhưng nếu có vượng khí của Sơn tinh tới phía trước, vượng khí của hướng tinh tới phía sau thì vẫn có thể phát phúc 1 thời. Cho nên mới nói Loan đầu phụ thuộc vào Phi tinh, Phi tinh phụ thuộc vào Loan đầu là vậy. Về sự tương quan giữa vận-sơn-hướng tinh trong cùng 1 cung thì cũng đã có nhiều sách vở đề cập tới, thậm chí còn chia ra thành tỷ lệ phần trăm giữa 3 sao này để cứu xét. Nhưng có lẽ các tác giả đó 1 là không muốn tiết lộ những gì họ biết, 2 là vì không hiểu rõ tính chất vượng, suy hay "thất, đắc" của những phi tinh nên mới bày vẽ đủ cách tính toán mà thôi. Nhưng thực chất là vì toạ và hướng là 2 phương vị quan trọng quyết định vận khí của 1 căn nhà, nên Sơn tinh và Hướng tinh mới có tầm quan trọng đặc biệt, và cũng vì vậy mà khi lấy trạch vận cho 1 căn nhà thì người ta mới lấy những Vận tinh tới TOẠ VÀ HƯỚNG nhập trung cung xoay chuyển để xác định những phương vị sinh, vượng, suy, tử của Sơn tinh và Hướng tinh mà thôi. Chứ không ai lấy hết Vận tinh chung quanh nhà đem nhập trung cung xoay chuyển làm gì, dù là phía trước của căn nhà đó có thuỷ hoặc cửa ra vào hay không? Hoặc phía sau có núi hoặc nhà cao che chắn hay không? Điều này cho thấy 2 phương toạ và hướng có tác động quyết định lên vận khí của 1 căn nhà, và do đó, sức mạnh của Sơn và Hướng tinh mới có tầm quan trong đặc biệt hơn Vận tinh. Riêng Vận tinh chỉ là vị trí cố định của phi tinh trong từng Vận, nên tác dụng rất yếu, chỉ có khả năng phối hợp với Sơn và (hoặc) Hướng tinh để làm tăng thêm sự tốt, xấu mà thôi, chứ không thể có khả năng chi phối hay giảm thiểu, hoặc làm thay đổi tính chất của Sơn, Hướng tinh cùng vị trí với nó. Còn sự tương tác giữa Sơn tinh và Hướng tinh, trên thực tế phải tuỳ thuộc vào sự "đắc cách" hay "thất cách" của chúng mới có thể biết được sao nào nắm quyền chủ chốt tại khu vực đó. Muốn biềt được điều này thì phải nắm vững những nguyên lý về "Thu Sơn, Xuất Sát" mới không bị lầm lẫn hoặc rối trí trong việc xét đoán những ảnh hưởng của phi tinh trong cùng 1 cung. Biết rằng khí sinh, vượng của Sơn tinh cần phải đóng trên những chỗ cao. Nếu được như thế thì tức là Sơn tinh đã đắc cách, uy lực của nó đương nhiên được phát huy tới mức tối đa, cho nên chẳng những nó có đủ sức để chi phối cả Vận tinh và Hướng tinh tại đó, mà nếu gặp trường hợp Hướng tinh tại đây lại là khí suy, tử thì mọi hung khí của Hướng tinh đều được nó hoá giải. Cho nên đây chính là trường hợp "dùng Sơn thần xuất sát của Thuỷ thần", hay còn được gọi tắt là "Xuất Sát". Ngược lại, khí sinh, vượng của Hướng tinh cần phải đóng tại những nơi có Thuỷ như sông, hồ, ao, biển, hoặc những nơi có cửa nẻo ra, vào nhà. Nếu được như thế là Hướng tinh đã "đắc cách", nên uy lực của nó đủ để khống chế cả Vận tinh lẫn Sơn tinh tại đây. Nếu trong trường hợp Sơn tinh là khí suy, tử thì sẽ được Hướng tinh hoá giải, làm mất hết hung khí, nên đây là trường hợp "dùng Thuỷ thần để thu sát của Sơn thần", hay còn được gọi tắt là "Thu Sơn". Trường hợp 1 khu vực có cả Hướng tinh lẫn Sơn tinh đều là khí sinh, vượng: nếu khu vực này có núi hay nhà cao thì Sơn tinh nắm quyền, chi phối Vận tinh và Hướng tinh. Nếu khu vực này có Thuỷ thì Hướng tinh nắm quyền, chi phối Vận tinh và Sơn tinh. Nếu khu vực này không có núi, cũng không có Thuỷ, tức là cả Sơn tinh lẫn Hướng tinh đều không có hiệu lực. Đây là cục diện ngang hoà, không có sao nào chi phối nhau cả, và cũng không có ảnh hưởng gì tới vận khí căn nhà. Trường hợp 1 khu vực có cả Hướng tinh lẫn Sơn tinh đều là khí suy, tử: nếu khu vực này có núi hay nhà cao thì Sơn tinh đó đắc thế, nên nhà sẽ bị tai hoạ do đối tượng ứng với Sơn tinh đó gây ra. Lấy thí dụ như nhà trong vận 8, nơi phía ĐÔNG có Sơn tinh 7, hướng tinh 3. Nếu khu vực đó có núi hay nhà cao thì nhà sẽ bị tai hoạ do Sơn tinh số 7 này mang tới. Vì số 7 thất vận chủ kẻ tiểu nhân hay trộm cướp, nên nhà này dễ bị kẻ tiểu nhân hãm hại, hay trộm cuớp đến phá nhà. Trong trường hợp này, Sơn tinh sẽ khống chế Vận tinh và Hướng tinh. Còn Hướng tinh thất vận lại nằm trên cao nên vô lực. Ngược lại, nếu khu vực đó không có núi, nhưng lại có Thuỷ thì nhà sẽ bị tai hoạ hay thất tán tiền bạc do Hướng tinh đó đem tới. Trong trường hợp này, Hướng tinh đã khống chế cả Vận tinh và Sơn tinh. Còn Sơn tinh vừa là khí suy, tử, vừa đóng tại nơi thấp, trũng nên vô lực. Cho nên sự tương tác giữa những Sơn tinh và Hướng tinh trong cùng 1 cung là tuỳ thuộc vào sự thất, đắc của chúng mà thôi. Nói "thất, đắc" không phải là nói thất vận hay đắc vận, mà là ám chỉ chúng có đóng tại những nơi phù hợp hay không mà thôi. Sơn tinh nếu đóng trên núi cao là "đắc cách", sẽ có đủ uy lực sai khiến Thuỷ thần (tức Hướng tinh). Hướng tinh nếu đóng tại những nơi có Thuỷ là "đắc cách", sẽ có đủ uy lực mà điều động Sơn tinh. Nhưng cũng phải phân ra nếu khí sinh, vượng của Sơn, Hướng tinh mà "đắc cách" thì sẽ chủ đại phúc lộc, còn nếu khí suy, tử của Sơn, Hướng tinh mà "đắc cách" thì sẽ chủ đại hoạ. Còn nếu khí sinh, vượng của Sơn, Hướng tinh mà "thất cách", tức là Sơn tinh gặp Thuỷ, Hướng tinh gặp núi thì đã thuộc vào cách "Thượng Sơn, Hạ Thuỷ" rồi. Cho nên khí sinh, vượng của Sơn, Hướng tinh cần phải "đắc cách" , còn khí suy, tử thì cần phải "thất cách". Có như thế thì mới bảo đảm phúc lộc lâu dài và tránh được mọi tai hoạ. Còn vấn đề dùng Ngũ hành sinh-khắc để luận ảnh hưởng của các sao, cũng như sự phối hợp giữa chúng mà tạo thành những số "hợp thập", số Tiên thiên hay Hậu thiên, Phản ngâm, Phục ngâm... chỉ là phụ và sau khi đã biết được tình trạng "thất, đắc" của Sơn tinh và Hướng tinh mà thôi. Thế nào là vượng và thế nào là suy ? Vượng là khi được đắc cách ( dĩ nhiên phải là sao vượng, sinh hoặc tiến khí trong vận đó )như sơn vượng thì có núi cao. Nhà cao, cây cao….Hoặc hướng vượng thì có thủy, trống thoáng hoặc có đường đi Suy là khi bị thất cách . Như sao sơn vượng, sinh hoặc tiến khí mà lại gặp thủy. Hay sao hướng vượng, sinh hoặc tiến khí lại gặp sơn . Sao sơn là tử khí mà lại gặp núi hoặc sao hướng là tử khí mà lại gặp thủy Lấy thí dụ như nhà trong vận 8, nhưng có Hướng tinh số 2 đắc thuỷ của hồ tắm lớn. Đây là trường hợp tử khí đắc cách, nên trong nhà này vừa bị hao tài, vừa bị bệnh tật liên miên, lại còn xuất hiện quả phụ. Cho nên đàn ông trong nhà đó dễ bị vắn số. Đó là chưa kể nếu nơi đó lại có sơn tinh 3, tạo thành thế "ĐẤU NGƯU SÁT", nên gia đình sẽ bị mắc khẩu thiệt, quan tụng liên miên. Hoặc nếu nơi đó có sơn tinh hay vận tinh 7, kết hợp với hướng tinh 2 tạo thành cặp 2-7 Hoả tiên thiên thì nhà này dễ bị xung đột hoặc trong nhà có người mắc bệnh đau tim. Vào những năm có niên tinh 9, 7, 2 chiếu tới khu vực này thì bệnh tim càng nặng, có thể chết người. Nếu khu vực này mà lại nằm tại phía ĐÔNG hoặc ĐÔNG NAM thì vào những năm có niên tinh 4, 3 chiếu tới thì còn gặp hoả hoạn mà sản nghiệp tiêu tan nữa. Cho nên nếu khí suy tử mà đắc cách thì ngoài vấn đề phá tài, tổn đinh thì còn bị những tai hoạ, bệnh tật khác nữa, chứ không phải chỉ là làm ăn lụn bại (trường hợp Hướng tinh "Thượng Sơn") hoặc nhân số giảm thiểu (trường hợp Sơn tinh "Hạ thuỷ") như các trường hợp vượng tinh thất cách, tức là mức độ tai hoạ còn nguy hiểm và trầm trọng hơn. Vấn đề khảo sát các sao Vận-Sơn-Hướng (nhất là Sơn và Hướng) thì trước hết cần phải xét đến thời vận, xem chúng là sinh, vượng hay suy, tử. Sau đó mới xét tới hình thế Loan đầu xem chúng có đắc cách hay không? Như Sơn tinh vượng cần gặp núi hay nhà cao, Hướng tinh vượng cần có thuỷ hoặc cửa ra vào... Nếu chúng được như vậy thì dù ngũ hành có bị xung khắc cũng vẫn không có tai hoạ gì cả. Chỉ khi chúng đều là khí suy, tử, hoặc không đắc cách thì mới xét đến ngũ hành sinh, khắc để đoán biết hung hoạ mà thôi. Lấy thí dụ :cung KHẢM có các sao 7-8-3 (theo thứ tự Sơn-Vận-Hướng). Nếu là trong vận 7, sơn tinh 7 là vượng khí, nên nếu khu vực này có nhà cao thì chủ vượng nhân đinh, lại hoá sát của Hướng tinh số 3, chứ không có vấn đề khắc chế gì cả. Nhưng qua vận 8, sơn tinh 7 biến thành suy khí, khắc chế Hướng tinh 3, nên nhà này dễ bị trộm cướp hay tai hoạ hình thương, hay có bệnh về thần kinh... Chỉ có khi xét tới niên, nguyệt, nhật thời tinh thì mới dùng đến nguyên lý ngũ hành sinh, khắc làm chủ yếu. Còn giữa vận-sơn-hướng khi xét đến sự sinh, khắc thì chủ yếu là giữa Hướng tinh và Sơn tinh, còn vận tinh chỉ có thể phụ hoạ thêm vào cái sinh hoặc khắc giữa 2 sao đó mà thôi. 1. Nhất Bạch Nhất Bạch là sao Tham Lang, hiệu Văn Xương, ngũ hanh thuộc thủy, màu trắng; mùa thu tiến, mùa đông vượng, mùa xuân tiết, mùa hạ tử . Kẻ sỹ gặp nó ắt được lộc của nó, người thường gặp nó nhất định tiền bạc sẽ vào nhà, đây là đệ nhất cát thần . Bị khắc sát thì như Trang Tử gõ chậu mà chôn vợ . Nhất Bạch lại là quan tinh, nếu nó đương vượng, hình thế Loan Đầu bên ngoài lại có thủy phóng quang thì khoa cử đổ đại, danh lừng bốn bể, sinh con trai thông minh trí tuệ . Nó mà suy tử thì hại vợ, không thọ, cuộc đời trôi nổi lênh đênh, màng nhiều bệnh tật về huyết, thận hư, hoặc thành kẻ nghiện ngập, trộm cướp Nhất gặp Nhất là tỵ hòa. Nếu vượng thì có lợi cho tài văn chương hoặc các công việc về văn. Nếu suy thì dễ bị bệnh về máu, nghiện ngập hoặc chìm đắm trong tửu sắc Nhất gặp Nhị là khắc nhập. Nếu vượng thì mẫu thân dễ mắc bệnh về tỳ vị hoặc đường ruột . Nếu suy thì chồng bị vợ nhục mạ hoặc lấn quyền, người nhà dễ mắc các chứng bệnh về thận hoặc tiết niệu Nhất gặp Tam là sinh xuất. Nếu vượng thì con trưởng được danh giá quyền quý, có lợi cho người thuộc mệnh Tam mộc, nhân đinh tài bạch đều phát lớn . Nếu suy thì con cháu dòng trưởng suy bại, bị kiện cáo tù tội hoặc trộm cướp, người nhà dễ mắc các chứng bệnh về gan,chân, hoặc bị ép phải dời đi nơi khác ở Nhất gặp Tứ là sinh xuất. Nếu vượng thì xuất người nổi tiếng trong khoa cử, quan vận hanh thông thuận lợi, ra ngoài gặp nhiều điều hay về văn nghiệp, tên tuổi nổi bật . Nếu suy thì cũng đỗ đạt nhưng quý mà không phú, hoặc vì mang tiến tài hoa mà chìm đắm trong chống nữ sắc sinh ra quan hệ nam nữ bất chính . Nếu hình thế loan đầu bên ngoài có vật thuộc hành thổ thì đường văn chương hư bại, không con nối dõi, hoặc con cái chết yểu Nhất gặp Ngũ là khắc nhập. Nếu vượng thì được cả tài bạch lẫn sang quý (tức có địa vị chức tước). Nếu suy thì nữ nhân trong nhà dễ mắc các chứng bệnh về đường sinh dục; nặng thì thận suy kiệt, ngộ độc thức ăn, con thứ chết yểu Nhất gặp Lục là sinh nhập. Nếu vượng thì từ nhỏ đã được hưởng giàu sang, ngoài ra, nếu sơn Kiền mà đắc thủy (có sông nước) thì sự nghiệp văng chương có thể phát đên tám đời . Nếu suy thì thủy kim chủ về lạnh, dễ mắc các chứng bệnh về đầu, xương hoặc bị thương tật vì kim loại Nhất gặp Thất là sinh nhập. Nếu vượng thì đào hoa, dễ tạo của cải . Nếu suy thì kim thủy đa tình, đam mê tửu sắc, hoặc vì tửu sắc mà bị kiện tụng thị phi, có khi vì tranh chấp mà sinh ra thù hằn gây gỗ đến nổi phải mang thương tật Nhất gặp Bát là khắc nhập. Nếu vượng thì trẻ con trong nhà có họa chết đuối, xuất hiện người có tài về viết lách . Nếu suy thì vợ mắc chứng vô sinh, có bệnh về tai, thiếu máu, hoặc có con chết non Nhất gặp Cửu là khắc xuất. Nếu vượng thì thủy hóa đều có đủ, lợi lớn về tiền tài, nhân khẩu cũng thịnh vượng . Nếu suy thì dễ mắc các chứng bệnh về tim, vợ chồng bất hòa, anh em tranh chấp 2. Nhị Hắc Nhị Hắc là sao Cự Môn, cũng là bệnh phù. Nếu vượng thì giau có, nhà cửa ruộng vườn thên than, nhân khẩu hưng vượng, lại phát quý về binh nghiệp . Khi nó suy tử thì vợ đoạt quyền chồng, tính tình nhỏ nhen, thâm hiểu, keo kiệt, khó sinh đẻ, có bệnh về bụng, trong nhà thường phát sinh bệnh tật liên miên Nhị gặp Nhất là khắc xuất. Nếu vượng thì giàu có về điền sản, gia cảnh hưng vượng, nhân khẩu đông, mẫu thân khỏe mạnh sống lâu. Nếu suy thì vợ khắc chồng, đàn ông mất ở tuổi trung niên, quả phụ làm chủ gia đình, người nhà thường mắc cách chứng bệnh về tỳ vị, đường ruột hay thận Nhị gặp Nhị là tỵ hòa. Nếu vượng thì giàu có, ruộng đất nhiều, có quyền thế, lợi về binh nghiệp. Nếu suy thì ham mê nữ sắc, dâm đãng, khí lực suy yếu, mẹ già nhiều bệnh tật, người trong nhà thường xảy ra nhiều chuyện xấu, ra ngoài dễ gặp tiểu nhân ngầm hại Nhị gặp Tam là khắc nhập. Nếu vượng thì vợ ngắm quyền, gia tài tích lũy do làm việc bất chính, nhưng con trưởng chẳng ra gì. Nếu suy thì đàn ông vì dâm đãng mà gia đình tan nát, đàn bà dễ mắc các chứng về đường tiêu hóa . Nhị Tam sóng đôi còn gọi là "đâu ngưu sát" nên vợ chồng thường bất hòa, chống đối nhau. Người trong nhà chỉ ham an chơi nên ruộng vường bỏ hoang, con cháu dễ thành trộm vặt Nhị gặp Tứ là khắc nhập. Nếu vượng thì con dâu nắm quyền, gia đình hưng vượng, nhiều nhân đinh. Nếu suy thì chọ dâu ức hiếp em chồng, nam giới hiếu sắc . Có mẹ già cô khổ, hoặc xuất gia làm ni. Người trong nhà dễ mắc các chứng bệnh về tỳ vị, đường ruột, đau cách tay. Gia cảnh buồn tẻ vắng lặng, ra ngoài thường gặp những việc tai tiếng quấn vào thân, hoặc mắc bệnh thương hàn Nhị gặp Ngũ là tỵ hòa. Nếu vượng thì tạo dựng cơ nghiệp dễ dàng, tài vận tốt, hưng thịnh nhất là về địa sản. Nếu suy thì phát sinh đủ thứ bệnh, vợ đau yếu nặng, dễ thành người góa vợ . Đặc biệt người nhà thường mắc các chứng về tỳ vị, đường ruột mãn tính Nhị gặp Lục là sinh xuất. Nếu vượng thì gia cảnh bình yên, con cái thuận hòa, gia nghiệp hưng thịnh, nhiều khả năng hành nghề y cứu đời, hoặc trở thành người có quyền trong nghiệp võ. Nếu suy thì cha già lắm bệnh, trong nhà có người đi tu, cha con thù oán nhau, chủ khách tranh chấp, thường gặp việc tai tiếng thị phi, người nhà thường mắc bệnh đau dầu hay điên loạn Nhị gặp Thất là sinh xuất. Nếu vượng thì trở thành cự phú bằng tiền của bất chính hoặc bất ngờ (hoạnh tài), nhiều con cái. Nếu suy thì mẹ và con gái thường nghịch nhau, vợ kế không hiền thục . Ngoài ra dễ có hỏa tai hoặc bị chứng bạch đới cấp tính, kiết lỵ; đàn ông thường hay bị phụ nữ quấy rầy hoặc vì tranh chấp thị phi mà bị đâm chém Nhị gặp Bát là tỵ hòa. Nếu vượng thì giàu có, ruộng đất không thấy bờ. Nếu suy thì hay mắc bệnh nhẹ, đàn bà thường bỏ nhà đi tu Nhị gặp Cửu là sinh nhập. Nếu vượng thì văn chương chử nghĩa bề bề, đất đai tiền của tích tụ lớn. Nếu suy thì việc đen tối ập đến ngay, chủ về chuyện nam nữ ám muội, tiền của ra đi nhanh chóng, vả lại còn xuất hiện người chồng ngu đân . Hóa nóng thổ (đất) khô nên dễ sinh ra chứng bạch đới cấp tính . Khi âm quá nhiều nên nhiều đời có quả phụ . Thổ tổn thương mắt, con cháu ắt có người mù lòa 3. Tam Bích Tam Bích là sao Lộc Tồn, tính thích đấu đá nên còn gọi là Xi Vưu. Nếu vượng thì tài lộc đầy đủ, chấn hưng gia tộc, cơ nghiệp vững vàng . Con cái dòng trưởng đại hưng vượng. Nếu suy tử thì người nhà dễ bị điên hoặc hen suyễn, chân tàn tật, khoác vợ, kiện tụng thị phi hoặc trở thành trộm cướp Tam gặp Nhất là sinh nhập. Nếu vượng thì con trưởng được quyền quý, đinh tài đều đại phát, thi cử đổ đạt. Nếu suy thì con cháu ngành trưởng lụn bại, tính khí ngỗ ngáo, có thể dẩn tới họa quan tụng; hoặc vì bấtt hòa với xóm giềng mà phải dọn nhà đi xa. Việc làm phần lớn không thuận lợi, hơn nữa còn dễ bị thương tật ở tai chân. Tam gặp Nhị là khắc xuất. Nếu vượng thì được giàu có về nhà cửa ruộng vườn, con trưởng tài đinh đại phát. Nếu suy thì dễ có sát khí chống đối nhau. Gia đạo bất hòa, vợ chồng không êm ấm. Thường vì tranh chấp với cấp trên mà gặp điều tai tiếng . Dễ mắc chứng đau dạ dày, khó tiêu hóa, hoặc vì đánh nhau mà chân bị thương tật; nói chung là gia đình gặp nhiều vất vả, trở ngại mà vẫn thất bại tan vở Tam gặp Tam là tỵ hòa. Nếu vượng thì thanh danh hiển hách, hưng gia lập nghiệp, tiền của tương đối khá giả. Nếu suy thì trong nhà sinh ra trộm cướp hoặc bị trộm cướp, dễ bị thương tật ở chân tay, hoặc vì đánh nhau với người mà bị tù tội. Tam gặp Tứ là tỵ hòa. Nếu vượng thì Tam và Tứ là chính phối, sinh nhiều quý tử, sự nghiệp và tài vận phát triển hanh thông. Nếu suy thì trong nhà sinh ra trộm cắp hoặc ăn xin, thường mắc chứng dị ứng hoặc bị thương ở tay chân, đau gan, đau mật. Nếu gặp Thái Tuế e rằng kiếp nạn vì tình hoặc bị rắn cắn Tam gặp Ngũ là khắc xuất. Nếu vượng thì tiền tài khá giả và quyền quý, có thể làm quan to. Nếu suy thì dễ bị các chứng độc như bọ cạp, rắn, rết cắn; tâm tư uất kết dễ mắc bệnh gan, hoặc thương tật ở chân. Tam gặp Lục là khắc nhập. Nếu vượng thì quan trường lao