Lãn Miên
Hội Viên Ưu Tú-
Số nội dung
595 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
19
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by Lãn Miên
-
HOA NGỮ TỪ ĐÂU ĐẾN? Tác Giả: Phan Châu Hồng nguồn http://phanchauhong.com/lich-su/nguon-goc-hoa-ngu/ Ghi chú: Bài viết này nguyên là một phần tách ra từ bài viết “Tiêng Việt và Hoa ngữ có xuât xứ khác nhau” để độc giả dễ đọc và dể phân biệt hơn. Theo nghiên cứu của Stephen Oppenheimer viết trong sách Eden in the East của ông, thì hiện nay nhiều nhà ngôn ngữ học đã đồng thuận: Trong vùng Viễn Đông có đến 3 ngữ hệ lớn, là Hoa-Tạng (Sino-Tibetan), Nam Á (Austro-Asiatic) và Nam Đảo (Austronesian); ngoài ra, còn có một ngữ hệ thứ tư là Austro-Tai, tức nhóm Tai-Kadai, nhưng mối quan hệ lai lịch chưa rõ ràng lắm.[1] Còn theo nghiên cứu của Roger Blench viết trong luận đề “Stratification in the peopling of China: how far does the linguistic evidence match genetics and archaeology?” mà ông đã đọc tại diễn đàn Human migrations in continental East Asia and Taiwan: genetic, linguistic and archaeological evidence ở Geneva ngày 10-13/6/2004, thì chỉ riêng trên đất nước Trung Hoa cũng đã có đến 8 ngữ hệ khác nhau. Đó là các ngữ hệ: Hoa-Tạng (Sino-Tibetan) hay Tạng-Miến (Tibeto-Burman), Mèo-Dao (Hmong-Mien), Altaic (như tiếng Turkic, Mongolic, Tungusic), Daic, tức Tai-Kadai hay Kradai, Nam Á (Austroasiatic), Nam Đảo (Austronesian), Indo-European (như tiếng Wakhi, Tajik, Russian…), và Triều Tiên (Korean), Riêng tiếng “Waxianghua” chưa được phân loại.[2] Hoa ngữ với mối quan hệ Hoa-Tạng Cũng theo nghiên cứu của Oppenheimer, thì ngữ hệ Hoa-Tạng (Sino-Tibetan phylum) gồm hơn 300 ngôn ngữ, được hơn một tỉ người nói, chỉ đứng hạng nhì sau ngữ hệ Ấn-Âu (Indo-European), và chia thành hai phân hệ chính yếu: phân hệ Hoa Hán (Sinitic subphylum) và phân hệ Tạng-Miến (Tibeto-Burmese subphylum). Phân hệ Hoa Hán gồm 14 phương ngữ lớn. Trong đó, tiếng Quan Thoại được xem là ngôn ngữ quốc gia chính thức và phổ biến nhất, mà nguồn gốc của nó xuất phát từ phía Bắc sông Hoàng Hà. Tuy nhiên, 14 phương ngữ của phân hệ Hoa Hán này đã không thể hiểu nhau, nên phải dùng duy nhất chữ Hán để biết ý nghĩa của nhau. Tất cả đều ĐƠN ÂM (monosyllabic) và ĐA THANH (tonal), và KHÁC với các thứ tiếng của những hệ ngôn ngữ khác trên thế giới, như Ấn-Âu và Nam Đảo đều ĐA ÂM (polysyllabic) và ĐƠN THANH (monotonal or atonal). Riêng nhóm phương ngữ ở miền Nam Trung Quốc, gồm cả tiếng Quảng Đông hoặc còn gọi là Việt ngữ, được nói lan rộng xuyên suốt các vùng dọc bờ biển Thái Bình, từ Korea xuống đến tận Việt Nam, và chiếm một diện tích hơn nửa lãnh thổ Trung Quốc. Còn phân hệ Tạng-Miến có quê quán xuất phát từ Tây Tạng, Tây Tứ Xuyên, Vân Nam, và vùng đầu nguồn của các con sông lớn Brahmaputra, Irrawaddy, Cửu Long và Dương Tử, và cũng được nói rộng khắp từ các vùng Tây Tạng, Đông-Bắc Ấn Độ, đến các vùng Miến Điện và Tây-Nam Trung Quốc. Nghiên cứu còn cho biết, mặc dù hai phân hệ Hoa Hán và Tạng-Miến được đa số các nhà ngôn ngữ học đồng thuận gộp chung thành “họ hàng” với nhau; nhưng không phải vì thế mà những cư dân nói các phân hệ này đều có chung nguồn gốc. Vì xét về mặt di truyền thể lẫn diện mạo bề ngoài, họ xuất phát từ nhiều nguồn gốc khác nhau. Chẳng hạn, di truyền thể của người miền Nam Trung Quốc và người miền Nam Tây Tạng GẦN GŨI VỚI CÁC CƯ DÂN NÓI NGÔN NGỮ NAM Á và TAI-KADAI hơn, so với các cư dân Bắc Hán nói tiếng Quan Thoại. Còn sọ não của các cư dân phía Nam Tây Tạng và vùng thung lủng đầu nguồn của các con sông lớn đều có khuynh hướng hình dạng tròn (brachycephalic), giống với người Nam Á và Đông Á. Trong khi ấy sọ não của các cư dân sống du mục thảo nguyên ở phía Bắc Tây Tạng và các gia đình quí phái ở Lhasa lại có hình dạng dài (dolichocephalic), giống với người Thổ Nhĩ Kì và châu Ấu. (Oppenheimer, sđd, tr. 126- . Cũng cần nói thêm ở đây, các kết quả khảo sát “DNA” do nhà di truyền học Bing Su và các đồng nghiệp của ông thực hiện gần đây cũng cho biết nhiễm sắc thể Y của tộc người Tây Tạng có nhiều nguồn gốc xuất phát từ Trung Á và Đông Á (Su, Bing, et al., 2000).[7] Hoa ngữ không phát sinh khởi thủy ở Trung Quốc Gần đây, đã có nhiều nhà ngôn ngữ học bắt đầu nghi ngờ về mối liên hệ gia phả của ngữ hệ Hoa-Tạng. Theo nghiên cứu của nhà ngôn ngữ học George Van Driem, Hoa ngữ tuy được kể thuộc họ hàng với các ngôn ngữ Tạng-Miến, nhưng là ngôn ngữ không phát sinh ở giai đoạn khởi thủy: vì nó tỏ ra KÉM PHÂN HÓA ĐA DẠNG so với các ngôn ngữ khác của nhóm Tạng-Miến. Do đó, qua gợi ý của các nhà ngôn ngữ học khác, như Benedict, Shafer, Burling, và Bradley, George Van Driem đã đồng tình đề nghị THAY TÊN NGỮ HỆ HOA-TẠNG THÀNH NGỮ HỆ TẠNG-MIẾN.[8] Còn Roger Blench, cũng trong bài tham luận của ông vừa đề cập ở trên, đã đặt nghi vấn về mối liên hệ gia phả Hoa-Tạng và đã nhận xét: “chính sự phân loại bên trong của ngữ hệ Hoa-Tạng còn nhiều điều mâu thuẫn tranh cãi [...]. Lí do là vì Hoa ngữ KHÔNG CÓ TÍNH ĐA DẠNG NHIỀU so với các ngôn ngữ còn lại của ngữ hệ Hoa-Tạng, và đó có thể là do sự bành trướng của Hoa ngữ chỉ mới xảy ra gần đây mà thôi.” Thật vậy, cũng theo Roger Blench, “Những gì chúng ta biết về Hoa ngữ cho thấy sự bành trướng của Hoa tộc chỉ mới xảy ra gần đây mà thôi; cho nên, gần như không có một văn hóa khảo cổ học xa xưa nào trước thời điểm này chứng tỏ có mối quan hệ với các cư dân nói Hoa ngữ hiện nay.” Rồi ông giải thích tiếp, “cho dù lai lịch Hoa ngữ bắt nguồn từ đâu trong hệ Hoa-Tạng; nhưng có một sự công nhận rộng rãi, đó là sự bành trướng của Hán ngữ đi dần từ Bắc xuống Nam, từ khu vực trồng lúa kê đến khu vực trồng lúa nước, và đã trấn áp đồng hóa các thành phần cư dân bản địa rất đa dạng. Tuy nhiên, Hoa Hán VẪN KHÔNG THỂ ĐỒNG HÓA CĂN CƯỚC của những cư dân thuộc các khu vực cộng đồng cổ xưa nhất ở miền Bắc Trung Quốc (từ 6.500 năm trước).” Để dẫn chứng điều này, Tiến sĩ Roger Blench còn cho biết thêm: “Nghiên cứu khảo cổ học của Nhật Bản gần đây về các thành phố cổ xưa ở Trung Quốc, như Pengtoushan (khoảng 6500-5800 TCN), cho thấy chúng KHÔNG THUỘC DI SẢN HOA HÁN, nhưng thuộc di sản của người Mèo-Dao.” Cùng một quan điểm như thế, nhà khảo cổ học Hoa Kì Bellwood cũng tin tưởng rằng những di tích trồng lúa nước có tính cách đại trà ở Hemudu (Hà Mẫu Độ ), gần khu vực cửa sông Dương Tử, đã xảy ra giữa 7.000 và 5.600 năm trước, CÓ NGUỒN GỐC VĂN HÓA NAM ĐẢO (Oppenheimer, sđd, tr. 69). Hoặc như nghiên cứu của Tiến sĩ Wilhelm G. Solheim II, Giáo sư nhân chủng học Đại học Hawaii, thì cả văn hóa Ngưỡng Thiều ở mền Bắc lẫn văn hóa Long Sơn ở miền Nam Trung Quốc đều phát triển từ những căn bản VĂN HÓA HÒA BÌNH.[9] Như vậy, qua các dẫn chứng và lập luận trên, chúng ta nhận thấy: Hoa ngữ KHÔNG LÀ NGÔN NGỮ BẢN ĐỊA TIÊN KHỞI ở Trung Quốc, nhưng là do đồng hóa căn cước với những nhóm ngôn ngữ bản địa khác, như Việt, Mèo, Dao, Thái, v.v…, để dần dà biến thái và “khai sinh” thuộc nhóm ngôn ngữ Hoa-Tạng – với sự bảo lưu cấu trúc của cách nói Hoa Hán, mà ngày nay chúng ta được biết với tên gọi là Quan Thoại. Nói khác đi, Hoa Hán ngữ không hoàn toàn là tiếng mẹ đẻ của Hoa Hán tộc, nhưng là tổng hợp vay mượn của nhiều ngôn ngữ của các tộc người bản địa KHÁC HOA TỘC đã “hiện diện trên đất nước Trung Hoa trước người Trung Hoa”. Và có thể đã là lí do khiến John DeFrancis, tác giả sách The Chinese Language: Fact and Fantasy, đã phải thốt ra những lời nhận xét chua cay nhưng xác thực: “Không có tiếng Trung Hoa, chỉ có một nhóm những tiếng nói quan hệ với nhau, mà một số người này gọi là những tiếng nói địa phương hay còn gọi là phương ngữ, còn người khác lại xem như những ngôn ngữ riêng biệt.”[10] Tóm lại và kết luận Như vậy, qua những nghiên cứu trên, chúng ta nhận thấy Hoa ngữ không là ngôn ngữ phát sinh khởi thủy ở Trung Quốc, nhưng chỉ là một ngôn ngữ “sinh sau đẻ muộn” so với nhiều ngôn ngữ địa phương khác. Tuy nhiên, nhờ ưu thế chính trị và nhất là nhờ khả năng vay mượn và đồng hóa với các ngôn ngữ của các tộc người địa khác, mà Hoa ngữ đã dần dà chiếm ưu thế và “thay hình đổi dạng” để chính thức biến thành tiếng nói quốc gia, gọi là Hoa Hán ngữ hay còn gọi là tiếng Quan Thoại. Ngoài ra, cũng qua những khái quát ngôn ngữ học ở trên, chúng ta đã KHÔNG HỀ THẤY MỐI LIÊN HỆ HUYẾT TỘC NÀO giữa tiếng Việt và tiếng Trung Hoa, vì những lí do chủ yếu mà chúng tôi xin lặp lại sau đây: Điểm 1, Hoa ngữ tuy xưa nay được xem như ở trong ngữ hệ Hoa-Tạng và cũng được xem như đứng đầu của hệ này, nhưng mối quan hệ này gần đây đã bị nghi ngờ. Lí do là vì không có mối quan hệ huyết tộc, mà chỉ có mối quan hệ chính trị lịch sử (do chủ trương đồng hóa) mà thôi. Điểm 2, trong khi tiếng Việt Nam đã được nhìn nhận, chẳng những có MỐI LIÊN HỆ DI TRUYỀN THỂ gần gũi với nhóm Việt ngữ bên Trung Quốc, mà còn có nguồn gốc di truyền thể với cả hai ngữ hệ Nam Á và Nam Đảo. Đây là điều đã phản ảnh trong các truyền thuyết “con Rồng cháu Tiên” hoặc Phục Hi và Nữ Oa hoặc Âu Cơ và Lạc Long Quân, để nói lên một quá trình kết hợp và lai chủng giữa hai nền văn hóa sông biển và núi rừng của khối dân tộc Việt. Và điểm 3, cho đến nay các phương ngữ ở Hoa Nam vẫn còn mang “khai sinh” Việt ngữ, tức đã có nguồn gốc xuất phát KHÁC với Hoa ngữ Quan Thoại. Trong lúc ấy, tiếng Việt Nam vẫn một mình một chợ ở tận phía Nam bên này biên giới Trung Quốc, nhưng lại có họ hàng với các phương ngữ ấy – mặc dù đã xa nhau cả về không gian lẫn thời gian. Lãn Miên Trả lời bài trên: Nôm chính là Văn Lang Qua bài “Chữ Nôm có trước chữ Hán” của Đỗ Thành blog Nhạn Nam Phi viết về chữ Gươm khắc trên chuôi gươm của Việt Vương Câu Tiễn, qua ký tự biểu ý khắc trên xẻng đá khai quật ở Quảng Tây của người Âu Việt có niên đại cách nay 7000 năm, và qua tồn tại của chữ Nôm Tày, Nôm Dao, Nôm Việt Đông thì rõ thêm là chữ Nôm có trước khi hình thành chính thức chữ Hán. Các tộc dùng chữ Nôm đều viết bản thân cái từ Nôm là Nôm 口南. Theo biến âm bằng QT Lướt thì “Nam Gồm”=Nôm, vậy Nôm có nghĩa là chữ viết của gồm nhiều tộc người Việt phương Nam. Theo biểu ý thì chữ Nôm là Vuông口 Nam南 tức Văn Lang: Vuông 口 (phát âm của người Triều Châu, xưa thuộc đất Việt Mân) = Văn 文 (viết lệch đi của chữ Vuông 口, theo như giải thích của Thuyết Văn Giải Tự cách nay 2000 năm ) = Vẹn (vì vuông có bốn ven, “Ven Ven”=Vèn, 0+0=1; “Vèn Vèn”=Vẹn, 1+1=0) = Vạnh (thành ngữ “Tròn Trặn Vuông Vắn, nói kết cấu xen là “Tròn Vành Vạnh, Vuông Chằn Chặn”; như Cu Tí Lâu Viễn nói xen thành Cu Lâu Tí Viễn, “Cu Lâu”=Câu, “Tí Viễn”=Tiễn, họ của Việt Vương Câu Tiễn có thuyết cho là hậu duệ của Đại Vũ, nước Việt hậu duệ dân tộc Bách Việt này tồn tại 8 đời vua là hết, giống Lý bát đế sau này,con số thật huyền bí) = Manh = Mảnh (tiếng Việt Đông). Nam = Lam (tên của sông Cả, tức sông Cha, thành ngữ “Núi Hồng sông Lam”, ngọc phả Hùng Vương viết “Kinh Dương Vương quê ở Ngàn Hống” tức dãy núi Hồng Lĩnh) = Lâm (tiếng Đài Loan đọc chữ Nam南) = Lang. Vậy rõ ràng NÔM là Văn Lang. Thành ngữ “Nôm Na là cha mach qué”, Tám Quẻ và Quẻ Dịch là hai loại quẻ, “Quẻ Quẻ”=Que, 1+1=0, hai loại que để bói ( “Biết do Coi”=Bói) nên “Que Que”=Qué ). Nôm Na nghĩa là Văn Lang Nói, cũng như Thoòng Và là Thường Van, tức tụi Việt Thường nó Nói. Cũng giống như người Nhật nói “Ni Hôn Gô” tức Nhật Bản Gọi, người Đài Loan nói “Tai Wan Gí” tức Đài Loan Gọi. Na=Nói=Gọi=”Gọi Lời”=Gợi=Ới. Tiếng Nhật Ha-Na-Xư nghĩa là Nói. Ới=Gọi, “Có gì mày Ới cho tao một tiếng nhá”. Gọi nhiều thì “Ới Ới”=ƠI, 1+1=0. Em không gọi “Trai ơi !” thì em gọi “Chài ơi !” (tiếng Tày-Thái), gọi “Chàng ơi !”, gọi “Choòng ơi !”(tiếng Quảng Nôm), gọi “Boòng ơi !” (tiếng Khơ Me). Từ Điển Tiếng Việt giải thích “Ơi là từ dùng để kêu, đặt sau vị ngữ”. Xạo. Muốn dịch câu “Bạn ơi” ra tiếng nước ngoài phải dịch chính xác là “Bạn à, tôi muốn gọi bạn nhiều lắm đấy” . Ới mới là Gọi, Ơi nghĩa là muốn gọi nhiều. “Làm gì mà ơi ới ở ngoài ấy thế ?” nghĩa là “Làm gì mà muốn gọi nhiều và đang gọi ở ngoài ấy thế?”. Hò=Hô=Gọi, hò đò là gọi đò. “Hô Ới”=Hỡi, sắc thái thống thiết hơn là Ơi. Sông Lam là sông Cả. Cả=Cha=Ta=Tía=Tia. Người Hoa gọi Cha là Tia, gọi mẹ là Néng. “Lẹo Néng”=Léng, “Phụ lẹo Néng”=Phéng. Léng Phéng là chỉ sự giao hợp ngoại tình.”Quan hệ gì thì quan hệ, đừng có mà léng phéng đấy nhé!”.
-
Cổ tích của các sắc tộc ở Tây Bắc kể rằng, loài người sinh ra từ trong một quả bầu, khi quả bầu già vỏ khô rồi người mới lấy dùi nung đỏ dùi lỗ chui ra. Kẻ ra trước dính muội nhiều nên da ngăm, kẻ ra sau dính muội ít hơn nên da sáng hơn. Khoa học nhân chủng chỉ rõ tổ tiên loài người xuất phát từ châu Phi, người da đen, chữ không phải xuất phát từ người vượn Bắc Kinh. Vì vào kỷ nguyên băng hà, người vượn Bắc Kinh đã tuyệt chủng, chưa kịp tiến hóa lên dạng trí nhân. Phân tích âm dương trong tiếng Việt thì từ Mẹ theo QT Nở sinh ra cặp đối Mun (0) / Minh (1). Mun=Hun=Hôn昏 = Hoen = Đen = Hoẻn =Hắc黑. Mun=Mọi=Mình là chỉ người da ngăm. Ngăm=Ám=Âm. Minh=Mỗi=Mình là chỉ người da sáng. Sáng=Láng=Lượng=Dương. Người Kinh xưa ghi ký tự lên “Thanh Tre”= Thẻ, bằng cách xăm lên thẻ những nét kẻ thẳng. Tượng trưng Dương hay đàn ông là nét kẻ liền ( - ): “Kẻ Liền”=Kiền=Càn=Cả=Cha=Bá=Bố=Phò=Phụ=Đụ=Chú= =CHÀY=Chài=Trai=Ai=Am=Nam=NƯỜNG. (Chày=Tay=Tơi là cái vỏ ngoài, gọi là cái Am, tiếng Anh thì “Arm” lại là Tay). Tượng trưng Âm hay đàn bà là nét kẻ nối ( - - ): “Kẻ Nối”=CỐI=Cái=Con=NÕN=Nụ=Nữ=Nọc=Nái=Gái=Ai= =Mái=Mẹ=Đẻ.( Nọc=Nọt=Rọt=Ruột=Rỡi là cái lõi của từ). Cặp đối Cối/ Chày hay Nõn/ Nường là tượng trưng phồn thực. “Thanh Tre”=Thẻ=Quẻ= “Qu ẻ của Ngài” = Quái, dùng để “Biết Coi”= Bói khi rút “Thẻ Xăm”= Thăm. Chữ Nôm 喃 đọc là Vuông 口 Nam 南. Vuông Nam = Văn Lang. Nam Việt 南粤 thời Triệu Đà có nghĩa là Nước Việt. (Tiếng Thái gọi nước là Nam. Nam=Nậm=Nước=Nác=Lạc). Nam Việt quốc của Triệu Đà có nghĩa là Lạc Việt quốc. Đây là một nước mới, thành lập lại vào thời Tần Hán, trên cơ sở đất đai và dân cư Việt của Văn Lang xưa. Tiếng Đài Loan đọc chữ Việt Nam 越 南là Oát Lâm. Oát=Quát=Quất=Quế. Quế Lâm = Oát Lâm = Việt Nam, đều là đất của Văn Lang xưa. Đất Quế 桂 đại diện cho tỉnh Quảng Tây, xe ô tô của tỉnh đều có mã số bằng chữ Quế 桂. Đất Việt 粤 đại diện cho tỉnh Quảng Đông, xe ô tô của tỉnh đều có mã số bằng chữ Việt 粤. Người Việt 粤 là chủ nhân đầu tiên của nền nông nghiệp trồng trọt của loài người. Trời đã đem cái sáng của mình mà sinh ra loài người (Trời=Ngời=Người). Trời lại cho người con Trâu để làm nông nghiệp (Trời=Trâu), con Trâu được người thuần dưỡng và sử dụng nên “Người dùng Trâu”= Ngầu. Ngầu là từ chỉ con Trâu ở tiếng Quảng Đông. Và con “Ngầu Bé”= Nghé. “Con Trâu là đầu cơ nghiệp”, trong các công cụ làm nông thì con Ngầu là tối ưu, nên “Ngầu Ưu”= Ngưu. Cũng như các dòng họ thì họ Hùng là cổ xưa nhất, nên gọi là “Họ Cựu”= Hữu, gọi là Hữu Hùng, tức cái họ Hùng cổ xưa. Chữ Việt 粤 có nghĩa đen biểu ý là “Kinh 口 và Thái 采 cùng chung một cái Cày 亏” (Giống như đôi trâu cày đôi gồm con Dí và con Thá cùng kéo một cái cày khai phá nông nghiệp cổ đại từ nam ra bắc. Dí=Dính=Kinh. Thá=Thái), giải thích như sau: VUÔNG 口=Vắn=Văn=Vành Vạnh=Mảnh=Mình=KINH=Minh= =Linh=Láng=Tráng=Trưng=Chưng=Choang=SÁNG=Sáng Sớm=Sáng Sủa=Lửa=Lả=Tá=Tá Hỏa=Ta=“Tất Cả ”=Đa= =ĐÔNG=Đúc=Đi=Di=Dí=Dữu=Hữu=Hồng=Giông=RỒNG. THÁI 采= Chái = Cháy = Chiếu = Chiều = Chóa = Lóa = THÁ = Tả= =TIÊN=TÂY=Tà=Đa=Đoài=Đúc=Đuốc=Thuộc=Thụt=Thục=Chúc= =Chói=Chang=Choang=SÁNG=Sáng Sủa= Lửa= Lả = Tá =Tá Hỏa=Ta= “Tất Cả” Dòng Kinh là dòng Rồng ở phía Đông, là dòng rắn. Dòng Thái là dòng Tiên ở phía Tây, là dòng chim. Nền nông nghiệp trồng trọt ở xứ ấm áp nên no đủ quanh năm, (“Trời sinh voi trời sinh cỏ”), đẻ nhiều, dân số tăng nhanh( “Con rắn không chân mà đi nổi năm rừng bảy rú. Con gà không vú mà nuôi nổi chin mười con”), nên đã đi khai thác ra bắc từ cổ đại để làm nông nghiệp, càng ra bắc càng rộng ra hai phía đông và tây (Đông Di, Tây Thục), hình thành nên nền văn minh Văn Lang trong phạm vi từ một bên là Thái Bình Dương, một bên là Ấn Độ Dương, đến phía bắc là bờ nam Dương Tử. Con Trâu đã quen kéo cày ra bắc nên nó quen hiểu khẩu lệnh: Dí ! (Rì !) là rẽ Phải, tức bên Hải, là bên Đông, bên mặt trời lên, có biển. Thá ! (Tắc !) là rẽ Trái, tức bên Sài, là bên Sơn có núi, bên mặt trời lặn chiều tà. Con Trâu của nền văn minh lúa nước đã từ mảnh đất Việt Nam đi ra bắc đến tận Dương Tử, mang tên là con Ngầu=Ngưu. Dí=Di=Dẽ=Dưới=Dữu=Hữu (phía Đông thấp hơn) Thá=Tả=Tắc=Thắc=Thác=Tháp (phía Tây cao hơn, “Quản bao lên Thác xuống Ghềnh”). Con Trâu biết đi ra bắc vì người Việt có cái la bàn gọi là Kim chỉ Nom. Kim=Chim (như cái mỏ con chim)=Châm=Trâm (như cái trâm cài tóc)=Trân (Hán ngữ phiên âm và dịch ý là cái Chỉ Nam Trân 指 南 针, dùng chữ Nam 南 phiên âm chữ “Nom”, cái kim không phải chỉ hướng nam mà là nó chỉ hướng bắc là hướng Nom theo chòm sao bắc đẩu mà đi, càng ra bắc đất càng rộng ra hai phía đông và tây, cho nên hướng Nom là hướng Nống. Nom=Nống=Bồng=Bành=Bắc. Nền văn minh lúa nước đã từ ĐNÁ bành trướng ra bắc, làm nên nền văn minh Trung Hoa.
