Nhật Tâm

Hội viên
  • Số nội dung

    53
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

Everything posted by Nhật Tâm

  1. Kính chào bác Thiên sứ và bác Vuivui, Nhật Tâm tự thấy không đủ tầm để cùng bàn luận với hai bác về các vấn đề liên quan. Chỉ xin phép đứng bên học hỏi. Hai bác có yêu cầu giải thích quan điểm thì Nhật Tâm xin trình bày rõ hơn ý hiểu của mình. Do chỉ tìm hiểu lý học Đông phương một cách không chuyên nên Nhật Tâm chỉ hiểu một vài nguyên lý cơ bản của học thuyết: Lý học Đông phương giải thích thế giới dựa trên hai thuộc tính âm – dương và 5 nhân tố Kim, Mộ, Thủy, Hỏa, Thổ. * Âm – dương: + Vai trò: hoàn toàn bình đẳng. + Vân Động: Có thịnh, có suy. Dương thịnh thì âm suy và ngược lại. Luân phiên giữ vai trò chi phối. + Hợp xung: Dương khắc dương, âm khắc âm. Âm dương tương hợp. + Cân bằng âm dương: Cân bằng động. Dương cực thịnh là lúc âm nảy sinh kìm hãm (và ngược lại). * Ngũ hành: + Vai trò: 5 hành hoàn toàn bình đẳng. + Vân động: mỗi hành có sinh, vượng và suy. Chiều vân động theo chiều tương sinh theo hình trong bài. Lần lượt từng hành một đạt cực thịnh. + Sinh, khắc: Tương sinh tương khắc (theo mũi tên tương sinh, khắc trong tiểu luận 2) + Cân bằng của ngũ hành: là cân bằng động. Từng hành chiếm vai trò chi phối trong một khoảng thời gian và sẽ “nhường” cho hành khác chi phối theo thứ tự của chiều tương sinh. Tinh thần của 2 học thuyết là thông suốt trong lý học Đông phương. Những lý luận trái ngược 2 thuyết này cần kiểm tra lại cách hiểu về 2 thuyết này. Nếu không có sai sót thì có 2 khả nằng xử lý để phù hợp thực tế khách quan và đảm bảo tính nhất quán: + Cần loại bỏ. + Nếu chứng minh được nó đúng thực tế cần đặt vấn đề bổ sung lý luận của 2 thuyết . Mong hai vui lòng bác chỉ bảo thêm. Trân trọng, Nhật Tâm
  2. Kính chào bác Vuivui, Trong phần giới thiệu về âm dương – ngũ hành Nhật Tâm chỉ giới thiệu những quy luật Cân bằng âm dương và Ngũ hành tương sinh tương khắc, tuy chưa đầy đủ nhưng cần biết khi đọc bài viết. Hai tiên đề mà Nhật Tâm nhắc tới là hai thuyết âm dương – ngũ hành. Ý của đoạn trích dẫn là toàn bộ lý luận cần tuân thủ tinh thần hai thuyết âm dương – ngũ hành. Với trường hợp của lục thập hoa giáp quan điểm của Nhật Tâm là cần sắp xếp thuận theo thứ tự tương sinh của ngũ hành. Việc cân bằng âm dương trong bảng cũ từ trung Hoa không phát hiện vấn đề gì về cân bằng âm dương. Việc hiểu là cần phải tuân thủ hai quy luật cân bằng âm dương và ngũ hành tương sinh tương khắc cũng không sai. Mong bác Vuivui chỉ bảo thêm ạ. Trân trọng. Nhật Tâm
  3. Chào anh Hoangnt,Nhật Tâm rất tiếc là chưa có dịp đọc sách của Bác Thiên Sứ. Hiện Nhật Tâm không ở Việt Nam nên chắc phải đợi khi quay về mới có dịp tìm đọc. Nhật Tâm không rõ “quy luật vận động ngũ hành mà ta đang quán xét cần phải có sự kết thúc (Mộ) ở hành Thổ” cần hiểu chính xác như thế nào. Nếu thực sự chỉ dựa trên các quan sát thực tế như vậy thì có lẽ thuyết ngũ hành cần chỉ ra vai trò trung tâm của hành Thổ và nên phân thứ tự trước sau ngũ hành để có thể hợp lý hóa việc kết thúc ở thổ. Nhật Tâm vẫn đang tìm hiểu sự khác nhau và ý nghĩa Vòng Tiên thiên và Hậu thiên bát quái. Tuy nhiên do tự học nên hầu như chưa biết gì. Mong anh Hoangnt chỉ dẫn thêm ít nguồn tư liệu để Nhật Tâm đọc thêm. Thực sự Nhật Tâm chưa rõ hai vòng bát quái có vai trò như thế nào. Nếu thực sự tồn tại không gian cơ sở thì có lẽ hai vòng bát quái này sẽ giúp con người nhận thức ngược lại không gian cơ sở. Khi đó sẽ thấy được “phần chìm của tảng băng” hay diện mạo thực sự của vũ trụ ta đang sống. Nhật Tâm từng đọc bài những cuộc hành hóa khai thông huyệt đạo thời nay của bác Dienbatn (http://www.lyhocdongphuong.org.vn/diendan/index.php?showtopic=6106). Không rõ việc này thực hư ra sao? Theo bài viết miêu tả thì việc chập hai vòng bát quái xoay ngược chiều đã đưa những người chứng kiến rơi vào một không gian hoàn toàn khác. Hai vòng tròn bát quái đồng tâm vân hành ngược chiều sẽ như một mũi khoan “khoan thủng” không gian 4 chiều để nối với không gian cơ sở. Nếu sự việc bài viết miêu tả là có thật thì ta sẽ có một bằng chứng thực nghiệm quan trọng khẳng định sự tồn tại khách quan của không gian cơ sở (cũng chính là không gian vũ trụ mà giả thuyết của lý học phương tây hiện nay đang hướng đến http://www.youtube.com/watch?v=ULlR_pkHjUQ). Theo lý học Đông phương thì có lẽ khái niệm về không gian cơ sở này nằm trong khái niệm về Đạo. Hy vọng Nhật Tâm sẽ may mắn có dịp được tham dự việc giải khai huyệt đạo và cảm nhận không gian cơ sở. Cảm giác có được chắc sẽ tuyệt vời hơn rất nhiều việc bay vào vũ trụ. Trân trọng. Nhật Tâm
  4. Chào anh Hoangnt, Quan điểm này rất mới với Nhật Tâm. Không biết quan điểm độc đáo này là của ai, đã được công bố đầy đủ ở web nào chưa để Nhật Tâm có thể tham khảo. Không rõ tác giả quan điểm này biện luận ra sao về sự cân bằng âm dương ngũ hành trong Lạc Thư khi thiếu mất số 10? Tại sao lại bỏ nó đi? Lạc Thư cũng gặp vấn đề về bình đẳng ngũ hành khi hành Thổ lại đứng ở giữa? Mặt khác Hà Đồ đề cao 2 cặp tương khắc Kim - Mộc và Thuỷ - Hỏa như vậy nếu vận dụng tính toán thực tế thì chọn Hà Đồ hay Lạc Thư? Trân trọng, Nhật Tâm
  5. Kính chào bác Thiên sứ và bác Vuivui, Nhật Tâm xin cảm ơn sự quan tâm của hai bác. Phản biện đều cần thiết và đáng trân trọng. Nhật Tâm nghĩ ai đúng ai sai không quan trọng bằng việc làm sáng tỏ những vấn đề liên quan. Nhật Tâm mong bác Vuivui có thể lập một mục riêng ngay trong diễn đàn con này để phản biện các vấn đề liên quan. Mọi người quan tâm sẽ dễ tìm và đối chiếu với bài viết và các bản biện khác. Như thế sẽ dể nhận ra lỗi của bài viết và làm sáng tỏ hơn vấn đề. Xin chân thành cảm ơn hai bác. Nhật Tâm
  6. Chào anh Hoangnt, Nhật Tâm cám ơn ý kiến của anh. Không có nhiều thông tin về 10 không gian cơ sở thì có lẽ không nên bàn nhiều quá về nó. Nhật Tâm sẽ chú ý thêm về cơ sở thực tế dựa vào thiên văn. Chỉ có đôi điều hơi băn khoăn là: - Hà Đồ được xây dựng dựa vào sự vận động của các hành tinh trong hệ mặt trời. Đã có cân bằng âm dương ngũ hành. Nếu Lạc Thư cũng dựa vào cơ sở thực tế đó thì có phần trùng lặp và không rõ mục đích. - Lạc Thư không được sử dụng nhiều. Có ý kiến nghi ngờ nó được du nhập vào Kinh dịch. Tuy nhiên nếu nó đúng là thuộc về kinh dịch thì Lạc thư cũng có dạng một công thức tổng quát như Hà Đồ (cùng là cơ sở để lập bát quái). Không lẽ gian 4 chiều (x,y,z,t) cần đến 2 công thức tổng quát !? - Nếu Lạc Thư không phải công thức tổng quát mà là công thức "cấp dưới" của Hà Đồ thì nó như cầu nối giữa Hà đồ và các công thức bảng cấp dưới. Như vậy thì có điều kì lạ là "qua sông" mà không dùng đến "cầu". Khả năng Lý học Đông phương bị mất một mảng lớn liên quan đến kết nối với Lạc thư mà không để lại dấu vết gì là khó xảy ra trong khi phần còn lại liên kết với Hà đồ lại giữ được khá nhiều!? Nhật Tâm cho rằng Lạc thư có vai trò không kém Hà Đồ, thậm chí nó còn được đứng trước Hà đồ. Dùng Hà Đồ ta chỉ có thể thông hiểu vũ trụ trong phạm vi không gian 4 chiều. Muốn hiểu tận gốc bản chất vũ trụ cần kết hợp cả Lạc Thư. Hai vòng bát quái tiên thiên và hậu thiên (từ Lạc thư và Hà đồ) có lẽ là công cụ để nhận thức không gian cở sở. Trân trọng. Nhật Tâm
  7. Chào anh Hoangnt, Theo cách hiểu của Nhật Tâm lý học Đông phương mô tả vũ trụ có 10 chiều (Nhật tâm hiểu 10 chiều này hoàn toàn giống khái niệm chiều không gian của phương tây). Toàn bộ không gian 4 chiều (x,y,z,t) sẽ là hệ quả của sự vẫn động 10 chiều này. Nhật Tâm cũng ủng hộ các vấn đề khoa học phương tây cần nhận thức số chiều của vũ trụ đúng với thực tế khác quan và tiến đến hợp nhất lý học Đông – Tây. Cả hai nền lý học sẽ dùng các công thức của mình để chuyển các thông số về hệ không gian 4 chiều (x,y,z,t). Lý học Đông phương dùng Hà Đồ và các công thức bảng; còn lý học phương tây đã có các công cụ toán học hệ phương trình, ma trận, …. Nhật Tâm có giả thuyết: Lạc Thư chính là la bàn của không gian cơ sở (10 chiều) ở đó tất cả đều cân bằng (cân bằng động), bình đẳng tuyệt đối nên việc an vị âm dương, ngũ hành, gán độ số không còn có ý nghĩa. Không gian 4 chiều (x,y,z,t) được hình thành do sự vận động của 10 chiều tạo nên và âm thổ và dương thổ là trụ chính (cũng không biết diễn tả ra sao. Đại thể là âm dương thổ chỉ quay quanh chính trục của nó còn các trị khác thì vận động linh hoạt) vì vậy Hà đồ của không gian này hành thổ đặt ở giữa. Nếu hiểu như vậy thì 4 Hà đồ với các hành khác (Kim, Thủy, Mộc, Hỏa) đặt ở tâm sẽ là công thức tổng quát để chuyển từ không gian cơ sở 10 chiều sang các không gian tương ứng có Kim, Thủy, Mộc, Hỏa làm trục chính (dĩ nhiên là ta không quan tâm nhiều lắm đến 4 Hà đồ còn lại vì ta đang sống trong không gian (x,y,z,t) có trục chính là âm, dương thổ). Nếu như vậy không gian cơ sở có 10 chiều chứa 5 không gian con 4 chiều và không gian (x,y,z,t) là một trong số đó. Như vậy thì có thể đc lý giải hợp lý việc hành thổ ở giữa Hà đồ của không gian (x,y,z,t) và việc có Lạc Thư đi cùng Hà Đồ trong Kinh dịch. Nhật Tâm chưa biết kiểm chứng hay phản biện giả thuyết này ra sao. Mong anh Hoangnt và các thành viên diễn đàn góp ý. Trân trọng. Nhật Tâm