đao vất vả nhưng sự nghiệp ắt thành, trở thành người phụ tá đắc lực cho cấp trên. Nếu suy thì bị quan tụng hoặc tai họa binh đao, dễ bị thương tật ở chân tay do kim loại gây nên; đôi khi mắc bệnh gan, gia đạo thường xảy ra tranh chấp. Tam gặp Thất là khắc nhập. Nếu vượng thì nguồn tiền của tăng tiến, có chức quyền ca/ văn lẫn võ. Nếu suy thì nó là "Xuyên Tâm Sát", thường mắc các chứng bệnh ở tay chân, gan mật; hoặc bị quan tụng thị phi. Nếu phương Đoài bị khắc phá thì gan bị thương tổn hoặc mắc chứng thổ huyết. Trong nhà có kẻ đam mê tửu sắc, bị trộm cướp trèo tường khoét vách phá hoại danh tiết con gái trong gia đình, chốn phòng the không hòa thuận, các tai họa thường là con trưởng chịu Tam gặp Bát là khắc xuất. Nếu vượng thì xuất hiện văn tài bậc nhất, lại phát cả tài lẩn đinh. Nếu suy thì con thứ gặp nhiều tai họa, dễ bị thương gân cốt hoặc bị chó cắn. Anh em trong nhà bất hòa hoặc vì tranh giành gia sản mà gây ra kiện tụng Tam gặp Cửu là sinh xuất. Nếu vượng thì phát như sấm dậy, con cháu thông minh, văng tài hiếm thấy, hưởng giàu sang được nhiều năm. Nếu suy thì tai tiếng thị phi chồng chất liên tiếp, thường mắc các chứng đau mắt, đau dầu; ngoài ra con dễ gặp hỏa hoạn. 4. Tứ Lục Tứ Lục là sao Văn Khúc . Nếu vượng thì tai văn chương lừng danh, khoa cử đổ đạt, con gái dung mạo đoan trang và lấy được con nhà quyền quý . Nếu suy tử thì phụ nhân dâm loạn; đàng ông đam mê tửu sắc, gia sản phá bại phải lang thang phiêu bạt Tứ gặp Nhất là sinh nhập. Nếu vượng thì một đời danh giá, đại lợi về văn tài, học hành thì cử đổ đạt. Con cái thông minh, thành tích thường đứng đầu, nghề nghiệp vừa ý, tài vận thuận lợi. Nếu suy thì dễ mắc bệnh trúng phong, hoặc vì dâm đãng tửu sắc mà hư bại, gây ra tiếng xấu bên ngoài . Hoặc vợ vô sinh, có con thì cũng chết yểu. Tứ gặp Nhị là khắc xuất. Nếu vượng thì tương đối giàu sang, vợ nắm quyền trong nhà, con cái đông. Nếu suy thì vợ ngỗ nghịch khắc mẹ chồng và ức hiếp em chồng. Không khí gia đình nặng nề, không vui; người nhà thường hoảng loạn, dễ mắc chứng đau dạ dày; bị chó dại cắn . Mẹ chồng nàng dâu, chị dâu em chồng thường hay xích mích, mẹ già gặp tai ương. Sự nghiệp suy bại, gia phong càng lúc càng xấu đi, hoặc có người xuất gia làm ni. Tứ gặp Tam là tỵ hòa. Nếu vượng thì âm dương phối hợp đúng phép, gia đạo êm ấm, con cái thuận hòa, sự nghiệp thuận lợi, tương đối giàu sang. Nếu suy thì vợ chồng hay cải vả xích mích, người nhà thường có ý làm tăng ni, xuất hiện kẻ sống lang thang chẳng ra gì. Thường mang bệnh dị ứng hoặc có tật ở tay chân Tứ gặp Tứ là tỵ hòa. Nếu vượng thì hai sao Văn Khúc cùng đến, con cháu thành tích nổi bật, có tinh mừng về thi cử. Đại lợi về tài văn chương, làm quan văn khá nổi tiếng. Nếu suy thì phiêu bạn khắp nơi, hoặc trở thành tăng ni. Đàn ông xa nhà bôn ba, sống nơi chân trời gốc bể. Người nhà dễ bị bệnh phong; quả phụ làm chủ gia đình Tứ gặp Ngũ là khắc xuất. Nếu vượng thì có tài văn chương, giàu có, sự nghiệp thuận lợi. Nếu suy thì ham ăn ham uống, ruộng vườn bỏ hoang, cảnh nhà ảm đạm, buồn tẻ; nữ chủ nhân thường hay đau ốm, có ý hướng xuất gia, khó sinh và khó nuôi con cái, gia đạo lụn bại. Tứ gặp Lục là khắc nhập. Nếu vượng thì quan binh không dám đụng đến, được mọi người đối đãi tử tế, gia đạo êm ấm, tài lộc có đủ. Nếu suy thì cha chồng ngược đãi con dâu, dễ khiến con dâu phải bỏ nhà ra đi. Người trong nhà thường tranh chấp nhau; dễ mắc bệnh gan, mật và thương tật ở tay. Tứ Lục sóng đôi là tượng "Dịch Mã", nên người nhà dễ phảI tha hương, rày đây mai đó; nặng thì có thể bị đày. Tứ gặp Thất là khắc nhập. Nếu vượng thì vợ nắm quyền hành, táo bạo hơn người nhưng tích lũy được nhiều tiên của. Nếu suy thì nam nữ đa dâm, con cháu học hành chẳng ra gì; dễ bị bệnh thổ huyết mà chết yểu. Ra ngoài thị gặp nhiều thị phi; mẹ chồng nàng dâu bất hòa . Dễ phạm kiếp sát đào hoa Tứ gặp Bát là khắc xuất. Nếu vượng thì vợ hiền dạy con thảo, của cải chất thành núi. Nếu suy thì người nhà có người ở trong rừng núi sâu làm ẩn sĩ, hoặc vào chùa làm sư. Con cháu nhiều bệnh tật, học hành không giỏi giang; dễ mắc bệnh viêm mũi, bệnh phong hoặc bị rắn hay chó cắn. Tứ gặp Cửu là sinh xuất. Nếu vượng thì hợp với kim Tiên Thiên, được tài lẫn quý, xuất hiện kẻ sĩ văn chương nổi tiếng. Nếu suy thì thường bị đau mắt hoặc bị hỏa tai. Đàn ông dễ rơi vào cảnh ngộ vi gian dâm mà gia sản lụn bại 5. Ngũ Hoàng Ngũ Hoàng là sao Liêm Trinh, là đại sát tinh Mậu Kỷ . Nếu vượng thì tài đinh đại phát . Nếu suy thì bất kể nó được sinh hay bị khắc đều rất xấu . Vì vậy nó nên tịnh mà không nên động . Nếu gặp lúc sao Thái Tuế tới thì tính hung càng phát ra mạnh, tức tổi đinh hao tài lớn, nhẹ thì ốm đau, nặng thì hao vài người . Cuộc này nên tránh không nên phạm Ngũ gặp Nhất là khắc xuất. Nếu vượng thì tài đinh đại phát, nhưng con giữa không phát. Nếu suy thì con giửa lại chịu tai ương hoặc đau ốm nặng, đặc biệt là bệnh về đường tiết niệu, bệnh phụ khoa. Ngoài ra còn thường bị các bệnh về tai, hắc lào . Người nhà bệnh hoạn luôn Ngũ gặp Nhị là tỵ hòa. Nếu vượng thì thì tài đinh đại phát, người mẹ nắm quyền trong nhà. Nếu suy thì phát đủ thứ bệnh, nhất là cha mẹ. Chủ yếu là bệnh về dạ dày và đường ruột . Gặp lúc sao Thái Tuế tới thì cha bệnh nặng, mẹ dễ thành quả phụ Ngũ gặp Tam khắc nhập. Nếu vượng thì tài đinh đại phát, con trưởng được thừa hưởng phúc lộc. Nếu suy thì thường mắc các chứng bệnh về gan, tụy, mụn nhọt, ghẻ lở ở chân tay hoặc chổ kín. Con trai phản nghịch, trong nhà có người bị thương tật ở chân, gia đạo không yên ấm Ngũ gặp Tứ khắc nhập. Nếu vượng thì có tài vănt hơ và giàu có, sự nghiệp thuận lợi. Nếu suy thì con trai lêu lỏng ăn chơi, ruộng vườn bỏ hoang; phụ nhân có nhọ độc ở vú, phái nam thường bị sởi. Nhà cửa ảm đạm buồn tẻ, con dâu có ý xuất gia làm ni, gia phong suy bại Ngũ gặp Ngũ là tỵ hòa. Nếu vượng thì đinh tài đều vượng, gia nghiệp phồn thịnh. Nếu suy thì khó thoát hung sát hoành hành, dễ bị chứng bạch đới cấp tính. Nhẹ thì bị nhọt độc, nặng thì hao người Ngũ gặp Lục sinh xuất. Nếu vượng thì tiền tài tương đối khá giả, con cái hiếu thuận, nhưng chủ nhân không hưởng được. Nếu suy thì chủ nhân mang bệnh, nhẹ thì đau đầu, đau xương, nặng thì thập tử nhất sinh, ra ngoài dễ bị thương tổn. Hoạn lộ gặp nhiều khó khăn, thậm chí có thể bị tổn thất Ngũ gặp Thất sinh xuất. Nếu vượng thì giàu có sung túc, gia nghiệp hưng vượng. Nếu suy thì tranh chấp thị phi, chuyện rắc rối xảy ra thường xuyên, hoặc vì tửu sắc mà phá hết gia sản, có khi gây nên tai họa dẫn tới tù tội. Thiếu nữ trong nhà thường đau ốm . Có người bệnh răng, miệng, họng, hoặc bị thương bởi búa riều Ngũ gặp Bát là tỵ hòa. Nếu vượng thì giàu có, ruộng vườn mênh mông, con cái tốt lành gặp nhiều thuận lợi. Nếu suy thì con trai nhỏ thường đau yếu, trung niên đau mỏi gân cốt. Khí vận của gia đạo suy giảm Ngũ gặp Cửu là sinh nhập. Nếu vượng thì con cái thông minh, tài vận tốt. Nếu suy thì sinh con ngu đần, người nhà mắc chứng đau mắt, đau đầu hay trong lòng buồn phiền. Gặp lúc Thái Tuế tới dễ mắc chứng bạch đới cấp tính 6. Lục Bạch Lục Bạch là sao Vũ Khúc, là cát tinh. Nếu vượng thì quyền uy chấn động bốn phương, làm võ tướng thì công trạng hiển hách, gia đình giàu có, nhiều nhân đinh. Nếu suy tử thì sống cô độc hoặc chết trong binh đau; Người nhà thường góa vợ, có nhiều quả phụ Lục gặp Nhất là sinh xuất. Nếu vượng thì quan vận thuận lợi, hanh thông, tiền của dồi dào, con cái học hành đỗ đạt. Nếu suy thì quan lộc tuy không giảm nhưng người nhà thường mắc chứng đau đầu, hoặc gặp tai nạn sông nước. Lục gặp Nhị là sinh nhập. Nếu vượng thì phát lớn, giàu có nhiều vàng bạc ngọc quý, cuộc sống bình yên, xuất hiện người hành nghề y cứu đời. Nếu suy thì tham lam vô độ, bủn xỉn, hoặc xuất gia đi tu, vợ chồng bất hòa chia cách. Người nhà thường mắc các chứng về đầu, xương, dạ dày, đường ruột Lục gặp Tam khắc xuất. Nếu vượng thì tài vận và quan vận đều hanh thông, quyền uy hơn người. Nếu suy thì dễ gặp nạn binh đao, bị thương, cha con bất hòa, có tang tóc. Lục gặp Tứ khắc xuất. Nếu vượng thì giàu có, thành công trên thương trường, nhất là lãnh vực buôn báng đường xa, hoặc được làm quan võ. Nếu suy thì khắc vợ hoặc bị khổ sai, có khi người vợ không chịu đựng nổi, phải bỏ mà đi. Người nhà thường đau tay, đau đầu hoặc bị tê liệt Lục gặp Ngũ là sinh nhập. Nếu vượng thì tài vận và quan vận đều tốt, nhưng có tiểu nhân ngầm hại. Nếu suy thì tiểu nhân chống đối, làm hao tổn tinh thần hoặc mất chức. Chủ nhân nhiều bệnh tật, thường là bệnh đau đầu, tinh thần bất ổn có thể làm điều sai quấy Lục gặp Lục tỵ hòa. Nếu vượng thì quan vận thuận lợi, hanh thông, quyền chức cao. Nếu suy thì gặp nhiều rắc rối, khó thoát thân, có khi phải ngầm di chuyển chỗ ở; hoặc bị hung đồ truy đuổi mà phải trốn chạy, của cải tổn thất, dễ bị tai nạn trên đường. Lục gặp Thất tỵ hòa. Nếu vượng thì làm văn quan hay võ chức đều có quyền lớn trong tay, tài lộc thuận lợi. Nếu suy thì dễ bị thương vì đao kiếm, hoặc vì tranh chấp mà bị tổn thương. Nhà có thể bị trộm cướp, hoặc vì xích mích mà gặp rắc rối . Già trẻ đều không yên, thường mắc bệnh đau đầu, đau miệng, đau họng Lục gặp Bát là sinh nhập. Nếu vượng thì có văn chức, võ quyền, công danh và bổng lộc đều có, con cháu được thừa hưởng gia nghiệp hưng thịnh. Nếu suy thì tuy quan lộc không giảm nhưng người nhà phần nhiều mắc bệnh đau đầu, đau xương. Lục gặp Cửu là khắc nhập. Nếu vượng thì hỏa chiếu thiên môn nên đinh tài đều vượng, chủ nhân quyền cao chức trọng lại sống thọ. Người nhà xuất hiện võ tướng tài ba. Nếu suy thì hỏa đốt thiên môn, người nhà sinh con bất hiếu. Con cháu dòng trưởng sa sút, gặp hỏa khắc kim thì dễ bị bệnh thổ huyết . Hỏa thiêu dốt thiên môn nên trong nhà dễ sinh nghịch tử; hỏa thịnh thì dễ gặp tai ương 7. Thất Xích Thất Xích là sao Phá Quân, còn gọi là tặc tinh. Nếu vượng thì phát về võ quyền, đinh tài đều vượng . Nếu suy thì trong nhà xuất hiện trộm cướp hoặc có người chết trận, bị giam cầm . Gia đạo không yên, có thể vì hỏa tai mà tổn đinh hoặc xuất hiện người ham mể tửu sắc . Thất là hung tinh vì vậy nên tịnh mà không nên động . Động thì điều xấu càng nhiều, nhất là nhà ở đầu phố hay ngã ba thì nguy hại càng lớn . Nếu sao Thất Xích tương ứng với hình thế Loan Đầu thì sẻ các biểu hiện như: a. Bên ngoài có sa hình dạng hồ lô thì trong nhà có người hành nghề y b. Bên ngoài có sa hình dạng con dao thì có con làm nghề đồ tể c. Bên ngoài có sa hình dạng cái kềm thì trong nhà có người làm thợ thủ công d. Bên ngoài có sa hình dạng cờ trống thì trong nhà dễ có người phản nghịch e. Bên ngoài có sa thủy hình dạng thập thò hoặc phình ra bên hông thì trong nhà dễ có kẻ làm trộm cướp f. Bên ngoài có sa xung chiếu thẳng tới gặp Nhất Lục bay đến thì trong nhà dễ có người thổ huyết nặng Thất gặp Nhất là sinh xuất. Nếu vượng thì võ chức thăng tiến, con cái đào hoa. Nếu suy thì thủy kim đều lạnh nên con cháu ham mê tửu sắc, tiêu phá tiền của hoặc vong ơn bội nghĩa. Gặp lúc Thái Tuế bay tới thì có điều nọ tiếng kia, hoặc bị cướp, bị bệnh ở bụng dưới, thổ huyết, thương tật, hay bị tù đày mà phá sản Thất gặp Nhị là sinh nhập. Nếu vượng thì tài sản ruộng vườn thêm nhiều, thăng quan tiến chức, phụ nhân sang quý . Nếu gặp được số Nhị Thất bát quái Tiên Thiên thì trong nhà luôn có đèn chiếu sáng, hưng vượng nhộn nhịp. Nếu suy thì dễ gặp hỏa hoạn, phụ nữ trong nhà bất hòa, người nhà dễ bị ngộ độc thức ăn, có bệnh về răng miệng hay kiết lị. Thất gặp Tam khắc xuất. Nếu vượng thì làm văn thần võ tướng, quyền cao chức trọng, trong nhà xuất hiện người có tài văn thao võ lược, bốn phương kính phục, con cháu giỏi giang hơn người. Nếu suy thì đối xử thô bạo với mọi người, con cái hống hách lộng hành. Gia đạo bị xuyên tâm sát dễ gặp binh đao, trộm cướp . Trong nhà cãi cọ, kiện cáo lẫn nhau; gia đình bất hòa, con cái ly tán . Người nhà dễ mắc bệnh thổ huyết, bị thương tật hoặc quan tai. Thất gặp Tứ khắc xuất. Nếu vượng thì phụ nhân sang cả quyền thế, quan lộc đều có, đồng thời gặp vận đào hoa. Nếu suy thì phụ nữ làm chủ nhân, gặp kiếp đào hoa nên nam nữ ham dâm, trong nhà bất hòa, mẹ chồng nàng dâu không hòa thuận. Dễ bị bệnh thổ huyết hoặc chết yếu Thất gặp Ngũ là sinh nhập. Nếu vượng thì giàu có, ruộng vườn của cải đại phát. Nếu suy thì có bệnh ở miệng, ung nhọt. Thường tranh chấp nên dễ bị kiện tụng hoặc gặp rắc rối vì đào hoa Thất gặp Lục tỵ hòa. Nếu vượng thì văn võ toàn tài, quan lộc đều có. Nếu suy thì có tranh chấp ở chốn quan trường, gia đạo bất hòa, dễ bị thương tật vì đao kiếm hoặc tai nạn xe cộ. Dễ bị bệnh tật ở miệng, đau đầu, viêm nhọt Thất gặp Thất tỵ hòa. Nếu vượng thì của cải và quyền bính đều được quý nhân phù trợ nhưng kiếm tiền bất nghĩa. Nếu suy thì dễ gặp trộm cướp hoặc hỏa hoạn; thường hay bị tranh chấp. Trai gái vì ham mê tửu sắc nên dễ bị quan tai Thất gặp Bát là sinh nhập. Nếu vượng thì thăng quan tiến chức liên tiếp, tài vận hanh thông, trở nên giàu có, gia đình hòa thuận, con cháu khỏe mạnh và phát triển thuận lợi. Nếu suy thì tiền tài tổn thất, ra đi nhanh chóng. Dễ bị tật ở miệng hoặc con nhỏ lắm bệnh tật Thất gặp Cửu là khắc nhập. Nếu vượng thì hỏa chiếu sảnh đường, gia đạo hưng vượng. Nếu suy thì dễ gặp hỏa hoạn. Phương vị Thất Cửu nếu có Nhất Bạch bay đến thì dể gặp hỏa tai. Nếu phương vị Thất Cửu là ở hướng mà động thì gặp hỏa hoạn . Thất Cửu ở phương vị sơn gặp Nhị Hắc thì hung sát càn nặng, dù không động cũng gây nên hỏa hoạn . Nếu Loan Đầu bên ngoài có nhiều màu đỏ thì khó tránh khỏi hỏa tai 8. Bát Bạch Bát Bạch là sao Tả Phụ, là cát tinh. Nếu vượng thì trung hiếu, phú quý dài lâu, con cháu được hưởng phúc lộc tổ tiên. Nếu suy tử thì có tổn thương nhỏ hoặc bị bệnh dịch Bát gặp Nhất là khắc xuất. Nếu vượng thì đại lợi về văn chương học hành, văn chức thăng tiến, đặc biệt thuận lợi về kinh doanh địa sản. Nếu suy thì dễ mắc bệnh thiếu máu, bệnh về tai; anh em trong nhà bất hòa, bạn bè phản bội, hoặc phụ nữ không sinh đẻ, trẻ con chết đuối. Bát gặp Nhị là tỵ hòa. Nếu vượng thì giàu có nhờ địa sản. Nếu suy thì dễ mắc bệnh đau dạ dày, đường ruột, hoặc bị chó cắn. Nếu Loan Đầu bên ngoài có dải núi chạy đi thì có thể xa rời quê hương đất tổ, xuất gia làm tăng ni hoặc chết ở đất khách quê người Bát gặp Tam khắc nhập. Nếu vượng thì địa sản (nhà cửa, ruộng vườn) dồi dào, quyền lực tăng tiến lên đột ngột, nhờ đước số của Tiên Tiên bát quái nên việc hợp tác rất tốt. Nếu suy thì của cải thất thoát, chức quyền giảm sút. Trong nhà có người bị thương nhẹ ở tay chân hoặc có bệnh gan, dạ dày Bát gặp Tứ khắc nhập. Nếu vượng thì vợ nắm quyền, giàu có về ruộng vườn và nhà cửa. Nếu suy thì có tổn thương nhỏ, vợ lấn quyền chồng, gia đạo bất hòa. Ra ngoài dễ gặp tai nạn xe thuyền, hoặc làm ẩn sĩ ở chốn núi rừng Bát gặp Ngũ là tỵ hòa. Nếu vượng thì tài lộc phát đạt, vận thế hanh thôn. Nếu suy thì hao tài tổn sức, dễ bị bệnh nhẹ, vận thế trở ngại. Dễ mắc bệnh đau bao tử, đường ruột, hoặc ngộ độc thức ăn Bát gặp Lục sinh xuất. Nếu vượng thì dễ trở thành quan văn, nhiều quyền thế, phú quý và phúc đức tăng cao. Nếu suy thì thì vẫn giàu sang nhưng cha con bất hòa, dễ mắc bệnh đau đầu, nhức xương. Bát gặp Thất sinh xuất. Nếu vượng thì văn chức võ quyền đều có, tài lộc sung túc, vợ chồng hòa thuận, con cái an khang. Nếu suy thì tài sản dễ tiêu tán, vợ chồng mâu thuẩn bất hòa, con cháu tổn thất. Bát gặp Bát là tỵ hòa. Nếu vượng thì có lợi về văng chương, học hành; phát về ruộng vườn, nhà cửa; giàu sang phú quý đều có, sự nghiệp hưng vượng. Nếu suy thì sự nghiệp suy tàn, của cải thất tán. Thường mắc bệnh nhức xương đau vai Bát gặp Cửu là sinh nhập. Nếu vượng thì tin vui đến dồn dập; giàu có không ai sánh kịp, có địa vị trong triều đình. Nếu suy thì mắt mũi lắm tật bệnh, bụng nhiệt, đại tiện ra máu, hoặc bị hỏa hoạn. 9. Cửu Tử Cửu Tử là sao Hữu Bật . Nếu vượng thì văn chương lừng lẫy, vinh hiển đột ngột, con cháu dòng giữa được hưởng phú quý . Nếu suy thì bị hỏa tai, hoặc tai họa ở chốn quan trường, bị thổ huyết, điên loạn, bệnh mắt, hoặc sinh đẻ khó Cửu gặp Nhất là khắc nhập. Nếu vượng thì trong nhà có nhiều việc vui mừng, âm dương chính phối, thủy hỏa có đủ, vợ sinh nhiều con trai, giàu sang đến đột ngột. Nếu suy thì con cháu dòng giữa lụn bại, có bệnh ở mắt và tai. Nếu kèm theo Thất Xích bay đến thì e rằng có hỏa tai Cửu gặp Nhị là