Lãn Miên

Hội Viên Ưu Tú
  • Số nội dung

    595
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    19

Everything posted by Lãn Miên

  1. Cả từ và cả chữ, "Tương" thể hiện rõ “Ta với Mình tuy hai mà một, Mình với Ta tuy một mà hai”. Cái lý Âm Dương của người Việt là “Âm Dương hài hòa” (nguyên tắc của dưỡng sinh), có Hai, có phản biện để mà phát triển, nhưng hài hòa lợi ích để mà tiến bộ. Vậy mà chỉ có tiếng Việt mới đúng con số 2 gọi là Hai, Hai=Hài=Hòa=Hoa=Hiển=Hách (qui tắc Tơi-Rỡi). Ca dao đã giải thích như vậy: “Thuận vợ thuận chồng, biển Đông tát cạn”, “Khó sao chồng thấp vợ cao, như đôi đũa lệch so sao cho tày”. Hai = Hài Hòa. Chẳng phải đơn giản mà người miền Nam khi hỏi người khác mà chưa quen chưa biết tên, là câu: “Cậu Hai, cô Hai ơi làm ơn chỉ giùm…”, nó như là câu Quan Họ: “ Ới này anh Cả, anh Hai đấy ơi…”. (Tiếng nước ngoài làm sao dịch nổi cái ý của nó ?). Cái văn hóa trọng người và khiêm tốn ấy của người Việt đến bà ve chai không biết chữ vẫn biết ứng xử một cách tự nhiên. Không có lịch sử văn hiến Lạc Việt 5000 năm thì không có được cái câu nói đơn giản đó. Đến con số 3 thì Việt gọi là Ba. Ba = Ta. Ba = Bầu Trời. Ba = Bổn = Vốn = Vùng = Vuông= = Ruộng (cái lợi ích cốt lõi của con người từ thượng cổ đến nay vẫn là Ruộng Đất). Cả cái lý thuyết uyên bác Thiên-Địa-Nhân rồi dẫn đến cái Tam Quyền Phân Lập, nó nằm sẵn ở trong cái số gọi là Ba của người Việt cả. Chẳng phải đơn giản mà người miền Nam từ thủa khai thiên lập địa đã gọi cái Vệ cho mỗi con người được khỏe mạnh và văn minh là cái áo bà Ba (sao không gọi là áo bà Một hay áo bà Nhứt cho nó hàng đầu luôn ?). Mấy trăm năm trước, khi người Mỹ lập nước Hoa Kỳ, họ đã học Hai và Ba của tiếng Việt mà xây dựng nên cái giá trị Mỹ là sức mạnh vô địch vì nó tiên tiến nhất thế giới ngày nay. Chẳng thế mà người phương Đông từ Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc, Singapore … cứ ùn ùn qua Mỹ học, rồi lại muốn người Mỹ qua phương Đông đầu tư. Cái ký tự cổ đại khắc trên mu Rùa (Qui) hàng vạn năm trước đã bị con Ngựa (Mã) dẵm nát muôn mảnh tứ tung (vì nó không hiểu nổi) và chìm trong bụi mờ của lịch sử hàng nghìn năm qua. Nhưng nó lại như là run rủi cho “phản thiết” (nói lướt và nói lái) qua lại (như cách đọc trong “Thuyết Văn Giải Tự” của Hứa Thận) về Hai chữ Qui Mã, báo trước thời đại hội nhập văn hóa Đông Tây toàn cầu. Người phương Đông thích treo một con chữ trong nhà để ngắm mà ngẫm. Ở VN thấy nhiều nhất thư pháp chữ TÂM 心, chữ NHẪN忍, ở Nhật Bản lại thấy chữ NẠI 耐, ở Trung Quốc thấy chữ HÒA 和. ( Như chữ HÒA 和 và kèm câu “Nhàn đàm mạc luận tha nhân quá. Tĩnh tọa hy tư tự kỷ phi 闲 谈 莫 伦 他 人 过 。 静 坐 希 思 自 己 非”. Đó là một câu khuyên: Khi “buôn dưa lê” thì đừng nên bàn cái xấu mà mình đã biết của người khác. Và một câu trách: Khi ngồi yên lại ít chịu nghĩ đến cái sai lầm của chính mình ). Vậy mà “từ nguyên” của từ Hòa là là từ Hai (từ trong cái lý Âm Dương của người Việt), mà tư duy cụ thể thì nó là do từ nền văn minh lúa nước: Hòa 和 là lướt “Hột lúa 禾 Ta” Ruộng Vuông 口 giữ Nước phải pha mặt Bằng 平 Ngẫm ra hai chữ Hòa 和 Bình 平 Là trong đạo Hiếu 孝 của mình Việt nêu “Hai Yêu” cũng thể “Hòa Yêu” Trên Lão 老, dưới Tử 子. Lâu 老 đều do Con 子 Người trẻ chỉ cần ngắm một chữ HÒA 和 mà ngẫm trách nhiệm của mình giữ gìn bền lâu (Lâu=Lão=Luôn Luôn) cái sự “Hai Yêu” = “Hòa Yêu” = Hiếu 孝, là cái Nôi văn hóa Việt. Khi là công nhân hay sinh viên ở chung phòng cùng một người khác dù quốc tịch nào, chỉ cần treo một chữ TƯƠNG 相 để ngắm mà ngẫm, vì đó là chữ do người Việt biết ghép Âm Dương mà tạo ra MỘT MỘT = MỘC 木 MỤC 目 = TƯƠNG 相 = “Tình Thương” = Tương, để biết thẳng thắn, thương yêu, giúp đỡ nhau, tương trợ nhau (như người Mỹ), bởi có Mắt mới có thể Mọc ra cây Măng tre thẳng.
  2. Lời giới thiệu ở mạng tra online “Thuyết Văn Giải Tự” của tác giả Hứa Thận (Đông Tấn) viết: Hứa Thận căn cứ hình thể của văn tự, sáng lập 540 bộ thủ, đem 9353 chữ phân biệt qui vào 540 bộ. 540 bộ lại căn cứ hình hệ qui nạp thành 14 nhóm. Tự điển của Ông dựa 14 nhóm này mà chia thành 14 thiên, mục lục ở quyển cuối riêng thành một thiên, cộng lại toàn sách có 15 thiên. “Thuyết Văn Giải Tự” gồm 15 quyển, trong đó Tự Mục là 1 quyển. Trong cuốn sách, Hứa Thận trình bày 6 qui luật tạo chữ của Hán tự, gọi là lục thư. Đầu tiên “Thuyết Văn Giải Tự” trình bày Tiểu Triện. Nếu Cổ Văn và Tiểu Triện không giống nhau thì liệt ra ở mặt sau. Sau đó giải thích bổn nghĩa của chữ này, rồi giải thích quan hệ giữa hình chữ với nghĩa chữ hoặc âm chữ. Bộ thủ trong “Thuyết Văn Giải Tự” trình bày dựa theo nguyên tắc giống nhau về hình thể hoặc gần nhau về ý nghĩa. “Thuyết Văn Giải Tự” đã khai sáng việc đơn giản hóa bộ thủ, từ điển của hậu thế đa số là áp dụng theo cách này. Đoạn Ngọc Tài nói rằng sách này là “Thử 此 tiền 前 cổ 古 vị 未 hữu 有 chi 之 thư 书, Hứa 许 Quân 君 chi 之 sở 所 độc 独 sáng 创”- Từ cổ chưa có sách nào như vầy, đây là sáng tạo độc đáo của Cả Hứa” Trong câu trên của Đoạn Ngọc Tài, gọi Hứa Thận là “ Ông Hứa”, nhưng viết theo Hán ngữ là “Hứa Quân”, chữ Quân này ở Hán ngữ phát âm lơ lớ là “chuyn”, dùng để (1) là chỉ Vua, (2) là dùng để tôn xưng người đàn ông. Vậy “từ nguyên” của nó là từ “Con” của tiếng Việt. Qui tắc Tơi-Rỡi tôi nêu là: Thay Tơi hoặc thay Rỡi của một từ sẽ tạo ra từ mới đồng nghĩa với từ ấy. Ở đây cái Nôi khái niệm trong đó có từ “Quân” là cái Nôi của một từ gốc là của tiếng Việt. Để giải thích điều này, hãy đi từ dẫn giải sau: Mọi dân tộc đều phát âm chuẩn giống như nhau cái chữ A, nên chữ A được xếp đầu bảng Anphabet, từ A đến Z (chỉ có Bộ GDĐT VN là đã hoàn thành dự án “soạn lại, in, phát hành sách dạy lớp 1 bắt đầu dạy từ chữ E”, từ nhiều năm trước). Bắt đầu bằng chữ A. Vậy mà chỉ có tiếng Việt là chữ A đúng nghĩa của Tiếng và động tác mở Miệng (lướt: “Mồm nói thành Tiếng” = Miệng, con vật chỉ có “mồm”, không phải “miệng”) của đứa bé Việt chào đời: HÁ miệng khóc A...A…A…(Từ “mở” tiếng Anh là “ âu-pờn”, tiếng Nga là “ốt-krứt”, tiếng Hán là “khai”) để đứa bé khẳng định là nó vừa mới từ DẠ mẹ mà RA. Rồi cái dạy đầu tiên mà mẹ nó dạy cho nó ngay cả khi nó còn ẵm ngửa, chưa biết nói, là cách đáp lịch sự là Ạ ở cuối câu, mà Ạ = Dạ = Dã 也. Chữ Dã 也 của “Hán ngữ cổ”, và cũng chỉ có ở “Hán ngữ cổ”, cũng chỉ đặt cuối câu, như ngữ pháp Việt, ví dụ câu đáp: “Nó con gái ạ” hoặc “Dạ, nó con gái ạ” ( “tha nữ nhi dã”. Câu của Hán ngữ là “tha thị nữ nhi”). Ạ = Dạ = Dã = Là, và câu đáp sẽ là: “Dạ, nó là con gái ạ”. A = Ai = Ngài = Người. A = Ai = Ái = Yêu, có con người là có tình yêu (“Nhân chi sơ, tính bổn thiện) A – Cha – Mẹ . A – Cả = Kẻ = Ké = Con = Cái = Cò = Cao = Cau = Quân = Quan = Kô = Cu = Tu = Tí = Tử. Từ chữ Cả đến chữ Tử đó là những từ để chỉ một con người, trong chung một Nôi khái niệm của tiếng Việt mà từ gốc là từ Cả. Trong những từ ấy thì “Cao”, “Cu” là người Vân Kiều dùng, “Cau” là người Philippin dùng, “Ké”, “Tu” là người Tày dùng, “Cò” là người Thái dùng, “Kô” là người Nhật dùng (nói đầy đủ là “Kô-đô-mô”, nhìn cũng thấy bóng dáng từ “Kô-đô…” là “con đỏ …” = dân đen, trong tiếng Việt), “Quân 君”, “Quan 官”, “Tử 子” là người Hán dùng. Người Việt quan niệm bình đẳng nam nữ, tôn xưng một con người, đàn ông hay đàn bà đều gọi là Cả. Ai ở Sài Gòn đều biết quán cơm nổi tiếng từ xưa của bà Cả Đọi ở trung tâm quận Nhứt. Từ cái NÔI của Việt mà có NÓI là “thuyết phục được tất cả”, NÒI là “sáng tạo ra tất cả”. Chính cái NÔI mà tôi chọn gọi là Nôi khái niệm, nó cũng đã là cái Nòi đem lại sự sống trên trái đất, khi theo qui tắc Tơi-Rỡi mà dẫn thì sẽ thấy: Nôi = Côi = Lồi = Lời = Trời = Trên = Lên = Then = Thiên ( tiếng Tày dùng chữ Then, tiếng Hán dùng chữ Thiên 天), là của thế giới Dương. Còn của thế giới Âm thì: Nôi = Cội = Cối = Dội = Dưới = Diêm. ( Từ Thiên Vương và từ Diêm Vương là từ gốc Việt chứ không phải là “từ Hán Việt” ). Tiếng Việt cổ gọi đấng tối cao là Côi Lời (sách dịch Kinh Thánh có câu “Sáng danh Chúa ở côi lời”, có từ “Đức Chúa Lời”, côi lời nghĩa là trên trời, cấp côi nghĩa là cấp trên, do từ đối Cội/Côi như Dưới/Trên). Từ Cả của tiếng Việt còn có nghĩa là người lãnh đạo. Từ Cả của tiếng Việt còn có nghĩa là Thắng, “được ăn Cả, ngã về không” là hình ảnh trong đấu vật. Bởi vậy người có thể sáng tạo ra tất cả,lại thu phục được tất cả, tiếng Việt gọi là Cả Nòi (cái dốc cao hiểm trở nhất ở tỉnh Hòa Bình có tên là dốc Cò Nòi. Con đầu đàn súc vật gọi là Con Nòi). Từ Cả Nòi tiếng Nhật gọi là Ka Nai (nghĩa là cao thủ). Người Đài Loan gọi là Ta Nin (viết chữ là Đạt Nhân 達 人). Nam Bộ gọi Cả Nòi là Cha Nội vì tránh chữ Cả (mặc dù biết rằng “anh Cả, anh Hai, cả hai đều là anh cả”). Người được sùng kính gọi là Cha Cả. Vậy thời xưa thì Lão Tử là Cả Lão, Khổng Tử là Cả Khổng. Như trong văn trên thì Đoạn Ngọc Tài tôn xưng Hứa Thận là “Hứa Quân” tức Cả Hứa. Thi Kinh là Thơ của người Kinh, có câu đầu của bài đầu tiên là “Quan quan thư cưu… “, tôi đã phát hiện nó là tiếng Việt “Con con cù cu…” vì Hán tự “quan 官 quan 官…” là hai ông quan sóng đôi thì chẳng có nghĩa gì cả, rồi họ giải thích “thư cưu” là một “loài chim cổ, giống đại bàng, ăn cá (đại bàng có “bói” cá chăng?). Ở đây nói “con con” là hai con chim sóng đôi với nhau ( Bài thơ nói về tình nghĩa vợ chồng chung thủy như đôi chim cù cu). Do khái niệm Âm Dương là của người Việt, nên ngôn từ theo Qui tắc Nở: một từ như một Trứng trong Nôi sẽ nở ra hai Tiếng, một tiếng Âm có thanh điệu Nhóm 0, và một tiếng Dương có thanh điệu Nhóm 1. Những tên động vật (vì động vật đều nở ra từ trứng) đều có kết cấu là từ đôi đối như vậy. Ví dụ: Cù//Cu, Chiền//Chiện, Se//Sẻ, Cun//Cút, Cồng//Cộc, Cà//Cưỡng, Hồng//Hộc, Kền //Kên, Cà//Cuống, Cân//Cấn, Săn//Sắt, Nòng//Nọc, Niềng//Niễng , Châu//Chấu, Đòng// Đong, Chem//Chép v.v. Gọi chung tên chim là Cù Cu, nhưng một đôi chim Cù//Cu thì con đực là con Cu, Cu = Cưu, con cái là con Cù, Cù = Thủ = Thư (vì nó thủ giữ ấp trứng). Cũng như con gà còn gọi là con Cà//Kê, một đôi thì con Kê là con Mái, Mái = Thái = Thư (sau nâng ý có từ Thư Thái nghĩa là dễ chịu, cũng có nghĩa bóng là con mái nó dễ chịu cho con trống nó đạp), con Cà là con Trống, Trống = Hống = Hồng = Hùng ( núi Hồng Lĩnh còn gọi là núi Ngàn Hống, vì Núi = Non = Ngọn = Ngàn). Từ đó mà Hán ngữ có từ Thư Kê và Hùng Kê là Gà Mái và Gà Trống. Hán ngữ là dựa trên nền của “Hán ngữ cổ”, “Hán ngữ cổ” là dựa trên nền của tiếng Việt. Theo cách đọc như Hứa Thận “thiết” thì “Hán ngữ cổ” là tiếng Việt chỉ có ngữ pháp thì là Hán. Cha=Ta=Tía=Tia (“Tia” là người Hoa Nam dùng). Mẹ = Mệ = Mế = Mợ = Mự = Má. Lướt “Mẹ Âu” = Mẫu, đó là đạo thờ Mẫu của người Việt từ thời Lạc Long Quân - Âu Cơ. Khái niệm Âm Dương là của người Việt. Ở cái miệng phát âm nó chia rõ động tác Ngậm kín miệng và Dang há miệng, nên Ngậm = Âm, Dang = Dương. Hán ngữ phát âm Yin Yang thì miệng đều há hết. Thanh điệu Hán ngữ có 4, chia ra (1) là Âm (như thanh “không” tiếng Việt), (2) là Dương (như thanh “sắc” tiếng Việt, (3) là Thượng (như thanh “hỏi” tiếng Việt), (4) là Khứ (nằm giữa thanh “nặng” và “huyền” của tiếng Việt). Tuy trong 4 thanh điệu có một thanh tên “Âm”, một thanh tên “Dương”, nhưng Hán ngữ chẳng đề cập gì đến ngôn từ Hán có tính Âm tính Dương. Ngay Thuyết Văn Giải Tự của Hứa Thận, ông không đề cập tính Âm Dương của ngôn từ hay của thanh điệu, chỉ có giải thích liên quan của từ với ngũ hành, ví dụ giải thích chữ Thủy thuộc ngũ hành là màu đen. Do khái niệm Âm Dương là của người Việt nên hệ đếm nhị phân là của người Việt, mà hai con số nhị phân là Mô/Một = 0/1. Mô = Vô = Hố = Hư (bị Hố là bị không được gì), từ đó có tư đôi Hư Vô. Chữ Mô này chỉ có trong “Hán ngữ cổ”, nghĩa là không, Hán phát âm là “mua” viết là chữ Mạc 莫, còn Một thì Hán phát âm là “mu” hoặc phải phiên thành hai âm là Mô-Tờ (“mu-thừa”) vì họ không có âm tắc như –ôt, hoặc âm ngậm như -ôp, -ôm, - ông. Do tính Âm Dương mà người Việt chọn gì cũng phải có hai, bài trí đối xứng, ghép Một Một để mong có Âm có Dương mới thành Nôi-Nở-Nhiều. Đó là ý nghĩa khi ghép hai Một là Mộc 木 Mục 目 thành chữ Tương 相, mà nghĩa của tiếng Việt là lướt “Tình Thương” = Tương.
  3. MỘT Không bàn về tư duy, mà bàn về cơ thể. Ở cơ thể con người thì cái Trong và cái Ngoài cho ta từ đối Dạ/Da. Cái Trong của cơ thể là Dạ, là cái chứa đựng lục phủ ngũ tạng, tức nó rỗng mới chứa được. Từ nguyên của Dạ là Ruột, nhưng từ nguyên của Ruột lại là Rô là con zero số 0 vì nó phải trống rỗng như chữ O mới dùng để mà đựng, nó là Rô vì nó là “Ra từ Ô”=Rô của lõi của NÔI: Ô=Rô=Ruột=Rà=Dạ=Dung=Cung=Cọng=Cống=Cuống=Quản, đều là những cái rỗng để có thể đựng. Ruột = Luột = Lòng= Lõi = Lượt = Hướt = Huyết = Tiết = Miết =Mải= Mạch=Máu, là những cái Trong, hoạt động không ngưng nghỉ của cơ thể (trâu bò ăn suốt ngày, đêm còn ợ ra nhai lại). Tiếng Thái thì “Lượt” nghĩa là Máu, tiếng Hán thì “Xuể” nghĩa là Máu. Dạ Con cũng là Cung Tử, từ “Tử Cung” là từ Việt-Hán vì nó có “từ nguyên” của Việt, ngữ pháp ngược của Hán. Cái Ngoài của cơ thể là Da, theo qui tắc Tơi-Rỡi: Da=Giáp=Giác, Giáp là cái để vệ ngoài như từ “áo giáp”, cũng gọi là cái Vè, như vè chắn bùn ở xe máy, “Vỏ Che”=Vè=Vệ; Giác là phần vỏ ngoài của thân cây gỗ, nó non hơn lõi gỗ nên không dùng đóng đồ. NÔI chính là cái dạ con, nó là RUỘT nên nó cũng là MÁU, bởi vậy NÔI=NÒI, là cái hòn máu để sinh ra con người. Nôi=Nõn=Noãn=Nòi là hòn Máu và là “Máu Ủ”= Mủ ở trong Nôi nên có thành ngữ “Máu Mủ Ruột Rà”. Cái “Ruột Máu”= Rau là cái Cuống nối thai với cơ thể mẹ để lấy dinh dưỡng. Dạ con là cái đựng, tức NÔI=Cối, bên trong sự chứa là cái Chửa = = Chày = Chồi = Cồi = Cội = Con. Cái Chày ở trong lòng cái Cối sẽ cho ra sự sinh nở là thành Con. Nhưng Con lại là Kinh, dân tạo nên NÔI, tức khái niệm Âm Dương là của dân Chày Cối (như hình vẽ trên trống đồng). Một người Kinh cổ đại tự xưng mình bằng đại từ “Kinh” (lấy tên tộc người làm đại từ nhân xưng ngôi một, là hiện tượng phổ biến ở các sắc tộc), tự xưng là Kinh bởi do Kinh đẻ ra (truyền thuyết Kinh Dương Vương cũng nói rõ như vậy, do Kinh rồi mới sinh ra trăm trứng, đó là cái Kinh Vựa = Kinh Văn = Cung Vua = Dung Chửa = Dạ Con. Tự xưng là “Kinh” thì cũng như là tự xưng là “Con”). Tiếng Anh lại gọi “King” là Vua. Tiếng Việt: Vua=Chúa=Chủ (“Thằng đó là Vua ý tưởng”, nghĩa là mọi ý tưởng đều từ thằng đó mà ra). Lướt “Kinh Đẻ” = Kẻ = Con = Cu = Cò = Cao = Cau = Tau = Tui= =Tôi. “Con”, “Tau”, “Tui”, “Tôi” là những đại từ nhân xưng ngôi một mà người Kinh tự xưng, “Cò” là người Thái tự xưng, “Cao” là người Vân Kiều tự xưng, “Cau” là người Philippin tự xưng. “Tôi” là do xuất xứ “Từ Nôi” = Tôi. Mà NÔI = = NƯỚC nên Tôi cũng là từ Nước mà ra (khởi nguyên môi trường sinh vật), đó là chữ nước cổ nhất của tiếng Việt là từ Té, trong từ đối Té/Tá = Nước/Lửa. Nước là nguồn Năng nhiều nhất cũng như Nắng, qui tắc Nở trong nôi đã làm cho cái trứng Năng tách đôi Âm Dương thành Nước/Nắng. Qui tắc Tơi-Rỡi thì: Té=Túc=Tức(tiếng Khơ me)=Đức=Đầy=Đủ =(= “Zú” tiếng Hán)=Đắc=Đác(tiếng Tây Nguyên và tiếng Choang)=Lạc=Nác( tiếng Mường)=Nước=Nậm (tiếng Tày)=Nam(tiếng Thái Lan)=Lam (màu phản chiếu bầu trời của nước) = Lầm = Đậm = Đà = Đen = Phèn= = Thẻn = Than = Thâm (màu ngũ hành của nước) = Thủy (=”Suẩy” tiếng Hán). Hán ngữ dùng từ “Zú” nghĩa là đầy (tính nhiều của nước) và “Suẩy” (bản chất của nước) Từ đôi Té Nước nghĩa là nhiều nước (lễ hội cầu mong có nhiều nước của dân văn minh lúa nước phương Nam). Té cũng được dùng như động từ, nghĩa là lấy nhiều nước, Té =Tát = Tạt= Té Tát..Tức Nước cũng nhấn ý đầy nước. Túc nghĩa là đầy , là bản tính của nước luôn xu hướng Đầy=Đẩy về mọi hướng (thấm, lan, bốc hơi, nở khi nóng hoặc đóng băng). Hán ngữ dùng chữ Đức nhưng nâng thành trừu tượng (thực nghĩa của Đức là tính đầy và mát của nước, nâng ý lên thành tính thiện, tính “chu đáo” nghĩa là “vòng ngoài luôn đầy” để nói xử thế bằng tính thiện). Nước Nam cũng còn có nghĩa như từ đôi, nghĩa là vùng nhiều nước. Thời đã chuyển từ giáp cốt văn sang chữ khoa đẩu rồi đến có “vuông Chữ Nho nhỏ” mà qui tắc Vo đã vò rụng đầu ( “vuông” ) và đuôi (“nhỏ”) còn cái lõi giữa là “Chữ Nho”, người Việt gọi thứ chữ vuông ấy là chữ nho, thì người Việt đã có cái nền Rễ=Lễ rất nho nhã, nên thường xưng một cách tự tin và lễ phép là Tôi Ạ, và lướt “Tôi Ạ”=Ta và coi người đối thoại dù thuộc sắc tộc nào khác cũng vẫn là như Ta, là “Một Kinh”= Mình. Mình=Mày=Mừ (tiếng Tày-Thái). Khi Một là ngôi thứ nhất thì Mai là ngôi thứ Hai, Hai=Lai (như Tương Lai)=Lái (như Thương Lái). Mai=Mày=Mới=Mi=Nhì=Nhị [ Người Thái chào chia tay nhau: “Ta đi nghe, Mày cứng nghe !” là: “ Cò dù nư, Mừ còn nư !”. Nghe=Nè=Nê (tiếng Nhật)=Nư (tiếng Thái)=Hử=Hỉ=Nhỉ=Nhé=Nhá=Nhẩy=Hầy (tiếng Nghệ An, Quảng Đông)=Hày (tiếng Nhật). Cứng=Còn=Cường. Đi=Vi (như Hành Vi) = Vô=Dô (tiếng tộc Eve châu Phi)=Dù (tiếng Thái)=Du (như Du Hành)=Do (như Tự Do)]. Ca dao: “Mình về có nhớ Ta chăng, Ta về Ta nhớ hàm răng Mình cười”, đương nhiên là răng ấy “răng đen nhưng nhức hạt huyền” thì mới có Đen=Đẹp, cộng với làn da Trắng=Sắc để có từ đôi Sắc Đẹp theo như quan niệm của người xưa. Khái niệm sắc đẹp khi còn trong tư duy thì nó là từ đôi đối Sọi//Sắc.Trung Bộ dùng từ Sọi để nói người đẹp. (Hán ngữ phát âm từ Sọi này là “Soai” và Sắc là “Xưa”). Cái NÔI khái niệm giống như cái bầu hình cầu biểu tượng Âm Dương, nên còn nằm trong NÔI bao giờ cũng sẵn hai khái niệm 0 và 1: Là Mô rồi thì nó phải biến sang Một, còn ra ngoài NÔI thì đã thành Mai=Hai. Là Nỏ là 0 rồi thì nó phải biến thành Ni là 1, Ni=Nhí=Nhứt=Dứt=Dách (tiếng Quảng Đông nghĩa là 1), bởi vậy “nói Một là một” nghĩa là “nói Dứt khoát”, từ Khoát chẳng qua là một từ do lướt “Khứ mà Thoát” = Khoát, Dứt Khoát nghĩa là “Một cú bỏ quá khứ mà thoát” = “Dứt quá Khứ mà thoát” = Dứt Khoát. Ra ngoài NÔI thì đã thành vỏ nôi là cái Tơi=Tê (là Hai, tiếng Khơme, tiếng Mường). Một-Hai, tiếng Khơme dùng là Muôi-Tê, tiếng Mường dùng là Mọc-Tê, tiếng Việt chỉ dùng khi để chỉ vị trí là Ni-Tê như “bên Ni”, “bên Tê” (tiếng Trung Bộ). Một hệ các số đếm nữa của tiếng Việt là Nhứt-Nhị-Tam-Tứ-Ngũ…Thời kỳ đầu chỉ đếm đến 5 là hết vòng đếm, quay lại, như hệ đếm ngũ phân của người Khơme: Muôi-Tê-Bây-Buôn-Prăm , quay lại “ Prăm Muôi” là sáu (Một-Hai-Ba-Bốn-Năm), đến 5 là nhiều nhất của một vòng đếm nên Prăm là con số nhiều nhất trong một vòng đếm. Prăm=Rậm=Rắm=Dăm=Năm=Lắm=Lạm 濫 =Hám=Hấn 很= Ham = Tham 贪= Lam 婪 = =Lảm=Nhảm=Nhiều=Nhiêu 繞=Nhiên 然. Sau chuyển dần thành hệ đếm thập phân, thì hết con số Lắm tất phải đến con số nhiều hơn là Lâu (mà tiếng Hồ Nam phát âm là Lấu, tiếng Quảng Đông phát âm là Lục, Hán ngữ phát âm là “lìu”). Lâu=Sâu=Sáu. V.v. Hán ngữ mượn từ “Prăm”=Lắm và phát âm Prăm là “rán”, viết bằng chữ Nhiên然; mượn từ Nhiều và phát âm là “ráo”, viết bằng chữ Nhiêu 繞 để dùng trong các từ ghép Phì Nhiêu (“phấy ráo”) là nhiều độ béo, Thiên Nhiên (“thien rán 天 然”) là nhiều thứ của trời, Tự Nhiên (“zư rán 自 然”) là nhiều thứ của tạo hóa. Và bởi từ Lắm nghĩa là nhiều của tiếng Việt đã được mượn sang Hán ngữ thành chữ Nhiên, nên đi với động từ thì Nhiên (tức Lắm) toàn đứng sau động từ như ngữ pháp tiếng Việt, ví dụ: Hiển Lắm viết là Hiển Nhiên 显 然, Mạnh Lắm viết là Mãnh Nhiên 猛 然, những trường hợp khác lại viết theo ngữ pháp Hán thì phải ngược lại, ví dụ Tốt Lắm nói là “Hấn Hảo 很 好”, Hảo nghĩa là tốt. Tiếng Việt có cụm từ “hay gây hấn” tức “hay gây lắm”. Qui tắc Tơi-Rỡi thì: Ta=Ngã. Cái thể hiện lễ phép trong xưng hô là tiếng cuối mang nghĩa khẳng định: Ạ=Dạ=Dã 也= Là = Cà = Đã =Đấy= “Đê” (tiếng Nhật)=Yề (tiếng Hàn)=Tề=Ta=Đà=Đích 的 =Đó=Có=Cơ 的 (tiếng Quảng Đông)= “Tơ 的” (tiếng Hán). Ta là xưng một người. Từ đôi Người Ta là nhiều người. Một con người thì gọi là Người, nhiều con người thì dùng từ đôi Mọi Người hoặc Nhân Dân. Người=Nhân=Dân. Từ đôi Nhân Dân là nhiều người (từ đôi là theo cái lý có Âm có Dương mới Nở ra nhiều). Một người bình thường thì gọi là “Người thường” hay “Dân thường” hoặc dùng từ Việt-Hán là “bình Dân”. (Cái “Thẻ Căn Cước” của riêng cho mỗi công dân, mỗi người có dấu vân tay riêng dùng để căn theo dấu vân tay là cái cước. Hán ngữ cũng gọi chính xác là cái “Thân Phận Chứng”, VN lại gọi là cái “Chứng Minh Nhân Dân”, tức cái chứng minh của nhiều người, chứ không phải riêng ai dùng của người nấy, vì của riêng thì phải gọi là cái “Chứng Minh Công Dân” tức của riêng một công dân. Người ta chỉ dám tự xưng “tôi là một công dân” hoặc nói tắt “tôi là một người dân” là cho câu “tôi là một Người, và là một công Dân” chẳng ai dám tự xưng “tôi là một nhân dân cả”. Cái khái niệm “Chứng Minh Nhân Dân” nhằm trong “giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt” này đã xuất hiện và tồn tại năm chục năm nay, chẳng thấy các tiến sĩ ở Viện Ngôn Ngữ có ai ý kiến gì. Ba ngôi đại từ nhân xưng trong tiếng Việt đều là ra từ NÔI, và tạo thành các cặp đối ý tương thích 0/1 = Toi/Tôi (ngôi một)= Mô/Mày (ngôi hai)= Nỏ/Nó (ngôi ba). Toi=0, “mất toi” là mất không; Mô=0 (tiếng Trung Bộ, Nam Bộ); Nỏ=0 (tiếng Trung Bộ) = No (tiếng Anh)= không. Còn trong số đếm thì 0/1 = Nỏ/Ni, mà Ni=Nhí=Nhứt=Dứt=Dách (Dách là 1, tiếng Quảng Đông), người Hán mượn cái âm tiết Ni (là từ nguyên của chữ Nhứt) và phát âm là Yi (=1). Vì NÔI là cái dạ con, mà “Ruột Máu” = Rau, nên người Việt đã viết chữ nho biểu ý bằng hai người trong một cái Cung, đó là chữ 肉 Rau=Nhau=Nhục, hiểu nó là cái “rau bà đẻ”, theo nghĩa cụ thể, và là “cùng nhau” theo nghĩa nâng ý, vì có hai người, như chính xác biểu ý của nó. Người Hán mượn chữ Nhục 肉 ấy, phát âm là “râu” và lại hiểu là thịt thực phẩm. Theo biểu ý thì có Một và Một đứng bên nhau thì có nghĩa là cùng nhau. Như trên đã nói, người Kinh tự xưng là Ta, coi người đối thoại dù thuộc sắc tộc nào cũng bình đẳng thân thiện như là Một Kinh khác, nên gọi người đó là Một Kinh và lướt “Một Kinh” = Mình. Thế là có hai ngôi nhân xưng Ta, Mình để đối thoại “Mình về có nhớ Ta chăng, Ta về Ta nhớ hàm răng Mình cười”. Và rồi hai vợ chồng ai cũng nhường từ Mình cho nhau, nên họ gọi nhau là “Mình ơi”, rồi không tự xưng Ta nữa, nhiều khi cũng tự xưng là Mình, thành ra “Mình với Ta tuy hai mà Một, Ta với Mình tuy Một mà hai”, nên người Việt mới ghép hai chữ Một lại gần nhau và gọi đó là chữ Mình. Nhưng chữ khoa đẩu đã chìm sâu hàng ngàn năm trong bụi mờ lịch sử rồi, không còn con chữ cái ký âm nữa, đành phải lấy chữ nho có âm “một” để mà làm “giả tá”, đó là chữ Mộc 木 và chữ Mục 目 ghép với nhau như Một Một 相, nghĩa là Mình và đọc là “mình”. Nhưng cả hai người đều đã gọi đối tượng là “Mình ơi” rồi, nên Mình=Tình=Tình Thương=Tương. Và chữ Mình ấy cũng thành ra đọc là Tương 相, mặc dù hai âm của nó là Một Một chứ không hề có âm nào là “inh” hay “ương” cả . Thuyết Văn Giải Tự của Hứa Thận (部首 目部, 拼音 mu4, 反切 莫六切, 解释 人眼。象形。重童子也。凡目之屬皆从目。部首 木部, 拼音 mu4, 反切 莫卜切, 解释 冒也。冒地而生。東方之行。从屮,下象其根。凡木之屬皆从木。徐鍇曰:“屮者,木始甲拆,萬物皆始於微。故木从屮。)giải thích chữ Mộc 木 nghĩa là Mọc từ đất lên, chữ này là chữ Cây 木 Mọc của tiếng Việt, Cây = Ki (tiếng Nhật). Chữ Mục 目 (chính là chữ Mắt của tiếng Việt) giải thích là Nhãn 眼 (chữ Nhãn này lại là do từ nguyên là Nhìn của tiếng Việt, Nhìn=Nhòm=Dòm=Dán=Nhãn, “dán mắt vào mà nhòm”). Người Việt chọn hai âm Một Một = Mộc 木 Mục 目 ghép thành một chữ lại gọi là Mình, bởi tuy hai mà Một, tuy Một mà hai, có Âm có Dương mới Nở ra nhiều, cũng như lướt “Tình Thương” = Tương 相, tình thương càng cho đi thì nó càng nở ra nhiều. Mà hai chữ ghép chỉ là cái Mắt 目 của Cây 木 tre. “Con gà có mỏ, con chó có lông, cây tre có mắt, nồi đồng có quai” ý là “Dụng Nhân như dụng Mộc” // ”Dùng Người giống dùng Cây”. (Sử xưa: Hôn quân, bạo chúa dùng Cầy. Xuýt chó bụi rậm, đến ngày diệt vong).
