-
Số nội dung
190 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by Liêm Pha
-
Chào Thiên Địa Nhân! CHÂN LÝ không có độc quyền. Từ trước đến nay trong các tôn giáo chỉ thấy có Muhammed tuyên bố đạo của mình là chính phái, những ai không theo ông ta đều là tà giáo và cần phải tiêu diệt. Nếu cần thiết có "Lễ quán đảnh" thì vị Thầy nào thực hiện phép này, và ai trao "đặc quyền" này cho ông ta? Đức Phật hay vị tổ sư nào của họ? Nếu họ trả lời được thì đích thực họ là Chính Đạo, còn nếu không cũng là phường Tà Đạo như họ phân biện. Hành giả muốn đi trên con đường đạo, tối thiểu anh ta phải có hai đức tính là TÍNH PHÂN BIỆN và TÍNH DỨT BỎ. Dám "dứt bỏ" anh ta mới dám lựa chọn cho mình một pháp môn phù hợp, biết "phân biện" thì dù đi chung với ma anh ta vẫn là phật, còn không, dù ở chùa mặc áo cà sa thì vẫn là ma. Khi ý chí của con người ham muốn giải thoát mãnh liệt và dù bất cứ bất hạnh nào đến với anh ta, anh ta vẫn giữ thiện tâm; thì các đấng tối cao sẽ che chở cho anh ta.
-
TÁC ĐỘNG CỦA ÂM THANH VÀ NHẠC Nguồn" thongthienhoc.com Trải qua các thời đại, các triết gia, thần học gia và khoa học gia đều ý thức được sự quan trọng của âm thanh. Kinh Phệ Đà – một thánh kinh được xem như là cổ nhứt – viết rằng Vũ trụ được tạo lập do sự phối hợp của âm thanh. Sau đó, thánh Jean cũng nói trong kinh Phúc Âm : “Huyền Âm xuất hiện trước nhứt và Huyền Âm ở với Thượng Đế, Huyền Âm là Thượng Đế”. Người ta đã chứng minh được rằng âm thanh có tánh cách kiến tạo và cũng có tánh cách hủy hoại. Nếu người ta kéo cung vĩ cầm trên một cái chậu thủy tinh đựng cát, cát sẽ được sắp thành những hình kỷ hà. Trái lại, tiếng con người có thể làm bể một cái ly. Cũng nhờ âm thanh mà sinh vật thông cảm được với nhau. Quyền năng nầy rất đơn giản ở cầm thú và lần lần trở nên phức tạp với ngôn ngữ con người. Từ ngôn ngữ đến những tiếng hát thô sơ, chỉ có một bước và cái bước nầy tạo thành âm nhạc. Nếu âm thanh tự nó quan trọng như vậy, quyền năng của chúng sẽ như thế nào nếu người ta làm cho chúng trở nên êm dịu và kết họp chúng thành âm nhạc ? Platon trả lời như sau : “Học âm nhạc là một phương tiện trau mình hữu hiệu nhứt bởi vì tiết điệu và điều hòa đều có trung tâm của chúng ở mọi linh hồn. Nhờ nó, linh hồn sẽ trở nên phong phú, kiều diễm và sáng suốt, nhứt là đối với những ai đã am hiểu âm nhạc”. Platon còn quả quyết hơn trong quyển Nền dân chủ. Ông nói : “Không nên bày một lối âm nhạc mới nữa vì lối nầy có thể đưa trọn cả quốc gia đến chỗ suy đồi. Người ta không thể nào thay đổi phong thể của âm nhạc mà không động đến các cơ cấu chánh trị quan trọng”. Không phải chỉ có Platon mới hiểu âm nhạc như thế. Ông Aristote cũng đồng quan niệm ấy khi viết : “Tiết điệu và điều hòa tạo đủ thứ cảm giác. Nhờ nó, con người tập thu nhận những tình cảm công bằng và trao dồi đức hạnh. Người ta có thể phân âm nhạc thành nhiều loại tùy ảnh hưởng của nó đối với tánh tình. Loại nầy gây sự âu sầu, sự hèn yếu, loại khác đưa đến sự buông trôi hay sự tự chủ, loại khác nữa tạo sự phấn khởi v.v…” Đó là ý kiến của các triết gia xưa. Tuy lời lẽ của họ rất thành thật nhiều người trong thời đại của chúng ta không tin như vậy. Đa số nhạc sĩ, văn sĩ v.v… không hiểu rằng các loại âm nhạc cao quí hiện nay không những tạo hứng thú cho con người mà còn có một quyền năng sâu rộng. Những ai hâm mộ âm nhạc và đã nghe nhạc của Haendal, Beethoven, Chopin và Wagner đều nhận thấy mỗi người có một lối riêng nhưng không ai nghĩ rằng các nhạc sư ấy đã gây nhiều ảnh hưởng đối với tánh tình và phong hóa thời đại. Theo chúng tôi, mỗi loại âm nhạc đều ảnh hưởng nhiều đến lịch sử, luân lý và văn hóa, và nó hàm súc một quyền lực còn mạnh hơn tín ngưỡng, giáo điều, triết lý. Chúng tôi cũng nghĩ rằng tuy các kỷ luật đều có đặc tánh riêng nhưng không kỷ luật nào không lệ thuộc âm nhạc. Ai ai cũng biết chính nhờ sự ám thị mà âm nhạc tạo ảnh hưởng đối với trí não và tình cảm của con người. Theo lời xác nhận của Aristote, khi nghe nhạc buồn lâu ngày chúng ta sẽ trở nên u sầu, và chúng ta thấy lòng phấn khởi khi thường nghe nhạc vui. Thế là lòng ta phản ảnh một cách vô thức loại tình cảm của bản nhạc. Hơn nữa, các sự sưu tầm của chúng tôi còn chỉ rằng, ngoài sự phản ảnh ấy, tinh hoa của âm nhạc còn ảnh hưởng sâu rộng đến lối xử thế của chúng ta. Các sự nghiên cứu thuộc tâm lý học chỉ rằng khi một công thức liên hệ đến một đức tánh được lập lại thường, nó sẽ đào tạo cho con người đức tánh ấy. Chúng ta còn nên lưu ý rằng lòng người càng an tĩnh thì sự ám thị càng kiến hiệu, vì trong trạng thái an tĩnh, trí não không có khuynh hướng kháng cự. Hơn nữa âm nhạc là một công thức không diễn tả bằng lời nên khuynh hướng nầy không có, đó là một ưu điểm của nó. Âm nhạc là một công thức tế nhị và kín đáo nên người nghe không nhận thấy được tác động của nó đối với tâm hồn mình. Thính giả chỉ biết khi nghe một bản nhạc thuộc một loại nào thì mình có một loại cảm xúc tương ứng. Thực sự, khi gợi một loại cảm xúc và lập lại thường cảm xúc đó, âm nhạc lưu ở lòng người một ấn tượng có công năng đào tạo tánh tình. Aristote ý thức được điều nầy khi ông nói rằng con người sẽ thu thập những tình cảm công bằng nhờ âm nhạc. Chúng tôi không muốn nói rằng âm nhạc chỉ ảnh hưởng đến tình cảm mà thôi. Trái lại, có nhiều loại âm nhạc tác động lên trí não như nhạc của Bach chẳng hạn. Đến đây một vài câu hỏi được đặt ra. Âm nhạc có được phổ biến đến mức có thể ảnh hưởng tới nhơn loại không, nhứt là ở thời xưa ? Làm sao âm nhạc có thể tác động trên tư tưởng tập thể nếu nó không được lan truyền sâu rộng ? Phải chăng có một số người rất lớn không bao giờ nghe được âm nhạc nghiêm trang ? Các câu hỏi nầy rất hợp lý và cũng dễ trả lời. Lịch sử đã chứng tỏ rằng các tư tưởng gia, các nhà lãnh đạo tôn giáo hay quần chúng đều có những dịp thưởng thức âm nhạc. Các vua chúa đều có nhạc sĩ triều đình, hạng lãnh chúa và các bậc công hầu thời phong kiến có những anh hùng ca, còn dân chúng luôn luôn có âm nhạc địa phương của họ. Như vậy, người ta có thể nói từ xưa, âm nhạc vẫn giữ một vai trò quan trọng ngay ở các nước kém văn mình. Một điều đáng lưu ý là âm nhạc càng biến chuyển nhiều thì sự tôn kính các cổ tục càng suy giảm. Trái lại, khi âm nhạc bị hạn cuộc trong một ít loại thì dân chúng rất thủ cựu, đó là trường hợp xứ Trung Hoa. Có người nghĩ rằng âm nhạc là sản phẩm hay là biểu hiệu của văn hóa, của nhơn tâm. Sự thật thì trái hẳn. Lịch sử đã chứng minh rằng mỗi lần âm nhạc được cải cách thì luôn luôn chánh trị và phong hóa biến chuyển theo. Ở Ai Cập và Hy Lạp khi âm nhạc suy đồi thì nền văn minh của hai xứ ấy bắt đầu tàn tạ. Ảnh hưởng của âm nhạc có thể tóm tắt như sau : 1.- Âm nhạc tác động mạnh trên tình cảm và trí óc của nhơn loại. 2.- Nhơn loại nhận sự truyền cảm ấy một cách vô thức. 3.- Âm nhạc cảm nhiễm lòng người bằng cách ám ảnh và sự lập lại. Cyril Scott Nguyên An dịch (Trích Ánh Đạo số 19 năm 1971) ÂM NHẠC VÀ SỰ CẤU TẠO HUYỀN BÍ CON NGƯỜI Cyril Scott Nguồn: thongthienhoc.com Trước hết, chúng ta nên tìm hiểu các thể tế nhị của con người mà người ta thường gọi là “các lớp vỏ của linh hồn”. Nếu khoa phân tâm đã đem lại một ít tia sáng về các phản ứng lạ lùng của bản tánh con người thì Thông Thiên Học đi xa hơn và giải thích rõ ràng bản tánh ấy. Các nhà Thần linh học đã chứng minh rằng con người không phải là xác thân nầy mà là linh hồn trường cửu. Các nhà Thông Thiên Học (hay đúng hơn những nhà hướng dẫn nhơn loại) đã dùng thần nhãn sưu tầm tỉ mỉ và đã giải thích rõ thế nào là linh hồn và các mối liên quan giữa linh hồn với xác thân cùng các cõi trên của tâm thức. Theo sự sưu tầm nầy, các thể tế nhị tạo thành một vùng hào quang mà người có thần nhãn dù thuộc môn phái nào, cũng đều thấy được. Các thể đó bao quanh và thấm nhuần xác thân. Trong giới Thông Thiên Học, các thế ấy được gọi là thể phách, thể vía và thể trí. Hai thể sau nầy nhứt là thể trí được tạo bằng những chất rất thanh nên mắt phàm không thấy được. Chúng ta cần biết qua các thể như vậy để hiểu rõ ảnh hưởng của âm nhạc đối với sự phát triển của các thể. Chúng ta sẽ hiểu được phần nào vì sao một loại nhạc cảm nhiễm thể nầy nhiều hơn thể kia. Chúng ta cũng sẽ biết vì sao cái phần tư âm (quart de ton) trong âm nhạc Ấn Độ tác động trên thể trí và trên các khoa triết học và siêu hình; vì sao phần ba âm (tiers de ton) của âm nhạc Ai Cập xưa tác động trên thể tình cảm và ở các khoa nghi lễ và huyền môn; và vì sao cái phân nửa âm của âm nhạc Tây Phương tác động đặc biệt trên thể xác, thể phách và các khoa có tánh cách thực tế như cơ giới, chánh trị v.v… Lý do cái phần tư âm thanh hơn nên mới cảm nhiễm thể trí thanh hơn các thể, còn các âm kia trượt hơn nên ảnh hưởng đến các thể dưới nhiều hơn. Thường, khi ta nói đến âm nhạc, ta chỉ biết tác động của nó ở cõi trần vật chất dưới hình thức những rung động và không biết những ảnh hưởng sâu đậm của nó ở các cõi trên. Ảnh hưởng nầy rất quan trọng vì chính nó lưu một dấu vết không phải trên các thể tinh vi nghĩa là trên tánh tình, là cách ăn thói ở của con người. Người có huệ nhãn thấy rõ các ảnh hưởng nầy dưới những màu sắc và hình dáng khác nhau tùy giá trị của bản nhạc và tình cảm nó xúc khởi. Khi âm nhạc xúc khởi sự sùng tín thì màu lam hiện ra ở hào quang thính giả và theo luật đồng thanh tương ứng, nó còn tăng cường màu lam của những người mộ đạo khác. Những tình cảm cũng tạo những màu sắc tương ứng ở hào quang con người. Tuy nhiên, âm nhạc thường vẫn vô hiệu quả đối với những người thô lỗ, nếu không thì ở những thành phố có nhiều cuộc hòa nhạc, các linh hồn thấp kém sẽ tiến mau và luân lý sẽ được chấn hưng dễ dàng. Dù sao, mọi linh hồn đều nhận ít nhiều ảnh hưởng quí báu của âm nhạc. Chúng ta nên biết rằng màu sắc và hình dáng do âm nhạc tạo nên ở các cõi trên vẫn còn sau khi âm thanh chấm dứt. Nói cách khác, tình cảm chứa đựng trong bản nhạc vẫn tác động trong một thời gian sau và trong một khoảng không gian nào đó. Điều nầy giống như hiện tượng xảy ra khi ta ném một viên đá xuống nước. Sau khi viên đá chìm, sóng vẫn gợn và lan rộng ra; nếu có một cọng rơm ở đó, nó sẽ bị dao động ít nhiều. Hiệu quả của âm nhạc ở các cõi trên vẫn y như thế nhưng lớn lao hơn. Như vậy, âm nhạc tác động theo hai lối, một lối thô kệch, một lối tinh vi. Những bản nhạc mà ta nghe được ở cõi trần, vì chúng nó êm dịu nhịp nhàng nên có khả năng tinh luyện những gì trọng trược ở con người vật chất. Âm nhạc còn một phần khác không nghe được nhưng tác động mạnh trên các thể tinh vi khi thì trực tiếp khi thì qua sự trung gian của hoàn cảnh, để giáo hóa và tô điểm linh hồn. Đây là một thắc mắc đáng lưu ý. Người ta có thể hỏi : Nếu một cuộc hòa tấu được tổ chức gần một rạp hát bóng vang dậy những thứ nhạc không tốt, kết quả sẽ như thế nào ở cõi vô hình ? Phải chăng có một sự xung đột, một sự va chạm bất hảo ? Không. Là vì ở cõi vô hình có nhiều bề đo khác nhau và một loại rung động nầy không xen vào loại rung động kia y như tia nắng mặt trời không pha trộn với âm ba vô tuyến điện. Đôi khi, ta có thể ở giữa hai nơi có cuộc hòa nhạc mà ta không nghe được. Trong trường hợp nầy, ta nhận những ảnh hưởng nào phù hợp với ta. Ví dụ người ta trình diễn nhạc của Bach ở một nơi và nhạc của Mendelsoohn ở nơi kia. Nếu ta là một nhà trí thức có nhiều màu vàng ở hào quang, màu vàng trí thức của âm nhạc Bach sẽ đến tăng cường màu vàng của hào quang ta khiến nó tươi thắm lên. Nếu chúng ta chỉ là một nhà trí thức, ít tình cảm, thiếu lòng từ, ta không có màu xanh táo (vert - pomme) ở hào quang, thế là màu xanh của nhạc Mendelsoohn lướt qua hào quang của ta mà không gây ảnh hưởng. Trong trường hợp nầy, ta không nhận một rung động nào của nhạc Mendelsoohn. Trái lại nếu ta vừa mở trí, vừa mở tâm, ta hưởng cả hai cuộc hòa nhạc, một tác động của thể trí, một tác động của thể vía. Các trường hợp chúng tôi vừa trình bày rất đơn giản. Trên thực tế, hào quang của ta đượm rất nhiều màu sắc và nhờ thế nhận được rất nhiều ảnh hưởng bên ngoài. H.V. dịch (Trích Ánh Đạo số 19 năm 1971)
-
CHÚNG TA CHỊU ẢNH HƯỞNG ÂM THANH NHƯ THẾ NÀO? Trích chương 9, quyển ẨN DIỆN CỦA SỰ VẬT (THE HIDDEN SIDE OF THINGS) Tác giả C. W. Leadbeater - Dịch giả Lê Toàn Trung Nguồn: thongthienhoc.com ÂM THANH – MÀU SẮC VÀ HÌNH DẠNG Chúng ta đã khảo sát những ảnh hưởng phát ra từ các tường vách nhà thờ và hiệu quả của những nghi lễ cử hành trong đó. Chúng ta còn phải lưu ý đến ẩn diện của âm nhạc của buổi lễ. Nhiều người biết rằng âm thanh tạo ra màu sắc, mỗi nốt nhạc được đàn hay hát lên đều có một hòa âm tạo ra ánh sáng mà một nhãn thông còn thấp cũng có thể thấy được. Tuy nhiên ai cũng biết được rằng âm thanh tạo nên hình dáng trong thế giới vật chất bằng cách xướng một nốt nhạc vào một cái ống, đầu ống bên kia có căng một màng mỏng trên có rải cát mịn hoặc bột lycopodium. Phương pháp này chứng tỏ rằng mỗi âm thanh phân phối cát thành một hình dáng nhất định nào đó, cùng một nốt nhạc luôn luôn sinh ra cùng một hình dáng. Tuy nhiên hiện nay chúng tôi không bàn về các hình dáng được tạo nên bằng cách đó, chúng tôi muốn đề cập đến các hình dạng được tạo nên bằng chất dĩ thái, chất trung giới và chất thượng giới, chúng rất bền bỉ và vẫn tiếp tục tác động mạnh mẽ sau khi âm thanh đã chấm dứt. NHẠC TÔN GIÁO Chúng ta hãy khảo sát khía cạnh huyền bí của một buổi trình diễn một vở nhạc – thí dụ một buổi đàn đại phong cầm trong nhà thờ. Buổi nhạc này có ảnh hưởng trong cõi vật chất đối với những người biết thưởng thức, đã học hiểu và ưa thích âm nhạc. Nhưng nhiều người không hiểu âm nhạc và không có kiến thức chuyên môn về vấn đề này cũng có ý thức được một hiệu quả rất rõ rệt của âm nhạc tác động lên họ. Người có nhãn thông không bao giờ ngạc nhiên về điều này bởi vì y thấy rằng một bản nhạc khi được đại phong cầm tấu nên sẽ dần dần tạo nên một khối kiến trúc khổng lồ bằng chất dĩ thái, trung giới và thượng giới, vươn cao lên khỏi đại phong cầm, vượt qua hẳn mái nhà thờ, giống như một dãy núi có nhiều thành lũy. Tất cả đều có màu sắc chói sáng, rực rỡ, lấp lánh rất là tuyệt diệu, giống như bầu trời rạng đông ở Bắc Cực. Các cảnh trên rất khác nhau tùy theo nhà soạn nhạc. Nhạc mở đầu Wagner luôn luôn tạo nên một khung cảnh toàn thể huy hoàng với những màu sắc sống động, rực rỡ túa ra như thể ông dùng những ngọn núi bằng lửa thay cho đá để kiến tạo cảnh tượng trên. Một trong những bản tấu khúc của Bach tạo một hình dáng vô cùng trật tự, mạnh bạo mà rõ ràng, gập ghềnh nhưng đối xứng, có những con lạch nước bằng bạc, bằng vàng hay bằng hồng ngọc chạy song song qua đó giống như những mẫu đồ thêu trang sức xuất hiện liên tiếp nhau. Một trong những Lieder ohne Worte của Mendelssohn tạo nên tòa lâu đài mỹ miều bằng bạc trắng trên không trung. Trong quyển Hình Thể Tư Tưởng có ba hình vẽ màu trong đó chúng tôi cố gắng miêu tả các hình thể do những bản nhạc lần lượt của Mendelssonhn, Gounod và Wagner. Và sở dĩ tôi phải để độc giả tham cứu ba hình ấy vì người ta không thể tưởng tượng ra dáng vẻ của nó mà không thấy nó thực sự hay không có hình ảnh về nó. Một ngày nào đó, có thể người ta sẽ xuất bản một quyển sách nghiên cứu các hình dạng như thế để khảo sát và so sánh chúng kỹ lưỡng. Rõ ràng sự nghiên cứu những hình dạng âm thanh như thế tự nó là một khoa học và có ích lợi vô cùng. Không nên lầm lẫn các hình tư tưởng của những người trình diễn tạo nên với hình tư tưởng của chính người soạn nhạc đã sáng tạo để biểu lộ sắc thái âm nhạc của riêng mình trên những cõi cao hơn. Đó là một tác phẩm xứng đáng của một tâm hồn cao cả, thường sống động nhiều năm – đôi khi cả nhiều thế kỷ nếu người đời hiểu biết và nhận thức được giá trí của soạn giả một cách sâu xa đến nỗi quan niệm nguyên thủy của soạn giả được tư tưởng của những người ái mộ tăng cường thêm. Tương tự như trên, mặc dầu có nhiều loại khác biệt, những hình tư tưởng huy hoàng cũng được tạo ra trên các cõi cao hơn do ý tưởng của bản anh hùng ca của một thi nhân đại tài hoặc do ý tưởng của một văn sĩ nổi tiếng muốn nêu ra cho độc giả. Thí dụ như bộ vở kịch “The Ring” của Wagner, bức tranh vĩ đại về lò luyện tội và thiên đường của Dante, quan niệm của Ruskin về nghệ thuật phải như thế nào và ông muốn biến nó ra sao. Các hình thể âm nhạc của buổi trình diễn sống rất lâu từ một đến ba, bốn giờ; suốt thời gian đó chúng phát ra những rung động chắc chắn ảnh hưởng tốt cho những ngưới đứng cách đó một cây số hay hơn mà không cần thiết họ phải biết ảnh hưởng đó. Ảnh hưởng này không bao giờ đồng đều cho mọi người, người nhạy cảm được nâng cao, còn người đần độn và ưa lo âu thì ít được ảnh hưởng. Tự nhiên các làn rung động vượt khỏi khu vực trên sẽ chóng suy yếu đi và bị chìm ngập trong những dòng trốt xoáy trung giới tại những thành phố lớn. Giữa đồng quê, cây cối yên tĩnh, cái hình thể ấy kéo dài rất lâu và ảnh hưởng cả một vùng rộng lớn. Đôi khi người ta thấy nhiều đoàn tinh linh đẹp đẽ đang ngắm nhìn những hình dạng âm nhạc rực rỡ và thích thú tắm mình trong những làn sóng ảnh hưởng ấy. Thật là một cảm nghĩ tốt đẹp khi nhà dạo nhạc cố gắng và để hết tâm hồn mình vào bản nhạc đang đàn; trong khi làm như thế y đã làm điều tốt lành nhiều hơn là y nghĩ và giúp đỡ nhiều người khác mà có lẽ y không bao giờ gặp và biết đến trong kiếp này. Một điểm lý thú liên quan khác là cùng một bản nhạc mà nếu tấu lên bằng những nhạc khí khác nhau – như đàn phong cầm trong nhà thờ, đàn vĩ cầm, đàn dương cầm hoặc do một ban nhạc hòa tấu – thì những hình thể âm nhạc ấy khác nhau. Nếu nhạc được tấu hay như nhau thì các hình dạng sẽ giống nhau tuy nhiên cơ cấu lại khác nhau. Với vĩ cầm bốn giọng, hình âm nhạc rất nhỏ vì cường độ âm thanh quá yếu. Hình thể do dương cầm thì lớn hơn một chút nhưng chi tiết không được chính xác và kém cân đối hơn. Còn hình thể do đàn vĩ cầm và do ống sáo có cơ cấu khác biệt nhau rõ ràng. Những hình thể tư tưởng và tình cảm của những người chịu ảnh hưởng bản nhạc thì bao quanh và hòa lẫn với các hình dạng âm nhạc mặc dầu hoàn toàn khác biệt với chúng. Kích thước và sự sống động của chúng tùy thuộc mức độ nhận thức và cảm kích của cử tọa. Đôi khi hình âm nhạc do một quan niệm cao cả của một bậc thầy về hòa âm đứng đơn độc giữa vẻ mỹ miều của nó, không được chú ý vì tâm trí của đám khán giả còn bị thu hút vào những điều vặt vãnh, tính toán thị trường tiền bạc. Trong khi đó, mặt khác lại có những thánh ca nổi tiếng tạo nên những chuỗi hình âm nhạc gần bị che mất trong những đám mây xanh của lòng tôn sùng khơi động nơi tâm của những