sinh xuất. Nếu vượng thì giàu có về ruộng vườn nhà cửa, mẫu thân quản lý gia sản. Nếu suy thì sinh con đần độn, tran viên bị hỏa hoạn, dạ dày nóng nên đại tiện ra máu, dễ có bệnh đường ruột hoặc bệnh mắt. Cửu gặp Tam sinh nhập. Nếu vượng thì đèn luôn rực sáng sảnh đường, quyền cao chức trọng, uy chất bốn phương, con cháu thông minh đắc chí. Nếu suy thì e rằng có kiếp nạn vì dâm loạn, có hỏa hoạn. Đàn ông hung ác, bại hoại thanh danh. Người nhà dễ bị bệnh mắc, hoặc bị thương tật ở chân Cửu gặp Tứ sinh nhập. Nếu vượng thì sảnh đường rực sáng, chồng vẻ vang danh tiếng, vợ sang quý đẹp đẽ, con cháu thông minh, tài văn chương nổi bật, có nhiều hoạnh tài, tinh mừng đến dồn dập. Nếu suy thì nam nữ dâm loạn, danh tàn thân bại, sự nghiệp tiêu tan, thường bị bệnh mă*'c hay lưng eo. Con cháu hoang đàng bừa bãi Cửu gặp Ngũ là sinh xuất. Nếu vượng thì giàu có về địa sản. Nếu suy thì sinh con đần độn, con có tổn thương về mắt. Nếu Loan Đầu bên ngoài có ngọn núi trọc vi bị tàn phá thì con cháu thi cử khó đỗ đạt; trong nhà có người bị tật hay mù lòa, hoặc vì sắc dục mà mắc bệnh giang mai, nhọt độc. Cửu gặp Lục khắc xuất. Nếu vượng thì văn chương hiển đạt. Thất Bát Cửu liền nhau là ứng nghiệm tám đời đều đó tài văn chương. Chủ nhân khỏe mạnh sống lâu, gia đạo an khang. Nếu suy thì lửa thiêu đốt thiên môn, trong nhà sinh ra nghịch tử, hoặc con cháu bỏ nhà ra đi. Hỏa khắc kim (phế thuộc kim) nên dễ bị thổ huyết, hoặc bệnh lao. Cửu gặp Thất khắc xuất. Nếu vượng thì nam nữ thông minh lanh lợi, tiền của hoạnh tài đến tay. Nếu suy thì nam nữ nghiện ngập; vì ham mê tử sắc hoặc bị hỏa hoạn mà tài sản tiêu tán, nhà có người mắc bệnh lao. Cửu Thất là hỏa của Tiên Thiên và Hậu Thiên bát quái, cho nên chủ về hỏa hoạn và củng là quan tai. Cửu gặp Bát là sinh xuất. Nếu vượng thì giàu có về ruộng vườn nhà cửa, văn chức thăng tiến, tinh mừng đến dồn dập. Nếu suy thì hỏa viêm thổ táo, sinh con ngu đần. Nhà có người bị tật mắt hoặc mắc bệnh đau bao tử Cửu gặp Cửu là tỵ hòa. Nếu vượng thì tài văn chương hiển hách, nổi tiếng khắp nơi, gia cảnh rực rỡ, đinh tài phát đột ngột. Nếu suy thì sinh nhiều con gái, nam nữ hiếu sắc. Trong nhà có người bị tật ở mắc hoặc mù lòa . Trong nhà dễ có người bị bệnh bạch đới cấp tính. Cần chú ý thế nào là vượng và thế nào là suy. Thí dụ : vận 8 ở một cung có cặp sơn hướng 8-6 . Nếu có núi, nhà cao, cây cao thì gọI là vượng vì 8 là sơn tinh vượng. Nếu có ao hồ thì gọI là suy vì 6 là hướng tinh tử khí trong vận 8 Phương pháp chọn toạ sơn lập hướng Về tuổi của người sống trong ngôi nhà thì Lý thuyết huyền không không đặt nặng vấn đề. Nếu ngôi nhà được vượng sơn vượng hướng và loan đầu phù hợp thì bất cứ tuổi nào sống trong ngôi nhà đó vẫn tốt như thường. Tuy nhiên việc chọn toạ sơn lập hướng cho một ngôi nhà theo huyền không cần xem xét một cách cẩn thận. - Sau đây là bài viết của bác Tuấn Kiệt về một số điều cần tránh khi chọn toạ sơn lập hướng Vài cách sát trong Huyền Không Tác giả: TuanKiet - Những người mới áp dụng Huyền Không nên lưu ý nhiều đến những cách sát, bởi do học thuật hoặc kinh nghiệm còn hạn chế dễ bị bỏ qua những cách sát gây tổn hại âm đức cho mình và cho người. Nếu đã ứng dụng theo Huyền Không thì trước hết hãy theo Huyền Không từng bước cho chuẩn. Huyền Không đặc biệt chú trọng tới việc vận dụng Lý khí sao cho phù hợp với Hình thế vì vậy Hình – Lý là hai khái niệm bắt buộc không thể thiểu khi vận dụng Huyền Không. - Về lý khí, Huyền Không đặc biệt coi trọng sự vượng suy của khí, đôi khi ngũ hành chỉ là thứ yếu, đừng quá xét quan hệ của ngũ hành sinh khắc giữa các ai tinh, các phi tinh mà quên đi tính chất vượng suy tử của các sao. Sự vượng suy phân ra chi tiết, sao chính vận ví dụ vận 8 là Bát Bạch gọi là sao đương vận, khí nó mạnh nhất và có sức chi phối lớn, tiếp theo là sao vượng khí và sinh khí Cửu Tử, Nhất Bạch. Các sao sinh khí có sức chi phối yếu hơn nhưng cũng là cát tinh, đặc biệt trong đương vận các sao này có thể yếu nhưng sang những vận sau nó lại trở thành hữu dụng đó là trường hợp tính toán cho tương lai nhất là vận dụng trong âm phần mồ mả. Trong một cùng cặp sơn tinh và hướng tinh bước đầu phải xét xem quan hệ của sơn tinh hay hướng tinh thì cái nào là chủ cái nào là khách, sau đó xem chủ vượng hay khách vượng, nếu khách vượng khắc chủ thì là cát mà sinh nhập chủ cũng là cát. Nếu sao khách là suy tử thì luận là hung, kế tiếp mới dùng ngũ hành luận mức độ nặng nhẹ và biến tướng cụ thể của học phúc. Đừng luận máy móc (VD như những bài của anh kepnhut có giá trị nhưng những người mới học không tinh dễ sa đà quá vào ngũ hành) - Trong tinh bàn cần luận chủ yếu sự hung sát của hai cung sơn và hướng, đó là hai cung rất quan trọng đặc biệt là trong môi trường dương trạch ở đô thị bây giờ. Cách cuộc vượng sơn vượng hướng thường là cát vì đảm bảo đượng yêu cầu nay vì hai cung sơn hướng đều có vượng tinh chiếu, nếu phối hợp với loan đầu nữa thì thật tốt. Có điều so với cách hợp thập (toàn ban có sao sơn - vận hơp 10, hoặc hướng - vận hơp 10) thì cón kém xa bởi cách hợp thập toàn ban đều vượng, khí các quẻ thông nhau, ví dụ 4, 6 là hai cung Càn, Tốn tức Thiên Môn và Địa Hộ , Càn vượng thì Tốn vượng nên chỉ cần một cung vượng toàn ban đều vượng, địa vận lại kéo dài chứ không như cách vượng sơn vượng hướng, nếu sang vận mới mà hướng tinh chuyển vào trung cung thì gọi là nhập tù như vậy phúc đã hết chuyển thành hoạ ngay. - Nếu phạm vào cách thướng sơn hạ thuỷ tức là sao đương vận ở sơn và hướng bị đảo lộn là cách xấu nên bỏ không dùng hoặc nên dùng kiêm hướng bởi theo Huyền Không thì long thần và sơn thần bị đảo lộn phương vị chủ phá tài tổn đinh , cần phải có cách đảo kỵ long. Nếu được cách phụ mẫu tam ban quái thì rất tốt. Có mấy loại phụ mẫu tam ban như sau. Nếu 3 cung Ly Chấn Càn có các sao hợp thành các bộ 147, 258,369 gọi là Ly cung đả kiếp tức là một vận vượng, vd vận 1 vượng thì cướp được vượng khí của cả 2 vận 4 và 7 và nhìn trên tinh bàn thường thấy khí thông nhau từ quẻ Ly đến trung cung ra qủe khảm, thấy có các cặp sao sinh thành nối liền 3 cung. Tương tự khảm đả kiếp là các bộ sao 147, 258,369 xuất hiện ở 3 cung Khảm Tốn Đoài. Còn 3 cung Cấn Trung và Khôn nếu xuất hiện Tam Ban Quái thì gọi là Tam Ban Xảo Quái. Mức độ tốt lành là Ly Đả Kiếp, Khảm Đả Kiếp rồi đến Tam Ban Xảo Quái. Chú ý là có quẻ tam ban rồi để biến thành phúc phải có giải pháp thiết kế phù hợp cho mối phương vị của quẻ. - Ngoài thướng sơn hạ thuỷ phải kiểm tra xem tinh bàn có sao nào nhập trung là 5 không, như vậy nếu Ngũ đi thuận thì phạm phục ngâm, đi nghịch phạm phản ngâm (các sao sơn hướng lặp lại sao của vận hoặc đối ngược với sao của vận) chủ khắc hãm xấu không nên dùng. - Kiểm tra xem tinh bàn ở hướng (rất quan trọng) và ở sơn xem cát hung thế nào, tránh các sao suy tử, sao thoái khí có thể tạm dùng nhưng phải kết hợp với một vài cách tốt khác, nếu không gặp năm có sao thoái khí hoặc tử khí sinh trợ thì hoạ đến. Nếu ở hướng bị phạm phải luận là hao tài, ở sơn là tổn hại quan hệ gia đình và con cái. - Tránh các bộ sao Lục Thất (Thương kiếm sát), Tam Thất (Xuyên Tâm Sát), Nhị Thất (Đấu Ngưu Sát) ở sơn, hướng, minh đường. - Kỵ Ngũ Hoàng đại sát : Nếu Ngũ hoàng xuất hiện ở sơn hướng nên tránh vì Ngũ Hoàng là tối độc không thể xâm phạm. Duy có vận 5 Ngũ Hoàng là Chính Quan Mậu Kỷ rất tốt nếu nhập toạ hướng phát sinh phúc lớn hơn hẳn các sao khác bởi quyền lực nó lớn hơn. - Khi động thổ phải xem có phạm năm Thái Tuế hay không ? Ví dụ năm Tí không nên toạ hướng Tí cùng lắm là Toạ không thể hướng. Nếu xét tinh bàn là cách vượng thì không sợ thái tuế, chỉ sợ hung thì thái tuế làm họa đến mau hơn. Xem thêm cả tam Sát. VD tháng, năm Thân Tí Thìn sát ở 3 phương Tỵ Ngọ Mùi nên tránh động chạm đến 3 phương này. Ngoài ra Huyền Không còn dùng cả Phi Thái Tuế, Ám Kiến (chỉ dùng cho tháng) - Xem xét địa hình xung quanh đặc biệt sơn thuỷ phối ứng với tinh bàn. Trong đô thị thì là ngã 3 ngã tư, ao hồ, sông ngòi, gò đống, mái nhọn, nghĩa trang, các toà nhà xung quanh phối với những cung xấu trong tinh bàn xem có phạm gì không ? VD một cung càn có sao 5, 9, phương ấy lại có nghĩa trang là rất xấu bởi Ngũ Cửu là cặp sao gây hoạ lớn, gặp nghĩa trang âm khí nhiều tổn hại cho người cha già, nữ trong nhà. Nếu mở cửa phụ, cửa sổ thì càng độc hơn, từ đó có cách trấn yểm ngay kịp thời thì sẽ tránh được điều xấu.Một thí dụ về Lý khí và hình thế trong huyền không học Căn nhà được tam ban xảo quái trích trong Trạch Vận Tân Án Cuối thế kỷ 19, vận 2, ông Trương Hồng Nam ở tại Indonesia là một người từ tay trắng tạo nên sự nghiệp. Nhà ông qui mô hùng tráng như dinh thự của vua chúa, toạ cấn hướng khôn (45 độ) nên là nhà có được tinh bàn tam ban xảo quái (một dạng nhà vào bậc nhất nhì theo huyền không phi tinh). cửa chính tại cung ly có hướng tinh 3 là sinh khí trong vận 2 và là vượng khí trong vận 3 nên rất tốt Nhà tuy bị thướng sơn há thuỷ Nhưng vì phía sau có biển và phía trước có núi nên là hợp cách đảo kỵ long. lại thêm vận 2 có phương vị chính thần(cần sơn) là tây nam và phương vị linh thần ( cần thuỷ)là đông bắc. Phía đông bắc nhìn ra biển nên phương vị này trở thành phương vị vượng khí vô cùng. Như vậy trong vận 2 nhà này hấp thụ vượng khí rất mạnh mẽ nên phát triển cũng rất mạnh mẽ. Đến vận 3, hiệu lực của biển ở phương đông bắc không còn nữa mà ngược lại khí tại hướng ở cung này trở thành thoái khí nên kỵ thuỷ, nhưng cửa chính của nhà vẫn còn mở ở cung vượng khí ( gọi là nhất chính đương quyền) nên vẫn còn tiếp tục phát triển thịnh vượng. Cuối vận 3 đầu vận 4 khí vượng nhà này đã hết cùng lúc đó chiến tranh cũng chấm dứt ở châu âu nên cao su sụt giá làm các nhà tư bản đấu tư cao su lần lượt phá sản. Vận 4 Khí của hướng ở đông bắc là tử khí nên càng kỵ thuỷ mà gặp biển nên xui sẻo vô cùng vì thay vì mượn khí của các nguyên khác thì nay bị cướp mất hết. Lại thêm cửa chính hấp thụ thoái khí ở hướng nên vận xui càng nặng. Ông Trương hồng Nam có trong tay một khối lượng hàng cao su tồn kho rất lớn nên chịu hậu quả nặng nề khiến cho tài sản mất hết mà còn lại nợ nần chồng chất nên đau buồn mà chết, gia đình ly tán.Phương pháp mở cổng, cửa 1_ Nhà được vượng khí tới hướng thì mở cửa trước ngay cung của hướng đó. Nên nắm trọn trong cung đó, nếu là nhân nguyên long hoặc thiên nguyên long thì có thể lấn qua nhau được. Như cung ngọ thì có thể lấn qua đinh và ngược lại. Nếu là địa nguyên long thì chỉ nằm trọn trong cung này mà thôi. 2_ Nhà không được vượng khí tới hướng thì mở cửa qua cung có vượng khí. Thí dụ nhà tọa dậu hướng mão vận 8. tử khí tứ lục tới hướng nếu mở cửa tại mão hoặc canh thì tứ lục tới cửa. Nhưng nếu mở cửa tại giáp thì vẫn tốt như thường, vì áp dụng bí quyết thành môn thì vượng tinh 8 tới cửa. Đây là cách làm vượng những nhà mà hướng không đắc vượng khí. 3_ Muốn mở cổng, cửa chính hay cửa phụ đều phải dùng đến bí quyết của thành môn, TUỲ THEO TỪNG VẬN, để xác định vị trí của nó, có như thế mới có thể nhận được vượng khí.Thí dụ : Nhà nhập trạch trong vận 7, lấy 7 nhập trung cung xoay thuận thì vận tinh 4 tới phía TÂY NAM. Nếu muốn mở cửa ở phương này thì lại phải lấy 4 nhập trung cung. Nếu chọn phương MÙI làm vị trí cửa thì MÙI tương ứng với quẻ THÌN của 4, tức là quẻ ÂM nên đi nghịch, nên vượng khí Thất xích sẽ đến phía TÂY NAM. Ngược lại, nếu chọn phương KHÔN hoặc THÂN để mở cửa sau thì KHÔN và THÂN sẽ tương ứng với TỐN và TỴ của số 4 tức là thuộc quẻ DƯƠNG nên đi thuận, sao Nhất bạch sẽ đến cửa này thì chỉ bình thường mà thôi. Còn bây giờ đã qua vận 8, tuy nhà không sửa đổi để thay đổi trạch vận, nhưng vẫn lấy vận tinh Bát bạch nhập trung cung xoay thuận thì vận tinh Ngũ Hoàng sẽ đến phía TÂY NAM. Vì Ngũ Hoàng không có phương hướng, nên khi bay đến cung nào thì theo phương hướng của cung đó. Cho nên nếu chọn cửa phương MÙI thì lại lấy Ngũ Hoàng nhập trung cung bay nghịch thì sao Bát bạch sẽ tới cửa sau. Bát bạch là vượng khí của vận này nên tài lộc sẽ phát. Đó chính là dùng bí quyết của thành môn khi chọn phương vị cửa cho từng vận mà không cần cải tạo trạch vận vậy. Còn nếu chọn hướng KHÔN hay THÂN thì Ngũ Hoàng sẽ nhập trung cung bay thuận, sao Nhị Hắc tới cửa sau chủ đem lại bệnh tật mà thôi. Muốn ứng dụng Thành Môn thì cần phải có địa thế bên ngoài (tức Loan đầu) ứng hợp, tức khu vực có Thành Môn phải có sông, biển, hồ tắm hoặc ngã ba, ngã tư... thì mới dùng được, còn nếu không thì ít nhất cũng phải có cổng hay lối vào nhà tại đó. chứ nếu không thì dù có để nước hay mở cửa tại khu vực đó cũng không hữu hiệu lắm. Nhất là vấn đề mở cửa thì nếu cửa trước đã có vượng khí thì cần gì phải mở thêm cửa ngay bên cạnh, vừa mất thẩm mỹ, vừa chẳng được lợi lộc gì thêm. Cho nên không phải nhà nào cũng có thể ứng dụng được Thành Môn. Còn phương toạ trên lý thuyết cũng có thể kiếm Thành Môn để làm vượng cho nhân đinh, và cách tìm thì cũng tương tự như tìm Thành Môn ở hướng. Chỉ có điều là nơi đó cần có núi, gò dất cao hay nhà cao, cây cao... Tuy nhiên trên thực tế thì ít ai dùng tới cách này. Vì nhà nếu đã "Đáo sơn, đáo hướng" thì phía sau đều đã có vượng tinh của sơn tới, nên chỉ cần có núi hay nhà cao tại khu vực phía sau nhà là cũng đủ vượng đinh rồi. Chưa kể tới cuộc "Thu Sơn, Xuất Sát" nữa, cho nên như thế cũng quá đủ cho cuộc vượng đinh. Riêng đối với những nhà có song tinh tới hướng thì chỉ cần ở hướng đắc thuỷ lớn cũng đủ bảo đảm vượng cả đinh lẫn tài rồi. Cách tính Thành Môn đơn giản chỉ là: a/ Hướng có Thành Môn phải cùng 1 Thiên, Địa hoặc Nhân nguyên long với toạ, hướng của căn nhà (hoặc ngôi mộ). b/ Hướng của vận tinh tới Thành Môn phải là sơn âm, xoay nghịch thì Thành Môn mới đắc vượng khí và dùng được. Nếu là sơn dương, xoay thuận thì chỉ gặp toàn khí suy, tử tới Thành môn nên không thể dùng. Cho nên gặp những trường hợp như thế thì cứ bỏ đi c/Nếu khí Thành môn vượng thì dù hướng tinh ở nơi đó có là suy , tử cũng nên đặt nước. Tuy nhiên, nếu đã đặt thì nước phải lớn mới có hiệu quả, nếu nước nhỏ quá thì chỉ mất công trông coi, dọn dẹp mà thôi.Hoặc nơi khí thành môn vượng mà có ngã ba, ngã tư thì rất tốt. Hướng cửa phòng ngủ và hướng đầu giường ngủ Lấy tâm phòng, sau đó đưa tinh bàn của căn nhà vào tâm phòng. Cửa mở tại cung có hướng tinh là cát tinh: 1; 4; 6; 8. Nếu mở cửa tại cung có hướng tinh là vượng, sinh tiến khí thì càng tốt ho8n. Thí dụ: vận 8, cửa phòng có hướng tinh là 8 hoặc 9 thì sẽ tốt cho người ở trong phòng này đặc biệt là về tài lộc. Với học sinh thì nên mở cửa tại cung có hướng tinh 4 (chủ về học vấn) Dưới đây là bài viết của bác BNQ luận về phòng ngủ Về việc luận cát, hung của phòng ngủ thì ngoài việc dùng phi tinh của cửa phòng kết hợp với niên-nguyệt tinh thì còn cần phải để ý tới những phương vị có thuỷ hoặc động khí ở gần hay chung quanh phòng ngủ như bếp, cầu thang, hồ cá...Nếu những khu vực này lại nằm cùng 1 cung với cửa phòng thì tính chất cát, hung càng tăng thêm rõ rệt. Chẳng hạn như 1 nhà toạ DẬU hướng MÃO, nhập trạch trong vận 7, thì khu vực ĐB có vận tinh 1, sơn tinh 6 và hướng tinh 2. Nếu 1 phòng ngủ có cửa phòng nằm tại khu vực phíaNguồn:nhantrachoc.net,vn
-
