Tường Vy
Thành viên diễn đàn-
Số nội dung
26 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by Tường Vy
-
32 TƯỚNG TỐT CỦA ĐỨC PHẬT KD --- o0o--- Đức Phật, một con người toàn diện, không chỉ về mặt trí tuệ và đức hạnh mà còn về mặt hình thể. Các kinh điển Nam truyền cũng như Bắc truyền đều có nói đến 32 tướng tốt của đức Phật một cách đầy đủ, những tướng này được phát hiện lúc mới đản sanh, do các vị tướng sư xác định. Sau này đức Phật cũng xác nhận có đủ 32 tướng qua các kinh lưu truyền. Theo quan điểm tướng pháp Ấn Độ cổ, ai có đủ 32 tướng tốt thì sẽ làm vua thống lãnh thiên hạ, nếu xuất gia thì sẽ thành Phật. Sự kiện Thái tử Tất Đạt Đa có đủ 32 tướng đã báo hiệu Ngài không phải là một người thường. Điều đó trở thành hiện thực khi Ngài xuất gia tìm đạo và đã thành tựu được quả vị Phật Đà. I. Quan niệm về tướng tốt: 1) Tướng tốt theo quan điểm tướng pháp Á Đông không phải là quan niệm về cái đẹp thẩm mỹ, mà chính là cái đẹp của đức hạnh biểu hiện qua hình thể. Đời sống sung túc, tốt đẹp của một người được biểu hiện qua hình tướng đắc cách hay không, những tướng tốt này lại có nguồn gốc sâu xa liên quan đến phúc đức của ông bà cha mẹ hay của chính mình trong quá khứ. Điều này được đúc kết dựa theo kinh nghiệm và quan sát thực tế mà rút ra được những quy luật về phương pháp. 2) Đối với Phật giáo, thân tướng đắc cách tốt đẹp, biểu hiện đời sống tốt đẹp, qua lý thuyết chánh báo đi đôi với y báo. Tất cả những điều kiện tốt đẹp đó đều do công đức tích lũy trong quá khứ, theo quy luật nhân quả: gieo nhân nào gặt quả nấy. Đức Phật có đủ 32 tướng tốt có nghĩa là Ngài đã tích lũy vô lượng công đức trong nhiều kiếp, này thừa hướng kết quả của những công đức đó mà thôi. 3) Quan niệm về tướng tốt và xấu như thế nào, theo tiêu chuẩn nào, thì thuộc vào kinh nghiệm thực tế và truyền thống văn hóa của mỗi dân tộc, của mỗi đất nước. Có những tướng theo quan điểm Ấn Độ là tốt nhưng đối với chúng ta thì xấu hoặc kì dị. Do đó cần phải rộng lượng khi nhận định về tướng pháp. II. Những tướng tốt của đức Phật: A/ Ba mươi hai tướng tốt của đức Phật được đề cập, khá nhiều trong kinh, trong Nam tạng cũng như Bắc tạng như: kinh Sơ Đại Bổn Duyên (Trường A Hàm), kinh Tâm Thập Nhị Tướng (Trung A Hàm), kinh Đại Bổn (Trường Bộ), kinh Tướng (Trường Bộ), kinh Tập, kinh Tiểu Bộ... và một số rải rác trong kinh tạng Đại Thừa... B/ Tham khảo 32 tướng tốt của đức Phật qua các kinh trên, có khá nhiều sự sai khác, có những tướng kinh này có, kinh kia không và ngược lại. Có một số tướng quan điểm khác nhau. Như kinh Sơ Đại Bổn Duyên có tướng chữ "vạn" ở ngực nhưng các kinh khác không có. Kinh Tướng (Trường Bộ) không có tướng nhục kế như hầu hết các kinh khác. Mặt khác, cùng là kinh Nam truyền vẫn có những quan điểm khác nhau, Bắc truyền cũng vậy. Có những tướng sai biệt lệch lạc khá xa như tướng 18 trong Sơ Đại Bổn Duyên là tướng 7 lỗ trong người đều đầy đặn bằng phẳng. Trong kinh Tướng thì nói 7 chỗ trong người, tướng thứ 3 trong Sơ Đại Bổn Duyên nói có màng lưới mỏng giữa kẻ chân tay như chân ngỗng chúa. Nhưng kinh Tam Thập Nhị Tướng thì cho là như chim nhạn. Tạng Pàli kinh Lakkhana thì nói lòng bàn tay bàn chân có chỉ giăng như lưới... Từ những sai biệt đó chúng ta khó mà xác định kinh nào là nói đúng và đủ 32 tướng, nếu ngây thơ tin vào 32 tướng của riêng một kinh nào thì ta khó mà hình dung nổi hình dáng của đức Phật như thế nào. C/ Mặc dù gặp những khó khăn như trên, nhưng qua những tướng mà nhiều kinh đều nói giống nhau, qua thực tế hình tướng đức Phật đang lưu truyền, chúng ta có thể rút ra được những tướng tốt của đức Phật như sau: 1. Lòng bàn chân bằng phẳng. 2. Dưới lòng bàn chân có hình bánh xe ngàn căm. 3. Gót chân đầy đặn. 4. Ngón tay, ngón chân thon dài. 5. Tay chân mềm mại. 6. Đứng thẳng tay dài đến gối. 7. Lông màu xanh biếc và xoáy tròn về bên phải. 8. Da mịn màng trơn láng bụi không bám. 9. Da màu vàng như màu vàng y. 10. Tướng mã âm tàng. 11. Bụng thon. 12. Ngực nở nang. 13. thân hình cao lớn. 14. Có đủ 40 cái răng. 15. Răng bằng và đều khít. 16. Răng trắng và bóng. 17. Tiếng nói trong trẻo vang xa. 18. Ngực có chữ "vạn". 19. Vai ngang và đều đặn. 20. Lưỡi dài và rộng. 21. Mắt xanh và đẹp. 22. Có một sợi lông trắng giữa 2 mày xoáy tròn xoay về bên phải. 23. Đỉnh đầu có nhục kế. Một số tướng tốt ở trên phù hợp với quan điểm tướng tốt của Trung Hoa và Việt Nam. (Một số tướng tốt còn lại có phần sai biệt giữa các kinh, chúng tôi không dẫn ra đây). III. Ý nghĩa biểu tượng của một số tướng tốt: Khảo sát về 32 tướng tốt của một bậc đại nhân theo quan điểm Ấn Độ, có khá nhiều loại tướng pháp mang ý nghĩa biểu tượng, có ý nghĩa tướng pháp đích thực. Chính đức Phật cũng sử dụng ý niệm và niềm tin vào tướng tốt của mọi người để truyền đạt lý tưởng "Diệt trừ điều ác, tăng trưởng điều thiện". Các kinh Lakkhana Sutra, kinh Tam Thập Nhị Tướng, đều có lý giải nguyên nhân, do có công đức gì mà được tướng tốt đó, giảng giải khá chi tiết, ví dụ: 1) Tướng nhục kế (Usnissa): Tướng này là một cục thịt nổi trên đỉnh đầu, do công đức hiếu kính cha mẹ, kính thuận sư trưởng và các bậc trưởng thượng mà được thành tựu. Quan điểm của Đại thừa thì cho rằng tướng này biểu thị cho trí tuệ của Phật, từ tướng nhục kế này còn triển khai thêm tướng phụ là Vô kiến đảnh tướng, là tướng nằm trên đỉnh đầu nhưng không thể thấy được bằng mắt thường, chỉ có tuệ nhãn mới thấy. Theo diễn giải của các nhà Phật học Đại thừa thì dưới cái nhìn của tuệ nhãn, tướng này có hình tướng bánh xa ngàn căm, có nơi nói như hoa sen ngàn cánh, biểu thị cho trí tuệ, qua tướng này có thể phân biệt được công đức tu hành nhiều hay ít. 2) Tướng chữ "vạn" (Svastika): Trong các kinh tạng Pàli không thấy nói tướng chữ "vạn", các bộ A Hàm chỉ có kinh Sơ Đại Bổn Duyên nói đến, có thể tướng này được thêm vào về sau, cho nên không nói do tạo công đức gì mà có. Có 2 quan điểm giải thích về tướng chữ "vạn" như sau: 1. Chữ "vạn" có nghĩa là Kiết tường, là một loại chữ linh thiêng của Ấn Độ, chữ linh này có khả năng đem đến mọi điều tốt lành may mắn (Từ điển PH, ĐTC) 2. Chữ "vạn" biểu thị công đức vô lượng, từ bi vô lượng và trí tuệ vô lượng của Phật. Đó là biểu phù hiệu chứ không phải chữ viết. (TĐ PHVN, TMC). Có lẽ lúc đầu nó là một linh tự, về sau nghĩa gốc của nó biến đổi thành ý nghĩa biểu tượng cho sự viên mãn tâm, trí và đức. Hai tướng này đã trở thành biểu tượng gắn liền với các tượng Phật đang thờ hiện nay, đã được nhân dân hóa. Ngoài hai tướng trên, một số kinh còn cho rằng đức Phật còn có tướng hào quang tỏa ra chung quanh thân thể khoảng một tầm. Tướng này không thấy nói tới trong các kinh mà chúng tôi đã trích dẫn, mà đề cập trong Luận tạng Pàli Katha-Vatthu. 3) Tướng lưỡi rộng dài (Pahutaiivaho hoti) được diễn giải là lưỡi của đức Phật có thể liếm đụng tai được... Tướng này do công đức luôn nói lời chân thật diệu dàng, không thóa mạ người... mà có tướng lưỡi rộng dài. Trong kinh Di Đà có nói "Chư Phật mười phương le lưỡi rộng dài che cả tam thiên Đại Thiên thế giới mà nói lời thành thật rằng..." Do đó tướng lưỡi rộng dài biểu tượng cho tính ngay thật nói năng đúng mức, không xảo trá. Trên trình bày một số tướng mang tính biểu tượng tiêu biểu, trong phạm vi bài này không thể đề cập nhiều hơn. Tuy nhiên cũng đủ cho ta thấy ngoài các nghĩa thông thường, các tướng tốt còn có ý nghĩa sâu xa hơn và cao đẹp hơn. IV. Ảnh hưởng và vẻ đẹp hình thể của đức Phật: Nếu chúng ta bỏ qua một bên tướng tốt có tính cách bất định do các bộ phái ghi nhớ không chính xác, hoặc thêm bớt tùy tiện, bỏ qua một bên các tướng tốt có tính chất biểu tượng tôn giáo và sự tôn sùng của các đệ tử, ta có thể hình dung đức Phật là một đấng nam nhi cao ráo đẹp đẽ, cân đối, oai nghiêm thay đổi thái độ, đón tiếp Ngài nồng hậu, khi Ngài lên tiếng thì mọi người đều bị chinh phục hoàn toàn. Phải nói rằng hình tướng đẹp đẽ của Ngài đã đóng góp rất nhiều trên con đường hoằng hóa. Thanh niêm Vakkali con của một vị trưởng giả, đến nghe Phật thuyết pháp, nhìn thấy thân tướng đẹp đẽ của Ngài, Vakkali không nghe gì cả và chỉ chiêm ngưỡng thân tướng của Phật mà thôi, sau đó xin xuất gia để được gần Phật. Có lần đức Phật buộc Vakkali phải ở cách xa tịnh thất của Ngài, Vakkali buồn rầu, thất vọng và muốn tự tử. Nhân đó đức Phật giảng giải về sự vô thường của xác thân tứ đại, nhờ đó Vakkali giác ngộ. Quần chúng cũng vậy, họ ái mộ và đi theo Ngài không hẳn nhờ vào tài thuyết pháp của Ngài, mà còn nhờ vào thân tướng và phong cách đẹp đẽ siêu tuyệt của Ngài nữa. V. Kết luận: 32 tướng tốt của đức Phật được các kinh tạng Nam truyền và Bắc truyền nói đến rất phong phú. Điều đó khẳng định nét đặc thù trong đức tánh và đức tướng của đức Phật và cũng đem lại niềm hứng khởi cho các nghệ nhân cũng như các đệ tử về sau. Càng ngày hình ảnh của đức Phật được tái tạo, được tô điểm thêm do lòng kính trọng vô biên của đệ tử, hình ảnh của Ngài dần dần được siêu nhiên hóa. Thời kỳ Phật giáo Đại thừa phát triển, thân tướng của Ngài trở thành đối tượng triết học, hay trở thành biểu tượng của lý tưởng qua thuyết Tam thân Phật: Pháp thân - Báo thân - Ứng thân. Dù cho thân tướng của Ngài được quan niệm như một người thường hay bậc thánh siêu nhiên, thì sự kính ngưỡng, lòng thành tín của con người đối với Ngài không thay đổi. Bởi lẽ ai cũng thấy được rằng giá trị của đức Phật không phải ở thân tướng mà ở sự giải thoát mà giáo lý của Ngài đem lại. Con đường dẫn đến chân lý đã được mở ra, niềm hạnh phúc, sự giải thoát sẽ đến với những ai nỗ lực vươn tới, qua thực nghiệm chứ không phải qua sắc tướng như kinh Kim Cang đã nói: Nhược dĩ sắc kiến ngã, dĩ âm thanh cầu ngã, thị nhơn hành tà đạo, bất năng kiến Như Lai. Sưu tầm
-
Vợ chết vì quan tài của chồng Lưu Ly Theo Một phụ nữ Brazil đã chết trên đường đưa tang chồng do gặp phải một tai nạn giao thông hi hữu, khiến chiếc quan tài đổ vào đầu bà. (Ảnh minh họa) Bà Marciana Silva Barcelos và gia đình đang trên đường tới một nghĩa địa ở thị trấn Alvorada, thuộc bang miền nam Rio Grande do Sul, để tiễn đưa người chồng quá cố Josi Silveira Coimbra. Cảnh sát địa phương cho hay, bà Marciana Silva Barcelos, 67 tuổi, ngồi ở ghế trước của xe tang khi tai nạn xảy ra hôm thứ 2, khiến bà chết ngay tại chỗ. Xe tang đã bị một chiếc ôtô hiệu Alfa Romeo đâm phải từ phía sau, khiến quan tài đổ vào đầu bà Barcelos. Tài xế trên chiếc Alfa Romeo và con trai của bà Barcelos sau đó đã được đưa tới bệnh viện do bị thương nhẹ. Chồng bà Barcelos, ông Josi Silveira Coimbra, 76 tuổi, qua đời hôm chủ nhật do bị đau tim trong khi đang khiêu vũ tại một bữa tiệc.
-
Kỳ I: Tôi đi tìm bùa mê thuốc lú Hoàng Anh Nguồn: www.vietnamnet.vn - Qua nhiều lần hẹn không thành, cuối cùng, may mắn khi tôi tình cờ gặp cô gái Cơ Tu trong đêm hội ở nhà Gươl làng Tà Vàng. Cô hỏi tại sao tôi buồn giống như kẻ thất tình và có cần cô giúp đỡ, bởi như lời cô tiết lộ là quen một người có ngải …yêu. Tôi gật đầu nhờ cậy đến sự mai mối để được tận mắt nhìn thấy thứ bùa mê thuốc lú, một loại cây được gọi là ngải thương, ngải nhớ nơi miền rừng biên ải này... Hé lộ bí mật về bùa mê thuốc lú Ngay trong đêm hội ở nhà Gươl làng Tà Vàng tôi đã chuếnh choáng men rượu Tà Đing. Bên góc khuất của nhà Gươl khi mọi người vẫn còn say sưa bên ché rượu, Bhling Thị Bới trong bộ váy thổ cẩm bỏ vòng múa đến bên tôi đưa mời ống rượu Tà Đing và ép phải uống hết cho bằng được. Không biết có phải vì bộ mặt đưa đám của tôi hay sự nhạy cảm của cô gái vùng cao mà cô biết tôi buồn. Trong câu chuyện tình với những tình tiết đầy nước mắt (tôi cố nghĩ ra) để kể lại cho cô nghe trong đêm hội miền rừng, cô cảm nhận ở gã đàn ông lang bạt từ miền xuôi lên là tôi có một mối tình si đang chôn chặt. Cuối cùng Bhling Thị Bới đã gật đầu giúp đưa tôi đi tìm loại bùa mê thuốc lú giữa vùng đại ngàn Trường Sơn đang bắt đầu chuyển vào mùa mưa… Hội làng Tà Vàng, xã A Tiêng, huyện Tây Giang. Ảnh: Hoàng Anh. Làng Tà Vàng, xã vùng cao A Tiêng, huyện Tây Giang hiện ra trước mắt trong làn sương sớm dày đặc, chìm khuất giữa đại ngàn. Đây là một trong số ít những ngôi làng cổ còn sót lại, vẫn giữ nét hoang sơ một làng cổ thuần chất Cơ Tu nơi vùng biên ải. Đứng trên đỉnh Agrồng, những nóc nhà dài truyền thống lọt thỏm giữa thung sâu và chạy dọc theo con suối Ma Lơi ngầu đục vì công cuộc khai phá sơn lâm để xây dựng thị trấn miền rừng nơi vùng biên giới này cũng không thể nào xoá đi cái hoang sơ vốn có bao đời nay ở làng cổ này. Dù chỉ cách thị trấn Tơ Viêng đang xây dựng độ chừng hơn 1 giờ leo núi, sự biệt lập, hoang vu của làng với thế giới bên ngoài vẫn hiển hiện trên mỗi bước chân qua lối đường mòn như sợi chỉ vắt qua sườn núi và thung sâu. Làng Tà Vàng đang mở tiệc trước nhà Gươl với tiếng cồng chiêng rộn rã và vũ điệu tung tung da dá của những đôi nam nữ với những váy dài thổ cẩm sặc sỡ cùng hòa nhịp dập dồn theo âm thanh cồng chiêng phát ra từ đôi tay rắn rỏi của trai làng. Bới cầm ống rượu mời tôi và thầm thì vào tai bảo nhỏ: Uống cho say đi sẽ quên hết nỗi buồn. Nếu chưa hết buồn em sẽ giúp… Đúng như lời đã hứa, sau những ống rượu Tà Đing ngập tràn mà như lời bà con vùng cao bảo: Hãy uống cho dân tin. Trong chếnh choáng hơi men, cuối cùng tôi được Bới đưa đến nhà bà Ria Thị Điệp (người Cơ Tu, thôn Tà Vàng), là người đang bí mật nuôi trồng cây ngải yêu trong rừng có thể giúp tôi- gã có bộ mặt thất tình tìm lại người yêu… Vào rừng tìm... ngải Bước qua chiếc cửa hẹp, căn nhà của bà Điệp hiện ra với những cảnh quen thuộc của nếp sống bà con Cơ Tu vùng cao. Một xó bếp đen xỉn, vài thứ đồ đạc đi rừng nằm chen lẫn trong đống gỗ củi. Bà Điệp ngừng tay gọt sắn, ngơ ngác nhìn khách đến. Có lẽ đây là lần đầu tiên trong đời bà nhìn thấy một thằng đàn ông lôi thôi lếch thếch như tôi được một cô gái trong làng mà bà tin cẩn đưa đến. Bà Ria Thị Điệp - người lưu giữ bùa yêu! Ảnh: Hoàng Anh. Phải mất một lúc lâu, bà mới giương cặp mắt dò xét nhìn như thôi miên vào tôi. Cái cảm giác lành lạnh chạy dọc sống lưng khi tôi nhìn thẳng vào mặt bà. Ánh mắt lèm nhèm của một bà già vẫn không thôi nhìn thẳng vào tôi như dò xét. Tôi định thần với gương mặt của kẻ thất tình cố nhìn bà với ánh mắt van nài cầu xin giúp đỡ. Phải mất hơn 15 phút không một lời chào hỏi của người đàn bà già nua, đen đúa, có chiếc răng vẩu hiếm muộn chìa ra khỏi bờ môi trông thật kỳ dị. Mái tóc bà ngắn củn, bạc thếch, bồng bềnh như sương giữa đại ngàn. Chỉ có đôi mắt đen nhánh nhưng u ám, với cái nhìn sâu thẳm khó diễn tả. Lên đường vào rừng tìm bùa yêu. Ảnh: Hoàng Anh. Tôi liếc mắt quan sát đôi bàn tay thô ráp, sần sùi cong vẹo với nhiều vết cứa của bà chậm chạp đưa đi đưa lại trong điệu nhịp tẻ buồn của phụ nữ vùng cao lo chuyện miếng ăn hàng ngày ở nơi xó bếp. Tôi đã kịp hình dung những nhọc nhằn về cuộc sống mưu sinh giữa rừng già. Không chịu được sự im lặng kéo dài giữa căn nhà u tối của bà Điệp, Bhling Thị Bới bắt đầu lên tiếng chào hỏi bà và “phiên dịch” bằng giọng tiếng Kinh chuẩn giới thiệu với tôi về bà Điệp. Bà năm nay đã 65 mùa rẫy, đang sống với người con gái và là người lặng lẽ, ít tham gia vào những sinh hoạt chung của làng. Bà sống gần như khép kín không hề quan hệ với bên ngoài. Công việc lặng thầm của bà là nơi xó bếp và con đường mỗi ngày từ nhà lên rẫy và ngược lại… Để xua tan cái nhìn nghi hoặc của bà Điệp, Bhling Thị Bới giải thích về sự có mặt của tôi. Nghe xong, bà Điệp như sực nhớ điều gì, bà đứng phắt dậy, cảnh giác nhìn quanh nhà như sợ có kẻ nào đó theo dõi. Nhìn cử chỉ của bà, tôi đoán nơi này có lẽ không thích hợp để hỏi han chuyện bùa ngải. Bới cũng hiểu chuyện nên gật đầu ra vẻ đồng tình. Khi tôi chưa kịp xử trí như thế nào, bà Điệp đã vớ ngay chiếc rựa và gậy lồ ô nơi xó bếp phăng phăng đi về suối Ma Lơi. Theo “ám hiệu” của Bhling Thị Bới, tôi cùng Bới bước vội theo bà. Ra đến bờ suối sau nhà, Bới “đặt vấn đề” với bà rằng tôi là người con trai từ dưới xuôi lên, đang gặp trục trặc trong chuyện tình duyên muốn nhờ đến phép ngải yêu của bà để hàn gắn. Bà Điệp nghiêm nghị nói với Bới bằng một tràn tiếng Cơ Tu mà như lời phiên dịch lại của Bới cho tôi nghe bằng tiếng Kinh rằng: “Tao có trồng trong rừng, lâu rồi mới có người hỏi đến, để tao đi lấy”. Bà Điệp một hồi lưỡng lự nhưng cuối cùng cũng gật đầu khi chúng tôi xin đi cùng bà vào rừng tìm ngải…
-
Kỳ III: Ly kỳ chuyện yêu và bùa ngải Hoàng Anh Nguồn: www.vietnamnet.vn - Chuyện ly kỳ về bùa ngải của cộng đồng bà con dân tộc sinh sống giữa đại ngàn trường sơn đến nay vẫn được truyền tụng qua những câu chuyện kể đầy huyền hoặc. Mỗi câu chuyện được kể là lát cắt trong đời sống tâm linh của những con người khao khát kết nối sợi dây giữa cõi người trần thế với thế giới thần linh. Người đàn bà 2 chồng và mối tình với chàng 20 Gần một tuần rong ruổi qua những cung rừng miền tây đất Quảng, đến từng bản làng của người Xê Đăng, Tà Riềng, Cơ Tu …sinh sống dọc theo dãy trường sơn sát vùng biên giới Việt-Lào thuộc địa bàn hai huyện Nam Giang và Tây Giang, Quảng Nam, tôi đã nghe kể nhiều câu chuyện miền rừng về những chuyện bùa ngải, phép thuật của bà con dân tộc vùng cao… Ông Bhling Eng (xã Đội trưởng, xã Atiêng, Tây Giang) mời tôi về nhà và đã “chiêu đãi” một đêm chuyện ma thuật của bùa ngãi mà chính người trong gia đình ông kể lại. Bà A Lăng Hút, năm nay đã 90 tuổi, chị họ của ông Eng bảo với tôi rằng: “Làng này có nhiều người biết ngải lắm, nhưng không ai nói ra thôi. Ngải dùng để yêu, không hại người...”. Ông Bhling Eng và những cầu chuyện kể về bùa ngải. Ảnh: Hoàng Anh. Lần theo câu chuyện của bà Hút, tôi bắt đầu gợi chuyện. Một chút suy nghĩ như cố lục tìm trong trí nhớ già nua tuổi tác, bà Hút bắt đầu kể chuyện đời mình. Bà bảo rằng nhờ bùa ngải nên bà mới có người thương và có tổng cộng 3 đời chồng với 10 đứa con, 14 đứa cháu nội ngoại. Bà bắt người chồng đầu tiên năm 14 tuổi, sau 6 năm chung sống, người chồng thứ nhất qua đời khi bà mới 20 tuổi. Sau hai năm sống trong cảnh đơn chăn gối chiếc, bà Hút đã “để ý” một người cũng cùng cảnh ngộ đã chết vợ nhưng “ông ấy” có vẻ “lơ đễnh” lắm. Sống trong cảnh đơn chiếc giữa núi rừng, bà Hút thèm hơi ấm của đàn ông trong ngôi nhà có bếp lửa, mỗi sáng dắt nhau lên rẫy, tối về cùng chung chăn gối bên bếp lửa. Nghĩ nhiều đến người đàn ông cùng cảnh ngộ, nhưng vẫn không được đáp trả, bà phải cậy nhờ đến cây ngải của già làng bên cạnh. Chỉ một lần dính ngải của bà Hút, ông ấy đã phải lòng rồi về kết đôi với bà. Nhưng trớ trêu, hai người chỉ chung sống được mươi năm, rồi ông ấy lại bỏ bà mà "về với Yàng", để lại cho bà 3 mụn con. Lúc đó bà Hút gần ở tuổi 35, hương sắc cũng đã héo tàn. Nhưng kỳ lạ thay, bà Hút cũng chỉ đơn chiếc trong vài năm sau khi mãn tang chồng. Trước mùa phát rẫy năm bà Hút tròn 35 tuổi, người làng lại thấy một anh thanh niên chưa vợ, tuổi chỉ hai mươi, dáng người cao ráo, mạnh mẽ lại tình nguyện về làng chung sống với bà. Người làng đồn rằng, bà Hút lại dùng ngải để bắt chồng. Cây bùa ngải? Ảnh: Hoàng Anh. Nghe chuyện đến đây, ông Eng khó lòng giấu diếm mà tiết lộ rằng, mẹ ông cũng từng có ngải yêu. Theo tập quán, ngải yêu chỉ truyền cho nữ. Nhà ông không có con gái nên không được mẹ ông truyền lại cho ai. Một câu chuyện khác cũng được rất nhiều người trong vùng biết. Ông Pơlong Zéc, vừa già lại xấu, còn nuôi mấy mụn con, goá vợ đã cưới được cô gái mới 18 tuổi tên Hốih Nhéet về làm vợ. Nghe nói, mới đầu cô này “lắc đầu không chịu” nhưng sau đó, không biết bằng cách nào Hốih Nhéet vẫn tìm thấy hạnh phúc bên người chồng lớn gấp đôi tuổi của mình. Chuyện bùa ngải yêu được kể trong đêm miền rừng với bao huyền hoặc, nhưng khi tôi hỏi người kể có biết và thấy ngải yêu chưa thì tất cả đều lắc đầu bảo không biết. Người biết ngải chỉ có đàn bà con gái, còn đàn ông thì… không. Vén bức màn bí mật bùa ngải Theo thạc sỹ dân tộc học Nguyễn Tri Hùng, Phó Ban dân tộc - miền núi tỉnh Quảng Nam, người có hơn 20 năm nghiên cứu các dân tộc tại vùng miền núi Quảng Nam khẳng định rằng: Chuyện ngải yêu là có thật. Lâu nay đồng bào Cơ Tu, Xê Đăng, Bhnoong… còn có nhiều ngải với nhiều công dụng khác nhau. Sống giữa rừng núi thâm sâu, chuyện bùa ngải cứ như là phép màu, là sức mạnh của đồng bào. Theo ông ALăng Sơn - Phó GĐ Trung tâm văn hoá Tây Giang: "Chuyện bùa ngải suy cho cùng cũng là nét văn hoá đặc trưng của đồng bào miền núi". Ảnh: Hoàng Anh. Ngoài yếu tố tâm linh, nhiều loại bùa ngải còn có thể giải thích theo cách của khoa học. Nhiều phân tích khoa học chứng minh rằng, những cây bùa ngải mà người đồng bào thường dùng là những cây dược liệu sống trong rừng. Các cây này được bà con sử dụng, bào chế theo phương pháp bí truyền. Vì không giải thích được bằng lý thuyết khoa học, đồng bào hiển nhiên xem đó là những cây thuốc của trời, của thần linh và của riêng họ. Giống như cây thuốc giấu của đồng bào Xê Đăng trên đỉnh Ngok Linh, mãi đến sau này cán bộ ngành y tế của Khu 5 nghiên cứu mới phát hiện là cây sâm Ngok Linh hay còn gọi là cây sâm K5 có công dụng chữa bách bệnh. Có nhiều loại ngải khác nhau, nhưng chung qui lại có hai tác dụng là ngải dùng để cứu người hoặc hại người. Riêng chuyện bùa yêu, theo giải thích của ông Hùng, có lẽ loài cây Ameer cùng loại với cây gừng, cây nghệ này hẳn đã có chất kích thích tình dục. Có khi người ta say đắm nhau bởi mùi vị, hương liệu đã được kích thích. Hay chỉ là yếu tố tâm lý. “Nhưng đó chỉ là chất xúc tác ban đầu của hai người khác giới, còn về sau, có lẽ cuộc sống chung đụng hôn nhân gia đình, sợi dây “yêu” đã kết nối họ lại với nhau chứ chẳng là chuyện bùa ngải” – ông Hùng giải thích trên cơ sở khoa học về tâm lý. Lễ hội cồng chiêng ở Tây Giang. Ảnh: Hoàng Anh. Chung quanh chuyện bùa ngải, cũng có không ít chuyện rắc rối bởi nhiều người đã lợi dụng yếu tố tâm linh, ma thuật để trục lợi. Chuyện gần đây nhất, có một ông thầy cúng ở tận Trà Bồng (Quảng Ngãi), sau khi được người bà con mời ăn đám giỗ ở Tam Trà (Núi Thành), bỗng dưng đồn đại rằng một cán bộ xã Tam Trà là người có ngải khiến nhiều người địa phương khiếp vía rồi tin như thật. Và cũng từ niềm tin này, ông thầy cúng kia đã dở trò trục lợi bằng cách hù dọa rằng, bà con nào muốn thoát được chuyện bỏ ngải, cứ mời thầy về “yểm bùa” là xong. Tất nhiên những chuyện như thế này cơ quan chức năng đã sớm phát hiện và kịp thời ngăn chặn. Và, cũng theo lời ông Hùng, không hiếm những vụ án ly kỳ liên quan đến chuyện bùa ngải đã được ngành chức năng giải quyết. Chỉ tiếc một điều, những loài thảo dược mà bà con sử dụng vào việc bùa ngải từ rất lâu, khoa học có thể phân tích được, nhưng đến nay vẫn chưa có công trình nghiên cứu nào để giải mã, và biết đâu, loại thảo dược trên có giá trị cao vẫn mãi mãi là điều bí mật. Rời làng Tà Vàng, cầm lá ngải thương ngải nhớ, tôi chợt rùng mình khi xuống núi, bởi trong tôi luôn bị ám ảnh bởi cái nhìn u ám và khuôn mặt dị tướng của bà Ria Thị Điệp khi vò nát thứ lá cây mà cả đời bà lặng lẽ giữ gìn như một báu vật, và là thứ vũ khí lợi hại của người phụ nữ vùng cao này.