  4. Cái Nôi văn hóa (9) Tất cả ngôn từ đều “sinh ra từ trong một”, đó là cái NÔI khái niệm, như tôi đã giải thích chữ NÔI: là cái Ổ, gồm những khái niệm Âm-Negative, và những khái niệm Dương-Innegative, của một NÒI dân tộc, để tạo ra NÓI của riêng mình (Riêng = Rẽ = Lẻ = Loi = Lỏi). Một “Gốc Lên” = Gen chung, lúc ban đầu ở thời tiền sử là có cùng chung một cái NÔI = Nói = Gọi = Gừ = Ngữ = Ngôn. Cái GỐC là cái lõi chữ Ô của NÔI. Chữ Ô, về mặt tư duy thì lõi của Ô là chữ O của ÓC, mà cái sân của chữ o này là “Sân O” = Sọ. SỌ là cái ỐC tức cái nhà của ÓC, giống như cái vỏ của con ốc bảo vệ (“Bao Vỏ Che” = Bảo Vệ) phần mềm của nó. [Khi học sinh lớp mẫu giáo hỏi cô giáo là sao đã nói “giữ gìn” lại còn có khi nói “bảo vệ”. Cô giáo giải thích rằng: Bảo Vệ (như sách của Bộ GDĐT hướng dẫn), gọi là từ Hán-Việt, nó là mượn của tiếng Hán đấy mà, bảo vệ cũng có nghĩa như là giữ gìn (!). Ví dụ: “Từ Điển Yếu tố Hán-Việt thông dụng. Viện Ngôn Ngữ. Hoàng Văn Hành… NXB KHXH Hà Nội 1991” , trang 31: chữ Bảo, trang 472: chữ Vệ, giải thích nghĩa đều là là chăm sóc, giữ gìn (!). Còn “Từ Điển Tiếng Việt NXB KHXH Hà Nội 1971, in lần thứ hai có chỉnh lý và bổ sung” giải thích từ Bảo Vệ (trang 51): “1.Giữ gìn cho khỏi hỏng hay thất lạc: Bảo vệ của công. 2. Người có nhiệm vụ coi sóc một cơ quan hay giữ gìn an toàn cho một nhân vật” (!). Trong tiếng Việt thì Giữ//Gìn không đồng nghĩa hoàn toàn với Bảo//Vệ, sắc thái chúng khác nhau rõ ràng, do điều kiện của chúng là khác nhau. Giữ Gìn là tự mình lo chăm sóc để bền lâu, Bảo Vệ là đối phó với tác động phá hoại từ ngoài. Nói “giữ gìn sắc đẹp (do tự mình ăn uống, tô điểm), nhưng lại nói “bảo vệ da dẻ” (khỏi xâm hại của nắng nước). Hãy nhìn cái hình ảnh bền vững của văn hóa làng của VN thì rõ, qua câu tôi viết ra đây: “Lũy tre Bao Bọc xóm làng. Vỏ Che tên, đạn, chống làn xấu xa”. Bản thân văn hóa làng đã được giữ gìn bền vững nguyên vẹn suốt chiều dài lịch sử, trong khi nó luôn phải chống chọi với cái xấu xa từ ngoài vào muốn phá hoại nó. ( Một từ “làn” đủ hiểu là tác động ngoài vào như Sóng Tràn. Sóng = Lỏng = Lãng, “Lãng tràn” = Làn. Tiên Lãng//Tiến Láng thì Tiên Lãng là mới chỉ mong đứng đầu ngọn sóng, Tiến Láng thì mới là đang Lướt Sóng thật, Lượt//Lướt cũng như Mạu//Máu hay Mau//Máu, Lượt tiếng Thái có nghĩa là Máu. Mau chỉ là mong làm cho mau, Máu là muốn làm thật, rất Máu tức rất Chóng; từ đôi đối Mong//Muốn; gọi là cái Chong//Chóng chẳng qua vì có khi nó “tĩnh” có khi nó quay nhanh đến chóng mặt, tùy theo lúc ấy có gió hay không). Chẳng có cái gì là của gốc Hán cả, trong tiếng Việt. Lũy tre làng nguyện làm “cái Vỏ Che để Bao cho văn hóa làng khỏi lao đao//lảo Đảo” đã lướt thành hai tiếng “Vỏ Che” = Vệ và “Bao…Đảo” = Bảo thành cái vậtgọi là Vệ Bảo, và tạo nên từ đôi đối Vệ//Bảo, thường dùng là Bảo Vệ để nhắc chú ý trước tiên là ứng phó với cái phá hoại từ ngoài vào, rồi mới đến cái do trong gây (Bảo có thanh điệu thuộc Nhóm 1, trong khi Vệ có thành điệu thuộc Nhóm 0) vì cái ngoài vào nó phá văn hóa bản địa lẹ hơn là cái do mình lơ là giữ gìn]. Cái ỐC này ở con người là để chứa cái tư duy trong óc, tư duy của con người lại là do Trời phú, nên “Trời Ốc” = Trốc. (TRỐC nghĩa là cái đầu, là từ dùng chung trong ngôn ngữ Môn Khơme) . Khi đẻ thì Trốc là cái chui ra đầu tiên, là “Trốc Bước” = Trước. Bên ngoài Trốc còn có lông che chi chít nhiều như Tay của con sâu róm hay các loài côn trùng, gọi là “Tay Trốc” = Tóc [ tiếng Nhật Bản gọi Tay là “Tê”. Gốc của từ Tay nghĩa là cái bên ngoài, như là cái “Tay che nắng Trời” = Tơi ]. Tay = Tóc = Túc = Tu = Thủ. Một âm tiết tức một “tiếng” của tiếng Việt là có nghĩa nhất định, nên nó là một Lời. Cấu tạo thì một Lời gồm cái âm vận là cái Lõi, trước cái Lõi ấy có thể có thêm phụ âm, mà các nhà ngôn ngữ học gọi là “tiền tố” hoặc “tiếp đầu ngữ”, hoặc vắng phụ âm. Tôi gọi chung “cái có phụ âm đầu” và “cái vắng phụ âm đầu” là “Tay Lời” = Tơi, còn phần âm vận tức Lõi, tôi không gọi là “âm vận” mà gọi là cái “Ruột Lời” = Rỡi. Tơi và Rỡi đều phải nhờ Lưỡi tác động đưa ra thành Lời, "Lưỡi Nói" = Lời. Cách đặt “từ chuyên môn” này đúng với qui tắc về thanh điệu trong 6 thanh của tôi nêu là “Qui tắc thanh điệu định hướng cho ý nghĩa của từ theo tính Âm Dương” (chứ không chia theo “Bằng, Trắc” như các nhà ngôn ngữ học đã chia). Bởi nó khớp với từ đôi đối “tư duy tĩnh tại” // “tư duy hành động” của qui tắc thanh điệu tôi nêu, đó là Tơi//Tời = Tải (đưa lời ra), cái Tời là cái dụng cụ có dùng ròng rọc để chuyển tải vật nặng; Rỡi//Rời (đưa lời “Ra Đời” = Rời khỏi óc). Một trong những qui tắc của tiếng Việt nhằm tạo ra nhiều từ mới từ một từ gốc ban đầu mà tôi nêu là Qui tắc Tơi-Rỡi : “Khi thay Tơi hoặc Rỡi của một Lời, thì Lời ấy biến sắc thái nhưng ý nghĩa vẫn nằm trong cùng chung một Nôi khái niệm với Lời gốc”. Qui tắc này đúng khi đối chiếu với Qui tắc Lướt vốn có từ xưa trong tiếng Việt cũng nhằm tạo từ mới đơn âm tiết do lướt hai tiếng hay một câu dài, mà Hứa Thận đã vận dụng cách nay 2000 năm để hướng dẫn cách đọc mỗi từ đơn âm tiết . Ví dụ giải thích từ TÓC theo QT Lướt: “Tay Trốc” = Tóc, cũng từ TÓC giải thích theo QT Tơi-Rỡi: Tay = Tê (tiếng Nhật) = Tóc = Túc = Tu = Thủ = Chu = Chân = Chi = Châu = Râu, đều hợp lý như nhau, vì “tất cả đều là trong một”. Tất cả đều có một khái niệm chung là “cái ở bên ngoài của cơ thể”. Chu hay Châu có nghĩa là cái bên ngoài, “chu vi” là vòng ngoài. “Cổ Hán ngữ” dùng chữ Túc chỉ cái chân của côn trùng, chữ Tu chỉ râu, “tu mi” là mày râu, “xúc tu” là râu con mực như là tay để nó cảm xúc. Hán ngữ hiện đại dùng chữ Thủ chỉ cái tay mà phát âm lơ lớ là “sẩu”, dùng chữ Hồ phiên âm cho chữ Tu để chỉ cái râu, chẳng qua do phát âm lơ lớ chữ Tu của “Cổ Hán ngữ” thành “hú” là chữ Hồ; dùng chữ Chân mà phát âm lơ lớ là “chẻo” để chỉ bàn chân, chữ Thủ còn phát âm lơ lớ chệch đi là “thuẩy” để chỉ cẳng chân. Phát âm lơ lớ thì không thể đọc đúng âm luật của thơ Đường xưa để lại. Bởi vậy muốn tìm “từ nguyên” của Hán ngữ hiện đại thì tìm về “Hán ngữ cổ”, nhưng muốn tìm “từ nguyên” của “Hán ngữ cổ” thì tìm về sâu xa hơn tức về tiếng Việt Nam. NÔI khái niệm là một cái chung sinh ra ngôn từ Việt, tương tự, mọi sáng tạo văn minh tương lai của loài người đều từ con số nhị phân 0 và 1, như một nhà khoa học người Đức đã nói từ nhiều thế kỷ trước. Vậy mà chỉ có tiếng Việt là có hệ đếm nhị phân đầu tiên là con số 0 và 1 từ khái niệm Âm/Dương của mình, đó là con số đếm Mô/Một. ( Một là số đếm đầu tiên trong hệ đếm của ngôn ngữ Môn Khơme ). Khái niệm Mô/Một cho thấy hình ảnh của “cây tre Việt Nam”, thân cây tre có đặc điểm là vỏ ngoài cứng, ruột trong rỗng, nhưng mỗi đoạn ruột trong có phần đặc mỏng như màng chắn, chia thân tre thành nhiều Lóng = Tróng, và chỗ đó liền với vỏ thành cái Mố như mố cầu mà phần vỏ là như cái nền cầu, để Mọc ra những cái Mắt ra ngoài vỏ, để rồi Mắt sẽ Mọc lên thành cành tre hoặc Mọc thành cây tre con nếu giâm lóng tre xuống đất ẩm cho ra rễ. Ruột của tre là rỗng , về vị trí thì cái rỗng đó là bên trong , nó tuy rỗng nhưng do vị trí của nó mà nó gây ra cái từ đôi đối Long//Lóng tương tự như Trong//Tróng, mà cho ra cặp đôi đối Trong Long//Tróng Lòng Chính cái “tư duy hành động” của cây tre là ở chữ Tróng Lòng này, cái mà người ta sử dụng nhiều nhất cho tiện ích từ cây tre là Lòng tre (cật tre) mà nó lại nằm vị trí ngoài là cái vỏ ( khác với cây gỗ thì cái gỗ phần vỏ là cái Da = Giáp = Giác, giác gỗ phải rọc bỏ đi vì nó không cứng để làm được vật liệu cho sản xuất đồ dùng). Chính vì vậy người ta mới nhận xét cây tre như là “ruột để ngoài da” để ví với những người tính tình thẳng thắn (rồi bạn đọc sẽ thấy là không gì có thể bịt được cái Nói của con người, khi tìm hiểu cái lý trong từng âm tiết của tiếng Việt . Người ta chỉ có thể phản biện, tranh luận, để cho ra cái đúng mà thôi, nôm na gọi là “làm cho ra nhẽ”). [Ca dao: “Con gà có mỏ, con chó có lông, cây tre có mắt, nồi đồng có quai”. Câu này là tiền đề của câu “Dụng nhân như dụng Mộc”. Cả câu này hoàn toàn thanh điệu Nhóm 0, nói cái suy nghĩ bên trong của người cầm đầu, để sang hành động thì Suy Nghĩ chuyển thành Ý Đồ, và khi đã hành động thật sự thì thành câu thanh điệu hoàn toàn thuộc Nhóm 1, là câu “Dùng người giống dùng Cây” ( Anh ta nghĩ: phải dụng nhân như dụng mộc rồi trong thực tế anh ta đã thực sự dùng người giống dùng Cây). Vậy mà trong câu tư duy hành động “Dùng người như dùng Cây” vẫn còn một từ Cây là thanh điệu thuộc Nhóm 0, bởi vì ý muốn nói là dùng cái tư duy (Nhóm 0) của con người, như Cây (Nhóm 0) , tức dùng cái chất xám của con người. Từ đôi đối nói về chất xám là từ Xam//Xám mà chữ Xam là cái tư duy tĩnh tại, nó chính lại là gốc của từ San trong tiếng Tây có nghĩa là Thánh (Nhà tiên tri ấy Thánh thật. Là nói cái tư duy siêu đẳng của ông ấy). Nhưng nếu kẻ cầm đầu dùng người mà quá “tư duy hành động”, tức là dùng kiểu chụp giựt, thì câu ấy biến thành hoàn toàn thanh điệu Nhóm 1, là câu “Dùng người giống dùng Cầy” thì lại thất bại, như bao hôn quân bạo chúa từng có trong lịch sử. Cái Mắt của cây tre VN thì dù có chiến tranh đàn áp khốc liệt mấy nó vẫn Mọc như Mặt trời vẫn Mọc. Cái Mắt của cây tre VN thì dù người ta có bưng bít, xuyên tạc lịch sử đến mấy nó vẫn thấy được cái đúng của lịch sử, như tám quẻ trong Bát Quái (“quai”) cũng chỉ là cùng (“đồng”) một mà ra, trong câu "Nồi đồng có quai"]. Vỏ = Bó = Mo = Mặt = MỘT = Cột = Cốt = Chốt = CHẮC = Chêm = Chặt = Chật = Cật = CẶC = Đặc = SẮC = Tắc = Tim = Tâm 心 = Tăm = Tức = Thực 實. Đó là tất cả những ứng dụng của thân cây tre nhờ cái cật cứng của nó, từ chức năng lớn như là làm cái Cột đến cái chức năng nhỏ như là làm cái Tăm. Ruột = Rỗ = Mố = Mắt = MÔ = Lỗ = Lóng = LÉP = Lỏng = LỒN = Rốn = Rỗng = KHÔNG = Ống = Cống = Quản 管. Cái rỗng của cây tre cũng có ứng dụng làm ống, cống, quản. Từ cái NÔI làm bằng cây tre Việt Nam, rất đơn giản và cụ thể, đã ra các cặp đối Âm Dương là: (1) MÔ/MỘT của số đếm nhị phân, (2) LÉP/CHẮC của số đếm thập phân từ con số Chắc cho đến con số Chục. [ “Chắc” tiếng Tày nghĩa là Biết, có 1 mới là biết, còn 0 là chưa biết gì. Ở khái niệm này, tiếng Việt có từ đối Bất/Biết như là 0/1. Chục=Chập=Xấp=Xếp=Xập (tiếng Quảng Đông)=Thập, là những từ dùng đếm vật liệu, như một chục trứng, một xấp giấy, một xếp tiền]; (3) LỒN/CẶC của sinh thực khí trong tư duy phồn thực; (4) KHÔNG/SẮC của Phật giáo. Hai cái Nôi khái niệm từ Vỏ tre và Ruột tre, người Hán chỉ mượn có ba chữ là Tâm 心, Thực 實, Quản 管. Nếu ta lấy một khúc ống sắt tròn dài 8 cm, đặt khúc ống ấy nằm quay mặt cắt tròn về phía ta nhìn, và một thanh sắt tròn cũng dài 8 cm để cùng làm “giáo cụ trực quan” dựng đứng bên cạnh, ta sẽ nhìn thấy rõ hình ảnh số 0 và số 1 do ống sắt đặt nằm và thanh sắt đặt đứng tạo nên. [Thanh sắt đặc như thế này thì người Đài Loan gọi là “Thiết Tâm 鐵 心” nghĩa là sắt đặc, kết cấu xuôi như tiếng Việt.; còn người Trung Quốc gọi là “Thực Thiết 实 铁” nghĩa thì cũng là thanh sắt đặc, nhưng kết cấu ngữ pháp ngược, Thực là đặc, Thiết là sắt. Còn từ “Thiết Tâm 铁 心” thì người TQ đặt dùng và hiểu đó là cái “lõi sắt” là cốt của cái biến áp. Tương tự, tiếng Việt có từ đôi đối Cam//Cám. Người Việt nói “Cám ơn”, người Đài Loan nói “Cam un”, người Hàn Quốc nói “Kham xa ham ni đa”, người Trung Quốc nói “Xie xie” (tạ tạ) ]. Từ đôi đối chỉ rõ “tư duy tĩnh tại” // “tư duy hành động” cho thấy rất rõ như Cam Canh//Cám Cánh . Cam Canh là giữ nguyên. Cám Cánh và Cám Cảnh mới là cái suy nghĩ đến cái gì đó bên ngoài. Cũng như Cữu Canh là suy nghĩ giữ bên trong, canh giữ lưu cữu ở bên trong, nhưng Cứu Cánh là “suy nghĩ để hành động” với vấn đề gì đó bên ngoài, như câu hỏi: “Đâu là cứu cánh cho vấn đề đó? “ (đừng lẫn với từ đồng âm dị nghĩa là từ “cứu” trong “giải cứu” và “cánh” trong “tung cánh bay”). Về sau từ Canh của tiếng Việt kết duyên thêm với từ Gác đồng nghĩa của tiếng Pháp để thành từ đôi Canh Gác (như đã nói nguyên tắc từ đôi là: tiếng có dùng trước thì đứng trước, tiếng mượn dùng sau thì đứng sau). Nỗi lo Canh/Cánh là nỗi lo luôn thường trực trong tâm chỉ chực bật ra, ngày nào cũng không rời nên nó cũng là lo Ngay/Ngáy . Ngôn ngữ phương Đông đã từ cái NÔI của tiếng Việt mà ra. Muốn truy tìm “từ nguyên” cho Hán ngữ hiện đại thì tìm về “tiếng Hán cổ” như người ta gọi và cho rằng đó là “những từ Hán-Việt có từ thời Đường” (vậy mà tại sao nó không tồn tại ở TQ, thực tế thì còn tồn tại không nhiều trong tiếng Quảng Đông, mà lại chỉ tồn tại nguyên vẹn ở VN cho đến ngày nay ?). Nhưng muốn tìm “từ nguyên” của “tiếng Hán cổ” thì lại phải truy về cái nguồn còn cổ hơn nó, đó là cái NÔI của tiếng Việt, thì mới ra, đúng và chính xác, còn cứ tìm từ nguồn gốc phương Tây thì sẽ không ra. Khi tôi ngẫm rằng tất cả từ vựng của tiếng Việt đều là bắt đầu từ Một cái NÔI mà ra, là do tôi nhìn vào chữ NÓI. Khái niệm là cái mà con người của mỗi tộc người qui định bằng cái âm tiết do họ phát âm, tức cái “tiếng” nói ra chứ không phải bằng ký tự. Chữ là do con người đặt ra, viết kiểu gì cũng được, cho dù viết bằng ký tự biểu ý thì cũng phải nói ra thành tiếng mới hiểu cái khái niệm đã được qui định để mà giao tiếp với nhau bằng lời. Còn khi ngẫm về 6 thanh điệu của tiếng Việt thì tôi không chia ra Trắc/Bằng như người ta đã chia (và dùng xưa nay để thiên về nghiên cứu thanh nhạc trong Nói); mà tôi chia ra thành Nhóm 0 (có ba thanh điệu: “không”-“Ngã”-“Nặng”) là thuộc tính Âm và Nhóm 1 (có ba thanh điệu: “Sắc”-“Hỏi”- “Huyền”) là thuộc tính Dương. Cái “đối” theo tôi chia không phải là đối theo Bằng/Trắc như người ta chia, mà là đối theo Nhóm 0/Nhóm 1. Từ đôi đối hiểu ngầm là quá trình diễn biến tư duy từ “tư duy tĩnh tại” (thanh điệu Nhóm 0) sang “tư duy hành động” (thanh điệu Nhóm 1). Bởi vậy khi nhìn vào thanh điệu như tôi chia sẽ thấy rất rõ là người Việt khi muốn nói thì trong óc đã hình thành “tư duy tĩnh tại” (Âm) rồi mới chuyển ngay thành “tư duy hành động” (Dương). Quá trình tư duy (suy nghĩ) trước khi nói đó tạo nên từ “đôi đối” (nay ký hiệu bằng hai xẹt // giữa, để dễ phân biệt với từ “đối” chỉ có một xẹt giữa, còn từ “đôi” thì không đánh xẹt). Ví dụ từ đôi: Tâm Long, Tấm Lòng. Ví dụ từ đôi đối: Long//Lòng, Tâm//Tấm. Ví dụ cặp từ đôi đối: Tâm Long//Tấm Lòng (cả bốn tiếng đều đồng nghĩa nhau). Khi người Việt muốn nói ra suy nghĩ của mình, thì sẽ xảy ra những trường hợp sau: (1) NÔI/NÔI=NÔI/Nơi, đây là một từ đôi, thanh điệu chỉ rõ là hoàn toàn tĩnh tại, bởi chảng đâu yên ổn bằng quê hương mình, là cái nơi chôn rau cắt rốn của người Việt. Chẳng thế người Việt gọi dụng cụ đặt trẻ sơ sinh nằm, để ru dạy nó phát triển tư duy, biết nói, là cái NÔI (Hán ngữ gọi từ có ý nghĩa tương ứng là “yáo lán” tức cái làn lắc). Cái NÔI đứa trẻ nằm chính là cái Nơi vào đời, là cái Nước tí hon của nó. Chẳng thế mà khi sơ sinh còn chưa biết gì nhưng hễ người lạ đụng vào vành NÔI của nó là nó khóc ré lên cực lực phản đối. Nơi ấy nó nằm nghe mẹ ru và mơ ước lớn lên tề gia, giữ nước, bình thiên hạ. Bởi đứa bé là “Người trong Nôi”=Ngôi, lớn lên nó sẽ làm vua, vì vua thì cũng là Ai=Ngài=Ngôi=Người. Và cái NÔI thì được đan bằng nan tre nhà, lướt “Nhà Tôi”=NÔI. Người Việt gọi xứ sở mình là Nước. NÔI=Nơi=Nước. (2) NÔI/NỘI là một từ đôi, thanh điệu chỉ rõ là hoàn toàn tĩnh tại, trong cái tĩnh tại đó có động của sự sống mới bắt đầu, đó là NỘI=Nõn=Noãn là cái noãn bào tức cái trứng bắt đầu thành hình và lớn lên trong cái dạ con của mẹ. Về độ quí của nó thì Trứng =Trân= =Nhân, nằm trong dạ con của mẹ là một cái Cung (tất nhiên có cửa hở để còn ra sau khi đủ ngày đủ tháng. Thành ngữ Việt: “Nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa”. Đó là hòn Máu, “Máu Nội”=Môi=Phôi; đó là cái Thịt để lớn thành người, tức “Thịt Ai”=Thai. Cái NỘI ấy là cái Phôi Thai trong dạ con tức cái tử cung, chữ Nội viết bằng bộ thủ Cung và bộ thủ Nhân bên trong cung ấy 内. Cũng giống như thực vật, cái Gạo của hạt để rồi ra Gốc của cây. Cái Nội này là để hình thành con người trong cái dạ con hay tử cung Nội=Chồi=Chửa, nói “có chửa” hay “có thai” đều là nói tiếng Việt. Cung=Cuống là cái Ruột nối thai với cơ thể mẹ để lấy dinh dưỡng, gọi là cái “Ruột nối con và mẹ cùng Nhau”= “Ruột…Nhau”=Rau. Rau là cái chung giữa mẹ và con nên chữ Rau viết bằng bộ thủ Cung có hai bộ thủ Nhân bên trong, mà một chữ Nhân thò đầu ra ngoài , biểu ý là mẹ. Chữ Rau 肉, Hán ngữ mượn chữ này, phát âm lơ lớ là “râu” nhưng lại dùng để chỉ thịt để ăn tức là thực phẩm. Chữ肉 ấy người Việt chỉ gọi là Rau=Nhau=Nhục, “tình cốt nhục” là để chỉ cái ý nghĩa huyết thống đó. Cái huyết thống này là NỘI=Nòi. NÔI//Nòi (là để xưng về dòng giống. Nòi=Dõi=Dòng=Giống=Trồng=Trủng=Chủng). Tất cả mọi tư duy khi đã ra thành tiếng đều bắt nguồn từ NÔI. (3) NÔI//NỐI, Nối=Nói là để thành tiếng phát ra , tức sự Nối tư duy bên trong với phương tiện phát âm để thành tiếng có nghĩa, nhờ “Lưỡi Nói”=Lời. NÔI//Nối cũng là để giao tiếp giữa hai người đối thoại với nhau. (4) NÔI//NỔI (là để lan tỏa, gọi là “nổi tiếng”). Nổi=Nở. Vì NÔI cũng là Nước. Mà đặc điểm của nước là Nở về mọi hướng: thấm, tràn lan, “chảy chỗ trũng”, bốc hơi, nở thể tích khi đóng băng. Con người đã lợi dụng tính làm Nổi của Nước để làm thuyền bè, lợi dụng tính làm Nở của Nước để làm vỡ lăn tảng đá to từ một khe nứt nhỏ có sẵn. NÔI là Nói, NÔI là Nước do đó theo cái lý của nó thì thấy rằng không gì có thể bịt được cái Nói. Nhưng chỉ tiếng Việt mới có từ NÔI viết là N-Ô-I. Giáo sư triết học Cao Xuân Huy nói rằng: “Cái lý của người Việt là Nước”. Vậy bưng bít, biển thủ cái Nói của người Việt là thủ tiêu ý tưởng hữu ích cho nhân loại. (5) NÔI/NỖI, là một từ đôi, chỉ cái tư duy tĩnh tại trong tâm. Khi muốn đưa cái suy nghĩ ấy ra ngoài để tỉ tê với ai hay để chuyển thành hành động thì gọi là Nỗi//Lòng. (6) NÔI//NỒI, cái Nôi là để đựng, cái Nồi cũng là dụng cụ để đựng, trong khái niệm “đựng” thì có từ đôi đối Nôi//Nồi. Nhưng về quá trình tư duy, khi người Việt định sản xuất cái Nồi, lập tức nảy tư duy tĩnh tại là Nôi, phác họa trong óc một cái Phôi, để có diễn biến tư duy Nôi=Phôi=Khối=Khuôn, mới ra Nôi thành Nồi được. (7) NÔI//Nước. Thường viết theo từ đôi Nước Nôi để nhấn mạnh ý là nhiều nước. Cái từ NÔI đặc biệt này chỉ ở tiếng Việt mới duy nhất có mà thôi, bởi nó là NƠI (Nôi=Nơi) bắt đầu sự sống trên trái đất này, đó là nguyên tố hóa học H2O . Nhìn vào chữ NÔI mà xem, O của H20 là nằm trong chữ Ô, Hydro là nằm trong chữ I do cái âm tiết “hy” của nó, 2 là nằm trong chữ N, nghĩa là Nhị [mà có Một rồi mới đến Mai, tôi đã giải thích rồi, Mai nghĩa là Mới, tiếng Lào gọi là May, tiếng Khơme gọi là Thmây, tiếng Thái Lan gọi là Mai, tiếng nhiều sắc tộc ở Lĩnh Nam gọi là Máy, Mạy; Mai=Hai=Lái=Nhái=Nhị, có người Xuất là Nhất rồi mới có Thương Lái là Hai, có hàng hạng Nhất rồi mới có hàng hạng Nhái]. NÔI=Nơi=Đời=Đại=Loại=Loài=Lòi=Nòi=NÔI, đó là toàn bộ đời sống của muôn loài, đều xuất hiện và tồn tại nhờ Nước. (8) NÔI//Người. “Người trong Nôi” =Ngôi = Ngai = Ai = Ngài = Người. Cho nên tự ngôn từ nó đã nói lên quan niệm của người Việt, hay gọi là văn hóa của người Việt là bình đẳng. “Hơn nhau tấm áo manh quần, Cổi ra bóc trần Ai cũng như Ai”. Hán ngữ đã mượn nhiều từ Việt trong cái Nôi khái niệm bình đẳng về con người của tiếng Việt (ở những từ có chữ nho): Kẻ = Cả = Con = Cái = Quân 君 = Quan 官 = Quân 軍 = Ko (tiếng Nhật) = Cu (tiếng Vân Kiều) = Tu (tiếng Tày) = Tí子 = Tử 子.