Dùng số 10 để thông với ngũ hoàng (5) ở trung cung của cửu cung, là nơi giao hội, xuất nhập của Nhật Nguyệt mà tạo thành thế “Thiên tâm Thập đạo” của Lạc thư và Hậu thiên Bát quái. Vì Thập (10) là âm Kỷ, thuộc Địa, còn Ngũ (5) là dương Mậu, thuộc Thiên, nên khi lấy Thập (10) ở tám cung mà phối với Ngũ (5) tại Thiên tâm (chính giữa) thì sẽ tạo thành sự kết hợp giữa Thiên- Địa, Phu – Phụ, Âm – Dương. Thiên tâm thập đạo có thể thông khí giữa 8 cung gọi là “thông quái” Giúp cho nhà dù ở thế suy bại ( trường hợp bị thướng sơn hà thuỷ) cũng chuyển thành vượng mà phát phúc, lộc dồi dào. Thiên-Tâm Thập-đạo chĩ áp dụng cho các sao về Vận, Tọa và Hướng mà thôi. Có nhiều loại Hợp thập: • Tổng số là 10 của Tọa của các cung tọa và hướng. • Tổng số là 10 của Hướng của các cung tọa và hướng. • Tổng số là 10 của Hướng hay Tọa của các cặp cung (1, 6), (2, 7), (3, 8) và (4, 9). • Hợp thập quái: là tổng số của Tọa và Hướng ở Trung-cung là 10, chủ phát vượng nhanh chóng. • Tổng số là 10 của Hướng hay Tọa của các cặp cung đối xứng qua Trung-cung. Vì đây là cách cục đặc biệt, nên chỉ có 6 trường hợp, và đều xảy ra trong Vận 5 cho những nhà có tọa-hướng CẤN-KHÔN, KHÔN-CẤN, THÂN-DẦN, DẦN-THÂN, GIÁP-CANH, CANH-GIÁP mà thôi. Thí dụ: nhà tọa CẤN hướng KHÔN vận 5. Nhìn vào trạch bàn ta thấy: - Sơn tinh 5 ở phía TÂY NAM + Hướng tinh 5 ở phía ĐÔNG BẮC = 10; - Sơn tinh 1 ở phía TÂY + Hướng tinh 9 ở phía ĐÔNG = 10. - Sơn tinh 9 ở phía TÂY BẮC + Hướng tinh 1 ở phía ĐÔNG NAM = 10. - Sơn tinh 4 ở phía BẮC + Hướng tinh 6 ở phía NAM = 10. - Sơn tinh 2 ở phía ĐÔNG BẮC + Hướng tinh 8 ở phía TÂY NAM = 10. - Sơn tinh 6 ỏ phía ĐÔNG + Hướng tinh 4 ở phía TÂY = 10. - Sơn tinh 7 ở phía ĐÔNG NAM + Hướng tinh 3 ở phía TÂY BẮC = 10. - Sơn tinh 3 ở phía NAM + Hướng tinh 7 ở phía BẮC = 10. Ngoài ra nếu nhìn vào trung cung thì thấy Sơn tinh 8 + Hướng tinh 2 = 10, nên đây là cách Hợp thập giữa Sơn tinh và Hướng tinh tức "Hợp thập quái". • Hợp thập số là tổng số là 10 của một cặp Tọa, Hướng hay Vận trong mổi cung xung quanh Trung cung, chủ về hưng vượng. Đây là các cuộc toàn bàn Hợp thập 1)_ Sơn tinh và Vận tinh có 7 trường hợp: - Vận 1: Tọa TỐN hướng CÀN, tọa TỴ hướng HỢI. - Vận 3: Tọa NGỌ hướng TÝ, tọa ĐINH hướng QUÝ. - Vận 4: Tọa CANH hướng GIÁP. - Vận 6: Tọa GIÁP hướng CANH. - Vận 7: Tọa TÝ hướng NGỌ, tọa QUÝ hướng ĐINH. - Vận 8: Tọa SỬU hướng MÙI, tọa MÙI hướng SỬU. - Vận 9: Tọa CÀN hướng TỐN, tọa HỢI hướng TỴ. 2)_ Hướng tinh và Vận tinh có 7 trường hợp: - Vận 1: Tọa CÀN hướng TỐN, tọa HỢI hướng TỴ. - Vận 2: Tọa SỬU hướng MÙI, tọa MÙI hướng SỬU. - Vận 3: Tọa TÝ hướng NGỌ, tọa QUÝ hướng ĐINH. - Vận 4: Tọa GIÁP hướng CANH. - Vận 6: Tọa CANH hướng GIÁP. - Vận 7: Tọa NGỌ hướng TÝ, tọa ĐINH hướng QUÝ. - Vận 9: Tọa TỐN hướng CÀN, tọa TỴ hướng HỢI Bất kể sự kết hợp giữa hướng tinh với vận tinh hay giữa sơn tinh với vận tinh thì khi đã được thiên tâm thập đạo thì toàn bàn đã được thông khí, 2 khí âm-dương Mậu-Kỷ đã tác hợp nên Sơn vượng thì Hướng cũng vượng và ngược lại. Trong cách cục Thiên Tâm Thập Đạo tuy toạ hướng có thể lâm vào tình trạng “:thướng sơn há thuỷ” tức suy bại về tài lộc và nhân đinh nhưng chỉ cần cung có sao sinh khí hoặc tiến khí được phù hợp hình thế mà trở lên vượng thì toàn bàn đều trở lên vượng mà không sợ “thướng sơn há thuỷ” nữa. Thí dụ nhà toạ TÝ hướng NGỌ vượng phát trong vận 7, qua vận 8 thì trở lên suy bại vì hướng tinh 7 đã trở thành thoái khí. Nhưng nếu cung hướng NAM (có hướng tinh 8 là vượng khí) hay cung hướng ĐÔNG BẮC (có hướng tinh 9 là sinh khí) có thuỷ, trống thoáng hay đường đi hoặc cung hướng TÂY NAM (có sơn tinh 8) hay cung hướng ĐÔNG (có sơn tinh 9) có núi, đồi, nhà cao hay cây cao thì nhà này vẫn vượng phát như thường (dĩ nhiên những khu vực này cần có cửa để đón nhận vượng khí) Tóm lại Thiên tâm thập đạo là sự kết hợp thành 10 để tạo nên sự thông khí giữa các cung còn gọi là thông quái và chỉ cần một cung được vượng thì toàn bàn đều vượng. Đây là những cách cục tốt nhất trong các cách cục thông khí. Tam ban quái & Thất tinh đả kiếp Các bộ số (1-4-7); (2-5-8); (3-6-9) được gọi là bộ số của quẻ tam ban. Phép dùng Tam ban quái và Thất tinh đả kiếp (đả kiếp là cướp đoạt khí của tương lai) là phép dùng quẻ Tam ban để cướp đoạt khí của tương lai như Thượng nguyên thì cướp đoạt khí của Trung nguyên, Trung nguyên thì cướp đoạt khí của Hạ nguyên... Có 3 loại tam ban quái: 1)_ Tam ban quái liên châu. 2)_ Tam ban xảo quái. 3)_ Phụ mẫu tam ban quái. Trong đó lại chia làm hai loại: a_ Ly cung đả kiếp (đả kiếp thật) b_ Khảm cung giả kiếp (đả kiếp giả) Tam ban quái liên châu Tam ban quái liên châu được cho là quý trong các cuộc đặc biệt và có thể đem tới nhiều điều tốt cho chủ nhà ( dĩ nhiên là loan đầu phải phù hợp ) Liên Châu Tam Ban Quái là cuộc bao gồm 9 cung mổi cung đều có sơn tinh, vận tinh, và hướng tinh liền nhau. 3 sao liền nhau , tức là 3 sao đều là (1-2-3) hoặc (2-3-4) hoặc (3-4-5) hoặc (4-5-6) hoặc (5-6-7) hoặc (6-7-8) hoặc (7-8-9) hoặc (8-9-1) Tam ban xảo quái Tam ban xảo quái là trong mổi cung đều xuất hiện một trong các bộ số tam ban (1-4-7); (2-5-8); (3-6-9) Cũng gần giống như các cuộc thiên tâm thập đạo. Các cuộc Tam ban quái liên châu và Tam ban xảo quái tuy có thể phạm vào cuộc “thướng sơn há thuỷ”, nhưng chỉ cần một cung hướng vượng và một cung sơn vượng thì toàn bàn đều vượng (dĩ nhiên vẫn cần có cửa để thu nhận khí ờ các cung vượng này). Còn nếu không được cung nào vượng thì thật là nguy hiểm, vì lúc đó khí bị cướp đi hết mà sinh ra tai hoạ khó lường Khi xem xét một căn nhà, trước hết ta coi về hình thế bên ngoài kết hợp với trạch bàn để biết sự vượng suy của sơn tinh và hướng tinh như thế nào. Nếu ở Hướng có hướng tinh là sao suy tử và sơn tinh và sao sinh vượng (trường hợp "thướng sơn há thuỷ") mà ở đây lại có núi, đồi, nhà cao hoặc cây cao thì đây là cách "thoát sát" mà vẫn luận là vượng. Hoặc trường hợp ở hướng có hướng tinh là sao sinh vượng khí mà ở đây lại trống thoáng, có đường đi thì cũng luận là vượng. Kế đến coi tới sự kết hợp giữa hai sao sơn tinh và hướng tinh ở hai cung toạ và hướng để luận những sự việc đã, đang và sẽ sảy ra trong nhà đó. Ở cung hướng thì hướng tinh là chủ, sơn tinh là khách. ở cung toạ thì sơn tinh là chủ và hướng tinh là khách. Xem xét về ngũ hành của hai sao sơn, hướng xem sự sinh khắc của chúng với nhau. Như nhà được vượng sơn vượng hướng và có loan đầu phù hợp, nhưng nếu xét về tương quan ngũ hành của hai sao sơn tinh, hướng tinh tại hai cung toạ và hướng là hung thì khi ở vận hiện tại còn ở tạm được, vì tuy tiền bạc và nhân đinh thuận lợi nhưng vẫn có những việc không hay sảy ra, đến khi qua vận kế thì tai hoạ sẻ đến dồn dập nhiều khi gia chủ trở tay không kịp. Trường hợp nhà được vượng sơn vượng hướng và có loan đầu phù hợp, nếu xét về tương quan ngũ hành của hai sao sơn tinh, hướng tinh tại hai cung toạ và hướng là cát thì khi qua vận kế bị suy sẽ đỡ hơn nhiều. Các trường hợp khác cứ thế mà suy _ Tỵ hoà: hai sao cùng hành như nhất với nhất (thuỷ), nhị với nhị (thổ),... Luận là tốt _ Sinh nhập : Khách sinh cho chủ. Luận tốt Thí dụ: ở toạ có sơn- hướng là 6-8. Thổ sanh kim _ Sinh xuất : chủ sinh cho khách. Luận xấu Thí dụ: Hướng có 7-2. Thổ sanh kim _ Khắc nhập : Chủ khắc khách. Luận tốt Thí dụ: Hướng có 3-8. Thổ khắc mộc. _ Khắc xuất : Khách khắc chủ. Luận xấu Thí dụ: Hướng có 2-4. Thổ khắc mộc Sự luận tốt xấu này còn dựa vào nhiều yếu tố như hình thế bên ngoài và bố trí bên trong..., người luận đoán cần có nhiều kinh nghiệm thì mới có thể luận đoán chính xác được Phụ mẫu tam ban quái Khi các hướng tinh thuộc bộ số tam ban: (1-4-7); (2-5-8); (3-6-9) phân bổ vào các cung lần lượt là LY-CHẤN- CÀN và KHẢM –ĐOÀI-TỐN kết hợp với cặp song tinh là vượng tinh ở đầu hướng thì đây là phép thất tinh đả kiếp hoặc Phụ mẫu tam ban quái Điều cần biết là vị trí của các số trong mỗi nhóm cung định chiều quay của khí trong nhóm này, chẳng hạn như các sao Hướng của nhóm Khảm là Đoài, Khảm và Tốn có số hướng tinh xắp theo thứ tự là (1,4, 7) cho biết chiều quay của khí trong nhóm này là theo chiều kim đồng hồ. Chiều quay của khí trong nhóm Ly phải theo hướng ngược chiều kim đồng hồ. Hai chiều khí này phải ngược với nhau để có thể được coi là đồng liệt. Như vậy trường hợp trên đây được coi như có 2 bộ số tam ban . _ Song tinh đáo hướng ở một trong các cung: LY-CHẤN-CÀN thì đây là LY cung đả kiếp (phép đả kiếp thật) _ Song tinh đáo hướng ở một trong các cung: KHẢM-ĐOÀI-TỐN thì đây là KHẢM cung giả kiếp (phép đả kiếp giả) Sau đây là một vài loại Thất Tinh Đả Kiếp khác: • Các sao Tọa và Hướng của các cung tọa và hướng hợp thành 2 cặp số của Thất Tinh Đả cuộc hợp thành quẻ Tam ban tức là Vận, Tọa và Hướng của mổi cung hợp nhau lại thành Tam ban quái. Trường hợp này không cần điều kiện song tinh đáo hướng. Thí dụ: Vận 2, sơn Cấn hướng Khôn. • Các sao Tọa và Hướng của mổi cặp cung tọa và hướng có các số cung hợp với nhau thành một cặp số sinh thành của Hà đồ như là (1, 6), (2, 7), (3, 8) và (4, 9). Cả 4 sao của các cặp cung này hợp lại thành 2 cặp số Thất Tinh Đả Kiếp như thí dụ trên. • Cả 4 sao Tọa và hướng của mổi cặp cung đối xứng nhau qua Trung-cung hợp nhau thành 2 cặp số Thất Tinh Đả Kiếp. Ngoài ra còn có trường hợp Toàn bàn Thất Tinh Đả Kiếp mà người ta còn gọi là Tam-Ban Xảo quái (đã khảo sát ở phần trên). Điều quan trọng cần chú ý là các phép MƯỢN KHÍ làm khí trong nhà được đưa lên rất cao nên có thể đưa tất cả các điều tốt xấu lên cao độ khiến cho rất thịnh vượng hoặc rất suy bại tùy theo tình trạng phong-thủy tốt xấu. Như vậy, khi Ngũ-hành của sao và cung kỵ nhau, kỵ thủy và kỵ sơn, ta vẫn phải tìm cách giải cho thỏa đáng để triệt tiêu cho bằng hết tất cả chuyện xấu. Trong phép THẤT TINH ĐẢ KIẾP thì những điều kiện sau đây cũng cần có: 1)_ Hướng tinh hoặc sơn tinh là sinh vượng khí cần được đắc cách 2)_ Ngũ-hành trong các cung đều phải sửa đổi cho tốt. 3)_ Kỵ Sơn và thủy cũng cần phải giải quyết cho thỏa đáng ở các nơi cần thiết. 4)_ Hình thế bên ngoài phải không kỵ hay được an bày để không kỵ. 5)_ Cung Càn là Thiên-môn, cung Tốn là Ðịa-hộ là 2 cung quan trọng trong phép đả kiếp. Do đó về hình thế bên ngoài nhà: Đối với LY cung đả kiếp thì cung CÀN cần có thuỷ. Đối với KHẢM cung giả kiếp thì cung TỐN cần có thuỷ để thu nhận và làm thông khí. 6) Không bị Tù tức là vượng tinh của hướng không được nằm trong Trung-cung (trường hợp tam ban xảo quái và các trường hợp khác) Hậu quả có thể vô cùng tai hại nếu các điều kiện trên không đuợc toàn chỉnh. sau đây là bảng tổng hợp Thất Tinh đả kiếp Trong các vận. Trường hợp bị phản, phục ngâm nếu giải được thì vẫn có thể dùng, tuy nhiên qua vận kế thì lúc đó trở lên rất nguy hiểm nên phải cẩn thận. Nguồn:nhantrachoc.net.vn
-
Bài này còn rất dài và có hình dẫn chứng nhưng tiếc rằng không biết làm cách nào để post lên diễn đàn được. Mong mọi người thông cảm. Lê Bá Trung
-
Ngạn ngữ Nhật có câu:"Lý thuyết là điều cần thiết tốt. Nhưng, một cân thực hành hơn một tạ lý thuyết". Vừa qua chúng ta đã làm quen với lý thuyết "Huyền Không Phi Tinh" nay tôi xin tạm dừng phần lý thuyết để dẫn các bạn qua phần thực hành. Đây sẽ là những bài giải mẫu cho những người mới tìm hiểu về "Phong thủy Huyền Không". Nhà tọa Tốn hướng Càn. Nguyenmichaelny viết: Michael và vợ đều sinh 1966 (bính ngọ), nhà ở Tọa Tốn (135độ), Hướng Càn (315độ), Cửa chính cũng nằm ngay Hướng Càn, hướng Đông Bắc thì có núi và cây cối, hướng Tây Nam có một dòng suối nhỏ chảy qua, và sau đó thì có nhiều nhà cửa ở Hướng Tây Nam, gia đình dọn vào căn nhà này tháng 8/2003 âm lịch, sau khi đọc hàng tháng những bài của anh Longly, thì Michael được biết lúc đó đã là cuối vận 7, và bây giờ là vận 8, theo Michael được biết, những ngưòi ở căn nhà này trong vận 7 họ rất là xui, căn nhà xây vào năm 1989, sau khi Michael và gia đình dọn vào ở thì cuộc sống và làm ăn cũng có phần khá hơn, nhưng không nhiều lắm, Michael có đọc một ít về Phong Thuỷ Bát Trạch, thì thấy sách có nói, tuy tuổi Bính Ngọ , mở cửa ở hướng Tây Bắc được Sinh Khí, nhưng bị kị, cho nên không dùng được, 3 Sơn của Tây Bắc là (Pháp Trường, Điên Cuồng, Khẩu Thiệt) Michael rất kính mong hai vị và các Cao Nhân trong diễn đàn gúip đỡ chỉ dẫn dùm. BQN viết Nếu nhà bạn hướng CÀN (315 ĐỘ), lại dọn vào nhà này vào tháng 8/2003 thì có thể tính trạch vận của nhà bạn theo vận 8, chứ không theo vận 7 nữa. Do đó, nhà bạn được vượng khí Bát bạch chiếu tới hướng và cửa trước, nên đương nhiên là tài lộc sẽ tốt đẹp. Chỉ có điều là từ lúc dọn vào nhà này đến nay thì chỉ toàn là niên tinh xấu chiếu tới hướng nên chưa phát huy đuợc năng lực của vượng tinh mà thôi. Năm 2003, niên tinh Thất xích Kim tới hướng, khiến cho vượng tinh Bát bạch Thổ của hướng bị sinh xuất nên hao tài. Năm 2004, niên tinh Lục bạch Kim chiếu tới hướng là vừa bị sinh xuất, vừa phạm Phục Ngâm. Năm 2005 thì niên tinh Ngũ Hoàng tới hướng, nên nên cũng gây ra nhiều khó khăn, trở ngại. Cũng may là nhờ nhà bạn đắc vượng tinh nên cũng còn tăng tiến được chút ít về tài lộc, chứ nếu gặp khí suy, tử thì đã gặp tai hoạ về công danh hay tài lộc rồi. Còn năm nay thì Thái tuế chiếu tới hướng nhà bạn, còn niên tinh là sao Tứ lục Mộc chiếu tới. Nhà có vượng tinh mà còn gặp Thái tuế là chủ gặp may mắn trong công việc. Còn niên tinh Tứ lục tới phương TÂY BẮC tuy bị Phản Ngâm, nhưng vẫn có lợi cho những nhà có vượng tinh nên kể từ năm nay thì tài lộc của nhà bạn sẽ dần dần khá hơn những năm trước. Qua các năm 2007 và 2008 thì sẽ có cơ hội làm ăn phát đạt hơn nữa. Cho nên bạn cứ an tâm mà vui sống trong căn nhà này, chứ đừng có lo ngại những cái nhảm nhí như Pháp trường với Điên cuồng, Khẩu thiệt...Chỉ có điều là vận khí căn nhà bạn rất ngắn. Vào cuối vận 8 (2023) thì bạn nên tu sửa hay dọn nhà đi nơi khác thì tốt hơn, chứ nếu cứ tiếp tục ở nhà này thì lúc đó sẽ gặp bế tắc, khó khăn lớn về tài chánh. Nguyenmichaelny viết: Đọc được những lời phân tích của anh, Michael thành thật cám ơn anh rất nhiều, anh đã có lòng giúp Michael , cho phép Michael nhờ anh giúp thêm một lần nữa, vì tất cả những Buồng tắm, cầu tiêu và phòng giặt đồ trong nhà Michael, đều nằm hết ở vị trí hướng Đông Nam, Michael có đọc được ở vài nơi , là hướng này nếu có cầu tiêu, mỗi lần mình tắm hay là giật nước , tiền bạc sẽ trôi theo, cho dù có kiếm được tiền, cũng không giữ được, không biết là có đúng như vậy không, mong anh cho xin cao kiến Longly viết: Như anh cho biết ở hướng Đông Bắc căn nhà có núi và cây cối, hướng Tây Nam có dòng suối thì đây là hoàn cảnh sơn thủy rất tốt trong vận 8. Vì trong vận 8, hướng Đông Bắc là phương vị Chính thần, có núi cao rất tốt, kết hợp hướng Tây Nam là phương vị Linh thần có nước lại rất tốt. Nội điểm này không cũng giải thích được tại sao gia đình anh thuận lợi hơn chủ cũ trước đây. Phần trên anh cho biết những người ở căn nhà này trong vận 7 rất là xui. Điểm này rất phù hợp với trạch vận của căn nhà thuộc vận 7, tuy được cuộc Tam ban quái nhưng lại bị "thượng sơn, hạ thủy" chủ về tổn đinh, hao tài. Cuộc Tam ban quái chỉ tốt nếu được hoàn cảnh bên ngoài hổ trợ, phần này đã được anh BINHNGUYENQUAN giải thích trong chủ đề này. Tuy anh dọn vào căn nhà này tháng 8/2003 âm lịch thì có thể vận 8 đã bắt đầu, như anh BINHNGUYENQUAN nhận xét ở trên. Về điểm này tôi có đề cập ở phần đầu của mục này. Tuy phi tinh mỗi Vận, Năm, Tháng được xát định chính xát theo dương lịch nhưng bản thân tôi và một số người hiểu về môn Huyền Không cũng đều cảm nhận sự ảnh hưởng đến sớm hơn ngày đã định. Cho nên, nếu giả thuyết trên là đúng thì căn nhà của anh được thêm cuộc "vượng tài, vượng đinh". Điều này rất dể nhận ra nếu công việc làm ăn thuận lợi, nhất là trong những năm kinh tế lao đao như hiện nay, và sức khoẻ khả quang, không phải vào bệnh viện, ngoại trừ bà xã có baby, thì trạch vận căn nhà này phù hợp với những gì được phân tích ở trên. Tuy nhiên, điều cần lưu ý là trong vận 9, trạch vận căn nhà bị phạm "Tù tinh". Đây là điểm mà anh BINHNGUYENQUAN lưu ý ở trên. Nếu trạch vận căn nhà Tọa Tốn - Hướng Càn thuộc vận 8 thì có Hướng tinh Cửu Tử ở Trung cung. Qua vận 9, Cửu Tử trở thành vượng tinh nhưng vì nằm ở Trung cung thì coi như bị "tù", không phát huy vượng khí để hổ trợ cho tài chánh thì tài vận sẻ lụn bại. Nếu Trung cung có Sơn tinh là vượng tinh thì chủ về tổn hại sức khoẻ. Xin nói thêm về "Tù tinh". Giả sử trạch vận căn nhà của anh vẫn còn thuộc vận 7 thì đã phạm "Tù tinh" trong vận 8 rồi, vì có Hướng tinh Bát Bạch bị tù ở Trung cung. Cho nên, trong những năm tới nếu vấn đề tài chánh không thuận lợi, mà có chiều hướng tụt hậu thì anh cần phải có phương pháp thích hợp để giải quyết. Ví dụ như cải tạo trạch vận hoặc dùng thủy pháp để giải "Tù tinh". Xin lưu ý, đây chỉ là giả sử để trắc nghiệm trạch vận căn nhà còn thuộc vận 7 hay qua vận 8 rồi. Nếu thực sự đã thuộc vận 8 rồi thì anh không phải lo. Luận về giao vận BQN viết: Về vấn đề những nhà tu sửa hay nhập trạch vào năm cuối cùng của vận trước (cụ thể là năm 2003 của vận 7)thì BNQ cũng đã gặp khá nhiều, và thấy vận khí của những căn nhà này trùng hợp với vận mới hơn là vận cũ. Điều này chúng ta đã có bàn tới trong phần đầu của chủ đề này. Nhưng gần đây thì BNQ lại nghĩ ra thêm 1 yếu tố khác nữa, xin được chia sẻ cùng anh và mọi người. Theo BNQ nghĩ thì có thể là vào năm cuối cùng của 1 vận, khí của vận đó đã bắt đầu suy yếu hoặc mất hiệu lực, không còn đủ sức để chi phối hay gây ảnh hưởng nữa, cho nên những nhà