-
Kỳ II: Gã si tình diện kiến ngải yêu Hoàng Anh Nguồn: www.vietnamnet.vn - Chúng tôi lội bộ hơn 1 giờ xuyên rừng và thêm 3 giờ loanh quanh trong khu rừng già ẩm ướt vắng lạnh, không một bóng người. Cuối cùng tận mắt tận tay được nhìn và sờ vào cây ngải yêu với bao huyền thoại của bà con Cơ Tu được gìn giữ như một “bửu bối” của người phụ nữ giữa đại ngàn… Vào rừng tìm cây thương, cây nhớ Đã từ rất lâu, dễ cũng hơn 20 năm, tôi đã được nghe chuyện kể miền rừng với những tình tiết rùng rợn về tục trả đầu, về chuyện bùa phép thư người cũng như bùa ngải của người miền rừng. Trong trí nhớ non nớt của mình, tôi đã hình dung một thế giới của bao điều bí ẩn. Băng suối, vượt đèo đi tìm bùa yêu! Ảnh: Hoàng Anh. Đã rất nhiều lần tôi lên vùng biên ải Tây Giang, sống ở rừng nhiều ngày, nhưng chưa bao giờ tận mắt nhìn thấy khu rừng hoang vắng chỉ cách thị trấn Tơ Viêng của huyện Tây Giang hơn 1 giờ lội bộ, khi theo chân người đàn bà kỳ bí để diện kiến và nghe kể về thứ cây ngải thương ngải nhớ.Khu rừng mà bà Điệp đưa tôi vào chỉ cách làng khoảng chừng hơn 1 giờ lội bộ qua nhiều con suối. Đây là khu rừng hoang mà theo người đàn bà này bảo là đầy linh thiêng, từ lâu bà bí mật trồng cây ngải yêu. Bà Điệp là người dẫn đường, nhưng đi như gió đẩy về phía trước khiến tôi thỉnh thoảng phải gọi bà ơi ới mới theo kịp bước chân. Vừa đi, bà Điệp vừa lẩm bẩm trong miệng như đang niệm thần chú. Trên gương mặt bà, một cảm giác như là sự tiếc nuối của bà đã đưa tôi vào khu rừng thiêng này. Vừa đi, đôi tay bà chốc chốc lại lấy chiếc rựa gọt nhẵn nhụi đầu gậy lồ ô như để trấn an mình. Dường như, trong suy nghĩ của bà, bà sợ vì đã lỡ cho tôi theo vào khu rừng thiêng, sợ thần linh trách mắng. Hơn 3 giờ loanh quanh trong rừng vạch lá và dây leo để tìm lối đi, cuối cùng tôi cũng được bà Điệp đưa đến một khoảnh rừng rậm. Theo ám hiệu của bà Điệp, tôi hiểu đây là nơi bà cần tìm đến để giúp tôi lấy lá của cây ngải yêu mà bà đã bí mật trồng từ cách đây nhiều chục năm. Cả khu rừng vắng lặng đến rợn người, bốn bề mây núi chập chùng, không một vết chân người. Chỉ có tiếng nước róc rách của một con suối nghe rất gần. Bà Điệp tiến đến một mô đất xum xuê toàn cây dại, trịnh trọng vạch từng ngọn lá như cố tìm vật thiêng được cất giữ nơi đây. Lẩn khuất trong bụi cây là "bùa yêu" huyền thoại. Ảnh: Hoàng Anh. Bà đặt lưỡi rựa và đầu gậy lồ ô vào một cây thấp lè tè có lá màu xanh hình lưỡi kiếm nằm lẩn khuất giữa những cây khác. Bà nói rất khẽ với Bhling Thị Bới bằng tiếng Cơ Tu với vẻ mặt nghiêm nghị. Tôi tròn mắt, há miệng để chờ đợi cô gái Cơ Tu phiên dịch giúp. Như hiểu được ý tôi, Bới kéo tôi ra bên gốc cây thì thầm vào tai tôi dịch lại tiếng kinh rằng: Bà Điệp bảo "đây là cây ngải yêu tao trồng đã lâu lắm rồi. Có mua không thì tao hái”. Vẫn với bộ mặt nhàu nát của kẻ thất tình, tôi bảo với Bới rằng không có nhiều tiền để mua. Vậy xin một lá làm bùa liệu bà Điệp có cho không? Và nếu mua thì bao nhiêu tiền? Như hiểu được ý tôi, Bới nói với bà Điệp rằng tôi là thằng người Kinh nghèo kiết xác, đã bị người yêu lừa phỉnh lấy hết tiền mong bà giúp. Suy nghĩ hồi lâu, bà Điệp gật đầu, nhìn thẳng vào tôi và xổ một tràng tiếng Cơ Tu, mà theo phiên dịch của Bới rằng: Để có được thứ lá cây này, mày phải trả cho tao một con heo hết lớn (khoảng 1 tạ thịt), tao mới cho thứ bùa yêu này. Nhưng thấy mày tội nghiệp, tao giúp mày. Nhưng mày phải trả hai con gà trống để tao cúng thần. Nếu không cúng thì bùa không hiệu nghiệm. Tôi gật đầu đồng ý. Nhưng xin bà giúp chỉ cho cách sử dụng thứ ngải yêu này. Bà Điệp cẩn thận đưa lưỡi rựa ngọt sắc cắt một lá đưa cho tôi. Cầm chiếc lá ngải yêu, tự dưng tôi có cảm giác sờ sợ khi nhìn nét mặt kỳ dị của bà Điệp nhìn thẳng vào mình. Và tuy chưa tin lắm, nhưng trong tôi vẫn có cảm giác lo sợ mơ hồ rằng, biết đâu thứ cây lá bí mật kia và những điều linh thiêng của chuyện bùa ngải có thể vận vào chính mình... Huyền hoặc bùa yêu Theo lời kể của bà Điệp qua phiên dịch của Bới, loại lá cây mà tôi đang cầm trên tay có tên là Ameer, cùng giống họ với loại cây nghệ, cây gừng. Thời con gái, vì chuyện tình duyên lỡ làng của mình, bà bỏ cả một thời gian dài cất công đi tìm loại cây này tận các bản làng của bà con ở bản Kà Lùm bên đất Lào. Rồi sau đó đem về trồng bí mật ở khu rừng này. Phải mất một hồi năn nỉ, bà mới kể cho tôi nghe chuyện tình duyên trắc trở của mình cũng như hiệu nghiệm của thứ lá cây mà bà vừa trao cho tôi để tìm lại người yêu. Bà kể rằng, nhờ loại cây này mà bà đã cưới đuợc chồng. Bà thì thầm: “Lúc đầu hắn (chồng bà) không thương tao. Nhưng tao quá yêu hắn, chờ cho cây mọc phải qua mấy mùa trăng, lợi dụng hắn say, tao đã bứt lá cây này về để trên đầu nằm của hắn. Thế là từ không thương tao, mấy ngày sau nó tìm đến nhà và bảo thương tao. Nhưng phải bí mật vì nếu hắn biết sẽ mất tác dụng và thù ghét mình. Chính nhờ cây ngải này mà tao đã bắt hắn làm chồng…”. Lá bùa yêu! Ảnh: Hoàng Anh. Có được lá ngải yêu trong tay, tôi cố nài nỉ bà Điệp cho tôi xin giống cây này đem về trồng ở vườn nhà. Bà Điệp lắc đầu bảo không được. Bởi, “Dưới mày làm gì còn rừng nữa mà trồng loại cây này…”. Bà Điệp cũng bảo rằng, để trao giống cây này cho người khác phải làm lễ cúng thần. Lễ cúng phải mất nhiều trâu, heo, gà và phải chọn người tin tưởng là phụ nữ mới trao được. Còn đàn ông thì…không bao giờ. Tôi hỏi bà đã chọn được người tin tưởng để trao loại cây ngải yêu này chưa? Bà lắc đầu không trả lời. Nhưng bà đưa cặp mắt già nua đục ngầu nhìn Bới một cách tin tưởng. Tôi hiểu rằng, bà đã chọn lựa rồi, sớm muộn gì bà cũng trao loại cây ngải yêu này cho một cô gái như Bới, khi tuổi bà đã gần đất xa trời về với núi rừng. Bà Điệp dạy cách sử dụng bùa yêu. Ảnh: Hoàng Anh. Trở về đến làng, tôi xin bà cho ở lại một đêm để bà chỉ dạy cho cách làm ngải yêu và nghe bà kể chuyện về thứ bùa phép này. Trong câu chuyện đêm miền rừng, bên bếp lửa trong căn nhà sàn tối om nằm lọt thỏm giữa đại ngàn, bà Điệp kể lại rằng: Ngoài việc dùng lá Ameer để bắt chồng cho riêng mình, sau này bà Điệp còn cho thứ bùa yêu này rất nhiều người. Đó là những người lạ, bà không biết tên, nhưng thỉnh thoảng họ đã trở lại tìm bà, tạ ơn và tặng quà cho bà khi thì bằng tiền, lúc thì tấm thổ cẩm. Chính đứa con gái của bà không mấy nhan sắc, cục mịch nhưng nhờ thứ lá cây kỳ bí này mà bắt được chồng trẻ, khoẻ mạnh. Bà dặn tôi rằng, khi đem lá cây này về, dùng tay chà nát rồi lén bỏ vào túi quần áo, dưới chỗ nằm, hoặc xát lên người mà mình thích, lập tức người đó "phải yêu mình". Bà thì thầm vào tai tôi bằng thứ tiếng Cơ Tu, tôi không hiểu được, cũng may nhờ Bới hỏi lại và phiên dịch giúp lời bà dặn rằng: "Để bùa có linh nghiệm, mỗi năm phải làm một lần để bùa không bị phai và sử dụng thứ bùa ngải này phải hết sức cẩn thận. Nếu dùng không đúng người, ngay người thân của mình dính vào cũng sẽ phát huy tác dụng (cũng yêu mình) thì thật là xằng bậy". Trên đường về, tôi cố định hướng để ghi nhớ chỗ mô đất và khu rừng thâm u đang có cây ngải yêu của bà Điệp trồng từ mấy chục năm trước, nhưng vẫn không tài nào nhớ nổi. Một phần vì đường rừng âm u, mặt khác, bước chân trần của bà Điệp cứ thôi thúc như muốn xóa dấu vết để mãi mãi thứ báu vật của rừng này chỉ dành cho riêng bà. Mặc dù, tôi là người đầu tiên bà đồng ý đưa vào rừng để tìm thứ bùa yêu mãi mãi là điều bí mật đối với thế giới phụ nữ miền rừng. Kỳ III: Ly kỳ chuyện bùa ngải
-
OSHO: "Không Nước - Không Trăng" Trong cuốn sách "Không Nước Không Trăng" của Osho giới thiệu 10 câu chuyện Thiền. Có nhiều ý tưởng khác thường của ông về tôn giáo và tâm linh đã được đề cập đến ở đây. Các độc giả có thể rất lúng túng trước cách hành văn tùy hứng và ẩn dụ của Osho... OSHO KHÔNG NƯỚC - KHÔNG TRĂNG 10 Mẩu Truyện Thiền Cho Đời Sống Thường Nhật Con Người Nguyên bản: No Water - No Moon 10 Zen Teaching Stories for Everyday Life Dịch giả: Thích Nữ Minh Tâm -------------------------------- MỤC LỤC Lời giới thiệu Tiểu sử Osho 1. Không nước không trăng 2. Tranh luận tìm chỗ trọ qua đêm 3. Thế à? 4. Người chết không trả lời 5. Ngón tay Gutei 6. Sao ngươi không về ngủ đi? 7. Ông Phật mũi đen 8. Người cho phải cảm ơn 9. Một triết gia hỏi Phật 10. Nụ cười Ninakawa Lời Giới Thiệu “Thiền không hứa hẹn với bạn một điều gì cả. Thiền chỉ đơn thuần hướng dẫn bạn sống và ý thức ngay phút giây hiện tại và ở đây".Quyển sách này thật quý giá; nó là một kho tàng hiểu biết. Nó có thể trở thành một cuộc đối thoại giữa bạn và Đạo sư Osho. Nó có thể trở thành một hiện tượng hiếm thấy và sống động. Trong niềm an tịnh và sùng kính, Osho đã khai phóng toàn thể nét đẹp, bí mật và cốt tủy Thiền tông. Chắc chắn bạn sẽ tìm thấy niềm tịch nhiên an lạc và bất ngờ pha lẫn thích thú trong "Không Nước Không Trăng". Những cú đấm, la hét hay cười phá lên của các Thiền sư chỉ là những cái mẹo để tấn công, bắt buộc đệ tử phải vận dụng tận cùng khả năng phá vỡ thành trì của Bản Ngã, nhằm đạt tới cửa ngõ Giác Ngộ. Qua những ngôn từ vay mượn hữu hạn của loài người, Osho đã phơi bày trọn vẹn thế giới nội tâm của ông cũng như sự sáng tỏ về ý nghĩa của Tình Yêu, Cuộc Sống, Cái Chết, Thiền Định và Giác Ngộ trên từng nét chữ, câu văn. Bạn chắc chắn sẽ tìm thấy "chính mình" khi soi bóng trên chiếc gương Tư Duy và Im Lặng. Những mẫu đối thoại trong mười câu truyện Thiền dưới đây là những viên đá đầu tiên giúp bạn đặt chân tới vùng đất tâm linh bởi vì chúng đang nói về bạn, ám chỉ tới bạn; các mẩu chuyện chính là "bạn" đấy! Bạn chính là kho tàng đang bị che dấu sau cái vỏ của chính mình. "Thiền là khai mở mắt trí huệ, Thiền là nhìn sâu thẳm vào trong ta". Quyển sách này thật quý giá; nó là một kho tàng. Nó là một món quà của Chân Lý hiện hữu đang kêu gọi bạn quay về quê hương, quay về tổ ấm. Ma Yoga Rabiya Tiểu Sử Osho Hầu như tất cả chúng ta đều sống trong hoài niệm quá khứ và kỳ vọng tương lai. Có thể nói rất ít, rất ít ai chạm đến được cái Phi Thời Gian của Hiện Tại - khoảnh khắc khám phá ra cái Đẹp bất ngờ hay đối diện với sự Hiểm Nguy bất chợt. Rất ít người có thể bước ra khỏi thế giới của Thời Gian và Tri Thức, của Đam Mê và Tranh Đấu, để sống trong thế giới Phi Thời Gian, Phi Không Gian.Trong số những người rất ít đó, chỉ có những Thánh nhân đã đạt được tới cái siêu việt "Không - Thời Gian". Đó là Đức Phật, Tổ Bồ Đề Đạt Ma, Lão Tử v.v... và gần đây nhất là George Gurdjieff, Ramana Maharshi, J. Krishnamurti v.v... Khi đương thời, những bậc vĩ nhân này bị mọi người dèm pha, coi là kỳ dị hay điên khùng, nhưng sau khi họ chết thì được tôn vinh là Thánh nhân hay triết gia vĩ đại. Osho là một trong những người rất hiếm có đã mở ra cánh cửa của Phi Thời Gian của Hiện Tại. Ông tự xưng là "người theo thuyết hiện sinh thực sự" và đã dành trọn cuộc đời mình để khuyến khích những người khác hãy tự khám phá lấy chính mình, bước ra khỏi vòng kềm tỏa của Quá Khứ và Tương Lai để sống trong thế giới Hiện Tại bất diệt, vĩnh cửu. Osho sinh ngày 11 tháng 12 năm 1931 tại làng Kuchwada, Madhya Pradesh, Ấn Độ. Từ lúc còn bé, Osho đã chứng tỏ cho mọi người thấy mình là một người có cá tính độc lập, cương quyết và nổi loạn, kiên quyết bảo vệ chính kiến của mình bằng kinh nghiệm tư duy, sống thực thụ chứ không phải đi học mót lại hay lần mò theo tín ngưỡng của người khác. Sau khi chứng ngộ vào năm 21 tuổi, Osho đã hoàn tất văn bằng Tiến Sĩ và dạy triết học vài năm ở Đại Học Jabalpur, Ấn Độ. Cùng thời gian đó, ông đã đi du thuyết khắp nơi ở Ấn Độ để tranh luận công khai với nhiều đạo sư các tông phái chính thống khác, cật vấn họ về những tín ngưỡng truyền thống đương thời và gặp mặt nhiều người từ mọi tầng lớp, chức vụ thượng lưu đến bình dân hạ tiện. Cuối những năm 60, Osho đã tung ra phương pháp học thiền của chính ông. Ông cho rằng ngày nay người ta bị chèn ép và chất nặng trên vai những truyền thống tập tục, tín ngưỡng của quá khứ và những bất an của đời sống văn minh hiện đại; vì thế người ta cần phải gột rửa trí óc để có thể đi vào trạng thái an nhiên vô niệm của Thiền Định. Osho nói: "Chỉ có một số rất ít người can đảm thôi mới sẵn sàng chết đi để được sống lại thành con người mới. Chỉ có những người can đảm đó mới liều mạng để nghe tôi nói, nói Sự Thật". Osho từ giã cõi đời vào ngày 19 tháng giêng năm 1990. Cộng đồng những môn đệ của Osho ở Ấn Độ vẫn tiếp tục duy trì theo đường lối của ông và ngày nay nó đã trở thành một trung tâm tu học phát triển tâm linh lớn mạnh nhất thế giới, hấp dẫn hàng ngàn người khắp nơi về Ấn thực tập thiền định, điều trị tâm lý, chữa tật bệnh, đề xuất những chương trình sáng tạo hay trao đổi kinh nghiệm tâm linh. Osho không đến không đi. Ông chỉ ghé thăm hành tinh Địa Cầu này từ năm 1931 đến 1990!
-
Không Nước Không Trăng - 7 Câu truyện thiền số 7: ÔNG PHẬT MŨI ĐEN "Có một Ni cô trên đườbg tìm chân lý đã chắt chiu nhờ thợ đúc riêng cho Ni cô một tượng Phật nhỏ cỡ chừng gang tay bằng gỗ ngoài thếp vàng. Tượng Phật đó rất đẹp và Ni cô rất trân quí; đi đâu cũng mang theo, và còn đốt hương cúng dường cho Phật nữa.Năm tháng trôi qua, Ni cô vẫn luôn mang vác tượng Phật trên vai đi khắp nơi. Một ngày kia, nghĩ mình cũng lớn tuổi rồi, Ni cô dừng chân lại một ngôi chùa nhỏ miền quê; nhưng chùa này lại có rất nhiều tượng Phật lớn nhỏ. Mỗi vị Phật đều có bàn thờ riêng cả. Nhìn lại pho tượng Phật nhỏ xíu của mình, Ni cô thấy trong lòng ái ngại qúa. Ở nhờ chùa người ta nên khó lập bàn thờ riêng cho Phật mình, Ni cô đành phải thờ ké bàn thờ vậy. Từ hồi nào đến giờ, Ni cô thường đốt hương trầm cúng dường "Phật của mình", nay trong cảnh thờ chung như vậy, Ni cô thấy trong lòng bất ổn; mấy ông Phật trụ xứ nhiều quá, ông nào ông nấy to lớn, lỗ mũi to như qủa quít thế kia thì hít hết khói hương trầm, còn gì cho ông Phật của mình nữa . Thiệt thòi cho Phật mình quá!Ngày đêm suy nghĩ, Ni cô nghĩ ra một kế thượng sách. Ni cô lấy giấy và ống nhựa nhỏ quấn lại với nhau thành hình một cái phễu (ống quặn) vừa đủ khói xông lên hun thẳng vào mũi ông Phật mình. Hay qúa, thế là mấy ông Phật trụ xứ kia đừng hòng ngửi ké nhá. Ni cô hoan hỷ quá, trong lòng vui sướng, ăn ngủ ngon lành. Trải qua mấy tuần lễ đốt hương xông thẳng vào mũi Phật, kết quả mấy pho tượng Phật trụ xứ chẳng có sao hết, duy tượng Phật của Ni cô, cái lỗ mũi đen thui đầy muội hương. Cái lỗ mũi đen trên pho tương Phật bằng vàng càng làm cho pho tượng xấu xí hơn, kỳ cục hơn. "Ối chao, làm Phật rồi mà còn khổ thế, huống chi là trần gian. Khổ thay, khổ thay! Vấn đề then chốt nhất của người đi tìm chân lý giải thoát là phải phân biệt rõ ràng ranh giới giữa Yêu, Ghét, Tham Đắm và Ràng Buộc. Cái ranh giới đó hay bị lẫn lộn nhập nhằng với nhau, nhưng thực ra, chúng khác nhau đấy. Sự ràng buộc đắm trước là một tai họa, một nguy hiểm giết chết Tình Yêu. Không có một vật gì nguy hiểm hơn, độc hại hơn lòng chiếm hữu dính mắc. Bạn phải cố gắng hiểu cho kỹ điểm này, rồi chúng ta đi vào cốt truyện. Rất nhiều người đã lầm lẫn Tình Yêu và sự Chiếm Hữu. Chiếm Hữu không phải là mặt trái, không phải là một phần của Tình Yêu gì cả. Nó là sự đối nghịch hoàn toàn. Tình Yêu (viết hoa) không đơn thuần có ý nghĩa là tình yêu nam nữ, mà còn là tình yêu quê hương, tình yêu cha mẹ, tình yêu chúng sanh, v.v. Một thứ tình yêu bao la không biên giới, không phân biệt màu da, chủng tộc, quốc gia gì cả. Sức mạnh Tình Yêu Đại Đồng này có công năng tiêu hủy cái tự ngã vị kỷ hẹp hòi của bạn để bạn hòa hợp mình vào với mọi người, với chúng sanh, với vũ trụ và sẽ giúp bạn thăng hoa nhân cách tới mức tối thượng. Hơn thế nữa, Tình Yêu Đại Đồng đó sẽ giúp bạn đối diện dễ dàng với cái chết, và từ đó, bạn cũng sẽ dễ dàng thực tập thiền định. Tình Yêu sâu thẳm hơn cái Chết, Thiền Định sâu thẳm hơn Tình Yêu. Trong thiền định, tự ngã của bạn phải vắng bóng; cái tự ngã của bạn phải chết đi. Khi bạn không dính mắc bám víu một cái gì, khi bạn hòan tòan thoát ly ra được cái ngục tù "Tự Ngã" thì bạn mới thể nhập được vào Đại Định. Danh từ tiếng Anh "Ecstasy" rất dẹp và có ý nghĩa. "Ecstasy" có nghĩa là đứng bên ngoài, đứng ngoài lề. Nhưng trong đạo Phật, "Đại Định" mang ý nghĩa sâu xa hơn, hàm xúc hơn, triệt để hơn ý nghĩa xuất thần, nhập định rất nhiều. Thiền Phật giáo không đơn thuần là trạng thái xuất thần, đi vào những cảnh giới lạc thú như các cõi trời mà là nghệ thuật kiến chiếu vào thể tánh của chúng ta; nó chỉ con đường từ triền phược đến giải thoát, nó đưa chúng ta đến uyên nguyên của cuộc sống, uống ngụm nước đầu nguồn, cởi bỏ tất cả những sự ràng buộc chấp mắc. Khi nhập vào đại định, ta có thể khai phóng tất cả năng lực nội tại và tự nhiên tích tập trong mỗi người chúng ta ( Thiền Luận của Dr. Suzuki). Nghệ thuật trong thiền chính là nghệ thuật học cách Chết. Chết con người khốn nạn tầm thường này để trở thành một con người mới toàn thiện hơn. Do đó, Tình Yêu có nghiã là chết đi cái tự ngã nhỏ hẹp ích kỷ để sống an lạc và chia xẻ hạnh phúc với mọi người, mọi loàị. Nó khác xa tính chất độc hại của sự chiếm hữu ràng buộc. " Có một Ni cô trên đường đi tìm chân lý đã dành dụm tiền nhờ tạc một tượng Phật bằng gỗ thếp vàng. Tượng Phật đó rất đẹp và Ni cô đi đâu cũng mang theo kè kè..." Từng chữ một trong câu truyện này cần phải giải thích trọn vẹn. "Một Ni cô" Tại sao lại là một ni cô mà không phải là một ông thầy tăng? Có phải vì đầu óc và trái tim phụ nữ rất chật hẹp và thích chiếm hữu cho nên nhân vật cốt truyện là một ni cô? Chúng ta khoan phê bình đánh giá vội. Không phải chỉ riêng có phụ nữ mới có tánh ích kỷ, hẹp hòi, tham lam, đố kỵ, nhiều tật xấu đó đâu, mà những ngừơi đàn ông cũng có những tật xấu đó. Nhưng trước hết, chúng ta thử phân tích "Tại sao người đàn bà ích kỷ, sở hữu nhiều hơn đàn ông?" — Bởi vì tánh ích kỷ sở hữu thoát thai từ sợ hãi. Phụ nữ là một linh vật yếu đuối về thể chất. Vì sự yếu đuối thể chất đó, họ cần nương dựa; họ cần được bảo vệ. Từ những ngày đầu của thời kỳ khai thiên lập địa, phụ nữ đã phải nương dựa vào cánh đàn ông để được che chở và bảo vệ khỏi thú dữ để sinh tồn. Lâu dần, họ trở nên phụ thuộc và tự biến mình thành cái bóng sau lưng người đàn ông. Và càng yếu đuối chừng nào, họ càng sợ thêm chừng đó, càng sợ lại càng chiếm giữ ràng buộc, sợ mất đi sự che chở, sợ mất đi sự bảo vệ, sợ mất đi sự nương dựa. Ngay cả khi họ đang đựơc bảo vệ, họ cũng vẫn cảm thấy không hài lòng thỏa mãn. Họ vẫn cảm thấy bất an, lo sợ sẽ mất đi cái an toàn, cái phao che chở đó, và từ đó, tánh chiếm hữu ràng buộc tự lợi nẩy sanh, không muốn chia xẻ với ai cái họ đang nắm giữ. Vì thế, trong câu truyện, hình ảnh ni cô, người phụ nữ, đã được lựa chọn. Song, bạn cần phải nhớ kỹ rằng không có sự khác biệt gì nếu bạn mang thân tướng đàn ông mà ích kỷ, hẹp hòi, không rộng lượng thì thể chất đàn ông nhưng tánh khí đàn bà đó. Điều đó còn tệ hơn nữa, phải không? Còn phụ nữ nào xả bỏ được tánh vị kỷ sở hữu thì hơn hẳn đàn ông rồi còn gì. Như vậy, sự khác biệt không phải đặt trên vấn đề nam giới hay nữ giới mà đặt trên cơ bản phong cách hành xử. Nghe rằng Mahavira đã nói "Phụ nữ không thể nào giác ngộ được trừ phi người ấy trở thành đàn ông." Và mọi người tin theo nghĩ rằng phụ nữ phải cố gắng làm tất cả những việc phước đức để kiếp sau tái sanh lại làm phái nam. Thực ra, ý nghĩ đó quả là buồn cười và ngờ nghệch. Mahavira muốn nói là còn tư tưởng ích kỷ chiếm hữu đó thì không thể nào giác ngộ được chứ không phải nói còn cái thân tướng đàn bà là không gíac ngộ — vì còn sợ, còn chiếm hữu thì không Tình Yêu, không Thiền Định được. "Ni cô đó tạc một pho tượng Phật bằng gỗ thếp vàng và đi đâu, Ni cô cũng mang theo." Từ lúc tạc tượng Phật thếp vàng, Ni cô ngủ không an giấc vì lo sợ kẻ nào đó sẽ đột nhập vào rinh mất pho tượng quí này đi. Đang đi trên đường, nếu có ai chợt nhìn vào tay nãi trong có tượng Phật, Ni cô cũng giật thót người, cảm thấy bất an nghĩ rằng biết đâu họ biết trong túi có tượng Phật thếp vàng và sẽ cướp đi mất. Pho tượng trở thành gánh nặng, trở thành hàng rào cản bước tiến giải thoát của Ni cô. Tâm trí Ni cô xoay vần với lo sợ, bất an, và dính mắc. Còn chỗ trống nào đâu để an lạc giải thoát lọt vào! Pho tượng đã trở thành tâm điểm chiếm hữu, lo sợ và thờ phụng. " Năm tháng trôi qua. Ni cô vẫn luôn mang tượng Phật đi khắp đó đây. Và một ngày kia, Ni cô dừng chân lại một ngôi chùa làng có rất nhiều tượng Phật.. ." Thời gian trôi qua, không có dấu hiệu giác ngộ gì. Mang kè kè một tượng Phật như thế mà không thấy gì à? không giác ngộ gì sao? Lạ thật. Phật là Giác ngộ, là Giải thoát, là Đại Ngã, là Chân Tâm, là Bản Thể; nhưng bạn không thể giác ngộ chân lý giải thoát đó nếu bạn vẫn vác nặng hành trang ràng buộc, chấp trước và vị kỷ. Dù bạn có mang vác trên vai bao nhiêu pho tượng Phật đi chăng nữa thì cũng dã tràng xe cát biển đông mà thôi. Bên Trung Hoa, Nhật Bản, người ta đã xây dựng rất nhiều đại tự, đại tháp để thờ Phật. Ở Trung Hoa, có một ngôi cổ tự thờ 10,000 tượng Phật. Tuy nhiên, dù có hàng 10,000 tượng đi chăng nữa cũng chẳng giúp ích được gì cho ta cả nếu ta không chịu tu tập đọan trừ Tham Sân Si, Ngã Mạn, Tà Kiến, v.v... Tượng Phật chỉ là một biểu trưng cho sự giác ngộ giải thoát; chiêm ngưỡng lễ lạy tượng Phật để tự nhắc nhở vốn sẵn có Phật tánh. Phật tánh có ở trong anh, có ở trong tôi, có ở trong em, có ở trong người giàu sang quyền quí cũng như ở trong kẻ ăn mày khốn khổ kia. Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh! Tất cả chúng sanh đều thành Phật! Tất cả chúng sanh đều bình đẳng! Hãy tìm một vị Phật sống. Hãy tìm vị Phật sống trong ta. Đừng rong ruỗi tìm cầu bên bgoài. Đừng trông chờ mong đợi sự cứu độ. Đừng dập đầu van lạy các ngẫu tượng cầu xin giải thoát. Vì thế, Ni cô này đã vác tượng Phật gỗ suốt nhiều năm mà chẳng thấu hiểu được gì. Cái tâm đắm chấp đã che mờ giác tánh trong Ni cô. Quả vậy, có cái gì khổ theo cái nấy. Người đời có gia đình, có cái nhà cái xe là lo lắng ôm giữ bảo vệ những thứ đó cả đời, sợ mai một mất đi và lo nối dòng nối dõi để giao phó của cải. Tu sĩ thì trụ trì một ngôi chùa nào hay thánh đường nào thì cũng dính mắc vào tự viện đó không thoát ra nổi, cũng lo kiếm đệ tử truyền trao lại. Cha truyền con nối; không muốn giao cho ai khác ngoài con ruột mình, đệ tử ruột mình. Cái chế độ phong kiến tự ngàn xưa đã bị chúng ta hủy bỏ đi để xây dựng chế độ tự do dân chủ; nhưng đó chỉ là hình thức thay đổi còn nội dung vẫn như cũ. Cái Tiểu Ngã vẫn hoàn lại Tiểu Ngã đầy tham vọng ích kỷ, tư lợi và ràng buộc. Cái hay nhất của người tu sĩ là rày đây mai đó, đem chánh pháp giáo hóa chúng sanh. Chùa chiền, tự viện chỉ là trạm dừng chân qua đêm, đến sáng lại quảy gánh ra đi. Ngoài ra, nếu phải trụ trì một ngôi chùa hay tự viện nào thì tu sĩ đó phải hằng tự giác tỉnh là Vạn Pháp vốn Vô Thường Vô Ngã — Không có cái gì trường tồn bất biến cũng không có cái gì là của ta cả. Sự vật đến đến đi đi, có có không không. Người tu sĩ phải luôn luôn có tâm niệm Xả Ly Phá Ngã đó thì mới ứng phó đạo tràng, tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên được. Nếu không, họ sẽ sanh tâm đắm nhiễm, mắc kẹt vào chùa chiền, thánh đường, tự viện, tín đồ, danh lợi thế gian. " Ni cô đó thường đốt hương trầm cúng dường tượng Phật của mình . Vì không muốn khói xông lên bay vào các tượng Phật khác, Ni cô đã chế ra một cái phễu nhỏ để khói chỉ bay thẳng vào mũi tượng Phật của mình. Thấy chưa? Nội chỉ có khói hương thôi mà người ta đã phân biệt ích kỷ rồi huống chi là những thứ quí giá hơn, to lớn hơn gấp bội. Thế cho nên, chúng ta đã chứng kiến quá nhiều cảnh tranh giành tương tàn lẫn nhau để chiếm đoạt hay ôm giữ. Ông tu sĩ này nói xấu ông sư kia, bà ni cô kia bêu riếu bà vãi nọ, đền thờ, chùa chiền, tự viện, v.v... đua nhau mọc lên như nấm, và cũng đua nhau khuếch trương lên mưu cầu đóng góp, dụ dẫn tín đồ... Tất cả chẳng qua phản ảnh tâm Tham Đắm, Chấp Ngã, Mê Danh của những con người chưa liễu đạo. Ni cô trong truyện có phải chăng chính là hình ảnh của chúng ta? Chúng ta dã từng ra rả tụng kinh, sám hối, tọa thiền... nhưng chúng ta nào có thấu được chút hương thơm giáo lý của Phật, của Chúa, của Mahavira. Chúng ta xây bao tượng Phật, tượng Chúa, đền thờ, tháp tự, v.v. nhưng nào chúng ta thực hành được chút xíu nào lời các Thánh nhân dạy về giải thoát giác ngộ? Cũng như Ni cô mang vác tượng Phật suốt nhiều năm mà vô minh vẫn hòan vô minh, ràng buộc vẫn hòan dính mắc. Và chuyện gì đã xảy ra? "Trải qua mấy tuần lễ bị hun khói như vậy, lỗ mũi ông tượng Phật vàng bị đen thui đầy muội hương. Cái lỗ mũi đen trên pho tượng vàng càng làm cho pho tượng Phật xấu xí hơn, kỳ cục hơn." Điều đó đương nhiên phải xẩy ra cho tất cả những người còn tâm đắm nhiễm vị kỷ. Hương thơm không còn là hương thơm, chân lý không còn là chân lý nữa. Hãy trở về nhìn lại các pho tượng Phật, tượng Chúa, tượng Krishna. Ở tất cả lỗ mũi của các pho tượng đó đều bị đen thui vì ám khói ích kỷ tư lợi, chấp trước vô minh của chúng ta. Lời cầu nguyện của chúng ta chỉ là lời cầu xin đưọc ban thêm ân huệ vật chất. Ngay khi chúng ta mở miệng ra nói: "Nhà thờ của tôi, chùa của tôi, thầy của tôi, đệ tử của tôi... Có danh từ "của tôi" là điện đài, chùa chiền, tự viện gì gì đi nữa đều bị phá xập hoàn toàn. Trước đây, chính tôi (tác giả) đã bị dẫn độ ra tòa vì tôi dám xâm phạm một nhà thờ. Ngôi nhà thờ đó đã đóng cửa, không hoạt động ít nhất là 20 năm rồi. Những tín đồ đã dọn đi nơi khác, không còn ở Ấn nữa. Nhà thờ này thuộc về giáo hội Thiên Chúa Giáo Anh và cũng không còn người Anh nào ở phố thị này, không ai chăm sóc trông nom nhà thờ cả. Nhà thờ ấy rất đẹp nhưng bị hoang phế. Ngày kia, có vài tín đồ đến gặp tôi và nói: "Chúng tôi không thuộc giáo phái Anh, nhưng chúng tôi không có nhà thờ riêng. Vậy ông có thể giúp chúng tôi mở khóa vào lễ Chúa không?" Tôi đáp ngay: "Được thôi, có gì đâu." Và những tín đồ đó vào nhà thờ, quét dọn, lau chùi bụi bặm bám đen lỗ mũi của Chúa. Tôi nói với họ: "Không cần hỏi ai là chủ nhà thờ này cả. Người nào thờ phụng Chúa với tất cả lòng thành không riêng tư thì nhà thờ đó là của họ." Nhưng độ hai, ba tháng sau thì tin tức bay tới tai những người trước kia bỏ tiền ra mua nhà thờ. Họ tìm luật sư và kiện tôi ra toà vì dám xâm phạm nhà thờ. Công tố viên buộc tội: — Tại sao ông dám mở khóa nhà thờ? Nhà thờ này thuộc về những nguyên cáo là những người bỏ tiền ra muạ. Nó là tài sản của họ. — Nhà thờ không phải là tài sản của bất cứ riêng ai. Nhà thờ chỉ là một phương tiện để mọi người có thể đến lễ lạy Chúạ. Nhà thờ không phải là tài sản của riêng ai cả. — Đó là luật pháp. Khi ông xâm phạm vào tài sản người khác, ông đã phạm tộị. — Được thôi, các ông có thể đóng cửa nhà thờ lạị. Các ông có thể buộc tội tôi; nhưng hãy nhớ kỹ một điều là chính các ông, những con người ích kỷ tham đắm kia, đã giết chết Tôn Giáo! Chính các ông mới là kẻ có tội!" Hãy nhớ kỹ lời Đức Đạt Lai Lạt Ma nói: "Ngôi chùa của tôi chính tại Tâm tôi!" Chùa tại Tâm. Phật tại Tâm! Đủ rồi!