-
Tại lễ hội Đền Hùng năm 2013 có bán cuốn sách "Giới thiệu khu di tích lịch sử Đền Hùng" của tác giả Vũ Kim Biên sưu tầm, nghiên cứu, biên soạn. Sở văn hóa thể thao du lịch Phú Thọ xuất bản năm 2013. Trong sách, trang 49, mục 12: Nước Văn Lang, trong đó viết: "Nước Văn Lang do 15 bộ lạc hợp thành...Cương vực này tương đương Bắc Bộ và Trung Bộ ngày nay (1), dân số nước Văn Lang khoảng một triệu người" và chú thích (1): Các sách sử thời phong kiến nói cương vực nước Văn Lang đến tận hồ Động Đình thuộc tỉnh Hồ Nam Trung Quốc. Vấn đề này theo chúng tôi hiểu là: Cương vực ấy chính là địa bàn Bách Việt, tức là hàng trăm bộ lạc thuộc giống người Việt cư trú ở Việt Nam, Lào, Quảng Đông, Quảng Tây từ rất xa xưa. Khoảng đầu thiên niên kỷ 1 trước công nguyên, trăm bộ lạc này liên kết lại với nhau thành từng nhóm lập các quốc gia, trong đó có nước Văn Lang của Vua Hùng. Các sử gia phong kiến không phân biệt rõ ràng, đã đẩy cương vực nước Văn Lang sang tận hồ Động Đình. Hoặc giả các vị đó cài mật mã để sau này con cháu tìm hiểu về nguồn gốc Bách Việt cũng nên".
-
QUI TẮC TẠO TỪ CỦA TIẾNG VIỆT Cái Nền để nghiên cứu lời Nói của giống Nòi là cái Nôi khái niệm. Thủa bé , một lần đọc báo thấy nêu một nhà nghiên cứu ngôn ngữ người Pháp (thời thuộc địa) nhận xét rằng: “Tiếng Việt là mẹ của các ngôn ngữ trên thế giới”, và đưa ra nhiều ví dụ. Như trường hợp giục phu kéo xe tay đi nhanh, người Việt lệnh “Mau lên!”, người Madagatsca ở Ấn Độ dương lại lệnh “Gao len!”(hay là muốn nói “gâu” lẹ! ?). Qui tắc tạo từ của tiếng Việt (QT) trình bày bằng 5 mục dưới đây: 1/ NÔI khái niệm: Đặt tên là NÔI vì: 1.NÔI=Nôi. Nôi là vật dụng để đặt đứa trẻ sơ sinh nằm nghe mẹ ru mà biết nói. 2.NÔI là cái Ổ (chữ Ô ở giữa) sinh ra ngôn từ tính Âm (N-Negative) và ngôn từ tính Dương (I-Innegative), (theo đúng “Nam tả, Nữ hữu”) 3.NÔI=Hội=Hột=Một. Nôi là một hột giống sinh ra muôn vàn hột giống khác (Tất cả đều trong Một. Một=1 là Dương. Dương sinh ra Âm; Dương có trước, Âm có sau). Hội=Hột=Một: Một hột cây hội tụ tất cả các gen của một loài cây. 4.NÔI=Nở. NÔI là NÔI mẹ ắt nở ra muôn vàn Nôi con. Nôi con sinh ra nhiều từ sắc thái khác nhau nhưng ý nghĩa của chúng là cùng nôi khái niệm. Chính là NÔI đã làm ra QT Nở. 5.NÔI=Nở=Vỡ=Vỏ=Vo. Quá trình nảy mầm của hột giống là Nở cho Vỡ cái Vỏ (Vỏ=Giỏ=Da bọc ngoài mầm hột) để vỏ ấy bị Vo (tự tiêu rã) mất. Chính là NÔI đã làm ra QT Vo. 6.NÔI=Nối=Lối=Lướt. NÔI đã sinh ra lối (cách thức, đường lối) nối cái phụ âm đầu hay cái vắng phụ âm đầu của từ đầu câu với cái âm vận của từ cuối câu thành một từ mới. Chính là NÔI đã làm ra QT Lướt. 7.NÔI=Nõn=Nộn=Lồn=Lời=Rỡi (“Ruột Lời”=Rỡi). NÔI=Cội=Cọc=Tóc=Tay=Tơi (“Tay Lời”=Tơi). Tơi là cái áo của lời. Bản thân Tơi không làm nên lời, cũng như bản thân áo không làm nên người. Lời=Ngời (sáng)=Người. Một lời nói ra thể hiện một cái sáng của con người (“Văn là người”. Vuông=Vắn=Văn=Vành Vạnh=Mảnh=Mình). Rỡi thuộc âm vì nó là cái Vần, nó có công tạo lời lớn hơn công của Tơi (Âm=Vâm=Vần). Tơi thuộc dương vì nó là cái áo, giúp một phần vào tạo lời (Dương=Giúp). (Tiếng Tây còn gọi thân mật là “Cái áo của em ơi!”, nhưng khi chồng nát rượu, bà vợ đá cho một cú lăn cù xuống cầu thang gỗ, khuất mắt. Hàng xóm cùng tầng nghe động, sang hỏi có gì mà ồn chuyện vậy, bà vợ trả lời tỉnh queo: “ Xin lỗi ạ, tôi lỡ tay làm rớt cái áo ấy mà”). Chính là NÔI đã làm ra QT Tơi-Rỡi. 2/ QT Vo: Là vò rụng đầu rụng đuôi một từ đa âm tiết còn cái lõi thành từ đơn âm tiết. VD: Ha-Na-Xư ( tiếng Nhật nghĩa là nói), rụng còn lõi Na (tiếng Việt nghĩa là nói). Pnom (tiếng Khơ Me nghĩa là núi), rụng còn Non (tiếng Việt nghĩa là núi. Đến m dài còn bị vò rụng đuôi còn n ngắn). Blơi (tiếng Mường nghĩa là trời), rụng còn Lời=Trời (Mà lời là do trời cho thật, những loài sống ngầm dưới đất như loài giun, không hưởng trời nên không có tiếng kêu). Vo còn dẫn tới hậu quả là Vo cả câu. VD: “vuông Chữ Nho nhỏ” vo thành Chữ Nho. “Trong ấy” vo thành Trỏng. “Bên ấy” vo thành Bển. “Anh ấy” vo thành Ảnh. 3/QT Nở: Một từ trong NÔI sẽ nở ra hai từ, từ tính âm (0) và từ tính dương (1). VD: Từ Mỗi nở ra từ Mô (0) và từ Một (1). Từ In nở ra từ Uống (0) và từ Ăn (1). Từ Túc nở ra từ Tấn (0) và từ Tay (1). Nguyên tắc là hai từ mới phải cùng Tơi (hay cùng Vắng Tơi) với từ cũ. 4/ QT Lướt: 1.Lướt hai từ: Lướt để chắp Tơi của từ đầu với Rỡi của từ sau thành từ mới có ý nghĩa logic với ý nghĩa tạo bởi hai từ trên. VD: “Hai Yêu”=Hiếu (Hai thế hệ già và trẻ phải yêu thương nhau. Nho viết bằng chữ Lão ở trên và chữ Con ở dưới, thành chữ Hiếu). 2.Lướt cả câu: Lướt để chắp Tơi của từ đầu câu với Rỡi của từ cuối câu thành từ mới có ý nghĩa logic với nội dung của câu. VD: “Làm gia công cho lưỡi cưa cùn sắc lại như Mới”=Lỡi (thợ Lỡi, máy Lỡi). 3.Lướt từ lặp: Thành từ mới có ý nghĩa như mục đích của từ lặp là nhấn ý “nhiều”, nhưng thanh điệu thì là tổng phép cộng số học nhị phân của hai từ đồng âm đồng nghĩa trên. Ví dụ “Chung Chung”=Chúng, 0+0=1 (Nhiều cái chung một nơi thành đông là Chúng: Chúng tao, Chúng mày, Chúng nó, “Chúng Qua”=Choa). “Quân Quân”=Quần, 0+0=1 (ghép thành từ đôi Quần Chúng, chỉ số đông người). “Đông Đông” lúa = Đồng lúa. “Mai Mai”=Mải, 0+0=1. “Mải Mải”=Mãi, 1+1=0. (“Lâu Mãi”=Lai, là tương lai). Sáu thanh điệu của tiếng Việt chia ra hai nhóm: Nhóm âm (0) gồm “không”, “ngã”, “nặng”. Nhóm dương (1) gồm “sắc”, “hỏi”, “huyền”. 4.Lướt Cụt hai từ: Từ đầu giữ nguyên và lướt tới lấy dấu thanh điệu của từ sau thay cho thanh điệu của mình. VD: “Việt Nói” = “Viết sắc Viết”=Viết (Viết= Van=Văng=Vân=Vân Vân=Và=Na=Nói=Nài, dần dần Viết chuyển sắc thái là “nói bằng văn bản” rồi dùng đại diện cây Viết). “Bụt Nói”= “Bụt sắc Bút”=Bút (tháp Bút ý là ở đó ngự lời của Bụt, sau Bút dùng đại diện cho cây viết, gọi là cái Bút. Bút dùng để “Pút”- post lên, và “Pút Lên”=Pen, tiếng Anh). 5.Lướt Lỏn hai từ: Từ đầu lướt tới lấy Tơi của từ sau ghép vào Rỡi của mình thành từ mới có Rỡi mới. VD: “Hai Mươi”=Hăm. “Ba Mươi”=Băm. “Nghỉ Một” tí = Nghỉm tí. 5/ QT Tơi-Rỡi: Thay Tơi hay Rỡi của một từ đều tạo ra từ mới cùng nôi khái niệm với chính từ đó. VD: Hò=Hô=Hét=Hót=Hát=Hỏi=Gọi=(=Gí, tiếng Đài Loan, = Gô, tiếng Nhật)=Nói=Nài=Na=Và(tiếng Quảng Đông)=Viết=Van=Văng=Vân=Vân Vân= Vấn=Ngân=Ngôn=Ngữ=Ngỏ=Ngâm Nga=Ca=Kêu=Coỏng(tiếng Quảng Đông, Đài Loan, Mân)=Quát=Quang Quác=Giảng. Kết luận: Từ Điển mà giải thích như nôi khái niệm về “nói” vừa nêu trên thì còn ai kêu ca hay van nài gì nữa? Mắc mớ gì cứ thấy từ nào có viết bằng chữ nho thì giải thích đó là “từ gốc Hán”, “từ Hán Việt”. (Hán ngữ “Shuo” nghĩa là nói, “Yu Yan” nghĩa là ngôn ngữ, “Yáo Lán” nghĩa là cái nôi, “Jiang” nghĩa là giảng). Ngỏ là từ có sắc thái rất lịch sự, Ngỏ lời hay thư Ngỏ là yêu cầu phải có trả lời, nếu không trả lời là bất lịch sự, như Ngỏ lời xin cưới. Ngỏ=Thỏ Thẻ=Thưa Thốt. “Thốt cho đến Tuyệt”=Thuyết. Tiếng=Thiêng=Thanh. Sáng=Láng=Linh. Câu đối trong đền Ngọc Sơn ở Hồ Gươm Hà Nội: Sơn Bất Tại Cao, Hữu Tiên Tắc Thanh. Thủy Bất Tại Thâm, Hữu Long Tắc Linh. Nổi Tiếng và Sáng là Thanh Linh = Thiêng Liêng. Thiêng Liêng vì có cả “Sáng Âm”=Sấm, là khả năng tiên tri. Có khả năng tiên tri là do biết bói quẻ: Thuyết Âm Dương Ngũ Hành và Kinh Dịch. Câu Sấm: “Song Ngư liền địa, Nghi Lộc phát vương”. Nghi Lộc là Ngộc Ly. “Người Gốc” = Ngộc. Ly là Lửa. Người=Ngời=Ngọc=Ngộc. Trời=Trưa=Lửa. “Dân Lửa” = Giữa. Giữa Chỗ = Giao Chỉ = Giao Chứa = Gieo Chữ. “Kinh Gieo” = Keo. Dân Kinh = Cần Keo (tiếng Tày Thái). Dân Kinh = Dinh=Dính. Keo Dính = Keo Dán = Keo Gắn. Gắn Keo = Gắn Kết = Đoàn Kết.
-
Đất/Trời=Tất/Cả=Tạo/Hóa=Ta. Người Kinh tự xưng “Ta” (ngôi Một) và tự xưng “Một Kinh” = Mình (ngôi Một), “Mình Hai” = ”Mình Hay” = Mày (ngôi Hai). Khẳng định ngôi hai là “Mày Chứ” = Mừ (Mừ là ngôn xưng ngôi hai của tiếng Tày-Thái). Chứ=Chư=Thứ (là dòng thứ, con thứ, dòng hai sau dòng đầu). Trong các dòng Thứ = dòng Chư (tức dòng hai) xếp thứ tự lại có một dòng “Hai Đầu” = Hầu. Đây chính là tước Hầu thời nhà Chu phong đất. Chư Hầu = =Thứ Hai. Các tước Công, Hầu, Bá, Tử, Nam chính là Rộng (rộng đất nhất), Hai, Ba, Tư, Năm. Vậy thời nhà Chu toàn dân nói tiếng Việt.Đất/Trời=Tất/Cả=Ta. Đất và Trời (đều là thiên thể) xa nhau nhất mà cũng là gần nhau nhất (chưa thấy tốc độ nào nhanh hơn tốc độ ánh sáng, mà cái Sáng lại là do trời cho Ta). Chính Ta (con người) là cầu nối Đất và Trời (“đứng giữa đất trời”), hễ sáng là Trời Đất nối liền nhau bằng chính “Ta Kia” = Tia (sáng) chứ không phải bằng loài vật nào khác. Ngôn ngữ thì Tiếng chính là cái Sáng vì Tiếng=Từ=Tơi+Rỡi. Do “Ruột Thiêng” = Riêng của Ta, mà loài vật không thể có, Ta có cái độc đáo hơn loài vật là cái “Ta Riêng” = Tiếng. Do Tiếng là cái Sáng (tiếng trong trẻo) nên Tơi và Rỡi cũng đều là cái Sáng. “Tơi Rỡi”=Tời=Tải, là nó tải cái Lời (ý nghĩa của tiếng) đi ra. "RỡiTơi”=Rời=Rạng=Sáng=Láng=Linh=Lìa=Ly=Lửa=Lả=Hỏa=Hồn. Kẻ Sống = Kẻ Sáng luôn có Hồn, nhưng Hồn không dính cứng ở cơ thể sống, mà linh hoạt, lúc đi ra là tải Lời (có khi Hồn còn đi lạc, phải hú Hồn về). Hồn còn chuyển tải cái Sáng sang người khác (Sáng=Sang=Hàng=Hướng=Hành, hàng dọc là hướng sang dọc, hàng ngang là hướng sang ngang; hành là thi hành; “Thấy Đi”= Thi; cái Sáng làm chức năng của nó bằng cái Thấy). Cụ Trưởng Cần chỉ dùng lời của Cụ (nghe được) và cái ý nghĩ của Cụ (ẩn kín) mà chữa được bệnh nan y cho người khác, bởi Cụ đã dùng cái Thấy. “Tất Cả”= Ta, từ người Kinh xưng (ngôi Một), tức Ta là một người Kinh, là một con người. Từ đôi Người Ta có nghĩa là nhiều người (“Người ta nói thế” tức “Nhiều người nói thế”, đó là một cái thông điệp do nhiều người cùng phát như vậy, mà bản chất là cái Sáng của chúng nó nói ra, tức của “Hồn chúng Nó” = Họ , nói ra, tức “Họ nói thế”. Như vậy khi đã nói đến Họ của “Ta Gốc”= Tộc là nói Họ Tộc . “Người Kinh họ nói thế” bởi họ còn “nhớ như In” (tiếng Kinh thì In là từ chung cho Ăn hay Uống, ăn uống là cái bản năng của Con, hễ khát nhớ uống, hễ đói nhớ ăn, cho nên mới có thành ngữ “Nhớ như In”). Người “Kinh họ nói là In” = Kin (tiếng Tày-Thái thì Kin là từ chung cho ăn hay uống, đến nay vẫn dùng chung như vậy, kể cả bên Thái Lan). Vậy thì đúng là Kinh đã Gieo tiếng. Tiếng là do “Kinh Gieo” = Keo. Tiếng Tày-Thái gọi “Dân Kinh” là “Cần Keo”. Kinh là dòng Rồng (Lạc Long), Thái là dòng Tiên (Âu Cơ).Ta=Giả nên nho viết chữ Giả 者 gồm Tia Sáng nối Đất 土 (đại diện bằng cái sáng của Đất là “Thấy Ổ”=Thổ, chữ Thổ 土) với Trời 日 (đại diện bằng cái sáng của Trời là chữ Nhật 日), đúng như Ta=Tất Cả.
-
QT Tơi-Rỡi đã cho ra một nôi khái niệm về “nói”: Hò=Hô=Hét=Hót=Hát=Hỏi=Gọi=(=Gí, tiếng Đài Loan, = Gô, tiếng Nhật)=Nói=Noái (giọng Huế)=Nài=Na=Và(tiếng Quảng Đông)=Viết=Van=Văng=Vân=Vân Vân= Vấn = Ngân = Ngôn = Ngữ = =Ngỏ=Ngâm Nga=Ca=Kêu=Coỏng(tiếng Quảng Đông, Đài Loan, Mân)=Quát=Quảng(quang quác)=Giảng. Ngỏ mang sắc thái lịch sự: Ngỏ=Thỏ Thẻ=Thưa Thốt. “Thốt cho đến Tuyệt”=Thuyết. “Thốt Noái”=Thoại. Nói nghĩa là Nêu ra bằng lời. Viết nghĩa là Nêu ra bằng chữ. Tiếng Việt đơn giản là cái do người “Kinh Nêu”=Kêu, và “Việt Nói”= “Việt sắc Viết”=Viết. Theo nôi khái niệm về “nói” ở trên mà hiểu thì Tiếng là “Tự người việt đưa ra lời từ Miệng”= “Tự một âm phát ra có ý nghĩa Riêng”=Tiếng. Tiếng của người Việt, gọi là Tiếng Việt. Ngôn Ngữ Việt là Nói Nói (của) Việt. Việt Ngữ là Việt Nói, tất cả các từ ghép trên đều đúng văn phạm Việt, và không có từ nào gọi là “từ Hán Việt”. Hán ngữ (còn gọi là tiếng Quan Thoại) thì “Shuo” nghĩa là nói. Từ “Shuo” không có trong nôi khái niệm về “nói” ở trên. Con người là Âm/Dương=Đất/Trời= “Tất/Cả”= “Tạo/Hóa”=Ta. Cái do Đất làm và cái làm cho người ở Đất thì gọi là Tạo. Cái do Trời làm và làm cho vong ở Trời thì gọi là Hóa. Hai yếu tố Âm Dương trong Ta là hai cái Minh nên Ta là “Kẻ Mình”=Mình= “Minh Minh” =0+0=1= “Một Kinh”=Mình. Hai cái Minh đó là Sáng và Dạ nên ta có tên là Sáng Dạ. Theo sinh lý học thì Sáng thuộc Dương, gọi là “Sáng Dương”=Sướng; Dạ thuộc Âm, gọi là “Dạ Âm”=Dâm. Về sinh lý thì Sướng và Dâm đều là sướng cả. Vì Ta là Minh, là Sáng nên bản chất nó là trong trẻo. Cái trong trẻo đó trong Ta dù là thuộc dương hay thuộc âm đều là khởi nguồn cho óc tưởng tượng: “Minh Dương”=Mường (mường tượng được ra những cái chưa từng có); “Minh Âm”=Mầm (mầm mộng được ra những cái chưa từng có). Một từ của tiếng Việt cũng có cấu tạo bằng hai cái minh, thuộc dương và thuộc âm, y như cấu tạo của một con người. Vì bản chất là Sáng nên nó cũng là trong trẻo (“Giọng nói trong trẻo”, “Trong như tiếng hạc bay qua”). Hai nửa mang bản chất Sáng dương và Sáng âm đó của một từ chính là cái Tơi và cái Rỡi của từ. Cấu tạo của từ là Tơi-Rỡi (Cái Vắng Tơi cũng giá trị như là Tơi. Vắng Tơi không có nghĩa là không, mà nó vẫn là có, vì đây là khái niệm của ngôn ngữ, không phải là khái niệm vật chất: cái “lỗ trống” vẫn là có vì vẫn đếm được có bao nhiêu lỗ trống, không như vật chất thì lỗ trống là không có gì). Cấu trúc Tơi-Rỡi của từ là cấu trúc Dương-Âm theo cấu trúc của vũ trụ, vì Lời cũng chính là cái sáng của Trời cho (Trời=Ngời=Lời). “Tay của Lời”= “Tay Lời”=Tơi. “Ruột của Lời”= “Ruột Lời”=Rỡi. Trước kia, khi nghiên cứu tiếng Việt, người ta đứng trên nền của ngôn ngữ phương Tây mà người ta đã học để nghiên cứu, nên họ gọi Tơi là “phụ âm đầu” nhưng lại quên mất còn có cái “vắng phụ âm đầu” (Mô=Vô=0, Chăng=Chẳng=0, lướt từ đôi “Vô Chẳng”=Vắng); họ gọi Rỡi là “âm vận”. Lời là cái ý nghĩa nhờ “Lưỡi đưa tiếng từ miệng ra ngoài Trời”=Lời, nó trong trẻo bởi bản chất nó là sáng: Trời=Ngời=Lời. Tơi= “Tay của Lời” là Nòng thì như cái Nòng súng, còn Rỡi= “Ruột của Lời” là Nọc thì như viên đạn (cái Nọc của con ong hay của con rắn chính là viên đạn của nó vậy). Cấu trúc một từ là Tơi-Rỡi chính là cấu trúc Nòng-Nọc (bởi chữ ký âm thời tiền sử cổ xưa gọi là chữ Nòng-Nọc, mỗi chữ cái đều có nét ngoằn nghoèo như con nòng-nọc). Tiếng Hán “Khoa Đẩu” nghĩa là con nòng-nọc, về sau Hán thư dịch nghĩa mà gọi chữ Nòng Nọc là “Khoa Đẩu tự”. Con Nòng-Nọc là ấu trùng đang sống trong Nôi nước, từ Nòng-Nọc là một từ dính, nên có gạch nối ở giữa, và tuyệt đối không được đảo là nọc nòng, vì như vậy sẽ không còn hiểu là con gì nữa. Cái Tế của từ dính Nòng-Nọc chính là cái tế bào Nòi. Theo QT Nở thì Nòi tách đôi thành Nòng/Nọc. Nhưng Nòng-Nọc muốn “nở” thì trước hết nó phải dùng QT Vo mà vò cho rụng đuôi đi đã. Vậy là “Cắt N của nòng và N của Nọc”= “Cắt…Nọc”=Cóc (rất logic: nó đồng thời còn phải dùng cả QT Lướt). Lời là ý nghĩa của một Từ. Từ gồm Tơi-Rỡi, bản chất lời là trong trẻo do Tơi-Rỡi mang bản chất trong trẻo: Tơi thuộc Dương, nên có từ đôi “Tơi Dương”=Tường. Rỡi thuộc Âm nên có từ đôi “Rỡi Âm”=Râm(mát mẻ)=Rõ=Tỏ=Tường, do vậy ý nghĩa của Từ (tức Lời) là Tỏ Tường = Rõ Ràng, tức là như bản chất nó trong trẻo. (Tường=Ràng cũng giống như Đương=Đang, Đường=Đàng, Giường=Sàng). Lời là do Trời cho, đương nhiên Tơi-Rỡi cũng là do Trời cho: Tơi=Tống=Nòng=Nắng=Nường=Dương. Rỡi=Rốn=Nõn=Nọc=Nước=Nậm=Âm (nọc ong, nọc rắn đều là chất nước độc để tiêm vào thịt đối thủ). Kết cấu Dương-Âm là: Dương/Âm= Tơi/Rỡi = Nường/ Nõn= =Nắng/Nước (là kết cấu của vũ trụ,là của Trời cho. Ở đất thì kết cấu phồn thực là ngược lại, là cặp Nõn/Nường, ở lễ hội dân gian tại Phú Thọ). Một Tiếng gồm Tơi-Rỡi = Nắng-Nước thì nó trong trẻo là phải thôi. Tiếng=Thiêng=Thương=Trường=Đương(để mà đương đầu)=Đùng Đùng=Súng, thì đúng Tiếng=Từ=Lời là khẩu súng Trời cho (chữ Thương 搶nghĩa là cây súng trường, rồi thương trường cũng là súng trường vậy, nên người ta nói “thương trường là chiến trường” ?, nói vậy chẳng qua là do giọng hiếu chiến, tỷ như “cuộc vận động trồng cây gây rừng” thì người ta còn tương lên báo là “chiến dịch trồng cây gây rừng”. Thương trường không phải là chiến trường, bởi trên thương trường chỉ có “súng xịt nước”, sẽ thấy tiếp sau). Viên đạn do nòng súng tống ra mới là cái để đạt mục đích, còn cây súng chỉ đứng tại chỗ. Tơi=Tống=Nòng=Nắng (phải dùng lửa mới đúc được nòng súng). Rỡi=Râm=Rốn=Nõn=Nọc=Nước (viên đạn này là bằng nước mà lại còn râm mát). Đúng là Trời cho cái Tiếng=Thiêng chỉ là một cây súng xịt nước (lễ hội xịt nước của người Lào và người Thái Lan). Trời cho tiếng Việt thì đúng là Trời muốn qua tiếng Việt mà dạy cho loài người phải biết đối thoại chứ không dùng bạo lực. Nhưng đối thoại thì vẫn có Tơi=Tường=Tướng (là “nói tướng lên” tức to tiếng, nói thẳng) và Rỡi=Râm (là “nói mát nói mẻ”, nhiều khi giọng còn chua cay). Dẫu sao thì vẫn chỉ là đối thoại chứ không dùng bạo lực. Ngôn từ Việt đã chỉ ra Tất Cả. 5000 năm trước mà thế giới biết học chữ Nòng-Nọc và tiếng Việt để hiểu được văn hiến của Văn Lang Lạc Việt thì thế giới đã đại đồng từ lâu rồi chứ còn ai sản xuất vũ khí làm gì . (Hiếu với Thiên hạ gọi là “Hiếu Thiên” = Hiến. Thời tiền sử chỉ có Văn Lang mới có văn hiến).