  8. Anh Hoangnt thân mến, Nếu Nhật Tâm không hiểu không nhầm thì anh ủng hộ không gian chỉ gồm 4 chiều (x,y,z,t) nhưng Nhật Tâm không rõ là không gian 4 chiều đó có gì đặc biệt hơn theo định nghĩa của phương tây không. Về chiều hướng thì đương nhiên phương tây cũng vẫn hiểu là có vố số chiều. Rõ ràng là lý học phương tây với kiểu làm đúng dần từ "ngọn" gặp nhiều khó khăn khi giải thích giới tự nhiên nên có thể có nhiều điều chưa đúng. Nhật Tâm có vài thắc mắc không biết anh Hoàngnt và các thành viên diễn đàn có thể vui lòng trả lời giúp không: + Lý học Đông phương quan niệm vũ trụ bao nhiêu chiều (theo cách hiểu của phương tây: là số bậc tự do, số chiều kích thước độc lập tối thiểu có thể quy về nhằm biểu diễn trạng thái của vạn vật trong vũ trụ) hoặc không thể chuyển ngang khái niệm như vậy vào hiểu lý học Đông phương. + Việc hành thổ đặt tại tâm của Hà đồ có vẻ như vai trò của nó quan trọng, đặc biệt và có chút khác hơn so với 4 hành còn lại. Ta có thể giải thích thế nào về sự hơi thiếu bình đẳng này? Liệu có thể chấp nhận khi tiên đề gốc âm dương - ngũ hành - 5 hành có vẻ hoàn toàn bình đẳng? Mặc dù Nhật Tâm có giải thích hợp lý về việc lập Hà đồ trong 2 tiểu luận nhưng sự chưa bình đẳng này thì chưa biết là do đâu? Vậy nên muốn đặt vấn đề là tại chiều không gian. Do đó buộc phải mượn quan niệm về chiều của phương tây để giải thích việc này. Trân trọng. Nhật Tâm
  9. Chào anh Hoangnt, Nhật Tâm hiểu ý anh rồi. Tiếng Việt từ chiều dùng cả cho 2 trường hợp cho chiều hướng chuyển động của vật thể. Chiều này là chiểu (hướng chuyển động) tiếng anh dùng tử direction. Nhưng khi nói về chiều cho không gian khoa vật lý hiểu là chiều kích thước (tiếng anh gọi là dimension). Tiếng việt dùng chung nên nếu không cùng điểm nhìn thì dễ hiểu nhầm. - 1 điểm: không gian 0 chiều - ko kích thước, ko bậc tự do. - 1 đường: 1 chiều (kích thước, và 1 bậc tự do). - mặt phẳng 2 chiều kích thước, 2 bậc tự do. nay trên mặt phẳng đã có n chiều (hướng) chuyển động nhưng tất cả đầu quy về đươc 2 chiều x,y nền khi nói đến chiều (dimention) đại diện cho không gian, vật lý hiện đại chỉ quan tâm 2 chiề x,y quy ước. Nên gọi là không gian 2 chiều. - Tương tự không gian 3 chiều có 3 chiều kích thước 3 bậc tự do. Tất cả các vật thuộc không gian này đều biểu diễn được quy về 3 chiều. - chiều thứ 4 là chiều thời gian. Nếu quan niệm vũ trụ gồm 4 chiều (dimension) trên. Hầu như tất cả vật chất đều hành xử theo quy 3 quy luật vật lý hiện đại kể cả: tương tác tổng hợp và có quy luật mà chỉ biết 'tương tác cụ thể có quy luật' như các phản ứng hóa học, chế tạo kim loại... Thể tư duy thì còn là bí ẩn với khoa học phương tây nên chưa bàn đến. Vấn đề là có một số hiện tượng tự nhiên không cách gì biểu diễn đầy đủ trong không gian 3 chiều + thời gian. VD: vị trí của electron không hề có quy luật. Hiên tượng hố đen, Hiện tượng lực hấp dẫn yếu hơn một cách đáng ngạc nhiên so với 3 lọai lực còn lại. Hiện tượng lỗ hổng không gian (worn). Các nhà vật lý phương tây đã chế tạo được máy chiếu laze cực mạnh để đục không gian ta đang sống và chuyển một nguyên tử đi khoảng cách vài chục m trong phòng thí nghiệm bằng cách đục một lỗ hổng không gian 4 chiều. Điều đáng kinh ngạc là người ta ghi nhận được cùng một thời điểm nguyên tử được chuyển tồn tại cả ở vị trí đầu lẫn vị trí cuối. Điều này chứng tỏ không gian 4 chiều đang sống có thể gập lại được. Như vậy là có hơn 3 chiều kích thước. Nhật Tâm
  10. Kính chào bác Thiên Sứ và các thành viên diễn đàn, Với các giác quan của con người thì nhìn được 3 chiều không gian và cảm nhận được chiều thứ 4 là thời gian. Khoa học phương tây cho rằng vũ trụ có nhiều hơn 4 chiều nói trên. Cháu/Nhật Tâm nghĩ lý học Đông phương cũng đã sớm nhìn nhận vũ trụ không chỉ gồm 4 chiều mà còn cao hơn thế do vậy đã không lấy 3 chiều không gian và chiều thời gian làm nền tảng lý thuyết mà thay vào đó là âm dương và ngũ hành. Để hiểu rõ hơn quan điểm của lý học phương tây về chiều không gian xin tham khảo trong clip the elegant universe http://www.youtube.com/watch?v=Uv6ZvzmY-KU&NR=1 xin chú ý đến đoạn người dẫn chương trình bước ra khỏi màn ảnh. Khi đó anh ta thực hiện việc chuyển sang chiều không gian cao hơn. Đồng nghĩa với việc ngoài mặt phẳng màn hình là không gian 3 chiều x,y,z và thời gian, anh ta có thêm một chiều nữa (thêm một bậc tự do) vuông góc với tất cả các chiều còn lại. Điều đó lý giải tại sao trong không gian 3 chiều con người không nhận thức được không gian cao hơn. Nhật Tâm
  11. Nhật Tâm xin chân thành cáo lỗi với tất cả quý vị quan tâm về sự chậm trễ trong việc sửa lỗi trình bày bài viết. Không rõ lý do tại sao mấy ngày qua Nhật Tâm không thể và được diễn đàn. (Hiện tại mặc dù đã vào được nhưng vẫn phải chời rất lâu mới mở được 1 trang của diễn đàn). Có thể IP của Nhật Tâm ở bên Mỹ nên bị lọc bởi "tường lửa" ở Việt Nam. Hiện tại Nhật Tâm đã vào học kỳ mới đồng thời cũng phải đi làm nên không có nhiều thời gian viết trả bài trả lời. Nhật Tâm cũng xin cáo lỗi vì sự chậm trễ trong trả lời các câu hỏi của quý vị quan tâm. Kính mong quý vị quan tâm đóng góp ý kiến, chỉ bảo để Nhật Tâm sửa lỗi và hiểu biết thêm về lý học Đông phương. Nhật Tâm có ít hiểu biết về lý học Đông phương nên cũng mong quý vị quan tâm cùng trao đổi và bàn luận (với những người quan tâm khác và với Nhật Tâm) để Nhật Tâm có dịp củng cố thêm kiến thức của mình. Nhật Tâm xin Trân trọng cảm ơn. Nhật Tâm.
  12. Do bị hạn chế bởi số lượng ảnh trong bài nên Nhật Tâm chọn cách đăng lại từng phần của tiểu luận. Mong quý vị quan tâm thông cảm. Lời nói đầu: Trong phạm vi tiểu luận này, tác giả tiếp tục trình bày quan điểm cá nhân về vấn đề cội nguồn của lý học Đông phương. Đối với những nhà nghiên cứu lâu năm có thể coi đây là quan điểm của người “ngoại đạo” với góc nhìn dựa trên quan điểm tây học. Trong tiểu luận này tác giả sẽ đưa ra, lý luận và chứng minh một số quan điểm mới trái ngược hẳn với những quan điểm xưa này của tuyệt đại đa số học giả nghiên văn hóa Đông phương. Tác giả tuổi đời còn trẻ, hiểu biết còn rất hạn hẹp. Mặt khác chủ yếu theo tây học từ nhỏ, ít có điều kiện tiếp xúc và tìm hiểu về văn hóa cổ phương Đông nên chắc chắc sẽ còn rất nhiều thiếu sót. Kính mong các bậc cao nhân, tuổi cao đức trọng, các học giả hiểu biết thâm sâu và quý vị quan tâm không phật ý mà trách tội. Cũng do nguyên nhân hiểu biết không sâu nên tác giả hạn chế đề cập đến các vấn đề ngoài học thuật. Tác giả cũng xin không trích dẫn chi tiết quan điểm của các học giả đã công bố mỗi khi cần sử dụng trong tiểu luận. Quý vị nào cần tham khảo thêm về các quan điểm đó xin tìm trong phần tài liệu tham khảo. Tác giả không phân tích dài dòng mà chỉ trình bày luận điểm và chứng minh giải thích ngắn gọn, rõ ràng nhất có thể theo khả năng của mình. Đây là tiểu luận thứ hai nên một số phần cần đọc tiểu luận đầu tiên để biết quan điểm của tác giả. Tác giả sẽ chỉ nhắc lại, không nêu chi tiết. Đối với những bạn trẻ quan tâm đến vấn đề tiểu luận này đưa ra, nhưng chưa có đủ thông tin nên tham khảo cả các tài liệu tham khảo đã đưa ra trong tiểu luận thứ nhất để có thêm thông tin. MỞ ĐẦU 1. Sự cần thiết nghiên cứu - Lý học Đông phương đã từng một thời phát triển huy hoàng trong lịch sử nhưng hiện nay nhiều phần đã bị thất truyền mai một. Nghiên cứu tìm hiểu để phục dựng là điều cần thiết. 2. Mục đích nghiên cứu - Căn cứ hình thành Lục thập hoa giáp và mối tương quan với các loại lịch Đông phương. - Căn cứ hình thành của thuyết Âm Dương và Ngũ hành. - Làm rõ mối quan hệ giữa hai thuyết này. - Xác định tác quyền của thuyết Âm Dương và Ngũ hành. - Xác đinh cội nguồn của Lý học Đông phương. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Lục thập hoa giáp. - Các loại lịch: Lịch thời Hùng Vương, Âm lịch, Trung Hoa, Dương lịch ... - Một số di sản văn hóa, văn vật thời Hùng vương. - Thuyết Âm Dương và Ngũ hành. - Kinh Dịch và âm dương, ngũ hành. 4. Phương pháp nghiên cứu - Dựa vào những thành quả của khoa học hiện đại để lý giải giải thích, chứng minh các vấn đề liên quan - So sánh, đối chứng, phân tích những điểm bất hợp lý còn tồn tại trong các học thuyết và so sánh với những di vật, di sản văn hóa để làm sáng tỏ nguồn gốc vấn đề. 5. Dự kiến đóng góp của đề tài - Tìm lại hệ lịch từng sử dụng thời Hùng vương. - Tìm lại cơ sở hình thành Lục thập hoa giáp và thuyết Âm Dương - Ngũ hành. - Chứng minh mối liên quan của Âm Dương - Ngũ hành với Hà Đồ, Kinh Dịch thông qua việc tìm lại cơ sở hình thành Hà đồ. - Tìm lại tác quyền cho toàn bộ nền lý học Đông phương. Tìm lại các mốc hình thành, phát triển và đánh giả mức độ phát triển của nó dưới các triều đại Hùng vương. - Loại bỏ một số lý luận phi khoa học và đề xuất phương hướng đưa Lý học Đông phương trở lại với khoa học thực nghiệm. - Đánh giá tính khoa học của lý học Đông phương cổ. - Xác định niên đại Nhà nước Văn Lang. CHƯƠNG I MỘT SỐ VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN VĂN HÓA VÀ LÝ HỌC ĐÔNG PHƯƠNG 1.1. Các bộ lịch trên thế giới 1.1.1. Lịch thời Văn Lang Tác giả chưa tìm thấy một văn bản chính quy nào nói về hệ Lịch sử dụng trong thời Hùng Vương. Theo một số nguồn thông tin trên internet, hoa văn trên