được tu sửa hay nhập trạch trong những năm đó sẽ không còn bị chi phối bởi đương vận nữa. Ngược lại, khí của vận sắp tới lại rất sung mãn, tràn trề để tiến lên làm chủ vận khí cho 20 năm sắp tới. Do đó, vào năm cuối cùng của vận cũ, những nhà được tu sủa hay nhập trạch lại dễ bị vận sắp tới ảnh hưởng hoặc chi phối. Trong nhiều thí dụ của Trạch vận Tân án, có nhiều trường hợp nhà tuy đắc vượng khí, nhưng chưa qua hết vận đó đã được các thầy Phong thuỷ khuyên nên dọn đi nhà khác, vì gặp phải những niên tinh xấu tới hướng, mà vượng tinh vào lúc cuối vận thì không còn đủ sức chế hoá hung sát được nữa nên tai hoạ sẽ đến không thể tránh được. Riêng BNQ cũng nhận thấy được nhiều căn nhà có vượng tinh đến hướng trong vận 7, thế mà chừng 2 năm cuối vận khi gặp niên tinh xấu tới hướng cũng đã bắt đầu gặp khó khăn, tai hoạ rồi. Cho nên, nếu nghĩ đi nghĩ lại giữa ảnh hưởng của vận cũ và vận mới thì nó cũng giống như trường hợp Tổng thống Mỹ sắp hết nhiệm kỳ và Tổng thống mới sắp sửa lên nhận chức thôi. Tổng thống sắp hết nhiệm kỳ thì tuy vẫn còn cái chức đó, nhưng thực tế chẳng còn làm được chuyện gì cả, chỉ ngồi đó chờ ngày khăn gói lên đường về quê hương thôi. Còn Thổng thống mới tuy chưa thật sự lên ngôi, nhưng mọi hoạt động của quốc hội, chính phủ, mọi ban ngành... đều chú ý và tuân theo mệnh lệnh hay ý kiến của vị nguyên thủ quốc gia trong tương lai. Cho nên mặc dù chưa thực sự tuyên thệ nhận chức, nhưng vị Tổng thống mới đã có quyền lực chi phối mọi hoạt động của chính phủ và dân chúng rồi. Laido viết: Xin cảm ơn bác BinhNguyenQuan đã có chia sẻ, Laido cũng đã từng có ý nghĩ như thế này đấy, nhưng đang trong vòng ... thử nghiệm. Laido nghĩ rằng, ngày xưa các Cụ đưa ra vận 20 năm, không lẽ do thời gian biến đổi vận lại ngắn đi hoặc dài ra thì vô lý và khó hiểu quá. Trừ phi các thiên thể (Thiên văn) có sự vận hành khác đi (nhưng điều này là không thể). Do đó chỉ có thể giải thích bằng việc vận tinh cũ suy yếu, nhường chỗ cho vận tinh mới mạnh hơn chi phối thì hợp lý hơn nhiều. ThienMinh112233 viết: HTM có đọc vài quyển sách Huyền Không với cách tính chu kỳ của mỗi vận (từ vận 1 đến vận 9) thì thời gian không phải là 20 năm cho mỗi vận, mà tuỳ theo vận thứ mấy sẽ có bao nhiêu năm, chu kỳ có thể là 17-18 năm, hoặc 20-21 năm, hoặc 23-24 năm....vì vậy đối với họ (tác giả của những quyển sách này) thì vận 8 đã bắt đầu từ năm 2002/03. Rất tiếc là ngay bây giò thì HTM không nhớ tên những quyển sách này để giới thiệu cho BNQ đọc. Hy vọng sau này sẽ tìm lại được những quyển sách này để chia xẻ với các bạn rõ ràng hơn (HTM dọn nhà mấy lần trong những năm qua nên sách bị thất lạc khá nhiều). Ý kiến về vận khí mới take over sớm hơn của BNQ cũng interesting lắm. HTM cũng nhận thấy là những cửa tiệm xây trong vận 7... bị suy thoái từ cuối năm 2003 (lời của những thân chủ...) và càng ngày càng suy thoái nặng hơn. Vì vượng tinh #7 nay đã không còn vượng nữa. Long LY viết: Vấn đề phi tinh có ảnh hưởng sớm hơn lịch định đã được các forum khác bàn cãi, nhưng mãi không ai chịu ai. Cho nên ở forum này tôi chỉ tế nhị đưa ra ý kiến thôi chứ không dám "khai pháo". Không ngờ các vị cũng đã theo dõi quá trình ảnh hưỡng của phi tinh. Theo tôi có rất nhiều giải thích, hợp lý có, vô lý có, nhưng chúng ta cũng nên đưa ra để hiểu nhau. Tôi rất đồng ý với nhận xét của anh BNQ rằng vào cuối vận thị vận khí bắt đầu suy yếu hoặc mất hiệu lực. Điều này rất dễ giải thích vì ta đang khảo xát phi tinh, và những ảnh hưởng trong một vận, năm, tháng, ngày, và giờ đều do các sao chi phối. Như vậy khi ta nói "phi tinh" tức là những sao không nằm cố định, mà chúng phải "phi" theo thời gian. Khi đến thời điểm chuyển tiếp thì các sao cũ đã gần phi ra khỏi bản cung, và sao mới sắp vào thay thì ảnh hưởng của sao mới sẻ rỏ ràng hơn. Điều này cũng giống như những gì ta thấy hàng ngày thì đâm ra nhàm chán, nhưng khi có sự thay đổi thì ta có một cảm giác rõ rệt. Như vậy sự dịch chuyển của các sao rất phù hợp với những nguyên tắc của Dịch lý. Tuy ta dùng tinh bàn để biểu diễn sự sấp xếp các sao, nhưng không có nghĩa các sao cố định đến đúng ngày chúng mới phi. Thêm nữa, sự vận hành của tự nhiên không nhất thiết phải chính xát như thời gian của niên lịch. Điển hình như sau vụ sống thần Tsunami, các nhà khoa học đưa ra giả thuyết là do vụ động đất làm ảnh hưởng trục trái đất. Cho nên thời gian của một năm sẻ sai lệch khoản 1 giây. Tóm lại, khi kết hợp những dữ kiện như sự duy chuyển không ngừng của các sao và sự bất đồng nhất giữa tự nhiên và niên lịch, thì giả thuyết về ảnh hưởng của phi tinh đến sớm hơn lịch định càng đứng vững. Vấn đề còn lại là sớm hơn cụ thể là bao nhiêu ngày thì khó tìm ra câu trả lời. Còn vấn đề bác HTM đưa ra là có sách hoặc giải thuyết cho rằng sô năm thay đổi cho mỗi vận thì tôi có đọc qua. Điển hình là trong diển đàn này anh Hoangduytam có trình bày trong chủ đề "HKPT và Những Giả Thuyết Mới". Tôi xin trích lại như sau: "Mỗi đường Yao là 6 năm cho nên chúng ta có 18 năm cho vận 1. Vì vậy chúng ta sẽ có: Vận 1 = 18 năm Vận 2 = 24 năm Vận 3 = 24 Năm Vận 4 = 24 Năm Vân 5 ......không tính Vận 6 = 21 năm Vận 7 = 21 năm Vận 8 = 21 năm vận 9 = 27 năm Bắt đầu từ năm 1864 chúng ta thấy là Vận 8 băt đầu từ năm 1996." Đây là lý thuyết của Huyền Không Lục Pháp. Vì chưa có thời gian nghiên cứu kỹ nên tôi không dám lạm bàn. Nhưng cho dù là 18, 20, hay 24 năm thì những con số này chỉ có tính cách tượng trưng thôi. Quan trọng là ở người nghiên cứu cần phải trắc nghiệm tinh bàn của trạch vận với những việc xãy ra trong thực tế, thì mới kết luận vận nào phù hợp hơn. BQN viết: Đúng là lý thuyết của Huyền Không Lục Pháp do anh Hoàng duy Tâm đưa lên diễn đàn này có nói tới vấn đề vận dài, vận ngắn như các anh Thiên Minh và Long Lý đã nói. Chỉ có điều là BNQ nghiệm thấy không đúng lắm, như trường hợp anh Long Lý vừa nêu lên là vận 8 bắt đầu từ năm 1996. Nhưng theo kinh nghiện bản thân thì BNQ lại thấy khắc hẳn. Chẳng hạn như BNQ biết có 1 số gia đình mua nhà hướng chính ĐÔNG (90 độ) vào năm 1998, nếu tính theo HKLP thì đúng ra vấn đề tài lộc của họ phải rất xấu, nhưng thực tế lại trái ngược vì sau đó hầu như gia đình nào cũng làm ăn khá cả. Còn nếu tính theo vận 7 thì lúc đó hướng ĐÔNG đang có vượng khí chiếu tới, lại mua nhà vào năm đó là có niên tinh Bát bạch chiếu tới hướng sinh cho vượng tinh Thất xích nên cực vượng. Cho nên có gia đình vừa dọn vào nhà xong là trúng số, việc làm ăn đang từ bình thường bỗng nhiên vượt khá hẳn lên. Phải sang đến năm 2003 thì vần đề làm ăn mới bắt đầu gặp trở ngại, rồi từ đó đến nay thì ngày 1 suy thoái như anh Thiên Minh nói là vượng tinh số 7 đã không còn vượng nữa. Cho nên BNQ cũng đồng ý với anh Long Lý là chúng ta cần phải đối chiếu giữa những tinh bàn của trạch vận với thực tế để kiểm chứng xem những căn nhà được xây dựng hay nhập trạch vào những năm cuối của 1 vận được chi phối bởi vận cũ hay mới. Còn những lý thuyết được đề ra chỉ là những manh mối cho những người tìm tòi, học hỏi có cơ sở mà đi đến kết luận thôi. Nguyenmichaelny viết: Michael rất lấy làm biết ơn hai anh đã bỏ thời gian để giúp cho Michael hiểu đươc rõ về căn nhà của mình đang ở. Michael sẽ theo lời của anh Longly là sẽ trắc nghiệm lại coi , là căn nhà này đã thực sự đã qua vận 8 hay chưa. Michael cũng xin nói một số chi tiết từ ngày Michael và gia đình dọn vào căn nhà này. Mười mấy năm về trước Michael và gia đình đã dự định mua căn nhà này, nhưng vì lúc đó tiền bạc còn eo hẹp , nên không có khả năng để mua nó, cho nên mới đi mua một căn nhà nhỏ để vừa khả năng của mình, ở căn nhà nhỏ đó được 7 năm, khi gía nhà lên thì bán đi, bán đươc giá rất cao, sau đó 1 năm thì căn nhà hiện đang ở, chủ nhà muốn bán vì bị vỡ nợ, Michael mới mua được , với gía rất rẻ, còn rẻ hơn gía căn nhà nhỏ mà Michael mới bán cách 1 năm, đâu chắc cũng là Michael có duyên với căn nhà này. Từ ngày dọn vào nhà này tháng 8/2003 và ở cho đến nay, thì mọi chuyện rất đúng như anh Bình Nguyên Quân đã nói ở trên, là 2003,2004,2005 , tuy là gặp những năm xấu, nhưng gia đình thì không bị chuyện gì, và làm ăn thì cũng thành đạt đôi chút, cũng cầu mong là từ nay trở lên thì sẽ khá hơn, còn ở đời ngưòi mà mình đã được Trời cho thời vận trong 20 Năm kể như là đã qúa ưu ái với mình rồi, đâu còn dám mong mỏi gì hơn , một lần nữa Michael xin thành thật cám ơn hai anh rất nhiều và luôn cầu chúc cho 2 anh và gia đình được vạn sự như ý. Nhận xét của VH Trong vận 7 nhà bị thướng cơn há thủy, cửa chính tuy có hướng tinh 9 là tiến khí nhưng có sơn tinh 7. (7-9) kết hợp thành hỏa hậu thiên nên cửa chính gặp hung sát, dù thủy bố trí tại ĐÔNG NAM có hướng tinh 7 (trong ngũ cát) cũng không cứu được Vận 8 được vượng sơn vượng hướng, cửa chính lại bố trí ngay giữa (cung CÀN) tức được vượng khí tới cửa. Nước bố trí tại ĐÔNG NAM có hướng tinh nhất bạch (trong tam cát) nên vượng càng thêm vượng. Suối nhỏ tại Tây nam, núi và cây cối tại ĐÔNG BẮC là hợp với LINH, CHÍNH nhưng không hợp với tinh bàn vận 8 . Tuy nhiên cần phải xét có cửa hay không ở hai cung hướng này và vì cửa chính đã được vượng khí tức là “nhất chính đương quyền” nên các hung sát nhỏ không làm gì được chỉ đến khi qua vận kế lúc đó bát bạch trở thành thoái khí thì các anh chị này mới nổi lên mà quậy phá. Nay tôi lại xin đưa thêm lý thuyết BÁT TRẠCH về cầu con để các bạn tham khảo. trích: Thiên ất quí nhân (tức khôn dả cầu con) Duy tài đinh,. Táo khẩu nghi hướng phục vì. Mị kỳ niên Thiên Ất quí nhân đáo mạng tắc sanh tử tôn việc nghiệm. Như thượng nguyên Canh Thìn (1880) Tam bích trị, tức tam bích nhập trung cung, Tứ lục tại càn, ngũ hoàng tại Đoài, lục bạch tại Cấn, Thât xích tại Ly, Bát bạch tại Khảm, Cửu tử tại Khôn, Nhất bạch tại Chấn, Nhị hắc tức khôn tức Thiên Ất quí nhân tại Tốn. Nhược Tốn mạng nhân Phục Vì. Táo tức Thiên Ất Khôn đáo mạng dã tất sanh tử tôn. Ý đoạn văn trên :Muốn cầu con thì miệng bếp quay về hướng Phục vì của mệnh cung thì đến năm có niên tinh nhị hắc tức Thiên Ất quí nhân đến hướng của bản cung thì có con, cháu. Thí dụ : năm 1880, Niên tinh Tam bích nhập trung cung, niên tinh nhị hắc đến cung Tốn. Người có cung mệnh Tốn nếu để bếp quay hướng ĐÔNG NAM (cung phục vì của mệnh Tốn) chắc chắn có con, cháu. Bảng lập sẵn cho người mạng gì cầu con bếp quay hướng phục vì năm nào có con, cháu - Người mạng Càn _ năm Khảm (tức niên tinh Nhất bạch nhập trung cung) - Mạng Khảm _ năm Càn - Mạng Cấn _ năm Cấn - Mạng Chấn _ năm Tốn - Mạng Tốn _ năm Chấn - Mạng Ly _ năm Đoài - Mạng Đoài _ năm Ly - Mạng Khôn _ năm Ngũ trung - Mạng Ngũ trung _ năm Khôn Như thế muốn cầu con thì đặt bếp quay về phương phục vị còn phải chờ đến năm Thiên Ất quí nhân đến mới có con được. Nguồn:nhantrachoc.net.vn
-
Bieân soaïn: Nguî Lyù Höùa Minh Töû Vieãn Ñaøm Vieân Nam Vinh Cöûu Nhaát Quaû Am Hieäu ñính: Toân Aùi Taûi Ung PHAÙT VI LUAÄN THAÙI MUÏC ÑÖÔØNG CƯƠNG NHU “Kinh dòch” vieát: “laäp thieân ñích ñaïo, thò aâm döõ döông” (Ñaïo cuûa vieäc laäp thieân laø Aâm vaø Döông). Chaâu coâng vieát: “cöông vaø nhu bao haøm ñaïo laäp ñòa”. Vì vaäy ñòa lyù phong thuyû laáy Cöông vaø Nhu laøm maáu choát quan troïng nhaát. Cöông nhu chính laø chæ veà ñaëc tröng baûn chaát cuûa ñòa lyù. Thuôû ban sô cuûa trôøi ñaát coù hình thaùi maây khoùi mòt muø, chöa ñònh hình soâng nuùi nhö hieän nay. Khoâng laâu sau, phong vaø khí va chaïm ma saùt vôùi nhau, Thuyû vaø Thoå cuøng kích ñoäng laãn nhau. Vaø roài caùi cöng maïnh thì troài leân maø toàn taïi, cùi meàn ye thì tieâu taùn, chìm laáp ñi. Cuoái cuøng soâng vaø nuùi töø töø ñöôïc hình thaønh. Theå cuûa Sôn phong thì cöông cöùng maø Duïng laïi nhu nhöôïc, do theá noù cao söøng söõng maø ñöùng yeân baát ñoäng; Theå cuûa Thuyû löu nhu nhuyeãn maø duïng thì cöông cöôøng, do vaäy maø thöôøng ñoùng ôû choå thaáp maø löu ñoäng khoâng ngöøng. Theá goïi laø trong cöông coù nhu, trong nhu coù cöông vaäy. Chaâu coâng laáy thuyû laøm Thaùi nhu, ñem Hoaû laøm Thaùi cöông, Thoå laøm Thieáu nhu, Thaïch laøm Thieáu cöông . Ñaây chính laø boán hình töôïng chung cuûa ñòa lyù. Thuyû töïa huyeát maïch trong thaân theå ngöôøi, bôûi theá laø Thaùi nhu; Hoaû töïa khí maïch, neân laø Thaùi cöông; Thoå gioáng da thòt, neân laø Thieáu nhu; Thaïch gioáng xöông coát neân laø Thieáu cöông. Dung hôïp Hoaû, Thuyû,Thoå, Thaïch laøm moät Theå thì thaønh maët ñaát, cuõng nhö hôïp nhaát xöông, maùu, khí vaø da thòt thì thaønh thaân theå con ngöôøi vaäy. Quan saùt kyõ seõ thaáy raèng : phaøm nhöõng gì khoâ, loài loõm ñeàu laø cöông, nhöõng gì baèng phaúng töôi nhuaän laø nhu, song trong khoâ heùo loài loõm cuõng toàn taïi baèng phaúng töôi nhuaän. Theá môùi noùi trong cöông coù nhu; phaøm nhöõng gì maïnh meõ, cao vuùt, gaáp gaùp ñeàu laø cöông maø nhöõng gì meàn deûo, chaäm chaïp ñeàu laø nhu, nhöng trong maïnh meõ coù meàn deûo, trong meàn deûo coù cöông cöôøng, theá môùi noùi trong nhu coù cöông. ĐỘNG TĨNH Sau khi xét rõ cương nhu thì cần hiểu đạo lý của Động – tĩnh. Động tĩnh có nghĩa là biến hoá thông suốt. Đạo lý vận hành của trời đất và vạn vật là tìm kiếm sự tĩnh lặng trong sự sôi động và ngược lại, mà tuyệt đối chẳng phải là đã tĩnh lặng lại tĩnh lặng hơn, đã sôi động phải sôi động hơn. Cổ nhân có nói: “ Nước vốn lưu động không ngừng, người cần nó dừng lại; núi vốn đứng yên, người lại mong nó vận động không nghỉ”. Lời này thực đúng lắm. Do vậy, núi lấy an tĩnh là trạng thái thường của nó, chỉ vì nó không có sự vận hành, nếu nó vận động không ngừng, thì nó hình thành nên Long mạch. Nước đem lưu động làm thường thái, vì nó không tĩnh, nếu nước dừng lại thì nó có thể kết làm huyệt. Vì thế, núi non hành Long mạch ắt sôi động, nước chảy kết làm huyệt thì nhất định sẽ uốn lượn quanh co. Nếu núi thẳng cứng mà thô thì có vận hành cũng không biến hoá, đổi thay, thì khác nào chuyển từ trạng thái tĩnh này sang trang thái tĩnh kia; nếu Thuỷ khgông uốn lượn, quanh co, uyển chuyển thì cũng như núi vậy. Như thế núi sông sẽ không thể cùng giao kết với nhau. Song, một động một tĩnh tuần hoàn mãi. Núi non cũng có khi lưu động đến cùng cực thì dừng lại, sông nước an tĩnh đến cùng cực thì sẽ chảy đi. Do vậy đừng nên quá giữ một điều mà nhắm mắt nói bừa. TỤ TÁN Sau động tĩnh là quan sát Tụ - Tán. Tụ tán là chỉ thế đi và hình thái tổng quát của sông núi, sơn thuỷ. Sơn thuỷ hội tụ, tự nhiên có kiến tạo của trời đất, lấy đi chổ dư thừa, bồi đắp nơi thiếu hụt. Do vậy sông núi nhỏ thì địa lý có tiểu thành, sông núi lớn thì địa lý có đại thành, nếu phân tán thì không thể hình thành nên địa lý. Tụ là gì ? Tụ là chỉ sơn loan (dãy núi) kết giao hội tụ, hà thuỷ giao hội tập kết, Phong khí tàn ẩn. Tán là gì ? Tán là chỉ sơn loan phân tán bốn bề, hà thuỷ ly tán tiêu triệt, Phong khí hồi tán khắc nghiệt. Hiện nay người ta đàm luận về địa lý thường không hiểu rõ thế tụ tán. Nếu địa lý tụ, thì huyệt vị càng có hình thái quái lạ bao nhiêu càng là đại thế chân chính bấy nhiêu; nếu hình thái là tán, thì huỵêt vị càng là đẹp đẽ càng là hư giả. Quan sát mộ táng của người xưa thì thấy phần lớn đều là huyệt vị có hình dáng quái kỳ mà chẳng phải huyệt vị đẹp đẽ. Huyệt vị kỳ lạ này quả đã có được chính thế của sơn, thuỷ. Do vậy, huyệt vị kỳ quái lại là huyệt vị chính thường. Hiện nay người ta thường câu chấp về hình dáng cụ thể của huyệt vị, mà không dùng quái huyệt. Tụ tán lại có hai loại : Có tụ tàn của đại thế và có tụ tán trong huyệt. Có thể đứng xa quan sát tụ tán của đại thế, lại gần quan sát tụ tán trong huyệt. Tụ tán của đại thế và của huyệt phải cùng hỗ trợ, cùng hình thành, không thể thiếu một. HƯỚNG BỐI Tiếp theo cần quan sát Hướng - Bối. Hướng bối là chỉ tính tình của sơn thuỷ . Diện mạo của địa lý cùng nhân sự đều có phân biệt Âm, Dương. Tính tình của người đa dạng, vì thế mà ta có thể thấy rõ địa lý của hướng bối dựa vào tính tình của con người. Hướng về ta, ắt sẽ có ý bao bọc, tương hợp chu toàn ; Bối (quay lưng ) với ta, ắt sẽ có bội nghịch tương phản. Bề ngoài đẹp đẽ, tươi tốt,song đó chỉ là giả tạo và diện mạo đó rốt cuộc rồi sẽ lộ ra. Do đó, phàm là muốn xem xét diện mạo của địa lý, trước hết phải quan sát hướng bối của nhân tình. Nhân tình cùng hướng thì dễ thấy, song nếu đối diện, trông tựa bầy tôi cung kính với quân vương, tựa chủ khách tương thân tương ái, tựa anh em ruột thịt giúp đỡ lẫn nhau. Đây đều là nhân tình của hướng. Nhân tình của bối thì khó thấy rõ. Phàm sơn thuỷ nhìn nhau như thù địch, đánh nhau như người ngoài, sơn thuỷ như vậy đều là tình quay lưng với nhau (tương bối). Chỉ quan sát diện mạo của địa lý, sẽ bị lừa gạt, mê hoặc. Mà xem xét tính tình của nó là hướng hay bối thì sẽ thấy rõ tình hình, đã biết rõ địa lý của hướng bối thì cát hung hoạ phúc hiện ra rõ ràng. THƯ HÙNG Tiếp đến là quan sát Thư – Hùng. Thư hùng là sự phối hợp ứng đối của sơn thuỷ. Chỉ có Dương thì không có sinh sôi nảy nở, chỉ có Âm thì không có sinh trưởng. Trời đất vạn sự vạn vật không có một sự một vật nào tồn tại mà không có đối ứng phối hợp. Các nhà phong thuỷ dùng Thư Hùng để luận bàn, chẳng qua là chỉ cái đạo về tương hỗ ứng đối. Vậy phải căn cứ vào đâu ? Sơn thuộc âm mà thuỷ thuộc dương, do đó phàm Sơn hội tụ, kết hợp, ắt sẽ gặp thuỷ quanh co, uốn lượn, bao bọc. Thế vận hành của sơn tuy thuận theo thuỷ mà tới, song hình thái của nó lại nghịch với Thuỷ mà thành. Sơn và Thuỷ cùng đối, có Thư có Hùng, mà chúng tự cũng có phân biệt Thư Hùng riêng. Dương Long chọn âm huyệt, Âm long chọn dương huyệt, đó là long nguyệt cùng phối hợp ứng đối giữ lấy Thư Hùng. Dương sơn lấy âm làm đối ngẫu, Âm sơn lấy Dương làm đối ngẫu, đây là chủ khách yêu mến lẫn nhau có Thư có Hùng, một nơi nào đó ngưng kết tụ hội, thì Thư Hùng ắt sẽ cùng ứng hợp, Long cùng huyệt, sa cùng thuỷ, tả cùng hữu, chủ cùng khách ắt cùng ứng hợp. Nếu chỉ có Thư hoặc Hùng mà không phải là Thư Hùng kết hợp thì dù tụ cát hình thành địa thế cũng chẳng phải tốt đẹp. CƯƠNG NHƯỢC Tiếp đền là quan sát Cường - Nhược. Cường nhược là chỉ khí bẩm sinh của địa lý. Đạo lý vận hành và tồn tại của trời đất lấy từ bình, chính. Nếu quá cứng ắt sẽ gãy, nếu quá mềm ắt sẽ nhu nhược. Do đó cần lấy nhu nhuyễn hỗ trợ cứng rắn, và lấy cứng rắn bổ khuyết cho nhu nhuyễn. Cương nhu hỗ trợ lẫn nhau mới đạt được đạo trung hoà. Luận về địa hình cần quan sát kỹ khí bẩm sinh của nó. Nếu khí bẩm sinh thiên về cứng rắn, thì tính tình của nó sẽ cương cường, nóng vội. Khí cương cường mà tính nóng vội, huyệt vị như vậy cần lấy nơi thấp, bằng phẳng mà đóng. Nếu lại xây dựng huyệt ở nơi địa thế gấp gáp thì ắt có tai hoạ về tuyệt tự. Nếu huyệt có khí nhu hoà mà tính tình bình hoà thì hợp với sự kiến toạ ở chổ gấp gáp cương cường, bằng không thì sẽ lụn bại. Hạ huyệt ở nơi có khí bẩm sinh cương cường mà tính tình nóng vội sẽ làm long mạch tồn hại; Nhu nhược mà hạ huyệt tại nơi nhu hoà sẽ rời xa lonh mạch. Do vậy phương pháp xác định kiến tạo huyệt vị cần phải được cân nhắc kỹ lưỡng. Không nên thiên lệch, bằng không sẽ tới chổ cực đoan, tai hoạ liên tục ập xuống. Nguồn: Nhantrachoc.net.vn
-
Những cách hóa giải trong phong thủy. Nhà ở là một vấn đề quan trọng liên quan đến đời sống của chúng ta, một căn nhà tốt về mặt phong thủy đảm bảo cho gia đình được êm ấm hạnh phúc, tiền bạc làm ra tích lũy được, con cái ngoan hiền hiếu thảo. Trái lại một căn nhà có khuyết điểm về phong thủy thường mang lại nhiều trở ngại và bất ổn trong cuộc sống. Khi mua nhà hay thuê nhà ai ai cũng mong muốn có được một căn nhà hoàn chỉnh về phong thủy. Thế nhưng trên thực tế hiếm khi các bạn có được cơ hội đó bởi nhiều yếu tố sau: - Căn nhà hợp với chủ cũ khác tuổi tác của mình nên vấn đề phong thủy cũng có phần sai biệt. - Sự thiết kế của căn nhà không phù hợp với nhu cầu hạnh phúc của gia đình trong mỗi giai đoạn cuộc đời. Vì thế khi vào ở một căn nhà chúng ta phải biết rõ khuyết điểm của căn nhà và khoa phong thủy có tác dụng điều chỉnh hay hóa giải những khuyết điểm kể trên để cuộc sống ngày càng tươi đẹp hơn. Phương cách hóa giải thì nhiều và đa dạng phong phú. Thế nhưng để chọn lựa phương cách hóa giải phù hợp với mức độ ảnh hưởng xấu để không gây ra những ảnh hưởng phụ khác đó là điều nên thận trọng. Và để hóa giải phong thủy của một căn nhà chúng ta cần phải nghiên cứu từng bước một. - Âm dương: Một căn nhà gặp khuyết điểm về âm dương thường rơi vào trường hợp cô dương hay cô âm: Trường hợp cô dương (hay dương thịnh) như sáng quá, chói lòa, màu sắc rực rỡ, ồn ào, náo nhiệt. Hay cô âm (hay âm thịnh) như u tối, thiếu ánh sáng, trống vắng, thiếu sinh khí, màu sắc ảm đạm, âm u, ẩm mốc bẩn thỉu mang nhiều âm khí đều không tốt cho gia chủ, ảnh hưởng đến hạnh phúc vợ chồng. - Ngũ hành: Một căn nhà phạm khuyết điểm về ngũ hành thường do việc bố trí phòng ốc hay trang trí không thích hợp như là phối trí màu sắc, bông hoa, cây cỏ, bàn thờ, bếp, bồn cá, lò sưởi không đúng phương vị. Nếu có sự xung khắc thường mang lại sự xung đột bất hòa trong cuộc sống. - Hình thể nhà và đất : Do khuyết điểm của thế đất không bằng phẳng, hình dáng khuyết tật, nhà cửa xây dựng mất cân đối, các cung vị bát quái bị lồi lõm. - Phòng ốc: Sự bố trí phòng ốc trong căn nhà được hài hòa thuận vị là điều tốt đẹp. Thế nhưng nếu bố trí nghịch vị thì cần phải có sự hóa giải đúng mức và kịp thời. Ví dụ như cửa phòng ngủ trực diện với phòng tắm; phòng ngủ nằm ngay trên bếp, bàn thờ; cầu thang trổ ra cửa vv. Phòng tắm nằm ngay trên, phía trước cửa chính; cầu thang đổ ra cửa; ba cửa nhà thông thương; nhà hay phòng có hai lối rẽ; nền nhà cao thấp hay khuyết góc. - Những tác hại xấu do bên ngoài: như là ngã ba đâm vào, đòn dông, cột đèn, cây cổ thụ, biển báo, độ dốc, ao hồ sông rạch, núi đồi cản trở. - Những tác hại xấu từ bên trong: Thường do sự bài trí không đúng phương cách như là kê bàn, ghế, tủ, góc nhà tạo nhiều cạnh đâm vào cửa chính, phòng ngủ, xà nhà chắn ngang đầu… Những yếu tố xấu này thường ảnh hưởng đến sức khỏe của những người sống trong nhà. II/- Nhu cầu hạnh phúc của gia đình: Ðây là bước thứ hai cũng không kém phần quan trọng. Cần biết đâu là nhu cầu hạnh phúc của gia đình trong đại vận hiện tại thì mới có thể đề ra những biện pháp hóa giải hữu hiệu. Ví dụ : Một gia đình lớn tuổi nhu cầu hạnh phúc chính yếu nhất là sức khỏe và tuổi thọ. Nếu có hóa giải khuyết điểm căn nhà thì phải chọn lựa những biểu tượng mang tính hòa hợp tươi vui nhưng trầm mặc như là rùa, hồ lô, sáo trúc, tùng, tượng ngư tiều canh độc. Nhà cửa có cửa chính hay nằm ngủ chọn hướng Thiên Y. Trái lại vợ chồng son trẻ có làm ăn ở nhà, không muốn bị quấy nhiễu hạnh phúc có thể hóa giải phong thủy bằng những biểu tượng mang thể loại mạnh mẽ hơn như thú dữ, xương rồng, thanh kiếm, mũi tên sắc, súng đại bác. Trường hợp vợ chồng gay cấn, xung đột mong muốn có hạnh phúc thì nên chọn những biểu tượng phong thủy như Long Phụng hòa minh, đôi chim tỉa cánh, bông hoa mang màu sắc tươi mát và thích hợp với ngũ hành của hai người. Trở lại ví dụ đầu tiên, nếu căn nhà xấu đối với người lớn tuổi mà dùng các biểu tượng như thú dữ, hay vật dụng hung hãn, chẳng những không có tác dụng tốt lại còn gây thêm áp lực nặng nề hay tạo thêm cảm giác lo ngại cho người lớn tuổi. Chúng ta có thể phân loại nhu cầu hạnh phúc của gia đình như sau : - Tiền tài, - hạnh phúc - sức khỏe, tuổi thọ - con cái . Tùy theo nhu cầu hạnh phúc của gia đình để chọn lựa những biểu tượng hóa giải thích hợp. III/- Phương cách hóa giải: Có nhiều phương cách hóa giải thế nhưng trước khi quyết định chọn lựa một phương cách hóa giải thích hợp cần phải quan tâm đến 2 điểm: 1)- Khi dùng hóa giải tại cung nào nên chú ý đến ngũ hành của cung đó, để sử dụng các biểu tượng phong thủy thích hợp với hành của cung đó. Ví dụ khi muốn thay đổi hay phát triển công việc, thì công việc đầu tiên phải tăng cường cung Quan Lộc tại hướng Bắc căn nhà, thì ta phải chú ý hướng Bắc thuộc hành thủy. Do vậy những vật dụng tăng cường cung này phải tương sinh với hành thủy như màu trắng, vật dụng kim loại, tranh sơn thủy, hồ cá, thác nước. 2)- Khi hóa giải một khuyết điểm của căn nhà nên sử dụng đúng mức biện pháp hóa giải, để tránh những ảnh hưởng phụ do hóa giải quá độ gây ra. Ví dụ: khi hóa giải một phòng tắm xấu ở giữa nhà (trung cung) có thể che kiếng là đủ, chứ không nên vừa dùng kiếng, lại thêm cây kiểng hay dùng súng đại bác để bắn tiêu khuyết điểm này. Ngoài hai yếu tố trên, chúng ta cũng không phải dễ dàng để chọn lựa một biểu tượng thích hợp vì rằng có nhiều biểu tượng hóa giải có cùng tác dụng thì biết chọn biểu tượng nào. Vì thế một biểu tượng hoàn hảo nhất để hóa giải phong thủy phải đạt được các tiêu chuẩn sau đây: • Hợp Phong Thủy: Ðây là tiêu chuẩn quan yếu đầu tiên, cần phải đạt được. Trong trường hợp có nhiều biểu tượng có cùng tác dụng thì biết chọn lựa thứ nào. Ví dụ: để hóa giải một cái đòn dông đâm vào cửa chính chúng ta có thể dùng nhiều biểu tượng như là mũi tên sắt, súng đại bác, bát quái, kính lồi, trụ phun nước, dời cửa chính và chúng ta chỉ nên chọn lựa một biểu tượng thích hợp nhất mà thôi. Do vậy trước khi quyết định chúng ta phải dựa đến tiêu chuẩn thứ hai. • Hợp nhu cầu hạnh phúc gia đình: Như trên đã nói, đối với người lớn tuổi mong muốn bình an dĩ hòa vi quý thì nên chọn lựa những biểu tượng nhẹ nhàng, không gây tác hại cho người khác mà cũng có thể đạt mục đích yêu cầu của mình. Trở lại ví dụ trên, chúng ta có thể chọn lựa biện pháp treo hình bát quái, kính lồi hay trụ phun nước. Thay vì chúng ta chọn những biểu tượng công phá có thể gây hại cho người khác chỉ thích hợp đối với gia đình trẻ tuổi mà thôi. Trường hợp có nhiều biểu tượng đạt được hai tiêu chuẩn trên thì biết chọn biểu tượng nào. Chúng ta nên chọn biểu tượng phù hợp với tiêu chuẩn thứ ba. • Hợp thẩm mỹ, nhu cầu văn hóa gia đình: Ngoài những biểu tượng căn bản chúng ta cũng có thể sáng tạo những biểu tượng khác đạt được mục đích trên lại phù hợp với nhu cầu thẩm mỹ, hay địa vị gia chủ trong xã hội nữa. Ví dụ : ở khu vực kinh doanh người Mỹ có khi chúng ta dùng hình bát quái không thích hợp bằng kính soi hay những vật dụng phản chiếu đầy thẩm mỹ khác chẳng hạn. CHỐNG LẠI NHỮNG MŨI TÊN ÐỘC TỪ BÊN NGOÀI: 1. Bát quái: Bát quái từ lâu được sử dụng để tiêu trừ hay chống đỡ các ảnh hưởng xấu đi vào nhà. Bát quái có hai loại: Tiên Thiên Bát Quái và Hậu Thiên Bát Quái. Hình dáng hai loại này tương tự nhau nhưng phương hướng định vị khác nhau. Tám quái được bố trí xung quang hình lưỡng nghi (Âm dương). Hình Tiên Thiên Bát Quái thường được sử dụng trừ tà khí, hữu hiệu hơn hình Hậu Thiên Bát Quái. Hình bát quái chỉ nên treo phía ngoài nhà chứ không treo ở trong nhà. Ngày nay do nhu cầu sử dụng đa dạng, nên hình lưỡng nghi ở giữa tấm bát quái được thay thế bằng tấm kiếng. Trên thương trường hiện nay có bán nhiều loại bát quái, và mỗi loại đều có tác dụng khác nhau cần phải thận trọng khi sử dụng. a)- Loại trơn không có kính: Phía giữa có hình lưỡng nghi âm dương: Chỉ có tác dụng hóa giải hướng xấu của một căn nhà. :P - Loại ở giữa có kính phẳng: Ngoài tác dụng hóa giải hướng xấu, cũng có thể đối kháng lại những tác động xấu nhẹ từ bên ngoài vào cửa chính như biển quảng cáo, tên đường, cây hay trụ che chắn trước cửa. c)- Kính lồi: Ngoài tác dụng chuyển đổi hướng xấu của bát quái, kính lồi có tác dụng phân hóa và phản hồi những mũi tên độc mạnh mẽ vào nhà như bị đòn dông, ngã ba đâm vào nhà, cây cầu, mũi súng, hay các vật bén nhọn mũi tên, đao kiếm. vv d)- Kính lõm: Trước một căn nhà sai hướng nhưng lại có những biểu tượng tốt như hồ nước, tiền án, sa sơn tốt đẹp thì nên dùng bát quái kính lõm để có thể hóa giải hướng xấu mà lại thu hút những biểu tượng tốt vào nhà. 2. Phong linh: Có thể dùng phía trong hay ngoài nhà: Có tác dụng dẫn khí dọc theo hành lang, mời gọi sinh khí đến nhà, xua đuổi tà khí đi nơi khác. Phong linh được chế tạo bằng nhiều loại vật liệu khác như như là những thanh kim loại đặt hay rỗng ruột, đá, vỏ ốc, thủy tinh, gỗ, tre, trúc, vải về hình dáng cũng đa dạng như những hình ống, hình trụ, hình tam giác, tứ giác, nhiều cạnh, chùm chuông, hình con cá, con chim. Khi sử dụng phong linh nhằm tác dụng dẫn sinh khí dọc hành lang thì nên dùng loại rỗng ruột thông khí. Trái lại khi dùng xua đuổi tà khí thì nên dùng loại đặt ruột. Phong linh trước gió thường lay động phát ra những âm thanh, điệu nhạc vui tai, để sử dụng phong linh có hiệu quả các bạn cần phải biết phân loại âm thanh theo ngũ hành Kim Thủy, Mộc Hỏa Thổ tương ứng với các âm trong cổ nhạc là: THƯƠNG - VŨ - DỐC - CHỦY - CUNG dựa trên căn bản âm thanh do phong linh phát ra trước gió. Do vậy khi sử dụng phong linh có tiếng phát ra hợp với hành bản mệnh của mình cũng là điều tốt đẹp mang lại nhiều hiệu quả mong muốn. 3. Ðèn: Có thể dùng bên ngoài và cả bên trong,. • Trường hợp sử dụng bên ngoài nhằm điều chính thế đất thấp lõm hay hóa giải sự khiếm khuyết của một góc nhà thì dùng đèn phải chú ý đến nguyên tắc là đèn càng sáng càng tăng cường hiệu quả. • Trường hợp nhằm hóa giải âm dương, đem lại sinh khí cho gia đình thì khi dùng đèn phải hội đủ các tiêu chuẩn sau: - Nếu dùng đèn màu thì phải thuận hợp với ngũ hành bản mệnh của chủ nhà. - Trường hợp dùng nhiều bóng đèn cùng một lúc thì phải chú ý đến số lượng được tính như sau : sinh, lão, bệnh, tử do vậy chỉ nên dùng những chùm đèn 1, 2, 5, 6, 9, 10 bóng là những loại đèn sinh hay đèn lão mới tốt. Súng Ðại Bác: Trước những mũi tên độc lớn như là cây cầu, trụ ăn ten, tháp nhọn, ngã ba đường thì kính lồi bát quái không đủ sức chống lại thì có thể dùng súng đại bác, đặt trước cửa chỉ ngay những tà khí bắn vào nhà mình. Trên đất nước ta có những cây súng Thần công nổi tiếng, không ai là không biết một khi đã đặt chân đến đất thần kinh Huế. Ðó là những cây súng THẦN CÔNG ở nội thành Huế. Vào thời vua Gia Long sau khi chiến thắng Tây sơn đã cho gom lại những chiến cụ và vật dụng bằng đồng để đúc 9 khẩu súng đại bác vào năm 1804 còn gọi là súng Thần công, được vua phong là THẦN OAI VÔ ÐỊCH THƯỢNG TƯỚNG. Chín (9) cây súng này được đặt trong hai dãy nhà phía ngoài cửa Ngọ Môn mũi súng hướng ra biển nhằm chống ngoại xâm và nội loạn. Súng này thực sự chưa sử dụng đến chỉ có tính cách thiêng liêng và đặt ở vị thế bảo vệ triều đình và đất nước nên còn có tên khác nữa đó là “CỬU VỊ HỘ QUỐC THẦN CÔNG”. Thế nhưng đến thời vua Khải Ðịnh năm 1917 không biết vì lý do gì lại cho dời chín (9) cây súng này vào phía trong thành nội đặt phía trước và hai bên cửa Ngọ Môn gần hai cửa Thể Nhơn và Quảng Ðức. Ðiều đáng nói thay vì chín (9) mũi súng hướng ra phía trước để bảo vệ triều đình như trước, thì lại cho chín (9) cây súng này đối đầu bắn vào nhau. Do vậy cho dù bào chữa lý do nào đi nữa thì vị trí của chín (9) cây súng này gây nhiều tác hại xấu về mặt phong thủy. Sự việc này có thể đem lại nhiều tranh luận và nghi vấn về phong thủy đối với kinh thành Huế nói riêng và đất nước nói chung. Thật vậy, các cây súng được mệnh danh là Hộ Quốc Thần Công mà mũi súng lại không hướng về phía giặc ngoại xâm hay phản loạn, mà lại hướng đối đầu bắn vào nhau là dấu hiệu nội loạn. Thứ nữa sự đối đầu này diễn ra trước cửa Ngọ Môn Triều đình cũng là dấu hiệu an nguy cho triều đình, cũng như mang lại sự ly tán của người dân xứ Huế để tránh vòng lửa đạn. Ðứng tại cửa Ngọ Môn nhìn ra cột cờ bên tay trái, Thanh Long thuộc về dòng nội chỉ có 4 cây súng. Trong khi tay mặt là Bạch Hổ thuộc về dòng ngoại lại đặt 5 cây súng. Ðấu nhau sau lưng cột cờ chính nghĩa, phải chăng đây chính là mầm mống Bắc Nam phân tranh mà ưu thế nghiêng về phía Bạch Hổ? Mũi tên sắt: thường đặt trên mái nhà hướng vào những mũi tên độc bắn vào nhà như đòn dông, cầu cống, ngã ba đường. Cây xương rồng cũng có tác dụng chống lại sha khí, nên chưng phía ngoài nhà, khi chưng bày xương rồng nên chú ý một điều là xương rồng thuộc hành hỏa vì thế những người hành mộc hay hành kim không nên chưng loại xương rồng này. Nhiều người thường đặt hai chậu xương rồng trên hai lưng voi phục trước nhà nhằm chống lại tà khí ngoại xâm. Tượng thú dữ: Theo khoa phong thủy cửa chính là một trong những vị trí quan trọng của căn nhà cần được bảo vệ và ngăn chận những mũi tên độc hay những yếu tố xấu khác xâm nhập vào nhà. Có nhiều phương cách bảo vệ cửa chính, việc đặt thú vật hai bên cửa chính cũng là một trong những phương cách bảo vệ hữu hiệu. Hiện nay trên thị trường có bán rất nhiều loại thú ở những kiểu dáng khác nhau rất đa dạng và phong phú như là long, lân qui, phụng, sư tử, ngựa, voi, nai, gấu, rắn, chim, sóc, chó, mèo, dơi, gà … Vì thế trước khi quyết định chọn lựa một biểu tượng sử dụng cần phải chú ý đến các điểm… Theo Khongtu.