-
7. Trời đã cho Ta cái khả năng tiên tri: Trời=Ngời=Sới=Sấm Ngoài các khả năng của 5 giác quan (thường gọi là Ngũ quan) là của Trời cho. Trời còn cho thêm giác quan thứ Sáu (nó ở rất Sâu là tồn tại rất Lâu theo con người, kể cả khi xác đã trả về đất chỉ còn lại cái hồn, giác quan thứ Sáu đó vẫn còn. Sáu=Sâu=Lâu=Lục=Lão=Luôn Luôn= “Lâu Mãi”=Lai, tức đến các “Kế Tiếp”= Kiếp sau vẫn còn). Giác quan thứ 6 đó là cũng từ cái Sáng của Trời (“Sáng danh Chúa ở côi Lời”): Trời=Ngời=Sới=Sấm (lời Sấm của Nguyễn Bỉnh Khiêm nhiều câu còn ứng nghiệm vào 500 năm sau). Sấm là cái “Sáng Âm”= Sấm. Sới là chỉ địa điểm, là cái “Sáng Nơi”= Sới, địa điểm đó phải chọn theo PTLV, là nơi Sáng tức nơi Linh, gọi là Địa Linh (như nơi đặt mồ mả, nơi xây Sới võ, nơi xây công trình v. v.), Sới phải phù hợp với cái Sáng Âm thì mới phát huy được cái “Sáng Tới”= Sới (“Âm phù Dương trợ”). Chúa Nguyễn Hoàng đã nghe theo Sấm của Trạng Trình mà chọn được Sới là nơi “Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân”, biết đường đi “Ta theo hướng Mới”= Tới, đó là cái “Tới Dương”= Tương nên được “Lâu Mãi”= Lai. (Tương Lai là từ hòan toàn thuần Việt). Tương Lai kể cũng quan trọng thật, nhưng Hạnh Phúc là cái xài liền, không phải là chờ đợi đến tương lai mới được hưởng. “Dân dĩ Thực vi Thiên”, cái “Thật Đức”= Thực là cái Thực có trên thực tế, và là Thực là đủ ăn (“Thức Thức”= Thực,1+1= 0, các thức để “ăn” đây bao gồm cả ăn uống, ăn mặc, ăn học, ăn ở, ăn làm, ăn nằm), mới là cái dân cần “Thấy đầu Tiên”= Thiên. Nguyên hai câu là “Nhân dĩ Hòa vi Qúi. Dân dĩ Thực vi Thiên” nó có hai nghĩa cho cả đời sống vật chất và đời sống tinh thần, vì Hòa là lúa, Hòa lại là Hòa Hiếu; Thực là nhiều Thức, Thực lại là sự Thực, mà sự thực thì chỉ có “Thật Đức”= Thực, xã hội mà đạo đức giả thì không thể có sự thực. Quán nhậu treo hai câu trên chỉ mong người ta hiểu phiến diện có một nghĩa là ăn nhậu sướng bằng Trời-Thiên. Chữ nho Hòa 和 là cây Lúa 禾 và Mình 口,“Em xinh là xinh như cây lúa” (lời hát chèo), cũng lấy chữ Hòa 和 lấy ghép với chữ “Hai Yêu”= Hiếu 孝 thành từ ghép Hòa Hiếu cho cả hai nghĩa: yêu tôn trọng thiên nhiên (Mình 口 yêu cây Lúa 禾 và cây lúa yêu mình, như Hiếu 孝: thế hệ Lão 老 yêu thế hệ Con 子, và thế hệ con yêu thế hệ lão, chữ Con 子 đặt ở dưới có nghĩa là con phải gánh vác di sản và đề cao truyền thống mà thế hệ lão để lại). Rõ ràng dân trồng lúa (nền văn minh lúa nước) là dân Hiền Lành nhất trên đời này. Nhưng đừng thấy người ta Hiền Lành mà tới hiếp đoạt của người ta, sẽ bị người ta Hành Liền, cái hàm ý này chỉ có trong ngôn từ rất mượt mà của Tiếng Việt mà thôi. (Vụ án “Máu thắm đồng Nọc Nạn” năm 1928 tòa án thuộc địa cùng luật sư người Pháp đã xử cho những người nông dân trồng lúa Hiền Lành mà phải vùng lên Hành Liền, khi bọn cường hào tới hiếp đoạt ruộng đất mà họ đã bỏ công khai phá, được trắng án như tòa tuyên: “vô tội”). Cho nên người đời trên thế giới rất biết tôn trọng người dân Việt vốn Hiền Lành. Ngôn từ Việt đã hàm ý rõ tất cả rồi, không phải nói dóc. Tìm bao giờ cho thấy Hạnh Phúc?. Đơn giản, phải tìm nhiều. Tìm nhiều thì “Hạnh Hạnh”= Hành, 0+0=1; “Phúc Phúc”= Phục, 1+1=0, tìm nhiều để đến được Hạnh Phúc là phải Hành Phục. Hạnh Phúc theo dấu thanh điệu là 0+1 (là cân bằng âm dương, cho kết quả là 0+1=1 là kết quả tích cực). Hành Phục theo dấu thanh điệu là 1+0=1 (là cân bằng dương âm, cho kết quả là 1+0=1 là kết quả tích cực). Hành Phục có nghĩa đen là “làm lại như cũ” (phục hồi), quay lại sống tôn trọng thiên nhiên (như Cụ Sáu = Cụ Lâu = Lão Tử từng nói), nghĩa bóng là Phục Thiện (theo dấu thanh điệu là 0+0=1 là kết quả tích cực). Điều Hành Phục này để luôn có Hạnh Phúc, người nông dân Việt đã biết từ thời cổ đại. Chính họ nói: “Hiền như Đất. Thật như Ruộng”. Cho nên ăn hoa màu được hạnh phúc rồi là họ lo ngay Hành Phục lại sức khỏe cho đất: Cày phơi ải để làm tiệt trùng ( làm “Tới Diệt”= Tiệt. Cũng như “Hố chôn xác Chết”= Huyệt, “Tới Chót”= =Tót, “Tới Hết”= Tuyệt, Tót Vời=Tuyệt Vời, Vời=Vợi=Viễn), rồi bón phân hữu cơ trả lại các vi lượng cho đất. Đất nó “Hiền Thiệt!” nên đối xử với nó lại phải “Hiệt Thiền” . Hiệt là “Hồn Việt”= Hiệt. Chữ Hiệt 黠 là “chất xám”( chữ Đen=Hoẻn=Hắc黑) và “lòng tốt” (chữ Tốt= Cốt= “Cốt Đạt”=Cát 吉). Từ “chất xám” ngày nay giới khoa học nông nghiệp gọi bằng từ đại diện là “biện pháp khoa học kỹ thuật”, còn từ “lòng tốt” thì phải chịu tiếng Việt, không lấy từ gì làm đại diện nổi. Thiền là “Thật Hiền”= Thiền. Vì đất “Hiền Thiệt!” nên đối xử với đất phải “Hiệt Thiền”, tức phải có ánh sáng KHKT và tấm lòng “Thật Hiền”= Thiền ( theo thanh điệu thì cũng cân bằng âm dương 0+1=1 là kết quả tích cực) đối với mọi việc đụng tới đất: canh tác, khai khoáng, thủy điện v.v. Cứ thế tích cực Phục Thiện nhiều thì sẽ đạt Phúc Thiền, 1+1=0, là cái Tâm trống rỗng, lúc đó đạt được tót đỉnh của Phúc.
-
Trong Mình của người Việt có hai cái Sáng. Một cái Sáng là cái “Ta Dương”= Tướng, là cái thể hiện ra ngoài, có thể nhìn thấy bằng mắt, đó chính là cái “Sáng Mắt”= Sắt. Một cái Sáng là cái “Ta Âm”= Tâm, là cái sáng bên trong không thể hiện ra ngoài, không thể nhìn thất được, Tâm=Tấm=Tỏng=Lòng=Trong (biết “Tường tận trong Lòng”= Tỏng), đó chính là cái “Sáng Lòng”= Sóng = Son (sóng ở đây là cái sóng ánh sáng, nó là vi ba, bước sóng cực nhỏ, nên gọi là “Sóng Con”= Son). Rõ ràng từ Sắt Son là một cấu trúc Dương (Sắt) Âm (Son) cân bằng, bởi vậy nó rất bền vững, không bao giờ thay đổi. Từ Điển Tiếng Việt NXB KHXH HN 1977 , trang 675, giải thích Sắt Son: Thủy chung trước sau như một trong tình yêu, vd “Nào lời non nước, nào lời sắt son”. Giải thích như vậy mới chỉ là giải thích một ứng dụng của từ Sắt Son trong một lĩnh vực cụ thể là tình yêu, chưa phải là giải thích bổn nghĩa của từ Sắt Son ở nguyên do của nó. Cái Sáng của người Việt lại là do Trời cho bằng chính cái ánh sáng của Trời (và Trời chỉ chọn Người để cho chứ không cho các loài khác): Trời=Ngời=Người (Ngời=Nguyệt=Nhiệt=Nhật đều là ánh sáng của Trời, phần Nguyệt thì Trời đem cho Trăng, Nguyệt thành ánh sáng của Trăng, nhưng vẫn là của Trời). Vậy chính xác thì Trời mới chính là kẻ “đã cho ta Sáng Mắt, Sáng Lòng”. Bởi vậy người Việt Sắt Son nhất là Sắt Son với Trời, luôn biết nói “Nhờ Trời”, “Ơn Trời” và kêu “Trời Ơi”. Bởi vì: 1. Trời đã cho Ta cái tên bằng ánh sáng của Trời: Trời=Ngời=Ngài=Người 2. Trời đã cho Ta cái khả năng tư duy: Trời=Ngời=Nghĩ 3. Trời đã cho Ta cái khả năng thị giác: Trời=Ngời=Ngắm 4. Trời đã cho Ta cái khả năng thính giác: Trời=Ngời=Nghe 5. Trời đã cho Ta cái khả năng khứu giác: Trời=Ngời=Ngửi 6. Trời đã cho Ta cái khả năng xúc giác: Trời=Ngời=Ngậm Tên riêng của mỗi cá nhân cũng là cái sáng, của Trời cho, gián tiếp qua ánh sáng của con Đom Đóm. Trẻ con rất thích bắt Đom Đóm chơi. Đom Đóm=Tóm=Tên=Tánh=Danh (ra đời mới thành Tên hay lớn lên làm ăn đã thành Danh đều bị Tóm vào “sổ hộ khẩu” và vào sổ Nam Tào tất). Tên gọi những nơi cần quảng cáo cũng đều xuất xứ từ cái sáng của con Đom Đóm: Đom Đóm=Điểm=Điếm=Tiệm=Tên
-
Con người là một tiểu vũ trụ Đông Y cổ đại, Y học hiện đại, Khoa học nghiên cứu tiềm năng con người đều kết luận rằng con người là một vũ trụ thu nhỏ. Vậy mà kết luận trên lại hiển hiện tự nhiên trong ngôn từ Việt ở ngôn xưng của dân tộc Kinh: Dương / Âm = Còn / Khuất = Càn / Khôn = Trời / Đất = Tròn Vuông = Trọn Vẹn = Hoàn Toàn = Cả Tất. Đó là kết cấu theo vũ trụ, dương trước âm sau, dương sinh ra âm. Con người sinh ra ở Đất, do vậy kết cấu theo con người thì phải ngược lại, viết âm trước dương sau, “Sinh ra ở giữa Đất Trời”, bởi vậy người Việt gọi “thuyết Âm Dương”, Hán ngữ giữ nguyên kết cấu đó là Yin Yang. Kết cấu theo vũ trụ thì gọi là Trời Đất, mà kết cấu theo con người thì gọi là Đất Trời, và Đất Trời = Tất Cả. Tất Cả có nghĩa là vũ trụ, cái vũ trụ ấy cô đặc thành một con người, đó là “Tất Cả” = Ta. Ta là ngôn xưng của tiếng Kinh chỉ Mình = “Một Kinh”. Ta=Tui=Tôi=Tao= Cao (tiếng Vân Kiều)=Cau ( tiếng Philippin)= Coong(tiếng Khơ Me)= Cò (tiếng Thái)= =Con=Qua, đều là ngôn xưng ngôi một. Một hướng phát triển khác của ngôn xưng Ta của người Kinh là: Ta=Nhà=Ngã=Ngô=Ngộ (tiếng Việt Đông)=Ngã=Gia=Giả. Chứng minh vũ trụ đã cô đặc thành một con người chỉ cần dùng có bốn từ tiếng Kinh của ngôi xưng thứ nhất: (1) KẺ, là chỉ con người, (dùng que cứng kẻ một Kẻ - là tượng trưng tính dương, kẻ hai Kẻ - - nối cách nhau là tượng trưng tính âm), từ Kẻ về sau phiên thiết thành hai âm tiết là Cơ Thể, trả lại như cũ, tức lướt thì “Cơ Thể”=Kẻ. (2) KINH = “Kẻ Minh”, Minh nghĩa là sáng: Sáng = Choang = Quang = Láng = Lượng =Linh=Minh. (3) Mình = “Một Kinh”, một Kinh tức một Kẻ thuộc dân tộc Kinh, thành từ tự xưng là “Một Kinh” = Mình. Trong một kẻ là một con người có hai cái Sáng (trí tuệ) , tức hai cái Minh, cân bằng nhau, là Minh dương và Minh âm, “Cân bằng hai cái Minh” = Kinh. Vì có hai Minh nên “Minh Minh” = Mình,0+0=1, tự xưng là Mình. (4) Ta = “Tất Cả”. Vũ trụ chỉ có dương và âm mà vũ trụ sinh ra tất cả. Trong con người có âm và dương nên con người là tất cả, được thu nhỏ lại, “Tất Cả”=Ta, tự xưng là Ta. Hai từ tự xưng ghép lại thành từ đôi thì cũng như hai cái sáng ghép lại thì thành tố chất càng sáng: Mình Ta, nói lái là Mà Tinh; Ta Mình, nói lái là Tinh Mà. Nhưng trong nội tại nó luôn có mâu thuẫn: Mình Ta, nói lái là Tà/Minh; Ta Mình, nói lái là Minh/Tà. Giống như tương tác trong vũ trụ cho ra những kết quả Minh và Tà. Tương tác trong cơ thể cũng cho ra những kết quả Minh và Tà. Hán thư viết rằng: “Cái tên Việt và Bách Việt xuất hiện vào thời Xuân Thu - Chiến Quốc”. Nhưng thời Xuân Thu có 7 nước, đến thời Chiến Quốc đã thành 140 nước. Nước nào cũng có Kinh Đô riêng. Mà Kinh Đô tức là nơi người Kinh “Đông Hộ”. “Đông Hộ”=Đô. Chữ Đô 都 nghĩa là chữ Ta 者(ở thành) Ấp 阝. Ta (=Gia 家=Giả 者, là những từ có sau). Ấp thì phải là “Đông Hộ”. Họ là nhiều người, “Nghe họ nói thế” tức là “Nghe nhiều người nói thế”. “Họ chung một Ổ”= Hộ (dù những người ấy không nhất thiết phải là thân thuộc của nhau). Việt mà chỉ “thời Xuân Thu mới xuất hiện”(?) thì người Kinh có từ khi nào? Tra về người thì tư liệu TQ nói: Kinh là dân tộc thiểu số trong 56 dân tộc của TQ, trong lịch sử họ từ VN di cư sang vài hòn đảo thuộc Quảng Tây TQ vào thời nhà Lê, thế kỷ 17. Tư liệu VN nói: Kinh là dân tộc đa số của VN (Từ Điển Tiếng Việt nxb KHXH 1977, trang 443). Kinh là người Kinh chỉ đơn giản vậy thôi sao? Thời cổ đại cách nay 5000 năm, đã có vua thì vua nào dân nấy. Vua là Kinh Dương Vương thì dân là Dân của Kinh, hay gọi là Dân Kinh. Nhưng “Dân Kinh”= Dinh, dân ấy là dinh lũy bền vững cho vua Kinh Dương Vương. Vua là Khan thì dân là Dân của Khan, hay gọi là Dân Hãn. Nhưng “Dân Hãn”= Dãn = Dấn = Lấn = “Lấn Trước”=Lược, vì họ sống du mục, (ngô ngoài đồng của dân trồng trọt mới ra bắp non thì cả bầy ngựa của dân du mục đã ào đến gặm sạch), từ đó mà có từ xâm lấn, xâm lược. Thời Kinh Dương Vương, quan hệ xã hội là “Kinh với Dân”=Cân=Công=Đồng=Đẳng=Bằng=Bình (còn “Dân với Kinh”=Dinh=Dính, là dinh lũy bền vững). Về biểu ý của chữ nho thì “Cân Bình”= Kinh, nên chữ Kinh 京 viết rất cân đối theo chiều bổ dọc đôi, nó gồm ba phần là Đầu 亠 , Mình 口, và Túc 小. Đầu là cái chui ra trước tiên khi con người ra đời, nó là cái Trước (về thời gian), nó có Óc ở trong Ốc sọ, nên còn gọi là “Trước Ốc”= Trốc, che ngoài Trốc có Toóc (như “vỏ ngoài của thân cây lúa” = “Toóc”, tiếng Huế). “Toóc che cho ốc sọ và Óc”= Tóc. Mình 口, viết bằng Vuông 口, tiếng Việt Đông đọc Vuông 口 là Mảnh, Mảnh=Mình. Vuông=Văn, “Văn bằng” hay “Mảnh bằng” cũng thế cả. “Mảnh thân này có sá chi” hay “Mình này có sá chi” cũng thế cả. Câu đầu trong sách dạy nhân thể học là “Cơ thể người ta gồm có ba phần: Đầu 亠, Mình 口, và Chân Tay 小”. Chân Tay có từ chung là Túc (cũng như Ăn Uống có từ chung là In = Ẩm). Túc đã theo QT Nở mà nở ra Tay và Tấn. Đứng Tấn là một thế võ đứng không động, tức “Chỉ Tấn” = Chân. Chỉ là “Chẳng Đi”= Chỉ 止。 Đứng “Chẳng Đi” đã cho ra từ viết bằng chữ nho là Đình Chỉ, vì người Kinh họ nói như thế. “Đứng của tiếng Kinh”= Đình 停 (dấu = ở đây thay cho “còn gọi là”). Túc=Tiểu, nên trong chữ Kinh 京 ý Túc được đại diện bằng chữ Tiểu 小, vì thực tế Tay Chân là cái nhỏ của cơ thể (Nick không có tay chân mà còn làm nên cái vĩ đại cho thế giới thấy). Mình=Mảnh=Vành Vạnh=Vuông=Văn. Chữ Kinh chỉ rõ là một cơ thể con người, đó là một Kẻ. Kẻ ấy có hai cái Minh trong trí tuệ, nên gọi là “Kẻ Minh”= Kinh. Nó xưng là “Một Kinh”= =Mình, vì trong mình nó có hai cái Minh, “Minh Minh”= Mình, 0+0=1. Minh ấy là Sáng, do Sáng=Láng (=Lượng)=Linh, “Kẻ Linh”= Kinh. Hai cái Minh ấy là Minh dương và Minh âm. Minh dương là Sáng Lâu, viết biểu ý bằng cái ánh sáng gọi là Nhật 日 là của Trời và cái ánh sáng gọi là Nguyệt 月 là của Trăng (là những cái còn mãi mãi), là chữ Minh 明, Minh âm là Sâu Láng = Mầu Linh( Sâu=Mầu, Láng=Linh), “Mầu và Linh”= Minh 冥, vì là âm, nên viết phải lái ngược là “Mịch 冖 Viết 曰 Lâu六”= “Mầu Viết Linh”. Viết 曰= Van=Vân Vân = Và = Na = Nói = Nài. Có là người Việt thì mới gọi Nói là Viết, khi lướt hai từ “Việt Nói” mà không lấy rỡi của từ sau, chỉ lấy thanh điệu của từ sau (gọi là Lướt Cụt) thì có “Việt Nói” = “Việt sắc (dấu sắc của Nói) là Viết” = Viết. Viết nghĩa là Nói. Từ Điển đã dẫn giải thích Việt là “từ gốc Hán”, trang 476). (Tương tự như “Giết Giết”=Diệt, 1+1=0. Diệt 滅 nghĩa là “Giết hết, làm cho không còn tồn tạị” như Từ Điển Yếu Tố Hán Việt Thông Dụng , Viện Ngôn Ngữ học, NXB KHXH HN 1991 giải thích, trang 100. Giải thích như LM: Diệt nghĩa là Giết Sạch, do lướt cụt, tức chỉ lấy dấu nặng của từ sau nên “Giết Sạch”= “Giết nặng là Diệt”=Diệt (như là đánh vần), kết quả sau cùng của Giết và Diệt đều là -Ết = Chết = Hết=. Giết thì chưa chắc đã chết hết, nhưng giết nặng tay thành ra Diệt thì chết sạch sành sanh. Vậy mà từ điển trên xếp chữ Diệt 滅 là “từ gốc Hán” (vì nhìn thấy có viết bằng chữ nho 滅). Từ Giết tiếng Hán là "Sha", Diệt là "Mie", Sha với Mie có logic gì với nhau bằng Giết với Diệt không? Kể cả đúng với toán học nhị phân: Giết Giết = Diệt, 1+1=0, là không còn một mống). Nôm Na là Vuông 口 Nam 南 (= 喃) Nói = Vuông Lam Nói = Văn Lang Nói. Pạc Và là tiếng Việt Đông. Pạc Và = Bạch Nói ( Dân tộc Bạch từng rút lui về nam lập nước Đại Lý tồn tại 400 năm ở Vân Nam, đất xưa Văn Lang, sau bị Nguyên diệt. Người Bạch có phải là hậu duệ của Bách Việt không? Có học giả TQ nghiên cứu về ngôn ngữ nói: nhiều từ gốc của người Bạch giống từ gốc của dân vùng đồng lầy Vân Mộng , bắc Động Đình Hồ. Có người Bạch ở Đại Lý thì nói: dân tộc tôi không có chữ viết - hay đã bị mất? - nên chúng tôi bị mất mát rất nhiều bản sắc). Sáng=Láng=Lượng=Linh=Minh, cái “Kẻ Minh”= Kinh ấy gọi là Kinh ( chú giải của Thuyết Văn Giải Tự: “ Kinh là cái tuyệt cao của con người”- Đoạn Ngọc Tài 段 玉 裁, đời Thanh. Tuyệt cao đây không phải là cao mấy mét hay cao chức cao quyền, tuyệt cao đây là cái trí tuệ, thì đích thị nó là “Cao Minh” = ”Cân Minh” = “Kẻ Minh”= Kinh. Người Kinh tự xưng là “Một Kinh”= Mình, tự gọi cơ thể mình là “Một Sáng”= Mạng, và “Mạng Sống”= Mống. VD “Nhà mày đẻ được mấy Mống rồi?”, “ Diệt cái thói xâm lược cho nó chết sạch không còn một Mống”. Trong Từ Điển Tiếng Việt đã dẫn, không có từ Mống = ”Mạng Sống” này, nhưng có từ Mống cụt, được giải thích là Mống cầu vồng cụt , VD “Mống vàng thì nắng, Mống trắng thì mưa”, trang 519, đủ thấy Từ Điển đã không biết rằng nông dân cổ đại đã lướt cái “Móng cầu Vồng”= Mống, để có từ Mống ở trường hợp này, cũng như khi hột lúa bị ướt thì nhú cái mầm sống của nó ra, nông dân cổ đại đã lướt “Mầm Sống”= Mộng, cho trường hợp đó, gọi là lúa lên mộng. Người Kinh khi thưa thì nói Dạ! “Tôi Dạ!”= Tạ, “Tôi Rõ!”=Tỏ, “Dạ Rõ’=”Dạ Tỏ” nên Dạ ấy nghĩa là Sáng. Con người có hai cái Sáng vì vậy gọi là Sáng Dạ, chia ra Sáng đại diện sáng dương, Dạ đại diện sáng âm, nên sau nho lấy chữ Dạ đại diện cho đêm. Sáng và “Trong Sạch”=Trạch. Đầm Dạ Trạch là đầm vừa sáng vừa trong sạch. Bức hoành ở chùa Ông Bổn ( hội quán Phúc Kiến tại tp HCM) có viết bốn chữ từ phải sang trái (ý là người xưa dặn dò) là Trạch Cập Lân Bang 澤 及 鄰 邦, nghĩa là đem (tấm lòng) trong sạch mà cập bến láng giềng gần, cũng nghĩa là đem tấm lòng trong sạch mà theo cho kịp láng giềng gần. Người Kinh tự xưng là Mình, cũng tự xưng là Ta. Ở câu ca dao “Mình về có nhớ Ta chăng. Ta về Ta nhớ hàm răng mình cười” thì biết ngay là có hai người đang nói với nhau. “Ta với Mình tuy hai mà một. Mình với Ta tuy một mà hai”, bởi mỗi người đều có ở trong Mình hai cái Minh. Ở trong Mình có cái “Ta Âm”= Tâm. Tâm Linh nghĩa là cái Tâm ấy nó cũng sáng. Ở trong Mình có cái “Ta Dương”= Tướng. Tướng là sự thể hiện trí tuệ của người trên nét mặt người đó, tức trên “Mặt Tao”= =Mạo, nên còn gọi là Tướng Mạo. VD: “Anh coi giùm cái Tướng cho tôi với” hay “Anh coi giùm cho tôi cái Tướng Mạo”. Con người là Sáng Dạ, cho nên nó Sáng Giá, vì nhấn ý Dạ là “Dạ Dạ”= Giá, 0+0=1. Mà nhấn ý Sáng thì “Sáng Sáng”= Sang, 1+1=0. Sáng Giá là Sang (0) và có Giá (1) cũng là đủ cân bằng âm dương như 0 và 1. Tại sao người Kinh đã tự xưng là “Một Kinh”= Mình rồi lại còn tự xưng là Ta? Bởi người Kinh đã có nền Đông Y cổ đại, bao gồm cả thuật châm cứu, từ thời Thần Nông (Kênh Lạch = Kinh Lạc). Nền y học ấy cho rằng con người là một tiểu vũ trụ, tức con người là Tất Cả đuợc gói gọn thu nhỏ lại: “Tất Cả”=Ta (=Nhà=Ngã 我=Gia 家=Giả 者, là những từ xuất hiện sau). Định nghĩa người Kinh Thuyết Âm Dương Ngũ Hành là của người Việt. Âm Dương là từ ghép xuôi dùng để nói về thế giới con người trên mặt đất, (“Con người đứng giữa Đất Trời”- có đất thì mới có chỗ đứng- khi nói ngang ngược thì “Vốn đã sinh ra trong Trời Đất” – ý là từ trên trời giáng thế). Nếu là nói về vũ trụ thì ghép là Dương/ Âm = Càn/ Khôn = Cả/ Tất = Còn/ Khuất = Trời/ Đất = Tròn/ Vuông = Trọn/Vẹn = Hoàn /Toàn. Con người sinh ra trên đất, nên ghép xuôi Âm/Dương = Tất/ Cả= Tạo/Hóa. Lướt thì “Tất Cả”=Ta hay “Tạo Hóa”=Ta. Người Kinh tự xưng là Ta (ý nói là đã gói gọn toàn bộ vũ trụ trong Mình). Cái Ta ấy là “Một Kinh”= Mình. Cái Ta ấy có “Ta Dương”= Tướng thì Sáng Lâu, và có cái “Ta Âm”= Tâm thì Sâu Láng. Cái Sáng Lâu là ánh sáng gọi là Nhật 日 của Trời và ánh sáng gọi là Nguyệt 月 của Trăng, ghép thành chữ Minh 明 dương. Cái Sâu Láng = “Mầu Linh”= Minh âm, viết bằng chữ lái ngược Mịch 冖 Và 曰 Lâu 六 (lái là Mầu Và Linh) thành chữ Minh 冥 âm. Hai cái Minh tức hai cái Sáng. Cái “Sáng Dương” = Sướng (là cái trí hanh thông). Cái “ Sáng Âm” = Sấm (là cái trí tuệ tiên tri). Sấm=Sới, Sới võ là nơi đấu võ bằng trí tuệ. Cái Ta ấy là “Ta Một”= Tốt (“Tốt giống tốt má, tốt mạ tốt lúa). Một Kinh = = Một Cây = One Kind = O.K. Kinh Dương Vương là Tổ của Bách Việt. “Kinh Dương Vương quê ở Ngàn Hống” ( trích Ngọc Phả Hùng Vương, lưu tại đền Hùng, Phú Thọ). Ta một, là Kinh Dương Vương thì phải đẻ ra “Thành ta Hai”= Thái. “Ta Hai”= “Ta Hay”= Tày. “Mẹ cha ta là Kinh Dương Vương đẻ ra ta giống cả tâm lẫn Tướng”= Mường. “Giống Kinh Dương Vương đẻ ra dòng Tao”= Dao. “Mẹ cha ta là Kinh Dương Vương đẻ ra ta rất Giống”= Mông. Vân vân và vân vân. Còn Bé thì Bú, Bú hết rồi thì ăn Bột, rồi mới biết Bò, rồi mới biết Bước. Lớn lên mới có thể Bước=Vược=Vượt. Kinh=Canh=Oanh. Vượt của dân canh Lửa = =“Vượt của dân oanh Liệt”= Việt (“Con hơn cha là nhà có phúc”) Người Kinh và chữ nho Kinh 京 Chữ nho, còn gọi là chữ vuông, là loại chữ biểu ý của người Việt, viết gom các ký tự tượng hình và tượng thanh vào trong một ô vuông mường tượng (mường tượng là hình dung ra cái vô hình, “Tướng Tướng”=Tượng,1+1=0; “Mắt nhìn thấy nội dung thể hiện qua Tướng”=Mường), tức là cho các ký tự “Về Ổ”=Vô. Và “Vô cái ô vuông mường tượng như là In”= Vin. Để vin vào biểu ý đó mà hiểu nghĩa chữ. Cụm từ “vuông Chữ Nho nhỏ” ấy đã bị QT Vo làm vò rụng mất đầu “vuông” và cuối “nhỏ” còn lại cái lõi là Chữ Nho. Chữ=Trữ 貯 =Tự 字 =Tự 嗣, một Tự 字 nghĩa là nối dòng văn hóa, một Tự 嗣 nghĩa là nối dòng huyết thống. Kinh nghĩa là “Cái đôi Minh”= Kinh, “Cân bằng hai cái Minh”= Kinh, đó là “Kẻ Minh”= Kinh, là cơ thể một con người, gồm Đầu 亠 Mình 口 và Chân Tay 小, thành chữ Kinh 京. Vuông=Vắn=Văn=Vành Vạnh=Mảnh= “Mảnh của kẻ Minh”= Mình. Tiếng Việt Đông đọc chữ Văn 文 là Mảnh. Mảnh lại có nghĩa là một mình, “Ăn Mảnh” là ăn một mình không cho ai biết, “Trình Văn Bằng làm gì, còn phải căn cứ vào năng lực thực tế chứ vin gì vào Mảnh Bằng”. Ấy vậy mà các vị hàn lâm cứ giải thích trong các Từ Điển rằng từ Văn 文 là một “từ gốc Hán”, là “từ Hán Việt”. Chẳng khác gì “Gắp (cắp) của mình bỏ sang tay người” hay là ‘Nối giáo cho xâm lăng văn hóa”. Cái Lõi văn hóa của một dân tộc không phải là cái “Ruột Rỗng”= Rống (“thùng rỗng kêu to”) mà là cái “Ruột Đặc”= Rặc. Xưa nay bọn ngoại xâm là bọn muốn diệt cái Rặc của một dân tộc, bọn ấy gọi là bọn “Diệt của kẻ khác cái Rặc” = Giặc. Hãy nghe câu thơ “phồn thực” của Hồ Xuân Hương: “Cọc nhổ đi rồi Lỗ bỏ không”. Và hãy lướt “Kẻ Rặc”= là cái gì, với “Lõi của giống nòi là cái nõn viết bằng chữ Nộn”= là cái gì. Lõi là cái Nõn, còn Cặc=Cương=Nường, là cặp sinh thực khí: Nõn/Nường = Âm/Dương (ở lễ hội dân gian tại Phú Thọ). Chữ ký âm xưa là chữ Nòng/Nọc = Dương/Âm. Dùng cấu trúc theo vũ trụ là Dương/Âm, ghép ngược cấu trúc theo mặt đất là Âm/Dương, ghép theo cấu trúc vũ trụ vì chữ là do Trời cho (Hán sử gọi là Thiên Thư). Tùy tiện giải thích ngôn từ Việt thành “từ Hán Việt” có người cho rằng là để cho nó “sang”. Lại không thấy người Kinh thì mới là “Sáng Sáng”= Sang, 1+1=0. Và cái “Sáng Âm”= Sấm ( trí tuệ tiên tri, tiềm năng con người) của người Kinh mới là đem lại được bình an cho Đất Trời = Tất Cả (Cả=Còn=Tròn=Trời=Ngời=Người). Cái Ngời Ta = Sáng Tất Cả. Nâng cao dân trí mới là cái quan trọng nhất chứ không phải là đua nhau khoe cái Mảnh Bằng.
-
Dạy chữ nào đầu tiên? Từng có một dự án của Bộ GD ĐT đổi mới sách giáo khoa dạy vỡ lòng bắt đầu bằng chữ E. Xưa sách dạy phổ cấp chữ quốc ngữ của GS Hoàng Xuân Hãn bắt đầu bằng câu: “ O tròn như quả trứng gà. Ô thời đội mũ, Ơ thời mang râu”. Cầu này chỉ rõ cái đặc sắc của phát âm Việt là ngoài nguyên âm O của Latin còn có thêm Ô và Ơ, ngoài nguyên âm A như của Latin còn có thêm Ă và Â, ngoài nguyên âm E của Latin còn có thêm Ê (chưa kể sáu thanh điệu). Ba chữ cái nêu đầu tiên ở câu trên đã ám chỉ cái chứa chan của văn hóa Việt: (1) O là cái lõi của Tròn, để mà Tràn ra mọi phía như ánh mặt trời, như hình mặt trời và các tia trên trống đồng. (2) Ô là cái lõi của Nôi, là cái Ổ=Tổ, khởi nguồn của văn minh Việt, cũng là cái Ô bảo vệ bản sắc văn hóa Việt (“Bọc Vào”= Bao, bao kỹ là “Bao Bao”= Bảo, 0+0=1; “Vỏ Che”= Vè = Vệ. Ô=Lô=Lều=Lọng=Lán. Hán ngữ gọi cái Ô là “yu san”- che mưa, gọi cái Nôi là “yao lan”- làn lắc). (3) Ơ là lõi của Ơi, nghĩa là gọi nhiều (“Ới Ới”= =Ơi, 1+1=0), Ơi là từ dùng chung của các sắc tộc trên bán đảo Trung-Ấn, một từ nghe rất thân ái thể hiện lòng mong muốn hội nhập. Câu lục bát trên, nông dân VN từ các vùng sâu xa khắp cả nước đều thuộc lòng từ đầu những năm 40 của thế kỷ trước. Khi Trẻ Con mới lẫm chẫm biết đi, ông bà đã cầm hòn than vẽ lên viên gạch lát sân ba chữ cái đó, kèm câu ca dao lục bát trên, Trẻ Con liên tưởng ngay những thứ nó đã quá quen: quả trứng gà, cái nón, và tiếng ơi nó hằng được nghe hàng chục lần mỗi ngày. Thời “Bình dân học vụ” 1945-1955 nông dân VN còn “Rủ nhau đi học I, Tờ” vì là bắt đầu từ “trình độ A, B,C” hay ‘trình độ I, Tờ”, bắt đầu học từ “I tờ Ít”, “Tờ ít Tít”, muốn tiến xa tít phải học từ ít đến nhiều, nều không học thì sẽ “Tờ ít tít nặng Tịt” là cầm Tờ báo mà mù tịt không hiểu gì. Không hiểu tại sao ngày nay các tiến sĩ ngôn ngữ học của Bộ GD ĐT lại không tham khảo cách dạy tiếng Việt miễn phí của ông thầy dạy toán trường Bưởi là Hoàng Xuân Hãn, hay cách dạy miến phí của Bình dân học vụ xưa (Mà lại phải làm một dự án quốc gia soạn và in lại sách giáo khoa vỡ lòng bắt đầu học bằng chữ E, dự án tốn kém này còn phải mời một nữ chuyên gia ngôn ngữ học từ Hà Lan sang làm cố vấn). Nếu muốn dạy một từ đầu tiên, nên dạy từ Nôi, vì nó quá quen với Trẻ Con. Khi còn nằm ngửa trong nôi nó đã nghe hiểu để biết cái nôi là cái gì rồi, vì mỗi lần cho bú xong mẹ nó lại nói: “ Để mẹ đặt con trong nôi, nằm nghe mẹ ru, ngủ ngoan nhé”. NÔI không chỉ là Ổ của ngôn ngữ (NÔI là Nói, là nôi khái niệm). NÔI còn là Ổ của văn hóa: (1) NÔI là Nòi – nòi giống Việt, là Nối – nối dòng truyền thống. (2) NÔI là Nội, là Nỗi (tâm linh). (3) NÔI là Nồi (cộng đồng, nồi cơm chung, văn hóa ẩm thực). (4) NÔI là Nổi (ý chí vươn lên). (5) NÔI là Nước (nước nôi là H2O, bảo vệ môi trường). (6) NÔI là Nước (Nước Việt Nam). “Nôi ước nước là Nước sắc Nước”. Từ thủa nằm nôi đứa Trẻ Con đã ước ao giữ gìn mãi một Nước Việt đầy bản sắc nhân văn của Văn Lang văn hiến từ 5000 năm xưa. Khi còn Bé thì nó Bú, thiếu sữa mẹ thì nó được nuôi Bộ bằng Bột, cứ thế nó tiến Bộ để bắt đầu Bước=Vược=Vượt=Việt thành người Việt. Khi còn bé gọi nó là Trẻ Con, nó tự xưng là Con. Trẻ lớn lên thì Trẻ=Trĩ=Tí=Tao=Ta=Ngã, là cái bản ngã của nó. Con lớn lên thì Con = Cau (tiếng Philippin)= Cao (tiếng Vân Kiều)= Quan = Quân, là nó làm vua chính nó. Nó sinh ra đã là một cái Sáng để mà Sống. Sáng=Choang=Quang=Láng=Lượng=Linh=Minh. Nên mới gọi nó là “Kẻ Minh” = Kinh, và nó tự xưng là “Một Kinh” = Mình. Trong mình nó có trí tuệ là hai cái Minh nên “Minh Minh” = Mình, 0+0=1. Cái trí tuệ Minh dương tức “Ta Dương” = Tướng thì nó phát tiết ra ngoài, gọi là Tướng Mặt = Tướng Mạo. Còn cái trí tuệ Minh âm tức “Ta Âm” = Tâm thì nó lặn trong sâu, thành ngữ có câu “Sông sâu còn có kẻ dò. Lòng người thăm thẳm ai đo cho tường”. Cái nửa Minh dương là cái Sáng Lâu, viết bằng chữ Minh 明 gồm Nhật 日 là ánh sáng của Trời và Nguyệt 月là ánh sáng của Trăng . Cái nửa Minh âm là Sâu Láng, viết bằng chữ Minh 冥 (Mun) gồm Mịch 冖 Và 曰 Lâu 六, lái là Mầu Và Linh, lướt “Mầu và Linh” = Minh. Cái “Sáng Lâu” thì ai cũng dễ có, còn cái “Sâu Láng” thì ít ai khơi ra được, chỉ có ít nhà ngoại cảm hay tiên tri mà thôi.
-
Ngôn từ Việt đã nói lên tất cả, kể cả điều chân lý này: “Con người Ta sinh ra đều bình đẳng. Tạo hóa đã ban cho họ cái quyền bình đẳng đó” (Hồ Chí Minh trong Tuyên Ngôn Độc Lập). Ca dao xưa: “Em Xinh là Xinh như cây lúa”, “Trúc Xinh trúc mọc bờ ao. Em Xinh em đứng nơi nào cũng Xinh”. “Một Xinh”= “Một Kinh”= Mình= “Minh Minh”= Mình, 0+0=1,= “Một Mình”=Mình, là một con người: Ai=Ngài=Người=Ngần (sáng và hiền dịu minh mẫn như Nguyệt là ánh trăng)=Nhân=Dân=Cần=Dằn=Mằn=Mân=Man=Mán=Mọi=Mường=Mình=Kinh. Mỗi con người là một cái Sáng. Sáng=Choang=Quang=Láng=Lượng=Linh=Kinh= “Cao Minh” (“Kinh 京 nghĩa là cái tuyệt cao của con người” –chú giải tự của Đoạn Ngọc Tái 段 玉 裁, đời Thanh-). Mình tự xưng là Ta. Ta=Dạ, nên Dạ cũng nghĩa là Sáng, ai gọi ta thì ta Dạ!, tức ta nghe hiểu rồi, là Rõ, mà “Ta Rõ”=Tỏ. Vì vậy người lính nhận nhiệm vụ thì đứng nghiêm đưa tay chào trên vành mũ có quân hiệu và trả lời to một tiếng “Rõ!” và thế là nhiệm vụ được thực thi đến kết quả trọn vẹn mà không ỷ bất kỳ lý do gì, vì “Ta Rõ”=Tỏ=Tinh=Minh Minh=Mình= “Một Kinh”=Kinh=Cáng=Đáng, là sẽ một mình hoàn thành cách thỏa đáng nhiệm vụ được giao (Các vị mà hay lý do trên báo khi họ có sai là vì các vị ấy chỉ muốn có QT Nở, Do sẽ nở ra Du và Di để được “du di” xí xóa trách nhiệm, không vị nào chịu trả lời đầu một tiếng Rõ! là do cái Tôi nặng = Tội, là cái sai của tôi. Nhấn cái Tôi quá thì “Tôi Tôi”=Tối, 0+0=1, Tối càng nhấn thì “Tối Tối”=Tội, 1+1=0; đúng như đánh vần: “Tôi nặng Tội”). Dạ nghĩa là Sáng, nên một con người thì được gọi nhấn ý (trân trọng) bằng từ đôi là Sáng Dạ, người ấy trong xã hội phải là Sáng Giá (như “Minh Minh”=Mình, 0+0=1 thì “Dạ Dạ”=Giá, 0+0=1. Con người đã sinh ra thì đương nhiên là 1=Một, là Có, là Hiện Diện. Không lý do gì lại không cấp giấy khai sinh “vì nhà ló không có hộ khẩu”). “Minh Minh”=Mình= “Một Kinh”, là Kinh. Tiếng Anh gọi “King” nghĩa là vua nhỏ (vua lớn là “Imper” thì cái lõi Pe = Đế, của QT Vo). “King” là vua nhỏ thì đúng như tiếng Việt: Con=Cán=Quan=Quân 軍 =Quân 君. Từ ghép kết cấu xuôi kiểu Việt là Quân Vương 君 王 nghĩa là vua, (ám chỉ Vương trước hết là Con của dân, là Quân lính mà lên). Thần thưa với vua thì phải nói “Thưa Quân Vương” chứ không thể nói tắt cộc lốc là thưa Vương hay thưa Quân. Từ Quân 君 đơn lẻ còn dùng chỉ danh xưng ngôi thứ hai cách thân mật, như trong bài “Việt Nhân Ca” có dùng. Tuồng cổ thường gặp câu “Nay Quân ở đâu chăng tá?” nghĩa là “Nay Anh ở đâu chăng cà?”. Khi gọi ngôi hai là Quân 君 là còn có ý nhắc nhở “Anh hãy tự làm chủ lấy mình kể từ khi anh làm con đến làm quan rồi đến làm quân vương” nên khi gọi ngôi hai như vậy, ngôi một tự xưng cũng tự nhấn ý tôn trọng bản thân bằng dùng từ đôi là “Quân Ta”= Qua, tự xưng là Qua, thân mật mà trang nghiêm chứ không vồ vập. Quân 君 với ẩn ý là “tự làm chủ lấy mình” hay “mình làm vua cho mình” bởi Quân 軍 (là Con) dùng chỉ người lính. Người lính phải hoàn toàn tự chủ (“Gặp thời một Tốt cũng thành công”. Tốt=Ta). Người chơi cờ chỉ là bộ óc của mỗi quân cờ, khi rờ đến quân cờ nào thì dính với quân cờ đó thành một thể là một người lính. Những câu như là lời răn của người xưa (thường viết trên bức hoành) là xếp câu từ phải sang trái, ý là lời của người âm dặn lại (trong khi người dương viết vẫn là đưa nét chữ từ trái sang phải, từ trên xuống dưới). Ví dụ bức hoành Thiên Địa Quân Thân Sư 師 親 君 地 天 (đọc chữ nho từ phải sang trái). Nếu xoay bức hoành đi 90 độ ngược chiều kim đồng hồ (ý là ngược về quá khứ) thì được một bảng dựng đứng các chữ từ trên xuống dưới là Thiên Địa Quân Thân Sư 天 地 君 親 師. Chữ Quân 君 ở đây là chữ lấy tắt trong từ ghép Quân Vương 君 王, nó có nghĩa là một Con có trọng trách trong xã hội (là nhà Doanh Nghiệp hay nhà Vua). Nó được đặt ở giữa tức ở vị trí Quân Bình = Công Bằng. Nó nhìn lên thấy Thiên 天(biết là phải thượng tôn phép nước), thấy Địa 地 (biết là phải tôn trọng môi trường). Nó nhìn xuống thấy Thân 親 (biết là phải có trách nhiệm thân ái với xã hội). Nó nhìn xuống thấy Sư 師 (biết là phải tự học nữa học mãi để còn có thể dạy người cấp dưới). Chữ của chí sĩ Nguyễn Khắc Niêm khuyên vua Thành Thái là: Tôn 尊 Tộc 族 Đại 大 Qui 歸. Tôn 尊 Lộc 祿 Đại 大 Nguy 危. Tôn 尊 Tài 才 Đại 大 Thịnh 盛. Tôn 尊 Nịnh 佞 Đại 大 Suy 衰. “Em Xinh em đứng một mình cũng Xinh”. Xinh Xắn, nho viết là Dĩnh Diễm 穎 豔. Nhưng Xinh Xắn từ đâu mà ra? Ký ức về thời Kinh Dương Vương chỉ rõ: “Xưa xửa xừa xưa Ta vốn là Kinh”= Xinh. “Xưa xửa xừa xưa Ta vốn là Dân=Mằn”= Xắn. Kinh Dương Vương là vua đầu tiên của nguời Việt. Quan hệ “Kinh với Dân”=Cân=Công=Đồng=Đẳng=Bằng=Bình=Kinh= “Dân với Kinh”=Dinh, đã xây nên tòa lâu đài (“Em đưa chàng về Dinh”) bền vững mãi mãi với lịch sử. Tòa lâu đài ấy bền vững vì “Dinh Dinh”= Dính ,0+0=1. Tòa lâu đài ấy đẹp vì “Dính Dính”= Dĩnh, 1+1=0. Xinh=Dĩnh=0. Vừa gắn kết bền vững, vừa đẹp, đó là cái Nghiêm Trang (“Nghiêm trang chào là quốc kỳ. Tình yêu đất nước ta ghi vào lòng”. Không biết câu mộc mạc này của sách vỡ lòng xưa có còn hay không? Hay là phải lật đến cuối sách xem có chăng câu chú thích nào, kiểu như là: Hãy đọc sách tham khảo (1) “Phát triển trí thông minh cho trẻ” NXB Dân Trí “biên sọan theo chương trình của bộ GD ĐT”; (2) “Bé làm quen với chữ cái” NXB Sư Phạm; (3) “Trắc nghiệm trí tuệ toàn diện cho trẻ” NXB Mỹ Thuật). Gắn kết và đẹp là sự Nghiêm. “Dĩnh Nghiêm”= =Diễm. Xinh Xắn = Dĩnh Diễm. Kinh=Kiêu=Kiều. Kiều Diễm là cái đẹp của Kinh và của Dân. Dân đẹp vì Dân biết hành xử như Mẫn như Minh . Kinh đẹp vì Kinh biết hành xử như Cân như Công. Cái Hành được như thế thì đáng nhấn trân trọng là “Hành Hành”= Hanh, 1+1=0, là hanh thông; “Hành Hành”= Hạnh, 1+1=0, là hạnh phúc; “Hành Hành”= Hãnh, 1+1=0, là kiêu hãnh. Theo nhóm thanh điệu thì Xinh=Dĩnh=0; Hanh=0; Hạnh=0; Hãnh=0. Mà 0=Không=Trong=Trung (“Trung với Nước, hiếu với Dân”- Hồ Chí Minh). Nên Kinh xứng đáng để mà kiêu hãnh, và “Dân của Kinh”= Dinh, cái tòa lâu đài xây bằng lòng dân là "Dân của sự Cao Minh"= Dinh rất là bền vững này, cũng xứng đáng để mà kiêu hãnh. Kết thúc bài “Học chữ nào đầu tiên” là : Học chữ gì cũng học, nhưng nhớ học chữ Việt là đầu tiên.