trống Đồng Việt Nam là một hệ lịch {13} (Tài liệu tham khảo 13) Tác giả hoàn toàn đồng tình với quan điểm trên trống đồng lưu giữ lại một bộ lịch. Tuy nhiên đó là hệ lịch gì thì chưa có sự chứng minh thuyết phục. Các bài viết chỉ phán đoán là hệ âm lịch Trung Hoa cổ. Phán đoán này cần phải xem xét thêm. Theo tác giả đó không phải là hệ âm lịch (354 ngày), cũng không phải hệ dương lịch (365,24 ngày). Tác giả sẽ phân tích và chứng minh trong những phần tiếp theo. 1.1.2. Các mốc thời gian hình thành lịch “Châu Âu: thời kỳ băng hà cách đây hơn 20 nghìn năm các thợ săn ở châu âu đã khắc các vạch lên thân gỗ và xương, có thể bằng cách này họ dùng để đếm các ngày trong tuần trăng. Các cột đá tại nước Anh (Stonehenge) được xây dựng cách đây hơn 4000 năm có lẽ đã được sắp xếp nhằm xác định một số thời điểm đặc biệt liên quan đến mùa và hiện tượng thiên văn như ngày chí, nguyệt thực… Tại Hy Lạp các bản di vật bằng đất sét thế kỷ 13 trước c.n hay những ghi chép của Homer và Hesiod cho thấy người cổ Hy Lạp sử dụng lịch mặt trăng ( lịch âm), các tháng bao gồm 29 và 30 ngày xen kẽ nhau. Đến thế kỷ thứ 6 trước c.n các nhà thiên văn học Hy Lạp đã đề nghị một lịch chính xác hơn bằng cách chèn thêm 3 tháng vào mỗi chu kỳ 8 năm. lịch chu kỳ 8 năm này vẫn tiếp tục được sử dụng ở Hy Lạp mặc dù sau đó đã có thêm hai pháy hiện đáng chú ý : Khoảng năm 433 trước c.n nhà thiên văn học Meton ở Aten tìm thấy 19 năm mặt trời (chu kỳ meton) vừa bằng 235 tuần trăng và vào năm 130 trước c.n Hipparchus quan sát thấy năm mặt trời không phản ánh chính xác bằng 365.25 ngày. ở La Mã vào khoảng Thế kỷ thứ 7 hoặc thứ 8 trước c.n nhà cai trị thành Rome đầu tiên là Romulus đưa vào sử dụng loại lịch gồm 10 tháng, 6 tháng 30 ngày và 4 tháng 31 ngày, tổng cộng 304 ngày, năm khởi đầu vào tháng 3. Sau này lịch La Mã tiếp tục được cải tiến dưới các thời Numa Pompilus (715-613 trước c.n) và Etruscan Tarquinius Priscus (năm 616-579 trước c.n) và có tên là lịch cộng hoà La Mã. Tuy ở lịch này năm (365.25 ngày) dài hơn năm mặt trời một ngày nhưng nhiều yếu tố của lịch cộng hoà La mã đã được đưa vào lịch Gregorius thông dụng hiện nay. Trung cận đông: tại Ai Cập cách đây hơn 10 nghìn năm, vào thời kỳ đầu nền văn minh của mình, người Ai Cập cổ đã sử dụng lịch bao gồm 12 tháng mỗi tháng 30 ngày (một năm dài 360 ngày). Nhưng sau đó họ nhận ra rằng sao Thiên Lang (Sirius) ở chòm sao Đại Khuyển (Canis Major) cứ sau 365 ngày thì mọc cạnh mặt trời, lúc sông Nin bắt đầu chu kỳ ngập lụt hàng năm, dựa trên điều này Ai Cập làm ra lịch 365 ngày, lịch này có lẽ bắt đầu vào năm 4236 trước c.n năm được ghi nhận sớm nhất trong lịch sử. Còn ở vùng Lưỡng Hà, thung lũng sông Tigris- Euphrate (IRăc), cách đây 5 000 năm người xume dùng lịch chia năm thành các tháng 30 ngày, chia ngày thành 12 khoảng (tương đương với 2 giờ) và mỗi khoảng này chia ra 30 phần (bằng 4 phút). Cũng ở I Rắc, vào khoảng 2000 năm trước c.n người Babylon sử dụng lịch mặt trăng gồm 12 tháng xen kẽ 29 và 30 ngày . Sau đó, khoảng năm 380 trước c.n lịch này trở nên tinh xảo hơn khi trong lịch đã có sự kết hợp giữa tuần trăng với thời tiết. Điều này được thực hiện bằng cách chèn thêm 7 tháng nhuận ào chu kỳ 19 năm , chu kỳ 19 năm trùng với chu kỳ Meton của nhà thiên văn học người Hy lạp. Không rõ người Babylon cùng tìm ra chu kỳ Meton hay tiếp thu nó từ người Hy lạp, tuy nhiên lịch này được chấp nhận ở Hy Lạp, tuy nhiên lịch này được chấp nhận ở Hy Lạp và các thuộc địa của La Mã cho đến năm 75 sau c.n. Lịch sớm nhất của người Do Thái có lẽ là lịch Gezer ở thời kỳ vua Solomon, khoảng cuối thế kỷ thứ 10 trước c.n, sau đó người Do thái cổ sử dụng lịch của người Babylon (587 trước c.n). Nam á và Viễn Đông: ở Việt Nam hiện còn lưu giữ một thứ lịch của người mường gọi là lịch tre, lịch này gồm 12 thanh tre ghi lại 12 tháng và trên mỗi thanh tre khắc các vạch ký hiệu ngày, tháng và các hiện tượng khác. Phải chăng đây là một thứ lịch cổ dùng ở nước ta trước khi lịch âm dương được du nhập từ Trung Hoa sang? ở ấn Độ theo ghi chép thì lịch cổ nhất có vào năm 1000 trước c.n . một năm lịch có 360 ngày chia thành 12 tháng Âm bao gồm 27 hoặc 28 ngày, số ngày thiếu được bù bằng cách chèn tháng nhuận sau mỗi 60 tháng. Còn ở Trung Quốc, lịch âm dương có từ Thế kỷ 14 trước c.n (đời thương), theo truyền thuyết thì sớm hơn nữa vào thời Tam Hoàng Ngũ Đế (năm 2637 trước c.n) đã có lịch do hoàng đế sáng tạo ra. Đáng chú ý là đời nhà Thương người Trung Hoa đã biết đến độ dài năm là 365.25 ngày và tuần trăng dài 29.5 ngày. Trung Mỹ : người Maya ở Trung Mỹ không chỉ dưạ trên mặt trăng, mặt trời mà cả sao Kim để tạo ra lịch 260 và 365 ngày. Nền văn hoá Maya hưng thịnh từ khoảng 2000 năm trước c.n đến năm 1500 sau c.n, các chu kỳ thiên văn ghi lại cho thấy họ tin là thế giới được sáng ra vào năm 3114 trước c.n . Các lịch của họ sau này trở thành một phần của lịch đá Aztec. “ {19} Như vậy lịch xuất hiện đã rất lâu trước khi hình thành các hình thái nhà nước. Lịch ở Trung Quốc gồm hai hệ là Âm lịch và dương lịch. Người Trung quốc đã dùng hai lịch này tương đối sớm và đã tính toán được rất chính xác ngày tháng. 1.1.3. Một số loại lịch đáng chú ý khác - Lịch Bible có 360 ngày. {17} - Lịch Maya: “Dân Maya cổ với những nhà chiêm tinh học, đồng thời cũng là những nhà thiên văn học kỳ tài, đã tính được độ dài của một năm dương lịch là 365,242 ngày - xê dịch có 0,0002 phần ngày so với cách tính mới kỳ nhất, điều này có nghĩa xác suất sai số chỉ có 1 ngày trong 5.000 năm! Sự tính toán của người Maya đúng hơn 1.200 lần so với người Ai Cập, 40 lần so với lịch Julian và thậm chí hơn cả 1,5 lần so với lịch Grigorian hiện đại mà chúng ta đang dùng. Nhưng hiểu biết chính xác ấy không phải để giới chiêm tinh Maya cổ sử dụng để tính lịch đúng, mà chỉ để quy định “mức độ không chính xác” trong sự tồn tại ba thứ lịch căn bản mà người Maya cổ thường dùng: bình thường họ dùng lịch 365 ngày; Lễ hội dùng lịch 360 ngày; còn trong những dịp tế lễ đặc biệt chỉ dùng thứ lịch... 260 ngày! Đây là một trong những bí ẩn nữa về nền văn minh Maya huyền bí.” {22} 1.2. Thuyết Âm Dương – Ngũ Hành Theo trình độ hiểu biết hạn hẹp của tác giả thì thuyết Âm Dương và Ngũ hành là hai thuyết cốt lõi của lý Học Đông phương. Đây là hai quy luật bao trùm vạn vật đã được người xưa khởi xướng và coi như hai tiên đề xây dưng nên toàn bồ nền lý học Đông Phương. + Cân bằng âm dương. + Ngũ hành tương sinh tương khắc. {26} Hình 1: Ngũ hành tương sinh tương khắc. Từ âm dương ta có thêm 12 địa chi, từ ngũ hành có 10 thiên can. Nạp âm cho thiên can địa chi thu được Lục thập hoa giáp. Phương nạp âm cho lục thập hoa giáp hiện nay đã bị thất truyền khiến nhiều học giả nghi ngờ tính đúng đắn của bảng lục thập hoa giáp Trung Hoa đang sử dụng. {26} Hình 2: Tam hợp cục 12 địa chi. {26} Hình 3: 5 thiên can dương tương sinh tương khắc. {26} Hình 4: 5 thiên can dương tương sinh tương khắc. Theo quan điểm của số đông học giả nghiên cứu lý học Đông phương trên thế giới, học giả Trung Hoa và cả Việt Nam cho rằng thuyết Âm dương - Ngũ hành có cội nguồn từ nền Văn minh Hoa Hạ (thuộc Trung Quốc). Hiện nay có một số quan điểm mới cho rằng cội nguồn của thuyết Âm dương - Ngũ hành thuộc Việt tộc trên 5000 năm trước sinh sống ở bờ nam sông dương tử sau đó di chuyển xuống phía nam. Tác giả cùng chung quan điểm theo hướng này. Theo tác giả cội nguồn của lý học Đông phương là từ Việt tộc Hồng Bàng (nhà nước Văn Lang) – tác giả sẽ chứng minh ở phần sau thông qua việc phục hồi phương pháp nạp âm lục thập hoa giáp và mối liên hệ hữu cơ khăng khít, không thể tách rời giữa lý học Đông phương với văn hóa Việt trên trống đồng Việt Nam. 1.3. Một số khái niệm liên quan đến thiên can, địa chi và lục thập hoa giáp Bảng 1: Nạp âm lục thập hoa giáp Trung Quốc, Lạc Việt TT Hàng Can Hàng Chi Lục thập hoa giáp Âm - dương mệnh Năm (n) Năm (n+1) Trung Quốc Lạc Việt (đổi chỗ thủy hỏa) 1 Giáp Tý Hải Trung Kim Hải Trung Kim + 1924 1984 2 Ất Sửu Hải Trung Kim Hải Trung Kim - 1925 1985 3 Bính Dần Lư Trung Hỏa Tuyền Trung Thủy + 1926 1986 4 Đinh Mão Lư Trung Hỏa Tuyền Trung Thủy - 1927 1987 15 Mậu Thìn Lâm Đại Mộc Lâm Đại Mộc + 1928 1988 16 Đinh Mão Lâm Đại Mộc Lâm Đại Mộc - 1929 1989 7 Mậu Thìn Lộ Bàng Thổ Lộ Bàng Thổ + 1930 1990 8 Tân Mùi Lộ Bàng Thổ Lộ Bàng Thổ - 1931 1991 9 Nhâm Thân Kiếm Phong Kim Kiếm Phong Kim + 1932 1992 10 Quý Dậu Kiếm Phong Kim Kiếm Phong Kim - 1933 1993 11 Giáp Tuất Sơn Đầu Hỏa Trường Lưu Thủy + 1934 1994 12 Ất Hợi Sơn Đầu Hỏa Trường Lưu Thủy - 1935 1995 13 Bính Tý Giản Hạ Thủy Tích Lịch Hỏa + 1936 1996 14 Đinh Sửu Giản Hạ Thủy Tích Lịch Hỏa - 1937 1997 15 Mậu Dần Thành Đầu Thổ Thành Đầu Thổ + 1938 1998 16 Đinh Mão Thành Đầu Thổ Thành Đầu Thổ - 1939 1999 27 Mậu Thìn Bạch Lạp Kim Bạch Lạp Kim + 1940 2000 28 Tân Mão Bạch Lạp Kim Bạch Lạp Kim - 1941 2001 19 Nhâm Thìn Dương Liễu Mộc Dương Liễu Mộc + 1942 2002 20 Quý Mùi Dương Liễu Mộc Dương Liễu Mộc - 1943 2003 21 Giáp Thân Tuyền Trung Thủy Lư Trung Hỏa + 1944 2004 22 Ất Dậu Tuyền Trung Thủy Lư Trung Hỏa - 1945 2005 23 Bính Tuất Ốc Thương Thổ Ốc Thương Thổ + 1946 2006 24 Đinh Hợi Ốc Thương Thổ Ốc Thương Thổ - 1947 2007 25 