-
Không Nước Không Trăng - 6 Câu truyện thiền số 6: SAO NGƯƠI KHÔNG VỀ NGỦ ĐI? "Thiền sinh Tokusan, chiều chiều thường vẫn đến nhà Sư Phụ là Thiền Sư Ryutan để vừa đàm đạo vừa nghe Thầy giảng dạy. Một đêm đã khuya lắm rồi mà Tokusan vẫn còn nhiều điều muốn hỏi Thầỵ.Thiền Sư Ryutan bảo: "Đêm đã xuống lâu rồi, sao ngươi không về ngủ đi?" Tokusan cúi đầu chào Thầy, vén màn cửa đi ra, nhìn bên ngoài rồi quay lại nói: "Sư Phụ, bên ngoài trời tối đen như mực. ""Thì ngươi cầm cây nến này!" Thiền Sư Ryutan cho Tokusan một cây nến để thấy đường; nhưng Tokusan vừa cầm lấy cây nến thì Sư Ryutan thổi phụt tắt ngọn nến. Ngay lúc ấy, Tokusan ngộ đạo." Điều thứ nhất chúng ta cần hiểu cho thật minh bạch là chúng ta không thể nào nghiên cứu học hỏi về Thiền. Điều đó không thể nào được. Bạn có thể thâm nhập thiền, nhưng bạn không thể nghiên cứu thiền; vì thiền không phải là một vật thể, một đối tượng để nghiên cứu tìm tòi. Thiền là "đường lối sống, là phương pháp sống." Thiền là con đường đạo. Thiền tùy thuộc vào cách sống của bạn. Bạn không thể nắm bắt được cốt tủy Thiền Tông qua phương tiện kinh điển, qua người khác. Không một ai có thể dạy cho bạn, và thiền cũng không thể mang ra giảng dạy như một môn học được. Thiền không phải là kiến thức được truyền trao từ người này sang người kia. Thiền là cuộc sống, là dòng đời dang trôi chảy không ngừng. Bạn bơi trong dòng sông đời, bạn uống cạn từng giọt nước; hít thở từng hương vị mà dòng sông cuộc sống trao cho bạn; bạn mở rộng cõi lòng ra đón nhận cuộc sống, đón nhận thiền - đó là những gì mà người đệ tử nên làm với Sư Phụ. Câu truyện trên kể rằng "Tokusan đang học thiền". Ngay chính chỗ đó là chỗ sai lầm của Tokusan cũng như của mọi người chúng ta. Cũng như có vài đại học nêu bảng hiệu là "Đại Học Tôn Giáo". Không có một đại học nào có thể dạy đạo cho bạn được. Họ có thể nóị, có thể giảng về tôn giáo, nhưng đó không phải là cốt lõi, là tinh túy, là hương thơm Tôn Giáo, không phải là Đạo. Có rất nhiều triết thuyết, có rất nhiều đạo thuyết, nhưng chung qui không phải là tôn giáo. Những giảng sư có thể giúp bạn học Kinh Koran, Thánh Kinh, Kinh Vệ Đà; họ có thể nói về Chúa, về Phật, về Krishna; bạn cũng có thể học hỏi thu thập được rất nhiều điều hay, mới mẻ, bổ ích; nhưng bạn sẽ không bao giờ nắm bắt được cái linh hồn của tôn giáo, bạn sẽ lạc mất đi cái cốt tủy của Đạo. Tôi có nghe một câu truyện: "Có một tu sĩ Thiên Chúa Giáo gởi một bộ Kinh Thánh cho người bạn. Vị linh mục gói Kinh Thánh lại thật kỹ, thật đẹp. Ông ta đi ra bưu điện gởi quà, và nhân viên bưu điện hỏi: "Thưa Cha, có cái gì dễ vỡ trong này không ạ?" Vị linh mục mỉm cười: "Có, có Mười Điều Răn của Chúa!" Tôn giáo thật tuyệt vời; thật mong manh dễ vỡ. Không một lớp vỏ nào có thể bao bọc, bảo vệ được tôn giáo. Ngay lúc mà bạn chuyên chở nó đi, nó đã héo uá rồi. Đạo sống trong con người. Đạo sống trong Đức Phật, trong một vị thiền sư. Đức Phật hay vị thiền sư đó không thể trao truyền đạo, trao truyền cuộc sống cho bạn, mà chính bạn, bạn phải tự sống lấy, tự chiêm nghiệm lấy thiền. Mỗi chúng ta là một thế giới nhiệm mầu, không ai có thể sống hộ ta cả được. Đạo giống như vầng thái dương ấm áp buổi sáng mùa xuân. Mặt trời không thể cho bông hoa sự sống, nhưng bông hoa có thể tự nó bung nở ra hướng về ánh sáng mặt trời và đón nhận sức sống chan hòa đó. Nếu bông hoa khép kín, mặt trời làm sao soi rọi xuống nó được? Mặt trời không đem ánh sáng tới riêng một nhà nào, tới riêng một người nào. Mặt trời chiếu soi lên vạn vật đồng đều, không phân biệt- nhưng với điều kiện là vạn vật phải mở cửa ra để đón nhận. Một vị Phật đến với chúng ta nhưng chúng ta phải tự mở cửa lòng ra để đón nhận; nếu chúng ta khép kín cửa lại thì sẽ chẳng có điều nhiệm mầu nào xảy ra cả. Chính chúng ta phải tự chiêm nghiệm lấy cuộc sống. Sự nghiên cứu học hỏi là một vật sơ cứng, đã chết. Vì nghiên cứu thuộc về lý trí, không thuộc về trái tim. Dòng đời như một dòng sông, không một sát na nào ngưng trôi chảy, nô lệ cho lý trí đơn thuần ham cắt xén thì chỉ thấy được cái ngưng đọng, cái chết (Doãn quốc Sỹ). Hãy nhìn những nhà học giả kia, họ như những con người máy biết cử động, nói năng, nhưng bạn hãy nhìn vào mắt họ - một cặp mắt vô hồn. Những viện đại học đầy ắp các nhà trí thức, bác học, đa văn, song họ như là những thi hài chưa được chôn cất. Họ không bao giờ sống thực cả. Họ tự nhốt họ chung thân trong nhà tù khái niệm; với mớ kiến thức, với những con số, những mẫu tự, họ đã tự tuyên án tử hình. "Tokusan học đạo với Thiền Sư Ryutan. Chiều chiều Tokusan đến nhà Sư Phụ học thiền; một đêm kia, đã khuya lắm rồi mà Tokusan vẫn còn nhiều điều muốn hỏi Thầy... " Đây chính là sự sai lạc cuả Tokusan. Bước đầu tiên đã sai, thì các bước sau đều sai hết. Hãy nhớ kỹ là phải cẩn thận bước đầu tiên cho vững chắc, cho thật chính xác. Nếu bước thứ nhất đúng, bạn chắc chắn sẽ đạt tới đích chuẩn xác. Thế cho nên, bạn đừng đến một vị thầy để tìm tòi nghiên cứu đạo, mà hãy đến với trái tim, với cõi lòng rộng mở như đất trời; hãy dẹp hết những khái niệm, con đẻ của lý trí để đón nhận luồng sinh khí tươi mát mới mẻ của suối thiền, hãy im lặng nhìn và quán chiếu. Đừng tìm cách giải thích thiền, tìm hiểu thiền qua lời nói, qua sách vở, kinh điển, nguy hiểm lắm, thật sự nguy hiểm. Thiền là siêu lý, là siêu lộ! Với mọi tiếng nói lý giải thiền, lập tức thiền khép cánh lại như lá hổ ngươi. Thiền khép cánh lại như vậy để ôm lấy niềm im lặng vô ngôn. Mà kỳ lạ thay, Vô Ngôn nhưng không tách rời thực tại. Chính vì vô ngôn mà cụ thể toàn diện. Chính trong niềm im lặng vô ngôn đó, những vang vọng, ý nghĩ, nhựa sống của ngôn từ, của hành động, của ý nghĩa càng tràn bờ để xóa bỏ mọi biên giới mà tắm gội, bao dung lấy hết thảy (Doãn quốc Sỹ trong Vào Thiền )... Đó là sự khác biệt giữa học thiền và tu thiền! "Một đêm, đã khuya lắm rồi mà Tokusan cứ vẫn còn hỏi han Sư phụ đủ chuyện." Thái độ người đi học đạo, học thiền là như vậy. Họ cố vơ vét, cố lượm mót cho thật nhiều kiến giải của người khác để lấp đầy khoảng trống của mình, rồi đi huênh hoang rao giảng lại những vụn vặt lượm mót đó để được mọi người kính nể ca tụng; nhưng thực ra, họ chỉ là những cái thùng rỗng kêu to mà thôi. Người đi tu thiền lại khác. Người này chỉ có một câu hỏi dứt khoát, một hướng nhất định. Người này đi thẳng vào vấn đề, đi thẳng vào trung tâm, không vòng vo tam quốc gì cả. Câu hỏi Sanh Tử đó cũng không cần Sư Phụ trả lời bằng ngôn từ, mà chính bản thân người tu thiền sẽ tự trả lời bằng kinh nghiệm thể chứng tâm linh. Sư Phụ chỉ là người hướng dẫn, chỉ là trung gian giúp đệ tử tự ngộ. "Tokusan hỏi rất nhiều, nhưng Sư Ryutan không trả lời câu nào cả. Sư chỉ nghe những câu hỏi và nói: "Đêm đã xuống lâu rồi! Sao ngươi không về ngủ đi?" "Sao ngươi không về ngủ đi?" Đó chính là câu trả lời của Sư Ryutan. Có hàng vạn, hàng triệu câu truyện thiền, nghe qua rất kỳ quặc. Bạn hỏi A và thiền sư trả lời B; chẳng ăn nhập vào đâu hết. Chúng ta không biết Tokusan hỏi gì. Chúng ta chỉ biết một điều là Thiền Sư Ryutan không trả lời các câu hỏi đó. Sư chỉ nói: "Đêm đã xuống lâu rồi, sao ngươi không về ngủ đi?" Thiền là thế đó! Có một giai thoại thiền khá lý thú: "Có một người khách tới hỏi Thiền Sư Nan-In về thiền. Nhưng đáng lẽ đến để nghe thì ông khách cứ thao thao bất tuyệt, nói hoài nói mãi. Lát sau, Sư Nan-In mời khách dùng trà. Sư rót trà vào chén của khách; chén đầy rồi mà Sư cứ tiếp tục rót mãi, rót mãị. Trà đổ đầy ra bàn, chảy tràn xuống đất mà Sư cứ rót hoài. Sau cùng ông khách không giữ được kiên nhẫn nữa, nói lớn: "Kià, Thiền Sư, chén trà đầy lắm rồi, không rót được thêm nữa đâu!" Thiền Sư ngưng rót trà: "Cũng vậy, này cư sĩ, cư sĩ cũng giống như cái chén trà đó, đầy ắp những tư kiến. Tôi còn biết hiến dâng gì về thiền nếu cư sĩ không cho tôi một cái chén rộng hơn." Đó, vấn đề là ở chỗ đó. Thực là một thái độ ấu trĩ khi chúng ta hăm hở tìm hiểu thiền, định nghĩa thiền qua lý lẽ, qua tư kiến. Thiền không thể nào lý giải được qua ngôn từ, và chúng ta không thể lãnh hội thiền nếu đầu óc chúng ta sơ cứng vì quan niệm và kiến thức. Chúng ta đã lấy cái hạn hữu để đong cái vô hạn; chúng ta dã lấy cái thúng úp chụp lên bầu trời. Thật ấu trĩ, thật ngu xuẩn! Con người luôn chạy về phía trước, rượt tìm tương lai mà lãng quên thực tại. Câu nói cuả Thiền Sư Ryutan thật xác đáng, ý nhị và thâm thúy xiết bao! "Đêm đã xuống lâu rồi, sao ngươi không về ngủ đi?" Ngươi chưa cảm thấy là đầy đủ thỏa mãn sao? Ngươi không cảm thấy là đầu óc ngươi chuyên chở quá tải ư? Hãy buông bỏ gánh nặng tư kiến đó đi, hãy đặt để nó xuống thì ngươi mới hy vọng nhẹ bước vào cửa thiền. Đừng vác nó trên vai nữa. Chính cái kiến thức đó, chính lòng tham lam hiểu biết đó đã ngăn chận ngươi không cho ngươi thảnh thơi bơi lội giữa lòng trùng dương xanh thẫm. Với đầu óc nặng nề như vậy, ngươi giống như một tên mù đi trong đêm tối đen kia. Nhưng Tokusan không hiểu được ý Thầy; quả vậy, một người có quá nhiều câu hỏi thì đâu còn chỗ trống trong tâm để hiểu được câu trả lời. Với lòng từ bi đại lượng, Sư Ryutan đã gợi ý giúp đệ tử nhưng đệ tử vẫn còn mù đặc. (Các nhà học giả cũng thường mù đặc như vậy). Tokusan nghĩ gì? Anh ta nghĩ sao Thầy lại trả lời lãng nhách vậy? Đêm khuya thì có ăn nhập gì đến câu hỏi đạo của mình- nhưng anh ta vẫn đứng lên nhìn ra ngoài nói: "Dạ vâng, đêm tối đen như mực." "Sao ngươi không về ngủ đi?" "Dạ vâng, đêm tối quá, đến giờ con phải về ngủ rồi". Các thiền sư không bao giờ nói về những hiện tượng bên ngoài, nhưng chúng ta thì luôn luôn chạy theo những cái bên ngoài. Tokusan cũng vậy. Cái mà Sư Ryutan muốn nói là: "Sao ngươi không thức tỉnh đi?" Đối với người liễu đạo, "Ngủ" có nghiã là đến lúc ta phải thức tỉnh khỏi cơn mộng đi, vứt bỏ mớ kiến thức rơm rác đi. Cái lý trí chật hẹp khô cứng đó là ngục tù, là cơn mê, là giấc ngủ đưa ta vào vô minh, vào quên lãng. "Sư Ryutan đưa cho Tokusan một cây nến để thấy đường, nhưng Tokusan vừa cầm lấy cây nến thì Sư Ryutan thổi phụt tắt ngọn nến. Ngay lúc ấy Tokusan ngộ đạo." Ngọn đèn trong tâm chúng ta luôn luôn cháy. Ánh sáng nội tâm luôn có đó, nhưng chúng ta cứ mãi nhìn ra bên ngoài, không hề có giây phút nào quay ngược vào bên trong để quán chiếu. Sư Ryutan đã gợi ý cho Tokusan để có thể nhận chân được lý thiền, nhưng Tokusan vẫn chưa thấu đáo được nên Sư lại tạo thêm một tình huống khác, một tình huống lạ thường: Sư cho Tokusan một cây nến đã thắp sáng, có nghĩa là "Ngươi không nhìn vào bên trong nội tâm ngươi. Ngươi sống trong bóng tối vô minh của tâm hồn ngươi, nó tối đen như đêm tối ngoài kia. Ta nói cái bên trong tâm, ngươi lại đi nhìn cái bên ngoài. Thôi được, ta cho ngươi ngọn nến soi sáng đường ngươi đi nè." Nhưng vừa lúc Tokusan cầm lấy cây nến, Sư Ryutan thổi phụt tắt ngọn nến. Ánh sáng phụt tắt, Tokusan ngộ đạo. Ngay cái tích tắc giữa sáng và tối đó, người đệ tử trực nhận liền ngọn đèn trong tâm (Phật tánh, chân tâm) ta vẫn thường hằng sáng nhưng vì ta không chịu lau chùi bóng đèn nên bị bụi vô minh che lấp ánh sáng. Ngay lúc ánh sáng ngọn nến phụt tắt, Tokusan hiểu ý Sư Phụ là "tự ngươi phải thắp lên ánh sáng trong tâm ngươi, tự ngươi phải đi, tự ngươi phải phá vỡ bóng tối vô minh. Không ai có thể giúp ngươi được. Ngay chính chư Phật cũng chỉ là người dẫn đường mà thôi, tự ngươi phải bước, tự ngươi phải đi, phải tự nghiệm, phải tự thể chứng." Giai thoại nhà thiền có ví dụ: "Khi một người chưa tu, thấy núi là núi là núi, sông là sông. Khi tu rồi lại thấy núi không phải là núi, sông không phải là sông. Khi đạt đạo rồi lại thấy núi là núi, sông là sông." Rắc rối quá, lung tung quá, phải không? Người tu thiền, liễu đạo thiền, sống cũng như một người bình thường- đói ăn, khát uống, mệt ngủ khì. Bề ngoài hai hạng người này không có gì khác nhau cả. Nhưng bên trong hoàn toàn sai biệt; đó là nội tâm sai khác nhau. Người liễu đạo sống trong cảnh đời thường nhưng tâm đã xả ly, không dính mắc sự vật. Người đó sống trong bùn nhưng không nhiễm mùi bùn, tâm thoát ly rỗng rang tự tại, phóng khoáng như đất trời bao la. Người đó có thể làm bất cứ điều gì cần phải làm nhưng không bị ràng buộc- không bị ràng buộc và cũng không cần phải tháo gỡ gì cả. Đâu có gì ràng buộc mà cần phải tháo gỡ? Có một người đến hỏi Phật: "Bạch Đức Thế Tôn, con nghe nói giáo lý nhà Phật vô cùng thậm thâm vi diệu, khó nghĩ bàn, Thế Tôn có thể cho con biết vi diệu như thế naò không ạ?" Phật trả lời: "À, thì đói ăn khát uống, mệt ngủ khì." "Úy, thế thì có khác gì người thường đâu?" "Có chứ, khác nhiều chứ! Người thế tục khi ăn không biết mình đang ăn, uống không biết mình đang uống, ngủ trong mê man mộng mị; còn đệ tử Phật; ăn biết đang ăn, uống biết đang uống, làm bất cứ việc gì đều nhận thức rõ đang làm gì. Người đệ tử Phật sống thức tỉnh trong từng sát na, đề phòng vọng niệm khởi lên như tên giữ cửa thành; giờ phút nào cũng cẩn thận canh phòng địch quân xâm nhập. Thành trì dụ cho lục căn thanh tịnh, địch quân là lục trần, người giữ cửa thành luôn phải thức tỉnh không cho giặc lục trần xâm nhập quấy nhiễu lục căn. Đó, người tu khác người thường là ở chỗ đó." Dòng vô minh chấm dứt, cõi tâm rộng mở, Cõi tâm rộng mở, cửa Niết Bàn rộng mở, Cửa Niết Bàn rộng mở, ta với Phật đồng nhau không khác.
-
4 bài thuốc trị mỡ máu cao Chứng bệnh mỡ trong máu cao là một hoặc nhiều loại chất béo trong huyết dịch như cholesterol hoặc (và) triglycerid tăng cao khác thường trong máu. Bình thường nồng độ cholesterol ở mức 110-200mg% (2,8-5,2mmol/l). Nó phát sinh hoặc do ăn quá nhiều hoặc do hợp thành trong cơ thể quá nhiều, hoặc do sự tiêu trừ ở tổ chức ngoại vi yếu gây ra. Bệnh nếu có tính di truyền là dạng nguyên phát, nếu do bệnh tật mang lại thì là dạng thứ phát. Đông y cho rằng, gốc của bệnh này ở việc trao đổi vận hóa phân bố nước bọt và mồ hôi khác thường, sinh ra đờm đục trong cơ thể, làm trở ngại sự vận hành, sinh ra và biến đổi của khí huyết. Chức năng của ngũ tạng từng loại có mất mát, lách mất đi sự vận động của nó, thận mất đi sự biến đổi của nó, gan mất đi sự sơ thông của nó, phổi mất đi sự phân bố của nó, tim mất đi vai trò chủ trì của nó. Thông thường thì chứng bệnh này thuộc gốc hư ngọn thực, chữa trị dùng phép tiêu đờm, tiết đục, vận động kiện toàn, bổ thận mềm gan, hoạt huyết hoặc vài phương pháp cùng tiến hành. Một số bài thuốc Bài 1: Lá sen khô 60g, sơn tra sống 10g, sinh ý mễ 10g, hoa sinh diệp 15g, vỏ quất 15g, lá trà 60g. Tất cả tán bột, đun sôi nước pha uống thay trà. Tác dụng: tỉnh tỳ hóa thấp, hạ chỉ giảm béo, dùng cho các bệnh máu nhiễm mỡ, nhức đầu chóng mặt, ngực khó thở, mạch căng... Bài 2: Trà ô long 3g, hòe giác 18g, hà thủ ô 30g, vỏ bí đao 18g, sơn tra nhục 15g. Lấy hòe giác, sơn tra nhục, vỏ bí đao, hà thủ ô cho nước vào nấu canh, ngâm trà ô long, uống thay trà. Tác dụng: Hạ huyết chỉ, dùng cho bệnh nhân máu nhiễm mỡ, còn có thể tăng cường co giãn huyết quản. Bài 3: Lá sen tươi 30g, nếu không có lá sen tươi thì dùng lá sen khô 10g. Ngâm lá sen, rửa sạch, thái nhỏ, cho vào cốc sứ, ngâm nước, sau khi ngâm 15 phút có thể uống thay trà. Tác dụng: Hạ cholesterol máu, dùng cho bệnh nhân máu nhiễm mỡ. Bài 4: Hắc chi ma 60g, dâu 12g, gạo tẻ 50g. Dâu và gạo để riêng rửa sạch, cho tất cả 3 vị vào trong bình nghiền nát, cho nước vào nồi đun sôi, cho đường trắng đánh tan, lại đun sôi, từ từ cho 3 vị đã nghiền nát vào, nấu thành dạng hồ ăn, vị thơm ngon. Tác dụng: Trừ bệnh, ích thận, bổ âm thanh nhiệt, hạ thấp huyết chỉ, dùng với những người máu nhiễm mỡ. Bài 5: Bạch mộc nhĩ 20g, bánh sơn tra hoặc sơn tra miếng 40g, đường trắng 1 thìa. Lấy bạch mộc nhĩ rửa sạch, bỏ tạp chất, cho khoảng 3 bát to nước lạnh, ngâm 1 ngày, ngâm đến khi mộc nhĩ nở ra nếu vẫn còn tạp chất thì loại bỏ đi. Bánh sơn tra thái thành miếng vuông nhỏ. Sau đó lấy bạch mộc nhĩ ngâm nước cho vào nồi nhỏ, dùng lửa nhỏ từ từ đun 1 giờ. Lại cho bánh sơn tra và đường trắng, đun nửa giờ, đến khi mộc nhĩ nhừ, nước đặc như hồ thì tắt lửa. Nếu mộc nhĩ chưa nhừ có thể kéo dài thời gian. Dùng mỗi ngày 1-2 lần, mỗi lần 1 bát nhỏ, làm món điểm tâm, hoặc ăn trước khi đi ngủ. Nếu làm hằng ngày ăn thì phải giảm nửa lượng. Tác dụng: Có tác dụng bổ âm dưỡng vị, cường tâm bổ huyết, nhuận phế bồi bổ sức khỏe, dưỡng huyết mạch, hạ huyết áp... Có thể làm thực phẩm phụ trợ cho những người bị bệnh tâm phế mạn và tăng huyết áp. Theo Sức Khỏe & Đời Sống
-
Tỷ laviedt ơi, hình như tỷ vừa "bỏ rơi" đứa em này rồi, hix! Em mong câu trả lời của tỷ lắm. Cám ơn tỷ nhiều nhiều và chúc tỷ nhiều sức khỏe, trẻ, đẹp.
-
Không Nước Không Trăng - 5 Nếu quá trình hành Thiền của các đệ tử diễn ra dưới sự hướng dẫn và theo dõi của một vị Thầy chứng ngộ thì sẽ có cơ may đúng hướng trên đường Đạo. Và chỉ người Thầy như vậy mới có khả năng tác động đệ tử đúng lúc để anh ta có bước nhảy lượng tử từ một con người bình thường trở thành vị Phật... Mẩu truyện Thiền số 5 NGÓN TAY GUTEI "Thiền sư Gutei hay giơ ngón tay trỏ lên mỗi lần Sư giảng về Thiền.Một thiền sinh trẻ khi thấy Sư giơ ngón tay trỏ lên thì cũng bắt chước giơ theo, lâu dần thành quen. Một hôm, Sư Gutei nghe nói đến chuyện này, liền đến ngay thiền sinh đó nhằm lúc chàng đang đưa ngón trỏ lên. Sư liền nắm lấy ngón tay của thiền sinh rồi chặt nghiến, vứt đi. Thiền sinh đó la hét vang trời, chạy tưởng chết. Sư quát lớn: ‘Đứng lại!’. Chàng đứng sững, quay đầu lại. Sư giơ ngón tay trỏ lên. Thiền sinh bất giác theo thói quen, cũng định giơ ngón tay trỏ của mình lên. Nhưng khi nhìn xuống thì... thiền sinh đại ngộ. Chàng sụp xuống lễ Thầy". Đây là câu truyện Thiền thật lạ và bạn có thể hiểu sai, méo mó về ý nghĩa của nó vì cái khó hiểu nhất của cốt truyện là phong cách xử trí độc đáo của vị Thầy giác ngộ. Chúng ta thường có thói quen nhận xét và đánh giá người khác hay một sự vật theo cảm tính của mình. Nhưng vị Thầy giác ngộ thì hoàn toàn khác. Người đó đứng ở một góc độ khác chúng ta, những con người phàm tục. Nơi nào người đó có mặt, nơi nào người đó đặt chân tới, nơi đó hoàn toàn mất dấu những khái niệm ta-người, có-không, được-mất, hơn-thua... Những thước đo giá trị, những bảng luân lý đạo đức, những bình phẩm khen chê v.v... đều vắng bóng bởi vì tất cả những thứ đó đều lồng cái "tôi" ở bên trong, một cái "tôi" được tô màu và đánh bóng. Người đạt Đạo không màng những thứ phù phiếm đó và cũng không để tâm mình dính bụi. Người đạt Đạo sống thật đơn giản, không cầu mong, không trông đợi. Người đó không có nơi nào để đi, không có một mục tiêu để đạt tới. Còn một nơi nào để đến, còn một mục tiêu nào để đạt tới thì tâm hành giả vẫn còn dính mắc và tham cầu. Như khúc gỗ giữa dòng sông, người đạt Đạo không tắp vào bờ bên này, không trôi về bờ bên kia; không có gì “tốt” cũng không có gì “xấu” đối với người đã giác ngộ. Người đó sống trọn vẹn hồn nhiên, phóng khoáng trong cái chân-thiện-mỹ của dòng đời, nhưng chúng ta thì không thể sống trọn vẹn được như vậy. Tật xấu của con người tầm thường là luôn đánh giá sự vật. “chúa” khác với “quỷ”, “thiện” khác với “ác”, “trong sạch” khác với “tội lỗi” v.v... Luôn luôn có sẵn hai trận tuyến, hai bến bờ mà trong đó dòng sông đời đang tuôn chảỵ. Tôi có nghe một câu chuyện ý nhị như sau: "Ngày kia, có một họa sĩ tài ba danh tiếng gặp lại người bạn bác sĩ và mời ông ta đến phòng triển lãm tranh của mình để bạn đánh giá một tác phẩm vừa mới hoàn thành. Họa sĩ đã nghĩ rằng tác phẩm này đúng thật là tuyệt tác, là đỉnh cao nghệ thuật hội hoạ của ông. Vì thế, với tài trí của bạn bác sĩ, chắc chắn ông sẽ được nghe những lời khen thích đáng, bổ ích. Ông bác sĩ đó đến phòng triển lãm tranh, ngắm bức tranh, ngắm tới, ngắm lui, ngắm xuôi, ngắm ngựợc, hết bên này tới bên kia, gật gù, nhíu mày suy nghĩ, rồi lại quan sát. Mười phút trôi qua, mười lăm phút trôi qua, rồi hai mươi phút. Họa sĩ hơi sốt ruột, chần chừ và cuối cùng lên tiếng hỏi: - Thế nào bạn? Anh nghĩ sao về tác phẩm này? Ông bạn bác sĩ trả lời, giọng chắc nịch đắc ý: - Tôi nghĩ là người vẽ tranh đã mắc bệnh phổi cấp hai rồi ! Ông họa sĩ: ...! ! !”. Như thế đó, không riêng gì chúng ta mà cả ông bác sĩ học thức kia cũng mắc cái bệnh đánh giá sự vật qua trung gian khái niệm giá trị. Ông bác sĩ là người sống trong phòng thực nghiệm, bên cạnh những thuốc men và bệnh tật. Trong đầu ông ta luôn luôn có sẵn những công thức hoá học, những căn bệnh phải tìm hiểu, những vi trùng, vi khuẩn... Nhìn ở đâu ông ta cũng thấy vi trùng và bệnh tật; những vi trùng và bệnh tật đó đã trở thành máu xương trong ông, môt nửa con người của ông. Vì thế, khi nhìn bức tranh, ông bác sĩ cũng phân tích, mổ xẻ, định bệnh. Ông ta đã bị méo mó do nghề nghiệp! Thiên nhiên trước mắt ông với trời xanh, lá đỏ hoa vàng, nhưng ông ta không còn khả năng thưởng thức cái đẹp thiên nhiên được nữa. Cái khiếu thẩm mỹ trong ông đã mất, nhường chỗ cho một đầu óc xơ cứng vì khái niệm phân biệt chia chẻ. Điều thứ hai khác biệt là người đạt Đạo trực chỉ Chân tâm, chứ không mất thì giờ với những cái bên ngoài. Còn chúng ta lại quan tâm đến cái vỏ bên ngoài. Đó là thứ vô giá trị. Chúng ta đã giết chết linh hồn mình và giữ gìn cái thân xác. Nhưng người giác ngộ thì hy sinh thân xác và không thể đánh mất linh hồn. Người đó sẵn sàng cho chết cái thân tướng giả hợp đó, không một chút luyến tiếc và luôn trân trọng chú tâm gìn giữ chánh niệm từng giây từng phút. Đối với vị Thầy giác ngộ, thân tướng bề ngoài chỉ là một phương tiện hành đạo. Khi nào cần phải xả lỵ, người đó sẵn sàng từ bỏ. Ngay cả phải cắt bỏ cái đầu để chứng Đạo, người đó cũng sẵn sàng làm thế. Krishna đã từng nói với Arjuna trong Phạm thư rằng: “Đừng quan tâm tới thân xác. Chúng ta sinh ra và chết đi không biết bao nhiêu lần rồi. Cái chết không là gì cả; chẳng qua chỉ là sự thay đổi cũng như một người nào đó cởi bỏ bộ quần áo cũ hay rời căn nhà cũ để mặc tấm áo mới hay vào căn nhà mới mà thôi". Đừng quan tâm tới cái thân tướng giả tạm bên ngoài. Hãy quay ngược vào bên trong nội tâm; hãy chú tâm nhìn vào bên trong con người của ngươi! Nhưng liệu Arjuna có hiểu đựơc ý tứ lời nói của Krishna không? Thiền sư Gutei còn hơn thế. Krishna nói, chứ Gutei thì hành động ngay mà không nói, còn đệ tử Arjuna của Krishna cũng khác xa đệ tử của Gutei. Hãy nhớ kỹ điều này: người Thầy chỉ có thể hành động mau lẹ, chớp nhoáng khi nhận xét kỹ đệ tử mình đã đạt tới một trình độ có thể lãnh hội được sự huấn thị đột xuất, và cơ duyên học hỏi cũng đã chín muồi để có thể truyền dạy; người Thầy phải ra tay hành động ngay, xuất kỳ bất ý, không để cho cơ duyên may mắn đó vuột mất. Thầy có thể tát một cái thật mạnh, đạp một cú đau điếng hay thậm chí chặt nghiến đi ngón tay của đệ tử như Thiền sư Gutei để giúp trò bước cuối cùng nhảy vọt vào chân không-giác ngộ. Nhưng không phải ai cũng lãnh hội được như vậy. Thầy chỉ ra tay khi đệ tử đã thuần thục; nếu không, ông ta phải dùng lời nói để dạy bảo. Hành động chỉ phát xuất khi cả hai đều sẵn sàng; không một chút sơ hở, không được vuột mất, chớp nhoáng, cấp kỳ, đúng thời điểm. Tâm niệm của Thầy và tâm niệm của đệ tử phải hợp nhất, thông tri nhau; nếu không, chỉ hoài công vô ích. Thầy truyền trao hết tâm huyết cho trò, đệ tử cũng gửi trọn mạng sống của mình và niềm tin tuyệt đối cho Thầỵ. Nếu Thầy bảo chết, đệ tử sẵn sàng chết ngay, không do dự. Nếu cả hai được như thế thì mới có kết quả mỹ mãn. Ngày xưa có rất nhiều người đã chứng ngộ vì họ có niềm tin vững chắc vào Sư phụ của họ. Chính niềm tin sắt đá và nghị lực bền bỉ tham thiền công án đã giúp họ đắc quả. Còn ngày nay, con người sinh ra trong nghi kỵ, trưởng thành trong do dự, hiềm khích nên khó lòng đặt chân tới ngưỡng cửa của Chân lý, chứ chưa nói đến nắm bắt được Chân lý. Trong Đạo thì Thầy không tin trò, trò nghi ngờ Thầy, huynh đệ hiềm khích báng bổ nhau, các tông phái chống đối lẫn nhau, sát phạt lẫn nhau; còn ngoài thế gian thì cha mẹ, chồng vợ, con cái, anh chị em xúc xiểm nhau, tàn hại nhau để tranh đoạt lợi lộc. Nét đẹp nhân bản đã biến mất. Cả một thế giới điên đảo vì quyền lực, danh lợi. Ngay từ ngày đầu tiên con người bú dòng sữa mẹ, chúng ta đã được nuôi dưỡng bằng tham vọng, nghi ngờ, sân hận và si mê. Bị ấp ủ, nuôi dưỡng và trưởng thành trong một môi trường như vậy, thử hỏi làm sao chúng ta tránh khỏi sự hoen ố tinh thần? Nhưng đường hướng tôn giáo thì ngược lại. Chúng ta phải tin tưởng tuyệt đối và cũng được người khác tin tưởng lại như vậy. Đệ tử của Gutei thuộc hạng người tin tưởng tuyệt đối này, vì thế anh ta đã giác ngộ. Bây giờ chúng ta đi vào mẩu truyện Thiền khác thường ở trên. Từng cử chỉ, từng câu nói trong cốt truyện thật kỳ thú, thật đặc biệt. "Thiền Sư Gutei hay giơ ngón tay trỏ lên mỗi lần Sư giảng về Thiền". Các Thiền sư không bao giờ làm một chuyện gì đó vô ích, ngay cả khi chỉ giơ một ngón tay lên. Từng cử chỉ, từng lời nói của các Thiền sư đều toát lên một ý nghĩa nhất định, một giá trị nào đó. Các Thiền sư không bao giờ làm một cử chỉ hay nói một lời nói vô bổ thừa thãi, phí thì giờ vô ích cả. Tại sao Thiền sư Gutei giơ một ngón tay lên mỗi lần ông giảng về Thiền hay có ai hỏi về Thiền? Nhưng không phải lúc nào Sư Gutei cũng làm như vậy, chỉ khi giảng về Thiền hay có ai hỏi về Thiền thì Sư mới làm như thế. Đó là tại vì Sư muốn chỉ bảo cho chúng ta nhận thức ‘Vạn pháp quy tâm’ (‘Một là tất cả, tất cả là Một’). Mọi vấn đề khơi mào cũng vì chúng ta không thể là Một, không phải là Một. Mọi rắc rối xảy ra chỉ vì chúng ta còn chia chẻ phân biệt quá. Sự vật nào cũng bị chúng ta đem ra mổ xẻ cân đong, đo lường. Chúng ta là sự phân tán, không hài hòa kết hợp. Thiền sư Gutei giảng về Thiền; những lời nói chỉ là phụ, cái chính là ngón tay. Nếu ai nhận thức được, kẻ đó bước chân vào Đạo; ai không nhận thức ra thì dù có lễ lạy nhiều cũng cách xa Chân lý vạn dặm. Cũng như Phật Thích Ca trên núi Linh Thứu giơ cành hoa sen lên cao và im lặng. Tất cả hội chúng đều ngơ ngác, duy chỉ có ngài Ma Ha Ca Diếp mỉm cười thông ý. Đạo là vô lời, không thể dùng ngôn ngữ để diễn tả Đạo, để lý giải Chân lý được. ‘Đạo khả đạo phi thường Đạo; Danh khả Danh phi thường Danh’ (‘Đạo mà còn diễn tả thành lời được thì không phải Đạo, Danh mà còn gọi tên được thì không phải Danh’ - lời của Lão Tử). Nếu bạn nhìn thấu được thì ngôn ngữ đạo đoạn, không cần đến lời nói nữa. Nhưng nếu bạn không có khả năng thẩm thấu đó thì dù có nói vạn lời cũng vô ích. Có nhiều tôn giáo, đạo phái khác nhau; có nhiều pháp môn, nhiều cách thức hành đạo khác nhau nhưng phải tựu trung lại một điểm là: Vạn pháp quy về Một, tức là quay về tìm lại cái Bản tính chân thật thường hằng, cái Bản lai diện mục, cái Vô sinh, cái Chân không thường hữu của chúng sinh thì đó mới chính là Đạo. Tụng kinh, lễ bái, tu thiền, trì chú, niệm Phật, niệm Chúa v.v... đều quy về nhất tâm thì mới mong chứng đạt. Hành giả phải thực nghiệm rằng người tu, pháp môn tu, quả vị để chứng đều là giả danh, giả hợp; phải thấy vạn pháp giai không, do nhân duyên hợp thì mới rốt ráo Ba-la-mật, mới đáo bỉ ngạn, đạt tới bờ bên kia của giác ngộ. Ý nghĩa đoạn văn ở trên được thể hiện rõ nét nhất trong bài tán tụng Đức Phật mà một Phật tử thường lễ bái, đại ý: "Con lễ Phật nhưng không thấy Phật là đối tượng đang được lễ, không thấy con là người đang lễ; cả hai đều vắng bóng cái Ngã". Khi đạt được cái Tính không vẳng lặng rốt ráo thì mối đạo vốn vô ngôn vô tướng mới tỏ hằng, mới giao lưu cảm ứng. Lúc đó, trong ta có Phật, trong Phật có ta; không biên giới, không rào cản. Người tu đến một mức nào đó sẽ nắm bắt được cái tinh túy, cái cốt tủy của suối nguồn Chân tâm trung trinh thường hằng. "Có một thiền sinh trẻ hay bắt chước Sư Gutei, giơ một ngón tay lên... " Dĩ nhiên, thiền sinh đó còn rất trẻ nên mới bắt chước người khác. Thường thì trẻ con hay bắt chước người lớn. Người đã trưởng thành đâu còn bắt chước người khác? Thực tế không phải vậy. Sự chín muồi của tâm trí không đặt trên số lượng tuổi tác. Có rất nhiều người đã lớn tuổi nhưng vẫn chẳng có kinh nghiệm gì nhiều. Nếu còn bắt chước người khác thì mãi mãi họ vẫn như đứa bé, có hiểu biết nông cạn, khờ khạo đến tội nghiệp. Vậy ‘trưởng thành’ là gì? Đó là sự nhận thức để biết rõ chính mình, chứ không phải là một kẻ bắt chước. Trưởng thành có nghĩa là ta phải là ta, ta chính thực là ta, một con người trần trụi, không một lớp sơn che phủ, không là cái bóng của kẻ khác. Không nên thế này: người bạn của ta có cái xe mới, ta cũng vội tìm mua cái xe khác; ông hàng xóm xây lại nhà, ta cũng cố kiếm tiền xây lại nhà của mình lớn hơn v.v... Hãy sống thật với mình. Hãy sống trung thực với cảm nghĩ của chính ta, không nên che giấu, không nên dồn nén, không nên ức chế. Cái quý nhất của con người là bản tính trung thực và lòng can đảm. Chính hai đức tính đó sẽ giúp con người thăng hoa đời sống và chuyển đổi ngoại giới. Bạn có sẵn hạt giống giác ngộ trong mình. Nếu bạn chuyên tâm tưới tẩm chăm bón nó, hạt giống đó sẽ đâm chồi nẩy lộc cao lớn thành cây, rồi bạn sẽ hưởng được quả vị thơm ngon. Vậy tại sao bạn không lo chăm bón hạt giống của chính mình mà lại đi bắt chước người khác, đi chăm bón hạt giống của người khác? "Có chàng thiền sinh trẻ thấy Sư Gutei giơ ngón tay trỏ lên mỗi lần giảng về Thiền, cũng bắt chước giơ ngón tay trỏ lên..." Chàng thiền sinh kia thấy Sư Gutei nổi tiếng được mọi người kính trọng, cũng muốn được như vậy nên bắt chước Sư phụ để được tiếng thơm; nhưng chính Phật Thích Ca, Chúa Jesus hay Krishna cũng không hề dạy chúng sinh phải trở thành bản sao của các Ngài mà phải trở thành chính mình, phải là chính mình, không là hình bóng của ai khác, dù người đó là Phật, là Chúa hay là các vị Thánh nhân gì đi nữa. Tìm một vị Minh sư, đến với vị Minh sư đó, hiểu những gì Minh sư dạy, uống cạn sự hiện hữu của Minh sư, ăn trọn sự có mặt của Minh sư càng nhiều càng tốt, nhưng chớ có bắt chước ông ta, đừng làm kẻ bắt chước, đừng làm điều ngu xuẩn đó, vì thật nguy hiểm. Sự bắt chước người khác không giúp ta đuợc gì mà trái lại còn gây nguy hiểm cho ta nữa. "Sư Gutei nghe chuyện, đến gặp thiền sinh đó nhằm lúc anh chàng đang giơ ngón trỏ lên, Sư nắm lấy chặt nghiến vứt đi..." Kinh khủng quá, tàn nhẫn quá, phải không? Sư phụ gì mà ác độc quá vậy, nỡ cầm tay đệ tử chặt cụt đi một ngón? Nhưng thực ra, Sư Gutei là một vị Thầy đầy lòng bi mẫn. Phương pháp giáo huấn đệ tử trong Thiền tông độc đáo quái chiêu là ở chỗ đó. Không tài nào hiểu thấu được nếu chính chúng ta không tu tập, không tư duy quán chiếu tự tâm. Phát xuất từ tâm đại từ, đại bi, đại trí, những cú đấm, những cây gậy hay những câu la hét của các Thiền sư đều là những phương tiện thiện xảo giúp đệ tử chóng khai ngộ. Thiền Sư Gutei đã sử dụng độc chiêu cuối cùng để đẩy đệ tử một bước nhảy vọt vào vùng không gian bao la của tâm thức. Đệ tử không kịp phản ứng, không kịp suy nghĩ gì hết, chỉ một tích tắc thôi, ngón tay đã rơi xuống đất... Cái đau thể xác đó thật tê tái điếng hồn, cái đau tinh thần cũng to lớn không ngần và đột xuất thần kỳ, trong một giây phút, hai nỗi đau đó hòa nhập vào nhau và chuyển hóa. Đệ tử đã liễu đạo, anh ta đã trưởng thành, không còn là một đứa bé bắt chước người khác nữa. Giây phút ngộ Đạo đến chớp nhoáng, mau lẹ và cũng có thể không xảy ra dù trải qua nhiều đời nhiều kiếp. Ngón tay chỉ là một biểu tượng, một ví dụ điển hình. Chàng thiền sinh đó bị một cú xốc bất ngờ; ngay lúc ý niệm chưa thành hình thì chàng ngộ Đạo, tâm niệm được tịnh hóa. Khi chúng ta còn kịp suy nghĩ, còn phản ứng thì lúc đó ý thức trong chúng ta vẫn còn năng lực hoạt động và chi phối, ví dụ như khi chúng ta nhìn một đóa hoa là mắt tiếp xúc với cảnh trần, tức thì thức thứ 6 là Ý thức xen vào phân biệt đây là hoa hồng chứ không phải là hoa cúc, hoa huệ, màu đỏ này đẹp hơn màu vàng kia v.v... và thức thứ 7 là Mạt na thức chấp trước dính mắc liền "hoa hồng này trong vườn ta đẹp hơn hoa của ông bà hàng xóm kia" hoặc chúng ta sẽ khởi niệm "hoa này đẹp quá, ta phải hái về cắm trong phòng" v.v..., nghĩa là một khi sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) tiếp xúc với sáu trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) là ý thức khởi lên phân biệt dính mắc ngay và đưa đến tâm Ái, Thủ, Hữu (yêu thích cái gì là muốn chiếm đoạt ngay để làm của riêng). Vì thế, Sư Gutei đã đánh ngay một đòn chí mạng dù phải chặt đứt ngón tay của đệ tử hay thậm chí giết chết đệ tử để giúp anh ta liễu đạo được cũng có giá trị gấp vạn lần sống cả một đời người mà ngu ngơ, sống không lợi ích cho đời, không đạt được gì cho mình thì kiếp sống đó dư thừa vô vị. Đệ tử bị một nhát dao chém tay đó của Sư phụ trong lúc không kịp đề phòng, không chuẩn bị, bất ngờ nhất, nên dòng ý thức ngưng hoạt động - giữa cái cự ly mong manh ngắn ngủi đó, tâm trí chàng thiền sinh như một tờ giấy trắng tinh, vô niệm - và chính cái trạng thái vô niệm đó là Chân tâm, là Đại ngã. "Chàng thiền sinh chạy tưởng chết. Sư Gutei quát lớn: ‘Đứng lại!’ Thiền sinh đứng sững quay đầu lại, Sư Gutei giơ ngón trỏ lên. Thiền sinh bất giác, theo thói quen cũng định giơ ngón trỏ lên, nhưng nhìn xuống thì... thiền sinh đại ngộ, sụp xuống lễ Thầy." Chàng thiền sinh đau điếng, chạy trốn; nhưng giật bắn người vì tiếng quát lớn đầy uy mãnh của Sư phụ ‘Đứng lại’. Khi chàng thiền sinh bất thần dừng phắt lại, toàn thể sự chú tâm của anh ta quay hẳn về âm thanh ‘Đứng lại’. Ngón tay bị chặt đứt, máu vẫn chảy, cái đau vẫn còn đó, nhưng tiếng quát ‘Đứng lại’ đã thu hút tất cả sự chú tâm của thiền sinh nên anh ta đã quên phắt ngón tay bị chặt, quên cả máu và cái đau. Một khi tâm phân biệt vắng bóng thì cái đau thể xác mất dấu. Ta cảm thấy đau vì ý thức khởi lên phân biệt. Cái đau hiện hữu không phải trong thể xác mà chính do ý thức cấu tạo nên. Nếu bạn bị đau, phải nằm trên giường bệnh, bạn sẽ làm gì? Bạn sẽ tiếp tục nghĩ về căn bệnh đang hoành hành cơ thể mình. Bạn đang nuôi dưỡng nó đấy! Bạn chú tâm về nó, lo lắng, suy nghĩ về nó. Chính cái tâm trạng khắc khoải lo sợ đó đã nuôi lớn căn bệnh! Tôi nghe nói như thế này: "Có một người bị bệnh bại liệt; ông ta đã không đi đứng được suốt 15 năm. Một đêm kia, bỗng căn nhà ông bị bốc cháy dữ dội, mọi người kêu la, cầu cứu om sòm, chạy ào ra cửa. Người đàn ông bại liệt đó trong lúc sợ hãi nhất đã quên bẵng là mình không đi được, theo bản năng ông đã đứng bật dậy chạy bay ra cửa. Ra đến ngoài đường, người nhà ông ta sau phút hãi hùng, hoàn hồn, chợt sững sờ: ‘Ủa, sao ông chạy ra đây được vậy? Ông bị bại liệt mà!’. Vừa nghe đến đây, ông ta té quỵ xuống đất”. Chuyện gì vậy? Ngay trong lúc tai nạn xảy đến bất ngờ, không kịp phản ứng, người đàn ông đã quên hẳn đi căn bệnh của mình nên toàn thân ông ta đã nghe theo lời sai khiến của tâm trí ‘Đứng lên chạy ngay!’ và ông ta đã chạy được, nhưng khi người nhà nhắc lại căn bệnh thì ông ta lại chuyển dòng ý thức về cơ thể nên không còn sức chống đỡ nữa. Cũng vậy, đệ tử của Gutei bị tiếng quát lớn ‘Đứng lại’ của Sư phụ, dừng phắt lại, dòng tâm niệm dừng lại, cái đau dừng lại, hơi thở dừng lại - ngay trong tích tắc đó, anh ta đã thoát khỏi sức chi phối của thể xác và tiếng quát lớn đó là một phép lạ nhiệm mầu giúp chàng thiền sinh tỉnh thức. Đây là lần đầu tiên, đệ tử thấu triệt được tâm trí và thân tướng giống như căn nhà và ánh đèn sáng bên trong. Thân xác này giống như căn nhà tối om, nếu không có ánh sáng ngọn đèn thì ta không thấy được gì bên trong căn nhà; cũng vậy, nếu không tịnh hóa được nguồn tâm thì mây mù vô minh vẫn còn che phủ bản tâm. Vì thế, đệ tử kia đã sụp xuống lễ Sư phụ: ‘Thầy đã cho con cơ hội nhìn thấu được tầng lớp sâu kín nhất của bản thân con; cái Bất tử vĩnh hằng". "Ngay lúc đó, đệ tử ngộ Đạo..." Giác ngộ là gì? Đó là sự liễu tri không thân, không tâm, là sự rỗng rang tự tại không bị ràng buộc, không bị ý thức chi phốị. Một khi thẩm thấu được câu hỏi ‘Ta là ai?’ thì bạn đã giác ngộ. Thiền sư Gutei đã chờ đợi cái giây phút tỉnh thức của đệ tử này nhiều năm rồi. Cũng đã nhiều năm, đệ tử này đã từng giơ ngón tay lên như vậy. Thiền sư đã đợi, đã đợi cơ duyên chín muồi, căn cơ đệ tử phải thuần thục mới hạ thủ công phu để chém một nhát cuối cùng. Vậy là giây đứt, thùng rơi, không còn nước trong thùng, không còn trăng trong nước. Ảo ảnh tan biến, đệ tử ngước nhìn vành trăng thực thụ trên trời, chàng ta đã ngộ Đạo. Giác ngộ chính là ta biết được chính ta, ta tìm lại được chính ta!