-
Gửi anh Hoàng Long. Em cám ơn góp ý của anh Hoàng Long. Vì sơ xuất trong lúc đang làm việc và việc post bài lên mạng nên không ghi rõ nguồn . Chân thành cám ơn anh đã nhắc nhở. Chúc anh nhiều sức khỏe, vạn sự như ý.
-
Ngày xưa khi làm ăn phát đạt, ai cũng muốn xây một ngôi nhà thật đẹp, trong khuôn viên ngôi nhà đào một cái ao hoặc để nuôi cá chơi, hoặc tạo ra thế giàu sang. Nhưng về khía cạnh phong thủy, ít ai biết rằng chính những cái ao đó lại mang họa đến nhiều hơn là phúc. Các nhà phong thủy học Trung Quốc và Việt Nam đã tổng kết: Có đến 80% những người sống trong khuôn viên hoa lệ ấy, mấy ai biết được chuyện gì sẽ xảy ra như bà chủ luôn phải đi bệnh viện lâu ngày, hoặc trong nhà có người mắt kém, trẻ em tinh thần nhu nhược, hoặc gia đình không hòa thuận, tâm trạng mọi thành viên trong gia đình luôn nặng nề… Những hiện tượng đó phần lớn có liên quan đến ao hồ. Ao hồ theo cách nói của phong thủy học bao gồm cả giếng nước, về vị trí và hình dáng có các trường hợp xảy ra như sau: - Nếu có một ở bên Đông, một ở bên Tây, phạm điều đó, trong nhà sẽ không có người phát câm thì phát điên. - Đằng sau nhà có hai cái ao, hoặc bên trái, bên phải hay trước nhà đều có ao, phong thủy cho đó là thế chân rồng chân hổ giẫm lên nhau, dâm dục không nghi ngờ gì nữa. Đây là thế hình sát cho biết không khí dâm dục có đầy trong nhà. - Trước nhà, sau nhà có ao cũng rất hung, người xưa nói: “Tiền đường hạ cấp đường, nhi tôn huyền tiểu vong”, nghĩa là ao trước ao sau nhà, con cháu chết sớm. - Vị trí và hình dạng ao không thống nhất cũng gây họa, như: có cái lồi ra, có cái thụt vào hoặc hình như quả bầu, có cái nhỏ cái to nối liền nhau, bệnh tật và tai họa sẽ đến với nam chủ nhân. Người xưa thường nói “Thượng đường liên hạ đường, quả phụ thủ không phòng, phong tật bất ly sàng”, nghĩa là ao trên liền ao dưới, vợ góa giữ phòng không, ao to nối ao nhỏ, bệnh phong chẳng rời giường. - Hai hoặc ba ao liền nhau, báo chủ nhà nước mắt ròng ròng, nghĩa là thế nào sự cố bi thảm cũng xảy ra. Nếu hình dáng ao trông như hoa mai, thì nhà có ba bốn bà vợ góa. Như vậy, có ao trong khuôn viên trong nhà là mang họa cho người ở, nhưng phong thủy cũng cho rằng ao có thể mang điều tốt đến. Nếu chưa nói đến quy định về khoảng cách, hãy chỉ nói đến hình dáng thì ao có hình bán nguyệt là khá tốt. Trước nhà có ao như vậy thì có tiền của. Người xưa nói: ao bán nguyệt sinh tiền, hàng nghìn kho lúa, trẻ con rớt không chết đuối. Tuy nhiên, cũng nên đề phòng trẻ em về nạn sông nước. Ao có hình vuông như nghiên mực là tốt nhất, người xưa nói: “Tiền đường tự nghiên trì, tử lục đăng cao đệ, đường thanh do như kính, quý sinh minh”, nghĩa là ao trước nhà giống cái nghiên mực, con cháu thi đỗ cao, nước ao mà trong như gương, sinh con quý mà thông minh. Trước nhà có ao như vậy là tốt, nhưng vị trí ao phải xa cửa nhà, sao cho ánh nắng chiều tà không được phản xạ tia nắng chiếu vào nhà. Trường hợp ao hoặc bể bơi gần nhà, để ánh sáng mặt trời phản xạ được vào trong nhà, phong thủy học gọi cái ao hay bể bơi này là “gương soi chậu máu” hoặc “vạn đạo kim quang” chiếu vào nhà. Gặp trường hợp như vậy, người xưa nói không thất vận lúc tiền vận thì hậu vận thất vận, chủ nhà ắt sẽ bị điên cuồng hoặc bệnh nặng. Nếu hướng giường của chủ nhà lại ở phương vị hung sát, không kể già trẻ, hẳn bị tai nạn liên miên, thậm chí mất mạng, trừ phi cát tinh soi chiếu! Có nhà đào ao trước cửa ở thế “gương soi chậu máu”, giữa cửa nhà có treo một cái gương to (hoặc để trấn trạch, hoặc để chơi) thì sát khí càng mạnh, độ hung càng lớn. Để hóa giải tình trạng “gương soi chậu máu”, phong thủy đưa ra phương án thả bèo kín ao để giảm tia nắng khúc xạ vào nhà. Cũng có phương án trồng cây trúc phía bờ ao đối diện ngôi nhà. Trúc dễ trồng, mọc nhanh, sẽ chắn những tia nắng khúc xạ vào nhà khi chiều tà, sát khí giảm hẳn. Trong xã hội hiện đại, đất chật người đông, đối với những nhà có ao tù, nước không lưu thông, bẩn, không có lợi cho sức khỏe, đồng thời theo phong thủy học, nơi đó cũng dễ gây nên hung tướng cho người ở. Gặp trường hợp này, phong thủy học cho rằng tốt nhất là lấp ao, làm vậy sẽ trừ được hết hung tướng. Nhưng lưu ý một điều, để loại trừ hết sát khí miền đất có ao, trước khi lấp ao phải hút hết nước, làm cho ao khô đi, bốc hết bùn ở đáy ao. Nếu thấy làm như thế phiền phức quá thì cứ để vậy mà lấp cũng được, vì nó cũng không gây nên tai họa. Song mọi ống nước dẫn vào ao, dù bằng vật liệu nào, dạng nào… cũng phải gỡ đi, vì chúng gây nên sát khí ảnh hưởng đến ngôi nhà. Nếu khuôn viên khu nhà rộng cần có một ao, thì phải bố trí ở phương vị đông nam, cách nhà từ 18 mét trở lên; nhưng tốt nhất là không có, mà có thì nên lấp. Có loại ao thuộc dạng chảy vòng quanh, xung quanh trồng cây mà không có đông người tụ tập, như khách sạn, nhà hàng, công ty, công xưởng thì không phát sinh vấn đề gì, có khi lại biến thành cát tướng. Vậy những bể bơi tư gia thì sao? Ở những thành phố lớn, các khu nhà ở cao sang… người ta thường bố trí bể bơi gần kề. Nếu quan niệm những bể bơi đó là “gương soi chậu máu” theo thuật phong thủy, thì ắt mọi người sống trong đó sẽ điên cuồng cả hay sao? Trong môi trường thành phố khác với các vùng trống trải, như ở nông thôn hay thị trấn nhỏ, không hẳn là như vậy. Ở nơi thoáng đãng, ánh mặt trời chiếu xuống ao hồ phản xạ vào nhà không có gì che chắn, nên chúng mới nguy hiểm. Ở thành phố, các bể bơi được xây giữa các cụm nhà cao tầng, chỉ chịu ánh mặt trời chiếu vào giữa trưa, nên không có “vạn đạo kim quang” tức là tia nắng phản xạ chiếu vào nhà, nên không có hung khí. Song không phải bể bơi bố trí giữa các nhà cao tầng không thể trở thành “gương soi chậu máu”. Đó là trường hợp một căn nhà ba tầng có bể bơi ở giữa khu nhà cao tầng, bình thường chỉ chịu sự chiếu nắng mặt trời từ 11h trưa đến 2h chiều. Tuy vậy, bể bơi ở đây có vấn đề không hay đứng về mặt phong thủy, nếu như khi thiết kế, xây dựng người ta để ý đến một chút. Thực tế đã có trường hợp người ta làm cửa thông hơi chắn bằng kính để chếch ra ngoài như một mái hiên. Lúc mặt trời từ đỉnh đầu chếch về phía tây, ánh nắng chiếu xuyên thẳng xuống bể bơi, phản xạ lên tấm chắn cửa thông hơi, từ đây ánh nắng lại một lần nữa phản xạ vào nhà tạo các hình lốm đốm. Nếu lúc đó dưới bể bơi có người, hình ánh nắng trong nhà càng lay động. Lúc này, bể bơi của gia đình trở thành “gương soi chậu máu”. Trường hợp này chỉ cần vứt bỏ tấm kính chắn ở cửa thông hơi thì mọi việc tốt đẹp. Trong xã hội nông nghiệp cổ xưa, ao hồ là nơi cấp nước cho cuộc sống con người, do vậy việc đào ao quanh và gần nơi ở là tất yếu. Phong thủy học cũng phát hiện ra mối quan hệ giữa ao hồ với con người và đưa ra những khuyến cáo như nói ở trên, ngoài ra còn có thuyết cho rằng: “ao mà có hình vuông thì hưng vượng (với điều kiện không trở thành “gương soi chậu máu”), ao như cái chảo, phú quý vô cùng; nhà to ao nhỏ, nam cô độc, nữ yểu mạng; nhà nhỏ ao to, tài bạch lưu tán; ao to trước cửa, người không thọ; ao to sau nhà, yểu mạng từ nhỏ. Ngoài ra, những dạng ao sau dù không ở thế “gương soi chậu máu” cũng là hung, như: ao trước nhà thẳng và dài; ao sau nhà hẹp và nhỏ; nhà kẹp ở giữa ao trước và ao sau; ao trước nhà có góc nhọn chĩa mũi vào cửa; trong nhà có bể nước; giữa ao có thủy đình; trong ao có núi giả; nước ao như bùn hoặc màu vàng. Những ao như vậy tốt nhất là san lấp đi. Theo VnExpress
-
Rất biết ơn ndmph đã thông báo khẩn cấp việc này cho mọi người. Trung cũng có một câu chuyện ngắn kể cho mọi người nghe về việc lạm dụng hóa chất này của Trung Quốc. Trung có bà chị ở dưới quê cũng làm về bên trái cây tươi cho người Đài Loan. Bạn của chị T làm trong khâu rửa trái cây. Theo qui định của ban giám đốc thì khi rửa những trái cây này không được dùng bằng tay để rửa, Nhưng người bạn của chị T muốn rửa cho nhanh nên đã leo vào trong cái bồn rửa đó để rửa. Sau đó ban Giám Đốc biết chuyện đã đuổi việc người này, khi đuổi việc giám đốc đã cho người này một số tiền nhỏ. Đến 1 tuần sau thì 2 đôi chân của người này đã bị mốc lên và có hiện tượng bị loét khá nặng. Trái cây nhiễm những chất này thường là Táo hoặc Lê. Các bác sĩ việt nam cũng khuyên bệnh nhân không nên dùng những loại trái cây này. Thường những người biếu trái cây cho bác sĩ là Táo hoặc Lê thì bác sỉ cũng đem bỏ chứ không ăn. Đây là mẫu chuyện ngắn khuyến cáo mọi người nên cảnh giác với trái cây của Trung Quốc. Thân. Lê Bá Trung
-
CƠ SỞ LÝ LUẬN TOÁN HỌC CỦA BÁT QUÁI *** (vì không có khả năng trình bày bằng hình vẽ, nên phải diễn tả bằng lời, mong quí huynh đệ thông cảm. Huynh đệ nào có năng lực, xin giúp đỡ biên soạn lại cho dễ nhìn. Đa tạ) * * * I./ - DIỄN DỊCH THEO XƯA:- Trong chúng ta, ai cũng biết trình tự phát triển của bát quái theo diễn dịch xưa là:- -Thái cực sinh Lưỡng Nghi (Âm, Dương). Biểu hiện bắng một vạch liền, một vạch đứt.(hào dương, hào âm) -Lưỡng nghi sinh Tứ Tượng (Thái Dương, Thái Âm, Thiếu dương, Thiếu âm) ,Biểu hiện bằng :-liền liền, đứt đứt, liền đứt. đứt liền) -Tứ tượng sinh Bát quái :- (nét từ trên xuống) *Càn :- liền liền liền *Khảm:- đứt liền đứt. *Cấn:- liền đứt đứt. *Chấn :- đứt đứt liền. *Tốn:- liền liền đứt. *Ly :- liền đứt liền. *Khôn :- đứt đứt đứt. *Đoài :- đứt liền liền. -Bát quái sinh vạn vật , từ căn bản là “64 quẻ” do sự phối hợp giữa tám quái trên với nhau. II./- NHẮC LẠI VÀI CÔNG THỨC TOÁN HỌC CƠ BẢN:- Ta đã học:- (LT = lũy thừa) -Bình phương (a+:P bằng : a bình phương + 2 a.b +b bình phương = aa +ab+ba+bb. -Tam thừa (a+:P bằng :- a tam thừa + 3 a bình x b + 3 a x b bình + b tam thừa = aaa+aab+aba+baa+abb+bab+bba+bbb -Lũy thừa 6 của (a+:( bằng:- = a LT6+ 6 aLT5.b +15 aLT4. b bình + 20 aLT3.bLT3 + 15 a bình. b LT4 + 6 a.b LT5 + bLT6 = aaa.aaa+6aaa.aab+15aaa.abb+20aaa.bbb+15aab.bbb+6abb.bbb+bbb.bbb III/.- LÝ LUẬN:- -Thay hào dương (nét liền) bằng a --- Thay hào âm (nét đứt) bằng b. Ta có:- -Lưỡng nghi = a + b (Dương—Âm) -Tứ tượng :- = aa+ab+ba+bb (tức công thức bình phương (a+:P ) *Thái dương = aa *Thái âm = bb *Thiếu dương = ab *Thiếu âm = ba -Bát quái :- = aaa+aab+aba+baa+abb+bab+bba+bbb (tức công thức tam thừa (a+;) ) *CÀN = aaa *KHẢM = bab *CẤN = abb *CHẤN = bba *TỐN = aab *LY = aba *KHÔN = bbb *ĐOÀI = baa IV/.- SÁU MƯƠI BỐN QUẺ :- Tương tự, ta có 64 quẻ tính theo công thức lũy thừa 6 của (a+:) như sau :- * Hai quẻ thuần Càn thuần Khôn:- 1.- Càn vi thiên :- aaa—aaa 2.- Khôn vi địa :- bbb—bbb *Nhóm 6aLT5.b :- gồm có :- 6 quẻ :- 1.- Thiên phong cấu :- aaa—aab 2.- Phong thiên tiểu súc:- aab—aaa 3.- Hỏa thiên đại hữu :- aba—aaa 4.- Thiên hỏa đồng nhân:- aaa—aba 5.- Thiên trạch lý:- aaa—baa 6.- Trạch thiên quải :- baa—aaa *Nhóm 15aLT4.b bình :- gồm có :- 15 quẻ :- 1.-Tốn vi phong :- aab—aab 2.- Ly vi hỏa :- aba—aba 3.- Đoài vi trạch :- baa—baa 4.- Thiên sơn độn :- aaa—abb 5.- Sơn thiên đại súc :- abb—aaa 6.- Trạch hỏa cách :- baa—aba 7.- Hỏa trạch khuê :- aba—baa 8.- Thiên thủy tụng :- aaa—bab 9.- Thủy thiên nhu :- bab—aaa 10.- Thiên lôi vô vọng :- aaa—bba 11.- Lôi thiên đại tráng :- bba—aaa 12.- Hỏa phong đỉnh :- aba—aab 13.- Phong hỏa gia nhân :- aab—aba 14.- Trạch phong đại quá :- baa—aab 15.- Phong trạch trung phù:- aab—baa *Nhóm 20 aLT3.bLT3 :- gồm 20 quẻ :- 1.- Thiên địa bỉ:- aaa—bbb 2.- Địa thiên thái :- bbb—aaa 3.- Trạch thủy khổn:- baa—bab 4.- Thủy trạch tiết:- bab—baa 5.- Thủy hỏa ký tế:- bab—aba 6.- Hỏa thủy vị tế:- aba—bab 7.- Phong lôi ích :- aab—bba 8.- Lôi phong hằng :- bba—aab 9.- Trạch sơn hàm:- baa—abb 10.- Sơn trạch tổn :- abb—baa 11.- Lôi trạch qui muội :- bba—baa 12.- Trạch lôi tùy:- baa—bba 13.- Sơn phong cổ :- abb—aab 14.- Phong sơn tiệm:- aab—bba 15.- Phong thủy hoán:- aab—bab 16.- Thủy phong tỉnh:- bab—aab 17.- Hỏa lôi phệ hạp :- aba—bba 18.- Lôi hỏa phong :- abb—aba 19.- Sơn hỏa bôn:- abb—aba 20.- Hỏa sơn lữ:- aba—abb *Nhóm 15 a bình. b LT4 :- gồm 15 quẻ :- 1.- Cấn vi sơn :- abb—abb 2.- Chấn vi lôi :- bba—bba 3.- Khảm vi thủy :- bab—bab 4.- Trạch địa tụy:- baa—bbb 5.- Địa trạch lâm :- bbb—baa 6.- Phong địa quán :- aab—bbb 7.- Địa phong thăng :- bbb—aab 8.- Thủy sơn kiển:- bab—abb 9.- Sơn thủy mông:- abb—bab 10.- Lôi thủy giải:- bba—bab 11.- Thủy lôi truân:- bab—bba 12.- Lôi sơn tiểu quá:- bba—abb 13.- Sơn lôi di :- abb—bba 14.- Hỏa địa tấn :- aba—bbb 15.- Địa hỏa minh di:- bbb—aba *Nhóm 6 a.b LT5 :- gồm có 6 quẻ :- 1.- Sơn địa bác :- abb—bbb 2.- Địa sơn khiêm:- bbb—bba 3.- Thủy địa tỷ :- bab—bbb 4.- Địa thủy sư :- bbb—bab 5.- Địa lôi phục:- bbb—bba 6.- Lôi địa dự:- bba—bbb V/.- NHẬN XÉT:- *Cộng:- 1+6+15+20+15+6+1 = 64 quẻ . Trong đó:- -Thuần dương :- aaa—aaa :- 1 quẻ. -Thuần âm :- bbb—bbb :- 1 quẻ. -Bốn quẻ dương Càn, Đoài, Ly, Chấn thì Đoài, Ly nằm trong nhóm dương nhiều ( aLT4) , chỉ có Chấn nằm trong nhóm âm nhiều (bLT4). Càn thì quá dương (aLT6) -Bốn quẻ âm Tốn, Khảm, Cấn, Khôn thì Cấn, Khảm nằm trong nhóm âm nhiều (bLT4) , chỉ có Tốn nằm trong nhóm dương nhiều (aLT4). Khôn thì quá âm (bLT6) -Chấn, Tốn đổi chỗ trong nhóm :- để biểu hiện chuyển dịch, Chấn là Thiếu dương. Càn, Đoài, Ly là Thái dương. Tốn là Thiếu âm. Khôn, Cấn, Khảm là Thái âm. * * * Chúng ta thấy, bát quái phát triển trên cơ sở âm, dương, tạo tác theo qui luật toán học hết sức chặt chẽ. Điều đó, có thể nói lên tính khoa học của Kinh Dịch và phủ định nhận thức võ đoán tính “mê tín dị đoan” của nó. Từ những gợi ý trên, mong quí huynh đệ tư duy thêm và công bố nhiều phát hiện mới. Nguồn:Hoangthantai
-