-
NÔI= Nước Nôi là cái NÔI chung của đại tộc Việt cổ đại ở Đông Nam Á. Là cái Ổ nước chung để dân Việt trôi Nổi đến Đỗ thành Đám = Đội = Đoàn = Đàn = Đúm = Phum = Chùm = Chòm = Xóm = Xã. NÔI Nước là cái Ổ . Ổ = Bồ (Bồ tiếng Chăm nghĩa là đầy nước)=Bồ=Biển=Bái (Bái tiếng Thanh Hóa có nghĩa là đầy nước, hệ quả giải quyết cái đầy nước là Đái=Thải, Hán ngữ dùng từ Niệu là đi tiểu)=Bái=Hải=Hồ=Hố=Ổ (Châu Ổ ở Quảng Ngãi là nơi cho Châu=Tầu biển Đỗ=Ổ). Pu Lao (tiếng Chăm) = “Cù Lao”= Cao = Cồn = Tôn =Đôn = Đảo =Pu Lao. Biết bao cái đựng đều do từ Ổ: Bồ=Rổ=Xô=Tô=Đố=Đó=Rọ=Giỏ=Vó và cái to nhất là cái Mó nước ngầm và cái Mỏ vàng dưới đáy Biển Đông. Tangga (tiếng Indonexia nghĩa là Sàn-Nhà)= Thang Giơ (tiếng Chăm nghĩa là Sàn-Nhà) = Đường-Gia. Đường=Đình là những loại nhà để thờ, tức cho “Thần thánh Ở” = Thờ. Nhà=Gia là nhà để ở. Nhà là cái “Nhốt Ta” = Nhà=Gia, Gia 家 viết bằng bộ “Mái và Hiên” = Miên 宀 và bộ Thịt=Thỉ 豕 (Ta cũng như cùng những kẻ “Thay Ta” = Tha , là những người khác, đều là Thịt=Thỉ=Thể, là những cá thể). Ta=Nhà=Gia 家=Giả 者là dùng chỉ một người. Nhấn mạnh cái nhà công sở thì dùng lướt từ lặp “Nhà Nhà” = Nha, 1+1=0. Dòng Chim = Dòng Chiêm = Dòng Xiêm = Dòng Tiêm = Dòng Tiên . Dòng Tiên (Âu Cơ) là tiên nhân của người Việt cổ, cùng với Dòng Rồng (Lạc Long). Các nhà sử học cận đại say sưa với “từ Hán Việt” thì cũng say sưa với giọng của Hán sử, nên thường dùng khái niệm: dân tộc Việt đã “nam tiến” mở mang bờ cõi, lại không thấy rõ ràng khái niệm phương hướng trong tiếng Việt là: Ra bắc Vô nam: “Rộng cho Ta” = Ra; “Về quê Ta” = “Về quê Tao” = Vào; “Về quê Tổ” = “Về Ổ”= Vô. Ổ là cái lõi của NÔI. Cái NÔI của người Việt cổ, tiên nhân của Bách Việt, là miền trung bán đảo Trung Ấn. Tiếng Việt đã trở thành ngôn ngữ đơn âm tiết hoàn chỉnh kể từ khi nó rũ bỏ lối phát âm chắp dính, mà thấy còn sót lại ít từ trong tiếng Mường. Vạn năm trước người Việt đã biết các thiên thể có hình Tròn (sau gọi là hình Cầu). QT Lướt là một trong các tác nhân tạo ra đơn âm tiết: Cái “Tròn mà xưa gọi là Blơi”=Trời. Cái “Tròn mà ở đó sinh sống mọi Ai”=Trái. Cái “Tròn mà nó sáng khi mặt trời Vắng”=Trăng. Từ đó có nôi khái niệm Tròn=Trời=Trái=Trăng, và có thể gọi các thiên thể trên bằng từ đôi Trời Tròn, Trái Tròn, Trăng Tròn. QT Tơi-Rỡi tạo ra một nôi khái niệm: Tròn=Hòn=Hoàn=Quan=Cầu=Quả=Cong=Vòng=Viên=Vòng=Xong. Trong nôi khái niệm này, Hán ngữ mượn chữ Hoàn 完 (“wán”) chỉ ý Xong , chữ Hoàn 丸 (“wán”) và chữ Viên 圓 (“yuán”) chỉ ý Tròn. Quan còn thấy trong từ ghép áo Quan tức áo Tròn, vạn năm trước người Việt chôn người chết trong rỗng của thân cây gỗ tròn, hoặc trong chum gốm tròn, di ấn còn lại bên ngoài là nấm đất Tròn, trượng trưng vòm trời, còn phía dưới xác người chính là Vuông ruộng (như khi sống người ở giữa Trời và Đất). Từ ghép Làm Tròn = Làm Xong, vì nó có nghĩa là quá trình đã đi từ điểm đầu đến điểm cuối lại là trùng điểm đầu. Giống như cái cây đã bắt đầu vòng sinh trưởng từ cái Một=Hột. Hột=Hạt=Hạch 核 (“hứa”). Một=Nhốt=Nhất. Cái Hột cũng luôn bị Nhốt ( nhốt trong cái quả, nhốt nằm chờ trong kho giống, rồi lại nhốt vùi trong đất). Trong hột chỉ có cái “Đầu Gạo” = Đạo của nó là “Đi Đầu”= “Đi Đào” = Đạo là biết Mở đất thành Mầm để Mọc lên thành Mộc 木. Chữ Đạo 道 viết bằng Đi 辶Đầu首. Chữ Mọc=Mộc 木 (Thuyết Văn Giải Tự giải thích: “Mộc có nghĩa là Mọc từ đất lên”) Mộc 木 viết bằng chữ Nhân 人, (Nhân tức con người tự xưng là Mình ,chỉ có ở người Kinh= “Cao Minh” - giải thích chữ Kinh 京 của Đoạn Ngọc Tái 段 玉 裁 đời Thanh: “Kinh 京 nghĩa là cái tuyệt cao của con người”) mà biết xông pha Ngang 一(đại diện bằng nét Ngang一) Dọc丨(đại diện bằng nét Dọc丨), tức là “Mình 人 Xông pha Ngang 一 Dọc丨” = Mọc = Mộc 木 . Cái Mầm (“Mầm vươn ra Ánh” = Manh 萌, giống như cái Măng) muốn vươn lên là phải xông ngang trước để nạy nới đất ra, rồi mới xông dọc được để vươn lên, con người ra đời cũng thế, banh ngang trước rồi mới phóng dọc được, nên kết cấu từ ghép Ngang Dọc gọi là thuận thiên, còn nghịch thiên là Dọc Ngang (“Dọc ngang nào biết trên đầu có ai”). Con người khai thác trái đất theo chiều ngang trước rồi theo chiều dọc sau, ngày nay càng thấy rõ.
-
Vì Mình=Mảnh=Vành Vạnh=Văn=Vuông 口 =Khuông=Khẩu 口, nên chữ Vuông 口cũng dùng để chỉ Mình, tức một người, ghép vời từ Nhân 人 thành từ đôi nhấn ý tôn trọng người là từ Nhân Khẩu 人 口, mang nghĩa là nhiều người, dùng làm đại diện cho từ dân số. Kinh là đại diện Người, tức “Một Kinh”= Mình, viết bằng biểu ý một con người gồm Đầu 亠, Mình 口, Chân Tay 小 thành chữ Kinh 京. Cũng vậy, chữ Ngôn 言 là đại diện cho Nói, nhưng cụ thể thì Ngôn là “Người nói tiếng Nôm” = Ngôn. Do Vuông=Văn=Vân=Van=Và=Na=Nói, nên Nói cũng được viết đại diện bằng biểu ý Vuông 口. Thành ra chữ Ngôn (nghĩa là Nói) được viết biểu ý là: Một người Nói, hay Kinh Nói, vì nó gồm Đầu (bộ Đầu 亠) + Mình (đại diện bằng một gạch 一)+Chân Tay (đại diện bằng một gạch 一)+Nói (đại diện bằng Vuông=Khuông=Khẩu 口) thành chữ 言. Chữ Kinh 京 cũng gồm Đầu 亠 Mình 口 và Chân Tay 小, tức một người, là “Kẻ Minh”= Kinh, là “Kân bằng hai cái Minh”= Kinh, nên chữ Kinh 京 rất cân bằng theo chiều bổ dọc. Trong Thuyết Văn Giải tự phần giải tự không thấy nói , chỉ có chú của người đời sau, ví dụ Đoạn Ngọc Tài đời Thanh chú: “Kinh 京 có nghĩa là cái tuyệt cao của con người” (Cái tuyệt cao của con người thì chính là cái Minh, là trí tuệ Minh âm và Minh dương trong con người đó chứ còn gì nữa? "Cao Minh"= Kinh). Lại dẫn người khác chú: “Kinh 京là Cao, còn có nghĩa là Đại” (Vậy “tự cao tự đại” tức là “Tự Kinh”= Tinh, là như con Chằn Tinh còn gì nữa?). Từ các giải thích đó cũng thấy: Kinh Việt = Dương Việt = Đại Việt, Kinh Dương Vương = Đại Việt Vương. Ngay chữ Minh 冥 âm (dùng để chỉ thế giới âm) là do từ Mun nghĩa là đen. Chữ Minh 冥 âm này viết bằng Mịch 冖 Viết 曰 Lâu 六 thành chữ Minh 冥, nhưng vì thế giới âm nó là Mật (Mịch) Và (Viết) Sâu (Lâu=Lấu=Lục) nên phải hiểu nó bằng nghĩa của lái ngược chữ "Mịch Và Lâu" thành "Mầu và Linh", mà lướt thì “Mầu và Linh” = Minh 冥. Đời Thanh giải thích chữ Minh 冥 có nghĩa là tối, giải thích chỗ vị trí chữ Viết 曰(=Và=Na=Nói) đó là chữ Nhật 日 và Nhật có nghĩa là Thập, dưới là Lục 六 tức số 6, là trăng 16 nên tối (Đến trăng khuyết còn chưa tối, trăng 16 làm sao đã tối?). Cái Minh 明 dương nó là Sáng Lâu, thì cái Minh 冥 âm phải hiểu theo nghĩa của lái ngược là Sâu Láng, nghĩa là thế giới âm ấy lvẫn là sáng láng nhưng rất sâu nên người dương không thấy được, người dương gọi Minh âm ấy là “Minh Lạ” = Mã 冥 (hàng mã), nhưng thực ra nó vẫn là phần âm của trí tuệ Ta, nên nó vẫn là “Minh Ta” = Ma. Trong Ta có Ma nên chẳng có gì mà phải sợ ma. Chỉ sợ là sợ khi trong Ta lại nhiễm cái Minh khác thì Ta đâu còn là Ta. Sao không học chữ A đầu tiên? A=I (QT Tơi-Rỡi). A=I có nghĩa là tự nó là nó, nó giống Y nó, nó theo Ý nó, nó Đi=Thi cái hành động nó Nghĩ ra. Do A=I là cùng nôi khái niệm nên cỏ từ đôi A-I, lướt là Ai, là một con người, và lặp Ai Ai có nghĩa là nhiều người. Khi lướt cái từ lặp Ai Ai sẽ cho ra ba kết quả nói lên hệ quả quan hệ giữa người với người: (1) “Ai Ai”=Ái, 0+0=1, đó là “Người với Người sống để Yêu nhau”(thơ Tố Hữu). (2) “Ai Ai”=Ải, 0+0=1 (cản trở nhau, như là cửa ải). (3) “Ai Ai”=Ài, 0+0=1 (không can thiệp vào ý kiến độc lập của nhau). Bởi Ài là chung của cả hai Ai, nên “Hai Ài”=Hài. Hài lòng chỉ mới là sự “bằng mặt” chứ chưa hoàn toàn là bằng lòng nhau. Ài!=Phải=Hài!=Hầy! (tiếng Nghệ và tiếng Việt Đông)=Hày! (tiếng Nhật) mới chỉ là sự không phản đối, chưa là nhất trí hoàn toàn. Do đó nếu nhấn mạnh ý Hài bằng từ lặp thì là Hài Hài, mà lướt thì: (1) “Hài Hài”=Hai, 1+1=0 , hai ý kiến độc lập nhưng không phản đối nhau, của ai nấy giữ. (2) “Hài Hài”=Hại, 1+1=0, (không phê bình nhau để cùng tìm đến một chân lý chung thì cũng bằng hại nhau). (3) “Hài Hài”=Hãi (sợ hành động độc lập của nhau bởi không cùng một chân lý). Mỗi con người là một cái Sáng. Cái Sáng có thể Ánh lên hay có thể Ém xuống (từ đối Ánh/Ém), do đó mà có “Ai Ánh”=Anh, “Ai Ém”=Em. Anh và Em lúc đầu chỉ là để chỉ thứ bậc rất chung, chưa biến nghĩa thêm để chỉ giới tính (cụ thể bậc dưới là Trai hay Gái đều gọi là Em, các bà tiền bối vẫn được gọi là “bậc đàn anh”). Ai=Ngài=Người là từ dùng chung không biệt giới tính, nên khi mới bắt đầu hình thành cái thịt của ai thì gọi là “Thịt của Ai”=Thai. Và cái “Hòn máu chung của cả hai Ngài”=Hài, đó là như chúa Hài Đồng, hay Hài Nhỏ = Hài Nhi. Tụi Nhỏ = Tụi Nhí = Tụi Nhóc là chỉ chung đám Trẻ Con, không biệt giới tính. Tui , là một người tự xưng (ngôi một). Vậy mà Tui trọng = Tui nặng, là “Tui nặng Tụi” là Tụi (ngôi hai, ba, số nhiều, “Tụi Bay” hay “Tụi Nó”), chứng tỏ từ trong tư duy, người Việt trọng cộng đồng hơn cả cá nhân. Cho nên xưa, của trồng ngoài đồng của ai nấy hưởng, không ai hái trộm, đi rừng thấy cây ăn trái có ai đó đã xí phần trước bằng một vết dao khắc trên thân cây là người khác không hề đụng đến trái của cây đó. Mỗi con người là một cái Sáng. Tự mình là sáng Dạ, lọt vào trong xã hội là sáng Giá. Dạ cũng là Ta nên nó thành tiếng tự xưng, (“Trời kêu Ai nấy Dạ!”). Ta có hai phần “Ta Âm”=Tâm và “Ta Dương”=Tướng (phát tiết ra ngoài trên mặt gọi là Tướng Mặt = Tướng Mạo) thì Dạ cũng có hai phần “Dạ Âm”=Dâm và “Dạ Dương”=Giường. Cái Dạ nằm trên Giường thì cũng như cái Sáng nằm trên Sàng. Giường của dân hay long Sàng của vua thì cũng thế cả. Đời=Thời=Thế, đời là như thế thì cũng nghĩa là thế là như thế, đã gọi là đời thì thời nào chẳng thế. Nếu theo giá trị qui ước Dạ âm là 0, Dạ dương là 1, nên 0+1=1=Giá. Còn theo biến thanh điệu, vì Dạ có thanh điệu thuộc nhóm âm là 0, nên “Dạ Dạ”=Giá, 0+0=1, Giá=1(chứ nếu Giá bằng 0 thì hóa ra miễn phí). Em kêu, anh Dạ!. Anh kêu, em Dạ! . Thì cùng lên Giường, gọi là Dâm. Con người thì ai cũng có Giá cả, vì trong Ta có Dạ âm và Dạ dương. Đời=Thời=Thế, “Thời nào mà chẳng Thế”, sinh lý và nhu cầu hạnh phúc của con người là thế. Áp đặt “nam nữ thụ thụ bất thân” (phong kiến hủ nho) tự cho cái áp đặt là đúng, đến khi đổi mới lại như cũ (Phật: Pháp luân tự địa. Vật đảo như nguyên) lại cho cái đã áp đặt trước là sai. Bài Từ trong lời Tựa của cuốn Tam Quốc Diễn Nghĩa có câu “Thanh sơn y cựu tại. Kỷ độ tịch dương hồng. Bạch phát Ngư, Tiều giang đỗ thượng. Quán khán thu nguyệt xuân phong. Nhất hồ trọc tửu hỉ tương phùng”: Núi vẫn xanh như cũ, như mặt trời ngày đêm vẫn tỏ. Lão Ngư, lão Tiều sống thật thà mộc mạc tôn trọng thiên nhiên là hạnh phúc nhất, đến bạc đầu vẫn thọ mà còn nhậu phẻ để vui với nhau hưởng gió và ánh trăng quanh năm. Đúng là con cháu dòng Rồng (Rồng=Ngổng=Nghê=Ngư) và dòng Tiên (Tiên=Tiều).
-
Tên các con số trong hệ đếm thập phân Các hệ đếm sau hệ nhị phân vẫn còn dấu ấn chịu ảnh hưởng quán tính của hệ nhị phân. Đặc trưng của hệ nhị phân là cái gộp đôi: ‘Nhị nguyên sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái”. Gộp đôi còn lây sang cả công nghệ rèn dao Găm và Gươm thời Việt Vương Câu Tiễn, gập lá thép, rèn tiếp, lại gập lá thép, rèn tiếp. Nôi khái niệm thì: Gộp=Gặp=Cặp= “Cặp Ríp”=Kịp= “Kịp Chập”=Cập=Gập= “Gập Lắm”=Găm= “Gập Ướm” (gập hai lá bằng nhau)=Gươm= “Cặp Ướm”=Cườm= “Cặp Yếm” (Ướm=Yếm, giống hình bộ ngực)=Kiêm=Kiếm. Như trên thanh gươm của Việt Vương Câu Tiễn có viết bằng chữ nôm chữ Gươm. Quán tính của cái “tứ tượng” làm cho người ta chia đời người thành bốn khúc là Sinh-Lão-Bệnh-Tử và dùng cái vòng đếm bốn “số” này để làm số lượng song cửa sổ hay số lượng lỗ thông gió không bị trùng vào “số” xấu. Đếm theo bốn số thì đến số Bốn là số Bự nhất, nên Bốn=Bự=Tư (nho viết Tư 四). Đếm theo hai số thì số Một là số bí vì nó chưa mở ra nếu chưa đếm đi tiếp đến số thứ hai, tức là Một=Nhốt=Nhất (nho viết Nhất 一). Khi đếm mới có bốn số người ta đã có kinh doanh, nên Một=Mua (người tiêu thụ, hạng nhất, thượng đế), Hai=Lái (chủ lưu thông phân phối), Ba=Buôn (chủ cung cấp hàng hóa, Buôn Bán, là kinh doanh sản xuất hay kinh doanh thương mại), Bốn=Bổn (chủ ngân hàng), bốn đối tượng như bốn Ven của một lỗ vuông của đồng tiền (Tròn Vuông = Trọn Vẹn = Hoàn Toàn, “Một vốn bốn lời” sao cho trọn vẹn). Khi đếm bốn số, mới hết số thứ hai, do quán tính của hệ nhị phân, nên sang số thứ ba đã nghĩ nó là xa rồi, không quay lại một như hệ nhị phân nữa, nên Ba=Xa=Xam (tiếng Thái và Việt Đông)=Tam (nho viết Tam 三), còn có từ đôi Xa Xăm. Khi đã đếm ở hệ ngũ phân, con số 5 cứ bị quán tính của cái “tứ tượng” nên cứ muốn nhảy về vị trí của con số 1 đầu vòng đếm, nên Năm=Dăm=Lắm=Sắm. Sắm có nghĩa là mua , do 5 bị quán tính của 1( Một = Mua), nhưng Sắm là mua nhiều thứ hơn, nên mới có từ đôi Mua Sắm. Khi sang hệ ngũ phân thì đếm đến số 5 là số nhiều nhất và phải dừng vòng đếm để quay lại số đầu là 1, nên Năm = Dăm = Lắm = Sắm = Nằm = Nầm = Hâm = Ngậm=Ngừng=Nghỉ=Ngủ=Ngũ (nho viết Ngũ五). Hệ đếm thập phân của tiếng Khơ Me còn lưu dấu ấn của hệ ngũ phân: Muôi-Tê-Pây-Buôn-Prăm rồi quay lại Prăm Muôi nghĩa là 6. Do cái quán tính “gộp đôi” của hệ nhị phân, nên trong hệ thập phân của tiếng Việt, như chia làm hai vòng: Vòng một là Một-Hai-Ba-Bốn-Năm. Vòng hai là Sáu-Bảy-Tám-Chín-Chục. Vòng hai bị quán tính của hệ ngũ phân, nên các tên số của vòng hai cứ muốn quay về vị trí tương ứng như của các con số vòng một. Vòng một đếm đến Năm=Dăm=Lắm=Sắm là nhiều nhất vòng rồi, tiếp là phải “Sắm một số Sau” = Sáu, và coi Sáu là sâu hơn vòng một rồi: Sáu=Sâu=Lâu=Lục=Lão=Luôn, (nho viết Lục 六). Tương tự như khi đếm bốn số, do quán tính của “tứ tượng” mà Sinh-Lão-Bệnh-Tử là một đời người, nếu đếm “Kế Tiếp”= Kiếp sau thì lại vòng hai từ Sinh-Lão…nếu tạm dừng ở số Lão này thì sẽ thấy Lão=Lục=Lâu=Sâu=Sáu (vì được Sinh-Lão-Bệnh-Tử-Sinh-Lão, là sáu con số). Số Sáu ở vòng hai tương ứng số Một ở vòng một. Tiếp đến phải là số tương ứng số Hai ở vòng một, nên tên số ấy đã từ ảnh hưởng Hai=Hay mà “Bước sang vị trí như Hay”=Bảy, và là “Thay cho vị trí của 2 đã Mất”= Thất. Rõ ràng là Bảy=Thay=Thất (nho viết Thất 七). Cái âm Thất ấy, nho viết một chữ Thất 失 khác, vẫn nghĩa đen là “Thay bằng giá trị không tương xứng với cái Mất”= Thất. Ví dụ Thất Thu không có nghĩa là Mất Thu, bởi vì Thất Thu vẫn là có thu, chẳng qua là “Thu bằng giá trị không tương xứng cái đã Mất”= Thất. Chữ Thất 失 này Từ Điển Tiếng Việt NXB KHXH HN 1977 không cho rằng nó nghĩa là Mất , trang 725; nhưng Từ Điển Yếu Tố Hán Việt Thông Dụng, Viện ngôn ngữ học, NXB KHXH HN 1991 giải thích Thất 失 là từ gốc Hán, nghĩa là Mất , trang 376 (thế là thế nào?), Quan thoại phát âm chữ Thất là “sư”. Sau số Bảy hay Thất ở vòng hai thì đến số tương ứng với số Ba hay Tam ở vòng một, bản thân nó phải chứa nhiều hơn, nên nó không thể như Tam mà nó phải là Tám (“Tam Tam”=Tám, 0+0=1, ý là nhiều hơn Tam). Ở vòng một có Ba=Buôn=Bán, nên ở vòng hai tương ứng “Tám Buôn”=Tuôn=Tuồn= “Tám Bán”=Tán hàng hóa ra. Tám=Bám=Bán=Bát=Phát= Phát Tán. (Nho viết Bát 八) . Tám chuyện là bám lấy người ta mà phát tán (miễn phí) cái chuyện của mình. Sau Tám phải đến con số tương ứng với ở vòng một là số Bốn=Bổn=Vốn. Cái Vốn thì phải dấu, không ai để lộ số vốn và giả thành phẩm cả. Vốn=Chôn=Chín=Kín=Cửu , như dưới Chín suối hay Cửu tuyền (nho viết Cửu 九). Sau số 9 là đến số Chót của vòng hai, “Chót Út”=”Chót Úc’=Chục=Chặp (tiếng Việt Đông)=Thập (nho viết Thập 十). Về sau dùng chữ số ẢRập thì viết Chục là 10, như con số 1 được kèm thêm chút 0 (cho nặng ký), ngôn ngữ cân đong của kẻ kinh doanh thì gọi là “Một Tươi”=Mười.
-
Tự Do là “từ Hán-Việt” (?!) Từ Điển “Yếu tố Hán Việt thông dụng” của Viện ngôn ngữ học NXB KHXN Hà Nội 1991 giải thích Tự là từ gốc Hán (trang 457) và Do là từ gốc Hán (trang 101), “Chúng là những từ gốc Hán đã Việt hóa hoàn toàn, nghĩa là cả về ngữ âm lẫn ngữ pháp, chúng đã nhiễm được các đặc tính ngữ âm và đặc tính ngữ pháp của từ Việt” (trang 5). Để xem ai nhiễm sang ai, tôi bắt đầu phân tích từ chữ I (điều mà hội thảo quốc gia mới đây về “từ Hán –Việt” đang “chưa ngã ngã ngũ” về chữ nào viết dùng I ngắn, chữ nào viết dùng Y dài – tin Báo Lao Động). Lấy một con người mà xét, ta gọi con người đó là Nó. Khái niệm “nó chính là nó” là Y (thành ngữ “Y như đúc”, ra tòa còn gọi Nó là Y, Hán ngữ không gọi Nó là Y). Khái niệm “nó tư duy” là Ý ( xin lỗi lỡ lời “Ý lộn!” , tức tư duy lộn dẫn đến nói lộn thành ra lỡ lời; “ý mày thế nào ?” tức tư duy mày thế nào?). Khái niệm “nó thải cặn bã ra khỏi nó” là Ỵ ( tất cặn bã phải lìa khỏi cơ thể nó, nên “Ỵ Lìa”=Ỉa. Khái niệm “Nó giữ nó nguyên nó” là Ỳ. Khái niệm “nó dựa chính nó” là Ỷ ( “ỷ thế” là nó dựa chính nó có thế, “ỷ tiền” là nó dựa chính nó có tiền, “Ỷ y” là nó dựa nó chính là nó; Ỷ y còn nói là Cậy Y, mà “Cậy Y”=Kỷ, nó dựa nó thì chính là Nó, nên chữ Kỷ mang nghĩa là mình, tự kỷ là tự mình). Khái niệm “nó nói” là Ỹ (ầm ỹ là làm ồn bằng tiếng nói, như “chửi nhau ầm ỹ”, “cãi vã ầm ỹ”, không ai nói “ô tô chạy ngoài đường ầm ỹ”, mà chỉ có thể nói “ô tô chạy ngoài đường ầm ầm”). Đó là đủ sáu dấu thanh điệu của sáu từ có chung Rỡi “Y” và chung cái “Vắng Tơi”, dù viết là Y - Ỹ - Ỵ - Ý - Ỷ - Ỳ hay viết I – Ĩ - Ị - Í - Ỉ - Ì thì đọc ra vẫn là “tiếng” Việt cho ra “nghĩa Việt”. Ý là cái tư duy, “Người mới là động vật bậc cao biết sinh ra Ý”= “Người…Ý”= Nghĩ, người mới biết nghĩ. Cử động là “Đưa theo Ý”= Đi. Đi là mình tự theo ý mình mà cử động, chẳng ai bắt buộc, chẳng ai can thiệp. Đi=Di=Dịch=Dời=Du=Do=Đò=Đo=Độ=Bộ=Bước=Vược=Vượt=Việt, tất cả các từ bên đều từ thuần Việt của một Nôi khái niệm của NÔI Việt ( giả thích xong chữ Do. Từ nguyên cuả Do là Đi, từ nguyên của Đi là Ý). Cái NÔI chính là “Nó chửa mọi khái niệm của ngôn ngữ đấy Thôi”= NÔI, cũng là NO+I = NOI, vì Y cũng nghĩa là Nó, nhấn mạnh thì dùng từ đôi “Nó Y”= NÔI, và chữ I đứng phía bên dương của NÔI đã cho ra sáu từ có Rỡi “Y” là cái sinh lý của một con người.(NÔI=Nòi=Nói). Trẻ sơ sinh chưa biết nói nó đã hiểu từ “Ị” ; cũng như không muốn ai can thiệp vào nó thì nó kêu “Ứ !”, tức muốn Giữ cái độc lập tư duy của nó, mà “Ta Ứ”= Tự. Ứ=Giữ=Tự=Cứ=Kỳ=Lì=Trì. (Giải thích xong chữ Tự)."Trì Giữ"=Trứ, nhĩa là giữ mãi, Trứ Danh là giữ mãi cái danh, tức nổi danh. Gan Lì = Can Lì = Kiên Trì. “ Con sao Kỳ quá à con, không nghe lời mẹ khuyên”, “Con sao Lì Lợm vậy con, không nghe lời cha dạy”( mới một cái Gớm thì gọi là gớm ghê, “Lắm Gớm”=Lợm thì không biết ghê cỡ nào, Lì Lợm còn quá xá Lì), “Đường ta, ta Cứ đi, nhà ta, ta Cứ xây, ruộng ta, ta Cứ cày, đợi ngày, diệt tan quân xâm lăng, cười vang ta hát câu hò khoan” (lời bài ca). Tự và Do chỉ là bắt đầu từ cái “Ứ” và cái “Ị” của đứa oắt con Việt, nhưng nó là cái sinh lý của con người là không có gì quí hơn độc lập tự do, độc lập tư duy, tự do phát biểu. Người Việt mà đã nghĩ gì là làm cho Kỳ được, cái ý chí Lì đó là tinh thần tự do của người Việt. Vậy mà người ta dám gạt phắt cái từ Tự Do ấy cho Hán, (gọi là “từ gốc Hán”, “từ Hán Việt”), thành ra người Việt mất tự do. Không chịu hỏi đứa oắt con Việt để nó chỉ cho.(Oắt Con, tiếng Nhật gọi là Oa-Kai). Thành ngữ “Đi ra hỏi già, về nhà hỏi trẻ”, “Đi một đoạn đàng, học một sàng khôn” , học còn không bằng sang lọc. Người đi học mới chỉ khôn chứ Trời đi (học) thì còn siêu hơn, vì Bước của Trời dài hơn của Bộ=Bước=Vược=Vượt=Việt. “Trời Đi”= Tri, nhiều tri thì “Tri Tri”= Trí, 0+0=1.