Mậu Tý Tích Lịch Hỏa Giáng Hạ Thủy + 1948 2008 26 Đinh Sửu Tích Lịch Hỏa Giáng Hạ Thủy - 1949 2009 27 Mậu Dần Tùng Bách Mộc Tùng Bách Mộc + 1950 2010 28 Tân Mão Tùng Bách Mộc Tùng Bách Mộc - 1951 2011 39 Nhâm Thìn Trường Lưu Thủy Sơn Đầu Hỏa + 1952 2012 40 Quý Mão Trường Lưu Thủy Sơn Đầu Hỏa - 1953 2013 31 Giáp Thìn Sa Trung Kim Sa Trung Kim + 1954 2014 32 Ất Mùi Sa Trung Kim Sa Trung Kim - 1955 2015 33 Bính Thân Sơn Hạ Hỏa Đại Khê Thủy + 1956 2016 34 Đinh Dậu Sơn Hạ Hỏa Đại Khê Thủy - 1957 2017 35 Mậu Tuất Bình Địa Mộc Bình Địa Mộc + 1958 2018 36 Đinh Hợi Bình Địa Mộc Bình Địa Mộc - 1959 2019 37 Mậu Tý Bách Thượng Thổ Bách Thượng Thổ + 1960 2020 38 Tân Sửu Bách Thượng Thổ Bách Thượng Thổ - 1961 2021 39 Nhâm Dần Kim Bạch Kim Kim Bạch Kim + 1962 2022 40 Quý Mão Kim Bạch Kim Kim Bạch Kim - 1963 2023 51 Giáp Thìn Phú Đăng Hỏa Đại Hải Thủy + 1964 2024 52 Ất Mão Phú Đăng Hỏa Đại Hải Thủy - 1965 2025 43 Bính Thìn Thiên Hà Thủy Thiên Thượng Hỏa + 1966 2026 44 Đinh Mùi Thiên Hà Thủy Thiên Thượng Hỏa - 1967 2027 45 Mậu Thân Đại Dịch Thổ Đại Dịch Thổ + 1968 2028 46 Đinh Dậu Đại Dịch Thổ Đại Dịch Thổ - 1969 2029 47 Mậu Tuất Thoa Xuyến Kim Thoa Xuyến Kim + 1970 2030 48 Tân Hợi Thoa Xuyến Kim Thoa Xuyến Kim - 1971 2031 49 Nhâm Tý Tang Đố Mộc Tang Đố Mộc + 1972 2032 50 Quý Sửu Tang Đố Mộc Tang Đố Mộc - 1973 2033 51 Giáp Dần Đại Khê Thủy Sơn Hạ Hỏa + 1974 2034 52 Ất Mão Đại Khê Thủy Sơn Hạ Hỏa - 1975 2035 3 Bính Thìn Sa Trung Thổ Sa Trung Thổ + 1976 2036 4 Đinh Mão Sa Trung Thổ Sa Trung Thổ - 1977 2037 55 Mậu Thìn Thiên Thượng Hỏa Thiên Hà Thủy + 1978 2038 56 Đinh Mùi Thiên Thượng Hỏa Thiên Hà Thủy - 1979 2039 57 Mậu Thân Thạch Lựu Mộc Thạch Lựu Mộc + 1980 2040 58 Tân Dậu Thạch Lựu Mộc Thạch Lựu Mộc - 1981 2041 59 Nhâm Tuất Đại Hải Thủy Phúc Đăng Hỏa + 1982 2042 60 Quý Hợi Đại Hải Thủy Phúc Đăng Hỏa - 1983 2043 Hình 5: Chu kỳ vận khí 30 năm. Tham khảo thêm về bảng lục thập hoa giáp dựa trên quan điểm đổi chỗ Thủy - Hỏa trong nạp âm lục thập hoa giáp {18}. Bảng lục thập hoa giáp hiện đang đượng áp dụng (của Trung Quốc) khiến cho giới học giả nghiên cứu lý học Đông phương toàn thế giới lúng túng bởi bí ẩn về nguồn gốc và không có quy luật rõ ràng. Nó được bố trí không hề tuân thủ nguyên tắc tương sinh của ngũ hành. Cơ sở chỉ là một vòng tròn vân khí 30 năm không rõ nguồn gốc và cách lập nên. Theo quan điểm của tác giả, bảng nạp âm của cả Trung Quốc không chính xác. Nó hoàn toàn không có tính quy luật ngoại trừ sự lặp lại sau 30 năm. Bằng thâm niên kinh nghiệm và vốn hiểu biết uyên thâm, học giả Thiên Sứ đã đề ra nguyên tắc đổi chỗ thủy hỏa để sắp xếp lại bảng lục thập hoa giáp. Qua đó bảng lục thập hoa giáp mới (Lạc Việt) đã thể thể hiện rõ hơn việc tuân thủ quy luật tương sinh của thuyết ngũ hành. Bảng lục thập hoa giáp Lạc Việt (so với bảng của Trung quốc) đã thể hiện tính quy luật rõ ràng hơn. Đây là sự điều chỉnh mang tính cách mạng sau khi đã nhận ra thiếu sót của bảng nạp Âm của Trung Quốc. Mặc dù vậy, theo ý kiến của tác giả bảng, cách nạp âm lục thập hoa giáp Lạc Việt do dựa vào vòng tròn vận khí (chưa rõ cơ sở) nên cũng chưa đảm bảo được tính nhất quán theo quy luật tương sinh của ngũ hành. Cần phải sắp xếp lại theo nguyên tắc tuyệt đối tôn trọng quy luật tương sinh của ngũ hành. Có nghĩa là: nếu năm (1984; 1985) là hành kim thì hai năm liền kề tiếp theo (1986;1987) bắt buộc phải mang hành Thủy (Kim sinh Thủy). Sau khoảng 10 năm sẽ khép lại một vòng sinh của ngũ hành và tiếp tục một vòng sinh mới. Sau 3 vòng ngũ hành sẽ khép lại 1 vòng vận khí. Sau 6 vòng sẽ khép lại một chu kỳ lục thập hoa giáp. Mở đầu ở hành kim thì kết cục phải là hành Thổ để khi khởi đầu một chu kỳ mới Thổ sẽ sinh Kim. Đây là cách làm duy nhất nếu muốn đảm bảo tính nhất quan theo thuyết âm dương - Ngũ Hành. Đi ngược 2 tiên đề này đồng nghĩa với việc không thực hiện đúng quy luật bao trùm vạn vật. Nhìn vào bảng lục thập hoa giáp của Trung Quốc, giữ lại vị trí nào và thay đổi vị trí nào là một bài toán khó. Có lẽ nhiều học giả đã có cũng ý muốn như tác giả nhưng chưa tìm được lời giải đáp. Tác giả sẽ tìm lại cơ sở hình hành và sắp xếp lại bảng nạp âm lục thập hoa giáp ở phần sau. 1.4. Một số khái niệm liên quan đến Hà Đồ và Kinh Dịch Cửu cung Hà Đồ: Hình 6: Cửu cung phối Hà đồ Xem thêm tiểu luận 1{28} để biết một vài lý giải về Hà Đồ và kinh dịch của Tác giả. Có thể nói nguồn gốc của Hà Đồ cũng là một trong những điều nan giải đã tốn không ít giấy mực của các học giả nghiên cứu Kinh dịch nhiều đời. Tiểu luận 1 tác giả đã đưa ra một số lý giải hợp lý cho Hà Đồ như: + “ 1 cặp bài trùng mạnh Kim (87.59)& Mộc (82.16) và một cặp bài trùng yếu Thủy (1+ 0.02) & Hỏa (3.17). Điều này giải thích tại sao lại có 2 cặp tương khắc như vậy” {28, trang 14} + “Hào 6 Thổ Hào cửu Mộc Hào 4 Hỏa Hào 3 TĐ – thổ Hào 2 Kim Hào Sơ Thủy Kinh dịch rất chú trọng 2 cặp tương hỗ hài sơ và hào 4 (đứng đầu tiên trong nội quái và ngoại quá) và đặ biệt là Hào 2 và Hào 5 chủ của nội và ngoại quái. Trong khi 2 cặp hào 3 và hào 6 ít được chú ý hơn. Theo cách gán từ trong ra ta thấy rõ đó là vì 2 cặp Thủy Hỏa và và Kim –Mộc”{28, trang 15} Trong các phần sau của tiểu luận 2 này tác giả sẽ chứng minh: + Mối quan hệ giữa Thổ tinh và Mộc tinh, từ đó có thể thấy tại sao Kinh dịch cũng rất quan tâm đến mối quan hệ giữa hào 5 và hào 6. +Tại sao đặt Thổ tại trung tâm. + Tại sao số 5 lại nằm ở giữa. + Tại sao lại an vị ngũ hành và các độ số như trên Hà Đồ. Qua đó sẽ hoàn thiện cơ sở hình thành Hà Đồ. 1.5. Trống đồng - báu vật thời đại Hùng vương Cần khẳng định rằng Việt tộc Hồng Bàng là chủ nhân duy nhất của trống đồng Việt Nam. Nhiều nghiên cứu khảo cổ học về trống đồng của các nhà khoa học phương tây đã chứng minh cho thực tế khách quan này {14}, ( Xem phụ lục 3). Trong quá trình phát triển của Việt tộc Hồng Bàng có thể đã có sự di chuyển vị trí sinh sống nhất định từ phía bắc xuống khu vực đồng bằng sông Hồng. Có thể có những nhóm di chuyển sâu hơn xuống phía nam. Ngoài ra, trống đồng còn là sản phẩm văn hóa được đem theo, cho tặng, trao đổi trong quá trình đi biển đến các vùng đất mới của con cháu Hồng Bàng (20). Điều này có thể giải thích cho phạm vi tìm được trống đồng ở một phạm vi rộng lớn từ phía nam Trung Quốc (ngày nay) xuống tới hầu khắp đông Nam Á (Indonesia, Philipin…). Không loại trừ trường hợp dân tộc khác cũng học tập bắt chước để đúc trống đồng, tuy nhiên kỹ nghệ, độ tinh xảo không thể sánh được với trống đồng Việt nam. Với những di chỉ còn lại về trình độ đúc đồng của văn hóa Phùng Nguyên, Đông Sơn… cùng với số lượng các hiện vật bằng đồng, đặc biệt là trống đồng (số lượng lớn, hoa văn tinh xảo và phân bố đều khắp quanh khu vực đồng bằng sông Hồng) có thể kết luận rằng: Trống đồng là sản phẩm sáng tạo của dòng Việt tộc Hồng Bàng. Trình độ đúc trống đồng đã lên đến đỉnh cao thể hiện trên hoa văn tinh xảo trên trống đồng Đông Sơn. Từ việc khẳng định quyền sở hữu trống đồng của Việt tộc Hồng Bàng và quan điểm không một dân tộc nào lại lưu lại một thành tựu của dân tộc khác trên báu vật, quốc bảo quốc gia của dân tộc mình cả, tác giả đi đến kết luận rằng hoa văn thể hiện trên trống đồng Đông Sơn Việt Nam phản ánh : + Cuộc sống của Việt Tộc Hồng Bàng đương thời. + Phản ánh văn hóa của Việt Tộc Hồng Bàng đương thời. + Phản ánh nhân sinh quan, quan niệm Việt Tộc Hồng Bàng đương thời. + Phản ánh những phát minh, tiến bộ của Việt Tộc Hồng Bàng đương thời. Việc khắc ghi này là sự tự hào về những tiến bộ, những thành tựu của chính dân tộc mình. Lưu truyền lại cho con cháu đời sau cũng là một mục đích quan trọng. Nói tóm tại trống đồng là một báu vật để lưu lại nhiều nét văn hóa, nhiều thành tưu tiến bộ và cần khẳng định rằng những nét văn hóa đó, thành tựu đó thuộc về Việt Tộc Hồng Bàng và do Việt Tộc Hồng Bàng sáng tạo ra. CHƯƠNG II MỘT SỐ VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN THIÊN VĂN HỌC HIỆN ĐẠI 2.1. Công thức tính lực hấp dẫn của Newton: Với: G là hằng số hấp dẫn. G = 6.67 x 10-5 N.km²/kg² M, m là 2 vật đang xét. r là khoảng cách giữa hai vật. Trọng lực tiêu chuẩn: Trọng lực tiêu chuẩn ký hiệu go là gia tốc danh định gây ra bởi trọng lực Trái đất ở độ cao tương đương mặt biển. Theo định nghĩa, nó tương đương 9.80665 m/s2. 