-
Không Nước Không Trăng - 4 Một trong những mục tiêu của sự hành thiền là siêu việt khỏi tâm trí, một yếu tố vốn đã trở thành vật cản con người nhận biết được bản chất đích thực của chính mình. Vì sao vậy? Bởi vì mỗi cá nhân khi được sinh ra và trưởng thành đều được giáo dục theo những khuôn mẫu mà sau này tồn tại như một phần máu thịt trong cơ thể... Mẩu truyện Thiền số 4 NGƯỜI CHẾT KHÔNG TRẢ LỜI "Thiền Sư Mamiya là một đạo sư nổi tiếng. Nhưng trước kia khi ngài còn cầu pháp dưới sự chỉ đạo của Sư phụ, ngài đã bị chất vấn phải giải đáp thế nào là ‘tiếng vỗ một bàn tay?’ Mặc dù Mamiya đã ngày đêm gia công thiền quán về câu hỏi đó, Sư phụ vẫn không hài lòng và đã rầy la Mamiya: "Ngươi không chuyên tâm cần cầu tu học gì cả. Ngươi dính mắc nhiều quá vào lợi dưỡng, danh vọng, và nhất là vào 'tiếng vỗ một bàn tay'. Tốt hơn hết là ngươi nên chết quách đi cho xong!".Lần khác, Mamiya lên gặp Sư phụ và khi được hỏi về công án đó, Mamiya lăn quay ra đất, thẳng cẳng giả bộ như người chết. Sư phụ hé mắt nhìn hỏi: - Ừ, ngươi đã chết rồi, vậy ‘tiếng vỗ một bàn tay’ là thế nào? Mở mắt ra, Mamiya trả lời: - Ồ, con vẫn chưa giải đáp được! Sư phụ hét lớn: - Cái gì? Người chết không trả lời! Cút ngay!" Thiền có một đường lối chỉ dạy rất độc đáo, riêng biệt gọi là công án. Công án là một câu đố tối nghĩa, vô lý. Bạn không thể nào giải đáp nó được. Càng cố công giải đáp công án, bạn càng đi vào bí đạo. Vị Sư phụ cứ nói: "Cố lên, cố lên, ngươi không chịu cố công tìm hiểu gì cả!". Song, ông ấy đang phỉnh gạt bạn đấy. Làm sao mà bạn có thể giải đáp được một câu đố vô nghĩa. Công án là một bài toán không đáp số, một trò chơi chữ vô nghĩa mà các Thiền sư dùng để thử tài trí đồ đệ của mình. Công án không tùy thuộc vào sự nổ lực của thiền sinh. Dù bạn có chạy theo công án đó đến hụt hơi, chết ngất đi nữa thì bạn cũng không bao giờ tìm được ẩn số của nó. Nhưng nếu bạn an nhiên bình thản nghiền ngẫm nó như một trò chơi thú vị với tất cả tổng thể con người bạn, bất chợt bạn sẽ loé lên ý thức về nó. Tiếng vỗ một bàn tay... Âm thanh chỉ phát ra khi có hai vật chạm vào nhau, chứ chỉ có một vật thì làm sao gây ra tiếng động được? Do đó, ngay trong câu hỏi ‘Tiếng vỗ một bàn tay?’, ta đã hiểu ngay đó là một điều vô lý vô nghĩa, nhưng thói thường người ta hay dùng tri thức để khám phá, suy luận vấn đề. Vì thế đệ tử đã rơi vào cái bẫy của Sư phụ. Mamiya cũng vậy, ông đã gắng sức suy tư nghiền ngẫm về câu hỏi của Sư phụ, vì cho rằng phải có ẩn ý gì sâu kín bên trong, phải có sự bí mật nào đó đằng sau câu hỏi; nhưng không ngờ công án đó chỉ là một xảo thuật mà Sư phụ của Mamiya (cũng như các vị Thiền sư khác) sử dụng để giúp đệ tử rạch toang lớp màn tri kiến, phá vỡ thành trì ngôn luận, chọc thủng mạng lưới vô minh để khai phóng nội tâm, thoát khỏi cái vỏ tự ngã to tướng. Toàn thể sự văn minh của con người đều nằm trong phạm vi cái Tôi cả: văn hóa, quốc gia, dân tộc, phong tục, tập quán, tôn giáo v.v... Tất cả những giấc mơ vĩ đại, siêu quần đều quy tụ vào con người vì nó tự cho rằng, con người là loài tối linh duy nhất đứng thẳng trên hai chân. Con người không phải là thú vật, nó hoàn toàn khác hẳn thú vật, nó là duy nhất không thuộc vào thế giới loài thú. Vì thế, càng lúc cái Ngã càng bành trướng to ra, bao trùm lên tất cả và dẫn dắt con người xa rời thực tại, đánh mất tâm linh, khiến họ mơ màng, nhận thức sai lạc. Điểm thứ hai, chúng ta là những kẻ chỉ biết bắt chước như con vẹt mà thôi. Bắt chước thì dễ dàng hơn là phải có tính xác thực và có lập trường riêng. Chúng ta bắt chước người này, tập theo phong cách người nọ; cả cái xã hội này và những con người, văn hóa tập tục đều lặp đi lặp lại, tái diễn liên tục. Tất cả đều bắt chước lẫn nhau. Chúng ta được chỉ bày phải xử sự thế này thế nọ, chúng ta phải sống theo hướng này hướng kia, chúng ta phải suy nghĩ, phải ăn nói theo cách mà những người khác đang hành động v.v... Những con người tôn giáo (thực chất là mang danh tôn giáo) những tu sĩ, những nhà thần học, tất cả họ cũng chỉ dẫn, bắt buộc chúng ta phải bắt chước làm theo như Chúa, như Phật, như Krishna; không có một ai bảo chúng ta là "Hãy là chúng ta!". Không một ai cả! Không một ai cho phép chúng ta sống theo chính mình, là tự chính mình. Không một ai cho chúng ta cái tự do đó cả. Chúng ta không thể sống theo chúng ta được. Chúng ta là một phần tử của xã hội, là một phần tử của thế giới, chúng ta phải bắt chước người khác, chúng ta phải sống y như người khác đang sống. Chúng ta không còn và cũng không có tự do cá nhân để hành xử theo ý mình. Chúng ta không còn là chúng ta nữa! Thật kỳ cục và ngớ ngẩn làm sao! Ngày xưa, chính Phật Thích Ca cũng đã bị thiên hạ nói phải bắt chước giống như Rama, như Krishna. Nhưng Đức Phật đã không làm theo ý họ, vì thế Ngài đã thành vị Phật. Đức Phật giác ngộ vì Ngài không muốn trở thành nạn nhân của sự bắt chước ngu xuẩn, không muốn trở thành nạn nhân của tư tưởng, tập tục, lề thói và xã hội. Nếu chúng ta bắt chước người khác, chúng ta đánh mất mình rồi còn gì! Tuy nhiên, chúng ta có dám cách mạng như Đức Phật không? Có dám sống, dám nghĩ, dám làm như Ngài không? Từ lúc chúng ta bắt đầu biết nhận thức, chúng ta đã bị uốn nắn theo khuôn mẫu mà người lớn đặt ra cho chúng ta, và đó là cái mà người ta gọi là nhân cách. Nếu đứa trẻ nào sống đúng quy tắc khuôn mẫu như vậy, nó sẽ đựơc ban thưởng xứng đáng; ngựơc lại, nó sẽ là đứa trẻ bất trị, có vấn đề. Thực sự, chúng ta đã bị tước đoạt quyền sống ngay từ lúc mới chào đời. Cái gọi là “Tự Do” chỉ là một danh từ suông, rỗng tuếch và giả dối. Người vợ không muốn người chồng sống theo ý muốn của anh ta. Người chồng không cho phép người vợ tự do có ý kiến, tự do phát biểu, tự do sống. Không một ai muốn người khác sống cho họ, sống đúng theo ý họ cả; bởi vì nếu người nào dám sống theo ý mình, người đó rất nguy hiểm. Những quy ước, luật lệ, những phong tục, tập quán, lối xử thế, cách suy nghĩ đều bị rập khuôn - mọi người đều phải đi đúng khuôn mòn lối cũ; không được đi trệch hướng. Người trước ta đi một bước trái, một bước phải, ta cũng phải đi một bước trái, một bước phải. Người trước ta rớt xuống hố, ta cũng phải lăn tòm theo. Ta đã được huấn luyện phải trở thành con cừu kêu be be lê lết theo vết chân đằng trước. Không dám có ý kiến, không dám làm khác đi; ta chỉ biết cúi đầu và phục tùng, cúi đầu và phục tùng thật tội nghiệp đáng thương! Dồn nén! Con người bị dồn nén; xã hội bị dồn nén; cả một thế giới bị ức chế; và sự ức chế tâm lý đó đã tạo ra những bi kịch cùng bệnh tật cho con người. Không một ai có được hạnh phúc thực sự cả; con người chỉ có đau khổ, ray rứt và suy sụp toàn diện. Freud, một triết gia người Áo, đã nói rằng: "Nhân loại không còn và cũng không có khả năng lĩnh hội; và cũng không có hy vọng đựơc cứu độ!". Ông ta đã nhận xét đúng, cái phương cách, con đường mà nhân loại đang đi tới, chỉ có đau khổ, ức chế và vô vọng. Không thấy một dấu hiệu sống nào; không có một chút sinh lực nào; không có đến một tia sáng hy vọng cỏn con nào. Và rồi những con người máy móc đó, những con người giả hiệu đó, sau khi đến tận cùng bờ vực thẳm của cái gọi là khuôn mẫu xã hội, sau khi bị dồn nén quá độ, đã bùng nổ ra như trái bom và chống trả lại. Có kẻ bùng nổ và tìm cách hủy diệt người khác. Có người đi theo các đạo sư hầu mong tìm ra một lối thoát; nhưng đáng buồn thay, trong những đền thờ, thánh đường, chùa miễu v.v... họ lại gặp những con người rập khuôn. Những nơi tôn nghiêm đó chỉ là những nấm mồ hoang lạnh. Với Chúa, ta là con người thực sự; nhưng đứng trước Đức Giáo Hoàng của Tòa thánh Vatican, ta phải là một con chiên biết bắt chước và phục tùng. Chúa Giê Su không bao giờ là một phần tử của xã hội. Ngài vẫn là một người đứng ngoài vòng xã hội. Tất cả những bậc Chân sư, những người tôn giáo thực thụ luôn là những người lạ mặt, đứng ngoài vòng xã hội. Nhưng các thánh đường, các chùa miếu, đền thờ là một phần của xã hội, và các tu sĩ không còn là người đại diện cho Tôn giáo nữa, đại diện cho sự thánh thiện linh thiêng nữa; họ bây giờ đại diện cho tiền bạc và danh vọng; họ đại diện cho nền kinh tế của xã hội. Càng xây những ngôi thánh đường nguy nga vĩ đại, càng xây những đền đài chạm trỗ tinh vi, càng bộc lộ cho người ta thấy nền kinh tế phồn vinh của đất nước đó, xã hội đó, và như một Thiền sư đã nói: "Điện Phật to lớn nhưng Phật trong đó không linh". Karl Marx đã đúng khi ông ta nói tôn giáo đang nằm trong tay những nhà tư bản hay những người trưởng giả phong kiến, những người khuynh loát và có quyền lực. Tôn giáo giờ chỉ còn là một công cụ cho sự khuynh loát thống trị. Marx đã nói đúng về bộ máy quyền hành của Tòa thánh La Mã Vatican hay tôn giáo của Mecca và Medina; nhưng Marx đã sai lầm về Mohammed, về Chúa Giê Su. Marx đã sai lầm vì không thấu triệt hoàn toàn phong cách đạo đức của các bậc Chân sư. Các đấng Giáo chủ khác xa với cái gọi là tôn giáo của xã hội. Mamiya sau này trở thành một vị đạo sư nổi tiếng... Nhưng hãy nhớ kỹ điều này: chỉ những người nào là đệ tử chân chính thì mới trở thành những đạo sư chân chính được. Người nào chưa bao giờ làm đệ tử, chưa bao giờ là người cầu đạo, chưa bao giờ học hỏi hiểu biết giới luật kinh điển là gì, thì không bao giờ có thể thành thầy dạy người khác được. Trước khi ta muốn dạy người, ta phải học cho chính mình trước đã. Nhưng mọi người đều muốn làm thầy người khác, muốn dạy bảo người khác trước, muốn chứng tỏ cho mọi người biết ta đây hiểu biết, tài giỏi hơn người chứ không muốn làm đệ tử, cho nên trên đời này có quá nhiều những người thầy rỗng tuếch, bịp bợm. Bạn cũng vậy, cái tự ngã của bạn cũng muốn một bước thành thầy người khác, thành vĩ nhân, thành thánh, nên bạn cũng trở thành một người thầy kém tài đức, nhưng không những chỉ riêng mình bạn gặp nguy hiểm mà bạn còn dẫn dắt nhiều kẻ khác vào đường cùng nữa. Một người mù dắt những kẻ mù khác rơi tõm xuống hố. Hãy nhớ rằng, cái bản ngã của ta bao giờ cũng muốn bành trướng. Ta không thể để mất một dịp may nào có thể lên mặt dạy dỗ kẻ khác; ta có thể mất hàng ngàn cơ duyên học hỏi, nhưng ta không thể mất một dịp may được dạy bảo kẻ khác. Có người nào đó hỏi ta một câu, có khi ta cũng chẳng hiểu hoàn toàn ý câu hỏi đó, nhưng ta vẫn gân cổ lên trả lời (sợ gì cơ chứ, chắc gì kẻ hỏi ta đã giỏi hơn ta!). Cho nên, cái bãn ngã của ta được vuốt ve, được khoái chí khi chứng tỏ ta đây là kẻ hiểu biết, đầy kiến thức. Đó là lý do trên đời này có lắm kẻ dạy người, nhưng rất hiếm các bậc Chân sư. Những người thầy có thể nói, có thể giảng đạo, thuyết pháp, có thể tranh luận rất thiện xảo; họ có thể tạo ảnh hưởng đến mọi người, nhưng họ không phải là những bậc Chân sư có tu chứng thực, có kinh nghiệm sống thực. Muốn trở thành một bậc Đạo sư thực thụ, muốn trở thành một vị Thánh, một Vĩ nhân, một bậc Chân sư, ta cần phải triệt để xả bỏ và khai phóng toàn diện chấp Ngã và chấp Pháp - có nghĩa không thấy cái ta đang dạy người, đang thuyết pháp, không thấy có người để học, cũng không thấy có những pháp môn, phương tiện thuyết giáo. Cái Thực chỉ hiển hiện khi cái Giả đã bị hủy bỏ. Mamiya sau này trở thành một vị đạo sư nổi tiếng; nhưng khi ông ta còn tu học dưới sự hướng dẫn của Sư phụ, ông bị buộc phải giải thích thế nào là ‘Tiếng vỗ một bàn tay?’ Lúc đó, Mamiya đã không thể thấu suốt được ẩn ý của Sư phụ khi ra một câu hỏi vô lý như vậy. Mamiya cứ miệt mài vào công án đó như con dê húc đầu vào tường đá, ngày này qua tháng nọ. Sư phụ cũng không giải thích cho ông, vì có gì mà giải thích; nhưng Mamiya vẫn không nản chí bỏ cuộc vì Mamiya tuyệt đối tin tưởng vào Sư phụ mình. Khi Sư phụ đưa ra công án ‘Tiếng vỗ một bàn tay’, chắc chắn phải có gì trong đó. Dù công án khó giải thích, khó hiểu, vô nghĩa, phi lý đến đâu đi nữa nhưng khi Sư phụ nói thì chắc chắn có cái gì mà ta không hiểu nổi. Mamiya tự nghĩ như vậy và miệt mài tư duy hành trì công án mà Sư phụ đã đề ra. Niềm tin mãnh liệt và sắt đá của Mamiya đối với Sư phụ chính là động lực giúp Mamiya nhẫn nại hành trì công án. Nhưng Sư phụ Mamiya vẫn không hài lòng, ông la rầy Mamiya: "Ngươi không cố công tu học gì cả. Ngươi còn đắm nhiễm quá nhiều vào tiền bạc, vào những lạc thú trần tục, nhất là vào ‘Tiếng vỗ một bàn tay’. Có thể may ra ngươi chết đi, lúc đó ngươi mới thấy đựơc lời giải đáp!” Sư phụ của Mamiya nói thế có ý nghĩa gì? Vị thầy cố ý chỉ dẫn cho đệ tử thấu đáo rằng không những ăn uống, tiền bạc, danh vọng là những thứ vật chất cám dỗ đầy nguy hiểm mà cái tư tưởng bám víu, ôm giữ những thứ đó cũng là trở ngại trên con đường cầu tìm giải thoát. Mamiya đã bỏ nhà cửa, gia đình, vào tự viện sống đời tu sĩ, chỉ có ba tấm cà sa, một bình bát khất thực, một cái túi lọc nước và một manh chiếu nhỏ ngủ qua đêm. Không còn gì quý báu xa hoa cả, thật quá đơn giản, phải không? Nhưng nếu Mamiya chưa xả bỏ được cái tư tưởng bám víu vào cái Không đó thì cũng vẫn còn là chấp thủ. Vị Sư phụ nói: "Ngươi vẫn còn chấp vào tài sản, vật chất..." (sự thực các tu sĩ đâu có vật chất tài sản gì), song ông ta đâu có nói cái vật chất tầm thường bên ngoài, mà muốn nói đến cái tâm niệm, cái tư tưởng bám víu vào ba tấm cà sa, vào cái chùa, vào cái danh hiệu tu sĩ v.v... Nếu ta tham đắm vào thiền định; thiền định từ phương tiện trở thành cứu cánh. Nếu ta bám víu vào cầu nguyện, tụng kinh; kinh điển trở thành chướng ngại, hàng rào bao bọc lấy ta. Dù ham ngồi thiền, ham tụng kinh, ham làm việc thiện, ham tu hành v.v... vẫn còn là tâm tham. Dù ham thiện khác xa với ham bất thiện, tham vẫn là tham. Chính cái tâm tham đắm đó đưa ta trở lại luân hồi trong ba cõi sáu đường. Chính cái tâm tham đắm đó cản ngăn ta chứng Đạo. Vì thế, vị Sư phụ đã nói: "Tiếng vỗ một bàn tay đã ràng buộc ngươi. Ngươi đã cố công tìm cách giải thích nó cho bằng được. Đừng tham đắm, bám giữ như vậy. Chính ngươi đã ràng buộc ngươi. Có thể may ra ngươi chết đi, lúc đó ngươi mới thấy được lời giải đáp." Nhưng Mamiya đã hiểu lầm câu nói của thầy mình. Thực ra, lời Sư phụ ‘Tốt hơn hết là ngươi nên chết đi’ chỉ ngụ ý chết cái tâm niệm ràng buộc, chết cái tư tưởng bám víu, chết cái Tôi, cái Tự ngã. Chính vào lúc mà chết cái Tự ngã của ta thì ta sẽ hiểu được thế nào là ‘Tiếng vỗ một bàn tay’. Đó là cái chết của Đức Phật, cái chết của các bậc Thánh. Chết đi và không bao giờ tái sinh lại. Đức Phật đã tận diệt, đã chết đi cái tâm tham luyến vô minh; các bậc A La Hán cũng đã xả ly hoàn toàn tâm khát ái đắm nhiễm. Một khi tâm niệm chấp thủ đã vắng bóng, ai sẽ là người tái sanh do nghiệp quả? Nhưng Mamiya, lúc ấy chưa thấu triệt được nên đã giả bộ thẳng cẳng ra chết, và còn ngóc cổ lên nói: "Ồ, con chưa giải được Tiếng vỗ một bàn tay". Vì thế, vị Sư phụ đã hét lớn: "Cái gì? Người chết không trả lời! Hãy đứng dậy cuốn xéo khỏi nơi đây!" Đúng vậy. Người chết rồi làm sao trả lời đựơc? Nếu Mamiya đã chuyển hóa được vô minh thì cần gì phải giải đáp công án ‘Tiếng vỗ một bàn tay?’ Chỗ vướng mắc của chúng ta là cái tâm chấp trước. Ta cứ đi tìm những cái xa xôi, mờ ảo mà quên đi cái thường hằng. Ta cứ lo lấp đầy khoảng trống tri thức mà quên nuôi dưỡng Chân tâm. Vì thế, ta đã tu tập bao nhiêu năm mà vẫn còn cách Đạo xa lắm, xa lắm!