người xướng ca. Phẩm chất của buổi trình diễn là một yếu tố xác định dáng vẻ của hình âm nhạc. Thí dụ hình tư tưởng lơ lửng trên nhà thờ sau buổi trình diễn của đoàn hợp ca Hallelujah rất rõ ràng và tuyệt mỹ. Nếu giọng trầm đơn kém hoặc một phần nào đó bị yếu đi thì hiển nhiên hình âm nhạc không còn điều hòa và rõ ràng nữa. Hẳn nhiên cũng có những loại âm nhạc không có những hình dạng nào khác hơn là vẻ dễ thương, tuy nhiên chúng cũng rất có ích cho việc nghiên cứu. Những hình dáng kỳ lạ, đứt đoạn bao quanh một trường chuyên nghiệp của các cô gái trong giờ thực tập nếu không đẹp đẽ thì ít ra cũng đáng được quan tâm và học hỏi. Một em bé cần mẫn dạo những cung bậc và hợp âm tạo nên các chuỗi vòng gút và các đoạn cong rất quyến rũ nếu chúng không đứt đoạn hoặc thiếu các dây liên kết. HỢP XƯỚNG Một bản hòa ca tạo nên hình thể những hạt trai xỏ đều nhau vào một sợi chỉ bạc uyển chuyển, kích thước hạt trai tùy vào cường độ hợp ca, còn độ sáng và sợi chỉ bạc lệ thuộc giọng hát và cách diễn tả của người đơn ca, trong khi đó hình dáng bện sợi chỉ bạc tùy thuộc đặc tánh của âm điệu du dương. Các đặc tánh khác nhau của tiếng nói sinh ra những hình dạng giống như những sợi kim khí dệt với nhau rất là lý thú – sự tương phản giữa giọng cao và giọng thấp của phái nam với phái nữ, giữa giọng em trai với giọng phụ nữ. Bốn sợi chỉ này hoàn toàn khác nhau về màu sắc và cách cấu tạo, kết lại với nhau rất là đẹp đẽ khi đồng ca bốn giọng hoặc vừa hát vừa diễu hành bên nhau một cách trật tự và đều đặn. Một thánh ca rước kiệu tạo nên một dãy hình chữ nhật chính xác như toán học, hình này kế tiếp hình kia rất có thứ tự giống như những vòng khoen của một sợi xích rắn chắc, hoặc giống như một đoàn xe lửa khổng lồ. Hình âm nhạc trong giáo hội rất khác nhau. Những hình thể của các bài ca Tân giáo hội Anh quốc giống như những mẩu vỡ nứt lóng lánh, còn những hình thể của điệu ca giáo hội La Mã thì đồng nhất và chói sáng rực rỡ. Các hình thể này không giống những hình âm nhạc do các triết gia Ân độ hát những tiết kinh Bắc Phạn với giọng đều đều. Người ta có thể nói rằng cảm tình của chính nhạc sĩ tác động lên hình âm nhạc mà y cố gắng tạo ra đến mức độ nào. Nói cho đúng, những cảm tình của y không hề ảnh hưởng đến cơ cấu của âm nhạc. Nếu y trình diễn khéo léo hoặc rõ ràng như nhau thì dẫu y cảm nghe hạnh phúc hay đau khổ, dẫu y nghĩ ngợi nghiêm trang hay vui vẻ thì hình âm nhạc vẫn không khác biệt. Những mối xúc động của y cũng như của khán giả sinh ra các hình thể rung động trong chất trung giới. Nhưng các hình thể này chỉ bao quanh khối hình âm nhạc to lớn trên chớ không hề xen lẫn vào đó. Còn cách am hiểu nghĩa nhạc và tài khéo léo tấu nhạc của y mới biểu lộ trong khối hình âm nhạc do y tạo nên. Một buổi trình diễn nghèo nàn và máy móc dẫu tạo được một hình thể chính xác đi nữa cũng thiếu cả màu sắc và sự chói sáng, ta tưởng như nó được xây cất bằng những vật liệu rẻ tiền khi so sánh với công trình của nhạc sĩ chân chính. Muốn đạt được những kết quả thật rực rỡ, người trình diễn phải quên hết những gì liên quan đến mình; phải hoàn toàn tan biến vào trong âm nhạc. Chỉ có một thiên tài mới có thể dám làm như thế mà thôi. NHẠC QUÂN ĐỘI Người có nhãn thông có thể hiểu rõ ràng cái hiệu quả kích động mạnh mẽ của quân nhạc vì y có khả năng thấy một dãy hình thể rung động nhịp nhàng do ban nhạc đi đầu hàng quân để lại. Nhịp phách của những làn rung động này không những có khuynh hướng tăng cường các làn rung động trong thể cảm dục của người lính, làm họ đồng lòng và mạnh mẽ tiến tới hơn, mà chính những hình tư tưởng được tạo nên cũng tự tỏa ra sức mạnh lòng can đảm và hăng hái chiến đấu. Vì thế một đội quân trước đó có vẻ phân tán tuyệt vọng vì mệt mỏi nay được siết chặc hàng ngũ và có thêm nhiều sức mạnh. Chúng ta nên xem xét cơ năng của sự thay đổi này. Một người mệt lã hoàn toàn mất đi khả năng phối hợp; ý chí trung ương không còn có thể nắm giữ và duy trì các bộ phận thân thể. Mỗi tế bào xác thân than phiền, kêu ca mệt nhọc và quở trách, những điều đó tác động lên thể dĩ thái, thể cảm dục, thể trí tạo thành nhiều luồng xoáy nho nhỏ riêng rẽ, theo mức độ riêng của nó. Do đó mà các thể mất đi sự kết hợp, khả năng thi hành nhiệm vụ trong đời sống con người. Mức độ cuối cùng của tình trạng này đưa đến cái chết, nhưng dưới mức độ đó là sự hỗn loạn vô cùng và ý chí không còn quyền lực bắt các bắp thịt vâng lời nữa. Khi thể cảm dục đang ở trong tình trạng đó mà có một loạt rung động đều đặn và mạnh mẽ tác động lên thì bấy giờ xung động này sẽ thế chỗ cho cái ý lực đã bị suy yếu. Tức khắc các thể lại được duy trì. Tình thế này tạo cơ hội cho ý lực phục hồi sức mạnh và nắm lại quyền chỉ huy sắp mất. Những lượn sóng do nhạc quân đội hùng mạnh trổi lên rất nổi bật và mạnh mẽ, tạo một cảm giác vui thích tích cực cho những người diễu hành theo nhịp điệu ấy, giống như nhạc khiêu vũ khơi động hữu hiệu trong lòng người nghe niềm ước muốn cùng nhau khiêu vũ. Loại nhạc khí dùng trong ban quân nhạc cũng phụ lực vào hiệu quả trên rất nhiều. Hiển nhiên đối với mục địch đó, sự mạnh mẽ và sắc bén của làn rung động rất quan trọng nhiều hơn sự tinh vi hoặc khả năng diễn tả những tình cảm thanh cao hơn của nó. ÂM THANH TRONG THIÊN NHIÊN Không phải chỉ có những âm thanh sắp xếp với nhau một cách thứ tự mà chúng ta gọi là âm nhạc mới phát sinh hình thể xác định. Mỗi âm thanh trong thiên nhiên đều có hiệu quả của nó nhiều khi rất đáng chú ý. Tiếng sấm rền tạo nên một dãy băng màu sáng rực to lớn, trong khi tiếng sét nổ điếc tai tạo ra những phát xạ không đồng đều tại trung tâm của vụ nổ trong chốc lát giống như một khối cầu méo mó phóng ra những chĩa nhọn theo mọi hướng. Những đợt sóng triền miên đập vào bờ biển tạo nên trên không trung những đường viền dợn sóng song song nhau đầy màu sắc thay đổi và sẽ biến thành những dãy núi cao lớn nếu có bão tố. Cơn gió thổi ào qua đám lá cây rừng tạo nên một mạng lưới lấp lánh đẹp đẽ dợn sóng nhịp nhàng giống như khi gió thổi qua cánh đồng lúa. Tiếng chim hót phát ra những vòng cong, những buộc gút tựa hồ những mảnh vỡ của một sợi xích bạc xuyên qua đám mây và reo vang du dương trên không. Các hình dạng của tiếng chim hót hầu như thiên hình vạn trạng, từ khối cầu vàng xinh tươi của tiếng chim campanero đến khối vô định hình màu sắc thô sơ của tiếng két la. Người có nhãn thông có thể thấy lẫn nghe tiếng gầm của con sư tử. Thật vậy, chắc hẳn là có một số thú rừng có nhãn thông thấp và cái hiệu quả gây khủng khiếp mà người ta cho là do tiếng gầm đó rất có thể phần lớn là do các phát xạ phát ra từ hình âm thanh của tiếng gầm. CẢNH SINH HOẠT TRONG GIA ĐÌNH Các hiệu quả cũng tương tự trong đời sống gia đình. Tiếng mèo rừ rừ bọc quanh nó những lớp mây hồng đồng tâm, lan mãi ra xa đến khi tiêu tán, tạo một cảm giác mơ màng và dễ chịu; cảm giác này có khuynh hướng muốn tự lập lại trong những người xung quanh. Mặt khác tiếng chó sủa bắn ra những vật rất sắc nhọn va chạm dữ dội vào thể cảm dục của người gần đó; nếu âm thanh này lập lại thường xuyên sẽ làm cho người nhạy cảm dễ trở nên nóng nảy. Tiếng chó săn chồn gay gắt khó chịu bắn ra một dãy hình dạng giống như một loạt đạn xuyên thủng thể cảm dục mọi hướng, còn tiếng sủa trầm của chó bloodhound tuôn ra những quả bầu dục và không có ý gây hại. Vài tiếng chó sủa giống như những mũi gươm bắn thẳng ra, có những tiếng khác chậm chạp nặng nề hơn giống như cái xiên đâm qua. Sức mạnh của chúng rất khác nhau nhưng tất cả đều nguy hại cho thể cảm dục và thể trí con người. Các vật bắn ra ấy thường có màu đỏ hoặc nâu thay đổi theo cảm tình của con vật và chủ âm của tiếng con vật phát ra. Chúng tương phản với các hình dạng cùn lụt nặng nề giống như các khúc gỗ của tiếng bò. Một đàn cừu thường bao quanh bằng những đám mây vô định hình có nhiều mũi nhọn giống như đám bụi cát bắn lên khi chúng đi trong đó. Tiếng gù gù của đôi bồ câu phát ra một dãy đường cong chữ S duyên dáng nối tiếp nhau. Âm điệu tiếng nói của con người cũng phát ra những hình âm thanh chúng tồn tại lâu sau khi âm thanh tạo ra chúng đã chấm dứt. Một lời thốt giận dữ bắn ra một mũi gươm đỏ thẩm. Nhiều phụ nữ nói hoài các chuyện nhãm vô nghĩa, tự bao quanh mình một mạng lưới kim khí cứng phức tạp màu nâu xám. Một mạng lưới như thế chỉ cho phép các làn rung động thấp kém đi qua nó là một hàng rào ngăn cản hữu hiệu các tác động của những tư tưởng và tình cảm tốt đẹp thanh cao hơn. Nhìn vào thể cảm dục của một người lắm chuyện là một bài học cụ thể cho sinh viên huyền bí học, nó dạy y đức hạnh chỉ nói khi cần thiết hoặc khi có điều gì lý thú và hữu ích để nói mà thôi. Một bài học hỏi khác là so sánh các hình dạng của nhiều tiếng cười khác nhau. Tiếng cười sung sướng của một em bé thổi phồng lên những đường cong hồng tươi, tạo thành những quả bóng. Tiếng cười rộ không ngớt của một người có tâm trí trống rỗng tạo nên tác động nổ vang trong một khối hình dạng không đồng đều có màu nâu hay xanh lục bẩn tùy theo màu sắc ưu thế của hào quang của y. Tiếng cười chế giễu bắn ra một hình dạng không nhất định màu đỏ đục có lốm đốm màu xanh nâu và lởm chởm những gai nhọn. Tiếng cười của người tự kiêu tạo một kết quả khó chịu, bao quanh y một hình thể và màu sắc giống như mặt một ao bùn sôi sục. Tiếng cười gắt gỏng vô tâm của một nữ sinh tạo nên những đường rối nùi màu nâu và vàng đục giống như rong biển trong khi tiếng cười vui tươi khả ái của cuộc vui đùa phát ra như những hình dạng trọn trịa màu vàng và xanh lục giống như những đợt sóng to. Thói quen huýt sáo xấu xa có những hiệu quả rất khó chịu. Nếu tiếng huýt gió dịu dàng và trật tự có âm điệu thì tác động của nó giống tiếng sáo nhỏ tuy sắc sảo hơn và có âm sắc kim khí nhiều hơn, nhưng những tiếng huýt sáo khủng khiếp vô âm điệu của các trẻ đầu đường xó chợ ở Luân đôn bắn ra một dãy vật nhỏ nhọn màu nâu bẩn. TIẾNG ĐỘNG Xung quanh ta hằng có vô số tiếng động nhân tạo, đa số đều độc hại, vì nền văn minh của chúng ta – chúng ta gọi thế - là một nền văn minh ồn ào nhất mà quả đất chưa bao giờ phải chịu đựng. Chúng cũng có một khía cạnh vô hình mà hiếm khi người ta thích ngắm. Tiếng còi điếc tai của tàu hỏa bắn ra những dạng mạnh mẽ và nhiều năng lực xuyên thủng hơn tiếng chó sủa rất nhiều. Thật vậy nó chỉ thua tiếng rú khủng khiếp của cái còi hơi nước gọi cấp cứu trong xưởng hoặc tiếng nổ của trọng pháo ở khu gần đó. Tiếng huýt còi tàu hỏa bắn ra những mũi gươm nhọn thật sự va chạm vào như có điện và phân tán mạnh mẽ vật chạm. Tác động của nó lên thể cảm dục cũng rất nguy hại có thể so sánh với mũi gươm đâm vào thể xác. Nhưng may cho chúng ra là chất trung giới có những đặc tánh của chất lỏng, do đó vết thương sẽ lành lại sau vài phút, nhưng còn tác động của sự va chạm vào cơ quan của thể cảm dục thì không mất ngay dễ dàng. Chiếc tàu hỏa yên lặng chạy qua một vùng phong cảnh tạo một hình ảnh đẹp đẽ, những âm thanh khi xe chạy tới vẽ nên những đường song song nặng nề có điểm những khối cầu hay bầu dục do đầu máy phụt ra. Do đó khi nhìn xa một chiếc tàu hỏa chạy qua một phong cảnh tạm thời để lại phía sau một hình trông giống như một dãy băng Brobdingnagian có viền những mảnh sò hến. Tiếng nổ của đại bác hiện đại giống như thuốc súng và người ta tính rằng lực phát xạ xung động kinh khiếp trong vòng bán kính gần hai cây số, tạo một tác động trầm trọng lên các luồng khí trung giới và các thể cảm dục. Tiếng cách cách của súng nhỏ bắn ra một bó kim nhỏ cũng rất là nguy haị. Hiển nhiên những ai muốn giữ thể cảm dục và thể trí của y điều hòa thì phải tránh những tiếng động lớn, sắc và bất thần. Đó là một trong những lý do mà sinh viên huyền bí cần tránh đời sống ôn ào nơi đô thị, bởi vì tiếng ồn ào liên tục là những cú đập không ngớt có những tác động phân hóa các thể của y. Dĩ nhiên đó là chưa kể một tác động khác còn trầm trọng hơn cho đời sống ở một đại lộ chính giống như sống ở gần một cống rãnh lộ thiên. Ai có quan sát những hình thể âm thanh tác động liên tục lên thể cảm dục nhạy cảm đều tin chắc rằng chúng sẽ dẫn tới một kết quả thường trực liên hệ đến hệ thần kinh xác thân. Điều này rất là trầm trọng và rất là chắc chắn đến đỗi tin rằng nếu có thể làm thống kê chính xác về vấn đề này thì chúng ta sẽ thấy những người sống bên cạnh đường lát đá xanh có tuổi thọ ngắn hơn và tỉ số mắc bệnh thần kinh nhiều hơn là những người có lợi điểm sống bên đường tráng nhựa. Giá trị và tính cần thiết của sự yên tĩnh không hề được nhận thức đầy đủ trong đời sống tân thời của chúng ta. Nhất là chúng ta không biết rằng tất cả các tiếng ồn liên tục và vô ích này tác động tàn khốc lên các thể cảm dục và thể trí của trẻ em, làm các em trở nên xấu xa và bệnh hoạn trong đời sống sau này. Tuy nhiên có một quan điểm cao hơn, tại đó mọi âm thanh của thiên nhiên đều hòa lẫn vào nhau tạo thành một âm điệu hùng mạnh – các tác giả Trung hoa gọi là KUNG. Nó cũng có một hình thể - một hình thể tổng hợp, phức tạp không thể diễn tả được bao la và biến đổi như biển cả, thẩm thấu tất cả mà cũng bao gồm tất cả, cái âm nhạc của các hành tinh. Trên cõi cao ấy, Thái dương hệ giống như một đóa hoa sen mà hình âm thanh của địa cầu chúng ta là một trong những cánh hoa rộng mở.
-
Dị nhân Thiên Sứ – nước Navi - bất ngờ nhận được một tiêu bản trống đồng Đông Sơn, một tấm bản đồ cổ, một bài sấm, từ một vị khách ẩn danh hé lộ bí mật ẩn tàng hơn 36 nghìn năm của một dân tộc Thánh linh từng sống một phần trên đất Navi. Nội dung bài thơ tiết lộ kết cục động trời về “ngày tận thế”, sự kiện mười tám vị Phò Trợ và vị Thánh vương được tái sinh làm người trong kiếp này để dẫn dắt nhân loại “từ bóng tối bước ra ánh sáng”; và chính Thiên Sứ là vị sứ giả tìm kiếm và liên kết các vị này lại với nhau. Các tài liệu được Thiên Sứ lưu trữ phụ bản điện tử trên trang diễn đàn Lý Học Đông Phương. Trong một lần tin tặc nước Xì Dầu Xíu Mại tấn công vào máy chủ diễn đàn, các tài liệu này nhanh chóng bị download và gửi về Cục tình báo để phân tích và kết luận. Nhưng không ai trong họ tìm được mật mã để giải đáp ẩn ý của bài thơ trên. Quyết tìm hiểu nội dung của bí mật, một vị Pháp sư được mời tới để giải mã tài liệu. Vị Pháp sư này trong một tiền kiếp ở Ai Cập y từng là Phù thủy phái hắc đạo dưới quyền của Pharaoh Pepi II. Do tội ác ghê tởm của y đối với đồng loại, y bị một vị Thánh vương - Pharaoh Mentuhotep II – cùng các vị Đạo sư nhốt trong một Kim Tự Tháp Màu Đen khoét sâu xuống lòng đất và được trấn yểm để y không tài nào thoát ra được. Trong một lần, phái đoàn khảo cổ Ai Cập cổ đại do Lord Carnarvon dẫn đầu đã vô tình mở đúng cánh cửa trấn yểm quang trong nhất của Kim Tự Tháp Màu Đen, và tay Pháp sư bị nhốt gần 5 nghìn năm tìm được cơ hội thoát ra ngoài. Và ngay lập tức những kẻ giúp đỡ hắn nhận được món quà là cái chết. Do y thông hiểu định luật thiên nhiên, rành rẽ thuật chiêm tinh, nên y đoán biết được “ngày đặc biệt” 21-12-2012, và quyết tâm tái sinh để thực hiện âm mưu “nguyền rủa thế gian”. Với khả năng sau nhiều năm tu luyện, tay Pháp sư nhanh chóng hiểu được ẩn ý của bài sấm truyền bí mật. Vị Thủ tướng họ Phạm - nước Xì Dầu Xíu Mại - từ lâu đã nuôi mộng bá quyền, làm chủ thế giới, muốn đặt cả nhân loại dưới bàn chân nô lệ của y. Với sự hỗ trợ của tay Pháp sư, bảy kim Tự Tháp được xây dựng bí mật trong vùng đất thưa dấu chân người, chờ ngày “cửa địa ngục” bắt đầu mở ra để thu và khuếch tán tà khí, truyền năng lượng cho những kẻ tà ác bên kia cõi vô hình thêm sức mạnh có thể làm kinh thiên động địa; và đồng thời làm dậy lên sự tham lam độc ác của những người còn sống trên thế gian, lôi kéo họ vào lực lượng tà đạo với mục đích, thanh toán những “kẻ thánh thiện còn sót lại” trong một trận chiến “kinh thiên động địa” chưa từng thấy trong lịch sử loài người. Cùng với việc đó, lực lượng tình báo Xì Dầu Xíu Mại được tung ra lùng sục khắp nơi trên nước Vina, theo dõi từng bước chân của Thiên Sứ để hòng tìm ra dấu vết của vị Thánh vương và mười tám vị phò trợ. Một số tài sản khổng lồ được đưa ra nhằm dụ dỗ Thiên Sứ tham gia vào phe Xì Dầu Xíu Mại, và đổi lại sự hé lộ bất cứ thông tin nào về tông tích những kẻ tái sinh. Nhưng với ý chí vững như bàn thạch, Thiên Sứ đã từ chối sự “ưu ái” của bọn chúng, và cắn răn không hé môi nói nửa lời cho dù phải đối mặt với nhiều lời đe dọa đến sự sinh tồn. Các tài liệu bí ẩn cũng rơi vào tay Vaticum – một giáo phái lớn, và nó hé lộ một kết cục buồn thảm về “sự sụp đổ” nhanh chóng của giáo phái này trong tương lai không xa. Một “Hội đồng cứu vãn ngày tận thế” được bí mật thành lập với sự tham gia của những giáo sĩ hiểu biết nhưng thiếu từ tâm. Một âm mưu tìm kiếm và bắt cóc những vị tái sinh trước khi họ đạt sự hợp nhất chơn thần được tung ra. Lực lượng “con hổ màu xanh” với những cá nhân vượt trội được cử đi theo bám sát nhất cử nhất động của Thiên Sứ ngày đêm. Một bản copy tài liệu cũng rơi vào tay lực lượng tình báo AIC – nước Ầm Ỹ, những kẻ đối nghịch không chùn tay với Xì Dầu Xíu Mại. Jack - Tổng thống nước Ầm Ỹ - cũng vạch ra một kế hoạch vô cùng tốn kém dựa trên sự hiểu biết huyền môn của một Giáo sỹ Yoga suy đồi đào thoát từ vùng đất thánh. Hàng nghìn người “có căn cơ” được lựa chọn vào lực lượng tình báo AIC và được huấn luyện Yoga từ nhỏ trong một căn cứ quân sự bí mật ở vịnh Guantamela. Trong một lần nhập viện điều trị căn bệnh thiếu máu ở bệnh viện Lunka Hospital, AIC đã cấy vào người Thiên Sứ một siêu chip công nghệ định vị toàn cầu hòng giám sát nhất cử nhất động của “Người kết nối những kẻ tái sinh”. Cùng chung một tham vọng là muốn duy trì độc tôn của phe phái mình, các lực lượng không ngại dùng những thủ đoạn ghê tởm nhất để thanh toán đối thủ. Cán cân đối trọng không nghiên hẳn về bên nào, kẻ tám lạng người nửa cân, họ nhiều lần chạm mặt nhau trong những trận tranh giành vô cùng nghẹt thở. Khi thời điểm “kinh thiên động địa” gần kề, phe phái nào cũng tự tin mình đã đủ sức làm chủ tình hình, và cầm chắc thắng lợi trong tay. Tất cả lao vào nhau. Nhưng đâu ai có thể ngờ. Tài liệu cổ trên đã thiếu mất một câu, và chính câu đó là “thiên cơ” của Thượng đế nhằm “rột rữa” thế giới sạch những kẻ tà tâm. Khốn thay, những con người không kìm nén được lòng lam, sự ích kỷ và vọng tưởng đã đánh mất cho mình cơ hội nhìn thấy ánh bình minh tươi đẹp của loài người sau 5.000 năm nằm trong chu kỳ đen tối (Kali Yuga). Câu chuyện trên xảy ra như thế nào. Mời bạn theo dõi tiểu thuyết “Siêu chiến thế giới thứ 3 và ngày tận thế” của Paul McCartney do Liêm Pha lượt dịch và xào nấu.