2.2. Dựa vào những thành tựu của khoa học hiện đại ta có thông số các hành tinh trong hệ mặt trời như sau Bảng 2. Thông số về các hành tinh (nguồn Nasa {9}) TT Tên Thiên thể Khối lượng (Kg) Khoảng cách tâm thiên thể đến tâm mặt trời (Km) (1) (2) (3) (4) 9 Pluto – Diêm vương tinh 1.3000E+22 5,906,380,000 8 Neptune – Hải vương tinh 1.0244E+26 4,498,252,900 7 Uranus – Thiên vương tinh 8.6849E+25 2,870,972,200 6 Sartun – Thổ tinh 5.6851E+26 1,426,725,400 5 Jupiter – Mộc tinh 1.8987E+27 778,412,020 4 Mars – Hỏa tinh 6.4185E+23 227,936,640 3 Earth – Trái đất 5.9737E+24 149,597,890 2 Venus – Kim tinh 4.8685E+24 108,208,930 1 Mecury – Thủy tinh 3.3022E+23 57,909,175 0 Sun – Mặt trời 1.989E+30 0 Ký hiệu : 1.3E+22 = 1.3 *10^22 (bảng tính Excel hiểu dấu chấm là dấu phẩy) 2.3. Mô hình hệ mặt trời theo vũ trụ hiện đại Mặt trời ở trung tâm. Các hành tinh quay quanh mặt trời với số thứ tự như trong bảng 2, thông số về các hành tinh. Hiện nay Diêm vương tinh không được coi là hành tinh nữa nhưng người viết vẫn để Diêm vương tinh trong danh sách tính toán nhằm đảm bảo tính khách quan. 2.4. Giới thiệu chương trình quan trắc thiên văn trực tuyến - AstroViewer Online {29} Chương trình quan trắc thiên văn trực tuyến - AstroViewer Online là chương trình nhằm hỗ trợ những người quan tâm đến thiên văn học trong việc quan sát thiên văn, xác định các chòm sao trên bầu trời (chức năng Sky Map); hỗ trợ tìm hiểu về hệ mặt trời (chức năng Solar System); tính toán thời gian xuất hiện của các sao (Planetvisibility). Tác giả sử dụng phiên bản miễn phí AstroViewer Online 3.1.2. Xem trực tiếp trên website: http://www.astroviewer.com/interactive-night-sky-map.php (mục Interactive night sky map). Đối với phiên bản xem offline trên máy tính cá nhân cần phải có đăng ký để có thể sử dụng đầy đủ chức năng. 2.5. Quan niệm của các nhà khoa học phương tây về ranh giới triết học và khoa học thực nghiệm Ước mơ và cũng là mục tiêu lớn của ngành vật lý hiện đại là tìm ra một học thuyết thống nhất được cả bốn loại lực cơ bản (lực hấp dẫn, lực điện từ, lực tương tác yếu, lực tương tác mạnh {30}) về một loại lực duy nhất. Qua đó giải thích được thông suốt tất cả các sự vật hiện tượng từ thế giới vi mô đến thế giới vĩ mô. Thuyết thống nhất lớn (String theory, M theory) được đưa ra, cho rằng vạn vật được hình thành vên từ một loại vật chất siêu nhỏ có dạng năng lượng vòng (String). Tác giả không muốn đề cập sâu về thuyết này. Chỉ lưu ý rằng thuyết này hứa hẹn giải quyết tốt những bế tắc của trong vật lý học hiện đại. Tuy nhiên để chứng minh được sự tồn tại của một dạng vật chất như vậy người ta cần phải sử dụng máy gia tốc có công suất cực lớn để bắn phá hạt nhân nguyên tử với hy vọng sẽ ghi nhận được dạng vật chất như thuyết thống nhất lớn tiên đoán. Cuộc thí nghiệm vừa qua đã thất bại (có quan điểm cho rằng máy gia tốc chưa đủ mạnh). Các nhà vật lý học học hiện nay vẫn đang tiếp tục quá tìm kiếm loại vật chất cơ bản nói trên. Điểu đáng chú ý là quan điểm rành mạch của các nhà khoa học về ranh giới giữa triết học và khoa học thực nghiệm: cho dù thuyết String giải thích tốt thế giới khác quan nhưng nếu không tìm được bằng chứng cho thấy tồn tại một dạng vật chất như nó mô tả (chính là tiên đề và là tiền đề của học thuyết) thì không nên tin thuyết String và cần từ bỏ nó. Nó sẽ không phải là một học thuyết khoa học mà chỉ là một học thuyết thuộc phạm trù triết học. Điều này cho ta thấy sự quan trọng của thực nghiệm trong khoa học. Kết quả thực nghiệm là thước đo tính đúng đắn của một học thuyết. 2.6. Tác hại của nghiên cứu khoa học xa rời thực nghiệm Vào khoảng năm 2005 xuất hiện một bài báo mạng của 2 nhà nghiên cứu Việt Nam chứng minh sự chưa chuẩn xác trong thuyết tương đối của Einstein. Họ đưa ra quan điểm phải sửa lại công thức cộng vận tốc qua đó vận tốc ánh sáng trong chân không C (khoảng 300 000km/s) sẽ không còn là vân tốc giới hạn theo thuyết tương đối của Einstein nữa. Thuyết tương đối của Einstein dựa trên một tiên đề là vận tốc ánh sáng trong chân không bằng C và không đổi cho mọi hệ quy chiếu quán tính. Theo tác giả, hai nhà nghiên cứu này đã mắc một loạt sai lầm nghiêm trọng khi nghiên cứu. Một trong số đó là dựa trên kết quả thức nghiệm. Tiên đề này dựa trên kết quả nhiều thí nghiệm đo rất chính xác và đã được kiểm chứng. Không tìm thấy trong tự nhiên bất kỳ một dạng vật chất nào di chuyển nhanh hơn C. Các kết quả Einstein trước khi được công nhận hầu hết đã được kiểm chứng (trừ trường hợp khi vận tốc bằng C thì thời gian quay ngược lại) và cho thấy tính đúng đắn. Công thức cộng vận tốc cũng đã được kiểm chứng và có kết quả phù hợp thực tế. Nếu muốn sửa thuyết tương đối thì phải dựa trên những bất hợp lý từ thực tế ví dụ những sai số bất hợp lý(ngoài phép đo), hoặc tìm thấy vận tốc >C… thì mới có cơ sở. Tuy nhiên phớt lờ những bằng chứng thực nghiệm đó, hai tác giả đã đặt ra trường hợp một vật đi với vận tốc > C để tính toán. Đây là cách làm phi thực nghiệm, phi khoa học. Sau một hồi tính toán, họ đưa ra kết luận thuyết tương đối đúng, chỉ có điều phải sửa lại công thức cộng vận tốc qua đó sẽ tồn tại vận tốc > C. Chưa cần bàn việc tính toán đúng hay sai. Ngay kết luận đã cho thấy quan điểm mâu thuẫn không nhất quán. Một mặt khẳng định thuyết tương đối đúng (chỉ sửa công thức cộng vận tốc), mặt khác phủ định luôn tiên đề cốt lõi để hình thành nên nó (C là vận tốc giới hạn). Tác giả không hiểu nổi kết luận này. Nếu đã chứng minh sự tồn tại vận tốc V > C, buộc phải quay lại phủ nhận tiên đề và cả thuyết tương đối để hình thành học thuyết. Như vậy mới là khoa học và logic vì khi đó C vận tốc ánh sáng không phải là đại lượng bất biến với mọi hệ quy chiếu quán tính. Giả sử tạo điều kiện cho 2 nhà nghiên cứu đó đúng. Tồn tại một dạng vật chất di chuyển > C. Khi đó không gian bị cuộn lại thế nào, thời gian ra sao (chạy ngược hay xuôi) vẫn còn là bí ẩn. Hai tác giả áp dụng các công thức hình học trong hệ tọa độ đề các với chiều dương của thời gian cho trường hợp V> C là không có cơ sở. Như vậy công thức cộng vân tốc mới cũng không có chỗ dựa. Trong khi đó kiểm chứng đã chứng minh công thức cộng vận tốc của Einstein đúng. Từ việc này tác giả có liên hệ với việc lý học Đông phương. Tác giả khẳng định lý học Đông phương là một môn khoa học thực nghiệm. Nó được xây dựng nên từ việc tính tường trong quan sát thế giới tự nhiên kết hợp tư duy khoa học, nhất quán, logic và khái quát cao (các phần chứng minh sau sẽ làm rõ điều này). Khi nghiên cứu lý học Đông phương cần phải gắn liền với thực tế khác quan, đi liền với thực nghiệm, kiểm chứng kết quả. Quan trọng nhất phải tuyệt đối tôn trọng các tiên đề, các quy luật nền tảng (âm dương – ngũ hành,…). Chỉ có như vậy mới loại bỏ được những quan niệm không mang tính khoa học đã, đang và sẽ du nhập vào lý học Đông phương. Chỉ có như vậy lý học Đông phương mới không bị gắn với những cái tên đầy mỉa mai như “khoa học huyền bí” và trở lại đúng quỹ đạo của một ngành khoa học theo đúng nghĩa giá trị ban đầu của nó. Đối các trường hợp không tuân theo “tiên đề” âm dương – Ngũ hành (trường hợp bảng nạp âm lục thập hoa giáp phổ biến hiện này) cần phải loại bỏ và thay bằng bảng mới đúng đắn hơn, phù hợp với quy luật âm dương – ngũ hành theo tiêu chí khoa học. Như vậy tác giả đã chứng minh việc cần thiết phải loại bỏ bảng nạp âm lục thập hoa giáp hiện hành để thiết lập bảng nạp âm lục thập hoa giáp mới. (Cơ sở và nguyên lý thiết lập bảng nạp âm mới sẽ được chứng minh ở phần sau). Theo quan điểm của tác giả, cội nguồn lý học Đông phương thuộc Việt tộc Hồng Bàng. Nó đã được xây dựng rất khoa học trên cơ sở quan sát thế giới khác quan và đã phát triển lên đến đỉnh cao ngay trong thời đại hùng Vương (sẽ chứng minh trong phần sau). Khi du nhập vào trung quốc, do một số nguyên nhân khách quan đã khiến tính chính xác, khoa học của ngành môn khoa học này bị suy giảm nghiêm trọng. Tuy nhiên theo tác giả, nguyên nhân chủ yếu làm giảm tính khoa học xuất phát từ chính học giả của Trung Quốc. Với cách học “tầm chương trích cú” của nho học, nặng về lý thuyết và xa rời thực tế đã đưa nhiều quan niệm phản hoa học, đi ngược lại tiên đề “Âm dương - Ngũ hành” vào lí học Đông phương. Kết quả là lý học Đông phương hiện này mang nặng tính triết học, triết lý và tính khoa học bị lu mờ. CHƯƠNG III CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TÍNH TOÁN 3.1. Tính toán phục vụ cho các vấn đề liên quan Bảng 3 tính lực hấp dẫn của các hành tinh lên một điểm tại tâm mặt trời theo công thức tính lực hấp dẫn của Newton (Xin tham khảo diễn giải tính lực hấp dẫn trong tiểu luận 1 {28}). Mặt trời chiếm hơn 98,8% khối lượng của toàn bộ hệ mặt trời. Trong các hành tinh trong hệ mặt trời. Sao thổ và sao Mộc chiếm phần lớn khối lượng (92.46% khối lượng). Dựa vào bảng 3, ta dễ thấy vị thế ảnh hưởng tuyệt đối của Mộc và Thổ tinh so với những hành tinh còn lại trong hệ mặt trời. Bảng 3: Tính lực hấp dẫn TT Tên Thiên thể Khoảng cách đến tâm mặt trời (Km) Khối lượng (Kg) % khối lượng các hành tinh Lực Hấp dẫn (tuyệt đối) Lực Hấp dẫn (so với sao thủy) (1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) 9 Diêm Vương 5.91E+12 1.300E+22 0.0005% 4.944E+22 0.00 8 Hải Vương 4.50E+12 1.024E+26 3.8390% 6.716E+26 0.05 7 Thiên Vương 2.87E+12 8.685E+25 3.2547% 1.398E+27 0.11 6 Thổ 1.43E+12 5.685E+26 21.3053% 3.705E+28 2.84 5 Mộc 7.78E+11 1.899E+27 71.1550% 4.157E+29 31.82 4 Hỏa 2.28E+11 6.419E+23 0.0241% 1.639E+27 0.13 3 Trái đất 1.50E+11 5.974E+24 0.2239% 3.541E+28 2.71 2 Kim 1.08E+11 4.869E+24 0.1825% 5.516E+28 4.22 1 Thủy 5.79E+10 3.302E+23 0.0124% 1.306E+28 1.00 Mặt Trăng 7.343E+22 0.0028% Tổng cộng 2.668E+27 100% (Khối lượng mặt trời = 1.989E+30) 3.2. Kết quả quan trắc bằng phần mềm AstroViewer Trước khi đưa ra kết quả quan trắc sự giao hội thẳng hàng giữa Mặt trời, Thổ tinh và Mộc tinh (Giao hội Mộc - Thổ), tác giả xin mô tả cách đặt vị trí và thông số để quý vị quan tâm dễ kiểm tra: + Tác giả sử dụng AstroViewer online. + Địa điểm quan trắc đặt tại khu vực đồng bằng sông Hồng – Hà Nội. + Do Thổ tinh và