-
Không Nước Không Trăng - 3 Trong mẩu truyện Thiền này, Đạo sư Osho bằng cách gián tiếp hoặc trực tiếp đã đề cập đến bản tính của các vị Phật (có thể được gọi bằng những cái tên khác như Thánh, Chúa, Chân Sư, Nhà Tiên Tri, Thiền Sư...). Đặc điểm chung nổi bật của tất cả các vị Phật là họ đã siêu việt lên trên tâm trí, tức là nội tâm của họ luôn "cư trú" ở trạng thái vô trí (nhìn nhận một sự vật như nó vốn thế). Mẩu truyện Thiền số 3 THẾ À! "Thiền sư Hakuin rất được mọi người trọng vọng kính nể vì phong cách đạo đức thánh thiện của ông.Một ngày kia, có người con gái trẻ đẹp ở gần chùa của thiền sư bỗng bị chửa hoang. Người ta không biết cha đứa bé là ai. Bố mẹ cô gái vô cùng tức giận và xấu hổ, nên đánh đập tra khảo cô con gái về lai lịch tình nhân của cô. Ban đầu cô con gái không chịu nói gì cả, nhưng sau cùng vì bị đánh đập dữ dội, cô tiết lộ đó là thiền sư Hakuin. Tin xấu đồn ra nhanh chóng. Cha mẹ cô gái giận dữ, đùng đùng lên chùa và mắng xối xả vào mặt Hakuin. Khi họ dứt lời, Hakuin chỉ thốt hai tiếng "Thế à!" Sau khi đứa bé chào đời, gia đình cô gái mang đứa bé quẳng cho Hakuin nuôi. Thời gian đó, Hakuin bị tai tiếng và nhiều người chê bai trách móc ông đủ điều; nhưng Hakuin vẫn thản nhiên như không, dường như câu chuyện kia chẳng có dính líu gì đến ông cả. Hakuin chăm sóc đứa bé thật tử tế và bế nó đi xin sữa khắp nơi. Một năm sau, cô gái vì cảm thấy ray rứt hối hận nên đã thú thực với cha mẹ là người cha đứa bé không phải là Hakuin, mà là một chàng thanh niên làm ở chợ cá. Cha mẹ cô ta vội chạy lên chùa dập đầu tạ lỗi với Hakuin và xin mang đứa bé về. Thiền sư Hakuin thốt lên hai tiếng "Thế à!" và vẫn thản nhiên như không”. Đời sống thánh thiện là gì? Bạn định nghĩa trong sạch như thế nào? Thực ra, những gì bạn định nghĩa về đạo đức, trong sạch v.v... đều không phải là sự trong sạch, đạo đức thực sự. Vì sao? Bởi vì "Đạo Đức”, “Trong Sạch” mà đặt trên một tiêu chuẩn nào đó thì không phải là Đạo Đức hay Trong Sạch đúng nghĩa. Cái thứ đạo đức mà bạn đang nói đến chỉ là một sự tính toán, đo lường, định mức - một sự tính toán luân lý mà thôi. Cái thứ đạo đức đó không phải là đạo đức của bậc Thánh Nhân. Cái thứ đạo đức có tiêu chuẩn, có tính toán đó là thứ "đạo đức giả hiệu", là thứ "đạo đức tối nghĩa". Chúng ta cần phải luận bàn rõ ràng điều này. Nếu bạn chịu khó suy nghĩ sâu xa hơn nữa với Trí Tuệ, bạn sẽ hiểu một vị Thánh là thế nào, một người thông minh là thế nào, một người có kiến thức là thế nào. Nếu bạn hiểu đúng thì tất cả sự việc sẽ diễn biến đúng; nếu bạn hiểu sai thì vạn sự đều sai. Sự Thánh Thiện chân xác, vô tư như một trẻ thơ. Đầu óc một trẻ thơ thật trong sáng. Đứa bé không biết phân tích, chia chẻ. Đứa bé không bao giờ tách rời và đánh giá sự kiện: đây là Chúa, kia là Quỷ; cái này tốt, cái kia xấu; cái này đúng, cái kia sai; vân vân và vân vân. Sự thánh thiện đạo đức theo ý bạn là sự lựa chọn, đánh giá. Bạn đã làm một sự phân chia ranh giới Thiện - Ác rõ ràng, bạn đã chia cắt thực tại và sự chia cắt đó không bao giờ dẫn bạn tới Chân Lý. Sự Vô Tư Thánh Thiện chỉ nẩy mầm đơm bông khi sự hiện hữu không bị chia cắt. Bạn đón nhận nó như nó là. Bạn không chọn lựa, không chia chẻ, không đánh giá một sự kiện nào. Bạn phải vượt lên trên ranh giới chia hai đó, bạn phải vượt lên trên những định mức, tiêu chuẩn đặt ra bởi đầu óc hẹp hòi thiên kiến của người đời thì bạn mới hy vọng nắm bắt được Chân Lý Tuyệt Đối. Lẽ dĩ nhiên, chúng ta phải dùng trí tuệ để phân biệt đúng sai, nhưng đừng để bị dính mắc vào tư kiến phân chia đó để tâm tư, tầm nhìn chúng ta không bị đóng khung vào những tiêu chuẩn định mức giả tạm. Sự việc này "đúng", "phải" là đúng phải như thế nào? Con người kia hành động "sai", "trái" là sự sai trái ra sao? Phải chăng là do số đông người chấp nhận, đồng ý đó là giá trị luân lý xã hội thì chúng ta coi hành động này là đúng theo góc độ đạo đức này, việc làm kia sai theo góc độ luân lý kia v.v... Những thang giá trị định mức đạo đức luân lý đó từ đâu phát sinh ra? Có phải chăng cũng từ tư kiến chủ quan của một số người nào đó đề xướng ra và gặp may, được mọi người hoan nghênh công bố? Dưới đây tôi sẽ kể cho bạn một nghịch lý. Khalil Gibran đã viết một câu truyện thật hay, thật tuyệt. "Có một vị tu sĩ đang vội vã đi về phía nhà thờ. Ngay trên đường đi, ông ta bỗng thấy một người đàn ông sắp chết. Người này bị mất máu nhiều, đang hấp hối; có lẽ hắn bị kẻ nào đó tấn công quá nặng - hắn bị thương nhiều nơi, máu me tràn trề. Vị tu sĩ đang gấp đi, ông ta phải đến nhà thờ cầu nguyện đúng giờ, nhiều tín đồ đang đợi ông giảng đạo. Nhưng ông ta là một con người đạo đức (tôi nói ông ta "đạo đức" chứ không nói ông ta "thánh thiện"). Ông ta tự nghĩ mình sẽ làm gì trong trường hợp này. Ông suy tính: - Tốt hơn hết là phải cứu kẻ sắp chết này. Đó là những gì mà Chúa Giê Su đã dạy. Nên quên nhà thờ đi, quên những con chiên đi; họ có thể đợi một chút mà - nhưng kẻ này phải được cứu giúp ngay, nếu không hắn sẽ chết mất! Và rồi ông tu sĩ tiến đến gần người đàn ông hấp hối đó, nhưng ngay phút ông ta nhìn tận mặt kẻ sắp chết, ông bỗng giật thót người và bàng hoàng. Bộ mặt này nhìn có vẻ rất quen thuộc, có vẻ rất tội lỗi. Và ông tu sĩ chợt nhớ ra là ở nhà thờ ông có một bức tranh vẽ tên Tội Lỗi - và đúng rồi, đúng là người này rồi. Đúng là tên Tội Lỗi, chẳng ai khác đâu! Ông tu sĩ hốt hoảng chạy về phía nhà thờ. Tên Tội Lỗi ngóc cổ dậy, gọi lớn: - Này, tên linh mục kia! Hãy nghe đây. Nếu Ta chết, ngươi sẽ hối hận mãi mãi, nghe chưa? Vì nếu Ta chết đi, nếu tội lỗi không còn, thì Chúa nhà ngươi sẽ ở đâu? Nếu cái Xấu mất hết, thì cái Tốt cũng không còn đất để tồn tại nữa! Nhà ngươi có mặt bởi vì có Ta, cái Tốt được nêu lên vì có cái Xấu đối lập, Chúa, Thượng Đế hay Thánh Thần hiện hữu vì có Tội Lỗi đứng kề bên. Hãy nghĩ kỹ đi, tên linh mục kia! Ông linh mục dừng lại. Tên Tội Lỗi nói có lý, đúng thật! Nếu tội lỗi không còn thì địa ngục cũng biến mất. Và nếu không có sự sợ hãi thì ai sẽ tôn thờ Chúa nữa? Tất cả những lời cầu nguyện, van xin thống thiết kia đều bắt nguồn từ Sợ Hãi. Bạn sợ hãi, tình yêu của bạn đối với Thiên Chúa cũng dựa trên sự sợ hãi tội lỗi và trừng phạt. Cái tốt đẹp của bạn cũng được đo lường qua tội lỗi. Chúa, Thượng Đế hay Thánh Thần cũng đều cần đến tên Tội Lỗi này. Tên Tội Lỗi lại lải nhải tiếp: - Chúa cần Ta đó! Tin Ta đi! Chúa không thể nào không có Ta. Tất cả thánh đường, đền thờ sẽ sụp đổ hết và sẽ không còn một con chiên, một tín đồ nào nữa nếu không có Ta. Và ngươi sẽ không tìm thấy một người tôn giáo nào nếu Ta không còn có mặt trên đời này. Ta dụ dỗ bọn chúng, Ta mê hoặc con người; qua sự dụ dỗ mê hoặc của Ta, các ngươi trở thành những tên đạo đức. Ngươi có bao giờ nghe là có một tên đạo đức nào lại không bị lọt vào cạm bẫy của tội lỗi không? Tất cả đều bị Ta dẫn dụ hết. Chính Ta tạo ra bọn chúng; chính Ta tạo ra bọn đạo đức đó cả. Hãy quay lại đây ngay! Ông linh mục do dự một chút, nhưng quả thực tên Tội Lỗi ranh ma này nói có lý, và hắn có lý một cách rất con người. Ông ta lắp bắp: - Ông nói có lý! Quả thực ông rất có lý! Chúng tôi sẽ ra sao, sẽ về đâu nếu không có ông?! Và vị linh mục vác tên Tội Lỗi lên vai, cõng hắn tới nhà thương. Ông ta đợi ở đó cho tới khi biết chắc rằng tên Tội Lỗi kia sẽ qua được cơn nguy kịch và sống sót - một khi tên Tội Lỗi sống sót thì nhà thờ, đền đài, các tu sĩ, các tôn giáo vẫn sẽ tồn tại”. Vị linh mục kia quả thực là một người đạo đức, nhưng không phải là một người thánh thiện. Cuộc đời của ông ta là cả một chuỗi dài tính toán, đo lường. Khi bạn tính toán thiệt hơn thì bạn đã thua cuộc; khi bạn chia chẻ cuộc đời, biến nó thành một bài toán lôgic thì không có cách gì bạn thắng được. Trận chiến giữa cái Ác và cái Thiện, giữa Tội Lỗi và Đạo Đức đã quyết định bạn là người thua cuộc. Một con người trong sáng vô tư không phân biệt thánh phàm, thiện ác, tốt xấu, tội lỗi hay đạo đức. Một con người trong sáng hoàn toàn sống với sự thuần khiết nội tâm, không tính toán so đo. Người đó thật giản dị, trung thực và thanh khiết. Người đó sống an lạc trong phút giây hiện tại, ngay bây giờ chứ không trôi về quá khứ hay bay bổng theo tương lai. Danh từ "Quá Khứ" và "Tương Lai" không có ý nghĩa gì đối với người đó. Chỉ có thời điểm Hiện Tại là quan trọng. Nhưng cái đạo đức của bạn... Cái đạo đức của bạn đó được tạo ra bởi các tu sĩ, còn các tu sĩ đó sánh vai với tên Tội Lỗi; tên Tội Lỗi và các tu sĩ không thể tách rời, họ cần có nhau để cùng tồn tại. Vì thế, cái vỏ đạo đức mà bạn đang đánh bóng đó không phải là sự thánh thiện, không phải là sự trong sáng vô tư. Song, nếu hễ có người nào hành xử có vẻ đạo đức theo cách bạn nghĩ thì bạn sẽ tôn sùng, vinh danh người đó ngay. Bạn sẽ gọi người đó là thánh, là người đạo đức. Những thánh, những người đạo đức đó chẳng qua chỉ là các hình nộm được khoác áo qua sự nhận xét, đánh giá của bạn. Cái tiêu chuẩn, cái giá trị luân lý định mức đó chỉ là cái vỏ che giấu sự sợ hãi; và sự trá hình đó thật khéo léo đến nỗi bạn cũng bị đánh lừa, bạn tự lừa dối mình luôn. Krishnamurti đã từng nhấn mạnh rằng không nên chọn lựa, không nên lựa chọn gì cả; một khi bạn thích tính toán lựa chọn, bạn đã sai lầm rồi! "Hãy nhận biết, hiểu biết, đừng chọn lựa so đo - ngay cả cái "Không Chọn Lựa", cũng phải bị vứt bỏ luôn. Hãy đơn giản hiểu rằng, những gì bạn chọn lựa so đo để hành xử đều phát sinh từ tâm trí tính toán của bạn. Cái thứ tâm trí đó chỉ có thể tạo ra những giấc mơ, chứ nó không thể nào dẫn bạn tới Chân Lý được. Chân Lý luôn hiện hữu trước mặt chúng ta, không cần phải tạo ra. Chỉ cần chúng ta nhìn thật trung thực, đúng đắn, một cái nhìn không phân biệt thì Chân Lý lập tức hiện hữu. Một con người trong sáng vô tư không phải là một chiến sĩ; người đó là vị Thánh; nhưng con người của đạo đức xã hội là một chiến sĩ, không phải là Thánh nhân. Dù đó là trận chiến nội tâm, bạn đang chiến đấu với chính bạn chứ không phải với người nào khác thì trận chiến vẫn là trận chiến; ở đây chỉ khác danh từ một chút là trận chiến bên ngoài hay trận chiến bên trong thôi; thực nghĩa của danh từ chiến đấu vẫn là một với thắng bại, hơn thua, là ranh giới hai bờ đối đãi. Con người của sự trong sáng thánh thiện đúng nghĩa không cần phải chiến đấu, không cần phải đàn áp hay bao vây cái gì. Chẳng có cái gì phải chiến đấu, chẳng có người gì cần đàn áp. Người đó đi đứng an nhiên tự tại, siêu việt khỏi không- thời gian, không bị ràng buộc và cũng không chèn ép ai. Họ Tự Do Tuyệt Đối! Nếu bạn thấu hiểu toàn bộ vấn đề, bạn mặc nhiên đón nhận mọi việc, và thái độ đón nhận đó dẫn đường bạn tới sự trong sáng toàn thiện; và sự trong sáng như vậy cũng không cần được ai vinh danh thêm nữa. Chân Lý mãi mãi vẫn là Chân Lý. Chân Thiện Mỹ mãi mãi là Chân Thiện Mỹ. Dù có hay không có ai nhắc tới thì sự thực vẫn là sự thực, không thay đổi. Tuy nhiên, đạo đức thì lại khác. Đạo đức thuộc về một quốc gia; thánh thiện thì không biên giới. Đạo đức thuộc về một thời đại nào đó; thánh thiện thì vô kỳ. Đạo đức thuộc về một xã hội nào đó, nhiều môi trường xã hội khác nhau thì có nhiều mẫu đạo đức khác nhau - nhưng thánh thiện thì chỉ có một. Dù bạn đi bất cứ nơi đâu, thánh thiện vẫn chỉ là một; như vị nước biển, chỉ có một vị là mặn, giáo lý đạo Phật chỉ có một vị là vị Giải Thoát. Đức Phật, Chúa Giê Su hay Ramakrishna, những bậc Thánh vĩ đại này đều chỉ có một mục đích là ban vui cứu khổ cho chúng sinh. Nhưng con người của đạo đức thì lại khác. Nếu họ là tín đồ Ấn Độ Giáo thì cách hành xử của họ lại khác với người Đạo Hồi, khác với người Đạo Thiên Chúa. Con người của đạo đức phải theo những mẫu mã, luật lệ, quy ước của xã hội mà họ đang sống. Có nhiều xã hội và khuôn mẫu đạo đức cũng có cả triệu thứ. Xã hội thay đổi thì khuôn mẫu đạo đức cũng thay đổi. Chân Thiện Mỹ thì vĩnh cửu, phi thời gian và không gian, không có giới hạn bởi quốc gia, dân tộc, môi trường xã hội v.v... Chân Thiện Mỹ vượt qua tất cả những gì do con người định ra, tạo tác. "Thiền sư Hakuin được mọi người xung quanh trọng vọng kính nể vì phong cách đạo đức thánh thiện của ông". Những người đó thực sự không hiểu gì cả; họ không biết rằng những lời khen, tâng bốc đó không ảnh hưởng chút nào tới Thiền sư Hakuin. Họ cho rằng "Hakuin là một người đạo đức" nhưng thực ra, Hakuin không phải mẫu người đạo đức theo cách nghĩ của họ. Hakuin là một người thánh thiện, một người chân tịnh. Hakuin là một người tôn giáo và hãy nhớ sự khác biệt này - Hakuin là người đã đạt tới Chân Thiện Mỹ vĩnh cửu; nhưng mọi người xung quanh ông không thể nào thấu hiểu sự khác biệt giữa đạo đức và thánh thiện vượt ra ngoài quy tắc đạo đức luân lý đời thường. Người ta cũng có thể nghĩ rằng Hakuin là vị Thánh, nhưng Hakuin không phải là vị Thánh theo quan niệm của họ. Hakuin là bậc Thánh, nhưng không phải là bậc Thánh theo sự đánh giá định mức của họ. Những tiêu chuẩn, quy tắc của người đời không thể áp dụng vào Thiền sư Hakuin. Bạn phải quăng bỏ đi những cách đánh giá phán xét của bạn và chỉ "nhìn", nhìn bằng con mắt thứ ba, mắt Trí Huệ, mắt nội tâm, thì bạn mới thấy được chân tướng của một vị Thánh. "Một ngày kia, người con gái nhà gần chùa thiền sư Hakuin bị chửa hoang. Cha mẹ cô ta giận dữ đánh đập cô để tra hỏi lai lịch cha đứa bé, và cô ta đã nói đó là Hakuin. Bị cha mẹ cô gái mắng nhiếc thậm tệ, Hakuin chỉ điềm nhiên thốt lên hai tiếng "Thế à!" Thiền sư Hakuin không chấp nhận cũng không phủ nhận sự kiện cô gái có chửa với mình. Hakuin không nói "Tôi không chịu trách nhiệm chuyện này". Hakuin cũng không nói "Tôi chịu trách nhiệm chuyện này". Hakuin chỉ điềm nhiên thốt lên hai tiếng không ăn nhập vào đâu cả "Thế à!" "Thế à!" nghĩa là gì? Nó có nghĩa là sự nhận chịu ngay cả khi sự nhận chịu đó không cần thiết phải có. Bởi vì khi bạn nói "Tôi chấp nhận" thì tận cùng thâm tâm của bạn không ưng chịu; bạn đã chối bỏ nhưng bạn ép bụng mà nhận. Hakuin không nói "Có" cũng không nói "Không". Hakuin không cần phải tranh cãi vô ích. Khi người ta đã gán cho ông cái tội như vậy thì nếu càng biện hộ lại càng làm cho mọi người nghi ngờ hơn. Hakuin không chọn lựa, không tranh cãi gì cả. Hãy nhớ một điều là: "Nếu ta càng biện hộ tranh cãi thì càng nói lên sự sợ hãi khuyết điểm của ta vậy!" Nếu Hakuin chỉ là một vị sư bình thường, một người đạo đức bình thường, một người được coi như vị Thánh, thì Hakuin sẽ chống trả và tự bào chữa ngay là ông không phải cha đứa bé đó, rằng ông không hề phạm tội, ông trong sạch, ông bị người ta vu oan v.v... Ngay cả nếu ông phạm tội, có lẽ ông cũng không nhận. Một người đạo đức, một người được mọi người tôn trọng như vị Thánh, sẽ phủ nhận quyết liệt ngay nếu mình không phạm tội - nhưng Hakuin, Thiền Sư Hakuin không hề bào chữa, không hề biện minh điều gì, cũng chẳng nói lời gì ngoài hai tiếng không đâu vào đâu "Thế à!" Cái gì đã xảy ra trong cái tâm Hakuin? Không, không có gì cả! Hakuin chỉ lẳng lặng nghe những lời buộc tội đó, chỉ điềm nhiên nghe những lời khinh chê báng bổ đó, Hakuin không phản ứng cách này hay cách khác. Ông không nói “có” cũng chẳng nói “không”. Nội tâm ông không xao động, phong cách vẫn an nhiên tự tại, Thiền Sư Hakuin đón nhận đứa bé với tinh thần vô quải ngại, vô úy. Một khi ta phản ứng, một khi ta nói cái này đúng, cái kia sai, cái này có, cái kia không có, thì ta đã bộc lộ sự sợ hãi của ta rồi. Chỉ có Sợ Hãi mới đưa đến phản ứng chống trả lại. Còn tinh thần không sợ sệt, không khuất lấp, không ngại ngần sẽ đưa đến bình tĩnh an nhiên trước nghịch cảnh. Vì sao vậy? Chính vì tinh thần vô quải ngại, vô úy đó mới là sức mạnh nội tâm tuyệt đối, sức mạnh mãnh liệt của bậc Siêu Phàm, bậc Đại Bồ Tát. Còn chúng ta, nếu có ai xúc phạm một chút, nói dèm pha một chút là chúng ta thấy khó chịu phản ứng ngay! Tại sao? Tại sao chúng ta lại lo sợ mất thể diện quá vậy? Tại sao chúng ta phản ứng tức thời? Có phải trong cái tâm chúng ta có điều gì khuất lấp, có tì vết gì chăng? Có phải vì thế mà mỗi khi có ai chạm đến, vô tình hay hữu ý, chúng ta đều cảm thấy đau nhói, khó chịu? Cổ nhân đã nói: "Thuốc đắng dã tật, sự thật mất lòng!”. Sự thực làm cho người ta đau đớn, khó chịu bởi vết thương còn đó, còn rỉ máu. Chúng ta tự biết mình có tì vết nên hễ ai chạm đến thì chúng ta không cười nổi, chúng ta phải la toáng lên nếu không muốn sự việc đổ bể ra. Do đó những kẻ đạo đức giả, những kẻ đội lốt thánh nhân rất dễ lừa bịp mọi người qua lớp áo đạo đức thánh thiện. Một khi họ đã tạo được sự tin tưởng nơi mọi người thì họ nói gì, chúng ta cũng biện hộ cho họ là đúng, là phải. (Con người thật quá ngây thơ đến mức tội nghiệp!) Và khi chúng ta đã hoàn toàn tin tưởng rồi thì dù những người đó là kẻ cắp hay gian trá, chúng ta vẫn tin họ là thánh nhân giáng phàm độ thế. Lúc đó chúng ta không e dè nghi ngại gì họ nữa, có thể đem hết tài sản, tâm tư đặt vào những người như thế. Đúng vậy, những người đạo đức giả hiệu luôn tìm cách bảo vệ chính mình, luôn tìm cách phô trương vẻ quân tử chân chính; lúc nào họ cũng phải che giấu bộ mặt thật của mình dưới lớp áo sơn phết mầu đạo đức hay huyền bí. Tham Lam, Sợ Hãi, Sân Hận, Si Mê... - tất cả những tính xấu này đều cần có bộ áo giáp che chắn bên ngoài. Trong tận cùng thâm tâm chúng ta, chúng ta phải nhìn nhận rằng, thật hèn nhát khi phải che giấu bộ mặt thật của chúng ta sau lớp áo giáp đó. Một đứa bé khi mới sinh ra nào biết cái gì là tốt, cái gì là xấu. Nhưng nó được cha mẹ dạy bảo phải biết phân biệt cái này, cái kia. Nó sẽ bị phạt nếu nó làm điều gì mà người lớn cho là sai trái - nhưng với lứa tuổi ngây thơ kia, đứa bé không tài nào hiểu được rõ ràng “tốt” là phải thế nào, và “xấu” là ra sao! Tuy nhiên, vì cha mẹ nó nói là xấu thì nó phải tin đó là xấu, nếu không nó sẽ bị phạt đòn. Nó phải nghe lời vì cha mẹ nó có quyền uy và dưới sự thống trị của uy quyền đó, sự ngây thơ trong trắng của đứa bé bị bóp méo, biến dạng, chèn ép. Đựa bé phải tạo cho nó một chiếc áo giáp để tự bảo vệ. Nó tỏ ra sợ hãi, mất tự nhiên khi bị sai bảo làm việc gì vì nó biết sẽ bị phạt nếu nó làm không đúng, hoặc sẽ được thưởng nếu người lớn cho là tốt, là phải. Nó không còn tự nhiên nữa; nó không còn trong sáng ngây thơ hoàn toàn như bản chất vốn có. Người ta đã nhồi nhét vào đầu óc trẻ thơ vô tư của nó một số quy tắc, ước lệ, khuôn mẫu của đạo đức xã hội và nó phải phục tùng, không được có ý kiến khác. Sự Ngây Thơ Trong Sáng của đứa bé đã bị "đầu độc" - và đứa bé gánh trên vai những khuôn mẫu, những quy ước xã hội nặng nề, rồi từ từ lớn lên, nó đi vào cuộc sống với tâm trạng héo hon, nghi kỵ, ưu tư, với tâm hồn đã cằn cỗi đóng khung. Nếu nó dám bất tuân, không phục, sống theo ý muốn của nó tức thì nó sẽ bị xã hội lên án và trừng phạt. Có khi tội của nó không quá đỗi nặng nề để bị xử phạt, nhưng nó vẫn bị trừng phạt vì nó dám sống theo ý nó, nó dám cãi lại, không phục, nó dám sống cho nó. Thế thì liệu sự trừng phạt như vậy có hoán chuyển nổi con người nó hay không? Hay chỉ tạo ra những hậu quả ngược lại? Bạn là Cha là Mẹ. Bạn tự cho mình có quyền trừng phạt đứa con nếu nó dám cãi lời. Cũng vậy, Tòa Án Đạo Đức Xã Hội sẽ trừng trị kẻ nào dám đi ngược lại bánh xe khuôn mẫu của xã hội. Có khi nào bạn tự suy ngẫm, nhìn kỹ lại lòng mình tại sao bạn lại trừng phạt con mình khi nó đi ngược lại ý bạn, nó dám sống cho nó? Bạn viện dẫn lý do là bạn dạy dỗ nó, muốn nó trở thành người thế nọ thế kia và bổn phận nó phải vâng lời, nhưng thực ra không phải vì Tình Thương mà bạn dạy con cái mình, mà là do Tự Ngã của bạn đang được vuốt ve nếu con cái bạn dễ dạy, và phục tùng. Khi nó dám cãi lại thì bạn bị xốc ngay, vì Tự Ngã của bạn bị va chạm nặng nề. Nếu bạn xem lại những kinh sách cổ xưa như Cựu Ước, Kinh Koran hay những kinh sách khác, bạn sẽ thấy hình ảnh Thượng Đế, Chúa như thế nào. Trong Kinh Cựu Ước có câu: "Vâng lời là đạo đức; không vâng lời là tội lỗi" - và những kẻ tội lỗi phải bị đày xuống hỏa ngục đời đời. Nếu sự phục tùng, vâng lời bị cưỡng ép đe dọa như vậy thì ngay từ lúc đầu đứa bé đã học được một bài học sơ đẳng là: phải tính toán cái gì làm được, cái gì không làm được. Nó sẽ tìm cách chinh phục bạn, ve vuốt bạn, làm sao trở thành một đứa bé ngoan để được thưởng. Đứa bé đã biết đóng kịch, biết nói dối, biết che giấu lọc lừa. Việc phạt đòn đứa bé làm mất dần bản tính trung thực của nó. Để tự bảo vệ, đứa bé bắt đầu sống dưới hai bộ mặt. Chúng ta cũng như đứa bé con này, luôn núp sau một nhãn hiệu, một tên gọi. Nhà bác học Pascal thường nói: "Thế giới này đầy rẫy những tên điên và những đứa trẻ bị rơi vào tay những tên cuồng loạn ngớ ngẩn đó. Những đứa trẻ ngây thơ thánh thiện kia đã bị họ bóp méo, vo tròn và đầu độc. Một số chạy trốn qua cửa sau và trở thành những tên tội phạm. Một số chạy ra cửa trước và trở thành những nhà thông thái, kỹ sư, bác sĩ... Song, những nhà thông thái và những tên tội phạm có cùng một tính chất 'nổi loạn'. Tên tội phạm nổi loạn chống lại những khuôn mẫu đè nặng lên hắn, nhưng hắn đi sai đường nên hắn trở thành tội phạm. Sự nổi loạn của hắn đưa đến sự phá hoại, huỷ diệt. Còn các nhà thông thái hay các vĩ nhân khác cũng nổi loạn, nhưng sự nổi loạn đúng đường, theo chiều hướng đập phá cái cũ, xây dựng cái mới; bộc lộ sự nổi loạn của họ qua sáng tạo và cải thiện“. "Cha mẹ cô gái rất giận dữ, tra khảo cô về lai lịch cha đứa bé. Lúc đầu cô ta không nói, nhưng sau cô tiết lộ đó là Hakuin. Cha mẹ cô ta chạy lên chùa và mắng xối xả vào mặt Thiền sư Hakuin. Sư Hakuin vẫn điềm nhiên nhẹ nhàng nói ‘Thế à!’ Khi đứa bé được sinh ra, nó bị cha mẹ cô gái đem bỏ cho Hakuin. Thời gian này, Hakuin đã bị tai tiếng dèm pha rất nhiều, nhưng ông chẳng quan tâm gì cả". Đối với bậcc Thánh nhân, những lời tâng bốc, khen thưởng hay những lời châm biếm thóa mạ chẳng có tác động gì đến họ cả. Họ đã vượt ra ngoài những lý luận dung tục tầm thường của người đời. Còn chúng ta, chúng ta quan tâm quá đến dư luận; quan tâm quá đến ý kiến của người khác. Tại sao dư luận lại quan trọng đối với chúng ta như vậy? Tại sao chúng ta lại lo lắng đến ý kiến, suy nghĩ của người khác? Bởi vì chúng ta không còn tự chủ được nữa. Từ nhỏ, người lớn đã tập cho chúng ta phải cúi đầu phục tùng nên chúng ta cũng không còn biết mình là ai nữa. Chúng ta lệ thuộc vào người khác quá nhiều, chúng ta coi trọng dư luận quá nhiều. Nếu họ nói chúng ta đúng, tốt thì chắc chắn chúng ta như vậy. Nếu họ nói chúng ta sai, xấu thì quả thật chúng ta sai, xấu, không trật chút nào. Chúng ta tự biến mình thành nô lệ của dư luận, nô lệ của ý kiến người khác. Chúng ta thiếu can đảm để có thể dám nói: "Ý kiến của họ là ý kiến của họ. Tôi là tôi, không ăn nhập dính dáng gì đến họ cả. Nếu tôi không tốt thì dù họ có giấu giếm, sơn phết cho tôi thì tôi vẫn là một người xấu. Nếu tôi tốt đẹp, dù họ có nói xấu vạn lời đi chăng nữa thì sự thực vốn không thay đổi. Dư luận là dư luận; tôi là tôi". Quả thực, người nào tự biết mình rồi thì sẽ không bao giờ bị lay động bởi những gì người khác nghĩ về họ. "Như tảng đá vững chắc không lay động bởi sức gió. Người bên ngoài tâm trí không lay động bởi khinh chê, yêu ghét của người thường" (Kinh Pháp Cú). Dư luận, ý kiến của người thường cũng giống như thời tiết thay đổi và không bao giờ giống nhau. Sáng nay trời có mây, đến trưa thì quang đãng. Lúc này thì rực nắng chói chang, lát nữa lại mưa rồi. Thời tiết thay đổi bất thường, dư luận người đời cũng biến đổi như chong chóng. Hãy nhìn ông cựu Tổng Thống Hoa Kỳ Richard Nixon, mới vừa phút trước ông ta là đỉnh cao thiên hạ, phút sau ông ta bị hạ bệ liền, chẳng còn gì hết. Ý kiến thay đổi, những người từng thân cận ông quay lại chống đối ông ngay tại chỗ - cũng chính những con người đó! Họ mới vỗ tay chào đón ta, phút sau quay lại phỉ nhổ vào ta liền. Thói thường tình đời là vậy: những người đưa ta lên ngôi cao cũng chính là những kẻ sẽ hạ ta xuống thấp trước nhất. Quy luật ngàn đời đó thật chua chát, mai mỉa làm sao, phải không? Những người bốc thơm ta, khen thưởng ta nhiều nhất cũng là những kẻ sẽ phản bội, quay mũi giáo về ta trước nhất. Vì sao? Vì chính bản thân họ vốn là loại người phân biệt, kỳ thị. Họ luôn đứng giữa hai bến bờ lựa chọn, và với tư tưởng sữn có như vậy, họ sẽ chọn cái nào có lợi cho họ nhiều nhất. "Hakuin chăm sóc đứa bé thật tử tế. Sư đi khắp nơi xin sữa, thức ăn và tất cả đồ cần dùng cho đứa bé. Một năm sau, mẹ đứa bé vì ăn năn hối hận đã vu oan cho Hakuin, thú thực với cha mẹ rằng cha ruột đứa bé là một tên bán cá ngoài chợ". Quả tình, Sư Hakuin đã chịu nhiều cay đắng. Sư có thể bị chửi rủa, mắng nhiếc, khinh ghét, thậm chí có thể bị liệng đá vào người - những người mà trước kia đã từng dâng hoa cúi đầu đảnh lễ dưới chân Sư cầu xin ân phúc - nhưng Sư Hakuin vẫn thản nhiên như không, ngày ngày bế đứa bé đi xin sữa khắp nơi, mặc những lời nhiếc móc ngoài tai. Thiền Sư chỉ chú tâm săn sóc đứa bé, một linh vật đáng thương đang bị bỏ rơi. Thiền Sư ban rải tình thương mà không phân biệt, tình thương của chư Phật cho đứa bé. Thiền Sư chăm sóc đứa bé thật tử tế, trước sau như một, không thay đổi. Hối hận ray rứt vì thấy tăm tiếng của Thiền Sư bị tổn hại rất nhiều, vì nghe những lời xầm xì chê bai nhiếc móc, vì thấy những cánh cửa đóng sầm lại tàn nhẫn vào mặt Sư khi ngài bế đứa bé đi xin sữa hay thức ăn, cô gái đã thú nhận rằng cha đứa bé là một anh bán cá ngoài chợ. "Cha mẹ cô gái hối lỗi vội vàng chạy đến xin tạ lỗi với Thiền Sư và xin mang đứa bé về. Thiền Sư Hakuin vẫn điềm nhiên thốt lên hai tiếng ‘Thế à!’” Thật kính cẩn thán phục một bậc Chân Sư, một bậc Đại Bồ Tát. Trong vinh quang, hạnh phúc hay đau khổ thất bại, sống hay chết, bậc Thánh nhân không hề rúng động, luôn luôn an trú trong tịch nhiên tự tại. Hai tiếng vỏn vẹn "Thế à!" của Sư Hakuin bộc lộ trọn vẹn sự Tỉnh Thức Chân Nguyên của bậc Chứng đạo. Cuộc đời tặng ta cái gì, ta đón nhận cái đó. Nó tặng ta đau khổ và chê bai nguyền rủa, hãy giang tay ôm tất cả vào lòng. Nó tặng ta thành công hay hạnh phúc, hãy an nhiên đi đứng thẳng lưng trong vầng hào quang đó. Và nhớ là đừng khởi niệm phân biệt gì cả. Nếu ta khởi lên một vọng niệm nào, tức thì ta bị mất thăng bằng ngay, và một khi đã mất thăng bằng, thì lẽ dĩ nhiên ta sẽ bị té ngã xuống bất cứ lúc nào. Sự thăng bằng nội tâm chính là bản nguyên thánh thiện. Khi ta giữ được thăng bằng nội tâm, ta là bậc Thánh. Khi ta không giữ được, để cho tâm trí nghiêng ngả bên này bên kia, ta dễ vướng vào tội lỗi. Nhưng hãy nhớ kỹ thế này, tội lỗi không chỉ thành hình khi ta hành động, mà nó đã nẩy mầm ngay trong ta khi ta bị mất thăng bằng - có nghĩa là quan trọng nhất đừng để bị loạn tâm, ý thức khởi lên phân biệt. Tội lỗi thành hình ngay trong ý tưởng vừa loé lên chứ không đợi đến khi xuất phát ra hành động. "Tâm trí là chủ. Tâm trí tạo tác ra tất cả". Nếu Thiền Sư Hakuin nói ‘Được rồi. Bây giờ quý vị đã biết sự thật rồi sao?’ thì Hakuin cũng tầm thường như bao kẻ phàm phu khác, vì nó có nghĩa là Sư đã chờ đợi cái giây phút mà người ta sẽ tìm ra sự thật và sẽ tìm đến ông xin lỗi v.v... Nó có nghĩa là Sư Hakuin đã chờ đợi cả năm trời cái giây phút trong tương lai đó, ông đã cố gắng che đậy cái ý nghĩ “Một ngày nào đó, sớm hay muộn, họ sẽ tìm ra sự thật là ta không phải cha đứa bé, họ sẽ tạ lỗi với ta, danh dự ta sẽ được phục hồi...” Nếu Hakuin không phải là Thánh nhân, ông ta chắc sẽ nghĩ và cầu nguyện các Đấng thiêng liêng phù hộ cho mình sớm được phục hồi danh dự. Dù Hakuin thản nhiên bên ngoài, nhưng nội tâm ông ta đã đảo điên, mất thăng bằng rồi vậy. Nhưng không, Hakuin không cầu nguyện cũng chẳng chờ đợi một cái gì. Đứa bé đang bị bỏ rơi, Sư giang rộng vòng tay ôm nó vào lòng, săn sóc nó, che chở nó, cho nó tình thương rộng lớn; đứa bé cần cha mẹ, Sư thương nó hơn cha mẹ ruột thương con. Suối "Tình Thương Vô Ngã" trong Sư Hakuin tuôn chảy chan hòa lên vạn vật, lên đứa bé trong từng giọt sữa đi xin, trong từng miếng cơm đạm bạc. Năm tháng trôi qua, lớp áo bốn mùa thay đổi, đứa bé lớn lên trong tình thương của Sư Hakuin - và cha mẹ cô gái đã tìm tới, tạ lỗi và xin mang đứa bé về. Sư Hakuin vẫn điềm nhiên tọa thị trao đứa bé lại và cũng thốt lên vỏn vẹn hai tiếng ‘Thế à!’ Nếu như là một người thường khác, thì họ sẽ cảm thấy đau khổ mất mát vô cùng, vì một khi ta chăm sóc thương yêu một đứa bé, hy sinh cho nó từng chút một, vui trong tiếng cười của nó, buồn trong tiếng khóc của nó thì "Ái Hữu" trong ta cũng khởi lên sự dính mắc ràng buộc. Tình thương ta ban cho nó bao nhiêu thì sự ràng buộc chiếm hữu trong ta cùng to lớn lên từng đó. Một sợi giây ràng buộc, một sự liên kết vô hình thắt chặt lại người cho và kẻ nhận. Nhưng Sư Hakuin không mừng, không giận, không buồn; mọi biến cố trong năm qua dường như không hề tác động ảnh hưởng gì đến Sư. Nội tâm Sư Hakuin phẳng lặng như mặt nước hồ thu, không gợn một mảy may sóng nào. Sư Hakuin có mặt trong cuộc sống, nhưng Sư là người ngoài dòng đời phàm tục; "hoà nhưng không đồng". Bậc Bồ Tát hòa hợp với chúng sinh để hóa độ, nhưng không cùng một bản chất, không bị nghiệp quả chuyển lôi. Nếu chúng ta có thể đi ngược dòng sinh tử, có thể là người đứng ngoài hí trường thiên hạ thì sớm hay muộn gì chúng ta cũng sẽ thấu triệt được "Không Nước - Không Trăng" - "Tay ta rỗng không, tâm ta rỗng không”. Hai tiếng ‘Thế à!’ đã nói lên tất cả những gì trong lòng Hakuin. "Thế à, nếu là như thế thì được rồi!" Bậc Bồ Tát đón nhận mọi sự cố xảy ra không lựa chọn, không phản đối. Và một khi không lựa chọn, phân biệt thì không có nước, không có sự phản chiếu, không vầng trăng, không bóng trăng.