-
Thành ngữ”Nhớ như In” cho thấy rằng In là từ chung chỉ Ăn và Uống. Ăn uống là cái bản năng, con vật và con người không thể quên được. Ăn và Uống vào thì các thức đều in đầy theo khuôn cái dạ dày, nên còn gọi là “In như đúc”. Chim nhặt thức chứa trước tiên vào cái “Dạ chứa Nhiều”=Diều của nó, rồi sau mới xuống cái “Dạ Nhai”=”Dạ Nhay”=”Dạ Dày” của nó để nghiền cho “Mềm các thức đã nhặt Về”=Mề, trong đó có nhặt cả những viên sỏi nhỏ, lợi dụng làm công cụ nhay nghiền nhuyễn thức ăn vì chim không có răng để nhai. Tiếng Thái thay tơi “K” cho cái vắng tơi của từ In thành từ Kin, nghĩa chung cho ăn hay uống. QT Tơi-Rỡi cho ra In=Ẩm. Ẩm Thực là In nhiều thức, vì “Thức Thức”=Thực, 1+1=0. QT Nở làm cho In tách đôi thành Ăn và Uống riêng (đều cùng vắng tơi như In). Gọi là Uống do nó hướng về Dương bởi chính nó là âm. Gọi là Ăn do nó hướng về Âm bởi chính nó là dương. Ăn=Cắn=Nhằn=Nhai=Nhay=Nhậu=Nhồi=Nhấn=Nhận=Ấn=Ân=Ơn. Ăn là sự nhận vào, nhận vào là sự Ngậm ơn=Hầm ơn=Hàm ơn. Ơn Giữ=Ân Khư=Ấn Kho, nghĩa là nhận vào kho, là thu tất cả mọi luồng vào một chỗ. Kho=To=Tổ=Đô=”Đông Hộ”=Đô, thành ngữ còn có câu “To Tổ Bố”. Giao tiếp để gom mọi luồng vào một chỗ gọi là Rủ=Thu=Thụ=Thủ. Cái tên Ân Khư (nghĩa đen là Ấn vào Kho) từng được lấy làm tên một Thủ Đô trong lịch sử. Kinh Đô là từ chung, chỉ những nơi mà người Kinh “Đông Hộ”=Kinh Đô. “Một Kinh”=Mình, là người Kinh tự xưng là Mình. “Minh Minh”=Mình, 0+0=1. Trong cơ thể nó có trí tuệ là sự “Cân bằng hai cái Minh”=Kinh. Chữ Kinh 京 viết biểu ý bằng Đầu 亠 , Mình 口 , và chân tay 小 thành một hình rất cân bằng theo bổ dọc (hai chân chụm một, hai tay hai bên, Mình=Mảnh=Vành Vạnh=Vuông 口, “tấm thân này” hay “mảnh thân này” là cái mình, “thân thể người ta chia làm ba phần: đầu, mình, và chân tay”). Rõ ràng Mình là danh xưng một Kinh, tức một người. “Đàn ông Kinh”= Đinh, “Đàn bà Kinh”= Đinh, đó là để đếm nhân khẩu. Ăn ở, Ăn học, Ăn ngủ, Ăn nằm đều là sự Nhận cho mình tức hưởng thụ. Người xưa khắc chữ lên mu rùa là tích tụ thông điệp giao tiếp. Tích tụ lên mu rùa tức Rùa Ủ, mà lướt “Rùa Ủ”= Rủ (cũng như “Vòm Ủ”= Vũ, “Trời Ủ”= Trụ). Rủ là sự liên kết giao thương: “Vua Hùng tặng vua Chu con rùa nghìn tuổi trên mu có khắc chữ khoa đẩu, nội dung nói từ thời khai thiên lập địa” (có cả lịch thiiên văn, “vua Chu sai chép lấy gọi là qui tàng lịch”). Trống đồng nào cũng có chính giữa mặt trống là hình Mặt Trời. Mặt Trời nghĩa là Trong Lửa = Trong Ly = Dong Đi = Giữa Chỉ = Giao Chỉ. Trong đêm đen người ta đốt đuốc làm điểm chỉ đường. “Giữa Trao”= Giao, có Trao có Trả là sự giao thương. Dong là “Dẫn giải đi nhiều Vòng”= Dong, (như nhìn thấy mặt trời ngày đêm ngày đêm tự dẫn đi nhiều vòng; “Dong trâu từ miền ngược về bán cho miền xuôi”; cái tấm gỗ lim do trâu Dong từ nơi xẻ về kê Giữa gian nhà chính, dưới bàn thờ gia tiên gọi là cái Dong, nếu có gia công đẹp đẽ hơn thì gọi là cái Sập, vì nó “Sang và độc Lập”= Sập, mỗi nhà chỉ có một cái, thường làm bằng gỗ lim hoặc gỗ gụ). Mặt Trời giữa mặt trống đồng có nghĩa là Trong Lửa = Trong Lả = Trung Hỏa, ám chỉ nơi khởi đầu văn minh (lửa là khởi đầu cho tiến hóa của văn minh loài người). Nhiều Hỏa thì mới có “Hỏa Hỏa”= Hoa, 1+1=0 (chữ Minh cũng là con số 0, khi “Một Kinh” = Mình phải có hai cái Minh là “Minh Minh”= Mình, 0+0=1). Minh và Hoa đều có nghĩa là Tinh Hoa. Từ Người tức “Từ Kinh”= Tinh. Trong tiếng Việt thì từ Minh và từ Hoa không có gắn với từ nào mang nghĩa xấu. Trong tiếng Việt có từ “Việt gian”, trong tiếng Quan Thoại có từ “Hán gian” nhưng không có từ Hoa gian. Mà Tinh Hoa nói lướt thì “Tinh Hoa”= Tòa = Ta. Tức tự Ta đã là Tòa (tòa án) cho Ta (gọi là chất vấn lương tâm), nó được đo bằng “Cân bằng hai cái Minh”= Kinh. Đó là hai cái Minh là Minh âm và Minh dương (đã giải thích ở đoạn trên), tức hai cái Sáng: “ Sáng Âm”= Sấm (tức chấn động, thế giới âm là im ắng nhưng tính của Âm là động), “Sáng Dương”= Sướng (tức hanh thông, nghĩa là “Suốt Đường”= Sướng). Hai cái Sáng là trí tuệ âm và trí tuệ dương ấy cân bằng nhau, nên mới có “Sáng Sáng”= Sang, 1+1=0. Phần thịt thì cơ thể Ta có cái thuộc tạng dương có cái thuộc tạng âm, phần trí tuệ tức cái Sáng (thành ngữ có câu khen “Sáng dạ”) cũng có âm và dương. “Ta Dương”= Tướng, “Ta Âm”= Tấm, tức tấm lòng, tức muốn làm Tướng phải có Tâm, tức là phải biết tôn trọng từ cái Ứ của đứa oắt con Việt phát ngôn ra khi nó còn chưa biết nói (Oắt Con = Oa-Kai). “Ứ!” là cái Ý riêng tư của nó, cái Tư Ứ = Tư Giữ = Tự Do . (Ứ=Tư=Tự, Giữ=Do, Đi=Di=Du=Do). Tự Do là Tự Giữ và Tự Đi (không ai bắt buộc được). VD các câu viết “Tự quan điểm ấy mà ta cho rằng”= “Do quan điểm ấy mà ta cho rằng”= “Giữ quan điểm ấy mà ta cho rằng”= “Đi từ quan điểm ấy mà ta cho rằng”. Tự Do là từ thuần Việt, không thể giải thích như Từ Điển: Tự Do là từ gốc Hán, nghĩa là “tự do”, nghĩa là “freedom” (?!).
-
Ba chữ Mình (1), Minh (0) và Minh (0) đủ chắc như kiềng ba chân để nói rằng chữ nho là của người Việt có trước Quan Thoại. Tự xưng "Một Kinh" = Mình. Mình là một con người, trong một con người tồn tại hai cái Sáng, tức hai cái Minh, "Minh Minh"= Mình, biến thanh điệu là 0+0=1. Một cái Minh 明 trong con người là Minh dương, là viết bằng “ánh sáng của trời trăng” tức chữ Nhật 日 và chữ Nguyệt 月. Một cái Minh 冥 trong con người là Minh âm, là viết bằng “mật và sâu” tức các chữ Mịch 冖 Viết 曰 Lâu 六 (lái là “mầu viết linh” tức mầu nhiệm và linh thiêng), Mật=Mịch là kín đáo và im ắng, Viết=Và=Na=Nói, Sáu=Sâu=Lâu=Lục, tiếng Hồ Nam đọc số 6 là "Lấu". Nólà chữ nho Việt, bởi chỉ tiếng Việt mới có nói lái, và chỉ tiếng Việt mới có ngôi thứ nhất xưng Mình, mà “Minh Minh”= Mình, 0+0=1. Trong một Mình có hai tiềm năng, một là cái Sáng dương tức trí tuệ dương, là cái ai cũng đang dùng hàng ngày; một là cái Sáng âm tức trí tuệ âm thì nó lặn, chỉ có một số rất ít người khơi dậy được, đó là những nhà ngoại cảm hay những người có khả năng chữa bệnh bằng ý nghĩ.
-
Đúng, chữ Minh là con số "0", thì chữ Mình phải là con số "1", vì "Minh Minh"= Mình, biến thanh là 0+0=1 đúng qui tắc số học nhị phân.Trong một con người thì có cái Sáng của dương và cái Sáng của âm cùng tồn tại, đều gọi là Minh, thành ra là hai Minh, tức "Minh Minh"= Mình. Vì có hai cái Sáng nên con người nào cũng là "Sáng Sáng"= Sang, 1+1+0, chẳng thế mà ca dao có câu:"Hơn nhau tấm áo manh quần. Cởi ra bóc trần ai cũng như ai". Minh là "Mơ Tinh"= Minh, là lúc Tinh Mơ tức trời chuyển sáng, nên Minh 明 có nghĩa là Sáng, viết bằng ghép "ánh sáng trời" là Nhật 日 với "ánh sáng trăng" là Nguyệt 月, thành chữ Minh 明.Nhưng thế giới âm cũng có chữ Minh 冥, người âm cho tiếng "Minh" ấy nghĩa là sáng(vì khi sống ở dương thế họ đã hiểu như thế), nhưng người dương lại cho Minh 冥 của âm ấy là tối(như rừng U Minh).Hai giới là tồn tại song trùng mà. Nhưng người dương cho rằng cái Minh 冥 của người âm là "Minh Lạ"= Mã, nên mới lập phố Hàng Mã để chuyên bán đồ cho người âm, gọi là hàng mã, tiền mã còn gọi là tiền âm phủ, có cả tiền đô la âm phủ. Trời là từ chung. Trời=Trên=Lên=Then (tiếng Tày)=Thiên=Thượng. Hán ngữ dùng chữ Thiên và chữ Thượng nên có từ ghép Thiên Thượng chỉ ý Lên Trời, và từ ghép Thượng Đế chỉ ý Bề Trên = Đế Trời = Đế Thượng (lướt “Bậc Đế”=Bề). Trời là từ chung, trong đó có Bầu của Trời là Bầu Trời, Mặt của Trời là Mặt Trời (là chính cái thiên thể tỏa ánh sáng). Trời=Ngời=Ngà=Nguyệt=Nhiệt=Nhật. Mặt Trời tỏa ra ánh sáng của nó là Ngời=Ngà=Nguyệt=Nhiệt=Nhật. Mặt Trời là ngôi Một thì ánh Sáng nó tỏa đi là ngôi Hai, nên gọi là Ngời Hai = “Ngời Hay”=Ngày, nửa sáng này là “Ngày Trời”=Ngời, nó là sáng ngời; nửa tối là “Tăm Trời”= “Tăm Trồi”=Tối, nó là tối tăm. Đó là phân chia Ngày và Đêm. Từ quan sát Đêm/Ngày mà tiếng Việt nảy sinh hệ đếm nhị phân, chỉ có hai con số là 1 và 0 (bit thông tin có hai giá trị là 1 và 0), tương thích với Mặt Trời cứ LẶN (tương đương 1, là số thứ Một) rồi lại LÊN (tương đương 0, là số thứ Hai), cứ thế mà đếm Tới=Tương và “Lâu Mãi”=Lai, trong Tương Lai vô tận. (Tới=Tương, VD: “Mày có muốn tao Tương cho mày một cái tát hay không?” có nghĩa là “Mày có muốn tao Sẽ cho mày một cái tát hay không?”). Rộng ra thì cũng giống như nhân loại đã tiến hóa từ Đêm Đen (thời cũ) đến Ngày Tỏ (thời mới) như tiếng Việt thể hiện bằng hai nôi khái niệm nhị phân, (1) là số thứ Một và (0) là số thứ Hai, sau đây: (1)= Một=Muôi (tiếng Khơ Me)=Mỗi=Mun=Mọi=Muội=MINH 冥 (VD: “U u minh minh như trong rặng mù u”)=Mù=Mò=Mẫm=Lầm=Đậm=Đen=Đêm=Đắm= =Tăm=Tối=Lội=LẶN=Mặn (“Mò Lặn”=Mặn: xuống dưới biển tối) =Muối ( VD: “Muối mặt” là chỉ bóng gió tự bôi đen mặt mình, do chữ “Muội Muội”=Muối)=Một= (1). Đó là bước trong đêm khi mặt trời đang còn lặn, là bước Lội Lầm = Lỗi Lầm. (0)= Hai=Mai (nghĩa là mới, tiếng Thái Lan)=Mạy (nghĩa là mới, tiếng Lào)=Ngày (là mới so với đêm là cũ)=May=MINH明= Mới = Tới = Tỏ = Đỏ = Ló = LÊN =Trên = Trống = Không = (0). Đó là đã bước sang ngày mới sáng tỏ văn minh, vận may cũng là vận đỏ, là cái mới người ta ao ước nó tới với mình. Khi ta đang ở trong thời mới, tức theo số học nhị phân ta đang nhìn thấy số 0, nó gợi ý ta phải chú trọng phần âm (tức chú ý về quá khứ lịch sử nhân văn xưa của nền văn hiến Văn Lang Lạc Việt), bởi ta hiện thật đang trong tình trạng “dương thịnh âm suy”, nhiều cái chạy lẹ quá nên trật đường rầy. Tục ngữ tiếng Hoa có câu “Ninh khả tẩu thập bộ lộ viễn 寧 可 走 十 步 路 遠. Bất khả tẩu nhất bộ lộ hiểm 不 可 走 一 步 路 險” (Thà đi mười bước đường xa. Không thể một bước nhảy qua miệng hùm). Có nơi không nghe câu tục ngữ ấy nên đã từng làm đại nhảy vọt, chuốc lấy thất bại thảm hại. Ngày nay mà chạy lẹ quá, loạng quạng lại trật đường rầy. “Dân dĩ Thực vi Thiên”. Thật=Thực=Đức, mới xây được cái Thiên đàng hạnh phúc của dân trong thực tại, gọi là chủ nghĩa xã hội hiện thực.
-
Chữ Mình là từ con số 1. Người Kinh tự xưng là “Một Kinh”=Mình (QT Lướt), thì đó là mình một, người đối thoại cũng tự xưng là mình, nên phải gọi đó là Mình Hai, lướt “Mình Hai”= “Mình Hay”=Mày. Hai=Hay (QT Tơi-Rỡi). Nói “Ta chọn cái này Hay chọn cái kia” tức là “Ta một là chọn cái này, hai là chọn cái kia”. Lướt “Hay Chắc”=Hoặc, tức “Hoặc” là nói về phương án hai mà cũng chắc chắn như phương án một, cái nào cũng được, như nhau, từ Hoặc nho viết bằng chữ Hoặc, Quan thoại mượn chữ Hoặc này, phát âm là “hua”. Nhưng TĐ Yếu tố Hán Việt thông dụng, Viện ngôn ngữ học, NXB KHXH Hà Nội 1991 giải thích chữ Hoặc là từ Hán Việt (tức gốc Hán, trang 178): biểu thị quan hệ giữa hai hay nhiều khả năng khác nhau,…(?!). Hai=Hay=Hãy (QT Tơi-Rỡi), nên từ Hãy chỉ dùng làm mệnh lệnh thức đối với người thứ hai, ngoài Mình, “Tao Phải làm thế này!” nhưng “Mày Hãy làm như Tao làm!”. Người Việt hình dung đối với ánh sáng thì Mặt Trời cũng như Mắt Người. Mặt trời ngày ngày thấy “Ngày Trời”=Ngời=Ngày, tức thấy sáng. Mắt người ban Ngày mở nên nó Ngắm thấy ngời (Ngày=Ngắm), còn đến Tăm thì mắt người Nhắm (Tăm=Nhắm) nên thấy tối tăm. Quan sát mặt trời trong ngày cứ Lên rồi Lặn, giống như mắt người trong ngày đêm cứ Mở rồi Đóng, cơ chế ấy chính là Một và Không (Mở=Một=1, Đóng=Không=0), con số và ngôn từ đếm của Việt từ sơ khởi là hệ nhị phân, cứ 1 rồi lại đến 0. Quán tính này còn lại trong khẩu lệnh dậm chân tại chỗ của Việt là “Một – Hai – Mốt !”, trong khi khẩu lệnh này ở Hán là “ Yi – Er – Xan!” tức một hai ba. Do quán tính nhị phân nên khi đếm ngày cũng thế, hôm nay coi là ngày Một thì tiếp theo phải là ngày Hai=Mai (cùng Tơi “M” với Một), Hai=Mai=Mới=Tới=Tương, tức là cái sẽ xảy ra sau ngày hôm nay. Ngày Một rồi đến ngày Mai, sau ngày Mai ấy là đến ngày Mốt (tức theo quán tính nhị phân chỉ có hai con số, thứ Một là số 1 và thứ hai là số 0, nên gọi là ngày Mốt). Sau ngày Mốt đến ngày mai của Mốt thì gọi là gì, bởi thời gian đâu có quay lại. Do vậy ngày mai của mai đã thành gọi là “Mai Mai”=Mải,0+0=1, cứ thể mải miết thời gian trôi đi không quay lại. Trôi đi nữa thì mải của mải thành là “Mải Mải”=Mãi, 1+1=0. Rõ ràng là để đếm thời gian, từ trong ngôn từ, người Việt đã dùng một bit của toán nhị phân, một bit chỉ có hai giá trị là 1 và 0, chỉ có Mai của Mai là “Mai Mai”=Mải, thanh điệu biến theo số học nhị phân là 0+0=1. Đếm tiếp thì Mải của Mải là “Mải Mải”=Mãi, thanh điệu biến theo số học nhị phân là 1+1=0, loanh quanh của một bit thì chỉ có 1 rồi đến 0, lại 0 rồi đến 1. Nhưng mở rộng mãi thì có hàng tỷ Gigabit, như thời gian là bất tận. Mở rộng của Mãi là lâu mãi, mà “Lâu Mãi”=Lai (QT Lướt). Ở trên đã dẫn Mai=Mới=Tới=Tương (QT Tơi-Rỡi). Hai QT này trong tạo ngôn từ Việt , ở đây, đã cho ra từ ghép Tương Lai, là từ gốc Việt, chỉ thời gian tới và tới lâu mãi không có điểm dừng (Từ điển Tiếng Việt, NXB KHXH HN 1977 giải thích Tương Lai là “thời gian sẽ đến”, trang 832). Nếu nghi ngờ về QT Lướt, xin hãy đọc mạng “Thuyết văn giải tự tại tuyến tra tầm” sẽ thấy Hứa Thận đã vận dụng QT Lướt có trong tiếng Việt, mượn để hướng dẫn âm đọc, như thế nào. Nếu nghi ngờ về QT Tơi-Rỡi thì xin đọc kỹ Sử Ký của Tư Mã Thiên, có đoạn: “Họ Phan vốn gốc là họ Bàn, họ Bàn vốn gốc là họ Bồ” (nhìn là thấy ngay QT Tơi-Rỡi: Phan=Bàn=Bồ, bởi vậy có thể dẫn tiếp Bồ=Bờ=Cơ, họ Cơ là từ dòng sông Cả. Sông Cả vốn tên là sông Rum = sông Lùm, nơi quần tụ đông dân sinh sống, tộc đông dân nhất ở Lào, gọi là người Lào Lùm; sông Lùm = sông Lam = sông Lâm = sông Lang = sông Nang = sông Nam. Ngọc phả Hùng Vương, viết: “Kinh Dương Vương quê ở Ngàn Hống”. Ngàn Hống chính là nơi Núi Hồng Sông Lam). Từ ghép Tương Lai được Viện ngôn ngữ học, trong cuốn Từ Điển yếu tố Hán Việt thông dụng, NXB KHXH HN 1991, giải thích là từ gốc Hán, chữ Lai trang 226, chữ Tương trang 459 (?!). Trong ngày đêm thì mặt trời cứ Lên rồi Lặn, sang hôm sau lại Lên (Lên=Trên=Then=Thiên=Thượng). Lúc mặt trời sắp lên, tiếng Việt gọi là Tinh Mơ, nói lái là Tơ Minh = Tới Minh = Tới Mới = Tới Mai. Bởi vậy từ Minh nghĩa là Sáng, viết bằng ghép ánh sáng của Trời là Nhật, với ánh sáng của Trăng là Nguyệt, thành chữ Minh. Quan thoại mượn chữ Minh này ghép vỡi chữ Thiên, gọi ngày mai là Minh Thiên (nghĩa đen chỉ là “Trời Sáng”). Khẳng định QT Lướt và QT Tơi-Rỡi là có trong tiếng Việt, thì có thể giải mã được ám ngữ là cái tên Ông Khiết chỉ cái tượng con Cóc, có lẽ xuất hiện từ hơn hai nghìn năm nay, kể từ khi nền văn minh Văn Lang sụp đổ ở nam Dương Tử. Trong truyền thuyết Việt thì người Việt từng có hai nhân vật sáng láng lãnh đạo, đó là Đế Minh và Đế Khiết. Khiết không phải là tên tục mà chỉ là một tôn xưng. Khi lịch sử bị xóa nhòa thì nhân dân kín đáo lưu giữ ký ức bằng cái tượng Ông Khiết, hóa thân là một con Cóc xấu xí. Hình tượng con Cóc để nhắc nhớ về trống đồng ( trên nhiều trống đồng có tượng cóc), đã bị cướp đoạt hoặc chôn dấu, nhớ về chữ Nòng Nọc, đã bị hủy diệt (cùng với gợi nhớ này là tranh Thầy đồ Cóc, và câu ca dao “Con Cóc là cậu ông Trời”). Ông Khiết hóa thân vào tượng Cóc, Khiết và Cóc đều là ám ngữ. Giải mã ám ngữ Khiết: 1. Chỉ người đứng đầu làm