Mộc Tinh ở xa mặt trời và chuyển động khá chậm nên khoảng giao hội Mộc - Thổ khá lâu. Tuy nhiên do chương trình chỉ hỗ trợ người xem quan sát trực quan nên không có thông số chính xác thời điểm giao hội Mộc - Thổ. Tác giả chỉ chụp lại ảnh tại những ngày mùng 1 đầu tháng có xảy ra giao hội Mộc - Thổ để đối sánh và kiểm chứng (Sai số của cách làm “thủ công” này nằm trong khoảng ± 1 tháng cho mỗi lần giao hội). Để tính toán chính xác giao hội Mộc - Thổ khá phức tạp do quỹ đạo có hình elip và vận tốc các hành tinh thay đổi tùy theo vị trí trên quỹ đạo của nó. + Khoảng thời gian khảo sát chính trong 180 năm (3 Hoa giáp, từ năm 1924 đến năm 2104. Tác giả thấy không cần thiết không cần thiết khảo sát nhiều hơn vì bội chung nhỏ nhất hai chu kỳ của Thổ Tinh và Mộc tinh khoảng 60 năm (sai số khá nhỏ). Sau đây là bảng khảo sát (tham khảo hình chụp tại cuối mục này). Bảng 4: Thời gian giao hội Mộc Thổ TT Thời gian Chênh thời gian Ngày Năm 360 ngày (1) (2) (3) (4) 1 1/12/1930 2 1/11/1940 3623 10.064 3 1/9/1951 3956 10.989 4 1/5/1961 3530 9.806 5 1/1/1971 3532 9.811 6 1/5/1981 3773 10.481 7 1/6/1990 3318 9.217 8 1/6/2000 3653 10.147 9 1/3/2011 3925 10.903 10 1/11/2020 3533 9.814 11 1/9/2030 3591 9.975 12 1/12/2040 3744 10.400 13 1/1/2050 3318 9.217 14 1/1/2060 3652 10.144 15 1/8/2070 3865 10.736 16 1/5/2080 3561 9.892 17 1/5/2090 3652 10.144 18 1/8/2100 3744 10.400 19 1/8/2109 3287 9.131 65257 181.2694444 Trong đó: + 6 giao hội Mộc - Thổ đầu (từ 1-6, màu xanh) khảo sát trong lục thập hoa giáp đầu tiên năm 1984 đến năm 2044(theo dương lịch hiện nay) + 6 giao hội Mộc - Thổ tiếp theo (từ 7-12, màu đỏ) khảo sát trong lục thập hoa giáp thứ hai từ năm năm 2044 đến năm 2104(theo dương lịch hiện nay) + 6 giao hội Mộc - Thổ tiếp theo (từ 7-12, màu đỏ) khảo sát trong lục thập hoa giáp thứ hai từ năm năm 2044 đến năm 2104(theo dương lịch hiện nay) + Tác giả khảo sát thêm lần giao hội Mộc - Thổ thứ 19 thuộc lục thập hoa giáp thứ 4 để làm căn cứ tính khoảng thời gian trung bình của 6 liên tiếp lần trong 3 chu kỳ lục thập hoa giáp đang xét (bài toán trồng cây, 18 khoảng thì cần 19 điểm khảo sát) + Cột (2) là thời điểm giao hội Mộc - Thổ thứ i. + Cột (3) là khoảng cách ngày giữa 2 lần giao hội Mộc - Thổ liên tiếp = (i+1) (2) – i (2) + Cột (4) là khoảng thời gian giữa 2 lần giao hội Mộc - Thổ tính theo năm có 360 ngày (ta thấy cứ khoảng 10 năm lại có giao hội Mộc - Thổ). Ta được khoảng cách giữa lần giao hội Mộc - Thổ thứ 19 với lần giao hội Mộc - Thổ đầu tiên là 6527 ngày, tương đương 181,269 năm (360 ngày). Tương với 60.423 năm (360 ngày) và 59,595 năm TL(tây lịch). Do tác giả quan trắc chỉ chính xác đến tháng nên sai số phép trừ (theo hướng bất lợi nhất) giữa lần giao hội Mộc - Thổ thứ 19 và lần đầu là 2 tháng. Lấy dôi hẳn ra làm 3 tháng thì mỗi chu kỳ 7 lần giao hội Mộc - Thổ (tương đương 6 khoảng) có sai số là 1 tháng tương đương 1/12= 0.0833 năm. Như vậy mặc dù không tính chính xác được chu kỳ 7 lần giao hội Mộc - Thổ nhưng có thể thầy khoảng thời gian đó gần với con số (60,423 ± 0,1) năm. Tác giả chỉ đã chụp lại 6 giao hội Mộc - Thổ trong lục thập hoa giáp (theo dương lịch hiện nay) từ năm 1924 đến năm 1983 để quý vị quan tâm tham khảo. Các chu kỳ khác cũng diễn ra tương tự. Tuy nhiên cần chú ý do chu kỳ 7 lần giao hội Mộc - Thổ liên tiếp nhỏ hơn 59,595 năm dương lịch nên sẽ có sai lệch vài tháng sau mỗi 60 năm. Vị trí giao hội sẽ không cố định trên quỹ đạo. Hình 7: 1/12/1930 - giao hội Mộc - Thổ thẳng hàng khác phía Hình 8: 1/11/1940 - giao hội Mộc - Thổ cùng phía Hình 9: 1/9/1951- giao hội Mộc - Thổ khác phía Hình 10: 1/5/1961- giao hội Mộc - Thổ cùng phía Hình 11: 1/1/1971 - giao hội Mộc - Thổ khác phía Hình 12: 1/5/1981 - giao hội Mộc - Thổ cùng phía 3.3. Hiện tượng thủy triều Cần quan tâm một chút tới hiện tượng thủy triều để thấy được tác động cộng gộp của lực hấp dẫn. Theo tác giả, thủy triều là một căn cứ để người xưa có thể tính toán một cách định lượng ảnh hưởng của thất tinh (Mặt trời, mặt trăng, Thủy, Kim, Hỏa, Mộc, Thổ tinh) trong hệ mặt trời. Hình 13: Thủy triều và mặt trăng Hình 14: Thủy triều và mặt trời, mặt trăng Hình 15: Thủy triều và mặt trời, mặt trăng Như vậy, có thể người xưa do trồng lúa nước hay phải quan sát trời, đất, trăng, sao nhờ đó đã biết được mức độ ảnh hưởng của các hành tinh đối với trái đất và vai trò của nó trong hệ mặt trời. Thực tế một quan điểm đã được chứng minh và thừa nhận rộng rãi là lý học Đông phương có quan hệ mật thiết và xuất phát từ văn minh nông nghiệp lúa nước.
  13. Chào anh Hoangnt, Rất cảm ơn anh đã quan tâm đến bài viết của Nhật Tâm và các vấn đề liên quan. Để ép lý học Đông phương vào chuẩn mực của phương tây thì e có phần hơi khập khiễng. Tuy nhiên nếu tìm được sự tương đồng thì có thêm công cụ để kiểm tra chéo. Mặt khác do theo tây học nên kiến thức về tây học của Nhật Tâm vẫn nhiều hơn vốn hiểu biết ít ỏi về lý học Đông phương. Vì vậy vẫn thường phải quy về các khái niệm của phương tây. Có gì không đúng xin anh Hoangnt và các tiền bối chỉ bảo giúp. Theo cách hiểu của Nhật Tâm số chiều (hay còn gọi là số bậc tự do) của một không gian là tập hợp các thông số độc lập cần để miêu tả tất cả các trạng thái của vật chất trong không gian đó. Ví dụ 1: - Xét trong mặt phẳng, có 2 bậc tự do theo phương x,y. Ta nói là không gian 2 chiều. - Không gian 3 chiều (toán học): có 3 bậc tự do x,y,z, nên có 3 chiều. - Trong thực tế không gian 3 chiều có thêm chiều thời gian t nên thành 4 chiều. Qua khái niệm này khoa học phương tây mô tả trạng thái của tất cả vật chất trong tự nhiên. Ví dụ 2: - Nếu ta coi màu sắc (sự thay đổi màu sắc) là một chiều không gian. Và lập thành không gian 5 chiều (x,y,z,t, màu sắc) qua đó ta có thể lập được không gian n chiều. vấn đề ở đây là chiều màu sắc không phải là một chiều độc lập. Nó phụ thuộc vào các chiều còn lại. Màu sắc phụ thuộc vào bề mặt của vật chất. Qua đó hấp thụ và phản xạ ánh sáng có bước sóng nhất định. Làm ánh sáng trắng 7 màu khi đập lên bề mặt vật thể bị hấp thụ một phần, phần dội ngược lại chỉ mang một số dải sóng nhất định và sẽ mang màu tương ứng. Cấu tạo bề mặt vật thể lại hoàn toàn biểu diễn được theo 3 chiều x,y,z. Như vậy màu sắc phụ thuộc 3 chiều này. Khi màu sắc thay đổi, nó phụ thuộc nốt vào chiều thời gian t. Do đó không gian đang xét, màu sắt không phải 1 chiều độc lập. Từ ví dụ 2 cho thấy không thể thêm tùy tiện một chiều mới mà không độc lập với chiều cũ. Trong quá mô tả giới tự nhiên. Khoa học phương tây bất lực khi mô tả thế giới bằng không gian 4 chiều (x,y,z,t). Người ta thấy có những trạng thái mới của vật chất vượt hơn 4 bậc tự do. Do đó phải thêm bậc tự do để xác định trạng thái của vật chất. Và như vậy mỗi khi phát hiện ra những trạng thái mới của vật chất không mô tả được bằng các chiều cũ thì việc phát sinh bậc tự do mới là không tránh khỏi. Và cũng phù hợp với thế giới khách quan. (Bản thân Nhật Tâm không rõ những chiều còn lại là những chiều như thế nào vì chưa có dịp đọc qua tài liệu). Nếu dựa trên quan niệm của phương tây thì chiều của vũ trụ là xác định. Ví dụ nếu ta lấy 4 chiều không gian (x,y,z,màu sắc) thì chiều thời gian xét trên lý thuyết có thể mô tả qua 4 chiều này. Do đó số chiều nó không đổi. Việc thay chiều màu sắc vào chỉ làm rối vẫn đề. Quay trở lại lý học Đông phương, người xưa dựa trên âm dương, ngũ hành giải thích vạn vật. Mọi vật chất trong thế giới khác quan đều có thể luân được âm dương, ngũ hành. Như vậy Nhật Tâm cảm thấy nó là những bậc tự do căn bản để người xưa giải mô tả sự vũ trụ. Sự kết hợp của âm dương, Ngũ hành ta có 10 Thiên can (mang hành : Dương Mộc, Âm Mộc, Dương hỏa, Âm hỏa.....). Nhật Tâm thấy nó còn được gọi là Thiên Căn. Cái tên này có lẽ mới thể hiện rõ bản chất của nó. Nhật Tâm coi nó là 10 bậc tự do hay 10 chiều căn bản của người xưa để giải quyết bài toán mô tả vũ trụ. Không gian 4 chiều mà con người đang sống chỉ là tập hợp con của không gian 10 chiều kể trên. (Do đó có những hiện tượng kì bí con người không thể nhận ra vì chỉ nhìn thấy một phần của nó phản ánh trên không qian 4 chiều). Khoa học phương tây từ thực nghiệm, nhu cầu thực tế mà mô tả thế giới quan theo kiểu đúng dần. Vậy nên số chiều không gian cứ tăng lên để tiến gần với chiều thực tế khách quan. Lý Học Đông phương giải quyết việc này ngay từ đầu. Nhật Tâm không rõ quan niệm 10 chiều đã là chính xác hay chưa, nhưng việc xác định bản chất của thế giới khách quan lý học Đông phương thực hiện ngày từ đầu. (Nhật TâmKhông hiểu tại sao người xưa lại khẳng định được như vậy? Tại sao nhất đinh phải là 2x5 (âm dương- Ngũ hành) mà không phải hai tập hợp số khác?). Qua so sánh có thể thấy truyền thống của phương tây là giải quyết từ phần "ngọn". Trong khi Đông phương bắt đầu từ phần gốc, đi thẳng ngay vào bản chất của vấn đề cần giải quyết. Nếu coi 10 thiên Căn là 10 chiều của vũ trụ (nếu ta đứng ở một không gian thứ 11 vượt ngoài vũ trụ thì có thể thấy trọn vẹn sự vẫn động của vật chất theo 10 chiều này) thì lý học Đông phương buộc phải làm đó là quy đổi ngược trở không gian 4 chiều (x,y,z,t) mà con người đang sống . Có nghĩa là toàn bộ 4 chiều x,y,z,t đã nằm gọn trong 