-
Không Nước Không Trăng - 2 Mẩu truyện Thiền thứ hai kể về cuộc tranh luận bằng cử chỉ giữa một tăng sĩ và nhà sư trụ trì tại một ngôi chùa Nhật Bản. Có lẽ Osho muốn nhấn mạnh đến điều chủ yếu sau đây: mọi thứ qua tâm trí con người đều được nhận diện khác biệt, thậm chí trái ngược nhau. Đó chính là tật bệnh tâm trí cố hữu của con người... Mẩu truyện Thiền số 2 TRANH LUẬN TÌM CHỖ TRỌ QUA ĐÊM Theo truyền thống Thiền Nhật Bản ngày xưa, những tăng sĩ đi vân du khắp nơi, nếu muốn ngủ trọ qua đêm ở một ngôi chùa hay tịnh xá nào đều phải thắng cuộc tranh luận tay đôi với vị sư thường trụ ở đó. Nếu không thắng được, vị du tăng đó phải đi, không được phép ở lại, dù chỉ một đêm.Câu chuyện xảy ra tại một ngôi cổ tự phía bắc Nhật Bản. Trụ trì ngôi chùa là hai anh em nhà sư. Người anh rất thông thái, biện luận vô cùng thiện xảo, còn người em lại ngớ ngẩn, lù khù và còn chột một mắt nữa. Một đêm nọ, có vị du tăng đi ngang qua, muốn xin vào nghỉ tạm qua đêm. Nhà sư anh quá mệt mỏi vì đã học hành suốt ngày, nên sai nhà sư em ra tiếp khách và tranh luận với vị du tăng theo truyền thống. Trước khi nhà sư em đi ra ngoài, sư anh dặn dò: - Này, đệ đòi hỏi là phải tranh luận trong im lặng nhé. Đừng có nói, kẻo đấu không lại người ta đâu. - Huynh yên tâm, để đó cho em! Sau một thời gian ngắn, vị du tăng xin gặp nhà sư anh, vái chào và ra đi. Ông ta đã bị khuất phục và hết sức tán thán tài hùng biện của nhà sư em. Nhà sư anh nói: - Trước khi đi, xin Ngài thuật lại cho tôi nghe cuộc tranh luận xảy ra thế nào? - Rất hay, tuyệt! Vị du tăng trả lời và kể lại như sau: - Này nhé, trước hết tôi giơ một ngón tay lên ngụ ý tượng trưng Đức Phật. Sư đệ của Ngài đưa 2 ngón tay lên có nghĩa là Đức Phật và Phật pháp. Tôi lại đưa 3 ngón tay lên có ý nói Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng) số một. Sư đệ thông minh của Ngài đưa nắm tay lên dứ vào mặt tôi có ý nói là cả 3 (Tam Bảo) đều qui về một. Một là tất cả, tất cả là Một. Tuyệt! Tuyệt! Sâu xa! Sâu xa! Đại Thừa! lý rốt ráo, Đại Thừa đấy! Tôi cam lòng bái phục! Vị du tăng ra đi, rất hể hả như đã học được một điều gì tuyệt diệu. Lát sau, nhà sư em vào gặp nhà sư anh, dáng điệu còn có vẻ bực bội vô cùng. Vị sư anh nói: - Ta biết là đệ đã thắng cuộc tranh luận này. - Thắng cái gì? Cái tên du tăng đó thật là thô lỗ hết sức, nếu đệ không nhớ lời sư huynh dặn là phải cố gắng nhẫn nại, nhã nhặn và lễ độ với khách, thì em đã cho hắn một bài học thích đáng rồi! - Sao thế? Đệ thuật lại cho ta nghe sự việc như thế nào? - Này nhé, khi hắn ta vừa thấy em, hắn liền đưa một ngón tay lên có ý chế diễu em chột một mắt; em cố dằn cơn giận, đưa 2 ngón tay lên khen là hắn có phước, đầy đủ 2 con mắt. Thế mà hắn lại có ý trêu ngươi em nữa chứ! Hắn lại đưa 3 ngón tay lên, có ý nói là em và hắn ta, hai người nhưng chỉ có 3 con mắt thôi. Em bực quá, dơ nắm đấm lên dứ dứ vào mặt hắn, có ý nói cho hắn biết là vừa phải thôi, lộn xộn là ăn đấm đấy! Hắn chột dạ, có vẻ ngán nên vái chào rút lui có trật tự. Thiệt là tăng sĩ gì mà thô lỗ hết sức! Nhà sư anh trợn mắt, lắc đầu và ôm bụng lăn ra cười ngất. - Ha ha ha! Ha ha ha!... Qua câu chuyện vui trên, ta thấy tất cả những cuộc tranh luận thực ra đều sai lệch, kệch cỡm, bởi vì không một ai có thể đạt tới Chân Lý qua tranh luận cả. Những vị tăng sĩ Nhật Bản tranh cãi nhau, hơn thua nhau chỉ để khoa trương Tự Ngã và cái giải thắng là "ngủ trọ qua đêm". Chỉ có một đêm ngủ trọ thôi mà người ta hăng hái, hùng hổ tranh chấp với nhau. Nhưng đó là truyền thống và người ta nhắm mắt tuân theo truyền thống. Hàng ngàn năm qua, tại bất cứ một Thiền viện Nhật nào, nếu bạn muốn ngủ trọ qua đêm, bạn phải thắng cuộc - và sau đêm đó, sáng sớm, bạn lại khăn gói ra đi - nhưng nhiều người đã tự lừa dối mình rằng đã đạt tới Chân Lý, Giác Ngộ qua cuộc tranh luận. Họ lấy sự hơn thua trong cuộc tranh luận đó để làm cái mốc đo tri thức và mức độ tu tập của họ. Không, hoàn toàn không đúng! Chân Lý làm sao hiển hiện ra khi đầu óc bạn chứa đầy tư tưởng phải đánh gục đối phương, phải thắng cuộc tranh luận để chứng tỏ sở trường sở đắc của mình. Một khi bạn tìm cách làm sao để thắng đối phương, bạn đã là kẻ bạo lực, dù là bạo lực tư tưởng. Tranh luận là bạo lực. Bạn có thể giết hoặc bị giết qua phương cách đó, bạn không thể sống còn, và sự thực cũng bị giết chết qua phương cách đó. Quả thực, bạn không đi tìm sự thật, bạn đi tìm chiến thắng dưới bất cứ hình thức nào. Khi chiến thắng là mục đích thì Chân Lý phải hy sinh. Khi Chân Lý là mục đích, thì chiến thắng hay vinh quang phải bị dẹp bỏ - và Chân Lý phải là mục đích chứ không phải chiến thắng, bởi vì nếu chiến thắng là mục đích thì bạn là một chính trị gia rồi, không phải là một người tôn giáo. Bạn là một kẻ bạo hành, đang tìm cách thống trị đàn áp người khác. Bạn cũng chẳng khác gì những kẻ đi gieo rắc chiến tranh; một là ta chết, hai là đối phương phải chết. Dù dưới dạng đấu tranh tư tưởng, thì cơ bản vẫn là tranh đấu. Chân Lý không bao giờ trở thành một sự thống trị cả; Chân Lý không bao giờ hủy diệt một cái gì. Chân Lý đưa đến "Tình Thương, Xả Kỷ, Khiêm Tốn" chứ không đưa đến thất bại, vinh nhục hay bẽ bàng. Những người đi tìm Chân Lý thực sự sẽ không chấp nhận hình thức đấu tranh. Họ không bao giờ mong muốn chiến thắng và vinh quang phải thuộc về họ, chứ không thuộc về người khác. Trong Chân Lý, con người gặp nhau và trở thành một. Không có người chiến thắng, không có kẻ thất bại. Trong Chân Lý, không có một ai bị đánh ngã. Trong Chân Lý, Chân Lý là phần thắng và chúng ta là người thua cuộc, mất mát. Mất cái gì? Thua cái gì? Mất cái "Tự Ngã nhỏ hẹp, ích kỷ, mê mờ". Còn thua sự "Thương Yêu Chân Thật". Nhưng khi trong cuộc tranh luận thì tôi là tôi, anh là anh, không có một nhịp cầu thông cảm bắc ngang. Làm sao bạn có thể hiểu biết và thương yêu người khác khi bạn đang chống đối họ? "Hiểu Biết" và "Thương Yêu" cần có sự đồng cảm, cần sự sẻ chia với nhau. Hiểu Biết có nghĩa là chịu lắng nghe người khác, tôn trọng ý kiến của họ, và chỉ khi nào bạn lắng nghe tư tưởng người khác, bạn sẽ nghe được âm thanh của gió, của chim, của vạn vật vũ trụ. Vì thế, khi bạn đang bàn thảo một vấn đề gì, đang lý luận một vấn đề gì, bạn thực sự không có khả năng lắng nghe người khác, bạn chỉ giả vờ nghe nhưng thực ra không thể nghe trọn vẹn những gì người khác nói. Vì sao vậy? Vì lúc đó, đầu óc bạn đang quay cuồng làm việc để đấu trả lại người khác, khi kẻ đó ngưng nói là bạn nhảy tới tấn công ngay. Bạn đã chuẩn bị và sẵn sàng ăn miếng trả miếng với họ. Đúng vậy, bất cứ một cuộc tranh luận nào cũng không bao giờ mang lại một sự thông cảm đoàn kết. Càng tranh cãi, bạn càng đi xa dần Chân Lý. Bạn đã bị chia chẻ làm đôi. Đó là lý do mà các triết gia, các luận sư không thể nào đạt tới Chân Lý hoàn toàn. Họ chỉ chạm tới những mảnh vỏ rời rạc của Chân Lý. Ngày xưa, Chúa Giê Su đã đi du thuyết khắp nơi, nhưng tất cả những người trọn vẹn đi theo Chúa lại là những người rất bình thường, tầm thường, không có người trí thức nào, không có người học giả nào. Không phải vì thời đó không có các nhà trí thức mà trái lại, các vị học giả lừng danh thời đó không chấp nhận đường lối giáo hóa của Chúa. Họ phản ứng dữ dội, họ muốn giết Chúa. Vì sao? Vì Chúa rao giảng Tình Thương, rao giảng Hòa Bình. Chúa nói về Đức Tin trong sáng, về Tình Yêu Nhân Loại; Chúa dạy con người làm cách nào kết nối hai trái tim lại với nhau để chung sống hạnh phúc. Những gì Chúa rao giảng đã đi ngược lại truyền thống xã hội thời đó. Các nhà học giả cảm thấy khó chịu, bất mãn. Vì sao vậy? Vì họ quen sống trong đấu tranh, trong tư tưởng thắng bại, trong hào quang hãnh diện phỉnh phờ lường gạt tâm trí họ. Sự tự ái bản ngã được vuốt ve mỗi khi họ tranh luận và thắng đối phương. Vì thế, không làm sao họ chấp nhận được những lời giảng của Chúa, và để bảo vệ cái Tôi của họ, những kẻ học thức đó đã liên kết để tìm cách giết Chúa - và họ đã tìm được kẻ phản bội là Judas. Những môn đồ của Chúa đều là những người bình thường; họ là những người thợ làm giầy, thợ săn, câu cá, đốn củi, cô thợ may, chị làm bếp v.v... Chỉ có Judas là kẻ có học, một kẻ thông minh. Và kẻ thông minh học thức đó đã phản bội, đã bán rẻ Chúa với giá 30 đồng bạc. Chúa biết là nếu có phản đồ thì chỉ có Judas. Vì sao? Vì trái tim chỉ có thể bị phản bội bởi đầu óc. Chỉ có Lý Trí phản bội Tình Thương mà thôi. Đó là điểm thứ hai tôi muốn nói với bạn, muốn nhắc cho bạn nhớ trước khi tôi đi vào câu truyện là qua bức màn lô gic, qua mạng lưới tri thức, qua tranh luận, bạn đã trở thành một kẻ xa lạ với mọi người; nhịp cầu thông cảm giữa con người và con người đã gãy. Làm sao bạn có thể đạt tới Chân Lý khi bạn không thể hiểu người khác, khi đầu óc bạn chứa đầy tư tưởng đấu tranh, bạo lực? Chính tư tưởng bạo hành đó đã làm hại bạn. Vì thế những cuộc tranh luận đều phù phiếm; chúng không hướng dẫn bạn đi về đâu cả. Ngay cả khi bạn đã thắng và kết thúc cuộc tranh biện thì kết quả thắng cuộc đó cũng chỉ là gượng ép mà thôi. Bạn có thể bịt miệng người khác, làm cho đối phương im tiếng, không thể tranh cãi gì được thêm nữa ngày hôm nay, nhưng chưa chắc kẻ đó đã chịu thua, chịu khuất phục hoàn toàn. Trong thâm tâm, hắn ta sẽ nghĩ thầm rằng: "Ngày hôm nay ta tạm thua ngươi, nhưng một ngày nào đó ta sẽ đánh bại ngươi". Hắn bị đánh bại ngày hôm nay, nhưng không phải là sẽ bị thua mãi mãi. Tuy nhiên, có hai việc khác nhau là nếu bạn thắng đối phương bằng trái tim thì người đó sẽ chịu thua trong hoan hỷ, an lạc và cảm phục (nên nhớ "Cảm Phục" khác nghĩa với "Khuất Phục"). Người đó hoan hỷ trong vinh quang của bạn; người đó chia sẻ với bạn sự hãnh diện sung sướng vì đó không phải là chiến thắng trong tranh đấu, không phải bạn chiến thắng ai mà Chân Lý thắng; cả hai chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng đều cùng san sẻ khúc khải hoàn ca Chân Lý. Không có người thắng kẻ bại. Biên giới đã xóa mất, nhịp cầu đã bắc ngang, bạn và tôi tuy hai mà một, tuy một mà hai. Vì thế, một vị đạo sư không bao giờ tranh biện với ai cả. Nếu thỉnh thoảng, vị đạo sư ấy tỏ vẻ như tranh luận với bạn, thì chớ tưởng lầm nhé - ông ta chẳng qua chỉ là đang chơi chữ với bạn đó thôi! Ông ta đang thử bạn. Nếu bạn nóng mặt, phản ứng liền, sợ bị thua thì bạn tự biến mình thành nạn nhân trò chơi chữ của ông ta rồi vậy. Có nhiều vị Thiền sư tỏ ra thích biện luận. Rất khó mà đánh bại được họ, cũng không thể chơi chữ lại họ - nhưng thực ra, các vị Thiền sư đó chỉ mượn trò chơi chữ để giúp bạn hâm nóng lại tâm trí, giúp bạn tỉnh cơn mê, giúp bạn rút chân ra khỏi vũng lầy chữ nghĩa. Junnaid, một người Sufi, một thời học đạo với Sư phụ, và vị Thầy đó rất kỳ quặc, chuyên nói ngược lại những gì mà người khác nói. Ví dụ, bạn nói "ban ngày" thì ông ta nói "ban đêm", mặc dù trong lúc đó đang là ban ngày. Tuy nhiên, Junnaid không màng cải chính lại lời Sư phụ. Junnaid chỉ giản dị, bình thản cúi đầu trả lời: "Dạ vâng, thưa Sư phụ đó là ban đêm!". Một ngày kia, Sư phụ gọi Junnaid lại và bảo: - Này Junnaid, ngươi đã thắng. Ta không thể châm ngòi một cuộc tranh luận nào với ngươi. Đức tin của ngươi thật sâu chắc, không lay động, kiên cố. Và bây giờ, ta có thể bắt đầu thuyết giảng Chân Lý cho ngươi, vì ngươi đã sẵn sàng tiếp nhận. Một khi con tim nói lên tiếng nói chân thật của nó, bạn đã có đầy đủ khả năng lắng nghe và tiếp nhận Sự Thật Tuyệt Đối. Tôi lại kể cho bạn nghe một câu chuyện nữa: “Ngày kia tại một tiểu quốc nọ, vị Tể tướng đương triều đột nhiên bị bạo bệnh và từ trần. Vị Tể tướng này rất tài ba lỗi lạc, khó ai sánh bằng. Cả vương quốc bàng hoàng và lo lắng. Nhà Vua truyền lệnh phải tìm gấp cho bằng được một người tài giỏi khác để thay vào chỗ trống của quan Tể tướng cho kịp xử lý mọi công việc quốc gia. Lệnh ban truyền ra, mọi người từ các quan đến thần dân đều đỏ mắt tìm kiếm khắp nơi. Không một hang cùng ngõ hẻm nào bị bỏ sót, và cuối cùng họ kiếm được ba người để trình kiến Nhà Vua. Người thứ nhất là một nhà tân toán học, một khoa học gia lỗi lạc nhất nước. Ông ta có thể giải đáp tất cả các bài toán hóc búa nhất trong nháy mắt, chia chẻ ngọn ngành các phương trình hệ thống khoa học tân kỳ mà khó có người nào hiểu thấu được. Người thứ hai là một nhà triết học xuất chúng. Ông ta có thể bẻ gẫy mọi luận thuyết, giải đáp những vấn đề siêu hình của thế gian không một chút khó nhọc nào. Ông là người lỗi lạc nhất trong số các triết gia đương thời. Từng lời nói, câu văn của ông được mọi người khen thưởng và trân trọng cất giữ như một báu vật thiêng liêng. Tạo hóa còn được các triết gia vẽ vời ra huống chi những chuyện khác. Họ ngụy tạo Thượng Đế, tạo ra ngày Mặc Khải, tạo ra đủ thứ hệ thống, lý thuyết - nhưng suy cho cùng thì tất cả chỉ là bánh vẽ. Họ chẳng có gì trong tay cả. Họ là những người thợ sắp chữ rất tài tình khéo léo, kỹ xảo; họ là những người chơi trò ghép chữ vô cùng độc đáo, đến nỗi chúng ta có cảm tưởng là mọi điều họ nói đều căn bản, chắc chắn - nhưng thực tế là các lâu đài xây trên cát! Người thứ ba là một nhà tôn giáo, một người có đầy đủ đức tin, sùng kính và dâng hiến. Ba người được tuyển chọn này tượng trưng cho ba góc độ tư tưởng và tri thức của con người. Nhà khoa học quan tâm đến những thử nghiệm, nghiên cứu, phân tích. Tất cả mọi vấn đề phải được ông ta nghiên cứu tường tận; nếu không, ông ta không chấp thuận. Sự thật, theo ông là sự thật đã được kiểm chứng. Vị triết gia là người tư duy lô gic. Nhà triết học làm việc bằng đầu óc, chứ không phải trong phòng thử nghiệm. Bộ não của các triết gia chính là phòng thí nghiệm. Nhà tôn giáo thì không nhìn cuộc đời như một bài toán hay một vấn đề cần phải mổ xẻ, phân tích hay lập luận. Đối với nhà tôn giáo, cuộc đời không phải là một bài toán hay vấn đề; cuộc đời không có gì và cũng không cần phải giải quyết; chỉ giản đơn thôi, cuộc đời là để "sống, sống thực thụ và thể nghiệm" trong đó. Theo quan điểm tôn giáo, cuộc đời không phải là một vật thể. Khi bạn thử nghiệm một vật gì, bạn hoàn toàn khác với vật đó, bạn là người làm công cuộc thử nghiệm, và đối tượng của bạn là vật được thử nghiệm. Nhưng khi bạn sống với cuộc đời, hòa mình nhập thể vào cuộc đời, bạn là một với nó. Cho nên, nhà tôn giáo đã nói: "Trừ phi bạn phải hòa nhập làm một với cuộc đời, bạn mới có thể hiểu ý nghĩa cuộc sống; nếu không, bạn sẽ không bao giờ biết được sống là gì!" Ba người đó được dẫn đến trình diện Nhà Vua. Ngài nói: - Được rồi, các người cứ tự nhiên nghỉ ngơi 3 ngày và đến ngày thứ 4 sẽ là ngày thử thách, chỉ một cuộc thi thôi! Ai thắng sẽ được chọn phong làm Tể tướng, cận thần của Ta, vì kẻ đó thông minh tài trí nhất Ba người lui ra và bắt đầu suy nghĩ làm việc theo cách riêng của họ. Nhà khoa học bắt đầu nghiên cứu những phát minh thử nghiệm mới để sau ba ngày sẽ trình lên Đức Vua. Ai mà biết Nhà Vua sẽ chọn thử nghiệm nào, vì thế ông ta không tài nào ngủ được, và cũng nhất quyết không lãng phí thời gian cho việc nghỉ. Nếu ông ta thắng, ông ta có cả một cuộc đời để ngủ, tội gì mà ngủ lúc này? Ông ta không ngủ, không ăn vì nhiều việc phải làm quá trước ngày thi đấu. Vị triết gia cũng thế, ông ta ngồi trầm tư mặc tưởng đến nhiều vấn đề. Ông ta cũng không ăn, không ngủ, đi đi lại lại, ngồi đứng không yên. Bao nhiêu vấn đề trên trời dưới đất đều được vị triết gia đem ra mổ xẻ, nghiền ngẫm, phân tích. Chỉ có nhà tôn giáo là an nhiên tự tại. Đến giờ ăn, ông ta ăn uống thoải mái. Đến lúc ngủ, ông ta đánh một giấc an lành. Khi cần cầu nguyện tụng kinh hay tham thiền, ông ta đều thực hành cẩn thận, đàng hoàng, nghiêm túc. Ông ta thảnh thơi dạo chơi, ngắm hoa lá, trời mây và cám ơn trời đất đã ân sủng che chở cho ông; đối với một người tôn giáo, không cần nghĩ tới tương lai và cũng chẳng có cuộc thi cuối cùng. Từng giây phút hiện tại là cuộc thử thách, ta phải đối diện nó, chứ không phải sửa soạn chờ đón thử thách ở tương lai. Thấy thế, nhà khoa học và vị triết gia lên tiếng: "Này, ngươi làm gì thế? Chỉ biết ăn, ngủ, cầu nguyện thôi sao? Phí thì gian vô ích, hãy lo tìm phương pháp giải quyết vấn đề đi chứ, sau này có cầu nguyện bao lâu mà chẳng được!" Nhà tôn giáo chỉ cười, không trả lời. Ông ta không phải là hạng người thích tranh cãi. Ngày thứ ba chầm chậm trôi qua. Ngày thứ tư đến. Ba thí sinh được mời đến trình diện. Nhưng nhà khoa học không còn đủ sức đứng vững nữa. Ông ta mệt quá, hai mắt cứ díu lại, không mở ra nổi, hai chân rã rời, bước không vững. Còn nhà triết học lỗi lạc kia thì mơ mơ màng màng ở tận đâu. Ông ta không mệt lắm, nhưng đầu óc như lãng đãng phiêu bồng chốn nào, không tập trung được. Cái đầu như mớ bòng bong, rối tung rối mù, câu hỏi này chồng lên câu hỏi kia, vấn đề kia chẳng biết nguyên nhân kết quả ở đâu, thế nào. Đã mấy lần ông ta muốn tháo lui vì cảm thấy không chắc ăn, bối rối, nhưng nhà khoa học khuyến khích: "Ấy, ta cứ thử xem, có sao đâu; nếu thắng càng tốt, còn lỡ bị thua cũng chẳng sao; nhưng ông hãy dẹp bộ mặt đưa đám của mình đi, cứ mạnh dạn lên!" Duy chỉ có nhà tôn giáo là bước tới vui vẻ, thoải mái, an nhiên. Ông ta ca hát, tiến bước vững vàng trước Nhà Vua. Nhà Vua là một người túc trí đa mưu. Ông đã sắp xếp một cuộc thi tài trí cho ba thí sinh. Vua sai người dẫn ba thí sinh vào một căn phòng, khóa lại. Căn phòng đó được khoá bằng một cái ổ khóa số đậc biệt, không có chìa - và người nào mở được cánh cửa thì thắng cuộc. Nhà khoa học bắt đầu loay hoay tìm và viết ra hàng trăm bài toán để mở khóa. Ông triết gia thì nhắm mắt lại và tư duy: "Chà, vấn đề này hóc búa thật, chẳng phải chơi đâu, số nào là con số mở khóa đây?" v.v... Nhà tôn giáo thì tự nhiên như không. Ông ta chẳng màng đến nhìn cái ổ khóa, cũng chẳng bóp đầu bứt tóc suy tư gì cả. Ông đâu phải nhà toán học nên chẳng biết toán mà làm, cũng không phải là triết gia để tìm hiểu phân chia. Ông chỉ ngồi yên, cầu nguyện, hát lên một bài vinh danh Thượng Đế và đứng lên đi. Thời gian trôi qua. Một lát sau, Nhà Vua bước vào phòng: - Ô hay, hai người còn ở đây à? Người thứ ba đã đi ra ngoài từ lâu rồi! “Nhưng sao hắn ta ra khỏi đây được? Cửa khóa mà..." - Nhà toán học và triết gia ngạc nhiên, lắp bắp. "Nhưng cửa đâu có khóa?" - Nhà Vua tủm tỉm cười, hóm hỉnh trả lời! Nhà toán học vùng chạy ra túm lấy áo nhà tôn giáo gặng hỏi. Ông này từ tốn trả lời: - Tôi chỉ ngồi yên và lắng lòng cầu nguyện. Chợt tôi nghe một tiếng nói vang lên trong tôi: "Người đúng là một thằng khờ. Hãy đi đi và sẽ thấy. Cửa không có khóa đâu!" Và tôi đứng lên đi về phía cửa và quả thực, cửa không có khóa. Cuộc đời không phải là một bài toán đố. Nếu bạn tìm cách để giải đáp bài toán thì bạn đã đánh mất cuộc đời rồi vậy. Cánh cửa cuộc đời luôn mở rộng, không bao giờ khóa lại. Nếu cánh cửa bị khóa chặt thì nhà khoa học đã tìm ra đáp số rồi. Nếu cánh cửa bị khóa thì các nhà triết học cũng có thể lập ra một hệ thống nào đó để mở cửa. Nhưng cánh cửa cuộc đời không hề bị gài chốt, vì thế chỉ có Niềm Tin mới có thể đẩy cánh cửa ra được. Bây giờ trở lại câu chuyện về hai anh em nhà sư. "Có hai anh em nhà sư trụ trì một ngôi chùa phía bắc nước Nhật. Nhà sư anh rất thông thái, nhưng nhà sư em thì lại ngớ ngẩn, còn chột một mắt..." Để lập ra một ngôi chùa, đền tháp, hay thánh đường v.v... người ta cần đến hai hạng người: thông thái và ngớ ngẩn. Người thông thái làm tu sĩ để dẫn dắt, sai khiến những người ngớ ngẩn đi theo họ. Nếu trên đời này không có đám người ngớ ngẩn thì cần gì tu sĩ, cần gì xây đền tháp, thánh đường? Và nếu hạng tu sĩ thông thái kia biến mất thì sẽ không còn những tu viện nữa! Một tự viện, đền tháp, chùa chiền hay thánh đường luôn cần có hai bộ mặt để tồn tại. Vì thế, bạn không thể nào tìm thấy Phật hay Chúa nơi thánh đường hay chùa tháp đâu, bởi vì Phật hay Chúa không bao giờ hiện hữu ở những nơi có hai bộ mặt đối đãi. Các tu viện, đền tháp hay thánh đường là phát minh của những kẻ thông thái tạo ra để khuynh loát lừa bịp số người khù khờ, ngớ ngẩn, dễ tin. Tu sĩ là những người khôn khéo tinh ma nhất; họ tạo ra nhiều giáo điều, hệ thống tín ngưỡng, cấm kỵ để hù dọa tín đồ; họ sử dụng những danh từ ngôn ngữ khó hiểu để loè những kẻ ít học ngây thơ; họ đưa ra những chương trình dự án có vẻ như bảo vệ, săn sóc đời sống tâm linh con người, nhưng thực ra là lợi dụng vơ vét tiền bạc của tín đồ vào túi họ. Họ là những kẻ thống trị nguy hiểm nhất, và các tín đồ tội nghiệp kia chính là bọn người bị sai bảo, sử lợi dụng; tuy nhiên, với chiếc áo thầy tu, với hàng rào kinh điển, tín điều, bạn không thể nào chạm đến chéo áo của mấy kẻ thầy tu đó được đâu. Bạn khó lòng lật tẩy họ vì chính những tín đồ ngây thơ mù quáng lại là người bênh vực, bảo vệ đám thầy tu đó. (Nếu bạn là thầy tu chân chính thì sợ gì những lời châm chọc này, phải không?) Nên nhớ kỹ điều này: Đức Phật không bao giờ sử dụng những ngôn từ khó hiểu. Ngôn ngữ mà Ngài dùng để thuyết pháp hóa độ là ngôn ngữ Pali (một ngôn ngữ bình dân của Ấn) để cho tất cả mọi tầng lớp chúng sinh đều có thể hiểu được. Phật nói rất giản dị, trong sáng; đưa ra những thí dụ dễ hiểu, dễ thâm nhập, thực tế trong đời sống hàng ngày của con người. Ngài gạt bỏ những hình thức cầu kỳ, những ngôn từ lập dị, những phương thức rườm rà, để mọi người trở về với Bản Thể Chân Tâm, trở về với Vũ Trụ hàm linh mau chóng, xác thực và đúng đắn. Chúa Giê Su cũng vậy, Ngài dùng những hình ảnh ví dụ đơn giản, dễ hiểu. Chúa không bao giờ dùng bất cứ một biệt ngữ tôn giáo nào. đạo sư Mahavira khi giảng pháp cho tín đồ cũng nói bằng ngôn ngữ bình dân, thông thường. Đức Phật và Mahavira không bao giờ sử dụng ngôn ngữ Sanskrist, vì Sanskrist là ngôn ngữ của giáo sĩ Bà la môn. Sanskrist là ngôn ngữ khó hiểu nhất, cổ xưa nhất của Ấn. Nghĩa chính của Sanskrist là "đánh bóng lại, trau chuốt lại". Các giáo sĩ đã cố ý sử dụng ngôn ngữ khó hiểu, cầu kỳ đó để loè bịp những người ít học; vì nếu bạn không hiểu thì bạn mới thán phục những người thông thái, hiểu biết hơn bạn chứ! Một khi bạn không hiểu, bạn sẽ cho là những ý nghĩ, những vấn đề mà các giáo sĩ đưa ra là sâu xa, mầu nhiệm, linh thiêng, người thường không tài nào thấu triệt được - và từ sự thán phục đó, bạn dễ dàng thần tượng hóa và thần thánh hóa những "tu sĩ thông thái bác học" như vậy. Trái lại, Đức Phật - một Đại sư của bao người, Đấng giáo chủ của một tôn giáo rộng lớn khắp thế giới, một Thánh nhân lớn - lại sử dụng ngôn ngữ bình dân của xứ Ấn (ngôn ngữ Pali). Và Mahavira - một Đạo sư nổi tiếng của xứ Ấn - cũng dùng ngôn ngữ Prakrit, một hình thức ngôn ngữ còn phôi thai của Sanskrit, không có văn phạm rắc rối, không có từ vựng nhiều. Tôi kể cho bạn nghe một câu chuyện vui: "Ngày nọ, Mulla Nasruddin đi khám bệnh. Ông bác sĩ viết toa thuốc bằng tiếng Latinh và Hy Lạp. Ông ta viết láu đến độ Mulla đọc không được chữ nào (bác sĩ nào cũng vậy mà!) Mulla hỏi bác sĩ: - Này bác sĩ, thẳng thắn với nhau đi! Ông cứ nói bệnh của tôi, đừng viết chữ Latinh hay Hy Lạp làm gì, đọc chẳng được chữ nào! - Nếu ông khăng khăng muốn biết, thì tôi nói cho ông rõ là ông chẳng có bệnh gì cả; ông chỉ bị lười mà thôi! - Ông bác sĩ điềm nhiên trả lời. Mulla nói: - Được rồi, cám ơn! Thôi, bây giờ ông viết toa thuốc lại bằng tiếng Latinh hay Hy Lạp cũng được, để về nhà tôi đưa cho gia đình tôi xem!" Qua câu chuyện vui trên đây, ta thấy những kẻ thông thái luôn tìm cách lừa phỉnh mọi người. Đó cũng là lý do bọn họ phản bội, quay lưng làm ngơ hay chống đối Đức Phật, Chúa hay Mahavira. Nếu bọn giáo sĩ này cũng dùng những phương pháp giảng dạy dễ hiểu, bình dị và sống trung thực chân chính như các Thánh Nhân thì họ đâu còn chỗ đứng nữa, họ đâu còn được người khác tôn sùng ve vuốt? Bọn giáo sĩ đó tự cho mình là người có đủ khả năng hiểu được ngôn ngữ của Thượng Đế; mình là người duy nhất làm gạch nối giữa con người và Thượng Đế. "Này, anh muốn gì? Muốn cầu xin hay than thở với Thượng Đế hả? Có ta đây, ta sẽ nói tiếng Sanskrist với Ngài, ta sẽ phúc trình lên Thượng Đế những gì anh mong muốn và anh phải biết điều đấy! Chỉ có mình ta giúp anh được thôi; chỉ có mình ta nói tiếng Sanskrist; Thượng Đế chỉ hiểu Sanskrist mà thôi!" (Lẽ dĩ nhiên, "biết điều" có nghĩa là phải trả tiền đấy, nhiều hay ít tùy theo lời cầu xin của bạn dài hay ngắn nữa đấy.) "Có hai anh em nhà sư nọ trụ trì một ngôi chùa ở phía bắc Nhật Bản. Nhà sư anh rất thông thái, còn nhà sư em thì lại ngớ ngẩn lù khù, còn chột một mắt nữa..." Cái hình ảnh "một mắt" trong câu chuyện biểu trưng cho cái gì? Có phải chăng là những kẻ dễ tin, ngây thơ thì luôn luôn chỉ có một hướng, một bộ mặt mà thôi. Họ không bao giờ do dự, đắn đo, suy tư, thắc mắc hay nghi kỵ. Đối với bất cứ một vấn đề gì, những kẻ tài trí thông minh luôn luôn chia chẻ, phân tích, mổ xẻ nghiên cứu. Trong thâm tâm những hạng người này luôn luôn có sự giằng co, mâu thuẫn, xâu xé nhau. Cái nào sai, cái nào đúng? Cái nào có lợi, cái nào không? Những kẻ thông thái có học là những kẻ có hai bộ mặt - hai mắt. Và khi ta nhìn kỹ những kẻ ngây thơ lù khù kia, ta lại thấy họ thánh thiện, trong sáng hơn bọn bác học thông thái nhiều. Cái nét trong sáng, giản dị, hồn nhiên đó toát ra từ tấm lòng chân thật thẳng thắn, không đắn đo nghi kỵ. Còn hạng tài trí lịch lãm kia thì đã mất sự thánh thiện đó tự lâu rồi. Hạng thông thái là những người đứng giữa trí tuệ và vô minh. Họ tưởng là mình tài trí hơn người, nhưng thực ra họ lại là những kẻ ngu xuẩn và thua thiệt nhiều nhất. Vì thế, đầu óc họ luôn bị căng thẳng, không bao giờ được thư giãn an lạc. Thánh Francis ngày xưa thường bị chế diễu là một thằng khờ, "một tên Khờ của Chúa". Song, nếu được là “thằng Khờ của Chúa” còn diễm phúc hơn là cái tiếng bác học của thế nhân. Vì sao? Vì cái "Ngã" kệch cỡm, cái "Ngã" ích kỷ, đáng ghét của Francis không còn nữa, và Thánh Francis được phong Thánh vì đã diệt trừ được cái Tôi hợm hĩnh đó. "Tên Khờ của Chúa!" Nếu bạn đã đọc những tác phẩm văn học lớn của Dostoevsky, bạn sẽ hiểu hàm nghĩa của các chữ "tên Khờ của Chúa". Hầu hết trong các tác phẩm của Dostoevsky đều có một nhân vật mang dáng dấp một "thằng Khờ của Chúa". Trong tác phẩm "Những Anh Em Nhà Karamazov", tên Khờ của Chúa có mặt. Tên Khờ đó rất ngây thơ, bạn có thể khuynh loát lừa bịp hắn. Ngay cả khi bạn lừa bịp hắn, hắn vẫn tin bạn như thường. Tuy nhiên, bạn phải nhớ kỹ điều này: "Bạn có thể hủy diệt con người hắn, nhưng bạn không thể hủy diệt Niềm Tin của hắn - đó chính là Nét Đẹp Tuyệt Đối Nhân Bản". Riêng bạn, bạn sẽ phản ứng ra sao khi có kẻ lừa bịp mình? Nếu bạn bị kẻ nào đó lừa dối một lần, bạn có thể sinh ra nghi ngờ tất cả mọi người. Cũng như con chim bị tên bắn một lần, nó sợ cả giây cung và bụi rậm. Nếu bạn bị lừa dối hai lần hay ba lần, bạn sẽ hoàn toàn tuyệt vọng, mất hẳn niềm tin vào nhân loại. "Một ngày kia, có một du tăng đi ngang qua chùa, muốn xin vào ngủ trọ. Nhà sư anh quá mệt do học hành..." Những người thông thái luôn mệt mỏi bởi chữ nghĩa. Những người lao động cũng mệt vì công việc nặng nhọc, nhưng khi xong việc thì họ cảm thấy thoải mái, khoẻ khoắn hơn. Còn khi bạn làm việc với chữ nghĩa, những thứ chữ nghĩa rỗng tuếch, bạn sẽ luôn cảm thấy mệt mỏi. Dòng sống luôn chảy về phía trước, dòng sống luôn linh động, tươi trẻ, tràn đầy sinh lực. Nếu bạn làm việc trong vườn, tiếp xúc với cỏ cây hoa lá, bạn sẽ đón nhận thêm luồng sinh lực mới, bạn không mất gì cả. Bạn đi tản bộ dọc theo con đường xanh mát, bạn hấp thụ thêm tinh khí trời đất, bạn đang sống từng phút giây; nhưng nếu bạn đóng cửa phòng, gầm đầu vào chữ nghĩa, suy nghĩ và suy nghĩ; dòng sống đã ngưng chảy, đã chết, và bạn chẳng còn gì ngoài sự lao nhọc tinh thần. Một người thông thái luôn mệt mỏi. Một tên Khờ luôn tươi trẻ, một Thánh nhân cũng luôn tươi trẻ. Tên Khờ và vị Thánh nhân thật có nhiều đặc tính giống nhau. "Nhà sư anh nói với sư đệ hãy ra ngoài tranh luận với vị sư khách, nhưng dặn dò sư đệ là phải tranh luận trong im lặng..." Vì sao? Vì sư huynh biết chắc rằng sư đệ mình là người ít học, không biết nói gì. Do đó, phải tranh luận bằng cử chỉ trong im lặng để không ai có thể đoán biết được ý nghĩ. Ở đây im lặng là vàng; nếu bạn là một kẻ ngốc, nên im lặng. Nhưng nếu bạn là bậc Thánh, bạn cũng nên im lặng luôn. Một người "Trí Tuệ" thực thụ sẽ im lặng vì anh ta biết rằng sẽ không thể diễn tả sự hiểu biết bằng ngôn ngữ. Kẻ ngu cũng im lặng vì nếu lỡ nói ra điều gì sai sẽ bị chê cười ngay. Kẻ ngu có thể lừa bịp mọi người bằng cách im lặng, nhưng nếu hắn há miệng ra thì sẽ bị lật tẩy. Nhà sư anh biết sư đệ mình ngớ ngẩn, nên đã dặn phải tranh luận trong im lặng để không bị người khác biết cái ngu dốt của mình. Do đó, vị du tăng thông thái kia đã bị đánh bại, phải đi nơi khác vì đã lọt vào cái bẫy của nhà sư anh. Những người thông thái bác học đều mắc phải cái bệnh hay nói - nói rất nhiều để phô trương cái tài cái hay của mình. Cho nên khi không được nói, họ không biết xoay xở ra sao. Đột nhiên, tất cả những kỹ năng, sở trường đó của họ biến mất. Trong im lặng, họ trở thành những con cừu, con dê ngớ ngẩn, ngờ nghệch - ngớ ngẩn hơn cả những kẻ ngu thực sự. Ngay cả kẻ ngốc cũng có thể đánh bại họ. Họ đã bị tách ra khỏi cái thế giới chuyên môn của mình, nên tỏ ra lúng túng, khó xử. Thực tế, thật khó khăn cho một người học thức phải giữ im lặng, không được nói gì cả. Vị du tăng kia cũng vậy, ông ta phải đi tìm chỗ trọ khác, phải tìm một nhà sư chịu tranh luận qua ngôn ngữ, qua học thức. Những động tác, cử chỉ của chúng ta rất sống động. Khi chúng ta đưa tay lên hay ngó ngoáy cái đầu, cả con người chúng ta cử động theo đó. Khi chúng ta nhìn một người hay một vật nào, cả con người chúng ta chú mục đến đối tượng đó. Khi chúng ta bước đi, chúng ta bước đi với cả thân người, chứ không phải chỉ có đôi chân di động. Nhưng đầu óc thì khác, nó có thể hoạt động liên tục khi chúng ta ngồi yên hay nằm ngủ. Vì thế, nếu chúng ta muốn tìm hiểu một người nào, đừng nghe những gì anh ta nói mà hãy nhìn kỹ những hành động của anh ta: cách anh ta vào phòng thế nào, đóng cửa thế nào, ngồi ra sao, đi đứng, ăn uống, nhìn ngó... ra sao. Có nghĩa là chúng ta cần quan sát mọi hành động của anh ta. Những cử chỉ của anh ta sẽ nói rõ cho chúng ta biết bản chất của anh ta, tư cách của anh ta. Qua đó, chúng ta biết rõ sự thật con người của anh ta không bị tô mầu hay phủ lên một lớp vỏ tri thức. Tôi đã thử nhiều người qua phương thức này. Tôi nhìn hành động của họ chứ không quan tâm đến những lời họ nói. Những người đó có thể cúi đầu xuống chạm chân tôi để tỏ lòng kính ngưỡng, nhưng cả con người họ toát ra cái mùi Bản Ngã to lớn đậm nét vô cùng. Vì thế, cái cử chỉ cúi đầu chạm trán đó rõ thật vô dụng, giả dối. Những con người đó cố giấu cái Bản Ngã của họ, nhưng rõ ràng họ đang tự lừa dối mình, lừa dối người. Họ không có sự thành thật, nên không làm rung cảm được ai cả. Soren Kierkegaard đã từng nói: "Trước kia, khi tôi bước vào nhà thờ, tôi hay nói lắm. Tôi luôn nói chuyện với người này hay than thở cầu xin việc nọ việc kia. Nhưng rồi, tôi cảm thấy thật khờ khạo làm sao khi cứ lê thê dài dòng than vắn thở dài, nói đủ thứ chuyện trên trời dưới đất với Thượng Đế. Con người có cố tật là thích nói nhiều về mình hơn là lắng nghe người khác nói, cho nên khi đến với Chúa, với Thượng Đế, con người cũng đem cái tật xấu đó ra mà kể lể, hắn không cho Chúa có một cơ hội nói chuyện với hắn. Bởi vậy khi có dịp ta đứng trước Chúa, tốt hơn hết là ta nên lắng nghe Chúa nói". Và Kierkegaard không kể lể nữa, rồi dần dần ông ta cũng không cầu nguyện nữa. Ông ta chỉ đi vào thánh đường, ngồi yên lặng, ngồi thật yên lặng. Trong sự Im Lặng Tuyệt Đối đó, Tiếng Nói Nội Tâm bắt đầu lên tiếng. Khi bạn thực sự quay về lắng nghe "Tiếng Nói Nội Tâm", bạn sẽ đi vào một thế giới hoàn toàn khác lạ với cái thế giới mà bạn đang sống. Đến lúc Kierkegaard không còn đi nhà thờ nữa. Có người đã hỏi: "Sao ông không đi lễ nữa vậy?" Kierkegaard đã trả lời: "Bây giờ tôi đã hiểu rằng nhà thờ là gì; nó có nghĩa là Im Lặng và Lắng Nghe. Và khi tôi đã làm được hai việc đó rồi thì nhà thờ đối với tôi không còn cần thiết nữa. Tôi có thể im lặng và lắng nghe bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào. Những nơi cầu nguyện luôn đông người quá, họ đến để phô trương bề ngoài, đến để tán dóc, gặp gỡ nhau hơn là cầu nguyện. Họ làm phiền, quấy rầy tôi quá. Vì thế, tốt hơn hết là hãy ngồi dưới gốc cây, dưới bầu trời, độc thoại và lắng nghe!". Thượng Đế có mặt khắp mọi nơi, không phải chỉ ở tại thánh đường hay đền thờ. Một khi tâm hồn chúng ta an tĩnh, không lăng xăng vọng động thì Thượng Đế và chúng ta gặp nhau vậy; không cần phải đến nhà thờ thấy tượng Chúa hay vào chùa thấy tượng Phật mới là gặp Chúa, gặp Phật. Tuy nhiên, không phải ai cũng có khả năng thấu triệt được điều đó; cái "Tự Ngã" rườm rà đã che dần nét hồn nhiên thánh thiện của tâm hồn chúng ta. Để rồi từ đó, chúng ta luôn suy diễn hành động, lời nói người khác qua sự đoán nhận của mình. Nếu lệch lạc sai lầm ít thì dẫn đến nghi kỵ, mất đoàn kết, không hòa hợp; nếu sai lệch nhiều thì đưa đến xung đột, va chạm nhau từ người và người rồi đến đoàn thể, xã hội, quốc gia. Cũng như vị du tăng và nhà sư chột mắt, họ đã suy diễn cử chỉ của đối phương qua trình độ tư duy và óc tưởng tượng của mình. Vị du tăng đưa một ngón tay lên có ý nói tượng trưng cho Đức Phật, nhưng nhà sư chột mắt lại nghĩ là người kia đang chế diễu sự khuyết tật của mình. Ông ta đưa hai ngón tay lên tỏ vẻ lịch sự khen vị du tăng còn đủ hai mắt, nhưng vị du tăng với trình độ Phật pháp cao lại cho là hai ngón tay tượng trưng cho Đức Phật và Phật pháp... Cứ thế, cả hai người suy đoán qua lại. Khi ta nhìn một đóa hoa, tại sao ta không nhìn trực diện vào đóa hoa để thấy nụ hoa, sắc hoa, mà ta lại lan man suy diễn "ôi, đóa hoa này đẹp như một người con gái trinh trắng" hay nhìn trăng tròn, ta lại tưởng tượng ra giống như gương mặt sáng rỡ của người yêu... Đóa hoa là đóa hoa. Mặt trăng là mặt trăng. Ngón tay là ngón tay. Đóa hoa không phải là người đẹp. Mặt trăng không tình tứ như người yêu, ngón tay không phải là Đức Phật... Không ai tượng trưng cho ai và cũng không có vật gì tượng trưng cho một người nào đó. Mỗi người là hình ảnh của chính mình. Không có ai là bản sao của ai cả. Khi bạn nói ngón tay tượng trưng cho Đức Phật thì Phật là bản chính, còn ngón tay là bản sao của Phật. Đức Phật không chấp nhận cách hiểu sai lệch đó, và tôi cũng không đồng ý tư kiến này của bạn. Để tôi kể cho bạn nghe một câu chuyện lý thú: “Ngày nọ, có một người đàn ông tìm tới Bayazid, đạo sĩ Sifi, và hỏi ông ta một câu gì đó. Bayazid trả lời: - Hãy về đi và một năm sau ông hãy trở lại, bởi vì lúc này ông đang bị bệnh. Tâm hồn ông, đầu óc ông đang như một mớ bòng bong rối mù, tôi không thể trình bày diễn giải gì cho ông nghe được cả. Ông sẽ không lĩnh hội được gì với đầu óc hổ lốn như vậy. Vì thế, hãy về và tập ngồi yên lặng, tĩnh tâm, thư thái. Một năm sau, hãy trở lại tìm tôi. Lúc đó, nếu tôi thấy ông có thể nghe được thì tôi sẽ nói; còn nếu không, ông đi tìm người khác!" Người đàn ông đó nghe lời, ra về và tập thực hành theo lời dạy của Bayazid. Và anh ta cũng không trở lại tìm Bayazid nữa. Có người thắc mắc, nên hỏi: "Sao anh không đến tìm Bayazid? Anh ta trả lời: "Bây giờ tôi không cần Bayazid nữa, tôi đã hiểu những gì mà ông ta sẽ nói với tôi" Đó là sự nghịch lý, phải không? Chúng ta phải nhận thức rõ ràng rằng khi nội tâm chúng ta chưa vững vàng thì dù chúng ta có chạy rong cố tìm kiếm hay cầu xin, van lạy thì chúng ta cũng không thấu triệt được gì. Nhưng khi chúng ta đã vững chắc sẵn sàng, nội tâm đã an tĩnh, dù chúng ta không hỏi, không cầu thì câu trả lời đã an bày sẵn. Buồn thay! Hầu hết chúng ta đều không có khả năng sống trong hiện tại. Chỉ có Chư Phật mới có khả năng sống trong hiện tại và an trú trong chính niệm. Rất ít, rất ít người có khả năng đó. Chúng ta hay quay về truy tìm quá khứ, mở rộng tương lai và bỏ quên hiện tại. Vì thế, chúng ta đã đánh mất mình mà không hay không biết. “Hắn đưa 3 ngón tay lên có ý nói là đệ và hắn, hai người có 3 mắt. Lúc này đệ bực quá, không lịch sự nổi nữa nên giơ nắm đấm lên đe dọa.... Hắn sợ quá, bỏ đi luôn. Nhà sư anh phá lên cười". Cái cười của nhà sư anh có thể là nụ cười giác ngộ. Cái cười đó có thể là sự chuyển hóa, là một sự thức tỉnh sâu xa mầu nhiệm. Cái cười của nhà sư anh có thể là nụ cười giác ngộ. Cái cười đó có thể là sự chuyển hóa, là sự thức tỉnh sâu xa và mầu nhiệm. Nhà sư anh đã thấy cả hai phía rằng vị du tăng đó không hề có ý nghĩ gì đối với sư đệ mình, và sư đệ dốt đặc của mình cũng không tài nào hiểu nổi những gì sư du tăng kia ngụ ý. Cả hai người là hai con đường ngược chiều, mỗi kẻ một hướng. Họ không bao giờ gặp nhau cả. Nhà sư anh cười vì đã thấy rõ tâm trí con người hoạt động mạnh mẽ cỡ nào, nó có thể lèo lái con người hướng thượng hay hướng hạ, có thể thành bậc Thánh, vĩ nhân hay thành một tên cùng đinh hèn hạ, một tên đạo đức giả, đội lốt; có thể sống đúng đắn hay trái phạm đều do nó cả. "Tâm trí là chủ. Tất cả đều do tâm trí tạo ra!" – Nhà sư anh cười. Nụ cười giác ngộ, nụ cười trọn vẹn.