  5. Nếu DĐ không bắt được sóng, đó không phải là do “biên giới” mà là do vị trí, vùng ấy nhiều núi non lô nhô hoặc địa mạo có gì đó đặc biệt, chỉ có ở bản ấy là một vị trí thu phát được (tương tự như “khí” trong PTLV, nhưng sóng là cái cụ thể hơn cho đến nay). Chỗ viên gạch nằm là một vị trí trong vị trí là cái chái ở bản ấy, điều này kỹ thuật truyền sóng vẫn giải thích được. Nếu bỏ viên gạch ra, thay vật khác thế chỗ để lại đặt DĐ lại không bắt được, thì bản thể viên gạch là vị trí trong vị trí. Điều này khoa học đang chịu. “Xu hướng phát triển của khoa học là theo chiều rộng và chiều sâu” mà. Rộng cũng vô cùng và sâu cũng vô cùng. Khi đã hiểu ra cái trừu tượng thì cái đó trở thành cụ thể.
  6. Thanh điệu định hướng cho khái niệm: Nhóm 0 (“không” – “ngã” – “nặng”) = Âm : hướng Trong Nhóm 1 (“sắc” – “Hỏi” – “Huyền”) = Dương: hướng Ngoài Từ đôi đối là từ gồm hai tiếng đồng nghĩa nhau (nên chúng là đôi) nhưng thanh điệu thì một thuộc Nhóm 0 = Âm và một thuộc Nhóm 1 = Dương (nên chúng là đối). Từ đôi đối diễn tả quá trình tư duy trong óc, đầu tiên hình thành “tư duy tĩnh tại”, thể hiện bằng tiếng có thanh điệu Nhóm 0 (gọi là hướng Trong). Rồi tư duy tĩnh tại ấy chuyển ngay thành “tư duy hành động”, thể hiện bằng tiếng có thanh điệu thuộc Nhóm 1 (gọi là hướng Ngoài). Sau đó từ đôi đối được đem ra sử dụng bằng khái niệm của nó với nội dung là “nhiều” (như có Âm có Dương ắt nở ra nhiều) hoặc tách ra sử dụng từng tiếng với sắc thái riêng của nó. Ví dụ: Ngoại/Ngoài, Trong/Trỏng, Bên/Bển, Na/Nói,Thệ/Thề, Qụi/Qùi, Cam/Cám, Tâm/Tấm, Long/Lòng, Đanh/Đành, Bậy/Bấy, Định/Đính, Đọng/Đóng, Dựng/Dứng, Đưng/Đừng, Đựng/Đứng, Ngưng/Ngừng, Nhen/Nhóm, Nhịn/Nhường v.v. Ngoại/Ngoài là từ đôi đối, trong khi Ngoài/Ngoải chỉ là từ đôi (thanh điệu hai tiếng đều thuộc một Nhóm, ở đây là Nhóm 1). Phân tích từ đôi đối Thệ/Thề : khi viết lời tuyên Thệ thì đó mới chỉ là tư duy Trong, nhưng khi đã hô ra thì là hô xin Thề, vì đó là tư duy hành động Ngoài. [ Hán ngữ chỉ có một từ Thệ, viết lời cũng gọi lời tuyên Thệ, khi hô cũng hô là xin Thệ, Hán ngữ không có dùng thanh điệu chia khái niệm ra chi ly Âm Dương, khái niệm Âm Dương không phải đầu tiên là của Hoa Hạ]. Phân tích ví dụ, lấy từ đôi đối Đập/Đánh và Qụi/Qùi. Phân tích câu 1: “Đánh đập chó suốt ngày”, nghĩa là: Đánh (hành động thật bên Ngoài) chó nhiều lần (diễn tả bằng “đánh/đập”) cả khi ở bên trong ( diễn tả bằng “đập”) cả khi ở bên ngoài (diễn tả bằng “đánh”) suốt ngày. Nguyên câu dài: “Đánh chó suốt ngày nhiều lần cả khi ở bên trong cả khi ở bên ngoài”, mà người Việt chỉ nói ngắn gọn “Đánh đập chó suốt ngày”. Phải hiểu triết lý Âm Dương của người Việt thì mới hiểu được hết cả, còn cái phần “ ý tại ngôn ngoại” của câu này. [ Dịch câu tiếng Việt ra tiếng nước ngoài quả là không dễ chút nào ]. Người ta nói “đi Đánh giặc” chứ không ai nói “đi Đập giặc” vì đánh là ra Ngoài chiến trường, nhưng người ta lại dặn: “ở nhà con nó có nghịch, cũng đừng có Đập nó mà tội nghiệp”, nghĩa là cả đến cái ý nghĩ bạo lực với con cũng không được có (diễn tả bằng “đập”, là tư duy tĩnh tại) chứ đừng nói đến hành động thật (“đánh”, tư duy hành động). [ Hán ngữ chỉ có một từ “tả” để dịch ba khái niệm Đập, Đánh và Đánh/Đập. Nhưng từ “tả” này là phát âm lơ lớ khi mượn từ Đả của tiếng Việt. Theo “qui tắc Tơi-Rỡi” thì: Đập=Đánh=Đả=Đấu=Đâm=Trẫm=Trảm=Chém =Chiến=Chặt=Cắt ( rồi mới thành từ “cut” của tiếng Anh). Người Việt đã theo “qui tắc lướt” (mà Hứa Thận cuối thời Đông Tấn cách nay 2000 năm từng vận dụng để hướng dẫn cách đọc một chữ bằng “thiết” hai tiếng đặt liền nhau, trong cuốn từ điển đầu tiên của Trung Hoa là cuốn “Thuyết Văn Giải Tự”) để lướt cả câu dài mà viết thành một chữ nho là Đả. Câu ấy là: lướt câu “Đập, Đánh đồng nghĩa Cả” = “Đập … Cả” = Đả ]. Nếu ai cho rằng câu lướt trên để cho ra từ mới là Đả, là do phịa, thì hãy giải thích câu: “Ngủ không được, cứ Trằn/Trọc Lăn/Lóc mãi suốt đêm từ chập tối tới sáng” thì Trằn Trọc là gì ? Lăn Lóc là gì? Chẳng lẽ “từ nguyên” của nó phải tìm ở tiếng Tàu hay tiếng Tây mới ra ? Trằn là lướt “Trở mình bằng Lăn” = Trằn, Trọc là lướt “Trở mình ngồi Dọc” = Trọc, rồi lại nằm xuống, vẫn không ngủ được, lại Lăn và “Lăn vào tận Góc” = Lóc, đó là từ đôi Lăn Lóc, chẳng qua Lăn và Lóc có sắc thái (kiểu động tác) khác nhau mà thôi. Phân tích câu: “Muốn Đập cho nó Qụi”, nghĩa là “Mình suy nghĩ muốn làm cho nó phải từ bỏ cái suy nghĩ của nó đi mà chịu thua mình”, chưa có tác động gì ra ngoài thật cả. Khác với câu: “Đánh cho nó phải qụi mới thôi”, đó là đánh thật cho nó phải chịu thua về ý chí. Khác với câu: “Đánh cho nó phải Qùi gối đầu hàng” đó là đánh thật và đầu hàng thật, nhưng nó bị bắt buộc đầu hàng chứ chưa chắc nó đã thua về ý chí, chưa chịu từ bỏ suy nghĩ của nó. Khác câu: “Đánh cho nó phải Qụi/Qùi” là đánh cho nó cả đầu hàng(diễn tả bằng Qùi), cả chịu thua về ý chí (diễn tả bằng Qụi). [ Hán ngữ chỉ mượn một từ Qụi để dịch cho ba khái niệm đồng nghĩa mà khác sắc thái là Qụi, Qùi và Qụi/Qùi. Vậy các chữ Đả 打, Qụi 跪 là từ gốc Việt hay “từ Hán-Việt” ? Hán ngữ chỉ có từ điệp, như dùng hai lần Qụi Qụi để nhấn mạnh Qụi; hoặc điệp hai lần Nhân Nhân để nhấn mạnh là nhiều người (không có phân biệt được người cũ người mới), nhưng tiếng Việt thì dùng từ đôi đối là Mọi/Người, ý nói “nhiều người, cả người cũ (Mọi hay già), cả người mới (Người hay trẻ)”; theo “qui tắc Tơi-Rỡi” : Mọi = Mèm = Man = Mằn = Mân = Cần = Dân = Nhân = Rấn (“Mằn” là người, tiếng Quảng Đông; “Cần” là người, tiếng Tày; vùng “Mân Việt” là vùng “người Việt” , “Rấn” là người, tiếng Hán, do mượn từ Nhân của tiếng Việt, mà phát âm lơ lớ là “Rấn”). Qui tắc từ đôi trong tiếng Việt là từ nào có trước trong lịch sử thì đứng trước, như từ Tre Trúc, Chè Trà, Mọi Người. Điều này phù hợp với nhận định của các nhà nghiên cứu ngôn ngữ: “Hình như trong mỗi từ hoặc mỗi hình thức của từ, lúc nào cũng có một cái gì đó cũ và một cái gì đó mới”. [ Mới chỉ phân tích có mỗi “Tính Âm Dương định hướng ý nghĩa của khái niệm trong sáu thanh điệu của tiếng Việt” đã đủ thấy ngôn từ của tiếng Việt tinh túy và chính xác như thế nào, không có 5000 năm văn hiến Lạc Việt thì không có được một ngôn ngữ như vậy tồn tại nguyên bản đến ngày nay, cả phát âm cho đến ngữ pháp. (Đọc “thiết” để cho ra đúng âm của chữ như trong “Thuyết Văn Giải Tự” của Hứa Thận hướng dẫn thì phải đọc như người Việt phát âm mới ra trúng luật như hướng dẫn, còn đọc theo phát âm của Hán ngữ thì trật). Văn bản bằng Hán tự của Việt Nam xưa chẳng qua là ngữ pháp bị bắt buộc Hán hóa hoàn toàn (để các quan cai trị đọc hiểu được), còn ngôn từ thì “từ nguyên” của nó là Việt hoàn toàn, phát âm là Việt hoàn toàn. Nguyễn Trường Tộ từng đề nghị, nếu dùng Hán tự thì cứ đọc như Việt, viết theo ngữ pháp như Việt, còn không thì dứt khoát dùng Chữ Quốc Ngữ cho dễ phổ cập. Tiếng Việt không thuộc cùng một nhóm gần gũi về cội nguồn với tiếng Hán, một bên lối nói xuôi, một bên lối nói ngược, động tác môi và miệng phát âm khác hẳn, nhiều phụ âm tiếng Hán (như ch-, c-, z-, p-) không có trong tiếng Việt, nhưng rất nhiều âm vận trong tiếng Việt lại không có trong tiếng Hán (tiếng Việt có 15.000 âm vận, trong khi tiếng Hán chỉ có 1.300 âm vận, tiếng Nhật thì lại không có âm vận lạ nào đối với người Việt). Trong quá trình tiếp xúc lâu đời, Hán ngữ đã vay mượn đưa vào vốn từ của mình khối lượng lớn ngôn từ của ngôn ngữ Bách Việt cổ đại. Tiếng Việt thuộc hệ Nam Phương, dòng Nam Á, ngành Môn-Khơme (trong dòng Nam Á còn có các ngành: Nahali, Munda, Nicoba). Ví dụ vài từ gốc: Một (Việt)=Mộc (Mường)=Mual (Môn)= Muôi (Khơme) Ba (Việt)=Pa (Mường)=Pi (Môn)=Bây (Khơme) Nác (Việt)=Đác (Mường)=Đác (Môn)=Tức (Khơme) Tay (Việt)=Thai (Mường)=Tai (Môn)=Dây (Khơme) Trốc (Việt)=Tlốc (Mường)=Kđúc (Môn)=Kbal (Khơme) Tóc (Việt)=Thác (Mường)=Sóc (Môn)=Sof (Khơme) Mắt (Việt)=Mata (Mã Lai)=Mati (Hy Lạp) Đặc điểm từ thì tiếng Việt là đơn âm tiết, giống Hán, Thái, và một số ngôn ngữ châu Phi. Ví dụ tộc Êvê ở châu Phi cũng có từ láy giống tiếng Việt: ( “Dô” là đi, cũng giống tiếng Việt , Dô Nam = Đi Nam) Dô bô hô bô hô : Đi lặc lè lặc lè Dô dê dê : Đi dững dàng Dô bu la bu la : Đi bừa lên bừa lên Dô pi a pi a : Đi rón ra rón rén Dô gô vu gô vu : Đi gật gù gật gù ] . Từ từ đôi đối Qụi/Qùi thấy rõ sự sợ hãi được diễn tả Trong “tư duy tĩnh tại” bên Trong có từ Qụi Lụy, nhưng sợ hãi ở “tư duy hành động” bên Ngoài là Qủi Lúy, cặp từ đôi đối là Qụi Lụy // Qủi Lúy. Người Việt khi lo lắng thì thán “Qủi thiệt ! “, các sắc dân bản địa Lĩnh Nam khi lo lắng thì thán “A Lúi ! “. Từ đôi đối Lo/Lắng nghĩa chung là Lo. Thường Lo thì chỉ giữ trong tâm nên ít khi phải dùng đến từ Lắng đứng riêng, chỉ có trong từ ghép Lắng Nghe, mà dịch sang ngôn ngữ khác phải dịch là “chú ý nghe với một sự hồi hộp trong lòng” chứ không phải đơn giản chỉ là “để tai chú ý nghe” như Từ điển Tiếng Việt giải thích. Còn Lo Nghe thì chưa phải là hành động, mới chỉ nghĩ thế thôi. Lắng trong từ Lo/Lắng là chỉ cái hồn, không phải là Lắng (đồng âm dị nghĩa) trong từ đôi đối Lắng/Đọng là chỉ cái cơ học.
  7. Do căn cứ vào NÔI khái niệm nên tôi chia 6 thanh điệu của tiếng Việt theo cái “ý” của khái niệm, thành hai loại là: Loại định hướng cho khái niệm Trong, gồm các thanh điệu “không”, “ngã”, “nặng” (đặt tên là “Nhóm 0” hay “Nhóm thanh điệu Âm” ); và Loại định hướng cho khái niệm Ngoài, gồm các thanh điệu “sắc”, “hỏi”, “huyền”( đặt tên là “Nhóm 1” hay “Nhóm thanh điệu Dương”). Viết lại : Nhóm 0 (“không” – “ngã” – “nặng”) = Âm : hướng Trong Nhóm 1 (“sắc” – “Hỏi” – “Huyền”) = Dương: hướng Ngoài Dùng “qui tắc: Thanh điệu định hướng khái niệm”, “qui tắc: Tơi=Rỡi” và “qui tắc: Lướt” để tôi tìm “từ nguyên” của từ Nhân Đạo xem nó có gốc từ khái niệm “Ren Dao” của Hán ngữ hay có gốc từ khái niệm “Humanite” của Pháp ngữ. Nhân (Nhóm 0) sẵn bên trong: 1.Nhân là Lõi của hạt cây, là cái “Gốc Lên” = Gen để thành cây. Nhân, Lõi, Gen đều thuộc thanh điệu Nhóm 0 là chỉ cái bên Trong. Con người nguyên thủy sống bằng hái lượm biết Ăn cái lõi của hạt cây, loại hạt nhỏ và vỏ khô không cứng lắm thì người ta chỉ việc Cắn và Nhằn cái vỏ ra bỏ đi, ăn cái Lõi bên trong nên gọi cái Lõi đó là cái Nhân, Ăn=Cắn=Nhằn=Nhân, đó là khi nhằn cho hết vỏ bỏ đi thì phát hiện ra cái Nhân, rồi Nhai nuốt vào trong gọi là Nhận. Hán ngữ mượn chữ Nhân mà phát âm lơ lớ là “rấn”, mượn chữ Nhận mà phát âm lơ lớ là “rần”, trong khi chữ Ăn họ gọi là “Sư”, chữ Cắn họ gọi là “Yảo”. Cắn=Kin, như tiếng Thái Lan gọi “Kin” là ăn. Đến con khỉ còn biết đập vỡ hạt cây để ăn cái nhân lõi bên trong, nó suy nghĩ (bên Trong) là sẽ Đập Vỡ (tư duy tĩnh tại) và chuyển tư duy đó ra Ngoài thành (tư duy hành động) là Đấp Vở=Đánh Lở=Đánh Nở cái vỏ hạt ra để Moi /Móc cái nhân bên trong mà ăn. Đánh/Đập là một từ đôi đối, có suy nghĩ sẽ Đập (tư duy tĩnh tại) rồi mới chuyển thành (tư duy hành động) ra Đánh. Người ta nói “đi đánh giặc” chứ chẳng ai nói “đi đập giặc” cả. Đập=Đánh=Đả. Hán ngữ mượn từ Đả và phát âm lơ lớ là “tả”, và nói “suy nghĩ Đả”, “hành động Đả”, tư duy tĩnh tại cũng là “tả” và tư duy hành động cũng là “tả” đều được diễn đạt bằng một từ “tả” như nhau chứ không phân biệt Đánh/Đập = Dương/Âm như người Việt, chứng tỏ họ không có khái niệm Âm Dương ngay từ trong tư duy, tức khái niệm Âm Dương là của người Việt chứ không phải thuộc về văn minh Hoa Hạ. Cái Vỏ hạt chỉ là cái “Vỏ Che” = Vệ, để Vệ cho cái nhân mà thôi, không có tác dụng gì trong việc lên thành mầm, nó chỉ là cái Bao để che cho cái Óc của hạt cây tức cái Đầu tiên để lên mầm thành cây, “Bao Che” = Be, như từ “be bờ”, “Bao Óc” = Bọc, “Bao Đầu” = Bầu; cái tử cung để bao cái Đầu mầm của Con Người cũng gọi là cái “Bao Đầu” = Bầu. Cái “Đầu mầm” để hình thành con người chính là cái “giọt máu Đào”, nên “Bầu Đào”=Bào và có từ “bào thai” (Thai là cái Thịt đầu tiên để hình thành một con người, tức “Thịt Ai”=Thai, từ Ai nghĩa là Người, vua Hùng còn gọi vợ là “Ai ơi” tức “Người ơi”). Câu ca dao “Bầu ơi thương lấy Bí cùng” chẳng phải chỉ đơn thuần là mượn hình ảnh quả Bầu và quả Bí để nói về các sắc tộc, mà nó còn có thể hiểu nữa là thành câu “Mẹ ơi thương lấy Con cùng”, bởi cái Bầu đang che cho cái đang Bí ở trong, là cái “Bây-Bí” (“babe” tiếng Anh) ở bên trong nó, Bí=Bế, để sẽ ra đời cho mẹ Bế Bồng như con Bống Bồng Bông rất được Cưng/Chìu của mẹ. Thực tế dù con ấy có là con lai Tây đen hay Tây trắng thì mẹ Việt Nam vẫn thương yêu nó vô bờ bến cùng con thuần giống là như nhau. Tư duy không có khái niệm kỳ thị ấy ở người Việt thể hiện rất rõ trong xã hội Việt Nam ở chữ “thân thiện”, ví dụ như xã hội Sài Gòn thì từ xưa đến nay vẫn thế, người ta đâu có quan tâm gốc gác, giàu nghèo, “lý lịch thành phần” hay “hậu duệ”, mà chỉ quan tâm có mỗi một chữ Nhân là cái tính cách con người, “thằng đó, con đó chơi được” là xong. Vậy mà từ nguyên của từ Nhân ấy chỉ đơn thuần là cái Nhân tức Gạo của hạt lúa, là cái Gốc để ra Rễ. Cái Gạo ấy là của người Kinh, người trồng lúa đầu tiên: Gạo=Khao=Đạo=Đào=Cao=Keo=Dẻo=Dính=Dinh=Kinh=Cơm=Kome=Mễ. Người Thái Lan gọi Gạo là “Khao”, đồng thời gọi người Kinh là người “Keo”, người Nhật Bản gọi Gạo là “Kô-mê”, người Hán gọi Gạo là Mễ mà phát âm là “mỉ” hoặc Đạo Mễ mà phát âm là “tao mỉ”. Thời tiền sử thì cư dân của nền nông nghiệp trồng trọt lấy tên thực vật làm tên của Họ hay tộc người như Lê, Lý, Đào v.v., rồi lấy tên vùng đất hoặc đặc điểm vùng đất làm tên cho Họ. Cái Dẻo của Gạo là chất Keo/Kết làm Dính mọi sắc tộc gen Bách Việt vào sự lãnh đạo của một “Lớn Làng” = Lang của người Kinh, tôn xưng là Kinh Dương Vương, là thân sinh của các thời đại Hùng Vương, như chính sử ghi. Nơi Keo/Kết nhiều dân cư là nơi người Kinh có đông dòng họ, Họ=Hộ, “Đông HỘ” = Đô, nên nơi đó gọi là Kinh Đô, kinh đô có Dinh Cao = Dinh Cơ, nên cũng có họ Dinh, họ Doanh, họ Cao, họ Cơ v.v. Nhân là Con Người ( Con - thanh điệu Nhóm 0, là cái tư duy bẩm sinh, bản năng có sẵn ở Trong; Người - thanh điệu Nhóm 1, là tư duy chực ra Ngoài, để thành Người. Về hướng của tư duy thì từ Con Người có thể viết theo xẹt đôi đối là Con/Người hay Nhân/Người) . Nhân cũng là Người. Nhân cũng là cái tính thiện vốn có sẵn trong con người như cái nhân gạo của hạt lúa. Nhân của vật thể là cái Lõi Nhân của hạt. Ở hạt lúa thì “Đầu Gạo” = Đạo là cái để lên mầm thành cây. Hai từ cụ thể chỉ thực vật đã được người Việt trừu tượng hóa thành chỉ tư duy thể hiện cái “Thời đầu Tiên” = Thiện của con người là tính thiện, nên có câu “Nhân chi sơ, Tính bổn thiện”, hai từ ấy là từ Nhân Đạo. Nhân Đạo đều thanh điệu Nhóm 0, chỉ cái tư duy tĩnh tại luôn sẵn trong con người. Nếu bị tác động làm xấu đi thì Đạo thành ra không còn nguyên bản, thành ra Đảo, từ đôi đối Đạo/Đảo. Để bao che cho giá trị phi vật thể là cái Đạo khỏi bị Đảo, thì lướt “Bao cho khỏi Đảo” = Bảo, nó khác với từ Vệ (có từ nguyên là Vỏ) là cái “Vỏ Che” = Vệ để bao che cho cái vật thể. Vì vậy mà từ Bảo Vệ là một từ đôi đối, viết là Bảo/Vệ, như nói “bảo vệ văn hóa”, thì đã hiểu rõ là giữ gìn cái vật thể và cái phi vật thể của văn hóa. Vậy mà thông tin đại chúng vẫn hô khẩu hiệu “Chúng ta phải Bảo/Vệ văn hóa vật thể và cả văn hóa phi vật thể của dân tộc” thì rõ là câu viết quá thừa. Trước năm 1945 ở Việt Nam chưa có lấy một thạc sĩ hay tiến sĩ ngôn ngữ học. Vậy mà dùng từ rất chính xác, như “lính Bảo An”, nghĩa là “Bao cho khỏi lảo Đảo” cái an ninh là cái cần giữ yên bên trong; “lính Vệ Quốc”, nghĩa là làm cái Vỏ che chắn ngoài biên giới và ngoài biển xa cho đất nước; không gọi là Binh vì Binh chỉ là khi đang ở Trong, tức đang luyện Binh trên Mặt Trận ( là cái bản đồ giả định), từ đôi đối Binh/Lính đã chỉ rõ khi hành động Ngoài thì gọi là Lính tức ở trên Chiến Trường. Ngày nay thì cái nón Vệ Đầu tức cái Vỏ cứng che cho cái Gáo, khác với nón bình thường, lại gọi là cái “mũ bảo hiểm” (Hán ngữ gọi là “mũ an toàn”). Một từ đôi đối Giữ/Gìn đã nói lên quá rõ, như trong câu Kiều “gìn Vàng giữ Ngọc”, Gìn là bảo vệ cái giá trị Ngoài, còn Giữ là bảo vệ cái giá trị Trong, người ta ví người quí như Ngọc, chẳng ai ví người quí như Vàng. 2. Nhận là đã tiếp thu cất ở Trong (Tiếp là tác động từ Ngoài còn Thu là đã ở Trong, cũng dùng từ đôi đối Tiếp/ Nhận). 3.Nhẩn là tư duy hướng Ngoài nhưng là loại tư duy không sắc sảo, không có đích để nhắm. Nhẩn=Lẩn=Thẩn=Bẩn, tức bị nhiễu loạn. Cũng giống như phát Bắn là có đích rõ ràng, nhưng phát Bẳn là nhắm vu vơ. “Nhẩn vu Vơ” = Nhơ, nên có từ đôi Nhẩn Nhơ. Nhẩn Nhơ ở bên Ngoài thì nó trôi đi theo thời gian, có yếu tố Thời nữa thì đó là từ Nhần. 4.Nhần là sự Nhẩn Nhơ Nhẩn Nha theo thời gian, Nhẩn Nha đã biến thành Dần Dà, qua láy mà thành Dần Dà Dần Dần. Nhật ngữ mượn từ Dần Dần này mà phát âm là “đan đan” , Hán ngữ không mượn từ này. Nhưng Dần Dà cũng láy thành Dần Dà Dần Dừ là sự trôi đi theo thời gian để rồi chậm dần mà đến thời điểm “Dần Đứng” = Dừng, quá trình này giống như cái đầu tàu Dừ của con tàu Dần Dà Dần Dừ ấy đang giảm tốc độ cho đến dừng hẳn, đó là Dừ = Từ Từ = Chừ = Giừ = Dừng = Giờ, mà Giờ là một thời điểm cố định, như “bây giờ” (“bây giờ” là nói cái thời khắc, một thời điểm, không giống như một Giờ là 60 phút khi chia ngày đêm ra 24 giờ, Giờ trong 24 giờ ấy là những khoảng “Giữa Chờ” = Giờ). Hán ngữ mượn từ Từ Từ mà phát âm là “xúy xúy”. Khi đã dừng lại ở Giờ tức thời điểm cố định, thì đó là một sự Chờ lâu, thì phải tại một vị trí cố định, đó là Chờ = Ở, cố định đương nhiên là Yên và Ổn, Ở = Yên = Ổn = An. Hán ngữ mượn từ An và phát âm là “an”, Miến Điện mượn từ Yên Ổn mà phát âm là “yan lôn”, địa danh Yan Lon là thành phố ở giữa nước Miến Điện, nghĩa của nó là yên ổn, nên nay được chọn làm thủ đô. Yên Ổn như một sự tĩnh tại lâu bền vốn có sẵn, tức Ổn = Bổn = Bản = Bền = Bàn = Bằng = Đẳng = Đứng = Dừng = Vững= Cứng = Cương, từ đôi Vững Bền là nhấn mạnh ý Ổn, khi lập chữ nho người ta đọc lướt “Vững Bền” = Vển mang nghĩa là Ổn. Hán ngữ mượn chữ Vển này và phát âm lơ lớ là “vuẩn” nghĩa là Ổn, mượn chữ Bổn mà phát âm lơ lớ là “pẩn”, mượn chữ Bản mà phát âm lơ lớ là “pản”, mượn chữ Bàn mà phát âm lơ lớ là “pán”, mượn chữ Đẳng mà phát âm lơ lớ là “tẩng”, mượn từ Cương mà phát âm lơ lớ là “cang”. Bền là ổn định lâu dài, Bền = Biền = Kiên, Biền Biệt là lâu dài cho đến khi lặn. Hán ngữ mượn từ Kiên mà phát âm lơ lớ là “chen”. Kiên là giữ nguyên lâu dài, tức “Cứng Biền” = Kiên 5.Nhấn (Nhóm 1) là tư duy chực ra Ngoài thành tác động ngoài, nó nhấn mạnh ý như là dấu ấn để in sâu, Nhấn = Ấn = In, từ đó mà có từ dùng cho nghề In của người Việt gọi là nghề In Ấn. Nhấn = Ấn = Dấn = Dấu = Dán = Dính = Đính = Định = Đọng = Đóng, từ đó mà có thêm từ Dán Dính cho nghề thủ công bồi bìa và từ Đóng Dấu Ấn cho nghề của các thư lại ở văn phòng. Vậy mà tất cả những từ trên đều có “từ nguyên” là cái Nhân gạo của hạt lúa. 6.Nhẫn là chịu đựng ở bên Trong, khi đã ra Ngoài thì tư duy ấy thành Nhẩn, như từ Nhẩn Nhơ, tức không chịu yên nữa, từ đôi đối Nhẫn/Nhẩn. Cái Cà Rá là cái vòng ngọc nhỏ đeo ngón tay có từ xưa là đồ trang sức của người Việt, như ở di chỉ Sa Huỳnh, Óc Eo, đó là thứ trang sức đeo chơi. Còn cái vòng trang sức đeo ngón tay của đôi vợ chồng trao nhau khi đính hôn lại gọi là cái Nhẫn. Gọi là cà rá thì thanh điệu nó đúng là nhóm 1 của cái vật thể bên ngoài, vậy mà người Việt lại gọi nhẫn cưới là cái Nhẫn (từ tuy duy là thanh điệu Nhóm 0 là Trong) để chỉ một vật thể Ngoài, điều đó để có ý nhắc nhở đôi vợ chồng phải tư duy Trong Tâm, hay Tâm Long, hay Cam Tâm,hay Đanh Long rằng đã thương yêu nhau thì phải chịu đựng gìn giữ tình yêu, có trách nhiệm nghĩa vụ với nhau đến hết đời, như Cưới = Kết = Hết. Bởi vậy ở trên mảnh đất Việt Nam có rất nhiểu hòn đá ngắm ra biển được dân gian gọi là Hòn Vọng Phu, như một di tích văn hóa vật thể. Mà cái di tích văn hóa phi vật thể tuyệt đẹp tương ứng chỉ cô đọng trong 6 câu vọng cổ tuyệt vời của nhạc sĩ Cao Văn Lầu ở đất Cà Mau.