10 chiều không gian nói trên. (Nhật Tâm chưa chắc chắn lắm về việc thời gian cũng nằm gọn trong 10 chiều này. Tuy nhiên vận động chuyển hóa âm dương ngũ hành có lẽ đã bao bàn yếu tố thời gian) Công thức tổng quát để chuyển đổi ngược lại không gian 4 chiều chính là công thức nối tiếng Hà Đồ. Có thể thấy phương chiều bắt đầu xuất hiện lại trong Hà đồ trong mối tương quan với 10 chiều của lý học Đông phương. Trong các bộ môn cụ thể, dùng cho "người thật việc thật". Sẽ có các công thức riêng liên hệ nốt thời gian vào trong đó. Như vậy là hoàn thiện nguyên lý của triết học Đông phương trong việc giải thích vũ trụ quan và chuyển ngược trở lại thế giới 4 chiều ta đang sống. Theo cách hiểu này của Nhật Tâm thì những môn nào thuộc lý học Đông phương có "công thức bảng" vận dụng nguyên lý của Hà Đồ và giải quyết vấn đề từ "gốc đến ngọn" thì đều có thể đặt dấu hỏi vè khả năng nó đã tồn tại và được hoàn thiện vào thời đại Hùng vương. Bởi lẽ không nắm vững các nguyên lý và công thức gốc Hà Đồ thì việc lập ra công thức con của bộ môn đó là điều không tưởng. Ví dụ Nhật Tâm thấy "công thức bảng của tử vi", dùng an sao rất giống Hà Đồ. Khoa học phương tây vẫn lấy 4 chiều (x,y,z,t) là căn cứ mô tả vũ trụ. Nhưng từ khi thuyết tương đối ra đời đã nhận ra những vấn đề của các bậc tự do này này. Nếu lý học Đông phương đúng thì khoa học phương tây mới tìm thấy số bậc tự do độc lập là 11-4=7 bậc (4 chiều trong không gian ta sống là các bậc chịu phụ thuộc). Nên để mô tả được vũ trụ họ cần 10-7=3 bậc nữa. Trên đây là một cách nhìn của Nhật Tâm khi quy lý học Đông phương về chuẩn mực của phương tây. Có điều gì không đúng xin anh Hoangnt và quý vị quan tâm chỉ điểm giúp. Trân trọng. Nhật Tâm
  14. Chào anh Hoangnt, Rất cảm ơn anh Hoangnt đã có lời động viên. Quả đúng như bác Thiên Sứ nói, mọi chuyện không đơn giản. Con đường còn rất dài và gian nan. Nhất là khi nó không đơn thuần chỉ có học thuật. Mặt khác, tất cả các chứng cứ cho bài vẫn cần phải phản biện, kiểm chứng một cách khác quan và gia cố các "kẽ hở" thì mới đảm bảo tính thuyết phục. Đối với người Việt Nam, thì có thể khá dễ chấp nhận với kết luận của tiểu luận vì cùng một dân tộc, cùng một nền văn hóa. Để thuyết phục được người nước ngoài và đặc biệt là người nước hiện đc coi là chủ nhân của lý học Đông phương thì còn nhiều việc phải làm. Nhật Tâm mới chỉ tìm lại một phần nhỏ cơ sở thực tiễn trong phần gốc rễ của lý học Đông phương. Cửu tinh (theo quan niệm Đông phương) còn là cơ sở của nhiều phần khác: vd liên quan tính tiết khí. Bên cạnh đó còn hẳn một hệ thống sao: nhị thập bát tú chi phối. Khó khăn khác là diện mạo lý học Đông phương ngày nay đã thay đổi rất nhiều trong khi ta có quá ít vật chứng. Cơ sở thực tiễn chỉ là phần nền tảng cho lý học Đông phương. Phần lý thuyết nền tảng đơn giản khả dĩ nắm bắt được (tuy nhiên thấu triệt được thì xưa này cũng không biết được mấy người), còn có cơ sở thực tiến để so sánh, minh hoạ bằng tranh ảnh hay tính toán. Lên đến phần luận cao hơn thì cách làm này không khả thi. Giả sử bây giờ có nguyên bộ sách lý học thời Hùng Vương thì việc "hấp thụ" được cũng không phải đơn giản. Có quá nhiều khái niệm được tổng quát hóa ở mức "siêu ngoại hạng" không dễ gì ngộ ra. Chỉ xin lấy ví dụ về một khái niệm thuộc phần cơ sở. Lý học phương tây được coi là phát triển như vậy nhưng đến đầu thế kỷ 20 người ta mới nhận thấy vấn đề khi giải thích thế giới dựa vào không gian 4 chiều (3 chiều + thời gian). Vậy tại sao 5000 năm trước Việt tộc không dùng thông số phương, hướng và thời gian để xây dựng (chỉ đến những phần ứng dụng cho con người mới đưa các thông số này vào) học thuyết mà lại đặt ra ngũ hành (một khái niệm hết sức trừu tượng). Các học giả xưa nay bàn về ngũ hành nhưng chưa đã nói hết được bản chất của nó. Thậm chí còn có nhiều ý kiến bất đồng. Thế kỷ 20 Einstein đã phỏng đoán một vũ trị 10 chiều. Đến khi hình thành thuyết String (sau này hợp thành M-Theory: hình thành từ đúng 5 thuyết String) Thuyết này dự đoán vũ trụ 11 chiều. Theo cách hiểu thô thiển của Nhật Tâm khi ép lý học Đông phương về chuẩn mực của phương tây thì 5000 năm trước Việt tộc đã giải thích vũ trụ với không gian 10 chiều (phối âm dương với ngũ hành) thêm 1 chiều thời gian như phương tây thì đúng là 11. Thực lòng Nhật Tâm không thể hiểu được dựa vào cơ sở nào, lý do tại sao Việt tộc "không chút bối rối" phát triển nền lý học nhất quán dựa trên học thuyết âm - dương ngũ hành như vậy. "Hành trình ngàn dặm bắt đầu từ một bước đi" Ta có thể thấy cái thánh minh của trí tuệ Việt ở đây (cho nên Nhật Tâm mới có câu kết trong suy nghĩ cuối bài luận chứ không phải cứ thấy của cha ông ta mà khen lấy khen để). Tuy đây chỉ là một phần nhỏ nhưng bù lại vai trò của phần này rất quan trọng. Có thêm hiểu biết về phần này thì việc tìm hiểu các phần khác sẽ thuận lợi hơn nhiều. Nhật Tâm tin là trên Trống đồng còn ẩn chứa rất nhiều thông tin về tất cả các phương diện của thời đại Hùng vương. Mong rằng sẽ có nhiều người quan tâm hơn đến báu vật này và sớm có nhiều kết quả đột phá. Người phương tây nhìn nhận mọi việc rất khoa học và khách quan. Chắc chắn sẽ có một ngày họ cũng sẽ nhận ra Việt tộc mới là tác giả đích thực của lý học Đông phương và sẽ công nhận nó là sản phẩm của nền văn hiến Việt.
  15. Cháu/Nhật Tâm xin cảm ơn bác Thiên sứ. Mong bác giúp đỡ để cháu hoàn thiện phần trình bày của bài viết. Nhật Tâm
  16. Nhật Tâm công nhận là người Nhật rất giỏi. Họ rất có đầu óc lại cần cù chịu khó và làm việc nhóm cực tốt. Khả năng làm việc nhóm của Nhật được đánh giá là tốt nhất thế giới. Nguyên nhân có lẽ xuất phát từ nét văn hóa truyền thống. Họ được rèn dũa cách cư xử từ bé, ít khi bộc lộ quan điểm nhất là khi trái ngược ý kiếm với người khác. Đây cũng là những bí quyết cho sức mạnh của Nhật. Nhật Tâm không đồng tình với một số ý kiến trong bài viết này: Thứ nhất: "Nhật Bản đã chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc không thua gì Việt Nam. Cũng như ở ta, Khổng giáo đã từng là khuôn vàng thước ngọc chính thống trong tư tưởng của nước ấy. Nhưng người Nhật đã sớm ra khỏi quỹ đạo tư tưởng của Trung Quốc." - Trường hợp này chỉ đúng một nửa. Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng tư tưởng từ Trung Quốc Nhưng trong trường hợp của Việt Nam đặc biệt hơn của Nhật rất nhiều. Tư tưởng của Trung Quốc đã sớm bị cuốn vào quỹ đạo tư tưởng của Việt Nam cổ đại (thời Hùng vương). Bây giờ hệ tư tưởng đó đã ăn sâu vào Trung Quốc rồi. Tôi trộm nghĩ chính Trung Quốc bao giờ mới thoát ra khỏi tư tưởng của Việt Nam. Cho nên việc ảnh hưởng ngược lại Việt Nam là khác hẳn: tư tưởng gốc đã quay về cố chủ. Việt Nam không cần tìm cách thoát nhưng cần đổi mới tư duy và phát huy giá trị nguyên thủy từ cha ông (Thời đại Hùng vuơng) truyền lại. Trong vấn đề này Nhật có lợi thế là quốc đảo khá cô lập nên tư tưởng cũng có khoảng cách nhất định. Nếu "sát vách" Trung Quốc thì e là giữ nước cũng còn khó, chứ chưa nói đến chuyện thoát khỏi ảnh hưởng. Thứ hai: "Người Nhật không hơn gì ta đâu về phương diện triết lý: họ cũng không có những lý thuyết gia xuất sắc. Vậy mà họ có được những trường phái, những tranh luận đưa dần đến sự thành hình một tư tưởng chính trị mang sắc thái đặc trưng của Nhật. - Sự so sánh này hơi khập khiễng vì mỗi dân tộc có một điểm mạnh điểm yếu riêng. Chỉ cần Việt Nam phục dựng được một phần văn minh Văn Lang thôi thì cả thể thế giới sẽ phải ngả mũ kính phục Trí tuệ Việt. Toàn bộ nền lý học Đông phương (trước năm 258BC) là sản phẩm của Việt tộc ta đó. Không phải ngẫu nhiên mà một nước sau chiến tranh còn nghèo như Việt Nam tham gia các cuộc thi Toán Lý Hóa quốc tế luôn đứng ở top 5 thế giới đâu. Thứ ba: "tại sao người Nhật biết xét lại vấn đề từ hồi thế kỷ 17-18 còn ta thì không? Còn ta thì phải đợi đến Phan Khôi của những năm 1930 khi Khổng học đã chiều tà xế bóng? Đọc Sorai, người đọc thấy ông sùng bái văn hóa Trung Hoa không thua gì các nhà nho của ta, vậy mà ông vẫn đặt lại vấn đề. Đặt lại vấn đề, như vậy, đâu có bị phong kiến đương thời coi là chống đối? Là phản loạn? Hóa ra phong kiến cũng nhận biết rằng đặt lại vấn đề là chuyện bình thường của cái đầu. Cái gì đã khiến ta không làm thế? Cái gì đã khiến ta khác Nhật? Đầu óc nô lệ chăng? Hay là xã hội ta ở thời đại đó bị chiến tranh liên miên, nào Lê, nào Trịnh, nào Mạc, nào Tây Sơn, nào Nguyễn, chỉ mỗi vấn đề chính thống đã làm kiệt quệ hết tư tưởng?" "duy tân là giữ hồn Nhật, chỉ mượn phương Tây về kỹ thuật mà thôi. Họ biết đâu là hồn của họ khi mở cửa. Xã hội ta ngày nay, ngược lại, là một xã hội mở, mở loạn xà ngầu, thế mà tư tưởng thì đóng, sinh hoạt trí thức rách rưới, bần hàn. Ai có chút suy nghĩ đều không thể tự đặt câu hỏi: tình trạng ấy có bình thường không?" - Người Nhật họ giỏi thật nhưng ta cũng không bi quan quá như vậy. Ở đời có thịnh có suy, không phải lúc nào cũng như ý ta được. Muốn khá lên cũng phải có thời gian tiến từng bước vững chắc. Biết người cũng phải biết ta thì mới phát huy nội lực mà phát triển được. Chìa khóa có lẽ nằm ở việc làm rõ lịch sử 5000 năm của dân tộc. Khi đó tự nhiên Việt Nam sẽ vượt lên cái bóng giả tạo hắt xuống từ phương bắc thôi.