-
Không Nước Không Trăng - 1 Mẩu truyện Thiền đầu tiên này đề cập đến sự Chứng Ngộ của một nữ tu sĩ khi đang gánh nước trên đường. Hình tượng "Không Nước - Không Trăng" đã được Osho phân tích một cách sâu sắc để chúng ta hiểu Giải Thoát là gì và nó chợt đến như thế nào? Mẩu truyện Thiền số 1 KHÔNG NƯỚC - KHÔNG TRĂNG "Ni cô Chiyono đã tu học nhiều năm, nhưng vẫn chưa đạt được gì cả. Một đêm, cô quẩy đôi thùng xuống suối múc nước. Khi cô gánh nước trở về tu viện, cô vừa đi vừa ngắm ánh trăng soi rọi xuống mặt nước trong thùng. Bất thình lình, đòn gánh gãy đôi, giây thùng đứt và thùng nước rơi xuống. Nước đổ ào ra, bóng trăng tan biến, không còn gì nữa và Chiyono hoát nhiên giác ngộ tâm linh. Cô đã viết bài thơ:Bằng cách này hay cách khác, tôi đã kềm giữ đôi thùng nước, Mong rằng chiếc đòn gánh giòn yếu kia sẽ không gãy Bất chợt, dây đứt thùng văng, Không còn nước trong thùng, không còn trăng trong nước, Tay tôi rỗng không, chẳng có vật gì, Tâm tôi rỗng không, chẳng có vật gì!". Giác Ngộ (tâm linh) không hẹn mà đến, thật bất ngờ, thật đột ngột. Không có sự tuần tự của tiến trình tìm tới Giác Ngộ, bởi vì sự tuần tự thuộc về trí óc, còn Giác Ngộ không phải là sản phẩm của trí óc. Giác Ngộ vượt qua hàng rào tư duy và nhận thức lô gích của trí óc. Vì thế, chúng ta không thể tiến dần tới Giác Ngộ, đơn thuần chúng ta nhảy một bước vọt vào trong Giác Ngộ. Chúng ta không đi từng bước từng bước; không có từng bước đi đó. Một là chúng ta Đại Ngộ, hai là không. Không có sự chứng đắc từng phần, từng mảnh. Chân Lý là Chân Lý hoàn toàn, là viên mãn, tròn đầy. Chứng đắc là chứng đắc toàn diện. Hãy nhớ kỹ một điều cơ bản là: "Trí óc không thể nào suy lường hiểu thấu được Chân Lý. Trí óc có thể làm công việc phân tích, suy luận, cân nhắc... những gì mà chúng ta có thể chia chẻ ra được. Trí óc có thể hiểu tất cả những gì mà chúng ta đem ra cân đong, đo lường, tính đếm. Vì thế, nếu chúng ta nghe theo trí óc, chúng ta không bao giờ đạt tới Chân Lý viên mãn được. Đó chính là điều mà ni cô Chiyono đã bị sai lầm. Chiyono đã tu học, đã tư duy nhiều năm và đã bao năm trôi qua, cô vẫn chưa gặt hái được điều gì. Không có một sự cố gì xảy ra với cô cả. Trí óc con người có thể nghiên cứu về Thượng Đế, về Giác Ngộ, về Tuyệt Đối. Nó cũng có thể lừa dối chúng ta là tất cả mọi việc trên đời này đều đã được giải thích tường tận, đã cho ra một đáp số trọn vẹn rồi. Ngay cả khi chúng ta nói là chúng ta đã hiểu rõ tất cả “về” Thượng Đế, “về” Chân Lý, “về” Phật, “về” Chúa, thì chúng ta đã tự lừa dối mình vậy. Trí thức viên mãn là trí thức không phải "về" một cái gì. Khi chúng ta nói "về", thí dụ như tôi suy nghĩ "về" anh, suy nghĩ "về" cuộc đời, suy nghĩ "về" tình yêu v.v... thì chúng ta đã tự đặt mình trong thế nhị nguyên đối đãi. Vì có cái này nên có cái kia, vì có anh nên có tôi, vì có đối tượng nên có người suy nghĩ; chúng ta đang đi vòng theo một vòng tròn như con kiến bò theo miệng chén; chúng ta không bao giờ nhảy vào được bên trong vòng tròn đó. Vì thế, khi một người nào đó nói rằng: "Tôi đã hiểu được Chân Lý, tôi đã hiểu được Thượng Đế, thì anh ta thực sự chẳng hiểu tí gì cả”. Phật Tính, Chân Lý, Thượng Đế, Chúa v.v... là trung tâm điểm; không phải là chu vi, ngoại giới, không phải là cái bên ngoài. Chúng ta phải thể nhập vào Chân Lý, chúng ta với Phật, với Chúa là một; đó là con đường duy nhất, không có con đường nào khác. Đó là lý do mà Chúa Giê Su đã nói: "Chúa là Tình Yêu - Tình Yêu viết hoa - chứ không phải là sự ái nhiễm của nam nữ. Bạn không định nghĩa được Tình Yêu, bởi vì bạn chưa hội nhập được vào Tình Yêu; bạn chưa là một với Tình Yêu. Bạn có thể là một nhà nghiên cứu, một nhà tâm lý, bạn có thể trở thành một học giả vĩ đại, nhưng bạn chưa bao giờ thể nhập vào Tình Yêu, vào Chân Lý Tuyệt Đối. Tình Yêu chỉ thực sự hiện diện khi bạn trở thành Tình Yêu. Ngay cả khi người yêu bạn biến mất, Tình Yêu vẫn còn đó, bởi vì Tình Yêu đơn thuần là Tình Yêu, không có chủ thể, không có đối tượng. Cả hai từ "chủ thể" và "đối tượng" đều là cái bên ngoài, là đối đãi. "Có cái này nên có cái kia", "vì có anh nên tôi có mặt"; nếu còn có sự đối đãi thì bạn đánh mất thực tại. Khi cặp tình nhân đứng bên nhau, cả hai đều vắng bóng. Chỉ có Tình Yêu hiện diện, chỉ có giai điệu Tình Yêu phát ra tiết tấu. Tình Yêu có mặt khi bản ngã con người vắng bóng; tri thức có mặt khi đầu óc con người chứa đầy ý niệm. Tri thức thì thuộc về bản ngã, về cái Tôi, và cái Tôi đó không thể nào xâm nhập được vào tâm điểm; nó chỉ là ngoại vi, là vòng tròn ngoài. Với cái Tôi đầy ắp những quan niệm, Kinh Thánh, Kinh Vệ Đà, Áo Nghĩa Thư hay Kinh Coran, bạn mãi mãi là một kẻ xa lạ. "Ni cô Chiyono đã tu học nhiều năm... " Ni cô đó đã tu học nhiều năm hay nhiều kiếp rồi. Bạn cũng đã tu học nhiều năm hay nhiều kiếp rồi. Bạn đang chạy trên một vòng tròn. Bạn tưởng rằng bạn đã tới đích, nhưng không, bạn đang di chuyển trên một vòng tròn lặp đi lặp lại. Vòng tròn đó, tín đồ Ấn Độ Giáo gọi là "Samsara", có nghĩa là bánh xe, là vòng tròn. Bạn di chuyển, di chuyển mãi và không bao giờ tới đích cả. Bạn không bao giờ thấy được cái vòng tròn đó vì bạn chỉ biết một phần của vòng tròn mà thôi. Nó mãi mãi là một con đường, một con đường vô tận. Đó là những gì đã xẩy ra cho bao kiếp nhân sinh. "Chiyono đã tu tập và tu tập, nhưng vẫn chưa đạt được Chân Lý". Vì sao? Không phải vì Chân Lý, Giác Ngộ khó khăn, hóc búa, mà chính vì khi bạn nỗ lực tìm hiểu, nghiên cứu Chân Lý, thì bạn đã đi lạc hướng rồi. Bạn đã đi trật đường ray rồi! Điều này cũng giống như khi một người nào đó muốn đi vào căn phòng lại lao đầu vào bức tường vậy! Vào căn phòng không phải khó, nhưng phải vào qua cánh cửa, chứ không phải qua bức tường. Nhiều người, rất nhiều người, khi họ bắt đầu cuộc hành trình tâm linh, họ bắt đầu bằng việc học hỏi, nghiên cứu, bằng kiến thức, thông tin, triết lý, hệ thống này hay lý thuyết nọ. Họ bắt đầu từ "cái... về một cái... gì đó", cho nên họ đã va đầu vào bức tường. "Hãy là Chân Lý, hãy là Tình Yêu!". Nếu bạn muốn biết Tình Yêu, nếu bạn muốn biết Thượng Đế, hãy thiền định. Nếu bạn muốn thể nhập vào Vô Tận, hãy lắng lòng mà cầu nguyện. Phải tự mình là Chân Lý, là Tình Yêu, chứ không phải là người đang cầu nguyện, không phải là người đang thu góp lại những gì mà người khác nói ra và lặp lại. Hãy buông bỏ tất cả chữ nghĩa, kinh điển! Các thứ đó chỉ là những hàng rào, bức tường ngăn cản bạn nhảy vào Bản Thể Tuyệt Đối. Cánh cửa Chân Lý sẽ không bao giờ mở ra nếu bạn ôm đồm một mớ Kinh Thánh, Kinh Vệ Đà, Kinh Coran... cũng như ni cô Chiyono đã tu học nhiều năm mà vẫn chưa đạt được gì cả. Giác Ngộ là gì? Đó chính là sự tỉnh giác "Ta là Ai?. Giác Ngộ không có gì liên quan với thế giới bên ngoài. Giác Ngộ không có gì liên quan đến những gì mà người ta nói về nó. Những gì người ta nói đều lạc hướng hay chỉ diễn tả được một phần của Giác Ngộ. "Bạn đang có mặt tại đây, ngay phút giây này". Tại sao bạn phải đi tìm cầu nơi Kinh Thánh hay Kinh Vệ Đà? Hãy nhắm mắt lại và bạn đang ở đây, trong niềm phúc lạc thiêng liêng vô tận. Hãy nhắm mắt lại và cánh cửa đã mở. Bạn đang có mặt tại đây, ngay phút giây này. Không cần phải hỏi ai hết, không cần một tấm bản đồ chỉ dẫn. Trong thế giới nội tại, không có bản đồ, không cần có bản đồ, bởi vì bạn không đi về một hướng cố định. Bạn đang có sẵn trong Tâm một "nẻo về của Chân Lý". Thực ra, bạn cũng không di chuyển gì cả. Bạn đang ở đây; bạn là mục đích. Bạn không phải là kẻ tìm kiếm. Bạn chính là "Giác Ngộ"; bạn chính là "Giải Thoát"; bạn chính là "Chân Lý". Khi bạn chạy rong ruỗi tìm kiếm cái bên ngoài, bạn là kẻ vô minh. Khi bạn quay ngược về bên trong mình, bạn chính là Giác Ngộ. Điều khác biệt duy nhất chính là sự chú tâm, sự quay ngược trở về. Trong Kinh Thánh, danh từ "Cải Hoá" rất đẹp, rất hay; nhưng nhiều người vì đã hiểu sai nên sử dụng nó không đúng. Sự "Cải Hoá" không có nghĩa là thay đổi một người Ấn Độ Giáo thành một tín đồ Thiên Chúa Giáo, cũng không phải biến một người Công Giáo thành một tín đồ Ấn Độ Giáo. "Cải Hóa" có nghĩa là quay lại. "Cải Hóa" có nghĩa là quay về Nguồn, quay về bên trong, quay về Tâm Linh! Tâm trí của bạn như một dòng sông, có thể trôi về hai phía, ra ngoài hay vào trong; chỉ có hai phía định hướng cho một dòng sông tâm trí. Nếu tâm trí bạn quay ra ngoài thì nó sẽ trôi qua nhiều đời, nhiều kiếp, và sẽ không bao giờ đạt tới mục đích; bởi vì mục đích chính là Cội Nguồn mà bạn đã quay đi, bỏ lại sau lưng. Cội Nguồn đó không phải trước mặt, không phải là nơi mà bạn sẽ hướng tìm tới. Cội Nguồn chính là nơi mà bạn đã quay lưng. Nếu bạn có thể quay ngược về điểm đầu tiên mà bạn đã xuất phát, bạn đã tìm thấy Cội Nguồn Tâm Linh rồi vậy! Đó chính là lý do vì sao mà Chiyono đã tu học nhiều năm mà vẫn chưa đạt được gì, bởi cô đã chạy về phía trước tìm Chân Lý. Còn một điều này nữa tôi muốn nói với bạn: "Đừng tìm kiếm Chân Lý trong kinh điển". Kinh điển chỉ là những xác chết, những bóng ma. Đời sống là một dòng linh động, phát triển. Đi hỏi những xác chết về sự sống thì thực đáng buồn cười, phải không? (Câu nói này có nghĩa là chúng ta không nên đeo bám vào chữ nghĩa, dù đó là kinh điển, hãy thực nghiệm tâm linh để trải nghiệm; Sự và Lý phải đi đôi, viên dung với nhau thì mới có thể đạt được Giác Ngộ; nếu chấp vào một bên thì sẽ rơi vào kiến chấp, xơ cứng tâm linh - ND.) Thánh Krishna hay Chúa Giê Su cũng không thể giúp gì cho bạn - trừ phi chính bạn là Krishna hay Chúa Giê Su. Nếu bạn nghĩ rằng bạn sẽ tìm thấy câu trả lời trong kinh điển, thì bạn đã sai lầm lớn. Câu trả lời sẽ không bao giờ tìm thấy đâu, bạn ạ. Đó là lý do vì sao các triết gia, các học giả cứ lẩn quẩn, loanh quanh với mớ chủ nghĩa, lý thuyết, hệ thống v.v... Họ đã lạc hướng quá xa rồi! Không, không có ai trả lời cho bạn được đâu. Đừng đi đến bất cứ ai để mong được câu trả lời về Giác Ngộ, Giải Thoát. Nếu bạn tìm đến vị Đạo sư thì tất cả những gì ông ta làm là giúp bạn tìm ra chính bạn, tìm ra con người thật của bạn. Không có một Đạo sư nào giúp bạn có câu trả lời sẵn; không có ai cho bạn cái chìa khóa đâu. Đạo sư chỉ giúp bạn quay về bên trong, nhìn vào bên trong bạn. Tất cả là ở đó; kho tàng là ở đó; chìa khóa là ở đó - bên trong con người bạn. "Chiyono quãy đôi thùng cũ đầy nước..." Chúng ta cũng vậy. Chúng ta cũng gánh cái đầu óc cũ kỹ đầy ắp những học thuyết, quan niệm, chủ nghĩa của chúng ta ngày này qua ngày khác. Cái đầu óc đó đã cũ kỹ lắm rồi, đã xơ cứng rồi, đã chết rồi. Các Thiền sư đã nói: "Quá khứ không truy tìm, tương lai chưa kịp đến, an trú trong hiện tại, giây phút đẹp tuyệt vời". Thực tại là đây, bạn đang có mặt tại đây - nhưng giữa bạn và thực tại là bức màn tri thức. Những gì bạn thấy, bạn thấy qua bức màn tri thức đó. Những gì bạn nghe, bạn nghe qua bức màn tri thức đó. Chúa Giê Su đã nói với các tông đồ rằng: "Nếu các người có tai để nghe, hãy nghe Ta. Nếu các người có mắt để nhìn, hãy thấy Ta!". Nhưng Chúa Giê Su biết là các tông đồ đã mù và đã điếc rồi. Những gì bạn nghe qua tri thức, những gì bạn thấy qua tri thức đều đã bị tri thức tô mầu, thay đổi hay pha trộn. Tri thức đã đánh lừa bạn, đã đưa bạn vào vùng ảo giác, mê hồn trận. Chúng ta không thể nào đổi mới được với tri thức. Đừng tự lừa dối mình hay người khác qua lớp vỏ tri thức. Vì thế, nếu bạn muốn làm một cuộc cách mạng tư tưởng, trước hết phải nhìn lại rõ mình. Tôi cho là những người Cộng sản không thể nào làm cách mạng thực sự được, vì họ không bao giờ định tâm thiền định. Chủ nghĩa Cộng sản mà họ đang tôn thờ là sản phẩm của tri thức. Họ không tin vào bất cứ một Đấng Thần Linh nào, họ tin vào ông Marx hay một nhân vật nào đó (bản sao của Marx). Những người Cộng sản hay những tín đồ Ấn Độ Giáo, Công Giáo và Hồi Giáo thật giống nhau, bởi vì những người này đều nhắm mắt tin theo những chủ nghĩa, giáo điều hay hệ thống thiết lập trên nền tảng không vững chắc của tư duy và khái luận. Vì thế, trên thế gian này chỉ có tôn giáo nào dám lật đổ mọi giáo điều cũ rích, hệ thống tư duy sai lạc để đưa con người quay trở về với Bản Thể, Chân Như, Giác Ngộ, thì tôn giáo đó mới thực sự làm một cuộc cách mạng vĩ đại nhất, tôn giáo đó mới có thể làm một cuộc cách mạng chính xác, đúng đắn và toàn diện nhất. Một khi bạn phá vỡ được thành trì kiến chấp, giáo điều, hệ thống, buông xả được tri thức, bản ngã, thì lúc đó bạn sẽ nhìn vạn vật vạn sự trên cõi đời này khác hơn, xuyên suốt hơn, mới mẻ hơn. Vạn vật sẽ trở nên tươi mới, linh động. Bạn sẽ thành trẻ thơ trở lại. Mắt bạn ngây thơ hơn, trong sáng hơn, vô tư hơn. Bạn sẽ nhìn vạn vật không xuyên qua một bức màn che phủ nào. Cây cối xanh tươi và tiếng chim hót du dương trên cành cây kia sẽ là điệu nhạc cuộc đời muôn thuở. Cảm giác an bình đó rất khác với cảm giác mê ly của những người say ma túy. Aldous Huslley (một triết gia, tiểu thuyết gia, phê bình gia, nghị luận gia người Anh) đã sai lầm khi sử dụng ma túy, tưởng rằng sẽ tìm được cảm giác an bình thoát tục. Thế hệ trẻ bây giờ nghiện cần sa, ma túy cũng vì tưởng rằng sẽ tìm được an nhiên giải thoát cho những bế tắc khủng hoảng tâm linh. Dược tính trong cần sa, á phiện là độc dược. Nó làm tê liệt trung khu não bộ và gây ra những ảo giác mờ mịt, khoái cảm bệnh hoạn cho người sử dụng nó. Hệ thần kinh của người sử dụng ma túy không còn hoạt động nhạy bén được nữa và dần dần, nếu còn dùng ma túy nhiều thì độc tố trong người càng tăng, mức độ khoái cảm càng bị kích thích cao. Ma túy đã đẩy trí óc qua một bên và chiếm chỗ, những gì người sử dụng ma túy thấy và cảm giác qua đều sai lạc và bệnh hoạn. Tri thức con người cũng độc hại như ma túy vậy! Nó ngăn cản không cho chúng ta nhìn rõ lại chính mình. Nó cũng tạo ra những ảo giác mê lầm, đưa đến bệnh Ngã - Kiến chấp cho chúng ta. Chỉ có thiền định mới có thể giết chết bệnh Ngã - Kiến chấp đó. Chỉ có thiền định mới là liều thuốc giải độc tố tri thức của con người. Thiền định giúp người ta khai phóng mắt trí tuệ. Thiền định có nghĩa là nhìn - nhìn sâu vào bên trong. Danh từ "Darshan" trong Ấn Độ Giáo có nghĩa là "Nhìn", vì thế tín đồ Ấn Độ Giáo định nghĩa "Thiền" là "Nhìn" - nhìn sâu vào bên trong ta để tìm ra Con Người Thật của chính mình. Bạn hãy thử làm một thí nghiệm nhỏ này. Bạn vào phòng, đóng cửa lại, rồi bắt đầu lấy giấy bút viết ra tất cả những ý nghĩ nào chợt đến, chợt đi, chợt thoáng qua trong đầu bạn. Hãy viết tất cả, bất cứ một ý nghĩ nào vụt đến. Bạn đừng thay đổi chúng, đừng biến dạng chúng vì bạn không cần phải đưa mảnh giấy đó cho ai xem cả. Bạn cứ viết như vậy trong vòng mươi phút thôi và sau đó nhìn lại: đó là những gì bạn tư duy, những gì bạn suy nghĩ. Nếu bạn nhìn kỹ, thì bạn sẽ nghĩ đó là tác phẩm của một kẻ điên loạn, mắc bệnh thần kinh. Những ý tưởng lăng nhăng lộn xộn, không ăn nhập vào nhau, có cái thánh thiện, có cái ghê tởm, có cái thuần lương, có cái quỷ sứ v.v... Đó, trí não con người là thế đó, là một cái hộp số chứa đầy những bí ẩn và phức tạp, và chúng ta lại đi che giấu sự điên loạn rối ren đó đằng sau cái mặt nạ người. Chúng ta luôn luôn ẩn nấp, che giấu, không dám lộ diện con người thật của mình. Đằng sau cái bộ mặt người đó, chúng ta chỉ là một kẻ điên, một người mắc bệnh thần kinh. Nhưng tại sao chúng ta lại đánh giá "tư tưởng" quá cao như vậy? Phải chăng chúng ta đã say mê nó, đã nghiện nó. Tri thức là ma túy, là một chất hóa học đầu độc con người. Trong sự mê loạn đó, con người tưởng rằng có thể quên hết sự đời, buông bỏ sự lo âu, bổn phận trách nhiệm, hoặc trở thành một mẫu anh hùng lý tưởng nào đó. Đã ngủ quên trong mộng, con người lại chồng chất thêm những cơn mộng huyền hoặc phù du. Ban đêm họ ngủ mơ, ban ngày họ cũng nằm mơ. Những cơn mơ đó bao phủ con người và họ đắm chìm trong đó, không thể thoát ra và có lẽ họ cũng không muốn thoát ra. Con người đã tự giam hãm mình trong cái tù chật hẹp đó, để rồi oán trách bi thương, để rồi đau khổ! Nhưng, mặc dù đã biết rõ như vậy, họ cũng đã ở trong nhà tù tư tưởng đó quá lâu, đến nỗi họ trở nên quen thuộc với nó, ôm ấp nó như ôm ấp tình nhân, cũng giống như những tên tội phạm vì ở tù quá lâu nên tỏ ra sợ hãi thế giới bên ngoài, sợ hãi được trả lại tự do! Thật mâu thuẫn và chua chát, phải không? Biết ở tù là đau khổ, là sợ hãi, nhưng vẫn cam tâm chịu đựng, không muốn thoát ra. Cái sợ "được trả lại tự do" đó bắt nguồn từ nỗi sợ phải đối diện với cái mới, trách nhiệm mới, nếp sống mới, con người mới, xã hội mới v.v... Sự lột xác toàn diện khiến người ta tỏ ra sợ phải đối diện, phải chui đầu ra khỏi cái vỏ bọc, chui đầu ra khỏi nhà tù quen thuộc. Con người đã bám víu lấy tâm trí như cái bóng của mình; một khi đánh mất nó, thì con người cảm thấy mất thăng bằng, không đứng vững. Krishnamurti đã nói: "Con người cảm thấy như mất thăng bằng nếu không suy nghĩ". Có lẽ mọi người có cảm nhận rằng, nếu không suy nghĩ thì họ sẽ làm gì bây giờ? Một bộ não bình thường có thể chứa được tất cả thư viện trên thế giới. Trong cái đầu bé nhỏ của bạn có hàng tỷ tế bào thần kinh, mỗi tế bào có thể chứa ít nhất một triệu thông tin. Không có một cái máy vi tính nào có thể sánh nổi với bộ não con người. Bạn mang cả một thế giới cồng kềnh trong cái đầu nhỏ bé của mình và lẽ dĩ nhiên, sức chuyên chở có hạn, một ngày nào đó bộ não bị quá tải sẽ nổ tung, văng hết ra! Ni cô Chiyono đã tu học, đã tu học nhiều năm. Cô đã cố cho đầy thêm nước vào thùng cũng như cô đã cố nhồi nhét tri thức vào đầu óc mình, và vừa quẩy đôi thùng đầy nước, Chiyono vừa ngắm ánh trăng phản chiếu xuống mặt nước trong thùng. Đó không phải là chuyện lạ. Không phải chỉ riêng Chiyono mà chúng ta cũng vậy. Chúng ta không bao giờ nhìn mặt trăng. Chúng ta luôn nhìn cái bóng của mặt trăng phản chiếu xuống nước, phản chiếu trong tư tưởng, trong đầu óc chúng ta. Danh từ Ấn Độ "Maya" có nghĩa là "Ảo Giác". Tất cả những gì ta thấy, ta nghe đều là ảo giác; có nghĩa là chúng ta chỉ thấy bóng của mặt trăng chứ không phải là mặt trăng thực. Những gì chúng ta thấy, chúng ta nghe, thì chúng ta thấy và nghe qua sự phản chiếu. Mắt chúng ta phản chiếu, tai chúng ta phản chiếu. Tất cả giác quan mắt, tai, mũi, lưỡi, thân đều là những cái gương phản chiếu sự vật, đưa đến sự sai lầm, ảo giác. Chân Lý không bao giờ xảy ra khi chúng ta chỉ biết nhìn cái bóng phản chiếu trong gương; Chân Lý chỉ đến khi tấm gương bị đập nát đi, thùng nước vỡ đi, nước không còn, sự phản chiếu biến mất. Giác Ngộ đến thật đột ngột, bất thình lình. Giác Ngộ có thể ví như một tai nạn xảy đến bất chợt. Chúng ta không thể đoán trước tai nạn sẽ xảy ra lúc nào. Nếu chúng ta có thể biết chắc tai nạn sẽ xảy ra, thì đó là sự sắp đặt, không phải là tai họa. Giác ngộ cũng vậy. Chúng ta không thể sắp đặt chờ đón Giác Ngộ sẽ đến thế này thế kia. Không, không bao giờ có chuyện như thế cả! Đột nhiên chúng ta tỉnh thức; đột nhiên chúng ta Giác Ngộ. Thế thôi! Khi Bồ Tát Sĩ Đạt Ta chứng đắc quả vị Phật, có phải Ngài vẫn là con người cũ không? Không, con người cũ không thể chứng đắc. Con người cũ đã hoàn toàn chết để sinh thành con người mới, một con người hoàn toàn mới. Thái tử Sĩ Đạt Ta, người đã từ bỏ cung vàng điện ngọc, từ bỏ vợ đẹp con thơ, không còn nữa. Cái "Tự Ngã" của thái tử Sĩ Đạt Ta không còn nữa. Cái "Tâm Trí" của Sĩ Đạt Ta không còn nữa. Con người cũ đã chết, cái thùng nước cũ đã vỡ. Bây giờ là hoàn toàn một con người mới, một cái tên mới, chúng ta gọi Ngài bằng cái tên mới - Đức Phật - Bậc Giác Ngộ. Cái tên cũ "Sĩ Đạt Ta" không còn thuộc về người này nữa! Nhưng hãy cẩn thận, coi chừng! Khi tôi ví Giác Ngộ cũng giống như một tai họa bất ngờ, tôi không có ý nói là bạn không nên làm gì cả. Đó không phải là ý nghĩa xác thực của lời tôi. Nếu bạn ngồi yên không làm gì cả, lẽ dĩ nhiên tai nạn không xảy ra, Giác Ngộ không xảy ra. Ví dụ, tai nạn chỉ xảy ra cho những người chạy xe nhanh quá hay ẩu quá; cũng vậy, Giác Ngộ chỉ xảy ra cho những người công phu tịnh tấn nhất. Nhưng điểm khác biệt là thế này: cái hành động chạy xe nhanh không phải là cái Nhân của tai nạn mà đó là cái Duyên đưa đến tai nạn; công phu tham thiền miên mật không phải là cái Nhân của Giác Ngộ. Vì thế, Đức Phật không thể nói khi nào Giác Ngộ sẽ đến với bạn. Có nhiều người đến hỏi tôi như vậy, và tôi trả lời họ là "sắp tới rồi". Câu trả lời đó chẳng có ý nghĩa gì; "sắp tới" có thể sẽ là phút tới, có thể sẽ là ngày mai, có thể sẽ xảy ra trong nhiều kiếp sau, vô hạn. Bạn không thể đoán trước được. Bạn cứ việc làm, cứ việc tham thiền, cứ việc tu học. Đừng mong cầu, đừng ngóng đợi, đừng trông chờ. Cái gì đến sẽ đến! Bạn cứ an nhiên sẵn sàng trong tỉnh thức đón nhận cái gì đến với bạn. Vì nếu bạn không ở trong tư thế sẵn sàng, nếu bạn mơ ngủ thì có thể điều kỳ diệu sẽ tới và vụt đi mất dấu. Ngay cả khi bạn sẵn sàng, bạn vẫn phải chờ đón. Bạn không thể bắt buộc Giác Ngộ phải xảy ra, bạn cũng không thể mong Giác Ngộ tới. Nếu bạn có thể bắt buộc, thì tôn giáo sẽ chẳng khác gì một môn khoa học. Đó là điểm khác nhau cơ bản giữa tôn giáo và khoa học. Khoa học có thể tạo ra những phản ứng hóa học, những kết quả, vì nó tùy thuộc vào nguyên nhân. Khoa học có thể tạo ra sự vật vì nó tìm ra cái “Nhân”. Ví dụ, nếu bạn đun nước sôi 100 độ thì nước bốc hơi. Bạn biết chắc chắn rằng, khi nước đun sôi 100 độ thì nước tự nhiên sẽ bốc hơi, hay nếu bạn pha trộn hai nguyên tử oxy và hydro thì bạn sẽ tạo ra một phân tử nước (H2O). Bạn có thể tạo ra những phản ứng hóa học mà bạn muốn. Khoa học là môn học nghiên cứu để tìm ra nguyên nhân của vạn vật. Tôn giáo thì khác, cơ bản rất khác, và tôn giáo không bao giờ trở thành một môn khoa học theo nghĩa đơn thuần của danh từ "khoa học", bởi vì tôn giáo đi tìm cái không cùng, cái không nhân, tôn giáo đi tìm sự Chuyển Hóa Tuyệt Đối. Bạn có thể hỏi ngược lại tôi rằng: "Nếu Giác Ngộ xảy ra đột ngột, không biết trước lúc nào, giống như tai nạn xảy đến đột ngột như lời ông nói thì cần gì phải thiền, cần gì phải tham cứu? Cứ đơn giản ngồi chờ nó tới!" Không, sự chờ đợi của bạn không phải là sự chờ đợi biếng lười như vậy. Sự chờ đợi của bạn phải là sự chờ đợi tích cực, tươi mới, sống động. Bạn không nên ngồi chờ thụ động như một xác chết; luôn luôn bạn chờ đợi trong tỉnh thức, trong chính niệm, sống động và tươi mới. Chỉ có trong trạng thái hồn nhiên tỉnh thức đó, điều kỳ diệu nhiệm mầu sẽ xảy ra cho bạn. Có bao giờ bạn quan sát cuộc đời và nhận xét rằng, mọi sự vật trên thế gian này đều vô thường, không chắc chắn, duy chỉ có cái chết chắc chắn sẽ đến với tất cả chúng sinh hữu tình không? Tất cả sự vật đều vô thường, không chắc chắn! Tình yêu cũng vậy, không có cái tình yêu bất tử. Chỉ có một điều chắc chắn: đó là cái Chết, và sự chắc chắn thuộc về cái Chết, không phải thuộc về sự Sống đâu, bạn ạ. Nếu bạn đang đi tìm Sự Sống Vĩnh Cửu, hãy sống cởi mở, an nhiên, bình dị ngay từ phút giây tỉnh thức bây giờ. Tôi muốn kể cho bạn nghe về ni cô Chyono. Trước khi xuất gia, Chiyono là một giai nhân tuyệt sắc. Sắc đẹp diễm lệ của cô quyến rũ đến nỗi, khi cô muốn đi tu thì tới nơi nào cô cũng bị từ chối, vì các đại sư e ngại sắc đẹp của cô sẽ làm cho các vị sư đắm nhiễm mê say. Cuối cùng, Chiyono quyết định táo bạo là đốt rộp gương mặt cô thành sẹo để không một ai mơ tưởng đến cô nữa. Từ đó, Chiyono sống yên trong một tu viện. Cô đã tịnh tấn chiến đấu không ngừng với bản thân. Cô đã tu học tham thiền hàng chục năm liên tục không mệt mỏi, và đột nhiên một đêm kia, "kẻ lạ mặt" mà Chiyono đã cố công tìm kiếm đến gõ cửa nhà cô. "Bất thình lình, giây thừng đứt, thùng nước rơi, Nước đổ ào ra, bóng trăng biến mất và Chiyono hoát nhiên đại ngộ". Chiyono đang ngắm bóng trăng, bóng trăng thật đẹp, vì chúng phản chiếu cái Đẹp Tuyệt Đối. Thế gian này cũng rất đẹp vì nó là cái bóng phản chiếu Thượng Đế, phản chiếu cái Đẹp Thiêng Liêng. Ngoài thế gian, chúng ta không thể nào tìm ra cái Đẹp Tuyệt Đối. Những người đi tìm cái Đẹp Tuyệt Đối hay Chân Lý không bao giờ nhầm lẫn cái Thật và cái bóng phản chiếu. Anh ta không phủ nhận cái bóng, không chối bỏ nó, nhưng anh ta không đắm nhiễm nó, không nhầm lẫn nó với cái Thật. Anh ta mượn nó để tìm đến cái Thật, tìm thấy cái Thật. "Chiyono ngắm bóng trăng phản chiếu trong thùng nước. Bỗng nhiên, giây đứt, thùng rơi, bóng trăng biến mất". Chiyono ngước mắt nhìn lên trời - vành trăng tròn thực sự đang ở trên cao. Hoát nhiên Chiyono trực nhận rằng tất cả những gì cô ta thấy và nghe đều là ảo ảnh, sai lầm - vì cô ta thấy và nghe qua tâm trí. Nhưng, hãy coi chừng! Đừng đi theo Chiyono. Chiyono không phải là bạn. Bạn không phải là Chiyono. Cái hoát nhiên đốn ngộ đó sẽ không xảy ra cho bạn đâu! Chiyono là Chiyono; bạn là bạn. Mục tiêu Giải Thoát vẫn là một, nhưng không có phương cách nào giống phương cách nào; không có sự đốn ngộ nào giống với sự đốn ngộ nào. Không ai có thể là Chiyono thứ hai được. Thế giới không bao giờ lặp lại. Chiyono chỉ sinh ra một lần và không bao giờ có một Chiyono nữa. Bạn không thể lặp lại hay bắt chước, vì bạn không phải là Chiyono. Mỗi người tu tập một pháp môn; mỗi người tự thân chứng lấy một cách. Ngay hình tượng Đức Phật cũng vậy. Bạn có thể ngồi kiết già thiền định như Đức Phật, dưới cội cây Bồ Đề, y như Phật đã ngồi, mà thậm chí có thể bạn ngồi hay hơn Phật nữa kìa, nhưng mãi mãi bạn không bao giờ trở thành một Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thứ hai (bạn có thể thành Đức Phật X, Đức Phật Y... nhưng không thể là Phật Thích Ca Mâu Ni). Việc Đức Phật Thích Ca ngồi dưới cội cây Bồ Đề là một sự kiện ngẫu nhiên. Nếu Phật không ngồi ở đó mà đi thiền hành hoặc ngồi ở cội cây khác thì Phật vẫn đạt ngộ như thường. Chỉ là một sự trùng hợp ngẫu nhiên mà Đức Phật đến dưới cội cây Bồ Đề và thiền định. Hình tướng không quan trọng; cây Bồ Đề không phải là nguyên nhân Giác Ngộ, cái dáng ngồi kiết già không phải là nguyên nhân Giác Ngộ - đó chẳng qua chỉ là những cơ duyên đưa đến Giác Ngộ của Phật Thích Ca. Đừng bao giờ mù quáng chạy theo bắt chước một ai, dù người đó là Đức Phật. Không phải bạn ngồi kiết già như Phật mà bạn có thể thành Phật. Thực sự là chúng ta nên tu tập theo những lời dạy của Phật, nhưng chúng ta vẫn phải tự mình chứng đạt, tự mình tìm ra Tự Tính chân thật từ cổ xưa của mình. Mỗi người chứng nghiệm một cách. Đức Phật, Lão Tử, Mahavira, Krishna hay Zarathustra - không có ai gánh nước như Chiyono mà Giác Ngộ. Trước và sau Đức Phật Thích Ca, không có ai ngồi dưới cây Bồ Đề mà Giác Ngộ. Vì thế, đừng đóng khung trong lề thói, trong kinh điển v.v... Hãy tỉnh thức và suy nghiệm! Đó là con đường duy nhất để thực hành, để chứng đạt. Tỉnh thức trong từng sát na, tỉnh thức trong từng hành động và ý nghĩ. "Bất thình lình giây thừng đứt, Không còn nước, không còn trăng trong nước, Tay tôi rỗng không, chẳng có vật gì, Tâm tôi rỗng không, chẳng có vật gì". Đó chính là những gì mà Đức Phật chứng ngộ; đó chính là định nghĩa một vị Phật là gì. "Không - vạn vật giai không". "Không" ở đây không có nghĩa là không có gì, phủ định. "Không" có nghĩa là "Có" - "Có" có nghĩa là "Không". "Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc, Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc" (Sắc chẳng khác Không, Không chẳng khác Sắc, Sắc tức là Không, Không tức là Sắc - Bát Nhã Tâm Kinh). "Không" trong tay có nghĩa là suối nguồn Giác Ngộ trong tay. Vạn vật giai không, không có cái tướng của ta, không có cái tướng của người, không có tướng chúng sinh, không có tướng lãnh thọ của chúng sinh (Kinh Kim Cang). Một khi bốn hình tướng đó đều là Không thì bạn chạm tới bộ mặt thật của Thiền rồi vậy. Và Chiyono đã tìm ra "Không Nước - Không Trăng": "Tay tôi rỗng không Tâm tôi rỗng không...".