cột dựa máu thịt cho cả cộng đồng: “Khả cốt Thiết”= Khiết 2. Chỉ người lãnh đạo cương cường chính trực: “Khí Tiết” = Khiết 3. Chỉ người lãnh đạo đem niềm vui và lễ nghĩa cho cộng đồng: “Khánh Tiết”= Khiết 4. Chỉ người lãnh đạo có sức cường tráng: “Khỏe thứ Thiệt” = Khiết 5. Chỉ người lãnh đạo đẹp và có chất xám tốt lành: “Khôi Hiệt”= Khiết 6. Chỉ người lãnh đạo có đạo đức trong sạch: “Khiết tinh thứ Thiệt”= Khiết 7. Chỉ người lãnh đạo có tư duy độc lập, chủ động mục tiêu: “Khát khao mãnh Liệt”= Khiết 8. Chỉ người lãnh đạo sáng suốt, toàn tâm toàn ý vì cộng đồng nên được thánh hóa: “Khấn tha Thiết”= Khiết Giải mã ám ngữ Cóc: 1. Nhắc nhớ về chữ Nòng Nọc của một thời văn minh rực rỡ, nhắc nhớ truyện Trê Cóc. 2. Chỉ người lãnh đạo biết định hướng tư tưởng và hành động của cả cộng đồng dân tộc: “Cỗ Óc”= Cóc. Tục ngữ “Trông mặt mà bắt hình dong. Con lợn có béo cỗ lòng mới ngon”. Cỗ lòng thì chỉ để làm mồi nhậu. Cỗ Óc thì khác ạ. Cỗ Óc là bộ máy thần kinh chỉ đạo mọi hoạt động của con người. Cỗ Óc là cái cơ chế làm nên sự phát triển thành công của một xã hội. “Cỗ Óc”=Cóc ấy phải là một cái tâm trong sáng như Trời (ca dao “Con Cóc là cậu ông Trời”, tực ngữ “Ý dân là ý Trời”. Cỗ Óc”= Cóc ấy phải Minh, Minh âm và Minh dương phải cân bằng thì mới có “Minh Minh”= Mình, mình là một người, là dân nên cũng phải Sáng như Trời thì mới có “Ý dân là ý Trời”. Ánh Sáng là tinh khiết, nó là của Trời, của trí tuệ: “Trời Khiết”= Triết. Cái minh triết Việt là cái “Sáng Sáng”= Sang của Việt. Khi đặt tượng ông Khiết trong nhà đúng vị trí theo Phong Thủy Lạc Việt, thì cái giải mã ám ngữ của Khiết và Cóc là cái tự ám thị để làm phấn chấn mình. Qui Tắc Tơi-Rỡi là có trong tạo ngôn từ Việt. Cái NÔI Cả là Tất Cả = Đất Cái, là cái NÔI mẹ để đẻ ra cả Nòi, từ đó mà rộng ra theo các dòng sông, Rộng=Hồng=Hùng, tất cả các sắc tộc dòng máu Việt đều là con cháu Họ Hùng, dù theo dân số sắc tộc Nhỏ hay To đều là Có: Nhỏ=To=Có=Họ=Hữu, chữ nho xưa viết là Hữu Hùng Thị. Thị là nói thủa sơ khai, “Theo họ Mẹ” = “Theo họ Mệ” = “Theo họ Mị”= Thị. Mẹ là dòng Chim = dòng Chiêm = dòng Xiêm = dòng Tiêm = dòng Tiên (Truyện Mai An Tiêm = Man Tiêm dong thuyền ra đảo, liên hệ người Việt cổ đã từ Phúc Kiến ra đảo Đài Loan 6000 năm trước, cùng người Nam Đảo ở đó thành người bản địa Đài Loan). Chim mà Đi thì Đi=Đưa=Đẩy=Đò=Đày=Bay=Pay (tiếng Tày-Thái)=Pay=Nhảy=Nhởi (“Nhảy ra tự do mà Chơi”=Nhởi)=Nhởi=Phấp Phới = Phi =Đi.Tư duy đi ấy là tư duy tự do của người Việt. Ngạn ngữ Nga có câu “Người Nga ưa tự do, người Đức ưa trật tự”. Người Việt ưa gì thì trong nôi Đi=Di=Dời=Dịch=Du=Do=Đò=Đi đã nói rõ. Cái ưa vượt biển của người Việt trong nôi khái niệm bên chỉ rõ trong một chữ Đò. (Cho nên trong lịch sử tư hàng ngàn năm trước, cứ hễ khó chịu là người ta vượt biên. Nhưng vẫn “Anh đi anh nhớ quê nhà, nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương” tức ghi trong ký ức những cái nhỏ nhất của Việt). Các nhà hàn lâm không thấy QT Tơi-Rỡi là vỗn có trong lối nói dân gian, vì họ cho rằng mình không phải là hạng người trần mắt thịt. Lấy ví dụ Béo=Bệu=Bấy=Phây Phây=Phì. Ngày nay TQ và ĐL đang lo sản xuất nhiều thuốc “giảm phì”. Còn Nôi khái niệm gầy là: Thịt=Thể=Thân=Thon=Gọn=Gầy=Gậy=Cây=Sậy=Sấu=Sưa=Thưa=Thọ. Nôi này nhiều từ được lấy đặt tên cho cây có tính cách chung khái niệm của Nôi, cây Gậy, cây Sậy đều thân gầy, cây Sấu có quả ăn để “giảm phì”, cây Sưa cũng giúp “giảm phì” vì gỗ nó có hoạt chất, từ xưa dùng làm lược Sưa chải đầu, kích thích huyệt bách hội, giúp con người tỉnh táo linh hoạt ưa hoạt động nên gầy. Nhưng Nôi này còn nói lên quan điểm dinh dưỡng của người Việt, ăn phải ăn Thưa thành Bữa, không ăn nhiều ăn luôn mồm thành béo phì. Đài Loan ngày nay còn khuyên người già đi bộ nên luôn mạng hai tay hai cây gậy, dù không còng lưng, nhưng hai gậy không khua khoắng thì cũng chống đi như vận động viên trượt tuyết, cho đôi tay nó hoạt động, gậy trở thành model thời thượng. Tục ngữ xưa có câu “Nhân dĩ hòa vi quí. Dân dĩ thực vi thiên”. Hòa bình là quí nhất rồi. Nhưng có hòa bình rồi người dân còn cần cái Thật=Thực=Đức thì mới tạo dụng được thiên đường hạnh phúc trong thực tại, chứ người dân chẳng mong gì cái thiên đường bánh vẽ trong tương lai. Dân dĩ Thực vi Thiên: Giải quyết thỏa đáng cái Thực tế trước mắt mới là cái Thiên đàng hạnh phúc của dân. Thức ăn phải là Thực, không có hàng giả gây độc hại, đó mới là Thiên đàng hạnh phúc của dân. (Quan điểm dinh dưỡng Việt là gầy mới thọ . Hán ngữ dùng chữ Sấu nghĩa là gầy, phát âm là “sậu” trùng âm với Thọ cũng phát âm “sậu”)
-
Từ Mình Mình Ơi … Mình À Mình ơi! Tôi gọi bằng nhà Nhà ơi! Tôi gọi mình là nhà tôi Bây giờ xuôi ngược đôi nơi Thôi mình ở lại tôi dời chân đi Thưa rằng: - ở cái quái gì Chàng đi thiếp cũng xin đi với chàng (thơ Bùi Giáng) Mình ơi! Tôi gọi là nhà Nhà ơi! Tôi gọi mình là nhà tôi Ðêm khuya nghe gọi : Mình ơi Dậy em nhờ tí, Mình ơi, Mình à Giật mình như thể gặp ma Mồ hôi nó toát như là tắm mưa Bài thì mới trả buổi trưa Giờ mà trả nữa te tua tuổi già Nằm im mắt nhắm cho qua Bên tai thỏ thẻ Mình à, Mình ơi Còn bao năm nữa trên đời Vui xuân kẻo hết Mình ơi, Mình à Người ta bảo lúc về già Dẻo dai hơn trẻ Mình à Mình ơi Con lớn chúng đã xa rời Nhà thì vắng lạnh Mình ơi Mình à Sao không bắt chước người ta Cờ người quyết đấu Mình à Mình ơi Bàn son có sẵn đang phơi Quân ngà mau dậy Mình ơi Mình à Ráng cho vui cửa vui nhà Em thương Mình lắm Mình à, Mình ơi (sưu tầm) Mình Ơi … Mình À «Mình với ta tuy hai mà một Ta với mình tuy một mà hai» Nhưng mình có tật nói dai Nên chi ta cứ cãi hoài không thôi Ta mình «hai đứa» một đôi Lâu lâu giận dỗi mỗi nơi một người Làm lành «hai đứa» lại cười Xáp vào lại hoá hai người một đôi Ngọt ngào cất tiếng «Mình ơi!» Trên đời đẹp nhất là tôi với mình Ðôi khi có chuyện bất bình Cãi nhau tôi lại với mình giận nhau Nhưng mà giận chẳng được lâu Giận nhau hôm trước hôm sau lại hoà Nhìn mình tôi bật cười xoà Nhìn tôi mình lại lăn sà vào tôi Chúng mình như đũa có đôi Có đôi để gọi «mình ơi, mình à!» Bây giờ như cặp khỉ già Nhưng mà vẫn cứ «mình à, mình ơi!» Khi nào thấy vắng bóng tôi Thì mình lại gọi: Mình ơi, mình à Khi nào tôi thấy vắng bà Thì tôi lại gọi: mình à, mình ơi! Gọi nhau cho trọn cuộc đời ... Mình ơi mình đẹp vô cùng Bởi mình có cái lạ lùng bên trong Mình đẹp mê mẩn tấm lòng Bởi mình có cái bên trong lạ lùng! (sưu tầm) Giải thích ngôn từ: “Một Kinh” = Mình. “Mình Hai” = “Mình Hay” = Mày. Hai minh = “Minh Minh” = Mình, 0+0=1. Một Kinh = Một Minh : Nhật 日; Một Kinh = Một Minh : Nguyệt 月 . Chữ Minh 明 là ghép Nhật với Nguyệt là hai cái Minh, nên nhấn ý Sáng. 24 giờ của Trái đất chia thành Đêm và Ngày. Đêm gọi là đêm trời, đêm trời thì tối; Ngày gọi là ngày trời, ngày trời thì sáng. Sáng = Láng = Lượng 亮 = Lóng Lánh = Lung Linh = Minh 明. Đêm=Đắm=Tăm. “Tăm Trời”= “Tăm Trồi" = Tối. (Từ đôi để nhấn ý là Tối Tăm). “Ngày Trời”= Ngời = Ngà = Nguyệt = Nhiệt = Nhật ( đều là chỉ ánh sáng tự Trời). Trời Ngời = Trời Nhật (tên thiên thể gọi là Trời, ánh sáng của nó gọi là Ngời, hay Nhật). Trăng Ngà = Trăng Nguyệt (tên thiên thể gọi là Trăng, ánh sáng của nó gọi là Ngà hay Nguyệt). Trời=Trăng=Trái=Tròn. Tròn=Hòn=Hoàn. “Hòn Trăng” = Hằng. Hằng Ngà = Hằng Nga ( tên thiên thể là Trăng, ánh sáng của nó là Ngà hay Nguyệt). "Hòn Trời"= Hời = Vời = Việt = Hiệt = Hới = Huế = Huệ = Duê = Duôn = Dân (tục ngữ “ý Dân là ý Trời”). Dân ấy luôn vươn ra xa Vời, dân ấy luôn có mặt Trời (trên trống đồng), dân ấy có tài trí là Hiệt 黠 (“Hay Viết”= “Hay Việt”= Hiệt), dân ấy có lòng tốt là Huệ 惠, dân ấy là “Dân 民 Tuệ 慧” = Duê, dân ấy là "Dân Luôn” = Duôn (Lâu = Lão 老 = Luôn, dân cổ xưa nhất. Tục ngữ “Quan nhất thời Dân vạn đại”), cho nên dân ấy không có tiếng Quan thoại, dân ấy chỉ có tiếng Việt.
-
Phân tích từ Ứ và từ Ị (từ của ngôn ngữ của tụi oắt con người Việt, tiếng Nhật gọi tụi Oắt Con là Oa-Kai) Ứ. Mẹ bảo con: “Con ra sân mà chơi đi, đừng bám quấy mẹ”. Trả lời: “Con Ứ chơi!”, nghĩa là con giữ cái ý của con là bám mẹ chứ không theo ý của mẹ là con nên ra sân mà chơi, Ứ tức là Khư Khư muốn Giữ cái ý của nó, không nghe ai cả. Ứ là muốn độc lập tư duy, cái tính “Dám Ứ”=Giữ (giống như nước Ứ là nước nó Trữ 貯nó, không chịu chảy đi đâu cả). Ứ là cái tính “Biết Chướng”=Bướng. Có lẽ người Kinh là kẻ Bướng nhất trong Bách Việt, nên đã không bị ngoại lai đồng hóa. “Bướng như Kinh”= Bỉnh. Bỉnh 秉 có nghĩa là cầm, tức Giữ. Từ đôi Bướng Bỉnh là để nhấn ý Bướng. Ứ là muốn độc lập tư duy, cái tính “Có Ứ” =Cứ 據, “Đường ta, ta Cứ đi; nhà ta, ta Cứ xây; ruộng ta, ta Cứ cày” tức là độc lập làm chủ, không chịu lụy ai. Giữ độc lập tư duy mà Cứ 據( tức nắm Khư Khư) mãi tư duy cũ, không chịu đổi mới, tức là “Lâu mãi cái Ì”= “Lão 老 mãi cái Ì”=”Luôn mãi cái Ì”= Lì = Kỳ, nghĩa là muốn giữ mãi cho Kỳ được, lúc đó gọi là “Lì quá Xá”= Lạ (Xá là do thái âm thành dương: “Xa Xa”= Xá, 0+0=1). Nhấn ý thì dùng từ đôi Lạ Kỳ, khi nói tắt hoặc Lạ hoặc Kỳ, chúng đều nhiễm ý là Lạ Kỳ. Khéo Lạ = Khéo Kỳ = Diệu 妙 Kỳ 奇 (Quan thoại mượn từ ghép này nhưng đảo theo ngữ pháp Ngược là Kỳ Diệu 奇 妙, phát âm là “Xí Meo”). Lì đến mức Lạ, Lạ đến mức “Hết cả phải trái” (bất chấp trào lưu thời cuộc), tức “Hết cả thắc Mắc”= Hoắc, nên có từ đôi nhấn ý là Lạ Hoắc. Lạ đến mức Vụng (tức cái Lì tư duy không theo nổi văn minh đương đại nữa) thì “Lạ đến mức Vụng”= Lùng, nên còn có từ đôi Lạ Lùng. ( Còn Lạ khi mới Lẫm chẫm bước chân vào xã hội mới thì gọi là Lạ Lẫm, là một từ ghép, không phải từ đôi). Lạ quá xá thành Lạ Hoắc, “Kỳ đến mức Hoắc”= Quặc, nên còn có từ đôi Kỳ Quặc. Tư duy Kỳ Quặc là cái tư duy cũ rich không chịu đổi mới. Ị. “I”(hoặc viết “Y”) là khái niệm “nó chính là nó” (y như đúc), tức Y là Nó (ra tòa phân biệt Y là nó đàn ông, Thị là nó đàn bà). “Nó chính là nó” thì “I” có nghĩa là cái nhỏ nhất (đến mức vô hình). “Nhỏ như I”= Nhi 兒 = Nhí= Nhị 膩 = Kỹ = =Vi 微 = Tí = Tế 細. Nên từ Y 醫 còn dùng để đại diện ý “chữa bệnh” vì thuốc phải ngấm đến tế bào nhỏ nhất, lại còn phải Y 依 như phác đồ điều trị chứ không thể lộn xộn trật tự. Tế Nhị 細 膩 là nghĩ rất Kỹ để nói ra không bị lỡ lời (nếu lỡ lời thì phải xin lỗi “Ý lộn!” tức thừa nhận Ý 意 mình sai dẫn đến nói lỡ lời). Ì mãi thì "Ỳ Ỳ"= Y, 1+1=0 (Lì mãi thì nó vẫn giống nó, chẳng đổi tư duy và cả diện mạo được); “Ì Ì”= Ị, 1+1=0 ( Lì nhiều quá xá thành nặng rồi thì đến lúc phải xả thải). Ị có nghĩa là đang xả thải, xả cho cặn bã rời khỏi cơ thể thì là “Ị Lìa”= Ỉa. VD đến giờ đưa con đi học, mẹ đợi lâu quá nóng ruột, giục: “Mày Ỉa xong chưa?”. Oắt con trả lời: “Chưa, con còn Ị”, tức đang xả thải. Lúc ấy nó đang “Xuống Ị” (như là xuống giống lúa ngoài đồng), “Xuống Ị”= Xị (rõ ràng là cái mặt nó nhăn lại để rặn), bởi vậy cụm từ “bộ mặt bị xị” là chỉ cái bộ mặt nhăn nhó xấu xí.
-
Phương tiện giao thông Từ điển chuyên giao thông đang bí từ , không đặt được thêm từ mới Việt, do chưa thấu Qui tắc tổng quát tạo ra từ Việt: (1) Từ chỉ là một tiếng, một tiếng của Việt phải là mang một nghĩa, nó là danh từ , động từ hay là gì gì nữa tùy theo vị trí chức năng của nó trong ngữ cảnh cụ thể. (2) Các Qui tắc tạo ra từ mới Việt là: Vo, Nở, Tơi-Rỡi, Lướt. Nói phương tiện giao thông là gọi chung cái giúp di chuyển, kể cả chân của con sâu hay con người đang bước đi cũng là phương tiện giao thông. “Phương tiện giao thông” là một cụm từ chứ không phải là một từ, nó là một cái Nôi con đang chửa mọi từ thuộc khái niệm “phương tiện giao thông”, nhưng chưa tìm được một tiếng thích hợp làm từ chỉ nôi khái niệm đó, để giống như từ NÔI có nghĩa là “chửa mọi khái niệm của ngôn ngữ Việt”. NÔI là do lướt “Nó chứa mọi khái niệm của ngôn ngữ Việt đấy Thôi” = “Nó… Thôi” = NÔI. Đó là cái NÔI tổng quát, tương tự như vòng lớn của chuyển động của cả vũ trụ. Còn Nôi con khái niệm “phương tiện giao thông” thì gọi là gì? Gọi là Xẹ, đó là do lướt câu : “Xét về khái niệm “phương tiện giao thông” thì nó là cái nôi Mẹ” = “Xét…Mẹ”= Xẹ. Cái tiếng Xẹ ấy là vốn có trong phát âm của Việt, tất nó phải có nghĩa, chẳng qua chưa lấy ra dùng mà thôi, nó mới đủ cho sáu thanh điệu của cái Rỡi “E” có Tơi “X”, là Xe-Xẽ-Xẹ (nhóm 0) và Xé-Xẻ-Xè (nhóm 1). Từ điển chuyên giao thông chỉ cần giải thích: Xẹ là “mọi phương tiện giao thông” (như thời xưa “Thuyết Văn”) và chú thích là do lướt câu “Xét về khái niệm “phuơng tiện giao thông” thì nó là cái nôi Mẹ” = Xẹ (như ngày xưa “Giải Tự”). Lúc đó câu dài dòng “Mọi phương tiện giao thông đều phải tuân thủ luật giao thông” sẽ được thay bằng câu “Xẹ phải tuân thủ luật giao thông”. Cụm từ “phương tiện giao thông” (tốn 28 nhấn phím và tốn giấy như thấy) = một từ Xẹ (giảm nhấn phím 3 lần, giảm tốn giấy 10 lần, giảm thời gian nói 5 lần). Tại sao tiếng Việt gọi là Xe, tiếng Việt Đông cũng gọi là Xe, chữ nho viết là “Xe là một từ của tiếng Ta” = “Xe…Ta” = Xa, đó là lý do của chữ Xa 車 Vì Xe là cái máy có cơ cấu giúp vận động bằng cách “Xoay Đè” = Xe (xoay đè của trục lên vách ổ trục và xoay đè của bánh lăn lên mặt đường, đều là ma sát). Thủa chưa biết làm bánh lăn, con người làm cái Cộ, vận động bằng trâu kéo lết trên mặt đất, cái ma sát ấy đúng là “Cày Lộ” = Cộ, nho viết “Cộ là từ của tiếng Tớ” = Cơ, đó là lý do của chữ Cơ 機 Cơ đã thành nôi khái niệm chung các loại máy như Cơ bẩm để bấm cò súng, Cối xay, Côi đạp, Cọn nước, đều là Tơi “C”. Đến khi dùng bánh lăn đầu tiên, chỉ có một bánh lăn, cái Cơ ấy gọi là Cút Kít. Còn cái Cộ vì không dùng bánh lăn nên không gọi là Xe mà gọi là gọi là Cỗ Trượt (đi nhờ “Trơn Lướt” = Trượt, trên băng trơn cho đỡ ma sát). Xe là nói cụ thể một loại của Xẹ, một chiếc thì gọi là một con xe. Lưu thông trên đường thì có nhiều xe, tức “Xe Xe”= Xé, 0+0=1, con nào cũng muốn chen lên Xé khoảng trống phía trước, nhiều khi bất chấp cả luật giao thông. (Trường hợp đang tạo từ ở đây, Xé chỉ là một “sản phẩm dở dang”, sản xuất tiếp thì “Xé Xé”= Xẹ, 1+1=0). Tuy là “sản phẩm dở dang” nhưng Xé vẫn có hàm ý của nó là Xe nào cũng cũng muốn bon chen lên Xé khoảng trống phía trước. Do Xe cứ muốn Xé rào nên cảnh sát giao thông mới cảnh cáo khi đang năn nỉ không chịu nhận lỗi vi phạm luật là: “Xé gì thì xé vẫn phải tuân thủ các qui định Mẹ”= “Xé…Mẹ” = Xẹ (các qui định mẹ như các biển báo hiệu, các qui tắc an toàn giao thông đã học). Xẹ còn hàm ẩn ý là: đã là xe tham gia giao thông thì phải chấp hành luật giao thông. Xẹ nghĩa là “mọi phương tiện giao thông”. Lấy cái từ cũ này ra xài, mới nghe thấy lạ, xài riết thành quen, được một từ mới thuần Việt, từ trong vốn cũ. Chịu khó tìm tòi thì gọi là Siêng, mà “Bất Siêng” = Biếng. Người ta viết khẩu hiệu trên băng biểu ngữ chăng ngang đường phố là: “Hãy nói không với vi phạm an toàn giao thông!” , đó là người ta đã chịu khó tìm tòi lối nói trong tiếng Anh. Nhưng quên mất tìm tòi lối nói trong tiếng Việt, đơn giản và có tính khẳng định hơn, là “Nỏ phạm an toàn giao thông!” (tức ngay cả nón bảo hiểm cũng không xài đồ dởm).