-
LINH HỒN THEO QUAN NIỆM CỦA HINDU
-
3. Thầy Năm có bộ mặt phong trần, làn da rám nắng như sáp màu nâu, cặp mắt màu than và đỏ ngầu, râu ria dài rậm rạp. Thầy có dáng vẽ của một kẻ tu hành, lời nói cử chỉ từ tốn và đặc biệt thầy có kiểu vuốt râu kiêu kỳ pha chút hách trong vị thế của kẻ bề trên. Dĩ nhiên, cũng như bao người hoạt động về tâm linh trên đất nước này, thầy từng là một đệ tử của trường phái yoga, nhưng chuyên về bùa chú và thực hành phù phép. Thầy không có ý niệm gì về bạch đạo hay hắc đạo, thầy hả hê với tư tưởng bất nhị mà sư phụ đã truyền cho: quỹ thần gì cũng giúp, miễn sao đồng ý trả giá phải chăng; “mèo trắng hay mèo đen cũng là mèo, miễn là bắt được chuột”. Với khả năng tâm linh, nhìn thấu và hiểu biết nhất định ở bên kia cõi vô hình. Nó giúp thầy ăn đứt những tay huyền môn khác, ghi tên thầy vào danh sách những pháp sư nổi tiếng trong giới với nhiều thân chủ và đệ tử chầu chực sẵn sàng cung phụng. Như thường lệ, mổi buổi sáng đã có hàng tá thân chủ chầu chực cầu sự giúp đỡ của thầy Năm, nhưng hôm nay trước lối vào tu thất đã thấy dòng chữ lớn “MIỄN TIẾP KHÁCH ĐẾN 9 GIỜ”. Bên trong thiền đường, thầy ngồi kiết già trên bục cao, diện bộ áo choàng đen thêu nhiều biểu tượng ám tự màu đỏ có nguồn gốc từ Ai Cập, hai nữ đồng tử ngồi hai bên, những đệ tử khác ngồi phía dưới. Họ đang lầm rầm đọc những đoạn thần chú cúng tế Thần Hắc Linh Miêu vào ngày Trăng tròn. Hắc Linh Miêu là biểu tượng của các pháp sư Ai Cập cổ đại, nó được các vị thần Nguyệt Tinh mang đến từ Mặt Trăng; và vào mỗi đêm rằm, nó leo lên những chổ cao nhất ngóng đôi mắt tròn xoe nhìn về quê hương xa xăm của mình. Thậm chí ở nhân gian người ta còn đồn đoán, Hắc Linh Miêu có khả năng thông linh và làm bật dậy bất cứ người chết nào nếu nó nhảy ngan xác đó vào đúng hôm sáng Trăng nhất. Lễ cúng tế Hắc Linh Miêu bắt đầu lúc giờ Tý đêm rằm, kéo dài trong 7 giờ liên tiếp đến sáng hôm sau. Vào giờ Tý, âm khí lên đến đỉnh điểm cùng với sự khuếch âm khí cực lớn từ dãy Nguyệt Tinh. Bằng nguồn năng lượng này, vào thời cổ các pháp sư Ai Cập chuyển hóa thành sát khí, dục khí…thu hút các lực lượng hắc ám từ cõi vô hình đến để luyện bùa chú, phép thần thông và kêu gọi âm binh. Các sinh linh bất hảo kéo đến đây được khoản đãi những màn tiệc tùy theo dục vọng của y, như tùng xẻo động vật để chúng rên xiết trong đau đớn, tưới máu tươi, hay những màn hoan lạc dục tình… Tuy nhiên quá khứ một thời của những tay phù thủy đã bị chôn vùi cùng cái chết của những Kim tự tháp Ai Cập, và phương pháp kêu gọi âm binh cũng đã bị thất truyền từ đó. Nghi lễ cúng tế hiện nay chỉ là hình thức hoài niệm về thời cổ, cho dù nó có kéo dài cả một đêm trăng. Nghi lễ đó làm người ta tưởng nhớ đến Mặt Trăng, một hành tinh đã yên nghỉ cách đây 42.000 năm Deva, và đang ở vào chu kỳ cuối của một quy luật vận động Vũ trụ. Nhưng không hẵn là quê hương xa xưa của những con Hắc Linh Miêu kia không còn sự sống. Khi Neil Armstrong đặt chân lên Cung Quảng Hằng, anh ta chỉ thấy sự ảm đạm và lạnh lẽo, không có bóng dáng sinh vật mặt xanh mắt trố nào cầm cờ chào đón kỷ lục “người Trái Đất đầu tiên tới Mặt Trăng”. Và qua các nghiên cứu tiếp theo, giới khoa học cũng nhìn nhận “khó lòng tìm thấy sự sống nào”. Còn người Phương Đông xem sự sống (chúng sinh) tồn tại bất cứ đâu, ngay cả trong khoán thạch lặng im chứng kiến thế sự đổi dời đang có những đứa con của Thượng đế đang ủ mình chờ đợi đến lượt luân hồi. Và biết đâu, trong vài nghìn năm tới hắn ta có thể xác con người và sẽ cười nhạo bạn (hay tôi), lúc đấy đang lỡn vỡn bên cõi vô hình. Có thể lắm. Những dòng chữ “cõi vô hình” có vẽ như khá trừu tượng thì phải? Nhiều người tưởng tượng, đấy là thế giới của người chết với bao nhiêu tà ma có sức mạnh ghê gớm có khả năng ban phát tài vật, sức khỏe, và đôi khi còn sắm vai thần chết đưa về thế giới bên kia những ai mà y cảm thấy “ngứa mắt”… Sự thật thì không hẵn thế. Thế giới không nhìn thấy còn tồn tại vô số sinh vật khác nhau, với nhiều hình dáng và tư cách đa dạng không khác gì những kẻ còn sống ở thế giới chúng ta. Nhưng gượm nào, hãy nói về người chết và sức mạnh của y trước đã. Trong sự hiểu biết đơn giản của khoa học, con người sống được phần lớn nhờ hít thở khí Oxy, nhưng bản chất của Oxy là gì thì chỉ có lẽ những nhà huyền môn hoặc các đạo sĩ Yoga mới hiểu thấu. Đôi khi giới khoa học cũng mường tượng ra vấn đề gì đó của Oxy và có nhận định tương đối gần gũi với quan niệm của người phương Đông. Năm 1905, Bác sĩ Atkins - Giáo sư Đại học Y khoa California – qua thực nghiệm đã kết luận, hai buồng phổi con người xạ ra các luồng điện. Hay như ông Huri Lindhar cũng nhìn nhận, không khí đi vào từ từ lỗ mũi bên phải tạo ra những từ điện âm cực đi theo hướng bên trái của xương sống. Nhận xét về khám phá của Atkins, bác sĩ Paul Chauchard nói, phát hiện của ông ta chỉ là những phản ứng vật lý hóa học phức tạp của những tế bào hay những thần kinh tế bào. Nghĩa là sự sống của con người và động vật không khác một máy điện tử, nếu chấm dứt nguồn cung cấp năng lượng thì nó ngừng hoạt động. Trên vùng núi Alpes, nước Pháp, nhiều cư dân sinh sống ở đây đã phát ớn với gió foehn (chinool) – Việt Nam gọi là gió Lào; loại gió mang đến không khí ngột ngạt, đau buốt khớp xương cho người kém sức khỏe; trẻ con hay thay đổi tính tình, và trở nên hung hăng hơn. Vậy điều lạ kỳ nào trong không khí ảnh hưởng đến sức khẻ con người? Năm 1932, Bác sĩ Hansenl vô tình khám phá ra ảnh hưởng của các ion đối với sức khỏe và tính tình của những người ở gần máy phát tĩnh điện. Hay như Bác sĩ Iglo Zornbluen – Viện Y khoa Mỹ - đã tiến hành thí nghiệm tác động của Ion trong không khí tác động lên cơ thể con người. Ông dùng hai thiết bị, một thiết bị tạo ra năng lượng âm (-), một tạo ra năng lượng dương (+) trong một phòng bệnh có một bệnh nhân và một bác sĩ. Khi thiết bị tạo ra ion âm hoạt động, nó tạo ra một mùi hương và sau khi hít thở khí này, bệnh nhân cảm thấy khỏe hơn. Khi thiết bị tạo ra ion dương hoạt động, không khí trong phòng trở nên ngột ngạt khó thở, bệnh nhân cảm thấy mệt mõi. Các nghiên cứu sau này đã làm rõ hơn, các ion âm sau khi được người hấp thụ có thể điều chế công năng thần kinh trung ương của vỏ não, tăng cao sức miễn dịch của cơ thể, khi người ta sống trong môi trường giàu ion âm, sẽ có cảm giác thông thoáng dễ chịu tinh sực sung mãn. Các thí nghiệm lâm sàng chứng minh nồng độ ion âm trong không khí có hiệu quả chữa trị một số bệnh như viêm phế quản, hen, đau đầu, mất ngủ suy nhược thần kinh, … vì thế có người cho ion âm là “vitamin không khí”. Theo nhiều chuyên gia y học: các tế bào gây bệnh thường tích điện âm, nếu tế bào trong cơ thể tích điện âm, thì ion âm cùng tên đẩy nhau nên vi trùng gây bệnh khó có thể tấn công tế bào. Ngoài ra ion âm thông qua con đường hô hấp vào phổi có thể xuyên qua đường phế nang. Do sự tuần hoàn của máu các ion âm sẽ đến được tất cả các tổ chức, cơ quan, thông qua tác dụng tương hỗ giữa các dịch thể với hệ thần kinh phản xạ nên có tác dụng tổng hợp đối với cơ năng sinh lý bảo vệ sức khỏe. Trước Công nguyên vài nghìn năm, người Hindu đã nói về khí và phân biệt nó rất rõ ràng. Kinh Anougita, Đạo Đức Kinh, Kinh Dịch từ cổ xưa cũng nói đến khí; hay như Phật giáo xem thể xác con người hợp bởi bốn yếu tố gọi là tứ đại: đất, nước, lửa và khí. Khí này được Hatha Yoga phân ra thành năm loại: * Prana căn bản (màu đỏ): Thuộc về tim và phổi (bên trái là dương, bên phải là âm), có chức năng hô hấp, xuyên qua não thùy và giao cảm thần kinh, chỉ huy bộ máy hô hấp và cơ cấu phát âm. * Apana prana (màu trắng pha đỏ): Thuộc về hâu môn, có chức năng bài tiết như ruột non (+), bàng quang (-), thận, ruột già và các cơ quan sinh dục. * Samana prana (màu trắng sữa): Thuộc về dạ dày (+) và đại tràng (-), có chức năng dinh dưỡng và tiêu hóa; điều khiển dạ dày, gan, lá lách và cơ quan tiêu hóa ở ngực. * Vyana prana (màu của ánh sáng): Thuộc về cơ thể bên ngoài và các giác quan điều khiển sự vận động; điều khiển tuần hoàn máu huyết. * Udana prana (màu trắng): Thuộc về tim, tủy sống, thực quản, điều khiển chơn thần xuất khỏi thể xác lúc ngủ và lìa hẳn khi đã chết. Trong quyển “Shiva gama” còn phân biệt thêm 5 loại prana phụ: Naga prana: tác nhân gây ụa mửa; Kurma prana: khiến chớp mắt; Krikila prana: khiến biết đói khát; Devadatta prana: Khiến ngáp; Dhananjaga prana: xuyên dẫn khắp thân thể và bám vào thể xác. Mười luồn khí này hợp lại thành 10 luồn khí di động, gọi là vayus; chịu ảnh hưởng của Nhật Tinh - Nguyệt Tinh; và tuân theo trật tự của ngũ hành. Chu kỳ vận động được phân chia mỗi giai đoạn kéo dài 2 giờ 26 phút, mỗi lần có một nhịp chấn động riêng, có màu sắc riêng và sự tiếp dẫn bằng sinh lực dĩ thái. Khi quá trình vận chuyển khí diễn ra bình thường, sức khỏe được bảo đảm; trái lại sẽ phát sinh rối loạn, ảnh hưởng đến tâm thần và sức khỏe. Khi bất ổn xảy ra, muốn tái lập khí trở về trạng thái bình ổn, tất cả các prana khác cùng hoạt động để tiếp dẫn đưa sinh khí mới về địa chỉ bị thương tổn. Trông kìa! Người dẫn chuyện có vẽ hơi nhiều lời thì phải….Nhưng sự thật thì có lẽ cũng cần cung cấp cho bạn chút ít kiến thức về yoga, và nó giúp bạn hiểu đúng câu chuyện diễn ra tiếp sau đây. Những vấn đề mà khi mới đọc lần đầu tiên, bạn sẽ bảo ngay “đồ ba xạo”, nhưng người dẫn cam đoan, nó không phải là tiểu thuyết trong tiểu thuyết đâu. THẬT ĐẤY! Nếu như có sự chấp nhận - dù mờ nhạt - từ khoa học, không khí ảnh hưởng đến sức khỏe thể chất, thì nguyên do nó gây ảnh hưởng đến sức khỏe tâm thần, chắc chắn cần phải tìm đến các văn bản cổ xưa của người Hindu. Từ rất lâu những người Ấn đã biết: Chơn thần (Atma) – ánh sáng của Toàn Giác - những đứa được tách ra từ Thượng Đế có bản tính minh triết và bác ái như Ngài. Ban đầu chúng trôi giạt khắp nơi trong Thái Dương Hệ mênh mông, chúng tự do hành động theo ý mình. Dần dà. Tư tưởng bất hảo phát sinh, các khí trược ô nhiểm bắt đầu bao lấy Chơn Thần, nó bị giam hãm trong đó, và bị cấu tạo thành nhiều vòng thể chất mới. Các khí chất này gây ra Ảo Giác (Maya), cái cớ để Phàm Ngã (Ego) tồn tại. Từ đó, quy luật Vũ trụ buộc phải sửa đổi để những đứa con của Ngài có cơ hội trở về bản tính – đó là luật Luân Hồi. Theo tự nhiên, một cá nhân phải mất nhiều triệu kiếp luân hồi mới hoàn thành sự tiến hóa; nhưng bằng Yoga – đứa con của sự hợp nhất – thời gian đó rút ngắn lại trong vài mươi kiếp. Hành giả tu đạo sử dụng Lửa Thiêng (Kundalini) và chuyển hóa nó để thay thể khí thể ô nhiễm của mình; cho đến khi không có chút khí thể hư hoại nào tồn tại trong anh ta nữa, anh ta đắc đạo, và sự hợp nhất Chơn Thần xảy ra. Hành giả thu các tinh khí Vũ Trụ ở không khí bên ngoài thông qua hít thở, hoặc bằng cách khai mở các bí huyệt trên cơ thể; đồng thời sử dụng sức mạnh tinh thần để chuyển hóa nó thành Linh Khí. Ví như khi hành giả tập trung suy nghĩ (quán tưởng) về tình thương, các tinh khí sẽ được chuyển hóa thành Khí Lực Từ Bi; những dòng khí tinh khiết này chảy vào các bí huyệt, đi vào chơn thần, đẩy các khí Tà Ác ra ngoài và làm nó từ từ tan rã. Mặc khác, các khí lực đã được chuyển hóa từ ý nghĩ, suy tưởng của con người hay sinh vật khác được lưu trữ trong không khí, vật liệu kiến trúc, nhà cửa… cũng ảnh hưởng đến tâm thần của con người. Người ta có thể cảm nhận rõ ràng rằng, khi lui tới đến nghĩa địa sẽ nhận được cảm giác lạnh lẽo và hoảng sợ; hay khi đặt chân đến những ngôi chùa hay ngọn núi thiêng, tức thì trong con người có cảm giác sùng kính, từ bi xâm nhập. Câu chuyện về các ngôi nhà ma ám, biệt thự hồn ma, hay lâu đài của quỹ, được truyền tai nhau từ thế kỷ này sang thế kỷ khác…và thật kinh hãi, nó lại là sự thật. Tuy nhiên chuyện đó chẳng thể nào trông giống như phim ảnh Hollywood miêu tả với kiểu muốn kiếm tiền nhằm vào tò mò và sợ hãi của khán giả. Thật ra những linh hồn không siêu thoát, khi còn sống y có sự đau khổ hay oán hận tột cùng; hoặc không thể thoát khỏi sự ám ảnh bởi nguyên nhân gây ra cái chết của mình. Từ những bấn loạn tinh thần này, y sẽ tạo ra những khí lực uất ức mạnh mẽ và dòng khí này thấm vào kiến trúc nơi đó…Àh, mà thôi, chuyện về ma ám tôi sẽ kể vào phần sau vậy. Giờ thì ông Mặt Trời đã lên cao, những tia nắng nóng chắc là sắp đốt cháy sự chờ đợi của người viết mất. Phù! Thật may! Thầy Năm đã chấm dứt buổi lễ của mình và đang sửa soạn tiếp đón những thân chủ mới.