-
Đây là chuyện có thật 100% mà tôi vừa được tận mắt chứng kiến cách đây 20 phút ở chợ! Đang loay hoay mua rau cải ngoài chợ, thì có một cậu bé khoảng chừng 13-14 tuổi, lết dưới đất, toàn thân đầy bùn đất, trên tay cầm một sấp vé số. Nhìn thấy cảnh tượng đó thật sự tôi không cầm lòng được. Mặc dù không biết cách dò vé số, nhưng tôi cũng mua giúp cậu bé 2 tờ. Vừa mua xong, cậu bé lại tiếp tục lết đi một cách khó khăn và tội nghiệp, tôi quay qua, thì chị hàng chuối kế bên nói: "Chị đã nhìn thấy "nó" 2 lần, sau khi "nó" lết ra đến đường thì có một người ngồi trên xe đợi sẵn, và cứ thế mà "nó" leo lên xe, cười hể hả và chắc là lại đi đến chợ khác!". Tôi bèn nói: "Chị có nhìn lầm không? Chứ em thấy nó tội nghiệp quá mà! Với lại bán vé số thì cần gì phải gạt người như vậy?". Chị lại nói: "Lầm sao được mà lầm? Chị nhìn thấy 2 lần rồi mà! Nó phải làm vậy thì người ta thấy tội nghiệp và nó bán được nhiều hơn. Mà chắc giờ này nó lết ra tới đường rồi, nó mà chạy chắc nhanh hơn mình nữa đó (!?)" Tôi chỉ nói: "Vậy hả chị?". Xong tính tiền rau và đi mà trong lòng vẫn còn hoài nghi về những điều chị hàng chuối nói. Mặc dù tôi được nghe nhiều về những chuyện như vậy rồi, nhưng tôi vẫn nghĩ chắc không phải vậy đâu.(!?) Đi được một đoạn thì nhìn thấy 2 bé, 1 trai và 1 gái khoảng chừng 7-8 tuổi gì đó mà tôi đoán là bị nhiễm chất độc da cam, cũng bán vé số, cũng lại động lòng trắc ẩn. Tôi lại mua thêm 2 vé nữa, đồng thời cũng hỏi địa chỉ của 2 em, để nếu như tôi có may mắn trúng số, nhất định sẽ tìm đến nơi ở của 2 em để giúp đỡ. Ra đến đường, tôi lại thấy cậu bé đó vẫn lết trên lề đường, thì quả đúng là có một người đàn ông đứng đợi cậu sẵn, cầm một cái nón bảo hiểm, đội nón cho cậu bé xong, cũng bế cậu bé lên xe, tôi đứng bên đây đường quan sát, thấy 2 người cười nói rất vui vẻ, vẫn dõi theo chân cậu bé và... các bạn biết sao không? Mặc dù diễn rất là khéo nhưng cuối cùng, 2 cái chân "không cử động" của cậu ta bỗng nhiên đặt trên thanh gác chân. Trước bao nhiêu cặp mắt tò mò, bàng hoàng của người nhiều, tôi vẫn đứng lặng nhìn theo chiếc xe từ từ lăn bánh và nhớ lại 2 bé nhiễm chất độc màu da cam. Thì đúng là trong xã hội này "Thật giả lẫn lộn!"
-
Ở đây không phải là vấn đề về tiền bạc, cũng không phải là một bài học kinh nghiệm hay lòng tin bị đánh đổi. Khi chứng kiến cảnh đó, tôi nghĩ ngay sẽ đưa lên diễn đàn để nói về một tệ nạn, nhưng biết thì biết vậy thôi, lừa thì vẫn sẽ lừa và bị lừa thì vẫn sẽ bị lừa thôi mà. Và rồi có ai nghĩ được sau khi bán hết số vé đó rồi thì cậu bé đó sẽ làm gì? Và mối quan hệ giữa cậu bé và người đàn ông kia là gì? Liệu cậu bé có bị ép buộc làm như vậy hay không? Một dấu hỏi to đùng hiện lên trong đầu tôi. Và lại một câu hỏi nữa liệu cậu bé kia là kẻ lừa gạt hay chính người đàn ông kia đang tạo nghiệp? Cũng giống như khi tôi poat bài này lên, các Cô chú, anh chị em trên diễn đàn thường chỉ để tâm đến đối tượng là cậu bé, chứ mấy ai để ý đến 2 bé bị nhiễm chất độc màu da cam đâu? Sẵn đây cũng có một thông báo vui vui, 4 tấm vé số tôi mới dò trên mạng,... trật lất hết rồi, hỏng trúng được số nào cả. Hì hì! :)
-
Bến Mơ Nguyễn Bính Bến mơ thuyền đậu, dưới thuyền mơ. Tôi đã mơ màng chuyện tóc tơ. Bỏ dở khăn thêu, nàng lẳng lặng Đến xem chàng nối mấy vần thơ. Bỗng nàng sung sướng vỗ tay reo, -Thi sĩ, chồng em, anh đáng yêu! Những vận thơ anh huyền ảo quá! Và thiêng liêng quá! Và cao siêu! Chàng ngước nhìn nàng trong luyến ái: -Mình ơi! mình nối hộ thơ, mình! -Em chả nối thơ đâu đấy nhé! Suốt đời em chỉ muốn hôn anh. Một chiếc, một chiếc lại một chiếc, Má chàng in có vạn đôi môi. Chàng cười như nấc đi từng lúc: - Anh lạy cô mình, anh xin thôi!
-
Anh của riêng em Có một thời anh là của riêng em. Từng ý nghĩ đựng trong ánh mắt. Ánh nhìn anh những gì em cảm nhận. Tất cả dành cho em, riêng em. Có một thời em chẳng thể lãng quên Anh mạnh mẽ và dịu dàng đến thế Em nhỏ bé nép bóng anh che chở Chuyện ngày xưa đâu phải giấc mơ đêm Ôi đâu rồi thời ấy của riêng em Hoa mây lá, ánh mặt trời cháy bỏng Bao yêu thương trong mắt anh thầm lặng. Gió xôn xao cứ đùa yêu em... yêu em. Ngày tháng ơi cho em được cầu xin. Xin trả em về với bến bờ xưa ấy Dẫu có biết tình yêu không dễ vậy. Xin cứ trả em về ngày ấy của riêng em. Sưu tầm
-
Tình Yêu Vĩnh Hằng Tôi yêu em như đại dương nổi sóng Cuồn cuộn dâng tràn như tiếng nói con tim Từng lớp sóng xanh như trúc cạn nỗi niềm Của trái tim yêu đang thét gào khao khát Tôi yêu em như rừng xanh bát ngát Bao phủ thú rừng trong tĩnh mịch của màn đêm Và tiếng vang rên của muôn thú khát thèm Muốn thoả mãn trong màu đen ân ái Tôi yêu em một tình yêu rộng rãi Như mây ngàn bao phủ khắp trời xanh Và mênh mông như biển cả sóng gầm Hay nóng bỏng của khô cằn sa mạc. Tôi yêu em như nghìn trùng cơn gió Xé không gian bay đến tận mây ngàn Cho muôn loài không còn tiếng thở than Và hai cơ thể hoà chung một nhịp đập. Tôi yêu em như muôn vì tinh tú Soi sáng đường trong u tịch của đêm đen Phá tan đi những khuôn khổ định kèm Của phong kiến ngàn đời còn cổ hủ. Yêu như thế vẫn còn chưa đủ Muốn tim em là sở hữu của riêng mình Như cánh bườm căng gió vượt biển xanh Theo lượn sóng nhấp nhô trong êm ả Tôi yêu em một tình yêu buông thả Không lọc lừa không biên giới cách ngăn Như đại dương không còn lượn sóng ngầm Cho hai đứa vĩnh hằng trong luyến ái... Sưu tầm
-
Phòng ngủ trong Phong thủy Trong phong thủy, đôi uyên ương tượng trưng cho cuộc sống vợ chồng bền vững, sự gắn bó hạnh phúc trong hôn nhân… Bạn có thể tìm thấy rất nhiều hình ảnh đôi uyên ương trên các tác phẩm thủ công mỹ nghệ của Trung Quốc, vì ai cũng muốn bài trí những vật dụng có đôi uyên ương, với mong muốn mang lại ý nghĩa tốt đẹp cho cuộc sống hạnh phúc gia đình. Nên treo đôi uyên ương hay đôi vẹt xanh Treo bức tranh có đôi uyên ương ở góc Tây Nam của phòng ngủ sẽ tạo ra năng lượng tốt bồi dưỡng cho cuộc sống tình cảm của bạn. Nhiều người Hoa trước đây cho rằng nếu ai còn độc thân thì nên treo tranh uyên ương hoặc mua một đôi uyên ương bằng gỗ đặt trong phòng ngủ. Lưu ý là chỉ sử dụng một đôi, không được dùng một hoặc ba con. Lý do là treo hoặc trưng chỉ một con trống hay mái chỉ hàm ý là người treo sẽ sống độc thân mãi mãi, còn ba con hàm chỉ trong cuộc hôn nhân sẽ có kẻ thứ ba chen vào. Muốn thu hút người khác phái, hãy để một đôi uyên ương trong phòng ngủ của mình. Nếu không tìm mua được đôi uyên ương, thì treo hình của một đôi vẹt xanh cũng có ý nghĩa tương tự. Có điều, bạn không nên nuôi một đôi vẹt thật. Bởi vì, theo Phong thủy, nuôi chim trong lồng được xem là rất xấu. Chim bị nhốt trong lồng tượng trưng cho khả năng không bay bổng, tự do và công danh cũng không được thăng tiến, suôn sẻ. Đôi uyên ương (hoặc vẹt xanh) tượng trưng cho tình yêu và sự lãng mạn. Vì vậy, nếu có thể bạn nên treo một bức tranh minh họa (bên phải) ở góc Tây Nam của phòng ngủ hoặc của ngôi nhà để khơi gợi những điều tốt đẹp trong cuộc sống vợ chồng. Ảnh hưởng của gương trong phòng ngủGương tiềm ẩn một dạng năng lượng rất đặc biệt, có thể rất tốt, nhưng cũng có thể rất xấu. Theo Phong thủy, gương đặt trong phòng ngủ là điều cấm kỵ nhất vì gương gây ra hậu quả tai hại nhất là phá hoại, chia rẽ mối quan hệ vợ chồng, hôn nhân. Gương cũng tạo điều kiện cho người thứ ba xen vào và làm đổ vỡ mối quan hệ tốt đẹp của vợ chồng. Nếu nhất thiết phải đặt gương trong phòng ngủ thì tốt nhất hãy đóng hoặc che phủ gương lại trước khi đi ngủ. Tuyệt đối không bao giờ treo gương lên trần nhà. Nếu đặt gương đối diện trực tiếp với giường ngủ thì gương có thể phản chiếu trực tiếp hình ảnh của giường ngủ. Các bậc thầy về Phong thủy cho rằng khi gương phản chiếu trực tiếp hình ảnh của giường ngủ sẽ tạo ra năng lượng âm, phá vỡ mối quan hệ vợ chồng, đặc biệt gây ra sự phản bội của một trong hai người. Về mặt Phong thủy, phòng ngủ này không tốt đối với hai vợ chồng vì cửa kính đặt bên hông giường phản chiếu trực tiếp giường ngủ. Tuy nhiên, nếu làm tấm màn che khuất cửa kính thì có thể giảm bớt ảnh hưởng xấu do nó gây ra. Theo “Phong Thủy để thành công trong công việc và kinh doanh”
-
Tầm thường như mụn ruồi trên mặt, trong thân thể, cũng mang ảnh hưởng quan trọng đến cuộc đời.Nốt ruồi chữ hán gọi là " hắc chí" hay "hắc tử" . Nó mọc bất cứ nơi nào trên người. Tướng học căn cứ các bộ vị khác nhau, có nốt ruồi để mà đoán định tốt xấu, cát hung. Sử ký chép: Chu Hồng Vũ tức Minh Thái Tổ lúc còn nghèo hèn cùng xuống đầm rửa chân với Kỳ Nhạc. Nhạc lật gan bàn chân lên nói: "Tao có nốt ruồi này, Thầy tướng bảo là sẽ cai quản cả ngàn quân, gọi là túc đạp thất tinh (Bàn chân dẫm lên một ngôi sao) ". Chu Hồng Vũ hỏi: "nếu túc đạp thất tinh thì thế nào?" Nói rồi, Chu Hồng Vũ lật bàn chân lên, giữa lòng có bảy nốt ruồi. Từ đây Kỳ Nhạc đi theo Chu Hồng Vũ. Đời nhà Thanh có Hải Lan Sát lúc sinh ra đời tay dài quá gối, lòng bàn tay có bảy nốt ruồi. Ông làm đến bậc vương hầu quyền quý một thời. Sách tướng đời Hán viết: "Tay nắm bảy sao làm quan đến cực phẩm". Trung Quốc tướng pháp cổ có đoạn nói về nốt ruồi dưới đây: Hắc tử ví như cây trên núi, mô đất nơi đồng bằng. Núi có mỹ chất thì sinh cây quý để tỏ tú khí của núi. Đất tích ô thổ thì sinh những thứ quái ác. Lý vạn vật đều như vậy. Đến như con người ta, nếu chứa chấp mỹ chất tất nẩy ra Hắc tử để hiển hiện điều quý, nếu mang chất nhơ đục sẽ sinh "ác chí" để hiển hiện cái tiện. Cho nên vua Hán Cao Tổ đùi mọc ra 72 nốt ruồi báo hiệu tướng đế vương". Nguyên tắc về nốt ruồi có mấy điểm như sau: -Nốt ruồi sống và nốt ruồi chết. Sống là nó nổi, trông sắc còn tươi và còn có thể phát triển hơn nữa(đàn ông nốt ruồi sống thường mọc lông). Chết là nó chìm như cái chấm đen. -Nốt ruồi động và nốt ruồi tĩnh. động là nó mọc nơi bắp thịt vẫn được sử dụng cử động như chung quanh miệng. Tĩnh là nó mọc nơi bắp thịt không cử động. -Nốt ruồi đỏ hồng hồng, nâu nâu và nốt ruồi đen. -Nốt ruồi mọc chỗ kín (sau lớp quần áo, hoặc trong tóc mái, trong lông mày, vành trong của tai...người ngoài không nhìn thấy được), và nốt ruồi mọc hở( ngược lại là nhìn thấy được). Sống, đỏ, động, kín là tốt. Nếu nốt ruồi màu đen, thì phải đen bóng mới tốt. Chết, đen, đục, tĩnh, hở là xấu hoặc nếu tốt thì cũng không mạnh bằng. Riêng về nốt ruồi động, nó thường tao cho người đàn bà thêm duyên dáng, cười đã đẹp mà còn có nốt ruồi duyên nữa thì khả ái biết mấy. Đàn bà Tây phương ưa trang điểm với nốt ruồi giả. Bên Mỹ còn bày vẽ thêm cả nốt ruồi gắn vào đùi, ngực, rất cần trong lúc "Trần truồng". Nốt ruồi mang một ý nghĩa nào với thân phận, người các nước quan điểm khác hẳn nhau. Dân Đức cho là dấu hiệu của sự di truyền từ bá mẫu, chứng tỏ một ô điểm hay khiếm khuyết, nốt ruồi là một điều "bất tường". Dân Pháp lại rất quý nốt ruồi, bảo nó là một hạt huyền rơi trên tuyết. Dân Trung Quốc và hầu hết dân Đông Phương nhìn nốt ruồi như một biểu hiện của tướng cách. Theo tướng pháp có nốt ruồi hung và nốt ruồi cát (tốt), muốn biết hung hay cát phải căn cứ vào màu sắc và vị trí của nó. Có một số lý thuyết gia tướng học quá khích bảo rằng "diện vô thiện chí" không nốt ruồi trên mặt nào là tốt cả. Lời này đã bị các tướng sư thay thế bằng lập luận tùy vị trí, tùy màu sắc và nốt ruồi trên mặt, nếu được che đi thì lại càng tốt, tỉ dụ mọc trong lông mày, được lông mày che đi ấy là cái lý ẩn cát lộ hung vậy. Tàn nhang, ban điểm cũng tương tự, nhưng hầu hết đều có ý nghĩa xấu. Phép xem tướng nốt ruồi còn dài, hơn nữa với người ngoài cuộc học không đến nơi dễ sinh ngộ nhận không hay, phán đoán sai mà mất lòng tin vào tướng mệnh học. Nay tôi chép ra nguyên lý cơ bản về tướng nốt ruồi để các bạn thấy được tướng học không mang màu sắc của bói toán và mê tín dị đoan. Nếu các bạn đi xem bói tướng thì có thể hỏi qua về nguyên lý tướng học này để nhận biết đâu là lời nói thật, hay chỉ hàm hồ uốn ba tấc lưỡi kiếm tiền của thiên hạ. Nói chung, căn cứ theo nguyên lý cơ bản trên đây là có thể xác định tương đối chuẩn xác về nốt ruồi là tốt hay là xấu. Sưu Tầm
-
1. Khắc Cha Mẹ. Thường phải xa cha hoặc mẹ từ thuở nhỏ. Lớn lên tự lập, không có số nhờ cha, mẹ 2. Khắc Cha Mẹ. Thường phải xa cha hoặc mẹ từ thuở nhỏ. Lớn lên tự lập, không có số nhờ cha, mẹ 3. Khắc cha mẹ. Thường mất cha mẹ lúc còn trẻ tuổi 4. Người có cuộc sống bình đạm, không bon chen 5. Người có đạo đức 6. Sống rất thọ, cuộc đời sung túc nếu có cả nốt ruồi số 2 7. Số may mắn, làm việc thường lúc nào cũng thành công 8. Nốt ruồi đại phú, có nhiều tiền bạc, tài của 9. Nốt ruồi quí, thường có danh vọng, địa vị cao trong xã hội 10. Người biết xuôi theo thời, thường được người có thế lực đỡ đầu 11. Nốt ruồi thị phi. Dễ bị liên quan trong các vụ kiện tụng, thưa gởi, tiếng đồn xấu .. 12. Nốt ruồi đại kiết. Cuộc đời thường gặp nhiều may mắn 13. Khắc cha. Thường cha chết trước mẹ 14. Nốt ruồi ly hương. Phải rời xa quê quán lập nghiệp mới thành công 15. Nốt ruồi tha hương. Thường sống xa nhà , khi chết cũng ở xứ khác 16. Nốt ruồi Thiên-Hình. Dễ bị thương tật, hay xãy ra tai nạn 17. Thường có nhiều tiền bạc. Làm chơi ăn thiệt 18. Nốt ruồi cô quả. Thường sống độc thân, có gia đình cũng không lâu bền hoặc không hạnh phúc 19. Nốt ruồi kém may mắn. Thường không thành công trong cuộc đời. Khi chết xa quê hương 20. Thường làm về các nghề sản xuất như công kỹ nghệ, hoặc chăn nuôi, trồng trọt. Không có số làm thương mại 21. Nốt ruồi triệu phú. Giàu nhỏ nhờ làm việc nhiều và biết cần kiệm. 22. Nốt ruồi công danh. Thi cử dễ đậu cao, thường làm việc các nghề chuyên môn, cần bằng cấp 23. Nốt ruồi hoạnh tài. Thường chạy chọt áp phe, cờ bạc, hay trúng số 24. Nốt ruồi phú quí. Tốt về cả công danh lẫn tài lực 25. Thường thân cận với những người quyền quí hay giàu có 26. Nốt ruồi đa nghệ. Nghề nào làm cũng dễ thành công 27. Nốt ruồi xui xẻo 28. Làm ăn dễ thất bại. Không nên mưu sự lớn 29. Nốt ruồi thiên lộc. Làm chơi ăn thiệt, thường có của trên trời rơi xuống 30. Nốt ruồi khôn ngoan, biết lợi dụng thời cơ để kiếm lời 31. Nốt ruồi phá gia. Làm ăn hay gặp trở ngại đến mức phá sản. Cẩn thận về cờ bạc 32. Nốt ruồi tai nạn, dễ bệnh hoạn, tai nạn 33. Dễ bị tai nạn, thương tích 34. Tiền kiết hậu hung. Làm ăn trước tốt sau xấu. Chớ nên làm những việc có tính cách ngắn hạn như áp phe, mánh mun, sale, .. 35. May mắn. Cuộc đời ít rủi ro, thường được nhiều người giúp đỡ 36. Nốt ruồi phú. Làm giàu nhanh chóng 37. Tính người hung dữ, hay kiếm chuyện, hay gây rắc rối 38. Dễ gặp tai nạn vì bất cẩn 39. Tốt về mọi mặt từ sự nghiệp đến tình cảm 40. Tiền hung hậu kiết. Công việc thường có trở ngại lúc đầu, nhưng càng về sau càng tốt, giàu có 41. Hay gặp rủi ro, thất bại 42. Hay bị thương tích, thân thể thường có thương tật, tì vết 43. Nốt ruồi xui xẻo 44. Nốt ruồi lãng mạn, nam cũng như nữ. Thường có nhiều quan hệ nhân tình 45. Phát đạt. Làm ăn dễ thành công 46. Nốt ruồi xui xẻo 47. Nốt ruồi ly hương. Làm ăn có lúc phát rất mạnh, nhưng cuộc đời dễ bị phá sản 48. Hay bị tai bay vạ gởi, không làm mà chịu 49. Nốt ruồi phân ly. Vợ chồng, nhân tình dễ xa cách 50. Khắc con cái, sinh nhiều nuôi ít 51. Sát thê, vợ chồng dễ phân ly 52. Khắc cha. Xa cha sẽ khá hơn 53. Hay gặp tai họa, rủi ro 54. Khắc mẹ. Số không sống gần mẹ. Vợ chồng cũng dễ phân ly 55. Kém may mắn, cuộc đời hay gặp những chuyện hung dữ, kẻ ác 56. Khắc con cái. Thường không sống gần con. Sinh nở khó khăn 57. Sát thê. Vợ chồng dễ phân ly 58. Tính tham lam. Có tật ăn cắp vặt 59. Nốt ruồi lãng mạn, nam cũng như nữ. Thường có nhiều quan hệ nhân tình bất chính 60. Thông minh và khôn ngoan. Học ít hiểu nhiều 61. Số dễ bị tai nạn 62. Thông minh, sống rất thọ. Tiền bạc trung bình 63. Hay bị tai nạn, trong người hay có thương tật, tì vết 64. Nốt ruồi quan tụng. Trong đời hay xảy ra chuyện lôi thôi về kiện tụng 65. Khắc cha. Thường mất cha hoặc sống xa cha từ nhỏ 66. Thông minh, học ít hiểu nhiều. Sống rất thọ 67. Nốt ruồi cô độc. Thường phải ly hương, xa gia đình, xa vợ con 68. Dễ bị tai nạn về nước và lửa 69. Nói nhiều, hay bị người ghét vì ăn nói. Nói không cẩn thận và không nghĩ đến cảm giác người khác 70. Ngồi lê đôi mách, hay để ý chuyện của người khác 71. Tính xấu, thường hà tiện và tham lam 72. Con cái, người dưới hay bị hoạn nạn 73. Nốt ruồi tuyệt tự, khó có con 74. Hay bị tai nạn, trong người hay có thương tật, tì vết 75. Dễ bị tai nạn về sông nước 76. Tính xấu, tham lam, lòng dạ không ngay thẳng 77. Nốt ruồi hoạnh tài. Thường chạy chọt áp phe, cờ bạc, hay trúng số 78. Nốt ruồi thị phi. Họa đến từ miệng, thần khẩu hại xác phàm 79. May mắn, làm ăn, công việc luôn có người giúp 80. Thông minh, nhạy bén, thi cử dễ đổ cao 81. Nốt ruồi Hòa Lộc. Tiền hết lại có, không bị túng thiếu 82. Nốt ruồi ngoại tình, đa tình. Nam cũng như nữ, đều dễ ngoại tình 83. Nốt ruồi phú. Thường giàu có nhờ làm ăn được nhiều người giúp đỡ 84. Nốt ruồi may mắn. Cuộc đời thường may mắn, dễ kiếm tiền 85. Dễ bị phá sản vì thiên tai hay chiến tranh 86. Nốt ruồi hoạnh phát. Thường có tài lộc, của vô rất nhanh 87. Nốt ruồi lãng mạn. Nam cũng như nữ đều thích chuyện tình ái, chăn gói. Thường có nhiều quan hệ cùng lúc 88. Nốt ruồi trác táng. Dễ sa ngã vào rượu chè, hút sách .. 89. Khôn ngoan, thông minh, tính tình rộng rãi 90. Số sung sướng, không giàu nhưng nhàn hạ, hưởng thụ. 91. Nốt ruồi bình an. Cuộc đời không sợ tai nạn 92. Dễ bị người khác cướp giật, sang đoạt tài sản 93. Nốt ruồi phong lưu. Thường có đời sống xa hoa, hưởng thụ 94. Giàu có và khôn ngoan. Hay gặp may mắn về tài lộc 95. Thường có danh vọng, địa vị trong xã hội Sưu tầm Những chủ đề khác về nốt ruồi: Xem nốt ruồi Cát hung của nốt ruồi Tướng nốt ruồi Xem nốt ruồi toàn tập 95 nốt ruồi trên khuôn mặt đàn ông Nốt ruồi trên ngực và chỗ kín Nốt ruồi mọc ở chỗ kín
-
Chào chị laviedt! Em là nữ, sinh năm Giáp Tý. Chị có thể đoán giúp em xem đường công danh sự nghiệp của em như thế nào ạ! Em cám ơn chị nhiều, chúc chị nhiều sức khỏe!
-
Những kiêng kỵ khi làm mái nhà Dân gian lưu truyền khá nhiều những quan niệm kiêng kỵ liên quan đến việc làm mái nhà, như kiêng "góc ao, đao đình", kiêng nhà bị đòn đông chĩa sang, đếm số đòn tay khi lợp mái nhà, xem ngày giờ gác đòn đông... "Nhất góc ao, nhì đao đình" nói lên cách bố cục nhà cần tránh các góc ao cũng như góc cạnh của mái đình, đền, miếu hướng vào chính diện nhà. Khi nhà mở cửa ra hướng góc mái, đồng nghĩa với bố cục của các nhà bị xiên lệch với nhau, dễ gây ra va chạm khi di chuyển, gió lùa theo các cạnh tường, cạnh mái thổi đến nhà mình. Con Nghê trên đầu đao đình làng Trung Cần Về cấu tạo, điểm góc mái luôn là điểm xung yếu nên mái nhà xưa thường hay có các chi tiết bằng gỗ hay đắp vữa để khóa cứng góc mái, kết hợp tính trang trí tạo thành những đầu đao mang nhiều ý nghĩa tâm linh. Mở cửa ra nhìn vào góc mái chĩa vào nhà mình thì luôn có cảm giác bất an. Nhiều gia chủ thời nay xem việc đổ tấm bê tông trên cùng là... thượng lương để kết thúc phần xây dựng khung xương cơ bản của nhà. Điều này xét về tiến trình xây dựng là đúng, nhưng xét về ý nghĩa xây dựng truyền thống thì không chuẩn xác lắm. Mặt khác, cách cấu tạo lợp mái hiện đại đều không còn sử dụng cây xà gồ trên đỉnh mà là hai cây xà gồ thép đặt gần nhau ở trên đỉnh để thuận tiện hơn cho việc lợp và liên kết ngói đỉnh mái. Ngày xưa, do cây đòn dông nằm giữa nên số đòn tay trong bộ mái nhà xưa luôn là số lẻ, dẫn đến ngày nay nhiều người vẫn còn đếm số lượng đòn tay theo kiểu "sinh lão bệnh tử" mang nhiều màu sắc mê tín. Đao đình chĩa vào nhà gây bất lợi Ngôi nhà truyền thống vốn đa phần quay mặt dài về hướng nam nên phần đỉnh mái nhà kéo từ đông sang tây, mà cư dân nông nghiệp thì xem phương đông là khởi điểm cuộc sống, nơi mặt trời mọc, thuộc mộc, nên cây xà gồ đỉnh mái trong nghi lễ thượng lương thường được bọc vải đỏ hai đầu và treo tấm bùa bát quái ở giữa như một sự trân trọng với bộ phận kết cấu đặc biệt này của ngôi nhà. Hình thế trong phong thủy, nóc nhà có hình tam giác thuộc hành Hỏa mà theo ngũ hành thì hành hỏa khắc Kim (tiền tài) nên nhiều người lo ngại nếu bị chĩa Hỏa sang nhà mình thì tiền tài sẽ hao tổn. Về cấu tạo, ta thấy nóc nhà xưa có các khe hở hai đầu thông gió là nơi thoát khí tích tụ trong nhà ra ngoài, nếu nhà đối diện mở cửa ra gặp ngay "tam giác ấy" thì sẽ bất lợi. Từ đó, không riêng gì cây đòn dông mà các đòn tay lợp mái cũng bị kiêng nếu nhìn thấy chĩa sang nhà của nhau. Xét về văn hóa ứng xử, điều này đem lại sự cẩn trọng khi làm nhà lợp mái, giữ gìn cho người cũng là cầu an lành cho mình. Còn về thực tế xây dựng thì hiện nay nhiều biệt thự lợp mái ngói đã dùng thép tấm làm thành nẹp bịt kín đầu các xà gồ như là một giải pháp an toàn không đụng chạm đến xung quanh. Theo Nettra