  8. Tấm Cám Do căn cứ vào NÔI khái niệm nên tôi chia 6 thanh điệu của tiếng Việt theo cái “ý” của khái niệm, thành hai loại là: Loại định hướng cho khái niệm Trong, gồm các thanh điệu “không”, “ngã”, “nặng” (đặt tên là “Nhóm 0” hay “Nhóm thanh điệu Âm” ); và Loại định hướng cho khái niệm Ngoài, gồm các thanh điệu “sắc”, “hỏi”, “huyền”( đặt tên là “Nhóm 1” hay “Nhóm thanh điệu Dương”). Viết lại : Nhóm 0 (“không” – “ngã” – “nặng”) = Âm : hướng Trong Nhóm 1 (“sắc” – “Hỏi” – “Huyền”) = Dương: hướng Ngoài Tóm lại từ nào có thanh điệu thuộc “Nhóm 0” thì nó đã được định hướng ý nghĩa thuộc khái niệm hướng Trong , hoặc chủ quan; từ nào có thanh điệu thuộc “Nhóm 1” thì nó đã được định hướng ý nghĩa thuộc khái niệm hướng Ngoài , hoặc tác động khách quan. Tư duy, suy nghĩ (Nhóm 0) của con người khi ở trạng thái hướng Trong nó đang đi vào Tĩnh tâm (Nhóm 0), còn khi Tỉnh giấc (Nhóm 1) là ở trạng thái hướng Ngoài. Suy nghĩ ấy nếu chỉ giữ cho riêng mình, nó hoàn toàn đang ở bên Trong, gọi là Tâm Long (Nhóm 0, hướng Trong), nhưng nếu cũng suy nghĩ ấy là để cho người khác bên ngoài tức suy nghĩ để hướng Ngoài, người ta gọi nó là Tấm Lòng (Nhóm 1, hướng Ngoài), chỉ cần nói “tấm lòng của mẹ” là đã hiểu đó là suy nghĩ tốt lành của mẹ chỉ để cho người khác (bên Ngoài), như một tác động khách quan nếu ở vị trí người ngoài mà xét, mà không cần phần phải “Thuyết” sau cái “Đề” là “tấm lòng của mẹ”. Nếu tôi nói “Tâm Long của mẹ” thì có nghĩa là “đó là suy nghĩ của mẹ, mẹ cứ thế mà cất đi cho riêng mẹ, không phải đem ra”. Nhưng nếu tôi nói “Tấm Lòng của mẹ” thì có nghĩa là ”cái đó là cái suy nghĩ của mẹ đem ra cho con và mọi người”. ( “Buồn riêng mẹ để trong Tâm. Cho con là cả Tấm Lòng mẹ đây”. Buồn là do tác động Ngoài, ai đó hay nguyên nhân gì đó, gây nên; còn nếu là tự có hay tự mình gây nên thì gọi là Buộn=Muộn, như trong từ đôi đối Sầu/Muộn tương đương Rầu/Rượi). Tiếng Việt quả không đơn giản chút nào để có thể dịch hoàn hảo sang các ngôn ngữ khác. Có thể bạn thấy lạ về từ Tâm Long (Nhóm 0) này, vì thường chỉ nghe tắt là Tâm không thôi. Tôi đã thấy có văn bản cổ chỉ dùng một chữ Long 龍 để diễn tả Tâm Long, đó là bài “Quan Thánh Đế giáng bút chân kinh 關 聖 帝 降 筆 真 經” ở chùa Ông thờ Quan Vân Trường tại tỉnh Bình Dương, trong đó có câu “Long hận gian phu, dâm phụ 龍 恨 奸 夫 淫 婦” mà chữ Long 龍 không thể dịch là Rồng được, vì như vậy vô lý, đây là chữ Long 龍 trong từ Tâm Long (viết bằng mượn chữ Long 龍là rồng để ký âm Long, gọi là cách “giả tá”), Tâm Long hận (thuộc Nhóm 0, là cái suy nghĩ hướng Trong). Như vậy từ đối Long/Lòng hay Tâm/Tấm cũng như từ đối Cam/Cám là cực kỳ chính xác trong ý nghĩa mà chúng chuyển tải. Cam/Cám là một quá trình tư duy. Cam (Nhóm 0, hướng Trong) như từ đôi Cam Chịu; Chịu là cái Chịu đựng ở bên Trong, “từ nguyên” của nó là từ Ổ tức cái Lõi của NÔI, NÔI là NƠI nằm của Việt từ khi ra đời, thể hiện rõ nhất cái tính bản địa (Hán ngữ không gọi cái nôi ru con là NÔI mà gọi là cái làn lắc, phát âm là “yáo lán” ), theo qui tắc Tơi-Rỡi thì: Ở = Ổ = Chỗ = Chịu = Tựu 就 = Cựu 舊 = Cũ = Cổ 古. Hán ngữ mượn ba từ Chịu, Tựu, Cựu và chỉ phát bằng một âm lơ lớ là “Chiu”, như trong từ “Tựu Hiệu” là ở trường và “Tựu Nghiệp” là ở chỗ làm việc; và còn mượn từ Cổ, phát âm lơ lớ là “Củ”. Cám (Nhóm 1, hướng Ngoài) như trong từ đôi Cám Cảnh . Cam Chịu là Cam Cựu, là cái suy nghĩ chịu đựng ở bên Trong, khi muốn đem cái suy nghĩ ấy để tác động hướng Ngoài thì nó là từ Cám Cảnh, quá trình tư duy tương ứng Trong/Ngoài là Cam/ Cám hay Cam Cựu // Cám Cảnh, và người ta chỉ dùng từ Cam Chịu để nói chính mình tức hướng Trong, còn dùng từ Cám Cảnh để nói hướng Ngoài tức suy nghĩ của mình đối với người khác. Ví dụ câu: “Con còn trẻ, con Cam Chịu điều kiện sống tạm thời của con, nhưng con thật Cám Cảnh với điều kiện sống hiện tại của cụ (cũng chỉ bằng hoặc thậm chí kém điều kiện sống tạm thời của con)” nhưng cái đoạn sau trong ngoặc đơn này người ta không nói ra vì lịch sự, nhờ dùng từ Cám Cảnh mới có được “ý tại ngôn ngoại” như vậy. Hoặc ví dụ câu: “Tôi Cám Cảnh với suy nghĩ mà anh vừa nói ra về vấn đề ấy (nó khác với suy nghĩ của tôi về vấn đề ấy như ở cái tư duy về vấn đề ấy mà tôi đang Cam Cựu trong óc chứ chưa nói ra)” nhưng cái đoạn sau trong ngoặc đơn này người ta không nói ra vì tôn trọng và chưa muốn bình luận cái ý tưởng của người đối thoại đã nói ra. [ Từ điển Tiếng Việt (NXB KHXH 1977, in lần thứ hai, do Văn Tân, Nguyễn Văn Đạm chỉnh lý và bổ sung, trang 116) giải thích từ Cám Cảnh là : “Chán ngán chua xót vì cảnh ngộ”. Sai , “đề tài nhà nước cấp” của họ đã nhầm tiếng Cảnh trong từ Cám Cảnh với chữ “cảnh” trong từ “hoàn cảnh” và Cám Cảnh đâu phải là “chán ngán chua xót”, chán ngán chua xót chỉ đúng rất nhỏ trong một ngữ cảnh cụ thể mà thôi. Nhìn kỹ cặp đôi đối Cam Cựu // Cám Cảnh sẽ thấy Cam Cựu hay Cam Chịu là suy nghĩ hướng Trong, chỉ giữ cho riêng mình; còn Cám Cảnh là cũng suy nghĩ ấy nhưng hướng Ngoài chực đưa để hành động. Cũng thấy thêm: Ý Tưởng là tư duy khi nó đã muốn bật ra Ngoài, chứ khi mới nảy sinh đang còn nằm im thì nó là Y Tượng đấy, là hướng Trong, cũng như là từ đôi đối Y Độ // Ý Đồ như là suy nghĩ của thế giới Âm so với thế giới Dương, cũng giống như Tri/Trí, hay Biệt/Biết, Định/Đính, hay Mưu Mẹo // Muốn Mót, “mẹo” là đang ủ kỹ trong đầu nhưng thành “mót” là đã chực bật ra , tiến ra Ngoài thêm chút nữa thì nó thành từ đôi đối Muốn/Mần để cho ra thành hành động ]. Khi người Việt nói “Cám ơn” là chỉ đối với những hành vi thông thường như nhường lối khi vào cửa hay nhắc bỏ rác đúng chỗ qui định, từ “Cám ơn” như đã phân tích Cam/Cám chỉ có nghĩa là “tôi có nghĩ đến hành vi làm ơn ấy của anh”. Còn đối với những hành vi tình nghĩa như giúp cho phương tiện để khỏi đói nghèo thì người Việt nói “Cảm ơn”, có nghĩa là “tôi thực sự Cảm động nhận Ơn ấy của anh”. Từ đôi đối Cam Tâm // Cám Tấm đã thể hiện rõ tất cả. Cam Tâm hay Cam hay Tâm là suy nghĩ bên Trong, không nói ra; Cám Tấm hay Cám hay Tấm là cũng suy nghĩ ấy nhưng chực bật ra để thành hành động. Giống như Tâm Long (hướng Trong), cũng suy nghĩ đó nhưng Tấm Lòng là để hướng Ngoài, từ đôi đối Tâm Long // Tấm Lòng. [ Từ điển Tiếng Việt (NXB KHXH 1977 in lần thứ hai do Văn Tân, Nguyễn Văn Đạm chỉnh lý và bổ sung, trang 116) giải thích từ Cam Tâm là: “Đành lòng làm một việc có hại mà không hối tiếc: Cam tâm làm tay sai cho giặc”. Sai, Cam Tâm đâu phải chỉ mang ý xấu là “có hại”. Cam Tâm là suy nghĩ hướng Trong, chỉ giữ cho riêng mình. Như câu: “Tôi Cam Tâm giữ mãi kỷ niệm tốt đẹp của mối tình đầu mà người yêu cũ để lại cho tôi” là hoàn toàn đồng nghĩa câu: “Tôi Đanh Long giữ mãi kỷ niệm tốt đẹp của mối tình đầu mà người yêu cũ để lại cho tôi”. Cam Tâm hay Đanh Long là bởi do tự mình nghĩ, chủ quan và không cho ra ngoài. Nếu vì một nguyên nhân khách quan Bắt/Buộc (Bắt=Ngoài / tác động vào/ Trong=Buộc) tôi phải nhớ, thì là câu: “Nhìn tấm hình xưa chụp cùng người yêu cũ, tôi Đành Lòng nhớ lại kỷ niệm tốt đẹp của mối tình đầu đã không thành duyên”, từ đôi đối Đanh/Đành, Đanh hướng Trong, nó là suy nghĩ sẵn, giữ im ắng “như chùa bà Đanh” và xơ cứng không đổi như trong từ Đanh thép ] Trong từ đôi đối Cam Tâm // Cám Tấm thì cái suy nghĩ hướng Ngoài là Cám, Tấm đồng âm với cái hạt Cám và cái hạt Tấm, đó là điều đương nhiên, vì tư duy của người Việt chủ nhân của nền văn minh lúa nước đầu tiên của nhân loại nó là như vậy, ngôn từ do vật cụ thể trừu tượng hóa lên thành khái niệm tư duy, nhưng logic của nó là đúng. Dùng cho tư duy thì Cám là “suy nghĩ hướng Ngoại”, từ nguyên của nó là “cám”, là cái hạt cám, là vỏ Ngoài của hạt Gạo (đồng nghĩa với Cám tư duy nhưng mà hướng Trong thì là Cam). Tấm là “suy nghĩ hướng Ngoài”, từ nguyên của nó là “tấm”, là hạt vỡ phải sảy ra Ngoài khi sàng Gạo ( đồng nghĩa với Tấm tư duy nhưng mà hướng Trong thì là Tâm). Gạo là cái Lõi của hạt cây, đầu gạo là cái mọc ra Rễ trước để hạt cây lên mầm, cái “Đầu Gạo” = Đạo, cái “Đầu Gạo” = Đào , đó là cái “Gốc Lên” = Gen (“Một giọt máu Đào hơn ao nước lã” nói lên cái Gen của dòng giống Viêt là cực kỳ quí báu). Từ chỉ vật cụ thể là cái Rễ cây lúa, người Việt đã trừu tượng hóa lên thành cái đầu tiên của tư duy là Lễ, Rễ=Lễ, cây có Rễ khỏe mới lên thành cây lành mạnh, người có biết Lễ mới thành người lành mạnh có nhân cách.( Hán ngữ gọi Rễ là “cân”, gọi lơ lớ Lễ là “lỉ” ). Cám và Tấm dù xấu dù tốt cũng bỏ đi hết, người Việt chỉ giữ lại cái Gạo để còn mãi “Đầu Gạo” = Đạo và “Đầu Gạo” = Đào. Lời gọi trong truyện Tấm Cám: “Bống Bống Bang Bang, ăn cơm bạc cơm vàng nhà ta” (Hồng Hồng Bàng Bàng giữ Cơm bạc cơm Vàng nhà ta. “Văn Lang”=Vàng). Những bọn xuyên tạc truyện Tấm Cám ở Bộ GDĐT ngày nay không hiểu được cái hồn Việt nên không thể phủ nhận được lịch sử Văn Lang 5000 năm văn hiến. Bống là tên con cá nhỏ xíu, tại sao không gọi “bống bé, bống bé” cho nó giống âm “bây-bi, bây-bi” ? Bởi lẽ, đừng có mà đi tìm đâu nguồn gốc truyện Tấm Cám trong “Lĩnh Nam chích quái” từ bên Ấn Độ hay từ Phương Tây, nó chính cống là sản phẩm của Lĩnh Nam của người Viêt thời đại Hùng Vương. Truyện cổ tích xưa truyền lại lời lẽ như thế nào hãy để nguyên như thế, đừng có đem làm thành “đề tài nhà nước cấp” mà viết lại là phá hỏng di sản văn hóa phi vật thể. Người Việt chỉ cần giữ lại cái Đạo, đó là Đạo Việt. Gạo = Khao = Cao = Keo = Kinh = Cơm = Kome = Mễ. Người Thái Lan gọi gạo là Khao; người Thái-Tày gọi người Kinh là Keo; kinh đô cổ đại của người Kinh là Cảo Kinh; người Nhật Bản gọi gạo là Kô-mê; người Hán gọi gạo là Mễ. Văn minh lúa nước của người Việt đã làm nền tảng cho nền văn minh Trung Hoa. Cái minh triết của chuyện cổ tích “Tấm Cám” thể hiện cả ở đặt tên truyện (Tại sao không đặt tên là cô Mè với cô Đậu hoặc cô Cà Pháo với cô Mắm Tôm, cũng đều là gần gũi cả, cà pháo chấm mắm tôm tức là “cà pháo ăn đứt mắm tôm” rồi còn gì). Đó là bởi vì Tấm (Nhóm 1), Cám (Nhóm 1) đều là đặt tên như vậy ý muốn nói về tư duy của hai con người sẽ hướng ra ngoài như thế nào (gọi là đối xử hay xử thế), chỉ có điều một người như Tấm thì luôn muốn hướng cái Thiện (Nhóm 0) ra ngoài (gọi là tinh thần vị tha), một người như Cám thì luôn muốn hướng cái Ác (Nhóm 1) ra ngoài. Thiện (Nhóm 0 = Âm ) là cái Trong, luôn có sẵn, người xưa nói “Nhân chi sơ tính bổn Thiện”; Ác (Nhóm 1 = Dương) là cái Ngoài vào, do nhiễm từ Ngoài khi con người lớn lên trong môi trường xã hội, Cám đã tập nhiễm cái Ác từ mẹ nó từ khi nó còn nhỏ.( Người Hán mượn chữ “Thiện” “Ác” của người Việt, nhưng phát âm lơ lớ là “Sàn” “Ừa”, thanh điệu đều thuộc Nhóm 1, tức Ngoài vào, chứng tỏ họ đã du nhập văn hóa từ Ngoài vào, từ các dân tộc khác, và câu đầu tiên trong “Tam tự kinh” là “Nhân chi sơ, Tính bổn thiện” thể hiện là của người Việt, cũng như thơ Đường chỉ có đọc bằng giọng của người Việt Nam mới diễn tả được đúng sắc thái nội dung và đúng âm luật của nó – Thơ Đường đạt đến tính hàn lâm bác học của nó là ở các thi đàn, tao đàn phát triển phổ biến thời Đường, nhưng chủ nhân các thi đàn ấy lại là quần chúng “tiên hiền Bách Việt” - ).
  9. Xét về thanh điệu của tiếng Việt, tôi chia ra hai Nhóm: -Nhóm 0 = Âm, gồm các “thanh”: “Không” – “Ngã” – “Nặng”, định hướng ý cho Trong. -Nhóm 1 = Dương, gồm “thanh”: “Sắc – “Hỏi” – “Huyền”, định hướng ý cho Ngoài. Nếu dàn trải ngôn từ Việt ra, sẽ thấy Nhan Nhản các từ vừa Đôi về ý nghĩa vừa Đối về thanh điệu (mà các nhà ngôn ngữ học VN giải thích là “những từ hai âm tiết ấy không phải là từ láy, cũng chưa xác định là từ kiểu gì, chúng thường là có một âm tiết đã rõ nghĩa còn âm tiết kia chưa rõ nghĩa, gọi là âm tiết chờ” – sách Nguyễn Thiện Giáp, Hoàng Văn Hành). Những từ mà tôi gọi là “vừa đôi vừa đối” ấy thể hiện rõ ràng là cái suy nghĩ ở Trong và sắp sửa hướng Ngoài để hành, đúng theo “qui luật thanh điệu có định hướng cho ý của từ” mà tôi nêu ở trên, ở đây tôi chỉ ký hiệu bằng một gạch xẹt giữa hai tiết cho dễ thấy, ví dụ: Bụt/Bút, Việt/Viết, Biệt/Biết, Sẵn/Sàng, Mong/Mỏi, Cho/Chẩn, Chia/Chác, Bạn/Bè, Phe/Phái, Nỗi/Nói, Làm/Lụng, Chiều/Chuộng, Hận/Hờn, Thương/Thí, Bực/Bức, Nóng/Nực, Đau/Đáu, Nông/Nổi, Căm/Cáu, Ngặt/Nghèo, Ôm/Ấp, Ít/Ỏi, Nhiều/Nhặn, Lăm/Lắm, Một/Mất, Được/Đắc, Thiệt/Thất, Gọn/Gàng, Bạch/Bẩm, Gom/Gồm, Vơ/Vét, Chuộc/Chuốc , Lời/Lãi, Lỗ/Lố, Lặng/Lắng, Im/Ắng, Nghe/Ngóng, Rình/Rập, Non/Nớt, Bại/Bấy, Bi/Bét, Thối/Tha, Thum/Thủm, Phưng/Phức, Bèo/Bọt , Trong/Trẻo, Véo/Von, Mùi/Mẫn, Lo/Lắng, Nặng/Nề, Bê/Bối, Rỗi/Rảnh, Thảnh/Thơi, Nhàn/Nhã, Hên/Hời, Hẻo/Huông, Xui/Xẻo, May/Mắn, Đầy/Đặn, Nhọc/Nhằn, Leo/Lẻo, Xoay/Xở, Dặn/Dò, Rủ/Rê, Nặn/Nắn, Trau/Truốt, Moi/Móc, Châm/Chọc, Sọ/Sỏ v.v. Thậm chí nếu tư duy đang ở Bên thì nó cũng sắp sửa có phần hướng ngoài là Bển thành từ Bên/Bển, thậm chí tư duy đang ở Ngoại hơn cái vị trí trong thì nó vẫn có cái Ngoài hơn nó để nó thành là trong như từ Ngoại/Ngoải, thậm chí tư duy là đang ở vị trí Trong thì vẫn còn cái trong hơn nó để cái ấy thành ra là ngoài của cái Trong về phía sâu hơn như từ Trong/Trỏng, người ta chỉ cần nói “Trỏng” mà không cần phải nói hai âm tiết là “Trong Ấy”. “Không có âm tiết nào trong tiếng Việt mà không có nghĩa cả, nó phải mang một ý gì đó” (nhận định của Giáo sư ngôn ngữ học Cao Xuân Hạo), “ngôn ngữ Bách Việt là đơn âm thành nghĩa” (nhận định của các học giả Trung Quốc).[bởi vậy mà càng thấy tính đúng trong câu nói của người xưa “dụng nhân như dụng mộc”, từ đơn âm tiết nào của tiếng Việt cũng có giá trị, như con người thì người nào cũng có giá trị, không thể bịt miệng người ta “Nói” được, mà phải Phản Biện (Phản có thanh điệu thuộc Nhóm 1, là tác động Ngoài, còn Biện có thanh điệu thuộc Nhóm 0, là cho thấm vào Trong tâm người ta)], mà “nhiều khi Hán ngữ phải phiên âm một âm tiết của tiếng Việt bằng hai con chữ” (nhận định của Đỗ Thành, blog Nhạn Nam Phi, khi ông giải mã bài “Quân huấn lệnh” của Việt Vương Câu Tiễn). Những từ kiểu vừa ĐÔI về ý nghĩa vừa ĐỐI về thanh điệu là để diễn tả cái suy nghĩ vốn có ở Trong và đang sửa soạn hướng Ngoài để thi hành. Chúng đều là kết quả của sự Nở ở trong cái NÔI khái niệm từ một cái “tế” ban đầu như là một cái “Trứng” để thành hai “Tiếng”, mỗi tiếng hay gọi là tiết đó là một “từ”, như sự sinh sản tự tách đôi của tế bào, qui tắc này tôi đã nêu gọi là “qui tắc Nở”. Ví dụ: Sẵn/Sàng là do cái tế Sọ tức là trong óc, Gom/Gồm là do cái tế Gọn, Nhen/Nhóm là do cái tế Nhỏ, Vơ/Vét là do cái tế Vun, Vồ/Vập là do cái tế Vui, Buồn/Bã là do cái tế Bực, Mời/Mọc là do cái tế Muốn, Biệt/Biết là do cái tế Bụt. Từ Bụt (mà ngày nay khoa học gọi là “tiềm năng con người” ) này đã có trong tiếng Việt hàng mấy ngàn năm trước khi ra đời Thích Ca Mầu Ni. Khi ấy tín ngưỡng của người Việt là đạo Sa Môn (thờ Mẫu) và khi ấy người Việt còn gọi thân sinh là Bọ Mẹ, coi Bọ Mẹ như là Bụt Mọc.[ Nếu truy ngược về thời nguyên thủy của tư duy phồn thực, sẽ thấy bóng dáng của cái từ trang nghiêm là “Bụt Mọc” này chỉ là kết quả của hành động cụ thể của cặp từ đối Đút/Mở của cặp đôi sinh thực khí diễn đạt bằng cặp từ đối Nõn/Nường ]. Khi Budism truyền từ Ấn Độ vào, âm tiết Bụt=Phụt=Phật mà dẫn đến gọi là “Phật”, nhưng tín ngưỡng nguyên thủy không mất đi, khi hội nhập nhiều nguồn tư tưởng lại với nhau thì đương nhiên mỗi bản thể sẽ có chút Sa/Sút. Bản thân từ Đạo Phật mà người Việt dùng đã nói lên ý Đạo giáo và Phật giáo đứng chung với nhau trên đất Việt. Sau có Nho giáo nữa thì là “Tam Giáo đồng môn”.