Triết học Âm dương Ngũ hành là một hệ lý thuyết đa cấu trúc. Mỗi một cấu trúc là một tập hợp các đối tượng kết hợp với nhau đúng theo nguyên lý Âm dương Ngũ hành. Tính chất Âm dương Ngũ hành của một đối tượng (trong một cấu trúc) được xác định đồng thời 2 yếu tố là tính chất Âm dương và tính chất Ngũ hành, tức là: một đối tượng được xác định tính chất là Âm (hoặc Dương) thì nhất thiết phải có cả tính chất xác định trong Ngũ hành, và ngược lại, một đối tượng được xác định tính chất trong Ngũ hành thì nhất định phải có tính chất xác định là Âm (hoặc Dương). Các cấu trúc cơ bản của Triết học Âm dương Ngũ hành gồm 5 cấu trúc sau: -Cấu trúc thiên can -Cấu trúc địa chi -Cấu trúc nhân thể -Cấu trúc số -Cấu trúc tượng Kết hợp một cấu trúc này với một cấu trúc khác là một nguyên lý Âm dương Ngũ hành hợp nhất trong Triết học Âm dương Ngũ hành. A-Nguyên lý Âm dương Ngũ hành cơ bản của cấu trúc thiên can Thiên can có 10 đối tượng. Tính chất Âm dương Ngũ hành của 10 thiên can được xác định như sau: Giáp có tính chất là Dương mộc. Ất có tính chất là Âm mộc. Bính có tính chất là Dương hỏa. Đinh có tính chất là Âm hỏa. Mậu có tính chất là Dương thổ. Kỷ có tính chất là Âm thổ. Canh có tính chất là Dương kim. Tân có tính chất là Âm kim. Nhâm có tính chất là Dương thủy. Quý có tính chất là Âm thủy. Click this bar to view the full image. Bảng 1. Tính chất Âm dương Ngũ hành của 10 Thiên can B-Nguyên lý Âm dương Ngũ hành cơ bản của cấu trúc địa chi Địa chi có 12 đối tượng. Tính chất Âm dương Ngũ hành của 12 Địa chi được xác định như sau: Tý có tính chất là Dương thủy. Sửu có tính chất là Âm thổ. Dần có tính chất là Dương mộc. Mão có tính chất là Âm mộc. Thìn có tính chất là Dương thổ. Tị có tính chất là Âm hỏa. Ngọ có tính chất là Dương hỏa. Mùi có tính chất là Âm thổ. Thân có tính chất là Dương kim. Dậu có tính chất là Âm kim. Tuất có tính chất là Dương thổ. Hợi có tính chất là Âm thủy. Click this bar to view the full image. Bảng 2. Tính chất Âm dương Ngũ hành của 12 Địa chi C-Nguyên lý Âm dương Ngũ hành cơ bản trong cấu trúc nhân thể (phần Tạng, Phủ và Kinh) Trong hệ thống Kinh Lạc của Nhân thể có 12 Kinh chính, từ mỗi Kinh chính có một nhánh tách ra gọi là Kinh biệt. 12 Kinh biệt đi sâu vào cơ thể liên lạc với Tạng hoặc Phủ cùng tên. 1-Tính chất (mới-theo Rubi) Âm dương Ngũ hành của 12 đường kinh được xác định như sau: Kinh Phế có tính chất là Dương kim. Kinh Đại tràng có tính chất là Âm kim. Kinh Tỳ có tính chất là Dương thổ. Kinh Vị có tính chất là Âm thổ. Kinh Tâm có tính chất là Dương hỏa. Kinh Tiểu tràng có tính chất là Âm hỏa. Kinh Bàng quang có tính chất là Âm thủy. Kinh Thận có tính chất là Dương thủy. Kinh Tâm bào lạc có tính chất là Âm thổ. Kinh Tam tiêu có tính chất là Dương thổ. Kinh Đởm có tính chất là Âm mộc. Kinh Can có tính chất là Dương mộc. 2-Hệ đại chu thiên Đại chu thiên là hiện tượng khí "huyết" chảy trong 12 đường kinh chính 50 vòng mỗi ngày, mỗi vòng theo trình tự sau: Click this bar to view the full image. Bảng 3. Tính chất Âm dương Ngũ hành, giờ vượng và giờ suy của 12 đường kinh Trong bảng trên, "giờ vượng" là giờ mà đường Kinh tương ứng là wợng nhất, "giờ suy" là giờ mà đường Kinh tương ứng là suy nhất.D-Nguyên lý Âm dương Ngũ hành cơ bản trong cấu trúc số 1-Tiền đề Âm dương Ngũ hành của hệ thập phân trong cấu trúc số Thiên nhất sinh Thuỷ, Địa lục thành chi Địa nhị sinh Hỏa, Thiên thất thành chi Thiên tam sinh Mộc, Địa bát thành chi Địa tứ sinh Kim, Thiên cửu thành chi Thiên ngũ sinh Thổ, Địa thập thành chi Trời lấy số 1 mà khởi sinh hành Thuỷ, Đất lấy số 6 mà tạo thành hành Thuỷ. Đất lấy số 2 mà khởi sinh hành Hỏa, Trời lấy số 7 mà tạo thành hành Hỏa. Trời lấy số 3 mà khởi sinh hành Mộc, Đất lấy số 8 mà tạo thành hành Mộc. Đất lấy số 4 mà khởi sinh hành Kim, Trời lấy số 9 mà tạo thành hành Kim. Trời lấy số 5 mà khởi sinh hành Thổ, Đất lấy số 10 mà tạo thành hành Thổ. Các số lẻ 1,3,5,7,9 gọi là số của Trời, số Dương hay số Cơ, trong đó 1,3,5 là số Sinh của Trời, 7,9 gọi là số Thành của Trời. Các số chẵn 2,4,6,8,10 gọi là số của Đất, số Âm hay số Ngẫu, trong đó 2,4 gọi là số Sinh của Đất, còn 6,8,10 gọi là số Thành của Đất. 2-Nguyên lý Âm dương Ngũ hành của hệ thập phân trong cấu trúc số Số 1 có tính chất là Dương thủy, số 6 có tính chất là Âm thuỷ. Số 2 có tính chất là Âm hỏa, số 7 có tính chất là Dương hỏa. Số 3 có tính chất là Dương mộc, số 8 có tính chất là Âm mộc. Số 4 có tính chất là Âm kim, số 9 có tính chất là Dương kim. Số 5 có tính chất là Dương thổ, số 10 có tính chất là Âm thổ. 3-Hệ quả Âm dương Ngũ hành của hệ thập phân trong cấu trúc số Theo luật Ngũ hành sinh, khắc hệ thập phân trong cấu trúc số được sắp xếp thành 2 đồ hình Hà đồ và Lạc thư. Hình Hà đồ và Lạc thư Hình 3. Ngũ hành sinh, khắc Luật Ngũ hành tương sinh là nguyên lý của đồ hình 9 cung Hà đồ: Kim sinh Thuỷ Thuỷ sinh Mộc Mộc sinh Hoả Hoả sinh Thổ Thổ sinh Kim Click this bar to view the full image. Hình 4. 9 cung Hà đồ Luật Ngũ hành tương khắc là nguyên lý của đồ hình 9 cung Lạc thư: Kim khắc Mộc Mộc khắc Thổ Thổ khắc Thủy Thủy khắc Hỏa Hỏa khắc Kim Hình 5. 9 cung Lạc thư Nguon:Hoangthantai
-
Hai mươi năm trước, Maya Ying Lin, cô sinh viên Khoa Kiến Trúc trường Yale đã thiết kế đố án xây dựng Vietnam Veterans Memorial trên công viên The National Mall tại Trung tâm Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn. Hai bức tường Hỏa hành chữ V giao nhau tạo thành hai mũi nhọn đâm thẳng vào cây bút chì Washington Monument và Lincoln Memorial. Các mũi nhọn nhắm vào các biểu tượng, cho dù vô tình, mà lại không có biện pháp chế hóa, thì lâu ngày chắc chắn sẽ bị hung hiểm. Ngày 11 tháng 9 năm 2001, Pentagon, biểu tượng Sức Mạnh Quân Sự; World Trade, biểu tượng Kinh tế Tài Chánh đã bị xâm phạm. Một góc Pentagon và hai ngôi nhà chọc trời của thành phố NewYork đã bị sụp đổ. May mà Maya Ying Lin không cố ý nhắm đúng vào Đại Mạch của Thủ Đô nước Mỹ là nơi tụ hội của hai giòng Potomac và Anacostia. Nếu như Đại Mạch mà bị xung phạm thì hung họa chắc sẽ phải nhiều hơn. Hơn hai năm trước, bài " Bush và Gore ai sẽ thắng ai ?" có luận Tuổi Mậu Tí của Gore khả năng thống lảnh được quần hùng, nếu như đối thủ không là tuổi Bính Tuất. Gore đã hơn một lần mất cơ hội lên ngôi vì gặp phải Clinton Bính Tuất. Bush tuổi cũng Bính Tuất thì rõ ràng Gore tránh vỏ dưa lại gặp vỏ dừa ! Con đường duy nhất Gore có thể thắng được Bush Bính Tuất là phải tìm cho được Tuổi Dậu đứng phó. Chỉ có tuổi Dậu mới có thể làm khó dễ được Bush Bính Tuất. Gore không may gặp người tuổi Ngọ đứng Phó liên danh . Tí Ngọ tương xung, Gore tự hại mình, để thua đau sát nút. Bush Bính Tuất vận số đương Vượng, có thể tung hoành, kỳ vọng thừa thắng thống lãnh thêm nhiệm kỳ 2, nếu như không gặp phải tuổi Dậu đối đầu làm khó dễ. Bin Laden sinh ngày 30 tháng 7 năm 1957, tuổi Đinh Dậu. Bush Bính Tuất ngay năm đầu của nhiệm kỳ Tổng Thống đã gặp ngay Đinh Dậu Bin Laden. Bush long đong, tóc trắng bạc đầu và chắc phải chịu long đong hơn nữa nếu như tương lai lại còn phải đối đầu với các tuổi Dậu khác. Hai mũi nhọn hình chữ V của Vietnam Veterans Memorial tấn kích vào biểu tượng của nước Mỹ và thực tế thì không chỉ Pentagon và World Trade bị xung phạm mà còn kéo theo hàng ngàn người chết không toàn thây. Bush Bính Tuất gặp Đinh Dậu Bin Laden đối đầu thì không những một mình Bush long đong, mà hàng triệu gia đình phải chịu khó khăn vì mất công ăn việc làm. Nhiều Công Ty sập tiệm phá sản. Toàn khắp 50 tiểu bang nuớc Mỹ, thợ thuyền thất nghiệp tràn lan. Nhiều người cho tại vận số của thiên cơ, nhưng dưới tầm nhìn của Khoa Phong Thủy, công ăn việc làm hay là đường Quan vận thì lại còn tùy thuộc vào địa lý trú xứ của mỗi người. Thiên Thời thì khó mà thay đổi. Địa lý trú xứ thì lại có thể cải tạo, đổi thay. Thiên Thời và Địa Lợi mà yếu tố Thiên Thời đã mất, thì yếu tố Địa lợi sẽ trở nên trọng yếu để quyết định được mất, thành bại. Dịch số dạy: Nội Quan Ngoại Quỉ, thì ngoài nhà là Quỉ, trong nhà mới là Quan. Lại còn Vượng mới thành Quan, chứ hưu tù thì Quan cũng thành Quỉ. Ngũ hành phối với Lục Thân thì: Sinh ra ta là Phụ Mẫu. Khắc lại ta lại chính là Quỉ và Quan. Địa Lý trú xứ thì dạy: Hợp là Cửa, xung là Lộ, cho dù trong quẻ có hay không . Từ đó, khoa Phong Thủy có thể toán biết Quan vận cuả mỗi nhà. Biết được hướng của cửa nhà, thì có thể định được hướng của Quan. Nhớ rõ lại là vượng mới thành Quan chứ hưu tù thì Quan cũng thành Quỉ. 1: Các nhà có cửa hướng chính Đông: Hướng Đông, Chấn Cung Dương Mộc. Ngũ hành: âm Kim Khắc chế Dương Mộc, thì trong nhà Phương Đoài chính Tây Aâm Kim, nhất định phải là Cung Quan. Sao Phá Quân hành Kim đang cư tại chốn này. Vận 7 Hạ Nguyên thì Cữu Tử đang tại Đoài cung và Ngũ Hoàng thì đang trấn tại Phương Đông của Cửa . Cửu Tử đến chính Tây thì chỉ làm cho mấy Bà đôi co, sinh chuyện, chứ hoàn toàn không ảnh hưởng gì đến đường Quan vận. Công ăn việc làm mà bị khó khăn thì xem chừng tại Ngũ Hoàng đang cư tại cung của Cửa nhà, mà gia chủ thì lại nhằm đúng vào các tuổi sau đây: Nam: Nhâm Tuất, Tân Mùi, Canh Thìn, Kỷ Sửu, Mậu Tuất, Đinh Mùi, Bính Thìn. Nữ: Mậu Thìn, Đinh Sửu, Bính Tuất, Aát Mùi, Giáp Thìn, Quý Sửu. Các tuổi này mà nhà ở cửa hướng Đông, thì cách hay nhất là phải mau đổi nhà khác, hoặc sửa chuyển lại hướng cửa nhà may ra đời mới khá hơn được. 2: Các nhà có cửa hướng Đông Nam. Hướng Đông Nam, Tốn cung Âm Mộc. Ngũ hành Dương Kim khắc chế Âm Mộc, thì trong nhà Phương Càn, Tây Bắc Dương Kim, nhất định phải là Cung Quan. Sao Lộc Tồn hành Thổ đang cư tại chốn này và cũng lại là chốn cư của Bát Bạch Vận 7 Hạ Nguyên. Bát Bạch đương Vận đến đâu thì thường cho Lộc, cho Tài đến đó. Vậy thì, Gia chủ nào mất việc làm , bị chủ cho về vườn thì đừng có vội cho là tại Phong Thủy Địa Lý. Trừ trường hợp Phòng ngũ tại Tây Bắc của căn nhà mà giường ngủ lại quay về hướng chính Đông. Biết Tây Bắc kỵ chính Đông thì chịu khó xoay lại cái hướng giường. Để lâu ngày, không những việc làm bị mất mà xem chừng tình cảm rồi cũng sẽ mất theo ! 3: Các nhà có cửa hướng chính Nam Hướng Nam, Ly cung Âm Hỏa. Ngũ hành Dương Thủy khắc chế Âm Hỏa, thì trong nhà Phương Khảm, Chính Bắc nhất định phải là cung Quan. Sao Vũ Khúc hành Kim đang cư tại chốn này thì Phước Đức trong nhà đầy tràn. Như vậy, công ăn việc làm có bị trắc trở thì cũng khoan vội đổ là tại Địa lý của căn nhà. Mặc dù Vận 7 Hạ nguyên Tam Bích đang lân la chốn này. Tam Bích đến cung Khảm chỉ người trong nhà có di chuyển xa, chứ không làm cho người trong nhà khó khăn về công ăn việc làm. Trừ một trường hợp: Gia chủ đang đặt để hồ cá cảnh, hòn non bộ, tranh Thủy Pháp.....ngay tại phương chính Bắc của căn nhà, thì xem chừng vừa bị mất việc làm mà sức khỏe cũng khó mà giữ tốt được. 4: Các nhà có cửa hướng Tây nam. Hướng Tây Nam, Khôn cung Âm Thổ. Ngũ hành Dương Mộc khắc chế Âm Thổ, thì trong nhà Phương Chấn, chính Đông Dương Mộc nhất định phải là cung Quan. Sao Phá Quân hành Kim cùng với Tứ Lục Vận 7 đồng cư tại chốn này. Sao Phá Quân, du niên Tuyệt Mạng, lại thêm Tứ Lục đồng cư mà thân mạng vẫn còn, chỉ bị khó khăn về công ăn việc làm thì kể cũng còn may. Thôi thì chịu khó chuyển hết những Hồ Cá, Tranh Thủy Pháp nhắm hướng chính Đông của căn nhà mà đặt để. Phá Quân hành Kim gặp Thủy thì Kim sẽ tham sinh Thủy. Phá Quân mà hết hung tàn vì bị sinh xuất, mất lực thì công ăn việc làm sẽ thấy dễ chịu ngay. Nhớ qua năm 2004, Vận 8 Hạ Nguyên, Ngũ Hòang sẽ đến ngụ tại cung này, thì cung này càng phải cần thêm nhiều Thủy. Là vì, đặt Thủy sai chổ thì chổ đương Vượng cũng thành Suy ! . Biết đặt Thủy đúng chỗ thì chỗ đương Suy cũng thành Vượng. 5: Các nhà có cửa hướng chính Tây. Hướng chính Tây, Đoài cung Âm Kim. Ngũ hành Hỏa khắc Kim, thì trong nhà Phương Ly chính Nam nhất định phải là cung Quan. Sao Liêm Trinh hành Hỏa, du niên Ngũ Quỉ đang tại cung này. Cung này lại cũng là chốn tọa vị của Nhị Hắc Vận 7 Hạ Nguyên. Cho nên cung này rất cần Thủy Pháp nhằm để khắc chế Hỏa hành Liêm Trinh. Gia chủ nào công ăn ,việc làm gặp khó khăn thì trong nhà có bao nhiêu Thủy hảy dồn hết vào cung này. Nhị Hắc mà đến cung Ly thì xem chừng trong nhà lại thêm có người bị bệnh cao huyết áp. 6: Các nhà có cửa hướng Tây Bắc. Hướng Tây Bắc, Càn cung Dương Kim. Ngũ hành Hỏa khắc Kim, thì trong nhà Phương Ly chính Nam nhất định phải là cung Quan. Sao Phá Quân hành Kim, du niên Tuyệt Mạng đang tại cung này. Thông thường Kim gặp Kim, Ngũ hành Tương ngộ, là giàu sang phú quí. Lại thêm Vận 7 Hạ Nguyên thì Bát Bạch đương vận đang lân la trước cửa nhà. Cho dù gặp phải Nhị Hắc tại phương Nam cũng chỉ làm cho người nhà bệnh hoạn, chứ không thể làm cho công ăn việc làm khó khăn được. Ngoại trừ các tuổi: Ất Sửu, Giáp Tuất, Quý Mùi, Nhâm Thìn, Tân Sửu, Canh Tuất, Kỷ Mùi. Các tuổi này ở trong những căn nhà có cửa hướng Tây Bắc mà chỉ bị khó khăn về công ăn việc làm thì coi như còn quá may mắn. Cách hay nhất là sửa đổi ngay hướng cửa, hoặc mau mau dọn sang nhà khác. Vị nào gặp phải mà mãi cho đến bây giờ cuộc đời vẫn thông dong là tại chưa ở quá 4 năm. Vị nào Đức dày như núi thì cũng khó mà ở qua được năm thứ 9. 7: Các nhà có cửa hướng chính Bắc: Hướng chính Bắc Khảm cung, hành Thủy. Ngũ hành Thổ khắc Thủy. Thổ chính tại Trung cung của ngôi nhà. Trung cung ngôi nhà chỉ Tốt nếu như cửa chính Môn. Nghĩa là tâm cửa trước phải đồng tâm với mặt tiền của căn nhà thì cung Quan Lộc đương Vận, mới luôn được Tốt. Nếu từ tâm căn nhà nhìn về phía trước, cửa ở hai bên dù phải hay trái gọi là cửa Thiên môn thì cung Quan Lộc đều phải chịu xấu. Cửa bên trái thì sao Liêm Trinh tọa vị, du niên Ngũ Quỉ. Cửa bên phải thì sao Văn Khúc, du niên Lục Sát. Hai phương Đông Bắc, Cấn cung Dương Thổ và Tây Nam Khôn Cung Âm Thổ là hai cung Quan Lộc phụ, không đúng nghề. Như vậy, nhà nào có cửa chính Môn mà công ăn việc làm gia chủ gặp khó khăn thì đùng vội cho là tại nhà tại cửa. Ngược lại nhà nào cửa hướng chính Bắc Thiên Môn gặp Vận 7 Hạ Nguyên thì công ăn việc làm mà bị trắc trở là lẽ đương nhiên. 8: Các nhà có cửa hướng Đông Bắc: Hướng Đông Bắc Cấn cung, Dương Thổ. Ngũ hành Âm Mộc khắc Dương Thổ, thì trong nhà phương Tốn Đông Nam , Aâm Mộc nhất định phải là cung Quan. Cho dù Sao Phá Quân, du niên Tuyệt Mạng đang lân la chốn này, cũng lại là nơi Nhất Bạch Vận 7 Hạ Nguyên tọa vị. Nhất Bạch đến Cấn cho tài cho lợi, thuận lợi cho việc dựng cơ, dựng nghiệp. Vậy, nhà nào bị khó khăn về công ăn việc làm thì cũng đừng vội cho là tại nhà tại cửa. Ngoại trừ trường hợp, gia chủ đặt làm cảnh một cái hồ cá, hay hòn non bộ ngay bên trong nhà cạnh cửa ra vào. Cửa đương Vượng mà gặp Thủy thì cửa Vượng cũng thành suy mà gia chủ chỉ mất việc, bị cho về vườn , thân mạng vẫn còn thì kể cũng còn may. Khi đã rõ biết cung Quan Lộc trong nhà, gia chủ cần phải làm sạch sẽ, vệ sinh cho khu vực khang trang, đẹp mắt. Vị nào đã chu đáo rồi mà công ăn việc làm vẫn còn trắc trở khó khăn thì chắc hẳn cung Quan Lộc đang bị những Mũi Nhọn hỏa hành của những căn nhà kề cận tấn kích . Những tấn kích này y như hai mũi nhọn của Vietnam Veterans Memorial chĩa thẳng vào cây bút chì Washington Monument và Lincohn Memorial lâu ngày mà vẫn không được chế hóa. Nguồn:Bài nghiên cứu thầy Quảng Đức.
-
Cám ơn Artimisia rât nhiều. Bài đánh rất chuẩn và chữ sạch đẹp hihi. Có cả hình ảnh diễn giải nữa. Một lần nữa cám ơn Artimisia. Chúc sức khỏe, vạn sự bình an. Thân. Lê Bá Trung
-
Thân chào Artemisia . Trung rất vui khi Artemisia đã quan tâm đến topic này :P . Khi Trung post bài này lên đây nhưng không có hình thấy cũng hơi ngại :lol: , vì khi đọc đến đó mọi người sẽ lúng túng vì không có hình giải thích. :P May thay Artemisia ghé ngang thấy như vậy giúp Trung một tay thật là cảm kích. :( Chân thành cám ơn sự nhiệt tình của Artemisia rất nhiều. :P Thân. Lê Bá Trung
-
Chào chị Châu. Xin phép chị cho Trung góp ý một chút của topic chị. Với góp ý này chỉ mang tính chất tham khào thôi nha. Năm nay năm Kỷ Sửu. Kỷ thuộc Thổ. Sửu thuộc Thổ. Tỵ, Dậu, Sửu tam hợp có thể chọn 3 tuổi này xông nhà đầu năm. Hoặc nếu có người Tuồi khác không phải tam hợp nhưng hành hợp thì chắc cũng có thể gọi là tốt. Mạng Hỏa hoặc mạng Kim.... Một chút bàn luận riêng mang tính chất tham khảo thôi. Mong các Cao Nhân khác góp ý thêm. Thân Lê Bá Trung.
-
Cháu chào bác Thiên Sứ. Topic này cháu kiếm được ở trên mạng ạ. Nhưng tiếc rằng hình của chủ đề này lại die nên không có hình post lên đây. Cháu đang tìm kiếm hình liên quan đến chủ đề này. Tìm được cháu sẽ post lên ạ. Cám ơn bác Thiên Sứ đã quan tâm. Kính Gửi. Lê Bá Trung.