-
Một. Vị đạo sĩ dưới chân núi Basa 1. Mùa đông năm nay đến sớm hơn thường lệ, khi mới giữa tháng Chín, dãy rừng thông già cỗi trong núi Basa mấy hôm trước còn xanh rì, nay đã phủ màu trắng xóa. Tuyết bám dày bên ngoài những cành cây khô queo, những lá thông xanh non… Kể từ khi cơn lạnh thắt bắt đầu tấn công xuống đây, những con thú nhỏ cũng ít ra ngoài gặm cỏ, làm không gian nhỏ bé ở Basa càng trở nên cô tịch. Nhiệt độ ngoài trời âm chừng vài độ. Taurus đang thiền dưới gốc một cây thông lớn, khuôn mặt hắn biểu hiện chỉ một xúc cảm hiền lành như mặt pho tượng Bồ tát tạt trong đình chùa, và hướng đôi mắt bất động nhìn thẳng về phía khoảng không hư vô. Thân thể hắn đang rịn ra những giọt mồ hôi như thể cơn mưa phùn nào đó vừa trút xuống. Thật ngạc nhiên. Không chút cảm xúc buốt lạnh nào tồn tại bên trong con người hắn; không chút kinh hãi nào lui tới hắn, khi chỉ một con người lẽ loi trong chốn rừng sâu hoang vắng; không chút buồn tẻ cô độc nào xảy ra với hắn, khi chẳng có kẻ đồng hành bầu bạn kế bên… Taurus đến núi Basa được bảy hôm. Bởi vì hắn cần một nơi không có tiếng người, một nơi khí trời không dấy mùi ô nhiểm xú uế của những kẻ tà tâm. Hắn phải trải qua 90 ngày cuối cùng để đạt quả A-la-hán bằng phép tu luyện Yoga Kundalini (hỏa xà), thời điểm được giới huyền môn gọi là “90 ngày cô độc rong ruỗi trên sa mạc bỏng rát”. Đây là lần thứ tư hắn cố công hoàn tất giai đoạn này, do những lần trước hắn đều không vượt qua chướng ngại, bởi vướng mắc và quấy phá của những kẻ vô minh bên kia cõi vô hình. Mặt trời đang cố xuyên thấu những tia nắng nóng qua đám mây dày âm u. Nhưng vô ích. Không có tia nắng nào được gửi tới vùng núi này, mặc dù dăm ba sự cố gắng kia cũng làm bớt đi chút ít màu xám xịt và lạnh lẽo. Taurus xả thiền. Hắn cử động, rồi xoa bóp tứ chi, lấy chiếc khăn lau sạch mồ hôi trên thân thể, từ tốn đứng dậy và đi dạo quanh chân núi. Đối với người đời, những kẻ như Taurus dường như vô tích sự, yếm thế và đáng thương hại. Ai lại rời bỏ cuộc sống hưởng thụ lạc thú, say mê trong rượu thịt, ngây ngất trong dục lạc, để tìm đến lối sống kỳ dị thế kia? Trước đây vài năm, hắn chưa bao giờ tin vào luật Nhân quả sắp đặt số phận của một con người, với hắn, đó chỉ là trò bịp của mấy gã thầy bói mù kiếm sống nơi đầu đường xó chợ. Số mệnh ư? Không nằm ngoài đôi bàn tay và cái đầu nhanh nhạy. Nhưng cuộc đời lại ưa thích trêu đùa. Taurus ôm nhiều mơ mộng hải hồ, mong muốn kiến tạo một thế giới hòa bình. Và để thực hiện giấc mơ đó, hắn nhét vào óc toàn sách là sách: nào là triết học, khoa học, văn học…cứ như một thư viện mini tồn tại di động, một thư viện sách số được mã hóa và nén trong bộ não vài trăm gram. Nhưng từng ấy kiến thức lại không giúp ích gì cho những hình dung tương lai; với nhiều mớ kiến thức, lý thuyết khác nhau, đối nghịch nhau. Con đường nào cũng là chân lý, lối đi nào cũng hứa hẹn giúp người ta đi đến Thiên đường, nhưng trước khi đến đó hãy tranh giành nhau trong cái địa ngục trước đã. Nhưng đấu tranh mãi mà không thấy ai bước ra khỏi vũng bùn đó; tất cả bị mắc lầy, và ngụp lặn trong sự thù ghét lẫn nhau của tôn giáo, của quốc gia, của ý thức hệ. 2. Taurus lại bỏ việc ở sở làm. Đây là lần thứ hai mươi mốt. Hình như Taurus chưa bao giờ thành công. Hắn toàn gặp thất bại. Đôi ba chướng ngại đầu tiên, hắn xoa tay khề khà, đấy là thử thách; nhưng khi thất bại hơn nửa đời người, hắn rút vào nội tâm mình thổn thức. Trong tâm trí hắn hình như đã lãnh nhận trách nhiệm gì đó với cuộc đời, lớn ghê gớm lắm; điều đó lởn vởn trong óc, nó không chấp nhận sự đầu hàng, nó yêu cầu hắn phải nổ lực không ngừng nghỉ, nó cứ như những đợt sóng biển ào ạt vỗ vào bờ khối óc, cứ lặp đi lặp lại mà không có tí ti ý tưởng nào nảy sinh được xem là lối thoát. Sau những lần như vậy hắn bắt đầu biết phiền muộn về cuộc đời, hắn nghi ngờ có ma lực nào đó đang lôi kéo kế hoạch của mình. “Ma lực”. Hắn lặp đi lặp lại cái từ ghê tởm đó trong óc đến hàng nghìn lần, hắn nguyền rủa nó, muốn chộp lấy và tức thì xé toang ra từng mảnh. - “Đến nơi rồi thưa anh!” Tiếng gã tài xế taxi lôi hắn dứt ra khỏi dòng suy tư hung hãn đang cuồn cuộn chảy. Taurus xuống xe, liếc nhìn tờ giấy ghi địa chỉ nhàu nát cầm sẵn trên tay mà một người bạn đã đưa: “Thầy Năm. Số 6/13, Đường Mộ Đạo”. Taurus chậm rãi sải chân trong con hẻm ngoằn nghèo nhỏ xíu của khu đô thị nghèo nhất thành phố phản phất mùi ẩm mốc của nước tù đọng chưa kịp bốc hơi. Kế lối đi, vài chiếc ghế gỗ nhỏ xíu cũ kỷ ngã màu đen tuyền được dựng lên làm quán cà-phê di động. Hai người đàn ông trung niên có nước da màu nâu đen với gương mặt khắc khổ ngồi chéo chân, khề khà thưởng thức tách cà-phê bốc nghi ngút hơi. Taurus lại gần, cất tiếng hỏi: - “Hai anh cho tôi hỏi nhà thầy Năm ở đâu?”. Một người nhanh nhảu đứng dậy chỉ về căn nhà có cánh cổng màu xanh lá cây, độ chừng hơn 100m. “Đi gọi hồn à! Cái nhà màu xanh đó”. Taurus cảm ơn và đi về hướng anh ta chỉ dẫn. Những dấu hỏi bổng nảy ra trong đầu Taurus: trên đời này có linh hồn chăng, chẳng phải người ta chết đi rồi trở thành một đống tro tàn hay sao? Đang mãi mê suy nghĩ, đột nhiên có mãnh lực ghê gớm bí ẩn nào đó giáng xuống đầu hắn, yêu cầu hắn phải quay chân rời khỏi ngôi nhà màu xanh và trở về ngay lập tức.
-
Kính Bác Thiên Sứ! Chuyện này chắc không phải chuyện bác từng xem trên phim. Nó chỉ là văn chương mạng, hình như là của một người Ấn thì phải. Cháu dịch và xào nấu lại trên tinh thần phù hợp với nước Navi. Chuyện của người ta nói rõ nước này nước nọ, tổ chức này kia giống như ngoài đời; nhưng trên tinh thần "tránh voi chẳng xấu mặt nào" cháu đành phải mã hóa nó. "Không phải không có lòng, chỉ sợ thời chưa tới" thôi Bác ạh
-
Bác Nòng Nọc nói chuyện mà nổi niềm cứ tuôn ra òng ọc thế? Chắc bác có người iu "theo chồng bỏ cuộc chơi" phải k?
-
Ý kiến của chú TRẦN PHƯƠNG rất xác đáng: Cháu cũng có quen vài gia đình có con gái lấy chồng Đài Loan, Hàn Quốc...và thấy cũng lắm hoàn cảnh xảy ra với họ. Một người lấy chồng Hàn được chừng hai năm gì đó, bên nhà chồng cô ta chắc cũng nghèo nên ít đưa tiền cho cô gái gửi về Việt Nam. Còn cha mẹ ở VN thì thúc giục cô phải gửi tiền về cho họ xây nhà, chắc không còn cách nào khác, cô ta phải ăn trộm tiền của nhà chồng; cô ta gửi về được khoảng 500 triệu gì đó, thì bị bên nhà chồng phát hiện và giết chết, sau đó đưa xác về VN (trường hợp này không phải chuyện báo chí nêu ầm ĩ). Cha mẹ cô này cũng là nông dân không hiểu biết gì mấy nên mọi chuyện coi như xong, họ được căn nhà nhưng mất con. Còn cô khác thì chắc bên chồng giàu có, cô gái đi sang Đài được hai năm, thì gửi tiền về đều đều; mỗi tết cô và chồng đưa con về Việt Nam ăn tết, thấy họ cũng hạnh phúc như bao đôi lứa khác. Cũng cô cô lấy chồng xong, sống không hợp nên ly dị và cô gái bỏ về Việt Nam. Hay có cô khác thì lấy xong thì biệt tăm luôn, gia đình không còn biết sống hay chết. Mà thường thì những cô gái mai mắn thì được PR nhiều hơn, nên cháu cũng không rõ có nhiều trường hợp bất hạnh hơn hay hạnh phúc nhiều hơn. ---- Vấn đề nhiều người khó chịu với chuyện lấy chồng nước ngoài đa phần đến từ phía NAM giới. Hi hi. Không biết do thương xót hay do "miếng mồi thơm" bị người ta giật mất nữa. Hi Hi.
-
ĂN CHAY THEO MINH GIẢI THÔNG THIÊN HỌC Liệu Linh hồn có một nhiệm vụ đủ khó khăn chăng khi ta làm cho nhiệm vụ nó khó khăn hơn qua việc làm ô nhiễm khí cụ mà nó phải hoạt động thông qua đó, và cung cấp cho nó vật liệu không đáp ứng với những sự thôi thúc tinh vi song lại đáp ứng dễ dàng với mọi đam mê hạ đẳng của bản chất thú tính mà Linh hồn bị ràng buộc vào đó? Thế rồi khi bạn nhớ rằng bạn bỏ qua nó, khi bạn ăn thịt, do đó tăng cường những đam mê hạ đẳng đầy thú tính thì bạn đang in lên những phân tử của cơ thể chính mình quyền năng đáp ứng như thế, chắc chắn bạn phải rèn luyện và tinh luyện cơ thể mình, có thể nói là không liên tục giúp cho nó cứ đáp ứng mãi với những rung động thuộc về giới động vật này. * Tôi nghĩ rằng tựa đề của bài thuyết trình mà tôi phải trình bày với quí vị tối nay cho quí vị thấy những hạn chế mà tôi hầu như áp đặt lên cả hai đề tài được nhắc đến trong đó, vậy là xác định giới hạn của điều mà tôi phải nói. Tôi phải nói với các bạn về “Ăn Chay theo minh giải của Thông Thiên Học”. Thế mà chắc chắn rằng bạn có thể cãi lý về lý thuyết và việc thực hành ăn chay theo rất nhiều quan điểm. Bạn có thể xét nó theo quan điểm sức khỏe của thể xác; bạn có thể xét nó theo đường lối sinh lý học và hóa học; bạn có thể luận chứng rất vững chắc để ủng hộ nó do việc nó có liên quan tới việc sử dụng (hoặc đúng hơn là không sử dụng) rượu mạnh, vì việc uống rượu và ăn thịt có liên quan mật thiết với nhau và rất ưa biến thiên tỉ lệ với nhau nơi cùng một cá thể; bạn có thể xét nó theo những quan điểm khác có lẽ là quen thuộc với nhiều người trong số bạn qua những lập luận mà bạn đọc trong những tạp chí ăn chay và nghe thuyết trình của các diễn giả ăn chay. Rồi lại còn quan điểm của Thông Thiên Học nữa. Nếu tôi phải bàn về bản thân Thông Thiên Học, thì tôi ắt phải tạo ra được một ấn tượng về ý nghĩa và giáo lý của nó, có lẽ truy nguyên cho bạn thấy diễn trình lịch sử của nó, nêu ra những lập luận về việc giáo lý của nó nói chung là hợp lý, cũng như triết lý của nó có giá trị đối với con người. Nhưng tôi sắp xem xét hai đề tài này liên quan với nhau, và mối quan hệ đó có nghĩa là tôi sắp cố gắng mang lại cho một số người trong các bạn (họ rất có thể đã ăn chay rồi) những lập luận theo một đường lối tư tưởng có thể là ít quen thuộc hơn đối với bạn so với những lập luận mà người ta thường dùng để ủng hộ việc ăn chay. Và tôi cũng cố gắng trình bày cho những người trong các bạn vốn không ăn chay, thì theo quan điểm của Thông Thiên Học, ta phải viện dẫn những lập luận khác hơn những lập luận bàn về sự dinh dưỡng của cơ thể, bàn về các vấn đề hóa học và sinh lý học hoặc ngay cả bàn về tác dụng của nó đối với việc buôn bán rượu; đây là một đường lối tư tưởng khác hẳn với những thứ nêu trên và có lẽ có giá trị đặc biệt vì nó khác như thế; cũng như bạn có thể tiếp viện thêm cho một đạo quân vốn đã chiến đấu chống lại rất nhiều điều kỳ quặc. Việc ăn chay mà tôi sắp lập luận tối nay vốn sẽ quen thuộc với tất cả các bạn nào đang kiêng mọi loại thực phẩm có hàm ý phải giết chết loài động vật hoặc gây ra tội ác đối với động vật. Tôi không xét tới bất kỳ đường lối lập luận đặc biệt nào, chẳng hạn như những đường lối chia rẽ phái ăn chay này với phái ăn chay khác. Tôi không lập luận về ngũ cốc, về trái cây, về đủ thứ phép dinh dưỡng vốn gây ra rất nhiều sự bàn tán xôn xao vào lúc này. Tôi chỉ xét đường lối tổng quát là kiêng mọi loại thực phẩm động vật, và tôi cố gắng chứng tỏ lý do phải kiêng như thế mà ta có thể rút ra từ giáo huấn Thông Thiên Học, nó có thể được ủng hộ bởi cái thế giới quan và nhân sinh quan đó của những người được người ta biết tới với danh hiệu là nhà Thông Thiên Học. Trước khi nêu ra lập luận, tôi xin nói rằng tôi tin lập luận mà mình đưa ra ắt hoàn toàn lành mạnh theo quan điểm Thông Thiên Học, thì tôi lại không có quyền buộc Hội Thông Thiên Học nói chung phải chấp nhận lập luận đó vì nhiều người trong các bạn biết rằng chúng tôi không đòi hỏi những người gia nhập Hội Thông Thiên Học phải chấp nhận những giáo lý mà ta biết với tên gọi chung là Thông Thiên Học. Chúng tôi chỉ yêu cầu họ chấp nhận giáo lý về tình huynh đệ đại đồng và mưu tìm sự thật có thể nói là theo tinh thần hợp tác hơn theo óc cạnh tranh. Điều này có nghĩa là chúng tôi yêu cầu các hội viên không được công kích những tôn giáo hoặc quan điểm khác của những người lân cận, họ phải tỏ ra tôn trọng những người khác chẳng khác nào họ trông mong những người khác tỏ ra tôn trọng mình khi mình phát biểu ý kiến. Chúng tôi chỉ bằng lòng với một nghĩa vụ duy nhất đó thôi. Chúng tôi không cố gắng áp đặt những quan điểm Thông Thiên Học lên những người gia nhập Hội. Những người trong chúng tôi tin rằng các quan điểm này là đúng vì chúng tôi tin vào sức mạnh của chính sự thật, do đó chúng tôi để cho các hội viên được hoàn toàn tự do chấp nhận hoặc bác bỏ những quan điểm đó. Thế thì bạn ắt hiểu rằng khi thuyết trình, tôi không đòi hỏi Hội Thông Thiên Học phải cam kết điều gì. Những quan điểm mà tôi trình bày đều được rút ra từ một triết lý mà bất kỳ hội viên nào trong Hội chúng ta đều có thể hoặc không thể chủ trương. Thế mà đường lối lập luận đầu tiên (theo đó tôi yêu cầu bạn chú ý tới việc ăn chay theo minh giải Thông Thiên Học) là như sau: Thông Thiên Học coi con người là một bộ phận của một đường tiến hóa lớn, nó coi con người có vị trí trên thế giới là một mắt xích trong một chuỗi xích bền vững, chuỗi xích này có mắt xích đầu tiên biểu lộ nơi chính sự sống thiêng liêng; trải qua từng mắt xích một, tức là các đại huyền giai hoặc tầng lớp đấng thông tuệ tâm linh đang tiến hóa, nó giáng xuống theo kiểu này từ nguồn gốc thiêng liêng trải qua các thực thể tâm linh rồi vướng mắc vào sự biểu lộ mà ta biết là thế giới của chính ta; thế giới này (vốn chẳng qua chỉ là biểu hiện của tư tưởng thiêng liêng) được thấm nhuần bởi sự sống thiêng liêng đó; mọi thứ mà ta gọi là định luật chính là biểu hiện của bản chất thiêng liêng đó; mọi việc nghiên cứu sự biểu lộ định luật chính là nghiên cứu trí tuệ thiêng liêng trong thiên nhiên. Điều này khiến cho ta phải xem xét thế giới không phải với bản thể là vật chất và lực giống như quan điểm của khoa học duy vật, mà với bản thể là sự sống và tâm thức chỉ vì mục đích biểu lộ mà phải dính mắc vào điều mà ta thừa nhận là vật chất và lực. Thế rồi khi khởi sự với ý tưởng đó và truy nguyên cái gọi là việc sự sống giáng hạ tiến hóa tới mức thấp nhất, thì ta bèn đạt tới giới khoáng vật; từ đó trở đi sự sống lại thăng lên (tạm gọi như vậy) trong chu kỳ thăng tiến thay vì chu kỳ giáng hạ (vật chất càng ngày càng trở nên dễ uốn nắn do lực của sự sống giờ đây đang tiến hóa, trở nên càng ngày càng mềm dẽo) cho tới khi loài khoáng vật tiến hóa thành loài thực vật. Thế rồi khi tác động trong giới thực vật, vật chất còn trở nên mềm dẽo hơn nữa và do đó có thể biểu diễn tốt hơn sự sống và tâm thức vốn đang hoạt động bên trong đó, ta đạt tới cơ tiến hóa của giới động vật với những năng lượng đã được biến dị cao hơn, với mức độ gia tăng tổ chức phức tạp hơn, với khả năng cảm nhận khoái lạc và đau khổ nhiều hơn, và nhất là với việc gia tăng sự cá biệt. Những tạo vật này càng ngày càng trở thành một loại cá thể, có thể nói là càng ngày càng khác nhau về tâm thức, và bắt đầu bộc lộ mầm mống của tâm thức cao siêu hơn; sự sống bản sơ này vốn sinh hoạt trong tất cả có thể biểu diễn một cách hoàn chỉnh hơn qua hệ thần kinh đã được tổ chức cao cấp hơn, và có thể nói là được rèn luyện theo kiểu đó qua việc đáp ứng nhiều hơn với sự tiếp xúc của vũ trụ bên ngoài. Thế rồi khi leo cao thêm nữa, nó được biểu lộ cao siêu hơn nhiều qua hình hài của con người, hình hài con người đó trở nên linh động do có Linh hồn và Tinh thần: Linh hồn biểu lộ qua thể xác thành ra tâm trí, còn Tinh thần nhờ vào sự tiến hóa của Linh hồn mà dần dần biểu lộ được nơi vũ trụ bên ngoài này. Như vậy nhờ có Linh hồn mà con người mới trở nên hữu ngã thức; nhờ có sự tiến hóa cao cấp này (cao nhất có thể đạt được về mặt hình tướng vật chất trong thế giới chúng ta) mà có thể nói là sự sống đang tiến hóa được biểu lộ cao siêu nhất, do đó con người cũng phải là biểu hiện toàn bích nhất của sự biểu lộ định luật đang liên tục tăng trưởng này. Vì có ý chí vốn phát triển nơi con người cái khả năng chọn lựa khiến cho y có thể nói “tôi ắt sẽ” hoặc “tôi ắt sẽ không” (điều này làm cho con người khác với các dạng sinh linh cấp thấp hơn qua chính cái khả năng quyết định hữu ngã thức này, chỉ vì nó gần biểu hiện được thiên tính hơn cho nên nó chứng tỏ được những đặc điểm của tư tưởng, của hành động hồn nhiên vốn đặc trưng cho sự sống tối thượng đang tiến hóa trong vật chất); chỉ vì có tất cả mọi điều đó (nghĩa là có khả năng chọn lựa hai thứ) cho nên con người có trách nhiệm lớn hơn, có một số phận cao siêu hơn hoặc đồi bại hơn. Y có khả năng chọn lựa. Theo qui luật thì ở các dạng sinh linh cấp thấp định luật được áp đặt lên hình tướng và có thể nói là buộc nó phải tuân theo giống như kiểu cưỡng chế; định luật trong thế giới khoáng vật không để cho các nguyên tử khoáng vật được phép chọn lựa; cũng lại trong thế giới thực vật, ta cũng có một định luật cưỡng chế phát triển theo một vài đường lối nhất định mà không có nhiều khả năng đối kháng theo như ta có thể xét đoán; trong thế giới động vật định luật này được gọi là bản năng mà con thú tuân theo và tuân theo liên tục; khi dõi theo thứ tự tổng quát thì khi định luật này đụng chạm tới con người thì nó bèn thay đổi. Con người là một yếu tố gây mất trật tự trong thiên nhiên mặc dù có nhiều khả năng cao siêu hơn, con người lại gây ra sự bất hòa trong địa hạt định luật; chính vì đã phát triển được ý chí cho nên con người mới có quyền nổi loạn chống lại định luật và có thể nói là khăng khăng chọn luật lệ của riêng mình để chống lại thiên luật trong một thời gian nào đó. Cuối cùng thì thiên luật sẽ đè bẹp y. Bất cứ khi nào con người nổi loạn chống lại thiên luật thì thiên luật sẽ được biện minh qua việc đau khổ mà nó gây ra cho con người; y không thể thực sự phá bỏ được định luật nhưng y có thể gây rối, có thể gây ra sự mất hài hòa, có thể tự ý từ chối đi theo con đường cao siêu nhất và tốt nhất, và cố tình chọn con đường thấp hơn, tồi tệ hơn. Cũng chính vì có khả năng chọn lựa đó cho nên trước mắt y có nhiều khả năng phát triển hơn so với loài khoáng vật, thực vật hoặc động vật. Đó là vì cần có một loại hài hòa cao siêu hơn thì mới khiến cho người ta tự nguyện tuân theo định luật thay vì chỉ là một cổ máy bị định luật thúc đẩy mà không có ý muốn chọn lựa điều cao siêu hơn một cách tự nguyện; vì vậy con người ở một vị thế đặc biệt: y có thể sa đọa xuống thấp hơn cả loài thú, nhưng y cũng có thể