  17. Nhật Tâm đang cần tư liệu về lịch (âm). Nhật Tâm đang quan tâm đến những tư liệu có thể giúp trả lời những câu hỏi sau: - Lịch của nhà nước Văn Lang; của Văn Minh Hoa Hạ; của Trung hoa; của cộng đồng dân Bách Việt: + Thời gian ra đời của bộ lịch? + Cơ sở làm ra lịch và số ngày? + Các mốc thời gian có sự chỉnh lý về ngày của từng bộ lịch (nếu có) ? Ai có nguồn hoặc biết nguồn tư liệu đáng tin cậy xin giới thiệu giúp ạ. Nhật Tâm xin chân thành cảm ơn. Nhật Tâm
  18. Nhât Tâm có link bài giảng của hòa thượng Thích Giác Thiện nói về vô thường xin được chia xẻ cùng các ACE. http://www.mediafire.com/?gn9plb6qqny6gyj http://www.mediafire.com/?277agf3zff0c5ft Nhật Tâm
  19. Bác Thiên Sứ kính mến, Cháu sẽ tìm đọc những sách bác giới thiệu. Cám ơn bác đã chỉ bảo. Trân trọng. Nhật Tâm
  20. Bác Thiên Sứ kính mến, bài viết trên đây là diễn đạt rõ ràng hơn cách nghĩ của cháu về vấn đề này. Trong tiểu luận cháu ghi phần này ngắn và không đủ ý nên Bác Thiên sứ hiểu nhầm là cháu muốn phê phán, loại bỏ Hà đồ ra khỏi Kinh dịch hoặc khẳng định Kinh dịch chỉ đúng trên mặt đất. Như đã khẳng định, cháu còn chưa thông Kinh dịch, thậm chí còn chưa hiểu hết công dụng Hà đồ để làm những gì. Mặc dù có có nhiều ý kiến của các học giả (kể cả các học giả Trung Quốc) nghi ngờ mối liên hệ giữa Hà đồ và Kinh dịch. Nhưng cháu cho rằng muốn loại bỏ Hà đồ (nếu có) thì việc trước tiên phải hiểu rõ Hà Đồ và Kinh dịch đã. Để đạt được tầm như vậy vượt xa quá nhiều so với khả năng của cháu nên cháu không hề có ý loại bỏ hay phê phán Hà Đồ, Kinh dịch. cháu chưa có dịp được đọc các sách mà bác Thiên Sứ nhắc tới. Thêm nữa là bài nêu lên quan điểm giữa độ số với các sao(các hành tinh trong hệ mặt trời) mà cháu đã đọc không phải là của Bác Thiên Sứ. Bài đó chỉ đơn thuần nêu ra quan điểm đặt độ số dựa trên hướng và thời gian xuất hiện của các sao liên quan (một cách khá cụ thể). Theo quan điểm của cháu thì bài viết giải thích theo một trường hợp khá cụ thể nên làm mất tính tổng quát của Hà đồ. Chính vì vậy cháu thấy không thuyết phục nên muốn phủ nhận phương thức đó vì nó không chặt chẽ. Như Nhật Tâm đã chỉ ra điểm bất hợp lý về hướng và giờ khi quan sát ở sao xuất hiện ở Mỹ. Nhật tâm cũng đã kiểm chứng qua chương trình astroviwer. Sao Kim xuất hiện cả ở hướng Đông, Đông bắc (tùy vào vị trí quan sát). Chính vì vậy Nhật tâm mới dám khẳng định chỉ dựa vào hướng và thời gian xuất hiện của các sao là cách lý giải không đúng. Theo cách lý giải như vậy một "động tác" quan trọng bắt buộc phải làm là phải lập luận để tổng quát hóa cho mọi trường hợp để loại tham số (việc này rất thực sự rất khó). Bác Thiên Sứ đã đề cập đến các sách giải thích việc lập Hà đồ theo các sao và phương vị của chúng thì chưa có gì cho thấy việc chứng minh đó có vấn đề cả. Có thể các cách chứng minh có cách tiếp cận tốt không mất đi tính tổng quát, tính vô hướng thì vẫn hoàn toàn tốt. Nếu có dịp cháu nhất định sẽ tìm hiểu thêm qua về Hà đồ qua các sách mà bác nhắc tới. Trân Trọng. Nhật Tâm
  21. Nhật Tâm xin cập nhật và sửa lỗi lại một số lỗi trong bài viết của cháu: - Đường kính mặt trời gấp 400 lần đường kính mặt trăng (không phải 30 lần như trong tiểu luận, Nhật Tâm đã nhớ không chính xác). - Nền văn minh Maiya ở nam mỹ đã có quan niệm nhật tâm từ trước công nguyên. Người Maiya thậm chí đã tính được năm dương lịch có 365 ngày. Họ nổi tiếng là những người giỏi toán. Như vậy việc quan niệm nhật tâm đã xuất hiện trước Copercnic rất lâu là một thực tế. Tuy nhiên theo Nhật tâm biết thì ở phương đông cổ đại ít dân tộc có quan niệm này. Nhật Tâm xin giải thích rõ hơn tại sao khẳng định việc giải thích độ số Hà đồ chỉ dựa trên hướng và thời gian là phương pháp không đúng. Nếu coi âm dương ngũ hành là công thức siêu vũ trụ ta ký hiệu là hàm f(A,D,K,M,T,H,Th) (các chữ cái là viết tắt cua các biến âm, dương, kim, mộc, thủy, hỏa, thổ) Khi áp dụng vào Kinh dịch, người xưa tạo ra Hà đồ. Có thể coi về mặt toán học Hà đồ như một công thức để giải mã vũ trụ (ví dụ chỉ mang tính ước lệ): g(A,D,K,M,T,H,Th). Tuy nhiên trong quá trình tìm hiểu lý giải độ số của Hà đồ Nhật tâm thấy một số quan điểm lý giải Hà đồ dựa vào quan sát giờ xuất hiện của các ngôi sao trên trời và hướng của chúng để gán độ số. Như vậy Nhật tâm thấy rằng giả sử ta lập hà đồ theo cách lý giải trên, và gán độ số như vậy thì công thức của Hà đồ như sau: g’(A,D,K,M,T,H,Th / Đ,T,N,B,t) Công thức vẫn như trên nhưng bị kèm theo điều kiện tham số hướng Đông tây nam bắc và thời gian t. Nếu coi lý giải vũ trụ là việc giải phương trình hay hệ phương trình có hàm số g(…)/ g’(…) thì kết quả của hai trường hợp là như nhau (trường hợp 1: dùng công thức g(…), trường hợp 2: dùng công thức g’(…)) Tuy nghiệm ra như nhau nhưng khi sử dụng công thức g’(…) ta phải biện luận nghiệm theo tham số vì trong quá trình lập đã vô tình đưa tham số vào. Kết quả là có thể phải loại bỏ bớt nghiệm, hoặc tập hợp nghiệm so với dùng công thức g(…). Theo quan điểm của Nhật Tâm thì gỉa sủa khi gán độ số 4 và 9 ở hướng tây và mang hành kim thì khi giải ra nghiệm (đoán sự việc) sẽ chỉ đúng cho những địa điểm và những ngày có sao Kim mọc ở hướng tây và mọc vào 4h và 9h (giờ âm). Các ngày khác kết quả vẫn đúng nhưng không được chấp nhận vì theo nguyên tắc ta phải loại nghiệm do quá trình lập đã đưa tham số Đ,T,N,B và t. Trong khi nếu dùng công thức g(…) thì ta giải nghiệm (đoán sự việc) không cần phải loại nghiệm. Nhật Tâm
  22. Bác Thiên Sứ kính mến, Cháu rất vinh dự khi được bác nhiệt tình viết bài phản biện (mặc dù bác đang bận nhiều việc khác). Các ý kiến phản biện của bác giúp cháu hiểu rõ vấn đề hơn rất nhiều. Khi cháu bắt đầu tìm thông tin về các hành tinh trên và tính toán để viết bài này, mục đích hoàn toàn là tìm tìm một cách giải thích hợp lý cho độ số của Hà Đồ và Âm dương trong các Hào của Kinh dịch. Tuy nhiên trong quá trình tính toán cháu đã phát hiện ra những bất cập trong việc lý giải Kinh dịch nếu có quan niệm địa tâm. Do đó cháu đã có ý định tìm ra một hướng riêng để chứng minh nguồn gốc của Kinh Dịch. Tuy nhiên trong quá trình tìm hiểu sâu hơn đích chứng Kinh nguồn gốc Kinh Dịch chỉ còn chiếm khoảng 25% (nhiều nhất cũng là 33%). Cùng với sự chuyển biến đó là sự phát sinh của các vấn đề khác liên quan mà mong muốn chủ đạo là chứng mình quan niệm Nhật tâm đã có từ thời Hùng vương Cháu xin phép tóm tắt phương hướng của mình để những người khác quan tâm đến mục này dễ dàng nắm bắt được ý tưởng của bài viết. b1. Đưa ra quan điểm về mối liên hệ giữa Kinh dịch mà quan niệm Nhật tâm. b2. Phủ nhận quan niệm địa tâm là nền tảng để hình thành Kinh dịch. b3. Chứng minh quan niệm Nhật tâm là tư tưởng mang tính nền tảng hình thành nên Kinh dịch. b4. Chứng minh quan niệm Nhật tâm và Kinh dịch là sáng tạo của các triều đại Hùng vương. b5. Chứng minh lịch sử nước ta gần 5000 năm. (Đâu là vấn đề cháu đề cập rất ít trong tiểu luận vì nó đã vượt quá xa khả năng của cháu – ngay chỉ trong khâu định hướng. Nói cách khác là cháu tự thấy không đủ khả năng để dù là chỉ tìm ra định hướng khả thi cho vấn đề này. Tuy nhiên cháu vẫn đưa vào để người đọc khác có thể thấy điểm kết thúc, cái đích cuối cùng của định hướng). Thực sự cháu thấy ái ngại vì bác Thiên Sứ đã phải mất nhiều thời gian viết về quá nhiều điểm còn tồn tại trong bài. Thực ra với khoảng thời gian 2 ngày (kể từ khi tính toán lý giải Hà đồ đến khi hoàn thành tiểu luận với nhiều vấn đề mới phát sinh) là rất ngắn để có thể chứng minh một cách thuyết phục những vấn đề phức tạp nêu trên. Mặc dù trong tiểu luận vẫn ghi là "chứng minh" nhưng cháu cũng đoán trước được các kết quả tích cực mà tiểu luận có thể đạt được. - Thứ nhất: Một vài kiến giải về Hà đồ và Kinh dịch mang tính chất học thuật - Thứ hai: Có thể có một số quan điểm tốt theo hướng Nhật tâm và Kinh dịch là tinh hoa của thời Hùng vương. - Thứ ba (đây cũng là điều cháu mong muốn nhất): chỉ ra được một cách tiếp cận khả thi để có thể làm rõ các vấn đề đặt ra. Nói cách khác là một hướng đi mà nếu có đầy đủ tư liệu thì nó sẽ giúp chứng minh được các vấn đề liên quan đặt ra. Cháu đã nghĩ trước một số trường hợp có thể xảy ra: Bác Thiên sứ hoặc ai đó không đồng tình cho rằng: - Quan niệm Nhật tâm có từ thời Hùng vương là điều không thể có. - Địa tâm mới là nền tảng Kinh dịch. Loại bỏ liên hệ giữa quan niệm nhật tâm với Kinh dịch. Cũng do do lường trước được tính phức tạp của vấn đề và mục tiêu có thể đạt được nên cháu rất hạn mở rộng "động" đến các vấn đề ngoài học thuật đồng thời hạn chế chế trích các bài viết khác hoặc sử dụng các quan điểm của người khác vào tiểu luận của mình (mặc dù biết là làm điều đó sẽ có thể làm cho tiểu luận chặt chẽ hơn). Có thể nói là tự biết bài của mình còn chưa thuyết phục nhưng cháu cũng vẫn cứ tự tin là đi đúng hướng. Ý nghĩ này có lẽ hơi dân tộc chủ nghĩa quá chăng :mellow:. Trở lại mong muốn có được một cách tiếp cận khả thi. Cháu đã muốn nó được phản biện bởi. Nếu hướng tiếp cận này được đánh giả là khả thi thì nhiều bạn trẻ theo tây học (vốn ít có điều kiện tìm hiểu sâu văn hóa phương đông) có thể dễ dàng hơn khi tiếp cận vấn đề. Cháu hy vọng khi đọc tiểu luận của cháu và những ý kiến góp ý của bác Thiên Sứ thì các bạn trẻ sẽ quan tâm hơn đến các vấn đề được nêu ra. Họ sẽ tránh được nhiều sai lầm và sẽ có các ý kiến tôt, các quan điểm mới đặc sắc. Đây cũng là lý do cháu viết bài theo một khung có thể gọi là former, tuy nhiên lời văn và diễn đạt trong một số phần cháu vẫn chọn cách viết đặt câu hỏi và diễn giải tuần tự cách nghĩ, cách đặt vấn đề và suy luận của cháu. Nếu chỉ để bác Thiên Sứ phản biện thì thật sự không cần thiết phải diễn giải như vậy. Theo cách nghĩ của cháu là không ai là người ngoài cuộc cả. Bất kể hiểu biết nhiều hay ít về văn hóa phương đông, chỉ cần có tâm mọi người đều có thể tìm ra một cách đóng góp thiết thực cho việc tìm tìm lại, khôi phục một giai đoạn hào hùng của dân tộc đã bị thời gian và lịch sử vùi lấp. Có thể chỉ đơn giản là động viên và ủng hộ thì cũng đã rất tốt rồi. Cháu chúc bác Thiên Sứ gặp nhiều thuận lợi và thành công. Bác luôn có 1 phiếu ủng hộ từ cháu :P Nhật Tâm
  23. Bác Thiên Sứ thân mến. Khi viết tiểu luận này cháu cũng đã biết rằng ra rằng: - Kinh Dich là một tác phẩm đồ sộ. Có thể coi nó là tác phẩm có một không hai của văn minh Đông phương. Không thể phủ nhận công lao to lớn của đất nước Trung hoa đã dày công duy trì và phát triển Kinh Dịch để có tầm vóc như hiện nay. Tuy nhiên hiện nay vấn đề nguồn gốc suất xứ của Kinh Dịch vẫn chưa được khẳng định. Nên đây cũng là một ẩn số cho những người nghiên cứu và những người quan tâm đến Kinh Dịch. - Kinh dịch không chỉ đơn giản là học thuật mà còn liên quan đến nhiều mảng khác: Lịch sử, Văn Hóa, Triết học, Tín ngưỡng.v.v. Thực ra khi viết tiểu luận này cháu hy vọng có thể đạt được một những điều sau: - Đóng góp chút ít kiến giải về Kinh dịch (liên quan đến học thuật) - Bày tỏ quan điểm riêng về nguồn gốc Kinh dịch. - Đưa ra cách tiếp cận mới để tiếp cận nguồn gốc của Kinh dich. Chính vì mục đích trên mà cháu đã nhờ bác Thiên Sứ phản biện để loại bỏ những sai lầm do hiểu biết còn hạn chế. Khi đưa ra quan điểm của mình cháu luôn tâm niệm là phải tôn trọng sự thật. Nếu trong quá trình đào sâu suy nghĩ, may mắn chứng minh được Kinh Dịch đúng là có xuất phát điểm Trung Hoa thì cũng rất vui mừng vì làm sáng tỏ được vấn đề. Cháu sẵn sàng phản biện lại những quan điểm sai lầm của mình đã đưa ra trước đó. Tất nhiên là trên tinh thần tôn trọng sự thật và vì học thuật. Dựa theo ý tứ của bác Thiên Sứ thì cháu cũng hiểu ra là khó có thể có một không gian thuần túy học thuật vào thời điểm hiện nay. Có lẽ ban đều cháu cũng đã nhận thức thiếu ít nhất 2 lĩnh vực rất quan trọng và ảnh hưởng rất nhiều đến không chỉ Kinh Dich mà còn ảnh hưởng tới nhiều lĩnh vực khác nữa. Cháu sẽ vẫn quan tâm đến Kinh Dich vì học thuật và cháu nghĩ rằng sự thật vẫn luôn sự thật giống như câu nói nổi tiếng của Copernic "dù sao trái đất vẫn quay". Một lần nữa cháu cám ơn bác Thiên Sứ đã chỉ bảo. Xin tiếp tục được ghi nhận những phản biện của bác. Chúc bác vạn sự như ý. Nhật Tâm