  10. Xét về thanh điệu của tiếng Việt, tôi chia ra hai Nhóm: -Nhóm 0 = Âm, gồm các “thanh”: “Không” – “Ngã” – “Nặng”, định hướng ý cho Trong. -Nhóm 1 = Dương, gồm “thanh”: “Sắc – “Hỏi” – “Huyền”, định hướng ý cho Ngoài. Cái Vuông là hình tượng cái bánh Chưng, chuyện cổ tích “Bánh Dầy bánh Chưng” kể rằng bánh chưng vuông nó biểu trưng cho trái đất, trái đất thuộc về quẻ Khôn trong Bát Quái của người Việt, Khôn=Khuôn=Khuông=Vuông=Văn=Vựa=Giữa=Giao. (Chữ Giao trong từ Giao Chỉ). Tất cả các chữ từ Khôn đến Giao ở trên đều mang thanh điệu thuộc Nhóm 0 = Âm, cái NÔI khái niệm ấy đủ nói lên bản chất của người Việt của nước Văn Lang hay đất Giao Chỉ xưa là tính Âm và là Khôn. Là Khôn thì phải đứng Giữa tức là TRUNG LẬP chứ chưa từng bao giờ cực đoan theo một chủ nghĩa Ngoài vào nào cả. Chính tư duy tự chủ đó đã làm cho dân tộc Việt Nam quật cường giữ mãi được độc lập dân tộc và bản sắc văn hóa dân tộc từ 5000 năm trước cho đến ngày nay. Đất Giao Chỉ là nước Văn Lang ( “bắc giáp Động Đình Hồ, tây giáp Ba Thục, đông giáp Đông Hải, nam giáp Hồ Tôn”, như chính sử ghi ). Văn Lang = Việt Lang, cái âm tiết Việt ấy “từ nguyên” của nó là từ cái Vuông (cũng tức là Khôn), là từ cái công cụ lao động đầu tiên của con người là cái “xẻng đá” hình Vuông, là cái lưỡi rìu bằng đá từ thời đồ đá mới, cái “xẻng đá” hình Vuông ấy con người mài Dẹt đi thành sắc cạnh, là cái công cụ lao động đầu tiên, lướt “Vuông Dẹt”=Vẹt. Cái công cụ lao động đều tiên bằng đá gọi là cái Vẹt ấy (theo nhận định của Hà Văn Thùy), đã chỉ rõ rằng âm tiết “Vẹt” chính là từ nguyên của “Việt”. Bởi vì khi đã làm ra được công cụ lao động, con người đã trở thành con người Khôn, tức đã Biết. Cái Biết này là cái tư duy hướng Ngoài, còn khi nó đang là tư duy ở Trong, tức đang suy nghĩ (Nhóm 0) để sẽ ứng dụng thì nó là đang Biệt (Nhóm 0) tức đang so sánh phân biệt nhờ vào cái năng lực tinh thần ẩn sâu nhất trong tâm con người là cái Bụt (Nhóm 0 = Âm), từ đối Biệt/Biết là nói tư duy ở Trong và đang sửa soạn phát tiết ra Ngoài. Cũng như cái “công cụ tinh thần” khi đang còn ẩn sâu nhất Trong Tâm con người là cái Bụt (Nhóm 0 = Âm) [cái “Bụt” ấy của thời Văn Lang, ngày nay khoa học gọi là “tiềm năng con người”] , nhưng khi ra Ngoài thì nó là cái “công cụ cụ thể” để sáng tạo là cái Bút (Nhóm 1 = Dương), từ đối Bụt/Bút là diễn tả cả một quá trình từ Sẵn cho đến Sàng của mỗi con người đem Tuệ Huệ (Nhóm 0) ra để Cống Hiến (Nhóm 1). Nếu có cái Sẵn mà chẳng đem ra Sàng, tức có cái Tuệ Huệ mà chẳng đem ra Cống Hiến, tức là không chịu Bụt/Bút thì cũng chẳng có ích gì cho xã hội, bởi vậy phải “Nói”, phải “Hành”, tiếng Việt có từ đối Học/Hành, nó chính xác hơn là Hán ngữ chỉ dùng từ Học Tập, bởi Học là cái đang ở Trong còn Hành là cái đã ra Ngoài. [Khẩu hiệu của Hướng Đạo Sinh Việt Nam thủa xưa là “Sẵn/Sàng phụng sự Tổ Quốc”]. Công cụ Vẹt ấy của con người thể hiện cái Khôn, tức Biệt/Biết, nên mới lướt “Vẹt Biệt” = Việt là cái tư duy bên Trong, để làm nên sáng chế hướng Ngoài là “Việt Biết”= Viết, (Không thể nói rằng người Việt không có chữ tượng hình trên mu rùa, rồi đến có chữ Khoa Đẩu ký âm, trước khi hội tụ lại thành chữ Nho Việt được, để rồi chữ Nho Việt thành nền tảng của Hán tự về sau, có cấu trúc chặt chẽ cách lục thư hoàn hảo và rất nghệ thuật). Nhờ cái công cụ Vẹt là cái “xẻng đá” đầu tiên ấy mà con người lướt qua được mọi trở ngại để lao động và tiến hóa, nên “Vẹt Lướt”= Vượt. Chính nhờ lao động Khôn trải hàng vạn năm, người Việt đã làm nên một nền văn hóa lúa nước và trống đồng, tỏ rõ tính ưu việt. Đừng mất công tìm ở đâu cái từ nguyên của từ “Ưu Việt”, nó chính là “Âu Việt” đấy, khi Tây Âu hội nhập vào với Lạc Việt. Di tích khảo cổ tìm ra “xẻng đá” của thời đồ đá mới có Nhan Nhản từ Việt Nam, Vân Nam, Thái Lan, Miến Điện, Lưỡng Quảng, Hồ Nam, Triết Giang đã góp thêm minh chứng cho Vuông=Vùng văn hóa chung của nền văn minh Văn Lang cổ đại 5000 năm văn hiến. Chỉ nội một cái từ Nhan Nhản của tiếng Việt đã nói lên tất cả cội rễ của nền văn minh sinh ra cái từ đó. Từ Nhan Nhản, sách Từ điển tiếng Việt (NXB KHXH 1977, tr.565) giải thích Nhan Nhản là “nhiều lắm, chỗ nào cũng có”, đúng nhưng chưa đủ ý và không nêu được nguồn gốc của từ Nhan Nhản là của Việt - nền văn minh chủ nhân của thuyết Âm Dương Ngũ Hành. “Chỗ nào cũng có”, đúng, vì câu đó là nói thay cho từ “tràn lan”, văn minh lúa nước của người Việt hàng vạn năm trước đã “tràn lan” từ di chỉ Hòa Bình đến di chỉ Hà Mẫu Độ ở Triết Giang (ở di chỉ Hà Mẫu Độ cũng có “xẻng đá”, có hạt lúa, có nhà sàn) chủ yếu bằng con đường sông biển. Tràn=Trùm, “trùm” là bao gồm cả vùng rộng lớn, Tràn=Trùm=Tùm, “tùm” là nhiều về chủng loại. Lan=Lùm, “lùm” là nhiều về lượng, Lan=Lùm=Lum. Tràn Lan = Tùm Lum, “tràn lan” là nhiều chỗ, “tùm lum” là nhiều thứ có chủng loại và lượng khác nhau. Vậy mà không nói là “tùm lùm” mà lại đổi thành “tùm” (thanh điệu Nhóm 1 = Dương) và “lum” (thanh điệu Nhóm 0= Âm) ghép thành “ tùm lum” để nói thêm ý rằng trong đó có cả sản phẩm Âm ( xưa, hoặc nội địa) và cả sản phẩm Dương (mới, hoặc ngoài vào). Tràn Lan = Tùm Lum, cùng mẫu số chung là “nhiều”, một bên là nhiều chỗ, một bên là nhiều thứ. Nhiều Tràn Lan đã lướt “Nhiều tràn Lan” = Nhan. Từ đôi sẽ là Nhan Nhan có tác dụng nhấn mạnh ý là càng nhiều, nhưng chưa có định hướng bằng thanh điệu để có “nhiều” cả Âm cả Dương tức có cả Xưa Cũ (Nhóm 0 và Nhóm 0 tức hoàn toàn cũ) và cả Mới Mẻ (Nhóm 1 và Nhóm 1 tức hoàn toàn mới), bởi vậy phải diễn đạt bằng thay đổi thanh điệu đi thành Nhan Nhản để có là Nhan (Nhóm 0) Nhản (Nhóm 1) mới nói lên đầy đủ ý có Âm có Dương mới sinh nở được thành ra nhiều: viết là Nhan Nhản như từ đôi, hoặc viết là Nhan/Nhản như từ đối. Đây là một từ ĐÔI, đồng thời cũng là một từ ĐỐI, đều là do cái NÔI mà Nở ra (Nếu vận dụng “qui tắc Nở” như tôi đã nêu mà soi rọi thì thấy chính là cái “Trứng” có tên là “Nhiều” đã như cái tế bào trong nôi, nó tự tách ra thành hai tế bào đang còn dính nhau là “Nhan-Nhản”). Bởi vậy nên tôi viết là Nhan Nhản cũng được, mà viết là Nhan/Nhản cũng được. Từ Nhan Nhản cũng giống như một cơ thể sống, nó chỉ là Một “từ”, cũng giống như một “tế” là cái tế bào, nhưng trong nó bao giờ cũng tồn tại hai phần cân bằng nên gọi là ĐÔI, nhưng một là phần Âm và một kia là phần Dương nên nó cũng gọi là ĐỐI. Khó có ngôn ngữ nào dịch được đầy đủ ý của từ Nhan Nhản, giỏi lắm chỉ dịch hết ý “nhiều lắm chỗ nào cũng có” (các từ khác của tiếng Việt cũng đều như vậy cả). Một tộc người mà ngôn từ (thể hiện cái tư duy) có cấu trúc chặt chẽ minh bạch Âm Dương như vậy thì đã hiển nhiên họ chính là chủ nhân của khái niệm Âm Dương và thuyết Âm Dương Ngũ Hành.
  11. Từ Choa trong câu có thể ẩn, không cần nói người ta vẫn hiểu là Chúng Ta, lướt "Chúng Ta"=Choa; ở miền Trung vẫn hay nói từ Choa, nghĩa là Chúng Ta, Chúng Tao. Còn từ Chúng, hiểu ngầm là Chúng Nó, dùng khi không tôn trọng, vì còn có thể lướt "Chúng Nó"=Chó, khi ghét thì gọi là "bọn chó đó...", khi tôn trọng thì không gọi là Chúng Nó, mà gọi là Họ

  12. Do căn cứ vào NÔI khái niệm nên tôi chia 6 thanh điệu của tiếng Việt theo cái “ý” của khái niệm, thành hai loại là: Loại thanh điệu định hướng cho khái niệm Trong, gồm các thanh điệu “không”, “ngã”, “nặng” (đặt tên là “Nhóm 0” hay “Nhóm thanh điệu Âm” ); và Loại thanh điệu định hướng cho khái niệm Ngoài, gồm các thanh điệu “sắc”, “hỏi”, “huyền”( đặt tên là “Nhóm 1” hay “Nhóm thanh điệu Dương”). Viết lại : Nhóm 0 (“không” – “ngã” – “nặng”) = Âm : hướng Trong Nhóm 1 (“sắc” – “Hỏi” – “Huyền”) = Dương: hướng Ngoài Tóm lại từ nào có thanh điệu thuộc “Nhóm 0” thì nó đã được định hướng ý nghĩa thuộc khái niệm do Trong , chủ quan; từ nào có thanh điệu thuộc “Nhóm 1” thì nó đã được định hướng ý nghĩa thuộc khái niệm do Ngoài , khách quan. Tư duy, suy nghĩ (Nhóm 0) của con người khi ở trạng thái hướng Trong nó đang đi vào Tĩnh tâm (Nhóm 0), còn khi Tỉnh giấc (Nhóm 1) là ở trạng thái hướng Ngoài. Về tư duy có cặp từ đối Tĩnh/Tỉnh. Suy nghĩ ấy nếu chỉ giữ cho riêng mình, nó hoàn toàn đang ở bên Trong, gọi là Tâm Long (Nhóm 0, hướng Trong), nhưng nếu suy nghĩ ấy là để cho người khác bên ngoài tức suy nghĩ để hướng Ngoài, người ta gọi nó là Tấm Lòng (Nhóm 1, hướng Ngoài), chỉ cần nói “tấm lòng của mẹ” là đã hiểu đó là suy nghĩ tốt lành của mẹ chỉ để cho người khác (hướng Ngoài) mà không cần phải nói cái phần “Thuyết” sau cho cái “Đề” là “tấm lòng của mẹ” (Buồn riêng mẹ để trong Tâm, Cho con là cả Tấm Lòng mẹ đây), tiếng Việt quả không đơn giản chút nào để có thể chuyển tải hoàn hảo ý của câu nói Việt sang các ngôn ngữ khác, như cái câu đơn giản là “Tấm lòng của mẹ”. Có thể bạn thấy lạ về từ Tâm Long (Nhóm 0) này, vì thường chỉ nghe tắt là Tâm không thôi. Tôi đã thấy có văn bản cổ chỉ dùng một chữ Long 龍 để diễn tả Tâm Long (chữ Long 龍 là con Rồng này trong Hán ngữ không hề mang ý là Tâm, chữ Long 龍 là Rồng này trong Hán ngữ chỉ có nghĩa là con rồng hoặc loài bò sát như khủng long, hoặc nâng ý lên chỉ vua và các thứ của vua như long bào, long sàng, và cũng có dòng họ mang họ Long 龍). Văn bản cổ ấy là bài “Quan Thánh Đế giáng bút chân kinh 關 聖 帝 降 筆 真 經” ở chùa Ông thờ Quan Vân Trường tại tỉnh Bình Dương, trong đó có câu diễn tả nỗi bực bội của Quan Vân Trường: “Long hận gian phu, dâm phụ 龍 恨 奸 夫 淫 婦” mà chữ Long 龍 không thể dịch là Rồng được, vì như vậy vô lý, đây là mượn (giả tá) chữ Long 龍 để chỉ Tâm Long, Tâm Long hận (thuộc Nhóm 0, là cái suy nghĩ hướng Trong),Tâm Long hay riêng Tâm hoặc riêng Long là chỉ suy nghĩ ở Trong, cũng như Hận là chỉ ở Trong mà thôi, nhưng Giận Hờn thì là có Trong và do Trong mà đã hướng ra cả Ngoài (Hờn thuộc Nhóm 1, khi Giận thuộc nhóm 0). Bởi vậy câu ca “Giận thì giận mà thương thì thương” là mới Giận thôi, chưa thể hiện thành cái Hờn ra bên ngoài, nếu cái Bực Bội (Nhóm 0) bên Trong mà đã thật sự thể hiện ra ngoài thì nó đã thành Bức Bối (Nhóm 1) là hành động nóng nảy dữ dội như ba tình huống diễn tả ở câu tục ngữ “Đau đẻ Ngứa ghẻ Hờn ghen”. Đây là từ Long chỉ cái tư duy thì nó trừu tượng như từ Tâm. Còn từ Long chỉ cái cụ thể như chỉ cái cán cuốc bị Long (Nhóm 0) thì là khi cán cuốc nó vẫn còn cắm trong cái chuôi cuốc, chỉ có là cắm không chặt mà thôi, còn khi đã Lỏng (Nhóm 1) thì nó nhất định là bị rớt ra ngoài, cặp từ đối Long/Lỏng. Chữ Long 癃 nữa mà trong y học cổ truyền dùng, nghĩa là “ốm yếu” hoặc chỉ sự “bí đái”, gọi là Long 癃 vì từ nguyên của nó là của Việt, do lướt “Lép Trong” = Long 癃, cái ống niệu mà nó không căng phồng được, nó bị Lép thì tắc đái là đương nhiên, cái phổi nó không tươi nhuận mà lại bị Lép thì ốm yếu hoặc ho lao là đương nhiên. Thợ mộc thì đẽo xong cái mộng Đực, gọi nó là cái “Lõi Trong” = Long, đục xong cái mộng Cái, gọi nó là cái “Lối Trong” = Long, lối để cho mộng đực đút vào, chỗ ghép mộng ấy gọi là chỗ hợp Long, hai cái Long ghép vào với nhau gọi là hợp Long. Khi đào mỏ, người ta khoét lối vào núi, cũng thành cái “Lối Trong” = Long 嶐, chữ Long 嶐 này để chỉ cái hầm lò, mà Hán ngữ gọi là chữ của “phương ngữ” , tức là của người Việt. Thời cuối Đông Tấn mà Hứa Thận viết Thuyết Văn Giải Tự, cách nay 2000 năm, cuốn sách ấy như là cuốn từ điển đầu tiên của Trung Hoa, mới chỉ có 9353 chữ, nhiều chữ về sau xuất hiện đương nhiên là không có trong cuốn Thuyết Văn Giải Tự, vậy mà những chữ xuất hiện sau vẫn là do người Việt đặt ra, vì muốn tìm “từ nguyên” của nó phải tìm trong tiếng Việt mới thấy ra. Như chữ Long 隆 có nghĩa là sâu sắc, sâu sắc là sâu sắc trong nội tâm, như trong từ ghép Long 隆 Trọng 重, từ nguyên của nó là của Việt, do lướt “Lớn Trong” = Long 隆. Chữ Long 隆 này cũng còn mang nghĩa là “thịnh vượng” để ghép thành từ ghép Hưng 興 Long隆, tức nó cũng vẫn là “Lớn Trong” = Long 隆, có lớn của cải tiền nong trong nhà thì mới là thịnh vượng chứ rỗng tuyếch thì sao gọi là thịnh vượng được. Như vậy từ đối Tâm/Tấm là cực kỳ chính xác trong ý nghĩa mà chúng chuyển tải. Đến đây mới hiểu rõ thêm một điểm nữa cái minh triết trong chuyện cổ tích “Tấm Cám” (Tại sao không đặt tên là cô Mè và cô Đậu, cũng nhỏ nhắn gần gũi cả, hoặc đặt tên cô Cà Pháo với cô Mắm Tôm, cũng đều là gần gũi cả, cà pháo chấm mắm tôm tức là “cà pháo ăn đứt mắm tôm” rồi còn gì ?). Đó là bởi vì Tấm (Nhóm 1), Cám (Nhóm 1) đều là đặt tên với thanh điệu như vậy ý muốn nói về tư duy của hai con người sẽ hướng ra ngoài như thế nào ( hướng ra ngoài gọi là xử thế), chỉ có điều một người như Tấm thì luôn muốn hướng cái Thiện (Nhóm 0) ra ngoài (gọi là tinh thần vị tha), một người như Cám thì luôn muốn hướng cái Ác (Nhóm 1) ra ngoài. Từ đối Tâm/Tấm đều là nói cái tư duy, nhưng Tâm là hướng Trong, còn Tấm là hướng ngoài. Cũng như từ đối Cam/Cám là nói cái tư duy, nhưng Cam là hướng Trong, là Cam Chịu, còn Cám là hướng Ngoài. Thiện (Nhóm 0 = Âm ) là cái Trong, luôn có sẵn, người xưa nói “Nhân chi sơ tính bổn Thiện”; Ác (Nhóm 1 = Dương) là cái Ngoài vào, do nhiễm từ Ngoài khi con người lớn lên trong môi trường xã hội, Cám đã tập nhiễm cái Ác từ mẹ nó từ khi nó còn nhỏ.( Người Hán mượn chữ “Thiện” “Ác” của người Việt, nhưng họ phát âm lơ lớ là “Sàn” “Ừa”, thanh điệu đều thuộc Nhóm 1, tức Ngoài vào, chứng tỏ họ đã du nhập văn hóa từ Ngoài vào, từ các dân tộc khác, và câu đầu tiên trong “Tam tự kinh” là “Nhân chi sơ, Tính bổn thiện” thể hiện là của người Việt. Cũng như thơ Đường, chỉ có đọc bằng giọng của người Việt Nam mới diễn tả được đúng sắc thái nội dung và đúng âm luật của nó – Thơ Đường đạt đến tính hàn lâm bác học của nó là ở các thi đàn, tao đàn phát triển phổ biến thời Đường, nhưng chủ nhân các thi đàn ấy lại là quần chúng “tiên hiền Bách Việt” - ).Cái Nôi Văn Hóa thời Văn Lang quả là một cái NÔI vĩ đại ( Vĩ Đại cũng thanh điệu thuộc Nhóm 0, tức cái vĩ đại là do Trong, chứ không phải do truyền từ Ngoài. Từ nguyên của “Vĩ Đại” là “Việt To”, thanh điệu cũng thuộc Nhóm 0, do thời cổ đại ở vùng Hoàng Hà, như sử thư ghi, là nơi tranh chấp giữa “nam phương Việt, bắc phương Hồ” mà vùng người Việt lại có đông dân hơn và có văn minh cao hơn, nên gọi là “Việt To”. Người Hán phát âm lơ lớ Việt To thành là “Uẩy Tà”, thanh điệu lại thành ra thuộc Nhóm 1 tức do Ngoài. Điều này như chứng minh rằng văn minh Hoa Hạ là thừa hưởng văn minh Bách Việt ?, mà Khổng Tử từng nói “chúng ta học cái văn minh từ Phương Nam” ? tức là từ Ngoài vào). Ngày nay qua khảo cổ cũng thấy như vậy. Như ý kiến của Giáo sư Hàn Sâm. Bà Hàn Sâm 53 tuổi, người Singapore, giáo sư đại học Yale-NUS college, từng là nghiên cứu sinh lấy bằng tiến sĩ tại đại học University of Pennsylvania Hoa Kỳ, khi nghiên cứu cổ sử Trung Quốc từ các văn vật khảo cổ, đã nói: “Rất nhiều người Trung Quốc đều cho rằng, Trung Quốc rất ít bị ảnh hưởng ngoại lai. Tôi lại có cách nhìn ngược lại, tôi cho rằng TQ đối mặt rất nhiều ảnh hưởng ngoại lai. Tôi đứng trên lập trường người nước ngoài, tôi rất hứng thú mặt này. Trong 1000 năm trở lại đây, phần lớn thời gian là TQ bị ngoại tộc thống trị, ví dụ từ triều Đường tới triều Thanh, miền Bắc, thậm chí cả miền Nam TQ là nằm dưới sự thống trị của ngoại tộc trong những thời gian khá dài. Trong lịch sử, TQ dùng từ “Hán hóa” là không chính xác, định nghĩa “Hán hóa” là rất mơ hồ. Nói “Hán hóa” hầu như là chỉ nêu một phát triển đơn hướng, chỉ xét đến ảnh hưởng của Hán tộc đối với các tộc khác, mà lại không nói đến, ví dụ như “Nữ Chân hóa”, “Khiết đan hóa” v.v, khi những ngoại tộc này từng thống trị toàn TQ. “Hán hóa” thông thường chỉ là nói về hiện tượng các tộc phi Hán hòa nhập thành văn hóa TQ”.
  13. Bộ Thủ 部 首 nghĩa là bộ phận đầu , mà lại không gọi theo ngữ pháp Hán là “thủ bộ”- Thủ 首 là đầu, Bộ 部 là bộ phận – mà lại gọi theo ngữ pháp Việt là “bộ thủ” ? Để xét xem “bộ thủ” là có gốc Việt như thế nào hãy xem vài bộ thủ qua ví dụ vài con chữ nho cụ thể: 1.Bộ Tủy 夊 nghĩa là chậm, là lướt “Từ từ tùy Kỹ” = Tủy. Xem chữ Giáo 教 gồm chữ Già 老 ở trên, chữ Con 子 ở dưới và bộ thủ chữ Tủy 夊 bên cạnh. Già thì ra Lão 老, trong cái Nôi khái niệm Già=Dài=Dai=Dãn=Dão=Lão=Lao=Lâu=Lớn=Lang=Lãnh, từ đôi “dài lâu” và “lớn lao” đều là nói về tuổi, quan Lang cũng là quan Lớn, là Lãnh đạo của một Lãnh thổ (nôm na thì Lãnh đạo là đầu Lớn, Lãnh thổ là đất Lớn). Con thì ra Tử子, trong cái Nôi khái niệm Kẻ=Con=Quan官=Quân君=Cái=Ko=Cu=Tu=Tí子=Tử子 ( Ko là người Nhật dùng, Tu là người Tày dùng, Tử 子 là người Hán mượn dùng nhưng họ phát âm lơ lớ là “dử”). Tủy夊 là tên một bộ thủ, có nghĩa là “chậm”, tượng hình giống như hai chân đi dọc theo trên một thanh cầu khỉ, đương nhiên là động tác ấy phải Từ Từ, phải Tùy, phải Kỹ; lướt cả câu có ba mệnh đề là câu “Từ từ-Tùy-Kỹ” thì thành Tủy 夊. Chữ Tủy 夊 này trong Hán ngữ không có đứng riêng một mình để mang nghĩa là gì cả, cũng như hầu hết các bộ thủ khác cũng vậy. Nhưng Từ từ-Tùy-Kỹ thì chính là nguyên tắc của giáo dục: Phải chậm Từ Từ, phải Tùy đối tượng học, phải Kỹ càng. Chữ Giáo, thuyết văn giải tự của Hứa Thận giải thích nghĩa của nó là “thượng thi hạ hiệu” tức cái hành vi thực thi của người trên sẽ là cái hiệu quả cho người dưới bắt chước (về sau suy diễn thành các câu thành ngữ “nhà dột từ nóc”, “thượng bất chính, hạ tắc loạn”). Giải thích ấy của Hứa Thận cách nay 2000 năm cũng đúng như kết cấu bằng tiếng Việt của từ Giáo 教 là ở câu “Già làm mẫu cho trẻ Háo” được lướt gọn lại thành “Già…Háo”=Giáo.(Háo là do lướt “Học cho đến Thạo” = “Học…Thạo” = Háo). Cả kết cấu, hình tượng, cả ý nghĩa và nguyên tắc của chữ Giáo 教 đều thấy thể hiện đầy đủ trong câu ca dao Việt : “… Cầu tre lắt lẻo gập ghình khó đi. Khó đi, mẹ dắc con đi. Con thi trường học, mẹ thi trường đời” 2.Bộ Thỉ 豕, trong Hán ngữ nó không đứng riêng để dùng là nghĩa gì, tra cổ, nghĩa là con vật thuộc động vật có vú, vậy “từ nguyên” của nó là con “Thịt” mà người Việt chỉ con thú săn về hoặc con gia súc. 3.Bộ Am 广, mang nghĩa là che chở, bởi “từ nguyên” của nó là cái “Ổ”, mà nôi khái niệm Ổ=Ôm=Ấp=Ẵm=Am=Âu=Ủ, mẹ Âu Cơ ấp ủ vì mẹ là dòng Chim=Tim=Tiên. 3.Bộ Miên 宀 nghĩa là mái che, từ nguyên của nó là lướt “Mái Hiên” = Miên, tức là cái Vòm 宀 che . Xem chữ Vũ 宇 nghĩa là không gian tức là cái “Vòm Ủ = 宀 + 于 = 宇” = Vũ 宇. Cái Vòm 宀 ấy là bầu trời, nên thời gian là cái “Trời Du= 宀 + 由 = 宙” = Trụ 宙 . Có từ ghép Vũ 宇 Trụ 宙 nghĩa là không gian và thời gian. 4.Bộ Hãn nghĩa là Hang 厈 (Hán ngữ gọi hang là cái “động 洞”) 5.Bộ Tịch 夕 nghĩa là đêm, từ nguyên: Tịch=Tối=Tăm=Đắm=Đêm (Hán ngữ gọi đêm là “dạ 夜”) Chỉ có trong tiếng Việt mới có từ NÔI (cái để đứa trẻ sơ sinh nằm nghe mẹ ru, dạy cho tập NÓI những từ đầu tiên của “Tiếng Mẹ Đẻ”, dịch sang tiếng Anh là “Tâng Ma Thơ” - “Mather Tong” – theo qui tắc “Tơi” và qui tắc “Rỡi” trong tạo từ của tiếng Việt mà tôi đã nêu trong những bài trước thì: Tiếng= “Tâng”= “Sâng”, “sâng” là phát âm của Hán ngữ, tức chữ “thanh 聲”. “Tâng” tiếng Anh nghĩa là Lưỡi, trong tiếng Việt thì lướt “Lưỡi Nói” = Lời. Tất cả đều từ Lõi mà ra, tức từ trong tư duy. Lõi = Lời = Nhời = Nhắn = “Yán”= Ngôn, “yán” là phát âm của Hán ngữ. Nhắn Gọi = Ngôn Ngữ 言 語, Hán ngữ diễn đạt là Ngữ Ngôn 語 言), NÔI ấy là cái Nôi khái niệm, tức Nơi sinh ra mọi khái niệm trong ngôn ngữ. Chẳng phải ngẫu nhiên mà giáo sư Hoàng Xuân Hãn viết câu đầu tiên của sách dạy phổ cập chữ Quốc Ngữ là câu “O tròn như quả trứng gà, Ô thời đội mũ, Ơ thời mang râu”. Chữ O, nó là “Lõi” của chữ NÓI. Chữ Ô, nó là “Lõi” của chữ NỔI, chữ Ô ấy là cái Ổ của mọi khái niệm Âm (chữ N- thành phần của NÔI, là viết tắt của Negative tức Âm) và mọi khái niệm Dương (chữ I- thành phần của NÔI, là viết tắt của Innegative tức phủ định âm là Dương. Nhận định của giáo sư Trần Ngọc Thêm đã được hội thảo quốc tế tại Đại học Thanh Hoa Bắc Kinh Trung Quốc công nhận, rằng “khái niệm Âm Dương là của người Việt”). Chẳng phải ngẫu nhiên thì chắc là do tổ tiên run rủi. NÔI khái niệm của tiếng Việt cũng như cái NÔI văn hóa Việt, nó là cái NỖI túc trực bên trong mỗi con người Việt, gọi là Nỗi Lòng. Nó là cái tâm thức nặng sâu thăm thẳm bên trong là cái NỘI, gọi là Nội Tâm. Nó có ảnh hưởng rộng lớn ra ngoài từ thời quốc gia Văn Lang mênh mông (“bắc giáp Động Đình Hồ, đông giáp Đông Hải, tây giáp Ba Thục, nam giáp Hồ Tôn” như chính sử ghi) có nền văn hiến rực rỡ 5000 năm trước, gọi là NỔI tiếng, đó là sự Nở của văn hóa, một khi nó là đi đầu, như cái Đầu Gạo của hạt cây mọc ra Rễ trước khi mọc mầm để Lên thành cây ( lướt “Đầu Gạo” = Đạo 道, ở cái cụ thể như ở cái cây thì Đầu Gạo để mọc mầm là cái Đi Đầu, ở cái trừu tượng như ở tư duy con người thì cái Đầu Gạo = Đạo là cái Đi Đầu, chữ Đạo 道 viết bằng ghép hai chữ Đi 辶và Đầu 首, 辶+ 首 = 道, vậy chữ Nho này là của Việt hay của Hán ? mà Khổng Tử gọi chữ Nho là Nhã Ngữ ?, Nho Nhã nghĩa là “chữ nho của người Nhã” tức của nước Dã Lang 也 郎 = Dạ Lang 夜 郎 = “Duê” Lang 粵 郎 = Di Lang 夷 郎 = Du Lang 于 郎 = Vu Lang 于 郎 = Việt Lang 越 郎 = Văn Lang 文 郎, lướt ông “Lớn Làng”=Lang, Văn Lang là “cái Vuông tức cái Vùng của ông Lớn Làng”, lướt “Bản Làng” = Bang, Rộng Bang = Hồng Bàng 鴻 龐 . “Hồng” nghĩa là Rộng, nạn hồng thủy tức “nước rộng” hay Nước Ròng cũng là Nước Rồng vì họ thờ Rồng tức là người dòng Long, chữ Hồng 鴻 viết biểu ý bằng ghép chữ 江 Giang=Dòng=Sông=Rộng=Rồng=Long chỉ vùng ven biển là vùng sông nước nơi trồng lúa của Lạc Long Quân, với chữ 鳥điểu là Chim=Tim=Teen=Tiên tức là người dòng Tiên của mẹ Âu Cơ, 江 + 鳥 = 鴻, bản thân một chữ Hồng 鴻 viết biểu ý và nghĩa là “rộng” này đã