vươn lên vô cùng cao siêu hơn. Vì thế y có trách nhiệm phải rèn luyện bản chất thấp hèn, giáo dục bản chất thấp hèn, có thể nói là dần dần uốn nắn thế gian thành ra các dạng thực thể cao siêu hơn và các loại hình sinh hoạt cao cả hơn. Và bất cứ nơi nào mà con người đi tới thì y phải là bạn tất cả, phải trợ giúp tất cả, phải yêu thương tất cả. Biểu hiện bản chất yêu thương của mình trong sinh hoạt hằng ngày, mang lại cho mỗi tạo vật thấp kém hơn mình chẳng những là sự kiểm soát vốn có thể được dùng để giáo dục chúng, mà còn là tình thương vốn có thể được dùng để nâng cao sinh linh hạ đẳng đó trên giai tầng hiện hữu. Vậy thì ta hãy áp dụng cái nguyên lý địa vị của con người trên thế gian, là một vị phó vương theo nghĩa rất thực, là một nhà cai trị và bậc quân vương của thế gian, nhưng với khả năng hoặc là một vị hôn quân hoặc là một vị minh vương, y phải chịu trách nhiệm với toàn thể vũ trụ về việc sử dụng quyền lực đó. Ta hãy xét con người liên quan với loài thú hạ đẳng theo quan điểm này. Rõ ràng là nếu ta phải xem xét y theo lập trường này thì việc giết thú vật để thỏa mãn cho riêng mình tức khắc là không chính đáng. Y không được sống lẫn lộn với những sinh linh đang hạnh phúc trong rừng để mang tới đó nỗi khốn khổ sợ sệt, khủng khiếp và hoảng loạn bằng cách mang lại sự hủy diệt ở bất cứ nơi đâu mà y đi đến; y không được vũ trang bằng móc câu và súng săn cùng với những vũ khí khác mà y có thể chế tạo ra, nên nhớ rằng chỉ nhờ vào cái trí đang phát triển bên trong y. Việc làm bại hoại những khả năng cao siêu của cái trí đã khiến cho y trở thành kẻ thù gây giết hại các sinh linh hữu tình khác vốn đang chia xẻ thế giới với y. Y dùng cái trí thay vì để trợ giúp và thuần dưỡng các loài thấp kém hơn mình thì lại mang tới cho chúng cái dạng mới mẻ khốn khổ và năng lượng hủy hoại theo đủ mọi hướng. Khi bạn thấy một người sống giữa loài thú hạ đẳng thì chúng bèn chạy trốn, vì kinh nghiệm đã dạy cho chúng gặp gỡ một con người có nghĩa là ra sao. Nếu y tới một nơi nào còn hoang dã trên thế giới khi bước chân loài người hiếm khi đặt tới đó thì y ắt thấy loài thú không sợ hãi và thân thiện, y có thể sống lẫn lộn trong đám thú đó và chúng không né tránh trong việc tiếp xúc với y. Bạn sẽ đọc những bài tường thuật của những nhà lữ hành đã đi tới một xứ nào đó mà trước nay con người chưa thâm nhập tới thì bạn sẽ biết rằng y có thể sống lẫn lộn với các đàn chim và những sinh linh khác như những người bạn sống chung với nhau. Chỉ khi y bắt đầu lợi dụng sự tin cậy đó để triệt hạ chúng thì lúc bấy giờ do kinh nghiệm của điều mà sự hiện diện của con người có ý nghĩa như thế nào, chúng mới học được bài học không tin cậy, sợ hãi và trốn chạy con người. Vì thế ở mọi xứ văn minh, nơi đâu có con người dù là ở đồng ruộng hoặc nơi rừng rậm thì mọi sinh linh đều trốn chạy khi nghe thấy y bước chân tới. Y không còn là người bạn của mọi sinh linh nữa mà chỉ là kẻ mang lại sự khủng khiếp và cảnh giác cho nên chúng mới trốn chạy y. Thế nhưng có một số người đã tỏa ra tinh thần bác ái manh mẽ đến nỗi mà các sinh linh trên cánh đồng và rừng rậm bao quanh họ bất cứ nơi đâu mà họ đi tới, chẳng hạn như thánh Francis ở Assisi (nghe đâu khi ngài đi dạo trong rừng thì bầy chim bay về phía ngài và đậu trên thân hình ngài vì chúng cảm thấy tình thương toát ra xung quanh ngài mạnh mẽ đến nỗi giống như một vầng hào quanh bất cứ nơi đâu mà ngài đi tới). Như vậy ở Ấn Độ bạn cũng ắt thấy hết người này đến người khác cũng có tinh thần bác ái và từ bi đó, dù ở trong rừng thưa hay ở trong rừng thẳm, ở trên núi hay ở sa mạc, thì hai người này cũng có thể đi đến bất cứ nơi đâu và ngay cả những con thú hoang cũng không dám đụng chạm đến họ. Tôi có thể kể cho bạn nghe câu chuyện về những đạo sĩ yoga ở đó vốn vô hại về mọi hành vi, tư tưởng và sinh hoạt, họ sẽ băng qua những rừng rậm nơi loài cọp đang ngồi xổm và con cọp đôi khi sẽ chạy đến nằm dưới chân họ, liếm chân họ vô hại như một con mèo con khi đứng trước tinh thần bác ái đó. Và thế là ngài có thể sống được với vạn vật. Ta cũng có thể được như vậy nếu ta là bạn thay vì là kẻ thù của mọi thứ. Mặc dù thế thật ra thì giờ đây ta phải mất nhiều thế kỷ mới hóa giải được điều độc ác của một quá khứ đẩm máu. Thế nhưng ta vẫn có thể hóa giải được, có thể tạo ra tình thân hữu để cho mỗi người nam nữ trên cuộc đời này đều thân hữu với các loài vật cấp thấp, đều đóng góp vào kho tình thương trên thế giới để rồi cuối cùng chế ngự được vạn vật thân thiện với mình. Ta hãy chuyển từ bổn phận của con người là một đấng quân vương của thế gian sang điều kế tiếp trong Thông Thiên Học cấm sát sinh. Một số các bạn có thể biết cái bộ phận trong giáo huấn của chúng tôi cho rằng cõi hồng trần được xuyên thấu và bao bọc bởi một cõi vật chất tinh vi hơn mà chúng tôi gọi là “cõi trung giới”. Điều này nghĩa là cái loại vật chất tinh vi (mà ta có thể gọi là ether nếu bạn quen thuộc hơn với tên gọi này) đặc biệt cũng có trụ sở của riêng mình, trong thế giới đó có phản chiếu và ghi lại hình ảnh những gì diễn ra trên cõi vật chất; các tư tưởng cũng có hình ảnh trên đó, cũng như các hành động được phản chiếu trên đó, cõi trung giới này ở giữa cõi vật chất và cõi tư tưởng. Cõi tư tưởng vốn chứa đầy tư tưởng của con người phóng những năng lượng mạnh mẽ xuống cõi trung giới; chúng tạo ra hình ảnh nơi cõi trung giới rồi phản tác động lên cõi hồng trần. Những “nhà thông linh” thường cảm nhận được điều này khi y bước vào một sảnh đường đặc biệt, một căn nhà, một đô thị nhờ vào một sự cảm thọ tinh vi mà có lẽ y không thể giải thích được, y có thể nói cho bạn biết một điều gì đó về đặc trưng tổng quát của bầu không khí thuộc căn nhà đó, sảnh đường đó hoặc đô thị đó: đối với y liệu nó là thanh khiết hay ô uế; liệu nó có tính cách thân hữu hay thù nghịch; liệu nó tác động lên y một ảnh hưởng lành mạnh hay kỳ đà cản mũi. Một trong những cách khiến cho bạn có thể nhận ra được tác động của cõi trung giới này là việc liên kết nó với tư tưởng của mình, cũng như khoa học đang bắt đầu liên kết ether với mọi dòng từ điển và mọi tác động của điện. Chẳng hạn như bạn hãy xét tác động của một người diễn thuyết đối với một đám đông. Điều này còn tùy thuộc vào sự hiện diện của cái loại vật chất tinh vi mà các lực từ điển tác động trong đó sao cho một câu thốt ra chứa đầy từ điển của nhà diễn thuyết có tác động lên những người chính tai nghe những lời đó khác hẳn khi họ đọc cũng câu nói đó một cách thản nhiên (tạm gọi như vậy) qua báo chí hoặc sách vở. Tại sao lại như thế? Bởi vì lực của người diễn thuyết có được hình dạng trong vật chất tinh vi vốn là môi trường ở giữa người này và thính giả bèn khiến cho nó phập phồng rung động; từ điển của y cấp năng lượng cho nó, biến nó thành những làn sóng đập vào vật chất tương tự trong các hạ thể của thính giả và làn sóng này băng ngang qua sảnh đường, rung động của chỉ một tư tưởng thôi cũng nhất thời khiến cho mọi người hiện diện ở đó đều cảm thấy được quyền năng của nó mặc dù sau đó họ không còn có như thế nữa. Khi nói chuyện với mọi người (ở đây tôi có ý muốn nói diễn thuyết trên một diễn đàn) cứ xảy đi xảy lại trường hợp khi lực từ điển đủ mạnh thì bạn sẽ lôi cuốn những người mà bạn đang nói chuyện với; mặc dù họ có thể không đồng ý với những lập luận mà bạn đang nêu ra, song bạn lại thấy một người nào đó vỗ tay như điên loạn để tán thưởng cái người mà bạn biết vốn đối lập về tư tưởng với điều mà bạn đang diễn tả. Khi ngày hôm sau gặp lại y, bạn ắt thấy y đâm ra rất giận dữ với chính mình vì nhất thời đã để cho mình bị lôi cuốn như thế. Điều gì gây ra sự việc này? Đó chính là sự đồng cảm về từ điển, đồng thanh tương ứng đồng khí tương cầu đã biến ether thành ra những làn sóng đập vào y cũng như vào những người khác khiến cho cả cơ thể lẫn bộ óc của y đáp ứng với những rung động đó và thế là trong nhất thời y bị quyền năng từ điển của người diễn thuyết khống chế. Thế mà ta chỉ xét điều này là một sự minh họa để cho bạn hiểu ngụ ý của tôi về cái loại vật chất cõi trung giới này và cách thức mà nó bị những dòng từ điển kích thích cho rung động; tạm thời ta hãy nghĩ tới loại vật chất trung giới này theo quan điểm Thông Thiên Học đang xuyên suốt và bao quanh thế giới ta; thế rồi ta hãy nghĩ tới một lò sát sinh. Nếu có thể bằng cách tưởng tượng (trường hợp bạn may mắn không chính mắt thấy được điều đó) bạn hãy cố gắng ước lượng một điều gì đó đầy đam mê và xúc động được kích hoạt trên cõi đó không phải vào lúc người đồ tể đang sát sinh (tôi sẽ bàn tới y sau) nhưng mà là nơi những con thú đang bị giết! Hãy lưu ý tới sự khủng khiếp mà chúng trải qua khi chúng đánh hơi được mùi máu. Hãy xem sự khốn khổ, sự sợ hãi và hoảng sợ mà chúng phấn đấu để né tránh ngay cả việc quay ngoắc lại khỏi chỗ mà chúng bị thúc đẩy đi tới! Nếu bạn có can đảm thì bạn cứ đi theo chúng thẳng tuột vào trong lò sát sinh xem chúng bị giết ra sao để rồi bạn lại tưởng tượng thêm một chút nữa (nếu bạn có khả năng tinh vi cảm nhận được những rung động của trung giới, nhìn thấy và ghi nhớ được những điều mình trông thấy) những hình ảnh khiếp đảm, sợ hãi và kinh khủng khi sự sống đột nhiên bị cướp đoạt ra khỏi cơ thể và hồn thú hãi hùng khủng khiếp thoát ra nhập vào cõi trung giới để vẫn còn ở lại đó trong một thời gian đáng kể trước khi nó phân ly và diệt vong. Nên nhớ rằng ở bất cứ nơi đâu mà sự sát sinh này tiếp diễn thì ở nơi đó còn tạo thành một tụ điểm cho mọi thứ xúc động khủng khiếp và sợ hãi vốn phản tác động lên cõi vật chất, phản tác động lên tâm trí con người khiến cho bất cứ người nào nhạy cảm thông linh khi đi tới gần chỗ đó đều nhìn thấy và cảm thấy những rung động khủng khiếp ấy, đau khổ vì những rung động đó và biết được chúng xuất phát từ đâu. Thế mà giả sử rằng bạn đi tới Chicago (tôi dùng minh họa này vì đó là nơi bản thân tôi đặc biệt có chú ý tới tác động nêu trên), như bạn biết Chicago chủ yếu là một đô thị sát sinh, tôi giả sử rằng đây là đô thị mà người ta có những dàn xếp tinh xảo nhất để giết những con thú bằng những dụng cụ tinh vi nhất mà con người đã chế ra được, nơi đây người ta phần lớn là dùng máy móc để sát sinh và hết tuần này sang tuần khác người ta đã sát hại hằng hà sa số sinh linh. Không ai ít nhiều có sự nhạy cảm thông linh (chứ đừng nói bất cứ người nào nhờ rèn luyện đã khơi hoạt được một số giác quan nội giới) đi qua chẳng những Chicago mà còn trong phạm vi hằng dặm cách xa Chicago, mà lại không có ý thức về một sự trầm cảm sâu sắc giáng xuống mình, có thể nói là một ý thức né tránh sự ô uế, một ý thức sợ sệt mà thoạt tiên không thể nhận ra được rõ rệt và cũng không xác định được ngay nguồn gốc của nó. Thế mà ở đây tôi chỉ nói điều mà chính mình biết. Chuyện xảy ra là khi tôi đi tới Chicago, tôi đang đọc sách báo vì đây là thói quen của tôi trong khi đi xe lửa; thậm chí tôi cũng chẳng biết rằng mình đang đi tới cách xa thị trấn này một khoảng đáng kể (vì nơi chốn này rộng lớn đến nỗi nó trải xa ra nhiều hơn mức một người xa lạ có thể tưởng tượng được, và phải mất nhiều thời gian hơn để tới được trung tâm của nó hơn mức mà người ta có ý niệm được) thì thình lình khi đang ngồi trên xe lửa tôi có ý thức được một cảm giác đè nén giáng xuống tôi; thoạt đầu tôi không nhận ra được nó khi túa ra tư tưởng bất cứ nơi đâu để dò xét ngoại trừ hướng về phía thành phố; nhưng thành phố nổi bật lên khiến cho tôi cảm thấy mạnh mẽ đến nỗi tôi bắt đầu nhìn về hướng đó và cố gắng thăm dò xem điều gì xảy ra kết quả nêu trên; và chẳng bao lâu sau tôi tìm ra lý do của điều này khi tôi sực nhớ ra rằng mình đang tiến gần tới lò sát sinh lớn của nước Mỹ. Dường như thể người ta bước vào bên trong một bức màn vật thể đen tối và khốn khổ, có thể nói là kết quả thông linh thuộc cõi trung giới đó là bức màn che phủ lên trên thành phố lớn lao này. Và tôi xin nói với bạn đối với những người chẳng biết gì về cõi vô hình, thì việc thường xuyên sát sinh ắt có một khía cạnh rất nghiêm trọng ngoài mọi vấn đề khác mà ta có thể đưa ra để soi sáng cho nó; đó là vì việc liên tục dội xuống những ảnh hưởng từ điển sợ sệt, khủng khiếp, giận dữ, đam mê và báo thù tác động lên những người chịu ảnh hưởng của chúng và có khuynh hướng làm thô trược, làm thoái hóa, làm ô nhiễm. Chẳng những cơ thể bị ô uế do thịt súc vật mà những lực tinh vi trong con người cũng rơi vào tầm ảnh hưởng của sự ô nhiễm này; và rất nhiều khía cạnh thô trược của sinh hoạt đô thị, khía cạnh thô trược của cuộc sống những người có dính dáng tới việc sát sinh đều trực tiếp bắt nguồn từ sự phản ánh này của cõi trung giới và toàn bộ sự phản kháng khủng khiếp này xuất phát từ sự sống thoát ra khỏi những con vật bị hạ sát. Tôi xin nói rằng điều này vốn bất chấp những người sát sinh. Nhưng liệu chúng ta có thể không xét tới họ khi chúng ta bàn tới vấn đề ăn thịt hay chăng? Rõ ràng là cả bạn lẫn tôi đều không thể ăn thịt nếu chúng ta không hoặc là tự giết con vật hoặc là khiến người khác làm việc đó cho ta; vì vậy chúng ta trực tiếp chịu trách nhiệm về bất kỳ số lượng thoái hóa nào trong tính cách đạo đức của con người mà chúng ta đã đùn cho họ việc sát sinh vì chúng ta quá tế nhị và thanh bai nên không tự mình làm điều đó được. Bây giờ ta hãy xét trường hợp kẻ sát sinh. Tôi giả sử rằng chẳng ai phải tranh cãi khi đó là một dạng công việc mà bản thân y rất vui vẻ đảm nhiệm, còn nếu y là một người nam hoặc nữ có giáo dục hoặc thanh bai thì tôi cũng chẳng biết tại sao người ta lại bỏ qua phụ nữ do họ phần lớn cũng tham gia vào việc ăn thịt. Tôi giả định rằng rất ít người nam nữ sẵn lòng đi bắt hoặc là con cừu hoặc là con bò rồi tự mình hạ sát con vật để có thể ăn thịt nó được. Họ thừa nhận rằng việc này có một tác dụng làm thô trược nào đó đối với người thi hành. Điều này đúng đến nỗi trong luật pháp có thừa nhận rằng chắc chắn là ở nước Mỹ (tôi chẳng biết luật lệ của nước này có giống như ở đây chăng?) không một người bán thịt nào được phép ngồi ở ghế bồi thẩm trong một phiên tòa xử vụ án sát nhân. Y không được phép tham gia vào một vụ xét xử như thế vì người ta cho rằng việc y liên tục tiếp xúc với sự sát sinh ít nhiều làm cùn nhụt đi sự nhạy cảm của y về vấn đề đó sao cho trong tất cả các tiểu bang, không một người nào hành nghề bán thịt lại được phép tham gia vào bồi thẩm đoàn trong một phiên tòa xử tội sát nhân. Luật lệ này không chỉ giới hạn vào nước Mỹ mà như tôi có nói, tôi chẳng biết luật lệ ở nước Anh có như vậy chăng. Có một điều rất rõ ràng và xác định: nếu bạn đi tới một thành phố như Chicago, và nếu bạn xem xét lớp người sát sinh ở đó, thì bạn ắt thấy rằng số tôi ác bạo lực ở lớp ngưới này lớn hơn bất kỳ lớp người nào khác trong cộng đồng; họ dùng con dao thường xuyên hơn và người ta đã quan sát được điều này. Bây giờ tôi xin nói những sự kiện mà tôi thu thập được ở Chicago; người ta đã quan sát thấy rằng việc sử dụng con dao này được đánh dấu bởi một đặc điểm nổi bật nghĩa là cú thọc dao trong cơn giận dữ của những kẻ sát sinh lão luyện này hầu như bao giờ cũng gây chết người, vì theo bản năng họ đã đặc biệt có được cú thọc dao quen tay mà họ liên tục tập nhiễm trong việc hằng ngày giết hại những con thú hạ đẳng. Thế mà ở Chicago việc này được coi là sự thật, nhưng dường như trong tâm trí của người ta nó không hàm ý bất kỳ trách nhiệm đạo đức nào qua việc họ chia xẻ cơ tiến hóa của loài người rất khó chịu này. Toàn thể vấn đề sát sinh ở thành phố ấy và ở bất kỳ nơi nào khác nữa là như thế. Liệu có bao giờ bạn hiểu ra được một qui tắc trong luân lý theo đó bạn không có quyền vì lợi ích của riêng mình mà đùn đẩy cho người khác một nhiệm vụ bạn không sẵn sàng thi hành? Mọi mệnh phụ tế nhị và thanh bai trong một lúc nào đó đều tự hào về sự tế nhị và thanh bai của mình cho nên họ né tránh bất kỳ ý niệm nào chẳng hạn như đi uống trà với một người bán thịt cho đến mức chắc chắn mạnh mẽ phản đối ý tưởng việc y bước vào phòng khách của mình để hoàn toàn tránh khỏi ý tưởng mình có giao tiếp với một loại người như thế. “Bạn biết đấy, y thật là thô kệch và khó chịu”. Đúng vậy, nhưng tại sao thế nhỉ? Để cho mình có thể ăn thịt, để cho mình có thể thỏa mãn những thèm khát, bà ta đã đùn đẩy cho người khác cái sự thô trược hóa và sự tàn bạo hóa mà bản thân bà né tránh vì sự thanh bai của mình, trong khi để thỏa mãn những thèm khát của chính mình bà lại hưởng thụ những kết quả của việc tàn bạo hóa đồng loại của mình. Thế mà tôi xin đánh bạo đề nghị rằng nếu người ta muốn ăn thịt thì người ta nên chính mình giết thịt thú vật chứ không có quyền làm bại hoại những người khác qua cái công việc thuộc loại đó. Họ cũng được bảo rằng nếu họ không làm thế thì kẻ sát sinh vẫn cứ tiếp tục giết thịt. Đó không phải là cách để né tránh trách nhiệm đạo đức. Mỗi người ăn thịt đều chia xẻ việc làm cho đồng loại của mình bị thoái hóa; cá nhân y phải chia xẻ trách nhiệm đó. Vì nếu thế giới này là một thế giới pháp quyền, nếu ta có được luật pháp chẳng những trên cõi trần mà còn trên cõi trí tuệ, đạo đức và tâm linh nữa thì mọi người chia xẻ trách nhiệm trong tội ác cũng phải chia xẻ sự trừng phạt bám theo gót tội ác đó. Và như vậy bản chất của chính y cũng bị tàn bạo hóa do sự tàn bạo mà y khiến cho cần thiết do việc y chia xẻ những kết quả bắt nguồn từ đó. Có một điều khác mà thiên hạ phải chịu trách nhiệm ngoài trách nhiệm đối với lớp người sát sinh ra. Họ chịu trách nhiệm về mọi loại đau khổ xuất phát từ việc ăn thịt vốn là tất yếu do việc dùng loài vật hữu tình làm thực phẩm; chẳng những là sự khủng khiếp của lò sát sinh mà còn là sự khủng khiếp sơ bộ của việc vận chuyển bằng đường xe lửa, bằng tàu thủy và bằng tàu chạy máy; mọi sự đói khát, sự khốn khổ kéo dài do sợ hãi mà những tạo vật bất hạnh này phải trải qua để thỏa mãn sự thèm khát của con người. Nếu bạn muốn biết một điều nào đó về vấn đề này, bạn hãy xuống đây xem những tạo vật đó được lôi ra khỏi một vài con tàu thì bạn ắt thấy sự sợ hãi, sự đau khổ nổi bật lên