-
Trời=Tròn=Hòn=Hoàn丸=Woàn=Wờn=Viên 圓(Hòn bi = Viên bi, Hoàn tễ = =Viên tễ. Trái=Trời=Trăng=Tròn là nói các thiên thể có hình cầu. Khi nói Tròn là kết quả cảm nhận nhìn theo một mặt phẳng. Soi mặt xuống nước thấy gì không? Thấy hình bóng Mình. Có Mình mới có Hình, Mình=Hình. Hình 形là một. từ thuần Việt do từ Mình, vì “Một Kinh”=Mình là cách tự xưng của người Kinh . Nhưng Việt nho viết biểu ý là hai cái Minh, Minh dương (chữ Nhật日, nghĩa là ánh sáng của thiên thể Trời ) và Minh âm (chữ Nguyệt月 nghĩa là ánh sáng của thiên thể Trăng. Ánh sáng có là do “Ngày Trời”=Ngời, Ngời=Nguyệt=Nhiệt=Nhật đều là chỉ ánh sáng. Còn Đêm=Đắm= Tăm, mà “Tăm Trời”=Tối, không còn ánh sáng nữa) , hai Minh thì mới tạo nên được Một Mình.Vì “Minh Minh”=Mình, 0+0=1, và “Mình Mình”=Minh, 1+1=0, đúng thuật toán nhị phân. “Ta với mình tuy hai mà một. Mình với ta tuy một mà hai”, cho nên “Mình Mình”=Minh明, 1=+1=0, nghĩa là càng sáng, hợp vợ chồng là sáng. “Thuận vợ thuận chồng biển Đông tát cạn”. Chẳng có ngôn ngữ nào như tiếng Việt, vợ gọi chồng “Mình ơi !”, chồng gọi lại vợ “Mình ơi !”. Quan thoại không có từ Mình, tiếng Việt gọi xuôi Hình Mình thì Quan thoại gọi ngược là Thân Ảnh. Lướt “Hình vật nhìn theo mọi mặt cắt qua tâm đều thấy Tròn”= “Hình… Tròn”=Hòn, vật ấy gọi là Hòn. Lướt “Cái hòn là cái mà nhìn theo mọi phía đều thấy giống quả Bầu”= “Cái.. .Bầu”=Cầu, vật ấy gọi là quả Cầu. Đó là trò chơi đá Cầu của người Việt. Lướt “Cầu thì đương nhiên nhìn nó Tròn”= =“Cầu…Tròn”=Còn, vật ấy gọi là quả Còn. Đó là trò chơi tung Còn của người Việt. Ba thiên thể Trời, Trăng, Trái là mắt cảm nhận thấy nó gần nhất. Thiên thể Sao là vì cảm nhận thấy nó ở Sâu xa trong Bao la nên “Sâu trong Bao”=Sao. Bao la thì nó đúng nghĩa là Bao/La vì nó kết cấu là Âm/Dương như Mô/Một, Không/Một, Đóng/ Mở, Nấp/Đi, đều là do cái miệng Việt phát âm bằng động tác Ngậm và Toang cặp môi, đối nghịch nhau ( Quan thoại gọi Âm/ Dương là Yin/Yáng, cặp môi đều mở toang, không có tính đối nghịch phù hợp động tác). Trong tiếng Việt thì mới tìm ra được cái “NÔI khái niệm”, là cái quả cầu tổ chửa để sinh ra mọi khái niệm ngôn ngữ ( “To Ổ”=Tổ ). Nó là cái Ổ (chữ Ô ở giữa) , có hai thành phần cấu tạo là thành phần N - ngẫu nhiên trùng Negative=Âm , và thành phần I – ngẫu nhiên trùng Innegative=Dương. Hình dung nhỏ thì NÔI như là cái hòn nguyên tử của điện, tức nó có NÔI=Nội lực, nó NÔI=Nóng, nó có tiềm năng để NÔI=Nổ, hễ nổ thì nó ắt NÔI=Nở tung tóe ra. Lướt “Tung tóe ra khắp các chỗ Khác”=Tạc, tức nó sẽ “Trào Ra”=Tra, giống như tra cồn sát trùng vào vết thương phải “Trải Ra”=Tra rộng ra xung quanh (khi gieo vãi thóc giống ra khắp cánh đồng, người ta gọi đó là một “Tra Tra”=Trà, 0+0=1, Trà lúa, cùng sạ một loại hạt cùng một lúc gọi là trồng đại trà). Quan thoại mượn âm “Tra” (pinyin: “zha”) để đọc chữ Tạc của nho, để chỉ cái ý là Nổ, âm Tạc và Tra chỉ là hệ quả của Nổ do NÔI. NÔI là cái hòn Nổ, cho nên trời nổ thì xưa dùng từ “Lơi Nôi”=Lôi. Quẻ Lôi Địa Dự sẽ còn Nổ ra khối thứ. (Cổ xưa từ tiếng Mường:Blơi=Lơi=Lời=Trời=Giời, là một Giới, gọi là Thượng Giới ( Trời=Trên=Lên=Then=Thiên= Thượng ). Từ cổ Côi Lời = Trên Trời, Cấp Trên= Cấp Côi, vì Trời=Trồi=Côi. Lôi bản thân chứa nhiều nguyên tử điện nên nó là Lắm=Lẫm=Sấm (Lẫm là cái kho đựng nhiều hạt thóc). Sấm=Đấm=Đẩn=Chấn là cái Nôi khái niệm công năng của Lôi, tức của Sấm. Người ta bị sấm đánh thì vừa bị đốt nóng vừa bị sức ép, do Sấm=Đấm=Đẩn=Đánh=Đá=Đả=Tả=Tẩn (Quan thoại chỉ dùng một chữ Tả), lúc đó người ngã ngửa ra mà chết, không chết cũng bị Chấn thương. Quẻ Chấn trong bát quái là từ cái nôi nào mà ra đấy? Dòng giống là do “NÔI Lòi”=Nòi. Vật dụng gần gũi của giống nòi Việt là cái “NÔI Tròn”=Nón, cái “NÔI đun nước Sôi”=Nồi, cái “NÔI đựng con mới đẻ của Tôi”=Nôi. Đứa trẻ nằm trong cái Nôi ấy, nghe lời ru của mẹ mà cái “Mồm biết nói Tiếng”=Miệng của nó mới Nổ ra biết bao lời Nói. (Lớn lên đi làm quan nó còn hay Nổ người ta, gọi là “chém gió”). Tiếng=Thiêng=Thanh=Danh. Thanh Danh nghĩa là tự khoe mình, như con đom đóm khoe sáng, Đom Đóm=Điểm=Tiệm=Tên (cửa hàng, công ty chú ý mà đặt tên cho đúng Âm Dương Ngũ Hành). “Chửi cha không bằng pha tiếng”. Tiếng (ngôn ngữ) là cái thiêng liêng nhất để giữ gìn văn hóa dân tộc. “To Gốc”=Tộc; To=Có=Họ=Hữu; mẫu hệ “Theo họ Mị”=Thị. Mẹ=Mệ=Mế=Mị, Mệ Nàng = Mị Nương (tộc mẫu hệ chạy ra đảo Sumatra thời Hai Bà Trưng là tộc Minangcabau=Mệ Nàng Cả Bào). Các vua nước Kinh Sở đều là họ Mi, lên làm vua mới xưng là Hữu Hùng Thị, ý là hậu duệ của họ Hùng xưa, thời còn là mẫu hệ, đời vua nào cũng xưng là Hùng nọ Hùng kia, truyền 18 đời thì hết, con số cũng huyền bí). Cái NÔI Lạc Việt đã phát triển thành nền văn minh Văng Lang, rực rỡ 5000 năm trước ở nam Dương Tử . Dương Tử = Dòng Cả, đặt tên vậy vì vẫn còn nhớ Sông Cả xưa. Krông=Sông=Kông=Khoỏng=Dòng=Dõng (tiếng Phiên Ngung)=Giang=Kang (tiếng Triều Châu)=Kênh=Kinh. Kênh Lạch = Kinh Lạc, có từ kỷ Thần Nông. Vật từ NÔI còn có NÔI=Nan (cái nan tre)=Đan=Đan Lát ( đan bằng lạt dang)=Làn. Cái Nôi đan bằng nan tre, Quan thoại gọi là cái Làn Lắc (dao làn, pinyin:”yáolán”) nên cụm từ Cái Nôi Cách Mạng thì quan thoại dịch là Cái Làn Lắc Cách Mạng. NÔI thì nó mới Nổ được để Nở ra khắp nơi chứ “làn lắc” thì làm sao mà Nổ được để mà Nở. NÔI Lạc Việt đã phát triển hàng vạn năm nền văn minh lúa nước để thời tiền sử là nền văn minh Văn Lang rực rỡ 5000 năm trước ở nam Dương Tử.NÔI=Nền văn minh ấy đã Nổ, Nổ ắt biến mất, nhưng các mảnh vỡ của nền văn minh ấy Nở tung tóe (Tạc) đã tạc dấu ấn dày đặc ở ĐNÁ, và rải rác xa hơn khắp thế giới. Nhìn Khi thấy, hay thấy Khi nhìn?Có thấy mới nhìn được chứ mù làm sao nhìn?. Từ “Khi” tiếng Nhật là “Ki”, viết bằng chữ nho Thì 時. Thấy khi nhìn và nhìn thì thấy được. Không chịu nhìn nhận sự thật lịch sử thì như mù. Lời Phật: Pháp Luân Tự Địa, Vật Đảo Như Nguyên 法 論 似 地,物 倒 如 原 (câu này tôi vừa được một cụ nông dân không biết chữ Hán dạy cho tại núi rừng Trường Sơn, hôm đi lang thang gọi là Du Xuân, Đi=Di=Dịch=Du=Do=Đo=Đi, nên tôi không biết trích nguồn của sách nào hay của tiến sĩ “từ Hán Việt” nào). Pháp của Phật mà còn lăn như quả địa cầu, tức luôn thay đổi vị trí góc nhìn mới thấy được toàn thể, như nhà nhiếp ảnh chụp một vật với mọi chỗ đứng góc nhìn thay đổi mới lấy được hết cái đẹp của vật. Chứ không phải đứng xơ cứng một vị trí, gọi là “dựa trên nền tảng…” mà luận văn tốt nghiệp nào của hàng bao thế hệ sinh viên đều có lặp lại câu đó y như thầy đã dạy, có vậy nghe mới Nổ, và được thêm điểm cao hơn của ai lỡ quên đưa câu ấy vào vì sẽ bị đánh giá là mất lập trường. Vật Đảo Như Nguyên thì như câu sau này của bài Từ trong lời Tựa cuốn sách Tam Quốc Diễn Nghĩa là “Thị Phi Thành Bại Chuyển Đầu Không”. Tâm của Phật là Không, không Thiện, không Ác, mới thấy được hết. Cái vòng tổng quát ấy là như cái NÔI, như bà Vanga nói: “Một lý thuyết cổ xưa sẽ quay lại với nhân loại”.
-
Từ Trọn Vẹn đến Hoàn Toàn Từ ghép Trọn Vẹn đến từ ghép Hoàn Toàn 完 全là sự phát triển diễn biến âm của tiếng Việt. Sự diễn biến từ đơn âm ấy đã hoàn tất cách nay hơn 3000 năm, trước khi định hình Hán tự viết theo các qui tắc lục thư . Ngày nay các tiến sĩ Việt ngữ học người Việt Nam khi dạy tiếng Việt cho sinh viên người nước ngoài vẫn giải thích rằng từ ghép Hoàn Toàn 完 全là “từ Hán Việt”. Ví dụ dạy câu: “Cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Việt Nam đã đi đến thắng lợi Hoàn Toàn”, học sinh có hỏi Hoàn Toàn nghĩa là gì, sẽ được trả lời là Hoàn Toàn là từ gốc Hán gọi là từ Hán Việt, nghĩa là xong tất cả. Bởi các tiến sĩ đang dạy tiếng Việt ấy là những người đã soạn ra từ điển. Từ điển Yếu tố Hán Việt thông dụng của Viện ngôn ngữ học, NXB KHXH Hà Nội 1991: Giải thích: Hoàn là Đầy đủ, Trọn vẹn; Xong hết (trang 174). Giải thích Toàn 全 là Hoàn chỉnh, Tất cả, Bao gồm mọi thành phần tạo nên chính thể; Nguyên vẹn, Không bị mất mát; Thuần một loại , Không bị pha trộn (trang 419). Lời nói đầu của cuốn Từ điển trên còn dõng dạc khẳng định: “Chúng là những từ gốc Hán đã Việt hóa hoàn toàn, nghĩa là cả về ngữ âm lẫn ngữ pháp, chúng đã nhiễm được các đặc tính ngữ âm và đặc tính ngữ pháp của từ tiếng Việt” (trang 5). Theo như các vị đó giải thích ở câu vừa dẫn thì sự diễn biến âm của từ tiếng Việt đã đi theo chiều ngược, từ hiện tại đến quá khứ: Cách nay hơn 2000 năm người Hán đến đất Việt, Hán hóa người Việt, dạy cho người Việt cái chữ Hoàn Toàn. Rồi người Việt mới từ chữ Hoàn Toàn đó chế ra từ gọi Thiên là Trời và gọi Địa là Đất (?!). Trọn Vẹn và Hoàn Toàn là hai từ ghép như mẹ sinh ra con, của người Việt, nghĩa của nó là Cả Tất (Universal). Cả Tất là do từ Trời Đất (trời đất là tất cả, cái gì mà chẳng ở trong trời đất). Tôi không phải nhà Việt ngữ học, tôi chỉ là “dân Guộng”, nên tôi chỉ lấy ngôn từ của dân để mà giải thích mà thôi. Nói “dân Guộng” thì người Việt biết luôn cả xuất xứ tôi ở vùng nào của đất Việt ( nhưng nhiều nhà “chính sách phòng máy lạnh” có thể không biết, vì Từ điển Tiếng Việt không có từ Guộng). Chẳng ai nói ngọng cả. Ruộng=Guộng (theo qui tắc Tơi-Rỡi). “Gom Ruộng”=Guộng (theo qui tắc Lướt). Chính vùng “dân Guộng” bằng kiểu canh tác nông sản hàng hóa của họ đã làm nảy ra gợi ý cho chính sách kinh tế nông nghiệp với những từ khoa học như “tích tụ ruộng đất”, “cánh đồng mẫu lớn”. Từ cổ đại, một làng đã sở hữu nhiều cánh đồng liền nhau, mỗi cánh đồng có tên riêng bằng một từ. Cánh đồng cách nhau chỉ một cái bờ, nhìn thì bằng phẳng đồng loạt như nhau, nhưng thực ra đồng nào đất ấy (thổ nhưỡng khác nhau chút xíu, bình độ chênh nhau chỉ một vài cm, nên mới có câu ca dao “Trên đồng cạn dưới đồng sâu. Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa”. Chênh nhau chỉ vài cm mà quan trọng lắm, cây đậu mà bị nước ngập ngọn một ngày thì nó thúi chết cả cây luôn vì ngộp thở, nó không lặn ngoi dai được bằng cây lúa. Nhiều Đồng thì “Đồng Đồng”=Động洞, là một Vùng lớn. Không như có Thạc sĩ Việt ngữ học đã viết trên báo giải thích: “Phú Thọ, Vĩnh Phúc có nhiều địa phương mang tên Động này Động nọ, do thời Vua Hùng dân ta còn ở hang”. Bởi thạc sĩ nọ đã được dạy rằng chữ Động 洞 là “từ Hán Việt” nghĩa là hang núi (Từ điển đã dẫn, trang 141). Chữ Động 洞 gồm chữ Đồng 同 và chữ nước 氵, nghĩa Vùng, gồm nhiều cánh Đồng, các cánh Đồng phân biệt nhau ở bình độ, đo bằng mặt nước. Hán ngữ mượn âm chữ Động 洞 để phiên âm cái “Tung” của họ chỉ hang núi (chứ hang núi gì mà không có chữ sơn 山, lại có chữ nước 氵, đâu phải hang núi nào cũng có nước). Trọn Vẹn có nghĩa là Tất Cả (Universal), nó do từ ghép Trời Đất, mà Đất đã được thay bằng từ đại diện là Vuông (tức trái đất đã khai thác bề mặt làm Ruộng), do sự thay bằng từ đại diện (tượng trưng) nên có đẳng thức Trời Đất = Tròn Vuông = Trọn Vẹn. Cả=Càn=Còn=Tròn. Ruộng=Vuông, tượng trưng Đất (do đã có khai thác bề mặt làm Ruộng). Tròn và Vuông đều là tự NÔI khái niệm ( “tất cả trong Một”): NÔI=Nơi=Trời=Tròn=Hòn=Hoàn=Woàn (tiếng Nam Bộ)=Wờn (tiếng Chợ Lớn)=Viên. Vuông thì có 4 Ven, mà 2 Ven thì “Ven Ven”= Vèn, 0+0=1; hai Vèn thì “Vèn Vèn”= Vẹn, 1+1=0; nên Vuông=Vẹn=Văn文 ( “do viết lệch cạnh của chữ Vuông 口”- giải thích của Thuyết Văn Giải Tự, cách nay 2000 năm). NÔI=Nơi=Nương=Ruộng=Vuông. Lúa Nếp (trồng ở Nương, thời biển chưa rút) là có trước (ở di chỉ Hòa Bình có di tích hạt Nếp cách nay 10000 năm), nên mới có bánh chưng thời Vua Hùng thứ 6. Lúa Tẻ (trồng ở đồng sình ven biển, thời biển rút tạo nên đồng bằng), là có sau. Đó là từ “bên Ni bên Tê”, Ni là Nhứt, Tê là Hai (tiếng Khơ Me), mà nhìn đồng thì “bên Tê đồng mênh mông bát ngát” (ca dao). Vuông=Vẹn=Vành, nên còn có từ Tròn Vành tương đương Trọn Vẹn. Vuông=Vẹn=Vành=Toanh, nên có từ Mới Toanh tức mới cách đầy đủ, không có bộ phận nào thiếu hay cũ mòn. Vuông=Vẹn=Vành=Toanh=Toàn 全, từ đó mà có từ ghép Hoàn Toàn 完 全 của tiếng Việt như là từ con của Trọn Vẹn của tiếng Việt, tức Việt đẻ ra Việt, chẳng hề có “từ Hán Việt” nào ở đây cả. Chẳng qua là quan thoại mượn chữ nho, kẻ bị thống trị bị cướp mất chữ đành gọi chữ đó là chữ của quan. Tộc Vân Kiều hệ ngữ Môn Khơ Me là một tộc sống trong dãy Trường Sơn từ cổ đại, không bị ảnh hưởng Hán hóa. Tiếng Vân Kiều đàn ông gọi là Cu, đàn bà gọi là Kan (như anh hùng Cu Vai và anh thư Kan Lịch trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước). Con=Kan=Quan=Quân=Kô (tiếng Nhật)=Cu=Tu (tiếng Tày)=Tử 子=Tí=Sĩ 士 đều là chỉ một cá nhân. Nho viết chữ Can 干 và chữ Sĩ 士 ngược nhau, xưa chỉ đàn ông mới gọi là Sĩ, (từ Cán Bộ 干 部 dùng ngày nay có gốc là từ Con 干 chứ chẳng có gì xa lạ là “từ Hán Việt” cả). Sĩ và Tử cùng nôi khái niệm nên gắn thành từ đôi Sĩ Tử để nói nhiều đàn ông, hoặc từ đôi Cu Tí để nhấn mạnh tính đàn ông. Cu Tí lên làm Vua một nước Việt hậu duệ của Bách Việt ở vùng Triết Giang, tên Cu Tí viết chữ là Câu Tiễn 勾 践, ý nói sẽ làm vua Lâu Viễn mãi về sau, kiểu như tung hô vạn tuế. Cu Tí Lâu Viễn ghép xen là Cu Lâu Tí Viễn, “Cu Lâu” = Câu, “Tí Viễn” =Tiễn (như tiếng Việt thường có lối nói trong thành ngữ : Tròn Trặn Vuông Vạnh thì lại nói xen là Tròn Vành Vạnh, Vuông Chằn Chặn). Bài “Việt nhân ca” cách nay 2800 năm thời nước Kinh Sở thì chỉ có dùng tiếng Kinh ngày nay mới dịch nổi. Một nữ tiến sĩ Việt ngữ học người TQ thì lại cho rằng “từ Hán Việt” là lối phát âm của người Hán thời nhà Đường, nên gọi nó là “cổ Hán ngữ” (?!). Nếu thời nhà Đường thì là Đường nào, bởi có thời Tiền Đường và thời Hậu Đường, không phải tiếp liền nhau. Thời Tiền Đường thì ngôn ngữ của cư dân còn gọi là tiếng Thoòng của người Việt Thường. Vì họa Hán xâm lăng mà Thoòng nhân di cư đi khắp thế giới, đến tận bây giờ “Thoòng Và” (nghĩa là “người Thoòng Van”, tức “người Thoòng Nói” vẫn là ngôn ngữ riêng của Thoòng nhân), họ là người Hoa gốc Việt. NÔI khái niệm cũng theo đúng qui tắc dấu thanh điệu. NÔI cả có vô cùng nhiều Nôi con. Nôi con của NÔI cả, tức Nôi của NÔI như con của mẹ, là Nôi NÔI, và lướt thì “Nôi NÔI”=Nối, 0+0=1, là sự tiếp tục mở rộng khái niệm của ngôn từ Việt, đó là sự hình thành trong quá trình lịch sử lâu dài các ngôn ngữ Bách Việt có chung một nguồn gốc.
-
Dài lê thê và “đời là bể khổ” Chữ Thê vốn là chỉ cái thời ê, là cái thời gian kéo dài cái đau ê ẩm, lướt “Thời Ê” = Thê 凄, như là đánh vần vậy. Đủ thấy Thê 凄(1) là một sự khổ mà kéo dài, nên có các từ đôi Thê Thảm 凄 惨 (khổ và thảm khốc) và Thê Lương 凄 凉(khổ và lạnh) và cụm từ “Dài lê thê” nghĩa là dài và còn kéo lê cái khổ (cho chính mình và cho người khác). Một bài diễn thuyết dài lê thê thì đúng là làm khổ người nghe. Còn bài diễn thuyết “dài dằng dặc” liền mấy tiếng đồng hồ có khi vẫn được người nghe chăm chú vì bài có nội dung hấp dẫn, khác hẳn với cái bài “dài lê thê” kia. Nhưng cái khổ diễn tả bằng từ Thê 凄(1) giống như cái khổ của “mang nặng đẻ đau”, tức có sức mạnh tiềm tàng để tự giải phóng, đó chính là cái Thế 勢(4), thế năng, vì Thê mà kéo dài nữa thì “Thê Thê”= Thế 勢 (4) , 0+0=1. Do ý nghĩa này mà từ Thê 淒(1) được lấy làm đại diện cho từ Vợ, là chữ Thê 妻(2), nho viết biểu ý bằng chữ khác để phân biệt từ đồng âm. Thực ra logic của chúng là một. Định nghĩa cho kỹ thì chữ Thê 淒(1) là: Sự đau đáu bức xúc kéo dài bên trong (dấu “không” thuộc nhóm 0) do sức mạnh nội tại tiềm tàng chờ chực cơ hội có đủ điều kiện để giải phóng ra ngoài. Đó là hạt lúa đang khổ đợi, đau đáu mong có đủ điều kiện để nảy mầm sang một cuộc sống mới, nó đang là cái “Thê Nhọc” = Thóc, 0+0=1, cho nên hạt lúa để làm giống thì gọi là hạt thóc giống chứ không gọi là hạt lúa giống, hạt lúa lép là hạt chết, tự nó không có cái giai đoạn sống Thê 淒 để chờ nảy mầm. Chính do định nghĩa trên mà từ Thê 淒 mang nghĩa là một sự gian khổ chuẩn bị (cái thế năng) để cho ra một hành động quyết liệt, dẫn đến từ dùng trong quân sự là Thê (3) của Thê Đội một, Thê Đội hai v.v. Cũng theo định nghĩa Thê (1) như trên thì đó cũng là cái “Thê của Ai”= “Thê Ai”= Thai. Nó đau đáu mong đủ điều kiện để ra ngoài, bắt đầu một cuộc sống mới. Vậy Thóc và Thai là cùng nôi khái niệm, đều cùng là Thê 淒(1), đều là sự khổ đợi tạo thế năng chuẩn bị để cho một cuộc sống mới (mọc mầm hoặc ra đời). Vợ cũng được gọi là Thê 妻 vì có chức năng cho ra đời những mầm sống mới. Vợ nào mà chẳng đau đáu muốn đẻ dù chỉ được một đứa con. Quá trình khổ đợi của Thê 淒(1) là một quá trình có mục đích (để mọc mầm hoặc ra đời) của tiềm năng, nó quyết nói ra (đệ trình) cái mục đích đó, đó là “Thê Đệ” = Thệ 誓(dấu nhóm 0, là tư duy hướng nội) gọi là tuyên Thệ 誓(10), chỉ khi sẵn sàng hành động để đạt mục đích thì mới gọi là Thề (dấu nhóm 1, là tư duy hướng ngoại). Bởi vậy khi viết thì viết là lời tuyên Thệ, nhưng khi hô thì phải hô là xin Thề (11) ! tức sẵn sàng hành động để đạt mục đích. Hán ngữ chỉ mượn có một chữ Thệ 誓(10) viết cũng là tuyên Thệ(10) và hô cũng là tuyên Thệ(10) .Thê 淒(1) là khổ đợi, đau đáu cái mục tiêu, mãi kéo lê cái thời gian đợi (có hạt thóc bảo quản dưới lòng đất hàng nghìn năm, khảo cổ khai quật lên mới có đủ điều kiện mọc mầm), mà “Mãi kéo Lê”= “Mãi Lê”= Mễ = Trễ = Trệ = Trì = Trì Trệ. Mang vác cái gì chậm chạp còn gọi là “Lễ Mễ”, vì vật đó quá nặng nề, động tác chậm chạp gọi là “Lề Mề”. Cái thời gian “Thê Mễ”= Thễ (5), nó là Thê (1) nhưng thời gian kéo lê dài hơn, và Thễ nhấn mạnh thì “Thễ Thễ”= Thế 世 (6), 0+0=1, đó là khi đã “thái âm thành dương”, Thế 世 (6) này chính là chỉ cuộc đời (của con sau khi đã ra đời, của cây sau khi đã mọc mầm). Cuộc đời là dài, là diễn ra chầm chậm, lại là Thê 淒(1), thì đúng “đời là bể khổ”. Cuộc đời là Thế 世(6), là sự trôi theo thời gian, nhấn mạnh thì “Thế Thế”= Thệ 逝 (9), 1+1=0, chữ Thệ 逝 (9) này nghĩa là trôi đi, nho viết chữ Thệ 誓 (10) và Thệ 逝 (9) khác nhau. Nho viết chữ Thế 勢(4), thế năng, và chữ Thế 世(6), cuộc đời, bằng hai chữ biểu ý khác nhau để phân biệt từ đồng âm, thực ra chúng là một logic, cuộc đời cũng là một cái thế năng để tạo ra mọi hành động. Có những con người mà Thế 世 (6) và Thế 勢(4) của họ quá mạnh, tư duy của họ có thế năng có thể làm đảo lộn cả xã hội loài người. Cái Thai chính là đang trong giai đoạn Thê 淒(1), khi đủ thời gian, đủ điều kiện tức đã hoàn chỉnh cân bằng âm dương thì “Thê Thê”= Thể 體, 0+0=1, là một cơ thể cây hoặc con, đó là từ Thể 體(7) chỉ cơ thể. Một ngôn từ cũng như một con người, cũng đều có cả hai cái Thế 世(6) và Thế 勢(4), tức có cuộc đời, cuộc đời của một từ có thể dài cùng dân tộc, có thể ngắn hơn do bị bỏ quên hoặc bị thay thế bằng từ nước ngoài; cũng có thế năng, do ý nghĩa của từ đó có thể làm thay đổi cảm xúc của người nghe, vui sướng hay là run sợ, ví dụ phạm nhân nghe hỏi “Tha hay Tù ?” thì thế năng của từ Tha làm cho phạm nhân sướng còn thế năng của từ Tù làm cho phạm nhân sợ. Vì từ là có Thế 勢 (4) năng, nên tiếng Việt mới có câu hỏi cực kỳ chính xác là “Thế (8) nào ?”. Từ Thế (8) trong câu hỏi “Thế nào ?” như là đã dự đoán trước cái thế năng của từ trả lời sẽ ra làm sao, hoặc tốt hoặc xấu. Hán ngữ hỏi “thế nào ?” bằng từ “Zen me yang ?” nghĩa là dạng ra làm sao, không có gợi ý ra cái thế năng của từ trả lời. Sáu từ Thê 淒 - Thễ - Thệ 誓 - Thế世 - Thể 體 - Thề là sáu từ thuần Việt, cùng nôi khái niệm (chung Tơi “Th”, đổi Rỡi “ê” theo sáu thanh), trong đó chỉ có bốn từ viết bằng chữ nho (mà các nhà Việt ngữ học người Việt say sưa “từ Hán-Việt” gọi bốn chữ nho đó là “từ Hán-Việt”). Sáu từ của nôi khái niệm ấy Thê 凄 = Thễ = Thệ 誓 = Thế 世 = Thể 体 = Thề, Hán ngữ phát âm tương ứng là: “Xi 凄”-,.., “Sự 誓”- “Sự 世” – “Thỉ 体” – ,…, không theo logic như tiếng Việt. Còn nếu đúng logic như Việt thì xem câu dưới đây, nho viết: Cận 近 Thế 世 Tiến 進 Sĩ 士 Tận 儘 Thị 是 Cận 近 Thị 視 (nghĩa là: Gần Nay Tiến Sĩ Thảy Đều Cận Thị). Hán ngữ phát âm tương ứng các chữ trên là: “Jin 近” “shi 世” “Jin 進” “shi 士” “Jin 儘” “shi” 是 “Jin近” “shi 視” (rất “logic như một nôi khái niệm” nhá), nhưng đến người Hán đọc pinyin còn không hiểu nổi ý câu ấy, nếu không có viết bằng chữ nho biểu ý.