bao hàm cả Rồng và Tiên; chữ Bàng 龐 cũng nghĩa là Rộng như trong từ ghép có về sau là từ “bàng đại”, chữ Bàng 龐 viết biểu ý bằng ghép bộ thủ 广 Ôm=Ấp=Ẵm=Am=Âu nghĩa là “che chở ấp ủ” như chim mẹ Âu Cơ dòng Tiên, với chữ Long 龍 là Rồng của dòng Lạc Long Quân, 广+ 龍 = 龐, bản thân chữ Bàng 龐 viết biểu ý và nghĩa là “rộng” này cũng đã bao hàm cả Rồng và Tiên. Từ đôi Hồng Bàng gồm hai từ đồng nghĩa Hồng và Bàng đều nghĩa là “rộng” có nghĩa nhấn mạnh cái tính chất “rộng” như của qui tắc “từ đôi” trong tiếng Việt, có hai tức có Âm cùng Dương thì mới có nở để mà rộng. Cái khái niệm “rộng” này phải dùng từ đôi để diễn tả vì nó hàm hai ý: rộng về lãnh thổ là từ nam Dương Tử đến vịnh Thái Lan ngày nay và rộng về đa sắc tộc đến cả nghìn sắc tộc cùng văn hóa lúa nước cùng ngôn ngữ Nam Á của một gen Bách Việt. Chỉ có người Việt gọi mình là con cháu Tiên Rồng 仙 龍, thường hay đặt tên con trai là Long, con gái là Phụng. Người Hán về sau tiếp thu văn hóa của người Việt, cũng tự gọi mình là con của Rồng, nhưng lại không có Tiên, bởi chưa quen tư duy Âm Dương, nghĩ có Một là được rồi, người Việt có Một rồi phải nghĩ ngay để có Hai đã, rồi mới tính chuyện tiếp được, còn về sau thì phong kiến lấy hình tượng Rồng làm biểu tượng của quyền uy. Chính nền văn minh nông nghiệp trồng trọt của dân Bách Việt đã tạo nên nền tảng đầu tiên cho Văn minh Trung Hoa, chứ không phải nền chăn nuôi du mục của dân Hán tạo nên đầu tiên. Cái Rễ đầu tiên của nông nghiệp trồng trọt Văn minh lúa nước chính là cái Lễ, là cái đầu tiên con người phải học, như câu “Tiên học Lễ, hậu học văn”, con người cũng như cái cây, cây có Rễ trước mới thành được cây, người có biết Lễ trước đã rồi mới thành được người có nhân cách, khẩu hiệu của giáo dục bây giờ phải là: Nhân tình - Nhân tính - Nhân cách - Nhân tài, đó là những bước đi tuần tự cụ thể mà người Việt xưa đã dạy, chứ không phải đi học ở cái chủ nghĩa nào Ngoài vào cả). Cái Nở=Nổi của văn hóa Văn Lang 5000 năm trước thể hiện sự Nổi Trội hơn các nền văn hóa khác xung quanh. Khi nền văn minh Văn Lang sụp đổ ở nam Dương Tử, những văn hóa vật thể vì nhiều lý do có thể bị tàn phá hoặc chôn dấu xuống lòng đất, lâu dần sẽ bị ăn mòn đến không còn gì, gọi là mất , nhưng những văn hóa phi vật thể thì không thể đem chôn được, nó lặn vào trong tâm thức, cho nên người Việt vẫn nhớ mãi mồn một về tổ tiên xưa của mình, và có tục thờ cúng Tổ Tiên. Từ run rủi là dùng trong lĩnh vực tâm linh, mà Tâm=0, Linh=0 nên Tâm Linh=0+0=1=Có (theo qui tắc số học nhị phân, xuất phát từ khái niệm Âm Dương của người Viêt); tâm linh là Có cho nên cũng Có run rủi thật. Ngôn từ Việt tinh túy và chính xác, chỉ có thể giải thích bằng lịch sử văn hiến Văn Lang rực rỡ 5000 năm ở nam Dương Tử. Cái NÔI ấy là cái Nôi Văn Hóa. Tổ Tiên xưa chắc đã tiên đoán sẽ có bọn phủ nhận Văn Minh Lạc Việt nên truyền lại câu nhắc nhở trách nhẹ nhàng là “Bụt chùa nhà không thiêng”. Câu này chắc chắn là xuất hiện trước khi có Phật giáo Đại Thừa ở Trung Quốc. Vì cái thời ấy người Việt Nam vẫn gọi là Bụt, trong các chuyện cố tích đều có ông Bụt. Cái Nôi Văn Hóa thời Văn Lang ấy là một cái NÔI vĩ đại . Vĩ Đại cũng thanh điệu thuộc Nhóm 0, tức cái vĩ đại là do Trong, chứ không phải do truyền từ Ngoài. Vĩ Đại có “từ nguyên” của nó là cái âm tiết Việt To, do thời cổ đại ở vùng Hoàng Hà, như sử thư ghi, là nơi tranh chấp giữa “nam phương Việt, bắc phương Hồ” mà vùng người Việt có đông dân hơn và có văn minh cao hơn nên gọi là “Việt To”. Người Hán phát âm lơ lớ thành là “Uẩy Tà”, thanh điệu lại thành ra thuộc Nhóm 1 tức do Ngoài. Điều này như chứng minh rằng văn minh Hoa Hạ là thừa hưởng văn minh Bách Việt ?, mà Khổng Tử từng nói “chúng ta học cái văn minh từ Phương Nam” ? tức là từ Ngoài vào. Hiểu rõ chữ NÔI, thanh điệu là dấu “không”, giống như Trung Dung, như Văn, như Giao, như Giữa đều là thuộc Nhóm 0 = Âm, tức TRUNG LẬP thanh điệu cũng thuộc Nhóm 0, mà chữ Văn 文 trong Văn Lang và chữ Giao 交 trong Giao Chỉ được Thuyết Văn Giải Tự giải thích rằng, nó chỉ là cách viết lệch đi của chữ Vuông 口. Cái Vuông ấy là hình tượng cái bánh Chưng, chuyện cổ tích “Bánh Dầy bánh Chưng” kể là nó biểu trưng cho trái đất, trái đất thuộc về quẻ Khôn trong Bát Quái của người Việt, Khôn=Khuôn=Khuông=Vuông=Văn=Vựa=Giữa=Giao. (Chữ Giao trong từ Giao Chỉ). Tất cả các chữ từ Khôn đến Giao ở trên đều mang thanh điệu thuộc Nhóm 0 = Âm, cái NÔI khái niệm ấy đủ nói lên bản chất của người Việt của nước Văn Lang hay đất Giao Chỉ xưa là tính Âm và là Khôn. Là Khôn thì phải đứng Giữa tức là TRUNG LẬP chứ chưa từng bao giờ cực đoan đi theo một chủ nghĩa Ngoài vào nào cả. Chính tư duy tự chủ đó đã làm cho dân tộc Việt Nam quật cường giữ mãi được độc lập dân tộc và bản sắc văn hóa dân tộc từ 5000 năm trước cho đến ngày nay. Ngày nay cả Ngoài và cả Trong đang có đông đảo bọn gọi là “khoa học” dùng quyền uy chính trị để ra sức viết bài phủ nhận Văn Hiến Lạc Việt 5000 năm, những tình huống kiểu đó, tục ngữ Việt khái quát bằng câu “Cả vú lấp miệng em”. Phân tích câu tục ngữ trên theo định hướng ý của thanh điệu thì “cả vú lấp” thuộc Nhóm 1 tức tác động Ngoài, “miệng em” thuộc Nhóm 0, là cái Trong vốn sẵn từ xưa như một sự thực chân lý lịch sử, bởi “miệng” là cái “nghìn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ”, vậy thì cái “bọn khoa học” đó liệu có phủ định nổi lịch sử không? Nghiên cứu lịch sử là nghiên cứu khoa học nên phải có tư duy độc lập. Tục ngữ Việt cũng còn có câu “Xuýt chó bụi rậm”, phân tích theo định hướng ý của thanh điệu thì “xuýt chó” thuộc Nhóm 1 là tác động Ngoài, “bụi rậm” thuộc Nhóm 0 là Trong, là cái tồn tại sẵn từ trước, là “bụi rậm” vì đó là mớ luận thuyết hổ lốn mơ hồ rất sai lầm do sự xáo xào của thư lại những thời đại xưa. Cái từ “xuýt” của tiếng Việt thì tiếng Tàu lẫn tiếng Tây không tài nào dịch nổi, mà người Việt thì chỉ vừa nghe là cảm nhận được hết rồi. Nếu là “xúi” thì nó bình thường, ai muốn nghe thì nghe, không nghe thì thôi. Đây lại là “xuýt” thì buộc phải làm theo răm rắp. Vì “xuýt” là tiếng lướt của cả câu “Xúi giục bằng mưu đồ quỉ quyệt và mệnh lệnh áp đặt quả Quyết” = “Xúi…Quyết ” = Xuýt. Tội nghiệp con chó theo lệnh quan thầy cứ vậy mà lao vào bụi rậm, theo con đường sáo mòn là mặc nhận và toàn là “trích” với “dẫn”. Nói “tội nghiệp” là vì con chó có tính là trung thành với quan thầy và biết nhẫn để đợi quan thầy thí cho miếng ăn thừa, (mà chủ là người Kinh khi quẳng ra cho nó thì kèm câu “cho nó !”, lướt “Cho Nó” = Chó, còn chủ là người Tày khi quẳng ra cho nó thì kèm câu “mừ nhá ! lướt “Mừ Nhá” = Má, nên trong tiếng Việt có từ đôi Chó Má nhấn mạnh ý là nhiều loại chó, mà “má” là chó trong tiếng Tày; kiểu như Gà Qué là nhiều loại gà, mà “qué=cáy” là gà trong tiếng Hoa, Tre Pheo là nhiều loại tre mà “pheo” là tre trong tiếng Mường). Mà cứ theo lối mòn để lao vào bụi rậm xưa thì đâu phải là tư duy độc lập. Ví dụ về một cách nhìn khác khi nghiên cứu sử: Bà Hàn Sâm 53 tuổi, người Singapore, giáo sư đại học Yale-NUS college, từng là nghiên cứu sinh lấy bằng tiến sĩ tại đại học University of Pennsylvania Hoa Kỳ, khi nghiên cứu cổ sử Trung Quốc từ các văn vật khảo cổ, đã nói: “Rất nhiều người Trung Quốc đều cho rằng, Trung Quốc rất ít bị ảnh hưởng ngoại lai. Tôi lại có cách nhìn ngược lại, tôi cho rằng TQ đối mặt rất nhiều ảnh hưởng ngoại lai. Tôi đứng trên lập trường người nước ngoài, tôi rất hứng thú mặt này. Trong 1000 năm trở lại đây, phần lớn thời gian là TQ bị ngoại tộc thống trị, ví dụ từ triều Đường tới triều Thanh, miền Bắc, thậm chí cả miền Nam TQ là nằm dưới sự thống trị của ngoại tộc trong những thời gian khá dài. Trong lịch sử, TQ dùng từ “Hán hóa” là không chính xác, định nghĩa “Hán hóa” là rất mơ hồ. Nói “Hán hóa” hầu như là chỉ nêu một phát triển đơn hướng, chỉ xét đến ảnh hưởng của Hán tộc đối với các tộc khác, mà lại không nói đến, ví dụ như “Nữ Chân hóa”, “Khiết đan hóa” v.v, khi những ngoại tộc này từng thống trị toàn TQ. “Hán hóa” thông thường chỉ là nói về hiện tượng các tộc phi Hán hòa nhập thành văn hóa TQ”. Ngoại tộc Mãn chỉ bằng con đường xâm nhập thâm cung triều đình mà thâu tóm để thống trị được toàn bộ TQ đến mấy trăm năm, bắt đàn ông TQ phải tuân theo phong tục Mãn là cạo trọc nửa đầu phía trán và tết tóc đuôi sam. Triều đình Mãn Thanh khi thống trị được TQ thì đầu tiên là dùng 10 năm trời và 300 học giả bị “xuýt bụi rậm” để chuyên gò lưng cạo sửa thư tịch xưa để lại, nặn ra cái gọi là “Tứ khố toàn thư” bóp méo lịch sử, mà chỉ có Lỗ Tấn, con người được người đời gọi là có tật “lưng không cúi được” đã thẳng tay vạch mặt chỉ tên những bóp méo trong “Tứ khố toàn thư” của nhà Thanh. Việt Nam thì Quang Trung Nguyễn Huệ khi đem quân đi đại phá quân Mãn Thanh xâm lược đã tuyên bố: “Đánh cho choa để dài tóc, đánh cho choa để đen răng, đánh cho chúng chiếc lăn bất phản, đánh cho chúng phiến giáp bất toàn, đánh cho sử tri Nam Quốc anh hùng chi hữu chủ ! ”
  14. Cái Nôi Văn Hóa (2) Tại sao chỉ mỗi tiếng Việt là có từ Nôi ? về nghĩa thì các ngôn ngữ khác cũng có từ tương đương nghĩa nôi, nhưng viết là NÔI (N- Ô- I và thanh điệu “không” nhá) thì chỉ có ở tiếng Việt ? Cái NÔI khái niệm để sinh ra ngôn ngữ, cũng là cái NÔI văn hóa, cũng là NÔI ru con, nó có thanh điệu “không” vì nó là của Trong, hàng Trong, mang thanh điệu “không”, người nhà chỉ cần lấy tre vườn nhà chẻ ra là tự đan được Nôi. Còn nếu là cái Nồi, dù là nồi đất hay nồi đồng thì chắc là phải mua Ngoài chợ, nó là hàng Ngoài, mang dấu thanh điệu “huyền”. Cái NÔI văn hóa muốn tồn tại mãi thì nó phải Nối (dấu thanh điệu “sắc” nhá) ra ngoài, và Nối về sau, chứ nếu chỉ đơn độc là Nội không thôi, tức Cụt (dấu thanh điệu “nặng” nhá) thì nó sẽ dần dần Mai Một (dấu thanh điệu “không” và “nặng” nhá, cho ra cái ý là do nguyên nhân chủ quan) chứ không phải lá Mất hoặc Chết (dấu thanh điệu “sắc” nhá, cho ra cái ý là do nguyên nhân khách quan, con người già Chết, bịnh Chết đều là do nguyên nhân khách quan “bịnh tòng khẩu nhập” cả, chứ ai mà chẳng từ Trong Nội Tâm muốn rằng mình “muôn năm”). Cái NÔI văn hóa rõ ràng nó là của Trong, hàng Trong, là Nội, muốn phát huy ảnh hưởng cho lớn quảng thì nó phải Hướng (dấu thanh điệu “sắc” nhá) ra Ngoài (dấu thanh điệu “huyền” nhá); để hướng ra ngoài thì nó phải Tự (thanh điệu “nặng” nhá, là do Trong , cũng giống như Nội ) mà Nở (thanh điệu “hỏi” nhá) để mà Nổi tiếng (Nổi thuộc thanh điệu “hỏi” nhá, và Tiếng thuộc thanh điệu “sắc” nhá, nổi tiếng tức là nó đã ra bên ngoài). Bởi vậy mà, theo như cái NÔI khái niệm mà tôi phịa ra, tôi không chia 6 thanh điệu của tiếng Việt thành hai loại, căn cứ vào cái “tone” của âm nhạc như người ta chia xưa nay, là “các thanh Bằng” và “các thanh Trắc”. Do căn cứ vào NÔI khái niệm nên tôi chia 6 thanh điệu của tiếng Việt theo cái “ý” của khái niệm, thành hai loại là: Loại định hướng cho khái niệm Trong, gồm các thanh điệu “không”, “ngã”, “nặng” (đặt tên là “Nhóm 0” hay “Nhóm thanh điệu Âm” ); và Loại định hướng cho khái niệm Ngoài, gồm các thanh điệu “sắc”, “hỏi”, “huyền”( đặt tên là “Nhóm 1” hay “Nhóm thanh điệu Dương”). Viết lại : Nhóm 0 (“không” – “ngã” – “nặng”) = Âm : hướng Trong Nhóm 1 (“sắc” – “Hỏi” – “Huyền”) = Dương: hướng Ngoài Vậy mà: Bản thân “Nhóm 0” tức “Âm” cũng tự có trong nó hai tính: - tính Tĩnh (gồm “ngã”, “nặng”, nhiều hơn vì tới hai thanh, thuộc Dương khi qui ước Dương=Trắc) - tính Động ( gồm “không”, ít hơnvì chỉ một thanh, thuộc Âm, khi qui ước Âm=Bằng) Bản thân “Nhóm 1” tức “Dương” cũng tự có trong nó hai tính: - tính Tĩnh (gồm “sắc”, “hỏi”, nhiều hơn vì tới hai thanh, thuộc Dương khi qui ước Dương=Trắc) - tính Động (gồm “ huyền”, ít hơn vì chỉ một thanh, thuộc Âm khi qui ước Âm=Bằng). [ Điều này trùng hợp với chia thanh điệu theo “tone” của âm nhạc: qui ước Bằng=Âm (gồm “không”, “huyền”) tính Động, gõ lên thì nó vang được xa, mà ít vì chỉ chiếm có hai thanh; Trắc=Dương (gồm “ngã”, “nặng”, “sắc”, “hỏi”) tính Tĩnh, gõ lên nó vang được không xa, mà nhiều vì chiếm tới bốn thanh]. Tóm lại từ nào có thanh điệu thuộc “Nhóm 0” thì nó đã được định hướng ý nghĩa thuộc khái niệm do Trong , chủ quan; từ nào có thanh điệu thuộc “Nhóm 1” thì nó đã được định hướng ý nghĩa thuộc khái niệm do Ngoài , khách quan. Bởi vậy căn cứ vào cái tính chất thanh điệu có tác dụng định hướng ý nghĩa cho từ mang nó, như tôi đang phịa ra ở bài viết này, thì sẽ dùng từ rất chính xác. Ví dụ, nói “ngoại lai”, ai cũng hiểu nghĩa của từ này, nhưng nó có chính xác với tư duy Việt đâu, vì thanh điệu của hai chữ ấy sai Nhóm, thanh điệu của nó thuộc Nhóm 0 (tức Nội, mà ý của từ đó lại là do Ngoài, khách quan). Cho nên phải dùng chính xác là từ “ngoài vào” (thanh điệu hai chữ “ngoài vào” này thuộc Nhóm 1, mới tương thích với ý nghĩa của từ là do Ngoài, khách quan) , hàng hóa nhập từ ngoài vào, tư tưởng du nhập từ ngoài vào v.v. Ví dụ nữa, dùng từ “rộng rãi”, theo thanh điệu của nó thì nó thuộc Nhóm 0, vậy thì chỉ nên dùng đúng định hướng của nó là nói về bên Trong, chủ quan, như tấm lòng rộng rãi, căn phòng rộng rãi, chính sách rộng rãi (đương nhiên là đối nội, nếu cái chính sách cụ thể nào đó để riêng cho đối ngoại thì nó vẫn là do chủ quan, tức của Trong làm ra). Còn nếu nói ảnh hưởng , bản thân hai chữ “ảnh hưởng” này thanh điệu của nó thuộc Nhóm 1 đã định hướng ý cho nó là ra ngoài, cho nên không dùng là ảnh hưởng “rộng rãi” mà phải nói là ảnh hưởng “lớn quảng” (Hán ngữ dùng “quảng đại”), hai chữ “lớn quảng” này thanh điệu của nó thuộc Nhóm 1, nên định hướng ý của nó chỉ có thể là ra ngoài. “Khôn ngoan đối đáp người ngoài”, theo định hướng ý của thanh điệu mà phân tích, “khôn ngoan” (dấu “không” của Nhóm 0 nhá) là do Trong, “đối đáp” (dấu “sắc” của Nhóm 1 nhá) là hướng Ngoài, “người ngoài” (dấu “huyền” của Nhóm 1 nhá) là hẳn Ngoài rồi. Một câu tiếng Việt ngắn gọn chỉ có sáu âm tiết mà chính xác đến như vậy, mà bất cứ người Việt nào, cho dù không biết chữ đi nữa, cũng vẫn Miệng Nói Thành Lời chặt chẽ và chính xác như vậy (“miệng” thuộc Nhóm 0 làTrong, “nói thành lời” thuộc Nhóm 1 là hướng Ngoài). Đó là do mỗi người Việt đều có cái NÔI, là cái bên Trong, khi Nôi ấy mà NÓI thì Lời ảnh hưởng Ngoài ngay lập tức, nên tiếng Việt có câu “suy nghĩ kỹ hẵng nói” , phân tích: “suy nghĩ kỹ hẵng” là thuộc Nhóm 0, là đang còn bên Trong, là “sẵn”, nhưng khi đã chuyển sang “nói” là nó thuộc Nhóm 1, là Ngoài rồi, tức đã chuyển sang “sàng” ( chữ “sàng” này đã biến thành chữ Xướng 唱 , Hán ngữ phát âm lơ lớ là “xang”). Trong khẩu lệnh “sẵn sàng” thì “sẵn” là “dự bị” (Trong) chuyển sang “sàng” là “hành” (Ngoài), giương cờ hô: “Sẵn…!”, dập cờ hô: “sàng !” là bắn ngay (“bắn” thuộc Nhóm 1 là hướng Ngoài). Cứ theo tính định hướng ý nghĩa của thanh điệu tiếng Việt mà phân tích thì Nội hay Ngoại đều là của Trong cả, chỉ có Ngoài mới thật là của Ngoài, như Mẹ (thuộc Nhóm 0, là của Trong), Cha (thuộc Nhóm 0, là của Trong), nên bên Nội, bên Ngoại, quê Nội, quê Ngoại đều là của Trong cả. Không thể và không phải như người ta giải thích là từ Ngoại và từ Ngoài là đồng nghĩa nhau, do từ Ngoài là của tiếng Việt, còn từ Ngoại là “từ Hán-Việt” (?!). Ngoại và Ngoài đều là hai từ Việt và đâu có đồng nghĩa nhau. Ở tương quan này thì rõ ràng là có cặp từ đối Ngoại/Ngoài, tương ứng với Nội/Nổi, khi xét Nội là cái vốn có bên Trong còn Nổi là cái ảnh hưởng của nó ra Ngoài (ví dụ câu: “Cứ tiêu thụ Nội địa mãi thì lấy đâu ra mà Nổi tiếng thế giới” ). Cũng như cặp từ đối Đậm/Đầm, Đậm mang định hướng Trong, Đầm mang định hướng Ngoài, khi cái Trong có pha thêm chút Ngoài thì nó bị nhạt bớt cái Trong đi là đương nhiên, đó là từ Đầm Đậm, đầm đậm thì rõ ràng là nhạt hơn đậm rồi ( câu thơ Nguyễn Bính: Hôm qua em đi tỉnh về, hương đồng gió nội phai đi ít nhiều).Ví dụ câu: “Cái hương vị mặn mòi của món ăn quê hương không những Đậm Đặc trong ký ức người Việt mà bây giờ nó còn Đầm Đìa trong sở thích của khách du lịch phương xa tới”. Bởi giao thoa văn hóa nên ngôn từ Việt nó Ngồ Ngộ thật là thú vị, cái Ngộ là cái Trong vốn có của nó, còn cái Ngồ là có pha chút của ngoài, làm cho nó càng Đẹp hơn lên. Mà Đẹp hay Mỹ của tiếng Việt đều là từ thuộc Nhóm 0, tức của Nội, của Trong. Chỉ một cái từ đơn âm tiết (Đẹp=Mỹ=Xinh=Tươi, đều thuộc Nhóm 0) đã đủ nói lên quan niệm thẩm mỹ của người Việt là như thế nào (Tục ngữ: Tốt gỗ hơn tốt nước sơn), đó là cái văn hóa siêu đẳng của Văn Lang từ 5000 năm trước. Tôi không phải là người nghiên cứu ngôn ngữ, chỉ mới đọc duy nhất một cuốn về ngôn ngữ là cuốn “Tiếng Việt-Văn Việt- Người Việt” của Giáo sư Cao Xuân Hạo. Nhưng do thấy ngôn từ Việt nó Ngồ Ngộ thật hay thì ngẫm, rồi nghĩ sao viết vậy để bạn đọc quan tâm tiếng Việt tham khảo rồi tìm thêm ví dụ mà xem có đúng như tôi viết không. Ví dụ, từ đối Ngã/Ngả đều là nói về động tác, nhưng rõ ràng là duyên cớ chủ quan (Ngã) với duyên cớ khách quan (Ngả) là khác nhau rõ ràng, do chúng đã bị định hướng ý nghĩa bởi cái thanh điệu (thuộc Nhóm 0 và thuộc Nhóm 1).Ví dụ câu: “Bão làm lúa chín ngoài đồng đổ Ngả hết, không ít người Ngã lòng”. Ngã là do chủ quan, Vấp là do khách quan, nhiều người bị Vấp mà chưa chắc đã Ngã (Tục ngữ khuyên: Chớ thấy sóng cả mà Ngã tay chèo) do có nhiều người không bị Vấp mà vẫn Ngã. Từ Vấp Ngã nói lên nguyên nhân vừa do khách quan vừa do chủ quan, nhưng người Việt đâu cần phải giải thích dài dòng như thế, chỉ nói gọn Vấp Ngã là hiểu đủ dài cả hai nguyên nhân rồi, vì Vấp thuộc Nhóm 1 (dấu “sắc” nhá, do Ngoài) và Ngã thuộc Nhóm 0 ( dấu “ngã” nhá, do Trong). Như từ đối Vập/Vấp thì Vập rõ ràng là do chủ quan (dấu “nặng” nhá, do Trong, Nhóm 0), “nhai cơm không chú ý nên răng Vập vào lưỡi đau điếng”. Ví dụ khác: “Anh ta bị đám công chức hư ở cơ quan chính quyền chúng hành cho đến là Vất Vả”, cái Vất Vả rõ ràng là do Ngoài vào (thanh điệu đều thuộc Nhóm 1). So sánh với câu: “Anh ta bị căn bệnh quái ác nó hành cho đến Vật Vã”, cái Vật Vã rõ ràng là do Trong (thanh điệu đều thuộc Nhóm 0). Câu: “Thằng ấy Đụt lắm”, Đụt là do chủ quan, Trong tư duy kém. So với câu: “Nó Đút tay vào hang cua”, Đút là do Ngoài vào. Câu: “Nội dung Vở kịch vừa xem làm cho em Vỡ lẽ ra rằng…” thì Vở là cái Ngoài vào, còn Vỡ là cái chủ quan bên trong, từ đối Vở/Vỡ. Câu: “Nỗi bực dọc Đã khiến nó đau đớn”, rõ ràng Đã là do chủ quan (thanh điệu thuộc Nhóm 0). So với câu: “Hành vi mờ ám của ông hàng xóm Đả khiến nó phải cảnh giác”, rõ ràng Đả là do Ngoài (thanh điệu thuộc Nhóm 1), có nghĩa là “đánh động”. Câu : “Tôi Không muốn làm” so với câu: “Họ vu Khống tôi” rõ ràng là Không=Khống=0, nhưng Không là do Trong (thanh điệu thuộc Nhóm 0) còn Khống là do Ngoài (thanh điệu thuộc Nhóm 1). Ngôn từ Việt tinh túy và chính xác, chỉ có thể giải thích bằng lịch sử văn hiến Văn Lang rực rỡ 5000 năm ở nam Dương Tử. Cái NÔI ấy là cái Nôi Văn Hóa. Tổ Tiên xưa chắc đã tiên đoán sẽ có bọn phủ nhận Văn Minh Lạc Việt nên truyền lại câu nhắc nhở trách nhẹ nhàng là “Bụt chùa nhà không thiêng”. Câu này chắc chắn là xuất hiện trước khi có Phật giáo Đại Thừa ở Trung Quốc. Vì cái thời ấy người Việt Nam vẫn gọi là Bụt, trong các chuyện cố tích đều có ông Bụt. Cái Nôi Văn Hóa thời Văn Lang ấy là một cái NÔI vĩ đại ( Vĩ Đại cũng thanh điệu thuộc Nhóm 0, tức cái vĩ đại là do Trong, chứ không phải do truyền từ Ngoài. Nếu phát âm theo Hán ngữ thì “vĩ đại” thành là “Uẩy Tà”, thanh điệu lại thành ra thuộc Nhóm 1 tức do Ngoài, như chứng minh rằng văn minh Hoa Hạ là thừa hưởng văn minh Bách Việt ?, mà Khổng Tử từng nói “chúng ta học cái văn minh từ Phương Nam” ? tức là từ Ngoài vào). Hiểu rõ chữ NÔI ( dấu “không”, như Trung Dung, như Văn, như Giao, đều là thuộc Nhóm 0, tức TRUNG LẬP, mà chữ Văn 文 trong Văn Lang và chữ Giao 交 trong Giao Chỉ được Thuyết Văn Giải Tự giải thích là nó chỉ là cách viết lệch đi của chữ Vuông 口). Ngư , Tiều vọng cảnh xuân thu Một bình rượu đục tạc thù với nhau Cổ kim muôn sự thế nào Đều làm mồi nhậu lộng trào cho vui (Trích bài “Từ” trong lời nói đầu của cuốn Tam Quốc Diễn Nghĩa)
  15. Ai hạnh phúc nhất ? Chỉ những người lao động sống yên bình bằng sức lao động của chính mình là hạnh phúc nhất, như ông Tiều kiếm củi và ông Ngư câu cá, đến bạc đầu vẫn “côi cút làm ăn” (tự làm tự hưởng) “lo toan nghèo khó” (không cần dựa dẫm xin xỏ gì ai) là sống hạnh phúc nhất. Dân vạn đại như thiên nhiên vạn đại. Như sử đời mãi mãi một màu xanh. Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh: “Họ chỉ biết huyênh hoang nói những điều cao xa, lý thuyết trừu tượng về lý tưởng ……nhưng không thể bắt tay giải quyết được một công việc thực tế cụ thể nào cho ra hồn” ( “Nói Và Làm” ) Đọc lại bài Từ trong Lời nói đầu của cuốn Tam Quốc Diễn Nghĩa 滾滾長江東遊水 浪花淘儘英雄 是非成敗轉頭空 青山夜就在 幾度夕陽紅 白髮漁樵江堵上 慣看秋月春風 一壺濁酒囍相逢 古今多少事 都付笑談中 Cổn cổn Trường Giang đông du thủy Lãng hoa đào tận anh hùng Thị phi thành bại chuyển đầu không Thanh sơn dạ tựu tại Kỷ độ tịch dương hồng Bạch phát ngư tiều giang đỗ thượng Quán khán thu nguyệt xuân phong Nhất hồ trọc tửu hỉ tương phùng Cổ kim đa thiểu sự Đô phụ tiếu đàm trung. LM dịch: Trường Giang cuồn cuộn về Đông Muôn ngàn bọt sóng anh hùng đãi / chao Thị / phi, thành / bại đổi đầu Ngày / đêm chỉ núi kia màu mãi xanh Đêm đen, ngày trắng xoay vần Ngư, tiều tóc bạc lần khân trên bờ Quen nhìn trăng gió xuân thu Một bình rượu đục tạc thù với nhau Xưa nay muôn sự thế nào Đều bằng hòa rượu lộng trào mà thôi.