trên khuôn mặt của những tạo vật hạ đẳng này. Tôi xin nói bạn không có quyền gây ra điều đó, không có quyền tham gia vào việc đó, mọi sự đau khổ như vậy đều đóng vai trò tiền án kết tội loài người, làm chậm trễ và trì hoãn toàn thể sự tiến bộ của loài người vì bạn không thể tách rời khỏi thế giới bằng phương thức đó, bạn không thể tự cô lập mình và tiếp tục tiến hóa trong khi bạn đang dẫm đạp lên những người khác. Những người mà bạn dẫm đạp lên làm trì trệ sự tiến bộ của chính bạn. Nỗi khốn khổ mà bạn gây ra có thể nói chính là vũng lầy bám lấy xung quanh gót chân bạn khi bạn muốn thăng tiến; vì chúng ta phải cùng nhau thăng lên hoặc cùng nhau chìm xuống, và mọi sự khốn khổ mà chúng ta giáng cho các sinh linh hữu tình đều làm trì trệ sự tiến hóa của loài người, khiến cho nhân loại tiến chậm hơn hướng về lý tưởng mà nó đang tìm cách thực hiện. Khi xem xét điều này theo một quan điểm rộng rãi, chúng ta ắt xa rời mọi sự lập luận vụn vặt gây ra sự bàn cãi, xa rời mọi thắc mắc liệu việc ăn thịt có cung cấp đủ chất dinh dưỡng hay chăng, liệu nó có giúp ích gì cho cơ thể con người hay chăng và ta có một lập trường căn bản mà vững chắc: không một điều gì ngăn cản sự tăng trưởng và tiến bộ của thế gian, không một điều gì thêm vào sự đau khổ của nó, không một điều gì làm gia tăng sự thống khổ của nó, không một điều gì cản trở việc nó tiến hóa lên cái dạng sinh linh cao cấp hơn mà lại có thể có lý do biện minh chính đáng, cho dẫu ta có thể chứng minh rằng cơ thể con người sẽ tăng thêm sự sung sức bằng cách đi theo con đường đó. Điều này khiến cho chúng ta có được một lập trường hùng mạnh để lập luận. Lúc bấy giờ nếu muốn, bạn có thể tiếp tục lập luận rằng sự sung sức của thể xác không cần tới những loại thực phẩm này; nhưng tốt hơn là tôi muốn có một lập trường vững chắc dựa trên một nền tảng cao hơn: đó là sự tiến hóa có bản chất cao cấp ở mọi nơi và sự hài hòa mà con người có bổn phận phải gia tăng và cuối cùng làm cho hoàn hảo trên thế giới. Về tất cả những điều này, bạn có thể lưu ý là tôi đã lập luận có thể nói là bất chấp cá nhân người ăn thịt; do đó tôi không khuyến cáo người ta kiêng thịt để cải thiện cá nhân, phát triển cá nhân, tăng trưởng cá nhân. Tôi dựa nó trên nền tảng cao siêu hơn là bổn phận, từ bi, vị tha vốn là những đức tính cốt yếu đánh giá sự tiến hóa cao siêu của thế giới. Nhưng chúng tôi cũng không có quyền quay sang cá nhân để xem tác dụng lên cơ thể mình, lên tâm trí mình, lên sự tăng trưởng tâm linh mà vấn đề ăn thịt hoặc kiêng ăn thịt có dính dáng tới. Và nó có một tác dụng rất thực. Điều này hoàn toàn đúng đối với cơ thể khi bạn coi nó là một công cụ của cái trí, khi bạn coi nó là điều phải phát triển thành ra một công cụ của Tinh thần; hoàn toàn đúng khi bất kỳ loại thực phẩm nào đặc biệt mà bạn chịu trách nhiệm cung cấp cho thể xác đều là một vấn đề rất quan trọng. Và ở đây Thông Thiên Học xuất hiện bảo rằng: Cái cơ thể mà Linh hồn ở trong đó là một sự vật cực kỳ phù du, nó được cấu tạo bởi những hạt nhỏ li ti, mỗi hạt là một sinh linh và những sinh linh này thường xuyên biến đổi, thường xuyên chuyển từ cơ thể này sang cơ thể khác sao cho bạn có được có thể nói là một luồng lớn lao các hạt đi từ cơ thể này sang cơ thể khác và khi giáng xuống đó ảnh hưởng tới mọi cơ thể này cả về mặt tốt lẫn mặt xấu. Nên nhớ rằng khoa học cũng đạt tới mức nhận ra điều đó là sự thật. Khi nghiên cứu bệnh tật, khoa học ắt thấy rằng bệnh tật thường xuyên được lan truyền qua những sinh thể nhỏ li ti mà khoa học gọi là vi trùng; nó còn chưa thấy rằng trọn cả cơ thể được cấu tạo bởi những sinh linh nhỏ xíu vốn xuất hiện và biến mất trong mỗi giờ sinh hoạt của ta, nó xây dựng cơ thể của ta ngày hôm nay rồi cơ thể của một người nào khác nữa ngày mai, liên tục biến đi rồi lại xuất hiện. Một sự hoán đổi thường xuyên tiếp diễn giữa những cơ thể của đàn ông, đàn bà, thú vật, trẻ con v.v. . . Bây giờ giả sử trong một lúc ta xét thử cơ thể theo quan điểm này, rồi lại nữa trước hết ta sẽ thấy trách nhiệm của mình đối với đồng loại. Những sinh linh nhỏ xíu xây dựng cơ thể bạn ắt khoác lấy dấu ấn mà bạn đóng lên lên chúng trong khi chúng thuộc về bạn, bạn cấp dưỡng cho chúng và điều này ảnh hưởng tới đặc trưng của chúng; bạn cung cấp cho chúng thực phẩm tinh khiết hoặc ô nhiễm; bạn đầu độc chúng hoặc làm cho chúng khỏe mạnh; và khi bạn cấp dưỡng cho chúng, chúng thoát ra khỏi từ bạn mang tới những cơ thể của người khác các đặc trưng mà chúng thu lượm được trong khi còn sống do bạn chịu trách nhiệm; sao cho điều mà một người ăn uống, không phải chỉ là một vấn đề của riêng y thôi mà là của trọn cả cộng đồng trong đó con người là một thành phần; bất cứ người nào khi ăn hoặc uống mà không chú ý để được thanh khiết, tự chế và điều độ đều trở thành một tụ điểm điều xấu ác về mặt thể chất ở nơi mình đang cư trú, có khuynh hướng đầu độc những huynh đệ của mình khiến cho sinh lực của họ ít thanh khiết hơn mức lẽ ra nó đạt được. Ở đây ta mới thấy trách nhiệm lớn lao của việc ăn thịt, uống rượu. Rõ ràng là bản chất của thực phẩm ảnh hưởng rất nhiều tới thể xác và có thể nói là cung cấp cho thể xác việc toát ra một đức tính nào đó. Thế mà những đức tính vốn ở nơi Linh hồn, nhưng chúng được biểu lộ qua bộ óc và cơ thể; vì vậy vật liệu cấu thành bộ óc và cơ thể là một vấn đề rất quan trọng. Đó là vì cũng như ánh sáng chiếu soi qua một cửa sổ màu ắt đi xuyên qua nó bị nhuốm màu chứ không còn trắng nữa, cũng vậy những đức tính của Linh hồn hoạt động thông qua bộ óc và cơ thể ắt cũng tiếp thu một điều nào đó trong tính chất của bộ óc và cơ thể, biểu lộ tình trạng của mình qua những đặc trưng của cả bộ óc lẫn cơ thể đó. Thế mà giả sử là bạn hãy quan sát trong một lúc nào đó một số loài vật hạ đẳng liên quan tới thực phẩm của chúng thì bạn ắt thấy rằng tùy theo chúng ăn cái gì mà chúng biểu lộ những đặc trưng giống như cái đó. Thậm chí nếu bạn xét một con chó thì bạn ắt thấy rằng con chó đó hoặc là hiền hoặc là dữ tùy theo bản chất của thực phẩm mà bạn cung cấp cho nó. Thế mà trong khi hoàn toàn đúng là con thú này chịu sự kiểm soát của thể xác nhiều hơn con người thì cũng hoàn toàn đúng là con thú đó vốn nhạy bén với những ảnh hưởng bên ngoài nhiều hơn con người, vì con người có ý chí tự quyết mạnh hơn. Thế nhưng cũng đúng là vì con người có một cơ thể và chỉ có thể hoạt động thông qua cơ thể đó trong thế giới vật chất, cho nên y khiến cho nhiệm vụ của mình hoặc là khó hơn hoặc là dễ hơn đối với những đức tính của Linh hồn. Tùy theo bản chất của khí cụ thể xác mà Linh hồn đó bắt buộc phải sử dụng khi nó biểu lộ nơi ngoại giới. Và nếu khi cấp dưỡng cho cơ thể thì y cũng cấp dưỡng cho những sinh linh nhỏ bé cấu tạo nên nó bằng những thực phẩm gây ra tác động là những đam mê của loài thú hạ đẳng và bản chất thấp hèn; lúc bấy giờ y tạo ra một cơ thể thô trược hơn và nhiều thú tính hơn, dễ đáp ứng hơn với những thôi thúc của thú tính và khó đáp ứng với những thôi thúc cao siêu của cái trí. Đó là vì khi y dùng vật liệu xây dựng nên cơ thể mình là những sinh linh bé nhỏ thuộc cơ thể của loài thú hạ đẳng, thì do đó y cung cấp cho Linh hồn mình một hiện thể dùng làm công cụ rung động dễ dàng nhất theo các sự thôi thúc của thú tính. Liệu điều đó có dễ dàng chăng cho việc thăng tiến sự thanh khiết về tư tưởng? Liệu việc kiểm soát những đam mê của thể xác có đủ khó khăn chăng? Liệu có khó khăn chăng khi tiết độ về thực phẩm, thức uống và mọi sự thèm khát về thể xác? Liệu Linh hồn có một nhiệm vụ đủ khó khăn chăng khi ta làm cho nhiệm vụ nó khó khăn hơn qua việc làm ô nhiễm khí cụ mà nó phải hoạt động thông qua đó, và cung cấp cho nó vật liệu không đáp ứng với những sự thôi thúc tinh vi song lại đáp ứng dễ dàng với mọi đam mê hạ đẳng của bản chất thú tính mà Linh hồn bị ràng buộc vào đó? Thế rồi khi bạn nhớ rằng bạn bỏ qua nó, khi bạn ăn thịt, do đó tăng cường những đam mê hạ đẳng đầy thú tính thì bạn đang in lên những phân tử của cơ thể chính mình quyền năng đáp ứng như thế, chắc chắn bạn phải rèn luyện và tinh luyện cơ thể mình, có thể nói là không liên tục giúp cho nó cứ đáp ứng mãi với những rung động thuộc về giới động vật này. Và khi bạn làm như vậy bạn gửi chúng ra ngoài làm đại sứ của mình đối với những người đồng loại, khiến cho nhiệm vụ của họ cũng khó khăn hơn chẳng kém gì nhiệm vụ của chính bạn qua việc rèn luyện những sinh linh nhỏ bé này nghiêng về điều ác chứ không phải điều thiện; như vậy nhiệm vụ của mọi người phấn đấu hướng thượng cũng trở nên khó khăn hơn do sự gia tăng những phân tử rung động theo những đam mê thấp hèn. Và trong khi điều này đúng một cách khủng khiếp nhất đối với việc uống rượu (nó đóng vai trò một chất độc hoạt động túa ra từ bất cứ người nào uống rượu), nó cũng đúng đối với việc thú vật hóa cơ thể con người thay vì linh hồn hóa và tâm linh hóa cơ thể đó; chúng ta đang giữ cho bình diện của loài người thấp hơn qua việc thường xuyên làm thoái hóa bản ngã đầy thú tính. Vậy thì khi bạn chợt nghĩ đến sự tiến hóa của Linh hồn nơi bản thân, đâu là mục đích của cuộc đời bạn? Tại sao bạn ở đây? Bạn đang sống vì cái gì? Chỉ có một điều biện minh cho cuộc sống của con người, chỉ có một điều đáp ứng với mọi thứ cao thượng nhất nơi bản thân khiến cho y có được ý thức thỏa mãn vì đã hoàn thành nhiệm vụ; đó là khi biến cuộc đời mình thành một sự thường xuyên hiến dâng cho việc trợ giúp thế gian. Và khi mỗi giai đoạn trong cuộc đời y đều được điều tiết sao cho thế gian có thể tốt hơn vì sự hiện diện của y trong đó chứ không tồi tệ hơn. Con người phải chịu trách nhiệm về việc mình sử dụng Linh hồn, tư tưởng và cơ thể trong cuộc đời này. Chúng ta không thể tách mình ra khỏi các huynh đệ, cho dẫu có thể chúng ta cũng không nên muốn làm như vậy vì thế giới này đang chầm chậm leo lên hướng về một lý tưởng thiêng liêng và mọi Linh hồn nhận ra sự thật đều phải góp phần nâng cao thế giới. Bạn và tôi đều hoặc là giúp cho thế giới tiến lên hoặc là kéo cho thế giới rớt xuống ; mỗi ngày trong cuộc đời chúng ta đều đang cấp cho nó một sức lực để leo lên trên hoặc chúng ta lại là những cái cùm cổ kéo ghì lại sự tăng trưởng thăng thượng đó; mọi Linh hồn chân chính đều muốn trợ giúp chứ không cản trở, ban phúc chứ không giáng họa, thuộc hàng ngũ những kẻ nâng cao thế giới chứ không đứng về phe làm thoái hóa thế giới. Mọi Linh hồn chân chính đều muốn như thế cho dù không phải lúc nào nó cũng đủ mạnh để biến mong ước đó thành hành động. Và liệu chúng ta ít nhất có đặt ra trước mắt mình một lý tưởng là quan niệm trợ giúp cao siêu và tự trách mình bất cứ khi nào mình rớt xuống thấp so với nó hay chăng cho dù đó là việc cấp dưỡng cho cơ thể hay rèn luyện tâm trí? Đó là vì khi xem xét con người theo minh giải Thông Thiên Học, tôi thấy dường như là mọi thứ cải thiện được cuộc sống đều xứng đáng với việc công tác này của cuộc sống thiêng liêng trong thiên nhiên, nó dần dần uốn nắn thế giới thành ra một hình ảnh cao cả hơn và khiến cho nó càng ngày càng tăng trưởng gần hơn tới một lý tưởng hoàn hảo. Nếu chúng ta có thể khiến cho những người nam nữ thấy được như vậy, miễn là chúng ta có thể khiến cho họ đáp ứng với tư tưởng về một quyền năng như thế bên phía họ, miễn là họ nhận ra được cái sức mạnh thiêng liêng ở nơi họ nhằm góp phần tạo nên thế giới để chia xẻ vào cơ tiến hóa của vũ trụ, nếu họ có thể hiểu ra được rằng thế giới này ở nơi họ, có thể nói là được đặt vào tay họ cho họ chịu trách nhiệm, sự tăng trưởng của thế giới vốn tùy thuộc vào họ, sự tiến hóa thế giới vốn nằm trong tay họ, nếu họ không trợ giúp thì bản thân sự sống thiêng liêng không thể tìm ra công cụ để tác động trên cõi vật chất này; lúc bấy giờ sau nhiều lần vấp ngã nếu họ nhận ra được rằng khuôn mặt mình vẫn hướng về phía trên thì cho dù có rất nhiều lầm lỗi và nhược điểm, họ vẫn xoay chuyển được theo đúng hướng và họ ắt đăm đăm nhìn vào lý tưởng mà họ mong ước thực hiện. Và như vậy có một ý tưởng chủ đạo trong tâm trí và nơi thể xác trong công việc của họ, nơi nội giới đó là thần lực cũng như nơi ngoại giới là hành động: Liệu hành vi và tư tưởng này của tôi có làm cho thế giới tốt hơn hay xấu hơn. Liệu nó có làm thăng tiến thế giới hoặc làm hạ thấp thế giới. Liệu nó có trợ giúp cho đồng loại của tôi hay cản trở đồng loại của tôi. Liệu có thể dùng quyền năng của Linh hồn để nâng cao hay hạ thấp chăng? Nếu tư tưởng đó là lực trung tâm trong cuộc sống thì cho dẫu có quên nó đi hoặc dẫu thất bại, thì Linh hồn vẫn tiếp tục nỗ lực trở lại và không chịu đầu hàng vì nó đã thất bại biết bao lần rồi. Nếu tất cả chúng ta đều có thể làm và nghĩ như thế cũng như thuyết phục người khác làm như thế thì sự phiền não sẽ không còn trên trần thế nữa, tiếng kêu khóc, than thở và sự khốn khổ của kiếp sống hữu tình sẽ giảm đi, lúc bấy giờ con người đã hiệp nhất với thiên luật nên sẽ tỏa tình thương ra cho thế giới và khiến cho nó được hài hòa cao cả hơn. Và mỗi người xoay chuyển theo hướng đó, mỗi người tẩy trược tư tưởng của mình, cơ thể của mình, sự sống của mình đều là một cộng tác viên của sự sống nội giới trên thế gian, và sự phát triển Tinh thần của chính y sẽ là phần thưởng dành cho công trình y thực hiện để trợ giúp thế gian. Tác giả ANNIE BESANT Bản dịch Tâm Như - Hè 2006 Nguồn: http://thongthienhoc.com/bai%20vo%20an%20c...0giai%20tth.htm
-
Bốn chu kỳ sinh diệt của Vũ trụ Kinh điển của người Ấn Độ cổ quan niệm: một thế giới hình thành, tồn tại và hủy diệt đi phải qua bốn chu kỳ là Satya Yuga, Treta Yuga, Dvapara Yuga và Kali Yuga. Các chu kỳ này kết nối và đi theo hướng giảm dần về sau cho đến khi tan rã hoàn toàn; và trên đống tro tàn của đổ nát, sự sống lại nảy mầm chuẩn bị cho sự tái sinh; cứ thế, vòng quay vũ trụ tiếp nối nhau đến vĩnh hằng. Họ xác định, vòng tròn vũ trụ có thời gian từ 4,1 đến 8,2 tỷ năm; tương đương một ngày Phạm Thiên, trong khi cuộc đời của một Brahma là 311 nghìn tỷ và 40 tỷ năm. Từng chu kỳ Yuga liên quan đến một giai đoạn đạo đức tâm linh của con người, sự chi phối này do sự lôi kéo bởi chuyển động của các vì sao xung quanh mặt trời. Từ đó nền văn minh đạo đức con người, và các biển chuyển về vũ trụ đi theo xu hướng từ cao đến thấp. Người Ấn tượng trưng đạo đức (Pháp) bằng hình ảnh một con bò đực. Vào chu kỳ Satya Yuga, con bò có 4 chân; và xuống đến các chu kỳ kế tiếp, nó mất dần từng chân một; cho đến thời điểm cuối cùng, Kali Yuga, nó chỉ còn một chân. - Satya Yuga: Cực thịnh (gold) - Treta Yuga: Thịnh (sliver) - Dvapara Yuga: Suy tàn (bronze) - Kali Yuga: Đồi trụy và tan rã (iron) * Bốn chu kỳ của Yuga có tổng thời gian là 12.000 năm Thiên Thần (Devas), tương đương với 1 cung; trong khi đó để hoàn thành một vòng tròn, cần thời gian 24.000 năm Thiên Thần. - Satya Yuga = 4.800 năm Thiên Thần - Treta Yuga = 3.600 năm Thiên Thần - Dvapara Yuga = 2.400 năm Thiên Thần - Kali Yuga = 1.200 năm Thiên Thần * Một năm của Thiên Thần bằng 360 năm Âm Lịch: - Satya Yuga = 4.800 * 360 năm AL = 1.728.000 năm AL - Treta Yuga = 3.600 * 360 năm AL = 1.296.000 năm AL - Dvapara Yuga = 2.400 * 360 năm AL = 864.000 năm AL - Kali Yuga = 1.200 * 360 năm AL = 432.000 năm AL * Mỗi chu kỳ Yuga dài trung bình 432.000 năm * thời gian giảm dần từng chu kỳ: - Satya Yuga = 4 * 432.000 năm = 1.728.000 năm. - Treta Yuga = 3 * 432.000 năm = 1.296.000 năm. - Dvapara Yuga = 2 * 432.000 = là 864.000 năm. - Kali Yuga = 1 * 432.000 = là 432.000 năm * Khi mỗi chu kỳ thay đổi, có sự suy giảm dần về đạo đức, trí tuệ, kiến thức, năng lực trí tuệ, tuổi thọ, tình cảm và sức mạnh thể chất. - Satya Yuga: Đạo đức tinh khiết; chiều cao trung bình: 9,6 mét; tuổi thọ: 400 năm. - Treta Yuga: Còn ¾ đức hạnh, 1 phần tội lỗi; chiều cao trung bình: 6,4 mét; tuổi thọ: 300 năm. - Dvapara Yuga: Còn 1 đạo đức, ½ tội lỗi; chiều cao trung bình: 3,2 mét; tuổi thọ: 200 năm. - Kali Yuga: Còn 1 đạo đức, 3 phần tội lỗi; chiều cao trung bình: 1,6 mét; tuổi thọ: 100 năm. Người Ấn Độ cổ sử dụng cả cách tính lịch theo mặt trăng và mặt trời, Âm lịch của họ trung bình một năm 354,36 ngày, còn Dương lịch là 365,24 ngày. Cách tính chu kỳ Yuga như trên được Đại Đức Yukteswar Giri (thầy của Yogananda Paramahansa) giải thích vào thế kỷ 19, trong quyển “The Holy Science”. Ông cho biết thời điểm suy giảm của Kali Yuga đã bắt đầu vào tháng 9 năm 499 TCN, và thời điểm tiến lên khi đi của chu kỳ Dwapara đã bắt đầu vào tháng 9 năm 1699. Ông viết, “Hoàng đế Maharaja Yudhisthira nhìn thấy bóng tối Kali Yuga bắt đầu giăng phủ đất trời, Ngài truyền ngôi cho Thái tử, và cùng với những nhà Thông thái đi ẩn cư ở dãy Himalaya. Do đó, không ai trong hoàng cung biết rõ nguyên tắc nào xác định cách tính Yuga”. Yukteswar nói, chu kỳ Yuga này được tính trên sự chuyển động của các thiên thể. Ví dụ: Trái đất quay quanh trục và ảnh hưởng bởi ánh sáng Mặt trời; hay sự thay đổi mùa màng do Trái đất quay quanh Mặt trời. Sự chuyển động của toàn bộ Thái Dương Hệ tạo ra một điểm năng lượng cực lớn (gọi là Vishnunabhi), mà Mặt Trời quay quanh nó. Đây là trung tâm của quyền năng sáng tạo của Thượng Đế, nó tạo ra sức hút ảnh hưởng đến đạo đức tinh thần của thế giới. Hiện có nhiều tranh cải về cách tính thời gian của chu kỳ Yuga, cũng như chu kỳ cuối Kali. Hai ông Yukteswar Giri và Sri Aurobindo, nhận định chúng ta đang ở trong chu kỳ Dwapara Yuga, và thời gian của chu kỳ Kali Yuga là 2.400 năm Thiên Thần. Còn ông Kullu Bhatta cho biết, chu kỳ Kali Yuga là 432.000 năm, tính đến năm 1894 đã qua 4.994 năm, và còn lại 427.600 năm. Còn trong quyển thuật chiêm tinh Siddhanta Surya, nền tảng của cách tính lịch Phật và lịch Ấn có ghi: Chu kỳ Kali Yuga bắt đầu vào lúc nửa đêm (00:00), tính từ ngày 28/2/3102 TCN (theo lịch Julian), hoặc 23/1/3102 TCN (lịch Gregorian). VÒNG TRÒN MỘT CHU KỲ YUGA
-
Liệu có phải người Việt từ xưa đã biết TÂM của con người do KHÍ điều chuyển? Các bác nào rành chữ Hán có thể cho biết mấy từ như: KHÍ chất, KHÍ khái, KHÍ phách... là chữ Hán hay chữ thuần Việt?