  16. Cái Nôi văn hóa Ngôn ngữ cũng là một cái Nôi của văn hóa. Nhà văn hóa Phạm Quỳnh nói: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn. Tiếng ta còn, nước ta còn”. Một trong những tuyệt chiêu của cách hành văn trong Kiều là ngữ pháp thuần Việt, mà chỉ có nhà ngôn ngữ học Cao Xuân Hạo nêu ra cốt lõi ngữ pháp của mỗi câu tiếng Việt như trong Kiều là “Đề” và “Thuyết”, tức nội dung chủ yếu cần đề cập trong câu thì được nêu ra đầu tiên, gọi là “Đề”, phần sau của câu chỉ là giải thích cho cái đề đó, gọi là “Thuyết”, giống như mọi câu tục ngữ, ca dao và khẩu ngữ của người Việt vẫn nói như vậy ( nhưng cái “cốt Lõi” này chưa được Viện ngôn ngữ Việt Nam công nhận, để có thể đem áp dụng dạy tiếng Việt). Nếu phân tích câu theo cái cốt lõi “Đề” và “Thuyết” thì thật dễ hiểu cho người học tiếng Việt, kể cả người nước ngoài để có thể nói được như cách hành văn của người Việt (gọi là nói “Sõi” tiếng Việt). Vậy mà “từ nguyên” của từ “Sõi” ấy chỉ là hình thành do lướt cả câu “Sắc sảo nói bằng ngữ pháp đúng cốt Lõi” = “Sắc…Lõi” = Sõi. Chứ không phải lục tra sách Tàu, Tây từ cổ chí kim để tìm ra “từ nguyên” của từ “Sõi” của tiếng Việt. Qui tắc “lướt” hai từ hoặc cả câu dài để tạo ra một từ mới là qui tắc vốn có từ xưa trong tiếng Việt, đã được Hứa Thận cách nay 2000 năm vận dụng để hướng dẫn cách đọc một từ bằng cách đọc “Thiết” hai tiếng đặt liền nhau, Liền=Lát=Liếc=Lướt=Thướt=Thiết. Nếu tiếp tục vận dụng qui tắc “lướt” sẽ tạo được nhiều từ mới ngày nay, vì tiếng Việt rất giàu âm vận (như có học giả tổng kết, tiếng Việt có 15.000 âm vận, trong khi tiếng Hán chỉ có 1.300 âm vận, nên bị từ đồng âm dị nghĩa nhiều, bắt buộc phải dùng ký tự biểu ý). Ví dụ so sánh tiếng Việt âm vận nhiều với tiếng Hán âm vận ít như từ Tiếng Ồn của tiếng Việt được Hán ngữ mượn và gọi là Thanh Âm (phát âm lơ lớ là “sâng in”) và Hán ngữ dùng từ Âm đó để gọi mọi thứ tiếng Ồn, nhưng trong tiếng Viêt thì Ồn=Ỏn=Ẻn=Om=Ỏm=Ào=Ầm=Âm là cái Nôi khái niệm của nhiều sắc thái của tiếng nói, lại còn lướt “Tiếng Nói”=Tỏi, do vậy chỉ cần nói câu “Làm gì mà Ỏm Tỏi lên vậy”, hiểu là than phiền làm ồn bằng tiếng nói (to tiếng hoặc cãi nhau). Nếu vận dụng qui tắc “lướt” để tạo từ mới, ví dụ có thể lập được một “từ điển riêng” : “Từ điển tên các loại hình doanh nghiệp”, mà tên mỗi loại hình chỉ là một từ đơn âm tiết (từ điển đó sẽ rất hữu dụng cho bên thuế và cho kiểm toán viên để định hướng nhanh khi bắt tay vào xử lý nghiệp vụ kế toán của một doanh nghiệp thuộc bất kỳ loại hình nào), khỏi phải dùng viết tắt, kiểu như “DNNN”, thì làm sao hiểu nổi nó là “Doanh Nghiệp Nhà Nước” hay “Doanh Nghiệp Nước Ngoài” (?) [sách kỹ thuật của Mỹ thì thường có trang đầu là “từ điển” các tên và khái niệm chuyên môn được viết tắt để dùng trong cuốn sách đó ]. Ví dụ về “Đề” và “Thuyết”, chọn câu: “Tính con vốn lắm bất thường, Học hành thì ít, yêu đương thì nhiều”, thì trong câu lớn này “Đề” là “Tính con”, còn toàn bộ phần sau là “Thuyết” cho cái đề nêu là “Tính” ấy; chia nhỏ ra thì có “bất thường” là “Đề”, còn “học hành thì ít, yêu đương thì nhiều” là “Thuyết” cho cái “Đề” là cái “bất thường” ấy. Chia nhỏ nữa thì có “học hành” là “Đề” còn “thì ít” là “Thuyết”, “yêu đương” là “Đề” còn “thì nhiều” là “Thuyết”. Cái nguyên tắc cốt lõi này nó cũng logic với cấu tạo của một con chữ Hán Tự, là dồn gọn nhiều cái rời vào một ranh giới vô hình là cái Khôn=Khuôn=Khuông=Vuông=Văn, thành ra cái Văn ấy là một cái Vuông Chứa, mà lướt “Vuông Chứa”=Vựa, trong đó chứa một cái Chửa=Chữ=Trự=Tự 字 gồm nhiều bộ phận, nên Vuông Chữ = Văn Tự 文 字. Nếu tháo rời con chữ ra cho đến từng “bộ thủ” thì sẽ thấy bộ thủ là do tiếng Việt, gốc gác của nó có thể là một tượng hình từ “giáp cốt văn” hoặc có thể là một nét ký âm nào đó của chữ khoa đẩu cổ xưa của người Việt. Hán tự hoàn chỉnh được coi là từ Lệ thư, được soạn từ đời Tần, dựa trên các nguồn gốc của các loại văn tự có từ thời trước tức là thời Tiên Tần, để hình thành nên các cách tạo chữ chặt chẽ, cho Hán tự lấy đó tiếp tục phát triển về sau, đó quả là một công lao văn hóa đáng kính nể của người xưa. Cái “Tự 字” là sự ghi của một “Tiếng” do Nói, cũng như cái Tự 嗣 (là cái Chửa ở trong cái Vựa, là đứa con nối dõi – thừa tự) là ghi sự di truyền của một giống Nòi. Cái “Gốc Lên” của Nòi thì lướt là “Gốc Lên” = Gen. Còn cái “Gốc Nói” của giống nòi ấy thì lướt “Gốc Nói” = Gọi, tức là ngôn ngữ (động vật thì chỉ biết Kêu, còn con người thì biết Kêu Gọi). Việt Nam Gọi tức là “Việt Nam Ngữ” hay ngôn ngữ Việt Nam. Gọi thì người Nhật Bản phát âm là Gô (Nihon Go nghĩa là “Nhật bản Ngữ”); Gọi, trong một sắc thái khác, người Mỹ phát âm là Voice, nên đài “Voice of America” cũng giống như đài “tiếng Nói Việt Nam”. Vậy mà chỉ có trong tiếng Việt mới có từ NÔI (cái để đứa trẻ sơ sinh nằm nghe mẹ ru, dạy cho tập NÓI những từ đầu tiên của “Tiếng Mẹ Đẻ” , dịch tiếng Anh là “Tâng Ma Thơ”- Mather Tong), NÔI ấy là cái Nôi khái niệm, tức Nơi sinh ra mọi khái niệm trong ngôn ngữ. Chẳng phải ngẫu nhiên mà giáo sư Hoàng Xuân Hãn viết câu đầu tiên của sách dạy phổ cập chữ Quốc Ngữ là câu “O tròn như quả trứng gà, Ô thời đội mũ, Ơ thời mang râu”. Chữ O, nó là “Lõi” của chữ NÓI. Chữ Ô, nó là “Lõi” của chữ NỔI, chữ Ô ấy là cái Ổ của mọi khái niệm Âm (chữ N- thành phần của NÔI, là viết tắt của của Negative tức Âm) và mọi khái niệm Dương (chữ I- thành phần của NÔI, là viết tắt của Innegative tức phủ định âm là Dương. Nhận định của giáo sư Trần Ngọc Thêm đã được hội thảo quốc tế công nhận, rằng “khái niệm Âm Dương là của người Việt”). Chẳng phải ngẫu nhiên thì chắc là do tổ tiên run rủi. NÔI khái niệm của tiếng Việt cũng như cái NÔI văn hóa Việt, nó là cái NỖI túc trực bên trong mỗi con người Việt, gọi là Nỗi Lòng. Nó là cái tâm thức nặng sâu thăm thẳm bên trong là cái NỘI, gọi là Nội Tâm. Nó có ảnh hưởng rộng lớn ra ngoài từ thời quốc gia Văn Lang mênh mông có nền văn hiến rực rỡ 5000 năm trước, gọi là NỔI tiếng. Khi nền văn minh sụp đổ, những văn hóa vật thể vì nhiều lý do có thể bị tàn phá hoặc chôn dấu xuống lòng đất, lâu dần sẽ bị ăn mòn đến không còn gì, gọi là mất, nhưng những văn hóa phi vật thể thì không thể đem chôn được, nó lặn vào trong tâm thức, cho nên người Việt vẫn nhớ mãi mồn một tổ tiên xưa, và có tục thờ cúng Tổ Tiên. Từ run rủi là dùng trong lĩnh vực tâm linh, mà Tâm=0, Linh=0 nên Tâm Linh=0+0=1=Có, là có cho nên cũng có run rủi thật. Nghe phát biểu của giáo sư Nguyễn Minh Thuyết: “Tôi nghĩ tổ tiên đã run rủi cho chúng ta bằng những điềm báo rất rõ ràng: Khi ta chuẩn bị triển khai đại dự án bauxite ở Tây Nguyên thì xảy ra thảm họa bùn đỏ ở Hungary; định làm đường sắt cao tốc thì xảy ra hàng loạt tai nạn tầu cao tốc ở Trung Quốc; định làm ĐHN thì xảy ra thảm họa ĐHN ở Nhật Bản. Chẳng lẽ những cảnh báo dồn dập như vậy chưa đủ hay sao? Nên nhớ công nghệ cao đến đâu cũng có rủi ro. Lấy ví dụ, cầu Cần thơ do chuyên gia Nhật Bản thiết kế và chỉ đạo thi công bị sập cầu dẫn; Nhà máy lọc dầu Dung Quất với công nghệ tiên tiến của Pháp cũng dật dờ lúc đóng lúc mở suốt từ ngày khánh thành đến nay. Chúng ta không nên đặt cược tính mạng dân tộc vào kỹ thuật nước ngoài. Nếu còn thoát ra được thì nên cố gắng thoát ra. Thảm họa có thể xảy ra từ thiên nhiên hay từ những bất cẩn của con người mà Chernobyn là một ví dụ điển hình về sự bất cẩn ấy”.
  17. Thắp hương con lạy ông giời. Cho con đỗ đạt qua thời sinh viên. Nhà xa con chẳng có tiền. Dâng ông mấy chục lạy liền mong thương. Tính con vốn lắm bất thường. Học hành thì ít, yêu đương thì nhiều. Con thề con chẳng nói điêu. Con say cô bán bún riêu cổng trường. Cắm hoài rồi cũng vấn vương. Sợi bún, sợi thuốc con thường lại qua. Thoắt đà đã hết năm ba. Còn năm nay rốt nữa là bốn năm. Bạn bè con nó học chăm. Con không có khiếu con nằm nhả tơ. Thôi đành may rủi mong chờ. Chép phao âu cũng mắt mờ mỏi tay. Ông giời ơi hỡi có hay. Phù thêm độ nữa kỳ này con qua. Ra trường con sẽ mua hoa. Con sắm lễ vật gọi là tạ ơn. Nguyễn Văn Luân sưu tầm
  18. Báo Đức:Trung Quốc muốn có nhiều dầu khí và ảnh hưởng nhất ở biển Đông Thứ tư 23/05/2012 11:02 (GDVN) - Sở dĩ Trung Quốc ngày càng cứng rắn ở biển Đông là vì họ thấy được quá nhiều quyền lợi tại đây, nhất là họ quá đói khát về dầu khí. Giàn khoan 981 khổng lồ của Trung Quốc trên biển Đông. Ngày 21/5, tờ “Frankfurter Allgemeine Zeitung” (FAZ) của Đức có bài viết nhan đề “Giàn khoan nước sâu đầu tiên Trung Quốc thực hiện mũi khoan đầu tiên để giúp Trung Quốc có dầu khí và vai trò ảnh hưởng trên biển”. Bài viết cho rằng, Bắc Kinh muốn qua đây thỏa mãn đầy đủ nhu cầu năng lượng và bảo đảm cái gọi là quyền lợi lãnh thổ của họ ở biển Đông. Theo bài viết, đây là một sự trùng hợp, nhưng trùng hợp có ý nghĩa tượng trưng. Tuần trước, giàn khoan nước sâu đầu tiên của Trung Quốc bắt đầu khoan ở biển Đông. Trong cùng thời gian, Trung Quốc và Philippines đang tranh cãi gay gắt xung quanh tranh chấp lãnh thổ trên biển. Giàn khoan nước sâu này do Công ty Dầu khí Hải dương Trung Quốc (CNOOC) vận hành. Công ty này từng mua Công ty Giếng khoan Trên biển Na Uy, có công nghệ giếng khoan nước sâu mới nhất, nguồn vốn dồi dào. Giàn khoan nước sâu mới này được gọi là “lãnh thổ di động” và “vũ khí chiến lược”. Nó sẽ góp phần phát triển năng lượng trên biển cho Trung Quốc. Giàn khoan không những liên quan đến an ninh năng lượng của Trung Quốc, mà còn liên quan chặt chẽ tới đòi hỏi chủ quyền lãnh thổ trên biển có tranh chấp của họ. Trên thực tế, các cuộc xung đột trước đây không chỉ liên quan đến nguồn lợi cá, đá san hô và danh tiếng quốc gia, mà điều quan trọng hơn là vì năng lượng. Ở quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa (2 quần đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam - PV), quần đảo Trung Sa, bãi cạn Scarborough và toàn bộ các hòn đảo ở biển Đông đều tàng trữ rất nhiều dầu mỏ và khí đốt. Trung Quốc cắm Giàn khoan 981 trên biển Đông. Trung Quốc cảm thấy vô cùng đói khát về năng lượng. Họ là nước lớn tiêu thụ năng lượng lớn nhất thế giới và là nước tiêu thụ dầu mỏ lớn thứ hai thế giới chỉ sau Mỹ. Nhu cầu của họ đối với năng lượng tăng vọt. Năm 2009, Trung Quốc trở thành nước nhập dòng dầu thô lớn thứ hai thế giới. Năm 2011, Trung Quốc đã khai thác 204 triệu tấn dầu, dầu mỏ tiêu thụ đạt 415 triệu tấn. Người Trung Quốc đang tiêu thụ ngày càng nhiều dầu mỏ, nhưng lượng khai thác trong nước lại chưa thể mở rộng. Theo thống kê, trữ lượng dầu mỏ đã thăm dò được có thể khai thác của Trung Quốc chỉ có 2 tỷ tấn, khí đốt là 280 tỷ m3. Các chuyên gia thống kê cho thấy, đến năm 2020, sự phụ thuộc của Trung Quốc vào nhập khẩu dầu mỏ từ 51% hiện nay lên tới 70%. Để đảm bảo độ an toàn trong cung ứng năng lượng, Trung Quốc đã áp dụng nhiều phương thức, chủ trương tiết kiệm năng lượng, phát triển năng lượng thay thế, khai thác năng lượng mới và tìm kiếm nguồn năng lượng mới, đồng thời mua các doanh nghiệp năng lượng hoặc mỏ quặng của nước ngoài. Đến nay, Trung Quốc lại bắt đầu thử nghiệm giàn khoan nước sâu. Hoàn cầu báo 24/04/2012: Tháng 7/2011 Quốc hội TQ nhất trí phê chuẩn “Qui hoạch phát triển khu thí nghiệm tổng hợp kinh tế biển Quảng Đông”, trong đó chỉ rõ: ưu tiên phát triển kinh tế biển; xây dựng hệ thống các xí nghiệp hải dương hiện đại, thúc đẩy phát triển sự nghiệp khoa học kỹ thuật, giáo dục, văn hóa biển; tăng cường xây dựng văn minh sinh thái biển; sáng tạo thể chế quản lý tổng hợp biển; xây dựng khu thí nghiệm tổng hợp kinh tế biển Quảng Đông thành một khu trung tâm nâng cao tính cạnh tranh kinh tế biển của cả nước, tiến tới thành một khu tập trung chuyển hóa có hiệu quả cao những sáng chế khoa học kỹ thuật về biển, một khu mẫu mực về xây dựng văn minh sinh thái biển, một khu vực tiên tiến trong quản lý tổng hợp về biển. Mục tiêu của nó là nâng cấp các khu kinh tế biển của Việt Đông và Việt Tây cũng như tác dụng đầu tàu của vùng kinh tế biển Tam Giác Châu Giang. Trọng điểm của Khu thí nghiệm tổng hợp kinh tế biển là khu cảng nước sâu và khu công nghiệp hóa dầu Mậu Danh ở Tây Nam tỉnh Quảng Đông. Tại đây tháng 4/2012 đã làm lễ động thổ xây dựng thêm nhà máy lọc dầu mới lớn nhất TQ, thời gian thi công 2 năm. Các công trình khác đang thi công là nhà máy nhiệt điện do Điện Quảng Đông đầu tư, công trình cầu cảng nước sâu do Cảng Quảng Châu đầu tư, công trình ứng dụng tổng hợp dầu khí do tập đoàn LNG đầu tư, và các hạng mục đầu tư khác với tổng vốn lên đến hơn 60 Tỷ RMB tính đến tháng 3/2012. Phương châm của TQ là “đắc cảng khẩu giả, đắc thiên hạ” cho nên các thành phố ven biển trong cả nước đua nhau xây dựng cảng biển. Hiện nay trên thế giới cứ 10 cảng công te nơ thì 6 cái là ở TQ. Nâng Quảng Đông lên thành một tỉnh mạnh kinh tế biển đó là chiến lược của TQ. Thời gian thí nghiệm là 5 năm, trong thời gian này nhà nước sẽ cho Quảng Đông một loạt chính sách riêng. Mậu Danh sẽ nắm vững cơ hội này mà ung dung xây dựng, thừa kế sự tăng trưởng, đem lại hạnh phúc cho nhân dân. Tháng 3/2012 chính quyền tỉnh Quảng Đông phê duyệt xong dự án khu đô thị mới Tân Hải ở Mậu Danh với tổng diện tích 1688 km vuông, những con đường giao thông huyết mạch đã hoàn thành, nối Mậu Danh vào vùng kinh tế sôi động nhất TQ, đến 2016 lại có thể sử dụng sân bay Trạm Giang. Các tuyến đường sắt đang hoạt động và các tuyến đang xây dựng…Mậu Danh đang trở thành một khu công nghiệp hóa dầu, khu kinh tế biển đẳng cấp quốc tế. Hiện nay qui mô lọc dầu hiện có của công ty hóa dầu Mậu Danh là 13,5 triệu tấn/năm, sau khi hoàn thành mở rộng, trong năm nay sẽ đạt sản lượng 25,5 triệu tấn /năm. Đến năm 2020 thì qui mô đạt 40 triệu tấn /năm. Những xí nghiệp sản xuất gia công các loại sản phẩm sau hóa dầu cũng đang đầu tư xây dựng ở Mậu Danh. Mấy tháng gần đây ông Lương Nghị Dân thị trưởng và ông Dương Nhuận Qúi phó thị trưởng Mậu Danh cùng đoàn các chuyên gia tuần nào cũng đi Bắc Kinh một lần để cầu tài chính và cầu nhân tài cho phát triển Mậu Danh. Qúi một năm nay , riêng đầu tư công nghiệp vào Mậu Danh tăng 164,8%, cao nhất tỉnh Quảng Đông. Thể hiện của chính sách mới: Nam phương nhật báo Quảng Đông ngày 18/01/2012 : Quảng Đông dựa vào cải cách để đập tan lợi ích nhóm Nhậm chức tỉnh trưởng tỉnh Quảng Đông chính thức từ tháng 11 năm 2011 , ông Chu Tiểu Đan tuyên bố, cải cách là động lực cốt lõi phát triển Quảng Đông trong tương lai. Mặc dù lợi ích nhóm là trở ngại lớn nhất cho cải cách trước mắt, nhưng sắp tới Quảng Đông sẽ đưa ra biện pháp cụ thể hơn, thực tại hơn để tăng lực cho cải cách, đập tan nhóm lợi ích. Ngày 17-01-2012, sau khi hội nghị đại biểu nhân dân toàn tỉnh Quảng Đông khóa 11 vừa kết thúc, ông Chu Tiểu Đan đã trả lời các nhà báo, ông nói, cải cách thể chế đã tiến vào khu vực, nhưng trở ngại lớn nhất cho cải cách là cục diện nhóm lợi ích đã hình thành trong nhiều năm qua. Ông nói thẳng, muốn cải cách tiếp tục cần phải có dũng khí, chính quyền Quảng Đông phải ra tay đập tan các nhóm lợi ích. Quảng Đông sẽ phải đập tan các nhóm lợi ích liên quan quyền lợi các cơ quan chính phủ, không thích ứng với kinh tế thị trường, không thích ứng với phát triển khoa học. Ông nhấn mạnh, trong cuộc chiến đấu này Quảng Đông có quyết tâm rất lớn, đồng thời sẽ đưa ra các biện pháp cụ thể hơn, thực tại hơn, quản dụng hơn. Ông nhấn mạnh, muốn giải quyết được các mâu thuẫn kinh tế xã hội từng tích lũy trong quá trình phát triển với tốc độ cao, phải dựa vào chuyển biến phương thức phát triển kinh tế, cũng phải dựa vào cải cách sâu sắc cơ chế thể chế. Chính phủ phải chuyển một phần quyền quản lý cho các tổ chức xã hội. Ông nói thẳng: “Tôi nhậm chức tỉnh trưởng, thực sự là chịu gánh nặng lớn, trách nhiệm lớn, áp lực lớn. Tôi tự giác tiếp thụ sự giám sát đôn đốc của nhân dân toàn tỉnh”. Ông tự tin vào việc quyết tâm đập tan các nhóm lợi ích, ông chỉ rõ, năm nay Quảng Đông vẫn giữ được kinh tế xã hội phát triển lành mạnh ổn định; cùng với việc điều chỉnh cơ cấu, chuyển biến phương thức phát triển, sẽ tăng lực cho cải cách chứ không giảm yếu. (Thu nhập bình quân đầu người của Quảng Đông hiện nay là 7000 USD/năm). Đối với việc Quảng Đông sẽ chuyển biến chức năng của chính quyền, ông Chu Tiểu Đan nói: “Chính phủ không thể ôm đồm hết mọi việc dưới gầm trời, chức năng của chính phủ phải qui vị, việc mà chính phủ quản không được, quản không tốt, đáng giao cho cấp dưới thì giao cho cấp dưới, đáng thả cho tổ chức xã hội thì thả cho tổ chức xã hội. Ông nhấn mạnh: “Sắp tới Quảng Đông càng coi trọng tác dụng của nguồn lực xã hội, nhiệm vụ cải cách trọng điểm là chế định và thực thi phương án cải cách là trao một phần quyền quản lý xã hội và quản lý dịch vụ cho các tổ chức xã hội, đây là một thăm dò bạo gan”. Đối với những vụ biểu tình quần chúng trong năm qua, ông Chu Tiểu Đan chỉ rõ: “Trong quá trình tăng cường sự chuyển hình, thực tế là có tích tụ một số mâu thuẫn xã hội, diễn biến thành những sự kiện đột phát có tính quần chúng. Nguyên nhân của tất cả những mâu thuẫn nói trên, tôi cho rằng nguyên nhân đều đến từ xung đột lợi ích. Mâu thuẫn xã hội ở một số địa phương là do chúng ta làm việc không dựa theo pháp luật, làm hại đến lợi ích của nông dân. Chính phủ phải chân chính để lợi ích của nhân dân lên hàng đầu, phải thông qua xây dựng pháp chế hoàn mỹ mà giải quyết một cách cơ bản mâu thuẫn này. Cần phải xác định trên cơ sở pháp luật rằng đất đai là quyền tài sản cốt lõi của nông dân, không thể tùy tiện xâm phạm. Cùng với việc tăng cường xây dựng cơ chế giải quyết mâu thuẫn xã hội, chính phủ cần chú trọng kiện toàn pháp chế một cách chân chính, dùng pháp chế bảo hộ quyền lợi và lợi ích của nông dân. Chỉ có trao cho nhân dân quyền lợi và lợi ích hợp pháp, để thực sự có sự bảo hộ của hiệu ứng pháp luật thì mới có thể giảm thiểu các mâu thuẫn xã hội”.