-
Kính Bác Thiên Sứ! Cháu cũng cảm thấy hình có vấn đề gì đó với "nền văn minh" Tàu cổ: - Khổng Tử là của ảnh là chắc chắn rồi, vì hợp với tính cách ham muốn bành trướng và nô lệ tinh thần con người. - Lão Tử chưa chắc là người của ảnh, bởi vì lời lẽ trong Đạo Đức Kinh là của một người đã đắc đạo, đầy lòng nhân ái, đã thấu hiểu lẽ trời. Chỉ tiếc rằng, nếu anh Tàu sớm sử dụng tư tưởng Vô Vi thì có lẽ tình hình thế giới đến nay đã khác. - Hoa Đà: có thể là người của ảnh, nhưng kiến thức Đông Y về kinh mạch và khí không phải là của người Hán; bởi vì để nhìn và vẽ lại được các kinh mạch và có được quan niệm về Khí thì không thể dùng mắt thường, hay bất cứ sự thể nghiệm trên cơ thể nào. Trong khi đó, kinh sách cổ của người Ấn đã nói đến các dòng khí và kinh mạch này vào thế kỷ thứ 3-4 TCN trong kinh Veda. - Chiêm tinh học và Tử vi: cháu cũng ghi ngờ của Ấn Độ. Dưới đây cháu tóm tắt về Chiêm tinh học dự đoán của người Ấn: Chiêm tinh học Ấn Độ là một trong sáu bộ môn thuộc kinh Veda, được đề cập sớm nhất trong Upanishad (Áo Nghĩa Thư). Có thể xuất hiện trước Triều đại Mauryan, thế kỷ thứ 4 TCN, bắt đầu từ việc quan sát sự chuyển động của Mặt trăng và Mặt trời. Chiêm tinh học dự đoán dựa trên nền tảng niềm tin, có sự liên hệ giữa linh hồn người và các ngôi sao, sự liên kết này thể hiện cả trên hai bình diện nội tâm bên trong và hành vi bên ngoài (Nghiệp báo). Từ lâu chiêm tinh học dự đoán có vai trò quan trọng trong cuộc sống của người Hindu, như trẻ em được đặt tên theo các vì; các lựa chọn cho quyết định về hôn nhân, tổ chức khai trương, dời nhà… Thậm chí ngày nay nó còn len lõi vào các nghành khoa học hiện đại của người Ấn. Chiêm tinh dự đoán có hai phần chính là Ganita (Siddhanta), Phalita (Samhita và Hora). Ganita có nghĩa lá toán học, nhưng thực tế nó không bao hàm việc tính toán chiêm tinh, mà là kiến thức của thiên văn học Hindu được sử dụng làm nền tảng căn bản cho chiêm tinh học Veda. Trong đó, Samhita và Hora, được tách ra làm hai hệ phái do mục đích dự đoán của nó mang tính chất cá nhân và tổng thể. * Siddhanta: Chiêm tinh học cơ bản. * Phalita bao gồm: - Phần Samhita: + Medini Jyotisha: Dự đoán dự các sự kiện như động đất, thời tiết, chiến tranh, chính trị, kinh tế… trong một quốc gia hay trên thế giới. + Vaastu Shaastra: Phong thủy dự đoán. + Varaha Mihira: Kiến trúc tạo hình. + Muhurta: Dự đoán các sự kiện như kết hôn, khởi hành, tìm kiếm giờ tốt… - Hora: Tử vi dự đoán + Jaataka (janma kundali): Dự đoán lá số tử vi dựa trên thông số ngày sinh, vị trí vùng đất sinh ra bằng cách phối chiếu tọa độ. + Prashna: Dự đoán lá số dựa trên giờ sinh. (Chương trình lấy lá số tử vi Ấn Độ: http://www.mykundali.com/) LÁ SỐ TỬ VI CỦA MIỀN BẮC ẤN ĐỘ LÁ SỐ TỬ VI CỦA MIỀN NAM ẤN ĐỘ
-
Người Ấn họ quan niệm linh hồn mỗi người bao hàm nhiều Nghiệp (Karma); mà nghiệp này là Khí (Prana) được lưu trữ từng lớp bên ngoài và bao bọc Thần-ngã (Atma). Khi linh hồn được đầu thai làm người, nó bị nhốt trong thể xác vật chất gọi là cơ thể; cái xác (hay Thể phách) này có đến 84 (hay 86) nghìn kinh mạch vi tế, và bên trong những kinh mạch này là những dòng Khí của Nghiệp di chuyển liên tục. Khi các dòng khí này đi qua bộ óc (cơ quan sáng tạo), nó tạo nên những Sự suy nghĩ của con người. Bằng cách nào đó (của Thượng Đế), tùy theo nghiệp lực của mỗi linh hồn, các kinh mạch không liên quan được chặn lại để dòng khí này không lưu chuyển (hoặc hạn chế) lên bộ não. Có một số lý do của môn Yoga Kunladini không cho phép môn đồ khai mở Hỏa xà là bởi lý do các dòng khí của nghiệp lực. Khi Hỏa xà khai mở nó sẽ khai thông các kinh mạch này, làm cho các Nghiệp xấu đi lên và gây hại cho người kích hoạt. Vì vậy, các bậc Đạo sư thường hay giúp đệ tử của mình dồn trả nghiệp trước khi nhập môn. Các dòng khí này cũng chịu áp lực vật chất của từng vì sao (sức hút) mỗi khi nó di chuyển; bằng cách này con người bình thường luôn phải chịu sự kiểm soát của Nghiệp; chứ không hẳn có một vị thần Nam Tào, Bắc Đấu có hình dạng một cá nhân cầm quyền sinh sát trong tay. Nghiệp gây ra bởi hành động của bản Ngã, ví dụ: Anh cười hả hê trên sự đau khổ tật nguyền của kẻ khác, chính sự đắc chí này sẽ ghi nhớ vào bên trong Tâm trí anh, đến kiếp sau anh sẽ bị người ta cười chê trở lại. Ngược lại một hành động được tiến hành bởi sự Vô Ngã, anh không phải gánh nghiệp báo đó (Bhagavad Gita).
-
Gửi Bác Liêm Trinh! Tài liệu trên tui chỉ type lại của nước ngoài thôi, chỉ khác là có giật tít để câu view tí. Mấy anh Tây họ đồn chuyện này rất sôi nổi ấy chứ. Từ khi nhiều người biết đến sự kiện 2012 của người Maya, để có thêm nhiều bằng chứng, người ta đã tìm kiếm thêm tài liệu cổ để đối chiếu như Kinh Thánh, Kinh Veda chẳn hạn. Nếu tìm thấy thông tin tương đối trùng khớp, bước kế tiếp là quy chụp hay áp đặt cũng dễ hiểu. Với lại người Ấn Độ không nói đến chuyện "tận thế" đến nỗi con người chết rụi hết, họ chỉ nói đến cái tận thể của đạo đức con người trụy lạc trong sự ham mê vật chất và dâm dục. Sự "tận thế" này bị ảnh hưởng và chi phối bởi các hành tinh trong Thái Dương Hệ, nó giống như mùa màng vậy, hết Xuân thì đến Hạ thôi... Mùa xuân trong lòng phơi phới, đến mùa hè nóng nực thì bản tính trở nên cộc lốc, sức khỏe suy giảm... Thêm nữa, có sự tương đồng nào đó trong trình độ chiêm tinh của người Maya và người Ấn trong quá khứ, khi mà cách tính chu kỳ của họ chỉ chênh lệch 12 năm.
-
Kali Yuga và “ngày tận thế” của người Maya Bỏ qua những rắc rối do sự thiếu thống nhất trong cách tính chu kỳ Yuga, ta tiếp tục tìm hiểu thời đại Kali trong các kinh sách của người Hindu. Trong kinh Brahma Purana, Ngài Krishna tiên tri: Sau 5.000 năm của kỷ nguyên Kali sẽ có một chu kỳ phát triển cực thịnh về tâm linh và kéo dài đến 10.000 năm. Đem thời gian này so sách với cách tính lịch của người Maya thì thấy có nhiều điều tương đối trùng khớp. Người Maya nói Đại chu kỳ thứ năm của họ bắt đầu vào năm 3114 trước TCN, và kết thúc vào ngày 21/12/2012. Còn trong sách chiêm tinh Siddhanta Surya viết, chu kỳ Kali Yuga đã bắt đầu vào ngày 18/02/3102 TCN. Nếu tính theo Dương Lịch thì đến năm 2012 ta ở vào năm thứ 5113 của chu kỳ Kali, hay theo Âm Lịch là 5270 năm.
-
VÒNG TRÒN YUGA Ma Vương Asuras tái sinh vào chu kỳ Kali Yuga Kinh sách Ấn Độ nói, khi vào chu kỳ Kali Yuga Đức Krishna rời trái đất trở về cõi Thiên, cũng trong thời điểm này Ma Vương Asuras đội mồ sống dậy, tham gia trong cuộc ác đấu kinh hoàng với nữ thần Kali. Đại diện cho chu kỳ Kali là vị thần Kali hủy diệt, tay cầm thanh kiếm, là hóa thân cuối cùng của thần Vishnu, người hiện thân của sự hủy diệt vũ trụ. Nhiều người tin rằng, cuối chu kỳ này Kali sẽ trở lại trên một con ngựa trắng cùng với bộ hạ của mình để gây chiến. Thế giới sẽ phải chịu một trận chiến bốc lửa, tất cả điều ác bị tiêu diệt, kỷ nguyên thịnh vượng Satya Yuga sẽ bắt đầu. Kali mặc dù được gọi là thần, nhưng Ngài cũng là chúa tể của ác ma, người cai trị cai trị địa ngục và quyết định vận mệnh con người. Các vị thần và lực lượng hắc đạo tham gia một trận chiến lớn. Nhưng với sức lực yếu hơn, các vị thần nhỏ đã bị đánh bại. Durga, mẹ của các nữ thần đã được kêu gọi đến để trợ giúp. Với gương mặt Ngài tĩnh lặng vô cùng, từ cõi Thiên Ngài cởi con sư tử xuống trợ chiến, mười cánh tay Ngài cầm mười bảo bối huyền môn, Ngài trở thành trung tâm của một lực xoáy chứa sự hủy diệt. Trong cuộc giao chiến, Durga làm Ma Vương bị thương, từ những giọt máu chảy xuống của tên ác ma, chúng sinh ra vô vàn những tiểu ma khác; Nhưng với sức mạnh của vị Thần tối cao, Ngài nhanh chóng định đoạt số mạng của chúng. Ngài chiến đấu với kẻ thù trong sự hứng khởi mạnh mẽ, khi sức mạnh tinh thần đạt đến đỉnh cao, từ trán Ngài phát ra Kali của hủy diệt. Kali có nghĩa là bóng tối của ánh sáng, nó khoát lớp áo bên ngoài của một con hổ, đeo chiếc vòng cổ xâu bằng những hộp sọ. Với sự giận dữ hoang dại, và cơn thịnh nộ của một bạ mẹ điên cuồng trong lúc bảo vệ con, Ngài bắt đầu nhai ngấu ngiến đội quân ma. Trong cơn đói dữ dội, và sự ham muốn nhuộm máu để tô màu chiến thắng, Ma vương bị bà nhai sống. Đội quân ma bị đánh bại và tinh thần hoản loạn, chúng bỏ chạy và hòa bình được khôi phục trên vương quốc các vị thần. Khi hoa nở trong hoa, trái sinh trong trái, thì Yuga kết thúc. Những cơn mưa trái mùa xuất hiện. Thần Vishnu sẽ tái sinh, Ngài trở lại Trái đất, và mọi thứ lại bắt đầu. NỮ THẦN HỦY DIỆT KALI Kali Yuga, ngày tận thế của Đạo Đức Người Hindu tin tưởng con người đang ở thời điểm Kali Yuga, thời điểm suy đồi tâm linh, xa rời Thượng đế. Theo tiếng Phạn, “Kali” có nghĩa là xung đột, bất hòa, cãi nhau, hoặc tranh chấp” Trong quyển Mahabharata, ông Markandeya lý giải về chu kỳ Kali Yuga như sau: * Sự thay đổi thể chế chính trị: - Sự cai trị trở nên bất hợp lý: sự công minh dần biến mất. - Người cai trị không ý thức được nhiệm vụ của mình, họ không quan tâm đến thúc đẩy phát triển tâm linh, ngược lại để bảo vệ quyền lợi của mình: họ trở thành nguy hiểm cho thế giới. - Con người bắt đầu di cư đến những vùng đất có nguồn lương thực chủ yếu. * Mối quan hệ với con người: - Con người trở nên tham lam và hung hăng, họ công khai thể hiện thái độ thù địch nhau. - Sự vô minh và thiếu niềm tin vào chánh pháp xảy ra. - Thói dâm ô được ưa chuộng, và người ta cho rằng tình dục là lý tưởng sống. - Tội ác tăng theo cấp số nhân, trong khi đạo đức con người mờ dần và người ta bắt đầu điên loạn. - Người ta hãi hùng và bắt đầu cầu nguyện Thượng Đế. - Con người đắm chìm trong cơn say sưa chè chén. - Người ta thấy đầu óc mình sắp tan chảy, họ mong ước tìm đến sự tĩnh tâm. - Những bậc Đạo Sư không còn được tôn trọng, và các môn đồ liều lĩnh làm sai giáo huấn của thầy mình.
-
CHDCND Triều Tiên đưa tên lửa lên bệ phóng (Nguồn: Tuổi Trẻ) TT- – TTO CẬP NHẬT LIÊN TỤC - Hàn Quốc nã pháo "nhầm" vào vùng phi quân sự * Tiếng đạn pháo nổ, người dân sơ tán ở đảo Yeonpyeong * Nội thành Seoul đã chuẩn bị 3.900 nơi trú nạn khẩn cấp. Sáng nay 28-11, CHDCND Triều Tiên đã triển khai nhiều tên lửa đất đối không SA-2 đến gần biên giới trên biển Hoàng Hải với Hàn Quốc trong khi cuộc tập trận Mỹ - Hàn bắt đầu diễn ra. >> Thư Hàn Quốc: Dân Hàn vừa giận vừa sợ >> Người Việt tại Hàn Quốc cần làm gì nếu chiến sự xảy ra? Các nguồn tin từ chính phủ Hàn Quốc nói “những tên lửa này dường như nhằm bắn các máy bay chiến đấu của Hàn Quốc nếu chúng bay gần đường giới tuyến trên biển Hoàng Hải”. Cũng theo nguồn tin trên, tên lửa SA-2 do Liên Xô thiết kế, có tầm bắn 13-30km. Các tên lửa khác như Samlet và Silkworm có tầm bắn lên đến 95 km cũng đã được đưa lên bệ phóng. Tổng thống Lee Myeong Bak đã chỉ thị tăng cường các lực lượng vũ khí tối tân và tổ chức quân sự trên 5 hòn đảo của khu vực Hoàng Hải. Ngoài ra, Tổng thống Lee còn ra chỉ thị nghiêm ngặt rằng “Toàn lực quân sự phải ở trong tư thế sẵn sàng đối phó, không loại trừ khả năng CHDCND Triều Tiên sẽ tiếp tục các đợt pháo kích”, và “Nếu trường hợp pháo kích diễn ra thì Hàn Quốc sẽ chống trả mạnh mẽ”. Câu trả lời từ các nhà quân sự Hàn Quốc là có. Chính vì thế mà cuộc tập trận liên minh Mỹ - Hàn, mặc dù là theo kế hoạch từ trước, sẽ được tiến hành với quy mô lớn nhất, cùng những vũ khí và trang thiết bị quân sự tối tân nhất từ trước đến nay để đồng thời đối phó với những tình huống đột xuất có thể xảy ra. Chương trình tập trận sẽ có thêm các phần như đánh trận mô phỏng vào khu căn cứ Hyeanpo của CHDCND Triều Tiên, bắn đạn thật và pháo kích đạn thật. Phát biểu về lần tập trận này, ông Lee Bong Woo - Trưởng phòng báo chí - Bộ phận tham mưu Bộ Quốc phòng Hàn Quốc, cho biết: “Đợt tập trận này nhằm mục đích tăng cường lực khống chế đối với CHDCND Triều Tiên và bảo vệ anh ninh quốc gia. Đồng thời cũng nhằm tăng cường sức mạnh liên minh quân đội Hàn - Mỹ và thể hiện sự quyết tâm cao độ của đồng minh Hàn - Mỹ”. Cùng với đợt tập trận này, Hàn Quốc còn tăng cường mọi lực lượng quân sự ở vào trạng thái đối phó cao nhất để phòng khi CHDCND Triều Tiên sẽ chuyển hướng sang tấn công bằng không quân hay lục quân. Giữa lúc CHDCND Triều Tiên đưa ra các tuyên bố “mạnh miệng”, cảnh báo sẽ tấn công “không thương tiếc” nếu bị khiêu khích, hôm nay 28-11, ông Đới Bỉnh Quốc - Ủy viên Quốc vụ viện Trung Quốc, đã tới Seoul để hội ý với Tổng thống Hàn Quốc Lee Myung-bak xung quanh tình hình căng thẳng trên bán đảo Triều Tiên. AP dẫn nguồn tin Văn phòng Tổng thống Lee cho hay tại cuộc gặp, ông Đới Bỉnh Quốc cam kết Trung Quốc sẽ gắng sức để ngăn tình hình tồi tệ thêm. Trong khi đó Tân hoa xã đưa tin ông Choe Thae Bok - Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng lao động Triều Tiên, sẽ có chuyến thăm Bắc Kinh vào ngày thứ ba tới (1-12). Nội dung chuyến thăm không được tiết lộ, nhưng có thể cũng liên quan đến tình hình tại bán đảo Triều Tiên. Trước đó cả Seoul lẫn Washington đều kêu gọi Trung Quốc - đồng minh và là nước đóng góp từ thiện chủ yếu cho CHDCND Triều Tiên, giúp xoa dịu căng thẳng trên bán đảo Triều Tiên đang có nguy cơ bùng phát chiến tranh. Phía Bắc Kinh đã kêu gọi tất cả các bên kềm chế. HƯƠNG SEN - THANH SỬ (tường trình từ Hàn Quốc) - MINH ANH Nín thở chờ phản ứng của Bình Nhưỡng (Nguồn: Tuổi Trẻ) TT- – TT - Hôm nay 28-11 là ngày Mỹ và Hàn Quốc tập trận chung bốn ngày trên biển Hoàng Hải. Theo Yonhap, CHDCND Triều Tiên tiếp tục phản ứng cứng rắn: "Quân đội và nhân dân CHDCND Triều Tiên đang vô cùng tức giận trước sự khiêu khích của nhóm con rối (Hàn Quốc) và sẵn sàng rải pháo làm tan xác kẻ thù nếu chúng dám xâm phạm dù chỉ một chút ít phẩm giá và lãnh thổ của mình". Theo Tân Hoa xã, Trung Quốc một lần nữa lên tiếng khuyến cáo việc tập trận sẽ chỉ gây thêm căng thẳng trên bán đảo Triều Tiên, trong khi Bộ Quốc phòng Mỹ khẳng định Trung Quốc luôn được cung cấp đầy đủ thông tin về cuộc tập trận và cuộc tập trận này không nhằm vào Trung Quốc. Mỹ kêu gọi Trung Quốc cần phải làm nhiều hơn nữa để gây áp lực lên chính quyền Bình Nhưỡng và ngăn không cho các tai nạn bất ngờ xảy đến trên bán đảo Triều Tiên. Trả lời phỏng vấn của CNN, chỉ huy quân đội Mỹ - đô đốc Mike Mullen - cho rằng Trung Quốc có vai trò không thể thay thế được trong việc tạo ảnh hưởng tới chính quyền Bình Nhưỡng. Trung Quốc tới nay vẫn khẳng định “ưu tiên hàng đầu” là kiểm soát được tình hình và đã hội đàm con thoi với các bên để giảm căng thẳng. Dư luận quốc tế đang “nín thở” chờ xem phản ứng tiếp theo của CHDCND Triều Tiên khi cuộc tập trận chung chính thức diễn ra. Hôm qua 27-11, Hàn Quốc đã tổ chức lễ tang cho hai người lính bị thiệt mạng trong vụ CHDCND Triều Tiên bắn pháo vào đảo Yeonpyeong hôm 23-11. Lễ đưa tiễn Seo Jeong Woo và Moon Kwang Wook được truyền hình trực tiếp trên kênh truyền hình quốc gia. “Chắc chắn chúng ta sẽ trả thù CHDCND Triều Tiên - tờ Korea Times dẫn lời thiếu tướng You Nak Jun, chỉ huy lực lượng thủy quân lục chiến Hàn Quốc, khẳng định - Chắc chắn chúng ta sẽ đáp trả gấp hàng trăm, hàng ngàn lần thiệt hại (kẻ thù) đã gây ra”. “Sự kiện tập trận chung và phản ứng khó đoán định của CHDCND Triều Tiên đang khiến các nhà đầu tư ngày càng lo ngại - Kim Hyoung Ryoul, nhà phân tích thị trường tại Ngân hàng Investment Securities, nhận định - Nỗi lo ngại chính là liệu Bình Nhưỡng có hành xử gì bất ngờ và vội vàng tiếp theo không?". Tiềm năng quân sự của Hàn Quốc được đánh giá tiên tiến hơn nhiều so với CHDCND Triều Tiên. Tuy nhiên, Hàn Quốc theo đuổi chính sách không thể để một đốm lửa nhỏ thổi bùng lên thành cơn hỏa hoạn thiêu rụi tất cả, dập tắt nỗ lực thống nhất hai miền. Nếu chiến tranh xảy ra, một quốc gia công nghiệp phát triển như Hàn Quốc có khả năng thiệt hại hơn nhiều so với đất nước CHDCND Triều Tiên bế quan tỏa cảng với bên ngoài. Cuộc tập trận hôm nay diễn ra ở ngoài khơi thị trấn Taean, cách xa nơi xảy ra vụ đấu pháo hai miền và là nơi tàu chiến Cheonan bị “CHDCND Triều Tiên bắn” (theo kết luận của ủy ban điều tra) chìm khiến toàn bộ 46 thủy thủ thiệt mạng. Các quan chức của tham mưu trưởng liên quân Mỹ (JSC) cho biết họ đang theo dõi mọi động thái của quân đội Bình Nhưỡng. “Các ụ pháo tầm xa triển khai dọc bờ biển phía tây nam của CHDCND Triều Tiên vẫn ở vị trí sẵn sàng hoạt động” - một quan chức JSC giấu tên nói. Hãng tin Yonhap cho biết cuộc tập trận hôm nay có sự trở lại của tàu sân bay vận hành bằng năng lượng hạt nhân USS George Washington và 10 tàu chiến tùy tùng. Đây là lần thứ hai tàu này trở lại Hoàng Hải trong năm 2010, lần trước là khi tàu chiến Cheonan của Hàn Quốc bị chìm. Sự hiện diện của nó đưa ra nhiều thông điệp: trấn an người Hàn Quốc và dằn mặt CHDCND Triều Tiên. Câu hỏi đầu tiên mà bất kỳ tổng thống Mỹ nào cũng hỏi khi có khủng hoảng quân sự ở nước ngoài là: “Chiếc tàu sân bay gần nhất đang đậu ở đâu nhỉ?”. Mỹ đã triển khai chiếc USS Enterprise tới vịnh Bengal trong chiến tranh Ấn Độ - Pakistan năm 1971. Năm 1981, chiếc tàu chiến cũng tới ngoài khơi Libya. Năm 1996, khi căng thẳng với Bắc Kinh xung quanh vấn đề Đài Loan nổ ra, tổng thống Bill Clinton đã cử hai chiếc tới khu vực. Trong suốt những năm 1990, chính quyền Mỹ đã đưa ba tàu sân bay tới vùng Vịnh. KHỔNG LOAN
-
ĐÔNG Á NÓNG BỎNG (Nguồn: Thời Báo Kinh Tế Sài Gòn) http://www.thesaigontimes.vn/epaper/TB-KTS...0(1.041)/35109/ Khi đang chăm chú theo dõi những căng thẳng trên biển Hoa Đông giữa Nhật Bản và Trung Quốc, thì cả thế giới bỗng bất ngờ trước hành động tấn công Hàn Quốc của Bắc Triều Tiên. Tuy điều đó cho thấy Đông Á luôn nóng bỏng với những mối quan hệ chằng chịt, nhưng thực tế chính những điều bất ngờ này giúp hạ nhiệt những căng thẳng khác. Sau khi Nhật Bản trao trả thuyền trưởng Chiêm Kỳ Hùng của Trung Quốc, chính quyền của Thủ tướng Naoto Kan bị giảm sút tín nhiệm trầm trọng. Nhiều người cho rằng ông Kan đã chùn tay trước áp lực từ Bắc Kinh, vài cuộc biểu tình mới đây vẫn còn diễn ra rải rác tại Nhật Bản. Sau đó, khi đoạn video ghi lại cảnh va chạm giữa tàu cá Trung Quốc với tàu tuần tra Nhật Bản được tung ra thì nhiều người Nhật giận dữ hơn nữa vì họ cho rằng tàu cá Trung Quốc đã cố ý đâm vào tàu tuần tra Nhật Bản. Có thể, đó chính là nguyên nhân cốt yếu khiến cho chính quyền Tokyo bắt đầu tỏ ra cứng rắn. Mới đây, tờYomiuri Shimbun dẫn lời từ Cục Phòng vệ Nhật Bản rằng Tokyo đang xem xét điều 200 quân đến đảo Yonaguni, nằm ở cực Tây của Nhật Bản và cách Đài Loan 100 ki lô mét về hướng đông. Sau đó, tờ Nikkeicũng đăng tin rằng Tokyo đang có kế hoạch chuyển 100 quân đến đảo trên vào đầu tháng 4-2014. Các nguồn tin đều cho rằng việc điều quân của Nhật Bản là một trong những động thái rõ ràng nhất trong việc giám sát hoạt động của Hải quân Trung Quốc. Mặc dù các thông tin về việc Nhật Bản điều quân chưa được xác nhận chính thức nhưng cũng đủ sức làm cho quan hệ Nhật – Trung thêm căng thẳng. Tờ Businessweek đã dẫn lời ông Jeff Kingston, Giám đốc Trung tâm châu Á học của Đại học Temple, rằng: “Nhật Bản có thể còn gây tổn hại thêm nữa mối quan hệ với Trung Quốc, vốn dĩ đã sờn rách, nếu họ chuyển lực lượng quân sự đến gần vùng đảo tranh chấp hơn”. Ông Kingston cũng có cùng nhận định với nhiều chuyên gia khác là: “Tại Yokohama cả hai bên đã không thể giảm bớt căng thẳng”. Quả thực như vậy, Trung Quốc cũng tỏ ra không chịu thua kém khi điều tàu tuần tra có trang bị trực thăng đến gần vùng đảo tranh chấp để thực hiện nhiệm vụ mà họ gọi là tuần tra và bảo vệ chủ quyền biển. Động thái của cả hai bên khiến cho thế giới lo ngại xung đột Nhật – Trung sẽ vượt tầm kiểm soát, và nguy hiểm hơn có khả năng bùng nổ xung đột quân sự giữa hai bên. Trong khi cả thế giới đang dõi mắt ngóng theo quan hệ Trung – Nhật thì Bắc Triều Tiên đã bất ngờ tấn công Hàn Quốc bằng đợt bắn hơn 200 quả đạn pháo vào đảo Yeonpyeong, cách đường biên giới trên biển 3 ki lô mét về hướng Hàn Quốc. Vụ tấn công bất ngờ chiều 23-11 đã khiến cho cả thế giới giật mình nhận ra rằng “núi lửa” Đông Á vẫn còn âm ỉ với những cơn chấn động từ bán đảo Triều Tiên. Tuy nhiên, có nhiều lý do khiến người ta có thể tin rằng sẽ không có một va chạm quân sự lớn hơn giữa hai bên, ngược lại đợt “phun trào” bất ngờ này có thể khiến cho Trung Quốc mềm dẻo hơn trong các vấn đề khác, nhất là với va chạm đang gia tăng lên với Nhật Bản. Có nhiều lý do để giải thích cho hành động bất ngờ từ phía Bắc Triều Tiên. Lâu nay, Bắc Triều Tiên vẫn thường có các hành động mà Bình Nhưỡng cho là để “cảnh cáo” Seoul. Mới đây thôi, Bình Nhưỡng đã không ngần ngại công khai hàng ngàn máy ly tâm chuyên làm giàu uranium để chế tạo vũ khí hạt nhân. Bình Nhưỡng cũng đưa ra những lời đe dọa mạnh mẽ để ngăn cản quân đội Hàn Quốc thực hiện các cuộc tập trận ở gần khu vực biên giới. Hơn thế nữa, nhiều chuyên gia cho rằng hành động gây hấn vừa rồi có ý thúc ép các nước quay trở lại bàn đàm phán sáu bên đang bị bế tắc. Quả thật, Bắc Triều Tiên chắc khó có thể tạo ra một cơn dấy động can qua, vì Trung Quốc không muốn Đông Á nóng hơn nữa trong thời điểm mà Bắc Kinh đang phải giải quyết những bất đồng với Tokyo cũng như Washington đang ra sức gầy dựng uy thế trở lại ở châu Á. Sau va chạm trên biển Hoa Đông, nhiều chuyên gia cho rằng sự “mạnh tay” của Bắc Kinh mở ra cơ hội cho Washington quay trở lại châu Á. Mới đây, khi Bắc Triều Tiên công khai các máy chế tạo vũ khí hạt nhân thì Bộ trưởng Quốc phòng Hàn Quốc Kim Tae-young tuyên bố Seoul có thể nhờ Washington triển khai trở lại vũ khí hạt nhân để bảo vệ Hàn Quốc. Mặc dù ai cũng hiểu là Seoul không cần yêu cầu bảo vệ từ Hoa Kỳ vì hàng ngàn quân Mỹ vẫn đang đồn trú tại Hàn Quốc và cam kết bảo vệ Hàn Quốc trong tình huống bị tấn công. Nhưng nếu Hoa Kỳ, với sự đề nghị từ Hàn Quốc, triển khai vũ khí hạt nhân ngay sát nách Trung Quốc thì chắc chắn Bắc Kinh sẽ mất ăn mất ngủ. Chính vì thế, Bắc Kinh sẽ không để cho Bình Nhưỡng hành động quá trớn để tạo điều kiện cho Hoa Kỳ mở rộng hoạt động tại châu Á. Ngoài ra, một ý kiến khác, cũng đáng quan tâm, đó là Bình Nhưỡng làm thế chỉ để phục vụ cho việc chuyển giao quyền lực từ ông Kim Yong-il sang Kim Yong-Un. Khi rộ lên tin đồn về việc ông Kim Yong-Il sẽ chọn Kim Yong-un làm kế vị, Bình Nhưỡng cũng đã bất ngờ thử nghiệm tên lửa đạn đạo, bất chấp phản đối từ thế giới lẫn đồng minh thân cận là Trung Quốc.