  19. Không có gì là rác cả Sống sót trở về sau chiến tranh tàn khốc giữa thập niên 40 (thế kỷ vừa qua), Soko Morigana tìm về căn nhà cũ, đối mặt với những khó khăn và mất mát tận cùng của đời người. Cha mẹ không còn, anh chị em phân tán, nhà cửa tiền bạc bị tịch thu. Ông cố ngoi lên bằng ý chí trở lại học đường nhưng đành chào thua vì cuộc vật lộn cam go, có khi bao tử thường xuyên lên tiếng kêu khóc. Giữa hiu quạnh đổ nát cả thân và tâm, một sự mầu nhiệm kỳ diệu nào đó đã dẫn bước chân vô định của Soko tới trước cửa chùa Daishuin ở Tokyo. Ngước nhìn mái chùa rêu phong, lưỡng lự đôi ba phút rồi Soko mạnh dạn gõ cửa. Người mở cửa chính là Đại sư Zuigan Goto. Soko ngỏ lời xin được đại sư thâu nhận làm đệ tử. Đại sư chỉ hỏi một câu duy nhất: - Người tin ta chứ? Nếu không tin ta thì ở đây bao lâu cũng chẳng học được gì, phí công ta thôi. Soko trả lời: - Con xin hết lòng tin tưởng. Đại sư mở rộng cửa, lạnh lùng truyền: - Theo ta. Soko líu ríu theo vào. Tới góc sân, đại sư chỉ cây chổi tre, ra lệnh: - Quét dọn vườn. Trước khi cầm chổi, Soko quỳ xuống bái tạ đại sư đã thâu nhận mình. Công việc quét vườn thì có chi là khó, Soko hăng hái quét… quét… và quét. Chẳng mấy chốc đã gom được đóng rác cao nghệu đầy đất, sỏi , đá vụn và lá khô. Dừng chổi, Soko lễ phép hỏi: - Bạch thầy, con phải bỏ đống rác này đi đâu ạ? Bất ngờ, đại sư quát lên: - Rác! Ngươi nói gì? Không có gì là rác cả! Soko ngẩn ngơ nhìn đống chiến lợi phẩm, không hiểu, đây không là rác thì là gi? Còn đang lúng túng thì đại sư bảo: - Vào nhà kho kia lấy cái bao lớn ra đây Khi Soko tìm được cái bao mang ra thì thấy đại sư đang dùng hai tay gạt đám lá khô sang một bên. Ông lại bảo: - Mở rộng họng bao ra. Soko tuân lời, lẳng lặng theo dõi thầy đại sư quơ từng ôm lá, bỏ vào bao, thỉnh thoảng lại giậm giậm cho lá xẹp xuống. Cuối cùng, những lá khô trong đống rác đã được nhồi vào bao, cột lại. Soko lại nghe lệnh truyền: - Đem bao lá này vào nhà kho, để dành đun nước tắm. Vừa vác bao lá trên vai, Soko vừa nghĩ: Còn đống đất đá, không phải rác thì dọn đi đâu? Ấy thế mà khi ở nhà kho ra, Soko thấy đại sư đang lượm những viên sỏi, đá vụn ra. Trước vẻ ngẩn ngơ của Soko, ông vừa hỏi vừa sai: - Có thấy hàng hiên ngay dưới máng xối kia không? Có thấy những chỗ bị nước mưa xoáy cho lồi lõm không? Đem những sỏi, đá vụn này trám vào chỗ đó. Soko vừa làm vừa thán phục thầy mình, không những các chỗ lồi lõm kia bằng phẳng trở lại mà còn đẹp hơn hẳn lên nữa. Bây giờ đống rác (theo Soko) chỉ còn lại đất và rêu. Lần này thì chắc chắn phải hốt, đổ đi rồi. Nhưng kinh ngạc biết bao khi Soko quay lại sân, thấy thầy mình thong thả nhặt từng miếng đất, từng tảng rêu trong tay, rồi chậm rãi nhìn quanh, tìm những khe tường nứt, những chỗ lỗi lõm trên mặt đất, từ tốn trám vào. Bây giờ thì đống rác không còn đó. Nhưng cũng không phải là vật phế thải gom quẳng đi đâu. Mỗi loại rác, nếu biết tận dụng, sẽ lại trở thành hữu ích. “Không có gì là rác cả” là bài học đầu tiên đại sư Zuigan Goto dạy cho người đệ tử vừa thâu nhận, sau này chính là Thiền sư Soko Morinaga nổi tiếng của xứ Phù Tang, viện trưởng Đại học Hanazono, thuộc dòng Lâm Tế 臨 濟( nghĩa là sẵn sàng cứu độ) ở Nhật Bản. “Không có gì là rác cả” tuy đơn giản mà bao hàm một triết lý duyên khởi. Trong rác có hoa và trong hoa có rác, rác chính là hoa và hoa chính là rác. Nhìn thấy được sự thật này nên không hề có sự loại bỏ, đối kháng và mâu thuẫn, mà hoàn toàn nhuần nhuyễn, tùy thuận, các pháp cùng nương vào nhau để tồn tại và phát triển. Hãy nhìn thật kỹ, thật sâu sắc vào những bất đồng, những việc không như ý của tất cả những gì được gọi là xấu xa, đáng loại trừ, vứt bỏ… “Nhìn” cho đến khi nào nhận ra “Không có gì là rác cả !” để ôm ấp, bao dung và tận dụng hết thảy thì cuộc sống này đẹp biết dường nào ! LTD 04/07/2010 [ Đại sư Zuigan Goto đã có phương pháp dạy đúng như chữ Giáo 教 của chữ nho Việt : chữ Giáo 教 gồm chữ Già 老 ở trên, chữ Con 子 ở dưới và bộ thủ chữ Tủy 夊 bên cạnh. Già thì ra Lão 老, trong cái Nôi khái niệm Già=Dài=Dai=Dãn=Dão=Lão=Lao=Lâu=Lớn=Lang=Lãnh, từ đôi “dài lâu” và “lớn lao” đều là nói về tuổi, quan Lang cũng là quan Lớn, là Lãnh đạo của một Lãnh thổ (nôm na thì Lãnh đạo là đầu Lớn, Lãnh thổ là đất Lớn). Con thì ra Tử 子, trong cái Nôi khái niệm Kẻ=Con=Quan官=Quân君=Cái=Ko=Cu=Tu=Tí子=Tử子 ( Ko là người Nhật dùng, Tu là người Tày dùng, Tử 子 là người Hán mượn dùng nhưng họ phát âm lơ lớ là “dử”). Tủy 夊 là tên một bộ thủ, có nghĩa là “chậm”, tượng hình giống như hai chân đi dọc theo trên một thanh cầu khỉ, đương nhiên là động tác ấy phải Từ Từ, phải Tùy, phải Kỹ; lướt cả câu có ba mệnh đề là câu “Từ từ-Tùy-Kỹ” thì thành Tủy 夊. Chữ Tủy 夊 này trong Hán ngữ không có đứng riêng một mình để mang nghĩa là gì cả. Nhưng Từ từ-Tùy-Kỹ thì chính là nguyên tắc của giáo dục: Phải chậm Từ Từ, phải Tùy đối tượng học, phải Kỹ càng. Chữ Giáo, thuyết văn giải tự của Hứa Thận giải thích nghĩa của nó là “thượng thi hạ hiệu” tức cái hành vi thực thi của người trên sẽ là cái hiệu quả cho người dưới bắt chước (về sau suy diễn thành các câu thành ngữ “nhà dột từ nóc”, “thượng bất chính, hạ tắc loạn”). Giải thích ấy của Hứa Thận cách nay 2000 năm cũng đúng như kết cấu bằng tiếng Việt của từ Giáo 教 là ở câu “Già làm mẫu cho trẻ Háo” được lướt gọn lại thành “Già…Háo” = Giáo. Cả kết cấu, hình tượng, cả ý nghĩa và nguyên tắc của chữ Giáo 教 đều thấy thể hiện đầy đủ trong câu ca dao Việt : “… Cầu tre lắt lẻo gập ghình khó đi. Khó đi, mẹ dắc con đi. Con thi trường học, mẹ thi trường đời” ]
  20. Tử thần trong ruột già 19 Tháng Một 2012 Mời quí vị và quí bạn thử áp dụng cách săn sóc ruột già theo BS Gene JM Dillague… có thể chúng ta sẽ sống thêm vài ba chục năm để an hưởng tuổi già chăng? * Cẩm nang về sức khỏe trong đường Ruột Già. Hãy cùng nhau tìm hiểu… * Tại sao chúng ta đang chết sớm hơn so với khả năng chúng ta có thể sống? * Tại sao Ruột Già khiến chúng ta có nhiều vấn đề về sức khỏe? * Tại sao có sự gia tăng về trường hợp Ung Thư Ruột Già? Tác Giả: Bác Sĩ Gene JM Dillague, M.D. Người dịch: Nguyên Thụy Đôi dòng về tác giả: Bác Sĩ Y Khoa Gene JM Dillague là một Bác Sĩ Y Khoa Gia Đình. Lòng nhiệt thành của ông đối với Y Khoa Phòng Ngừa đã bộc phát từ khi bà mẹ của ông qua đời vì bệnh ung thư ruột già. Kể từ biến cố ấy ông đã dốc tâm đeo đuổi con đường Y Khoa Phòng Ngừa và cống hiến cuộc đời sự nghiệp vào công cuộc phát huy phương thức phòng bệnh và bảo vệ sức khoẻ. Ông cũng đã tốt nghiệp hậu đại học về ‘Homotoxicology’ nhằm tìm hiểu vai trò của độc chất đối với các căn bệnh của con người. Ông cũng là tác giả của một số sách phổ thông về “Chất độc từ bên trong: Sự thật chết người về những gì trong cơ thể bạn” và “Tử thần trong Ruột Già”. “TỬ THẦN Ở TRONG ĐƯỜNG RUỘT GIÀ.” Hippocrates Sức khoẻ của chúng ta quý giá vô cùng. Đó là kho tàng vĩ đại mà nhiều người vẫn chưa nhìn thấy để trân quý. Nhiều người sẵn sàng bỏ tiền đầu tư vào nhiều thứ trên đời hơn là dùng tiền tài để bảo vệ sức khỏe của chính mình. Một điều nực cười là họ quên rằng tài vật ngoại thân có thể bị mất hết và có thể tạo dựng lại được… nhưng khi sức khỏe không còn nữa thì đời sống của họ cũng kể như chấm dứt. Ngày nay, hầu hết các vụ khánh tận mới xảy ra bắt nguồn từ những khoản tiền chi phí về y tế. Lời thông điệp này rất rõ: Khi mất sức khoẻ, không những bạn mất đi cái đời sống của bạn mà bạn sẽ mất cả cái sinh động của cuộc sống. Cho nên chúng ta cần phải đầu tư vào kho tàng sức khỏe để bảo đảm có được một đời sống lâu dài và thịnh vượng. Chúng ta hãy bắt đầu bằng cách tìm hiểu vài điều liên quan đến điều kiện của sức khỏe chúng ta ngày nay. MỘT SỰ ĐẦU TƯ XỨNG ĐÁNG Bạn có tin rằng cơ thể của chúng ta có thể tồn tại vói số tuổi đời là MỘT TRĂM HAI MƯƠI NĂM nếu chúng ta có đầu tư vào sự khỏe mạnh của nó. Có thể nói là cơ thể con người được cấu tạo để sinh tồn và chịu đựng. Tuy nhiên những thống kê về sức khỏe mới đây cho thấy rằng tuổi thọ trung bình của con người chỉ khoảng giữa 70 và 77 tuổi. Những nguyên nhân chính của tử vong bắt nguồn từ BỆNH TIM MẠCH và UNG THƯ. Điều hiển nhiên là cơ thể của chúng ta đã phải chịu đựng quá nhiều. Sự lạm dụng và phế mặc không chăm sóc cơ thể với thời gian đã đưa đến sự phát triển của những căn bệnh giết người. Những gì chúng ta đang làm đối với cơ thể chúng ta đã làm giảm tuổi thọ của chúng ta hàng thập niên. “Chúng ta không CHẾT… mà thực ra chúng ta TỰ GIẾT chúng ta thì đúng hơn.” TẠI SAO CHÚNG TA LẠI CHẾT SỚM? Câu trả lời cho vấn đề này có phần phức tạp. Nhưng kinh nghiệm và những tìm hiểu của tôi đã đưa đến chỗ tôi tin rằng sự giải thích như sau có phần thích đáng: Nguyên nhân của các bệnh tật có thể bắt nguồn từ sự tích tụ cặn bã bên trong cơ thể. Hãy thử tưởng tượng cơ thể của bạn là một cái hồ cá kiểng trong nhà! Giống như một cái hồ cá kiểng trong nhà, 70% cơ thể chúng ta là dung dịch nước. Các tế bào của chúng ta giống như các con cá vàng đang bơi tung tăng trong khung cảnh hồ cá đầy nước. Cái lý do mà cá bị chết trong hồ không phải chỉ là vì chúng ta không cho cá ăn… mà chính là vì chúng ta đã không giữ cho nước được sạch sẽ. Chất độc hoặc cặn bã đã được xâm nhập vào cơ thể và tích tụ trong cơ thể. Chúng đe dọa các tế bào một cách trực tiếp hay gián tiếp. Chúng có thể đi vào các tế bào và can thiệp vào chức năng của các tế bào hoặc làm biến dạng DNA trong tế bào để đưa đến kết quả là các tế bào trở nên bất bình thường không còn sinh hoạt đúng chức năng của chúng hoặc tạo ra những kết quả bất bình thường. Theo một số công cuộc khảo cứu thử nghiệm thì chất độc được coi là có liên hệ mật thiết với nhiều căn bệnh kể cả sự hình thành của những phiến trong động mạch dẫn đến sự cấu tạo của các bướu. Cho nên khi nào chúng ta có sự tích tụ độc chất trong cơ thể là chúng ta gia tăng nguy cơ của sự phát triển những căn bệnh nguy đến tính mạng. CHÚNG TA TÍCH LŨY ĐỘC CHẤT RA SAO? Chất cặn bã độc hại không phù hợp với cơ thể chúng ta, cho nên cơ thể chúng ta có khuynh hướng thải bỏ độc chất cặn bã đã chất chứa trong cơ thể. Một trong những bộ phận tiêu trừ cặn bã độc hại chính là RUỘT GIÀ. Ruột Già chính là “cái thùng rác” của cơ thể và có nhiệm vụ tháo đổ rác rến cặn bã từ cơ thể hang ngày. Những khám phá mới đây cho thấy ruột già của chúng ta bắt đầu thất bại trong việc tiêu trừ cặn bã của cơ thể một cách đúng mức. Cách thức ăn uống, lối sống và sử dụng thuốc men đã đưa đến chỗ tích lũy chất cặn bã hoặc phân trong ruột già. Sự thất bại trong việc tiêu trừ cặn bã một cách đúng mức đã đưa đến sự tồn đọng chất cặn bã trong cơ thể. Phân đang thối rữa ra trong ruột già Phân bị tồn đọng đang tan rã hoặc thối rữa trong ruột già tạo ra chất độc có hại cho sự sống cùng chất hơi khí để rồi thẩm thấu vào mạch máu và tích tụ lại trong các mô (tế bào cùng loại) và các bộ phận trong cơ thể. Chất nhờn từ vách ruột tiết ra do phản ứng Ruột già phản ứng lại ảnh hưởng của phân đang thối rữa bên trong ruột bằng cách tiết ra chất nhờn. Tuy nhiên, khi chất nhờn càng dày đặc thì chúng lại càng chất chứa thêm phân cặn bã khiến vấn đề trở nên trầm trọng hơn. “Phiến màng nhầy”: Một tổng hợp rắn do cặn bã phân và chất nhờn. Chất độc hại thấm vào vách ruột và dẫn đến các mô (tế bào cùng loại) Với thời gian, sự tổng hợp của chất nhờn tiết ra từ vách ruột và chất phân cặn bã đang thối rữa sẽ tạo thành từng lớp chồng chất lên nhau và cứng lại thành từng mảng bám chặt nơi vách ruột già. Những mảng này đã được Bác Sĩ Y Khoa Richard Andersen đặt tên là “MUCOID PLAQUE” (“phiến màng nhầy”) Cho đến nay thì chất phân cặn bã bị tồn đọng nhiều hơn và do đó số lượng chất độc hại đi vào cơ thể có phần gia tăng. Nói tóm lại thì phần tử đóng góp quan trọng trong việc tích lũy chất độc hại cho cơ thể chính là RUỘT GIÀ. Đây là nơi xuất phát của sự tự chuốc độc cho cơ thể. “PHIẾN MÀNG NHẦY” LÀ GÌ? Sau đây là trích dẫn từ công trình nghiên cứu của Bác Sĩ Richard Andersen, N.D., N.M.D. “Cái ruột trong cơ thể chúng ta có thể tích trữ cả hàng chục năm những vật thể đã được tiêu hóa một phần hoặc đang rữa nát (kể cả thuốc men và các hóa chất có độc tính). Sau những cuộc giải phẩu tử thi, kết quả cho thấy một vài bộ ruột người đã cân nặng đến 18 kí lô (40 pounds) và đã trương phình lên với đường kính khoảng 30 phân (12 inches) nhưng bên trong chỉ có một con đường nhỏ bằng cái viết chì mà thôi để cho phân vận chuyển. 18 kí lô (40 pounds) ấy chính là kết quả của những tầng lớp của chất nhờn tiết ra từ ruột được trộn lẫn với phân cặn bã kết tinh lại và chồng lên nhau, chúng có hình dạng giống như cao xu của vỏ xe đặc cứng với màu xanh đen hoặc một miếng da thú cũ kỹ được phơi khô. Tôi gọi đây là ‘MUCOID PLAQUE’ (‘phiến màng nhầy’). Phiến màng nhầy này, khi được gỡ ra trong một lần rửa ruột, thường nhìn giống như dây thừng cuốn vào nhau, màu trắng đen, chồng lớp lên nhau, cuộn gập lại, xếp nếp, có hình dạng và cấu trúc của vách ruột. ‘Phiến màng nhầy’ có thể thay đổi khác nhau nhiều tùy theo tình trạng sinh hóa của bộ ruột trong mỗi cá nhân. Nó có thể cứng, dòn và mỏng; nó cũng có thể rắn chắc và dày, dai, ướt và giống như cao su; cũng có thể mềm, dày; hoặc mềm, trong suốt và mỏng; màu sắc có thể từ nâu nhạt, đen, loặc xanh đen cho đến vàng hay xám, và đôi khi tiết ra mùi rất khó ngửi. Một khách hàng của tôi, suốt trong thời gian tiến trình rửa ruột một tháng, đã thải ra một phiến màng nhầy dài gần 5 mét (15 feet); một khách hàng khác đã thải ra tổng cộng 5 kí lô (11 pounds) phiến màng nhầy trong suốt thời gian rửa ruột. Việc xổ để tống ra khỏi cơ thể một tổng số phiến màng nhầy có chiều dài từ 10 mét đến 15 mét (35 đến 45 feet) là một điều không có gì là bất thường cả, điều này thường xảy ra ở tuần lễ cuối cùng. Trong suốt hơn 14 năm qua, kinh nghiệm y khoa thực hành của chúng tôi trong việc theo dõi hàng ngàn chương trình rửa ruột già cho thấy là hầu hết mọi người đã thải ra vô số chất lạ lùng này. Tôi đặt ra từ ngữ ‘MUCOID PLAQUE’ (‘phiến màng nhầy’), có nghĩa là một màng chất nhờn để diễn tả sự tích lũy không tốt cho sức khỏe của những chất lầy nhầy trên vách ruột. Ngành y khoa qui ước cho rằng chất lầy nhầy này chỉ là một tầng chất nhớt hay ‘glycoproteins’ (cấu tạo bởi 20 amino acids và 50% carbohydrates) được tiết ra một cách tự nhiên bởi đường ruột để thích ứng với nhu cầu bảo vệ chống lại acid và độc chất…” Phỏng theo báo USA Today số ra ngày 11 tháng giêng năm 1999: “Hầu hết mọi người ăn thực phẩm dinh dưỡng theo tiêu chuẩn Hoa Kỳ ‘lầy nhầy và dính như keo hồ’ có khoảng từ 5 đến 10 pounds chất phân cặn bã chất chứa trong ruột già. Theo sự giảo nghiệm tử thi, John Wayne đã có khoảng 40 pounds chất này vào lúc chết. Elvis cũng đã có khoảng 60 pounds phỏng theo hồ sơ”. CHUYỆN GÌ XẢY RA KHI CHÚNG TA CÓ ‘PHIẾN MÀNG NHẦY’ TRONG CƠ THỂ? Phiến màng nhầy này tạo thành vật cản khiến cho phân cặn bã đang thối rữa bị vướng mắc thêm trong cơ thể. Nếu chúng ta có một THÙNG RÁC ĐÃ ĐẦY TRÀN nhưng lại tiếp tục quăng vứt thêm rác vào trong đó, để rồi rác thặng dư sẽ tràn ra các mô tế bào xung quanh và thấm vào hệ thống trong cơ thể. Bác Sĩ Bernard Jensen gọi đây là ‘lúc khởi đầu của SỰ CHUỐC ĐỘC TỰ ĐỘNG’ hoặc sự tự đầu độc… Một thân xác đầy cặn bã bẩn thỉu có khuynh hướng sinh ra những vấn đề, chẳng hạn như: 1. Vấn đề ngoài da (mụn, viêm, ngứa) 2. Nhức đầu đông hay thường xuyên 3. Cảm mạo thường xuyên, vấn đề viêm xoang mũi, ho 4. Hơi thở dốc, tức ngực 5. Vấn đề bụng dưới (sưng, bón, acid cao, không tiêu) 6. Đau nhức ở bắp thịt và khớp xương 7. Trì trệ, thiếu năng lực 8. Lên cân 9. Bướu và tiểu nang 10. Vấn đề kích thích tố Lẽ dĩ nhiên hậu quả lâu dài là căn nguyên của các chứng bệnh đường ruột, chẳng hạn như bệnh túi nhỏ vách ruột già, bướu, nhiễm trùng ở túi vách ruột già… và UNG THƯ RUỘT GIÀ! Cho nên, điều tối quan trọng cho bạn là bạn cần giữ cái thùng rác của bạn cho sạch sẽ và đổ rác cho đều đặn. LÀM THẾ NÀO ĐỂ TRỤC NHỮNG PHIẾN MÀNG NHẦY RA KHỎI CƠ THỂ? Một trong những phương pháp phổ thông để trục xuất những phiến màng nhầy đòi hỏi nhịn đói bảy ngày và trải qua một chuỗi thủ tục có tên là COLON ENEMAS. Enema là một thủ tục dùng ống xuyên qua đường hậu môn để bơm vào ruột già dung dịch rửa ruột hoặc chất nước có tên là ‘Bentonite’. Có nơi dùng dung dịch cà phê đun nóng trong khi có chỗ lại dùng dung dịch nước muối. Những dung dịch được sử dụng sẽ xâm nhập vào khắp ruột già để rồi sau đó chúng sẽ tự thoát ra khỏi cơ thể hoặc được rút ra bằng máy rửa ruột. Có nhiều người không thích phương cách kể trên. Phương pháp GIẢN DỊ, AN TOÀN và ÍT TỐN KÉM là chương trình “SO EASY”. CHƯƠNG TRÌNH “SO EASY” Đây chính là một CHƯƠNG TRÌNH THỰC PHẨM DINH DƯỠNG 3 NGÀY trong đó quí vị chỉ dùng hoàn toàn chất dinh dưỡng thiên nhiên lấy từ rau trái có chất sơ. Những bữa ăn có dạng bột pha trong nước (meal replacement shakes) hầu giúp quí vị rửa sạch, làm trẻ trung cùng tăng cường sinh lực cho hệ thống tiêu hóa. Chương trình này được thực hiện với những mục đích sau đây: 1. Cung cấp chất sơ thiên nhiên từ thảo mộc hầu giúp đường ruột được sạch sẽ và giúp cặn bã phân tụ tập thành từng khối khiến việc tiêu hóa được dễ dàng hơn. 2. Giúp tái tạo các phân hoá tố và vi khuẩn tốt cần thiết cho sự tiêu hoá. 3. Tống xuất “Phiến Màng Nhầy” và cặn bã phân tồn đọng ra khỏi ruột già. 4. Giúp trung hòa chất acid trong cơ thể và giúp nuôi dưỡng các tế bào. 5. Phục vụ sức khỏe tổng quát và cải tiến chất lượng của đời sống. CÁC SẢN PHẨM CỦA CHƯƠNG TRÌNH “SO EASY” gồm có: Bio Wheatgrass: Wheatgrass nguyên chất và các phân hoá tố Bio Cell: Cà rốt, đậu nành, chanh giấy, át xít béo Bio Diet: Chất sơ thảo mộc, guar gum, wheatgrass Bio Balance: Gạo lức, chất sơ lấy từ palm oil, hương vị trái cây thiên nhiên Mỗi gói sản phẩm là một hỗn hợp của thực phẩm thiên nhiên không dùng hóa chất và được chế biến bởi những khoa học gia thương thặng của Á Châu. Những bột thức ăn bổ dưỡng cung cấp cho người sử dụng một sự dinh dưỡng vẹn toàn cùng những sinh tố, khoáng chất, phân hoá tố và chất sơ cần thiết cho việc rửa sạch, quân bình, và nuôi dưỡng hệ thống tiêu hóa của quý vị trong vòng ba ngày. THỜI KHÓA BIỂU CHO BA NGÀY: Buổi sáng lúc thức dậy: Bio Wheatgrass Điểm tâm: Bio Diet + Bio Balance Ăn thêm vào buổi sáng: Bio Cell Bữa trưa: Bio Diet + Bio Balance Ăn thêm vào buổi chiều: Bio Cell Bữa tối: Bio Diet + Bio Balance Trước khi đi ngủ: Bio Wheatgrass
  21. Có câu "Đức năng thắng số" mà !
  22. Hay tuyệt, họ còn giữ được cái âm “Trưng Trắc”, “Trưng Nhị”, cũng như còn giữ được cái âm chỉ tộc người mẫu hệ là “Mệ Nàng”. Minangkabau nghĩa là “trâu thắng trận”, thì chính xác thì nó phải là “Mệ Nàng Cả Clâu”, nghĩa đầy đủ là “Mệ Nàng thắng trâu”. Từ “Cả” trong tiếng Việt nghĩa là “thắng” hay “được”, như trong từ đôi “Được Cả” và trong thành ngữ “được ăn Cả, ngã về không” hay trong câu “gái hay trai đều là con Cả” hoặc “anh cả, anh hai, cả hai đều là anh Cả”. (Mẹ của hai Bà Trưng có tên tục là Mế Mèn, dân gian gọi là mế Mèn Lành vì bà rất nhân hậu, về sau dịch âm và dịch nghĩa của hai chữ Mèn Lành thành ra hai chữ Man Thiện).
  23. Sản xuất model mới giá 1 triệu đồng thì Laido cho tôi đăng ký một chiếc nhé, dù chưa biết gì, khi kiến thức của tôi đang là con số không,hi hi... Nhưng cái lý của người Việt là Tò-Mò (Tay trước, Mắt sau, Tò=Tay, Mò=Mắt), có phương tiện trước thì thì xài được, ngược lại thì toàn xài hỏng. Đó là nghĩa của từ Thực-Dụng, cái Thật phải có trước,cái Dùng mới là sau, cái Thấy là trước, cái Dòm là sau. Một nguyên lý cũng vậy, cái Chính Xác của nguyên lý là yêu cầu trước (chẳng thế mà phải đổi chỗ Tốn-Khôn) , cái Giải mới là sau, nếu không có cái Chính Xác của nguyên lý thì cái Giải dù có khua đến mấy vẫn thành ra Dỏm. Dân gian có câu: Tay đũa là vua, Mép khua là hề. Người mẹ Việt trong bữa cơm luôn tay đũa gắp thức ăn ngon cho các con. Cũng như xưa có câu “dân dĩ thực vi thiên” (rồi còn câu: Trời đánh còn tránh bữa ăn, nên chẳng ai nỡ cướp bát cơm của kẻ khác), đó là cái Thật. (Tò-Mò = Tay-Mắt, trai gái tìm hiểu nhau đều theo qui tắc này cả, để không gặp phải đồ dỏm. Chúc Laido sản xuất ra nhiều loại hàng Việt Thật, tức các loại Vật Thiệt (chứ không phải Nhái hoặc Dỏm).
  24. “Chữ Khoa Đẩu”, Hán ngữ gọi là “Khoa Đẩu Tự 蝌蚪字kedouzi” là một từ thông dụng chỉ thứ ký tự ký âm, lúc đầu chỉ được hiểu giới hạn là thứ ký tự ký âm cổ đại từng tồn tại phổ biến thời Tiên Tần. Nay dân mạng tiếng Hoa cũng còn dùng từ “khoa đẩu tự” (không viết hoa) để chỉ chữ cái Latin được dùng để phiên âm phương ngữ (theo như họ nói, có như vậy mới phiên chính xác được ca dao và các bài dân ca cổ còn lưu truyền trong dân gian các địa phương). Chỉ cần vào mạng Google gõ ba Hán tự Khoa Đẩu Tự 蝌蚪字là sẽ đọc được hàng loạt bài giải thích về Khoa Đẩu Tự cổ đại, cũng như hàng loạt bài về nghiên cứu “khoa đẩu tự” (tức latin pinyin) để phiên âm phương ngữ. Đủ thấy mong ước hội nhập Đông Tây (phiên âm chính xác âm tiết phương Đông bằng ký tự của phương Tây đã thành ký tự quốc tế trên bàn phím) là có , của nhiều cộng đồng ngôn ngữ phương Đông, đã được người Việt Nam có quyết tâm thực hiện đầu tiên trước đây hàng nhiều thế kỷ, kể từ khi người Việt Nam dùng chữ Quốc Ngữ. Quote Thạc sĩ Phạm Văn Ánh (Viện Văn học): cho rằng cách lập luận của ông Xuyền dựa nhiều trên cách đọc của chữ quốc ngữ hiện tại, chưa có lý do gì để khẳng định các cụ ta lại sử dụng nguyên lý đọc này. Các cụ ta ngày xưa “sử dụng nguyên lý đọc” nào? Rõ ràng là không phải nguyên lý đọc kiểu “đánh vần” của chữ Quốc Ngữ, vì 5000 năm trước các cụ ta chưa tiếp xúc với các ngôn ngữ chắp dính phương Tây. Các nhà truyền giáo phương Tây vì nặng quán tính của ngôn ngữ chắp dính phương Tây nên mới đưa qui tắc “đánh vần” vào đọc tiếng Việt (mà cách dạy của ta vẫn bắt chước một cách sai lầm đến tận bây giờ- Giáo sư Cao Xuân Hạo, một trong những người giỏi tiếng Pháp nhất Việt Nam, từng phản đối cách dạy đọc theo kiểu “đánh vần”). Bởi nó không đúng với tư duy Việt là “đơn âm thành nghĩa” (như nhận định của các học giả TQ về ngôn ngữ Bách Việt), “một tiếng phát ra là có nội dung trọn một nghĩa như là một từ” (theo Cao Xuân Hạo). Ví dụ từ “phương” (viết dài tới 6 chữ cái latin), đọc theo “đánh vần” thì sẽ như sau: “p”- “h”- “phờ”, “phờ- ư- phư”, “phư- ơ - phươ”, “ơ- ennờ-rê- ơng” là “phương”. Theo như Chữ Khoa Đẩu (hiểu là “chữ khoa đẩu thời Hùng Vương mà cụ Xuyền phát hiện và nghiên cứu”) thì âm tiết “phương” có nghĩa là phương ấy chỉ cần đọc lướt hai âm tiết “phờ” và “ương” thì lướt thành “phương”, mà ghi chỉ bằng hai con chữ cái Khoa Đẩu, một con chữ cái Khoa Đẩu biểu thị âm tiết “phờ”, con kia biểu thị biểu thị âm tiết “ương”, thật là giản dị và ngắn gọn có mỗi hai con chữ cái. Ngày nay dù chữ Quốc Ngữ viết dài tới 6 con chữ cái latin để có “phương” (do tại vì mấy ông “chắp dính”) nhưng người Việt vẫn chỉ đọc một âm tiết phát là “phương” khi bắt bằng một cái liếc nhận dạng chữ “phương” chứ đâu có ai đánh vần ? Cụ Xuyền không hề “dựa nhiều trên cách đọc của chữ quốc ngữ hiện tại” một tí nào. Bởi Chữ Khoa Đẩu thì từng con chữ cái của nó không thể đem so sánh xem nó tương đương “phụ âm” nào hay “nguyên âm” nào trong 24 con chữ cái Latin mà chữ Quốc Ngữ sử dụng (bởi như vậy là theo tư duy “chắp dính” của ngôn ngữ phương Tây). Mà mỗi con chữ cái của Chữ Khoa Đẩu chẳng là “phụ âm” cũng chẳng là “nguyên âm”, nó là một “âm vận” (tương tự như những con chữ cái Hiragana của Nhật Bản), nó trọn vẹn có nghĩa. Hai hoặc ba “âm vận” viết liền nhau thì đọc lướt thành một “âm vận” mới, tức một “tiếng” (đương nhiên là thành một “từ” vì nó có nghĩa trọn vẹn – theo Cao Xuân Hạo). Cho nên số lượng con chữ cái Chữ Khoa Đẩu chỉ vỏn vẹn dưới 10 con chữ, mà diễn đạt tiếng Việt tương đương như số lượng 24 con chữ cái của chữ Quốc Ngữ. Và bởi mỗi con chữ cái Chữ Khoa Đẩu là một “âm vận” nên đâu cần dấu thanh điệu, vì thanh điệu nó đã lặn trong “âm vận” rồi. Ví dụ cái âm vận “ướt” hay “ấp” thì chúng chỉ có thể có thanh điệu giới hạn trong sắc hay nặng, chứ làm sao nó chứa nổi các thanh điệu khác như không, huyền, ngã, hỏi? Phát âm chuẩn 6 thanh điệu chỉ có là ở giọng Bắc Bộ mà thôi (giọng các vùng khác, theo như Giáo sư Cao Xuân Hạo đã từng làm phổ ký, chỉ có 4 hoặc chỉ 2 thanh điệu). Nhưng ngay cả ở vùng sát cạnh Hà Nội thì câu “con bo vang ăn co đông Ba Vi” có mỗi một thanh điệu, mà người ta vẫn hiểu là “con bò vàng ăn cỏ đồng Ba Vì” đấy thôi. Nhiều tiền tố (phụ âm đầu, có, nhưng không thành tiếng) cũng được Chữ Khoa Đẩu diễn đạt đúng, như từ “blời”, tương tự như từ “vzô” (vô, vào) của người Nam Bộ phát âm, bởi đó cũng là một đặc điểm của ngôn ngữ nhóm Môn-Khơ Me. Về câu cú trong hành văn thì chắc rằng Khoa Đẩu văn giống như cách hành văn của Truyện Kiều (chỉ có khác là không phải bằng thơ lục bát). Nhà văn hóa Phạm Quỳnh từng nói: “Truyện Kiều còn, tiếng Việt còn; tiếng Việt còn, dân tộc Việt còn”. Giáo sư Cao Xuân Hạo từng chỉ rõ: ngữ pháp trong các câu Kiều mới đúng là ngữ pháp tiếng Việt, cốt lõi của ngữ pháp ấy là “Đề” và “Thuyết”, chứ không phải là kết cấu câu theo Chủ ngữ - Vị ngữ - Tân ngữ, như do ảnh hưởng của ngữ pháp tiếng Pháp. Tôi từng được nghe Giáo sư kể: Có một người Úc hỏi giáo sư rằng tại sao ông ta vào bưu điện VN hỏi cô nhân viên câu tiếng Việt rất sõi: “ Chị làm ơn cho tôi hỏi, người ta bán tem ở đâu?” mà cô ấy không hiểu. Giáo sư trả lời: “Vì anh hỏi không như người Việt vẫn thường hỏi, nên cô ấy không bắt kịp ý anh muốn. Anh chỉ cần hỏi: Tem bán ở đâu hả chị? là họ dễ hiểu ngay. Trong câu này, “Đề” là cái nội dung chủ yếu muốn nêu, đó là Tem, còn “Thuyết” là phần thuyết giải cái đề ấy, đó là “bán ở đâu”, chẳng có cái gì là “chủ động từ” hay “bị động từ” cả. Vậy mà chủ thuyết ngữ pháp “Đề và Thuyết” hàng chục năm nay vẫn chưa được Ngôn ngữ học VN công nhận. Chỉ có nhóm nghiên cứu tiếng Việt của ĐH KHXHNV tp HCM là áp dụng để soạn sách dạy tiếng Việt.Tôi đã được dùng giáo trình đó (in photocopy giấy A4) đem làm gia sư dạy tiếng Việt cho một người Pháp và một người Nhật ở Sài Gòn, vui đáo để, mà thấy hiệu quả hơn nhiều, nếu dùng “Sách dạy tiếng Việt cho người nước ngoài” bán ở các hiệu sách, mà đọc qua thì thấy là từ “sách dạy tiếng Nga” được dịch ra thành “sách dạy tiếng Việt cho người nước ngoài”. Có lần trên đường phố Hà Nội tôi thấy một khẩu hiệu vải đỏ chữ vàng chăng rộng, viết câu “Hãy nói không với vi phạm an toàn giao thông !” (do người Anh học tiếng Việt viết giùm chăng?, nếu người Anh, họ chỉ cần nói một chữ No !, còn nếu ở Vinh hay Huế thì chỉ cần viết “Nỏ vi phạm an toàn giao thông ! ”). Ngẫm lại Truyện Kiều, mỗi câu lục bát, người Việt không biết chữ, thuộc câu đó, hay ngườiViệt bác học đọc câu đó, đều hiểu như nhau nội dung của câu ấy . Vì mỗi câu lục bát của Kiều còn có cả số thứ tự, còn có thể dùng để bói như luận một quẻ Dịch, mà cũng đúng cho từng cảnh mà câu đó ứng. Ví dụ câu “Trải qua một cuộc bể dâu, Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”. Qua một buổi tọa đàm cũng thấy “nhiều điều nghe thấy mà đau đớn lòng”.