-
Đi tìm nền văn minh đã mất: Lục địa MU (1) MU là tên giả thuyết về một lục địa đã được cho là từng tồn tại ở một trong số các đại dương trên Trái đất, nhưng đã biến mất vào buổi bình minh của lịch sử nhân loại. Giả thuyết ban đầu được nhà văn Augustus Le Plongeon (1825-1908) đề xướng vào thế kỷ 19, khi ông tin rằng một số nền văn minh cổ đại như Ai Cập và Trung Mỹ, do những di dân của MU - những người đến từ vùng biển Đại Tây Dương – xây dựng. Giả thuyết này tiếp tục được James Churchward (1851-1936) hưởng ứng, và cũng cố bằng tuyên bố, lục địa MU từng năm ở Thái Bình Dương. Giả thuyết này đã gặp nhiều tranh cãi trong thời điểm của Le Plongeon. Và ngày nay, tiếp tục bị các nhà khoa học bác bỏ. Họ không tin vào sự tồn tại và biến mất của một lục địa nào kiểu như MU (hay Lemuria), bởi vì, một lục địa không thể chìm và bị phá hủy bởi bất kỳ thảm họa thiên nhiên nào mà con người hiểu được; và đặc biệt, thiên tai đó lại ập đến chỉ trong một thời gian ngắn ngủi. Hơn nữa, qua các bằng chứng khảo cổ học, ngôn ngữ học và di truyền học hiện đại, càng không thể tạo ra thêm bất cứ niềm tin nào về lời tuyên bố, nền văn minh hiện tại và cổ xưa có chung nguồn gốc. Vì vậy, những giả thuyết đình đám kia, nếu đem xem xét trong điều kiện hiện nay, thì quả rất cổ hủ và mê tín. MU hiện nay được xem như một câu truyện tiểu thuyết hư cấu, nó được tìm thấy dễ dàng trong các hiệu sách với chủ đề về thế giới cổ xưa, và các hiện tượng tâm linh thần bí, và cũng là một trong những cuốn sách bán chạy nhất. Giả thuyết ban đầu của Le Plongeon và James Churchward * Giả thuyết của Le Plongeon: Sau thời gian tìm hiểu và quan sát những tàn tích của người Maya cổ ở Yucatan, Le Plongeon nói rằng mình đã dịch được một số văn bản của người Maya, và nó đã chỉ ra, nền văn minh Maya có trước nền văn minh Hy Lạp và Ai Cập; và hơn nữa, một số truyền thuyết ở Maya còn nói đến sự tồn tại của một lục địa cổ xưa nào đó. Cái tên “MU” xuất phát từ Charles Etienne Brasseur de Bourbourg, người đã chuyển ngữ sai một từ vựng của văn bản cổ Maya sang bảng chữ cái. Brasseur tin rằng một từ ngữ mà ông đọc như “mu” dùng để gọi tên một vùng đất bị ngập nước do thảm họa. Sau đó Le Plongeon xác định vùng đất này tồn tại đồng thời với Atlantis và nó cũng đã bị nhấn chìm xuống Đại Tây Dương. “Trong cuộc hải trình về phía tây qua Đại Tây Dương, nhìn những cơn sóng trào dâng từ lòng biển, chúng tôi biết mình đang đi trên vùng đất cổ xưa MU, nơi đã từng là niềm tự hào vào đời sống đại dương. Khi đó, vị thần lửa mạnh mẽ Homen chưa trút cơn giận giữ của mình. Diện mạo và sự hủy diệt của nó được Thầy tu Solon Sonchis nghe kể lại từ các Đạo sư già của Nữ thần Neith – Timaeus của Plato, như một lời nhắc nhở thế hệ sau, đừng để lịch sử tái diễn thêm một lần nữa”. Le Plongeon tin rằng, nền văn minh Ai Cập cổ đại được Nữ hoàng Moo, người tị nạn từ Atlantis, thành lập sau cơn đại hồng thủy; và một nhóm dân khác đã đào thoát sang Trung Mỹ và trở thành những người Maya. * Giả thuyết của ames Churchward: Nhà thám hiểm Anh-Mỹ, James Churchward, bạn thân của Auguste và Alice Le Plongeon. Trong quyển The Lost Continent of Mu (1931) đã viết, đất mẹ trải dài từ đảo Hawaii đến quần đảo Fiji và từ đảo Easter đến đảo Marianas. Giả thuyết về lục địa MU, do James Churchward đề xướng Churchward nêu giả thuyết về nền văn minh cổ, và sử dụng cái tên “mu” của Le Plongeon, nó được trình bài năm tập sách được xuất bản từ năm 1926-1931. Ý tưởng của ông nói đến sự tồn tại của một lục địa cổ với nền văn minh phát triển, và đã biến mất trên biển Thái Bình Dương khoảng 60.000 năm trước đó. Thảm họa gây ra cái chết của 64 triệu người, và những gì còn lại, ngọn núi cao nhất của nó bây giờ là đảo Hawaii và một loạt quần đảo khác ở Thái Bình Dương. Tập 1 - The Lost Continent of Mu – Churchward sử dụng những “kiến thức rộng lớn về khoa học, nghệ thuật cổ đại và lịch sử, thần thoại và thuyết huyền bí” để dựng lại sự huy hoàn và diệt vong của lục địa MU. Lục địa này có độ dài 5.000 dặm, và rộng 3.000 dặm; nó không nằm hẵn ở Châu Á nhưng tồn tại trên Thái Bình Dương. Câu chuyện trong thánh kinh nói về sự sáng tạo đầu tiên không đến từ những người ở bên dòng sông Nile, hay thung lũng Euphrates, mà xuất phát ở vùng đất ngập nước hiện nay, Mu – đất mẹ của loài người. Tập 2, The Children of Mu, là câu chuyện về những người tiên phong của MU. 63 triệu người sống trên lục địa MU hơn 200.000 năm trước. và những đứa trẻ của vùng này trở thành những người có ảnh hưởng trên trái đất. MU có bộ máy nhà nước hoàn thiện, văn hóa và khoa học công nghệ cực kỳ phát triển. Họ sống ung dung tự tại trong những ngôi nhà với mái vòm trong suốt. Họ phát triển tâm linh, sử dụng thần giao cách cảm để liên lạc, và đi dụ lịch đến các vì sao. Họ sống hòa hợp với thiên nhiên và hòa bình tồn tại ở đó hàng trăm năm. Sơ đồ Churchward nói về sự tị nạn của cư dân MU đến Nam Mỹ và Châu Phi Tập 3, The Sacred Symbols of Mu, nói về sự huyền bí của những tôn giáo cổ xưa và hiện đại. Tất cả các tôn giáo có chung nguồn gốc từ những vị Thần MU, và những lời kinh cầu nguyện đã được người MU sử dụng, và sau đó nó được dẫn lại bởi Osiris, Moses, và Chúa Giêsu. Thánh Moses đã cô đọng thành 42 câu hỏi của đáp về tôn giáo Osirian thành mười điều răn, và những ký tự cuối cùng của Giêsu trên cây Thập giá chính là ngôn ngữ của MU. Tập 4, The Cosmic Forces of Mu, nói về việc sử dụng năng lượng sinh học ở MU. Tất cả các căn bệnh được chữa trị bằng sự dụng thích hợp những tia sáng có màu sắc. Nhiệt độ của trái đất được điều chỉnh bằng năng lượng làm cho nó luôn ổn định. Tập 5, The Cosmic Forces of Mu, Churchward tiếp tục dùng các tài liệu cổ và truyền thuyết để trình bày một số lý thuyết ngạc nhiên về độ tuổi của Trái đất, bản chất của núi lửa và quá trình hoạt động của nó, về kỷ nguyên Băng Hà và lũ lụt. Bản vẽ của Churchward, 1931, miêu tả cơn đại hồng thủy tấn công MU Nguồn: http://dobatnhi.wordpress.com
-
Bằng chứng sự tồn tại của lục địa MU (2) Những di tích bằng đá, các tàn tích xây dựng nhân tạo, liên tục được tìm thấy dưới lòng biển Đại Tây Dương. Như di tích ở đảo Yonaguni (Nhật Bản), những hòn đá được chạm khắc đá kỳ lạ ở Hawaii, hay những pho tượng đá quay mặt ra đại dương ở đảo Phục Sinh (Easter). Nhiều người tin rằng đảo Phục Sinh (Easter) từng là vùng đất của Lemuria. Nơi hàng trăm bức tượng đá khổng lồ và tồn tại thứ chữ viết của một nền văn minh, nhưng lại ở vị trí xa xôi với đất liền. Những câu truyện thần thoại trên đảo này, nói về “Hiva” bị chìm dưới những con sóng và mọi người bỏ chạy. Người Samoa có câu chuyện về một nơi được gọi là Bolutu. Nơi đó cây cối nhanh chóng đâm chồi, trổ hoa và ra trái, và mỗi khi người ta hái, nó lại lập tức thay thế bằng những quả khác. Người Bolutu có thể tự do đi lại trong không gian mà không hề ngại vật cản. Những cư dân Maoris của New Zealand, thì nói về một hòn đảo bị chìm ở phía bên kia những ngọn núi, nơi đó có tên là “Hawaiki”. Sự tồn tại của lục địa MU trong kinh sách Graham Hancock nói đến sự sụp đổ của lục địa MU xảy ra vào khoảng 10.000 TCN. * James Bramwell và William Scott-Elliott cho biết thảm họa động đất và lũ lụt tại địa cầu bắt đầu cách đây 800.000 năm trước, và nó tiếp tục chấn động đến khi thảm họa cuối cùng xảy ra khoảng 9.564 TCN. * Vào năm 1993, Michel Desmarquet Thiaoouba Prophecy có miêu tả về lục địa MU trong quyển sách của mình, mà theo ông cho biết là nhận được thông tin từ những người ở cõi vô hình. * Qua các cuộc khảo sát dưới đái biển Nhật Bản, Masaaki Kimura – một nhà địa chất học – cho biết, những vết tích xây dựng nhân tạo còn tồn tại trên đảo Yonaguni, là tàn tích của lục địa MU. * David Childress cho rằng, nền văn minh đầu tiên trên trái đất bắt đầu khoảng 78.000 năm trước đây, và được xây dựng trên một lục địa rộng lớn gọi là MU hoặc Lemuria, có thời gian tồn tại lên đến 52.000 năm. Nơi đó đã xây dựng một hình mẫu nhà nước, có chữ viết, và đã diệt vong sau trận động đất do trái đất đổi cực. Đế chế này chú trọng phát triển giáo dục, người dân hiểu biết các quy luật vũ trụ, họ được đào tạo kỷ lưỡng với một nghề nghiệp nào đó. Khi đến 21 tuổi, đứa trẻ bắt buộc phải chịu sự giáo dục trong 7 năm, để đủ điều kiện trở thành một công dân ở tuổi 28. Những bậc trưởng bối người Lemuria đã di dời trường học của họ đến Tây Tạng, trước khi trận đại hồng thủy xảy ra, ngôi trường mang tên The Great White Brotherhood. * Những câu chuyện huyền thoại Ấn Độ và kinh Rig Veda có nói về “ba châu lục tồn tại”; châu lục thứ ba có giống dân gọi là Danavas. Ở vùng đất Rutas, một lục địa rộng lớn nằm ở phía Đông Ấn Độ, và là nơi của cư dân của Thần Mặt Trời. Nhưng Rutas đã bị xé tan bởi biến động của núi lửa và nhấn chìm nó xuống đại dương. Chỉ còn vài ba hòn đảo ở Indonesia và Thái Bình Dương tồn tại, và những người này đến Ấn Độ và trở thành giai cấp Bà La Môn. * Người Maya cổ cũng có câu truyện về sự chạy trốn đến vùng đất khô ráo trong quyển kinh cổ Popol Vuh. * Nhà tiên tri Cayce có nói đến một lục địa bị chìm ở Thái Bình Dương, nhưng với nhiều tên gọi khác nhau như Lemuria (MU, ZU hoặc OZ). Vùng Lemuria gặp thảm họa và chỉ một số vùng còn tồn tại, mà ngày nay chúng ta còn biết đến như Rặng Thạch Sơn (Rocky Mountains) ở miền Tây Bắc Mỹ. Lemuria bị sụp đổ bởi những vị thần có sức mạnh, nhưng với động cơ ích kỷ đã gây thảm họa cho lục địa của mình. Những cư dân Lemuria đầu tiên không có thể xác vật lý. Họ cảm nhận được sự rung động trên dãi tầng số cao. Linh hồn của họ được gửi đến trái đất để thể nghiệm sự rung động vật chất. Họ cao trung bình 9feet, và thân thể họ là những lớp vảy, họ tự do thay đổi màu da từ xanh sẩm sang màu xanh lá cây, phù hợpvới mỗi mùa trong năm. Họ thở qua da và không có phổi; gương mặt dài hình bầu dục; đôi mắt lớn, với con ngươi nằm thẳng đứng. Những người này bắt đầu học hỏi kỷ năng với dự án 144 nhóm linh hồn, đại diện cho 33 triệu linh hồn. Tất cả đến từ sao Hỏa, và chòm sao Ngưu Tinh và Thiên Lang tách ra từ Trái đất. Các thí nghiệm lớn được tiến hành trên động vật để tìm kiếm tuổi thọ cao hơn, và sự tự do di chuyển. Trái đất lúc đó tồn tại cả hai loài sinh vật khổng lồ và tí hon. Khi vùng đất Lemuria biến mất, họ trở thành những người Atlantis. * Trong quyển “Giáo lý bí truyền (1888)”, bà Blavatsky nói rằng bà đã đọc những thông tin về lục địa Lemuria trong quyển The book of Dzyan, mà bà đã nhận được từ những Mahatma – linh hồn vĩ đại. Vùng đất ở lục địa thứ 3 này có tên tiếng Phạn là Rutas, bà cho rằng nó nằm ở giữa vùng biển Madagascar và Malaysia, và tồn tại cách đây 150 triệu năm trước. Đáng ngạc nhiên là có nhiều nhà khoa học đồng tình với giả thuyết này của bà, ngoài ra bà còn nói, những cư dân Lemuria đã đẻ trứng và có con mắt thứ ba với khả năng tâm linh phát triển. Người Lemuria ban đầu như những cái bóng, dần dần hình thành và phát triển cơ thể vật lý. Họ ban đầu chưa phân ra nam nữ, họ lưỡng tính, sau đó họ để trứng; họ có khả năng thần giao cách cảm bằng con mắt thứ ba. Nhưng khả năng này đã bị tướt bỏ do họ sa vào con đường trụy lạc, và phi đạo đức. Với sự phát triển của cơ thể vật lý, họ dần tách ra nam và nữ, phát triển bộ phận sinh dục. * Truyền thuyết của người Hopi: Những thành phố đầy tự hào đã nằm dưới đại dương, những vật thể bay và bảo vật đã bị chôn vùi cùng với cái ác. Để sống sót, cư dân đã trốn thoát bằng cách vượt qua đại dương trên những chiếc bè, sử dụng những hòn đảo như những bước đá. * Thời kỳ đen tối bắt đầu với vụ phun trào núi lửa, động đất, và sự sụp đổ của vành đai khí dưới lòng đất. Sóng điện từ nhiễu loạn trên Trái đất và lục địa Lemuria chìm xuống biển. Một số cư dân chạy về phía Ấn Độ, một số chạy về phía Iraq và Syria, một số đến Ai Cập, còn những người kia đi về Nam Mỹ. California là vùng đất lâu đời của lục địa Lemuria, và sau này, những người còn tồn tại ở đó trở thành người da đỏ. Điều đó có thể giải thích vì sao một số hiện vật lâu đời nhất – khoảng 25.000 – đã tìm thấy trên đảo Santa Rosa, Santa Barbara. * Một nhóm nhỏ những cư dân Lemuria đã lưu trữ kiến thức và câu chuyện về lục địa của mình trong những hạt với vật chất tinh vi, để kể lại cho người đời sau. Khi thời điểm đến, các hạt này sẽ được tìm thấy, và thông điệp của người Lemurian sẽ trở lại, và vùng đất ấy sẽ trồi lên đại dương. Liệu sự kiện này có liên quan gì đến lịch của người Maya chấm dứt vào năm 2012. * Hầu hết các nền văn minh cổ và nền văn minh đã bị biến mất, người Lermuria cũng xây dựng kim tự tháp Ai Cập hoặc kim tự tháp vùng Lưỡng Hà. Đây là nơi thờ phượng và thực hành ghi lễ, hoặc là khu vực hạ cánh của các phi thuyền không gian. Cấu trúc kim tự tháp theo hình xoắn ốc tượng trưng cho ý thức và sự minh triết của các vị thần. Liệu có sự liên quan nào đến kiến trúc xây dựng kim tự tháp của người Lemuria và người Maya? Kim tự tháp của người Maya Kim tự tháp vùng Lưỡng Hà
-
1. Theo tui biết thì trong mỗi lá bùa có một cái hình nhân được tạo ra bằng thần chú, hình này không phải là linh hồn con người. Tui chỉ nói thể thui vì không biết âm binh là cái gì.. :D
-
Mấy anh giáo sư xứ Kim chi này chuối không kém gì mấy anh Tàu. Đợt rồi nổi lên chuyện đình đám về mấy chú này làm giả kết quả về sinh sản vô tính chi chi đó. Tóm lại, kết quả này không đáng tin lắm, nếu do mấy anh Nhật nói thì còn tin. B)
-
Trước thì dọa bằng cách lấy thịt đè người; sau thì gặm nhấm đất đai từ từ. Các nhà sử học nói rằng, dân ta trước đó đa phần sống như bộ lạc, tản mác, nên thiếu đoàn kết. Vậy, bị thống trị cả ngàn năm cũng dễ hiểu?