Lãn Miên

Hội Viên Ưu Tú
  • Số nội dung

    595
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    19

Everything posted by Lãn Miên

  1. Mưu đồ bành trướng của Trung Quốc Thanh Trúc, phóng viên đài RFA 2011-06-20 Tình hình biển Đông nói chung và hải phận Việt Nam trong vùng biển này nói riêng, vẫn nóng sốt vì những hành động uy hiếp răn đe của Trung Quốc. Screen capture Báo chí Trung Quốc đưa những hình ảnh chặn bắt tàu đánh cá Việt Nam. Trước phản ứng của quốc tế và của Việt Nam, liệu Bắc Kinh có ngưng thái độ nước lớn cố hữu hay tiếp tục giương nanh vuốt? Ngoài chuyện chủ quyền và dầu khí trên biển Đông thì còn điều gì tiềm ẩn đằng sau mối đe dọa của Trung Quốc? Thanh Trúc có bài tìm hiểu như sau: Chiến lược và âm mưu thâm độc của Bắc Kinh Trung Quốc lộng hành với Việt Nam là chuyện đã lâu. Gần đây họ ra mặt một cách công khai, dùng chính những tàu của hải quân, được gọi là tàu hải giám, đến can thiệp vào trong lãnh vực của Việt Nam. Báo chí ở trong và ngoài nước nói có thể do vấn đề dầu khí mà Trung Quốc đang cần, vấn đề kỹ nghệ hóa đất nước mà họ bắt buộc phải nắm tất cả những kho dầu khí ở biển Đông. Đó là lý do về kinh tế mà nhiều người nói đến. Nhưng tôi nghĩ đó không phải là lý do chính. Đó là lời tiến sĩ Trần Văn Đoàn, giáo sư Viện Đại Học Quốc Lập Đài Loan, cũng từng là giảng sư Đại Học Bắc Kinh. Là người am hiểu khá nhiều về Trung Quốc trong tương quan với Đài Loan và các nước nhỏ thuộc khu vực Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam, điều giáo sư Trần Văn Đoàn phân tích và góp ý ở đây là đào sâu khía cạnh tâm lý nước lớn mà Trung Quốc thường chủ trương: Họ tiếp tục cái chính sách cũ, gọi là cái lối nhìn hay cái tâm lý của Trung Quốc với các nước Đông Nam Á, cái chiến thuật bành trướng của họ. Cách thứ nhất là thúc đẩy những người Trung Quốc di dân ra các nước lân cận để lâu dần biến đó thành vệ tinh của Trung Quốc. Cách thứ hai, họ tìm cách lấn từng tấc đất từng tấc biển một. GS.Trần Văn Đoàn Để thực hiện chính sách bành trướng, giáo sư Trần Văn Đoàn dẫn giải, Trung Quốc áp dụng ba cách: Cách thứ nhất là thúc đẩy những người Trung Quốc di dân ra các nước lân cận để lâu dần biến đó thành vệ tinh của Trung Quốc. Cách thứ hai, họ tìm cách lấn từng tấc đất từng tấc biển một. Trong quá khứ, họ đã bành trướng nước Trung Hoa từ vùng Hoàng Hà cho đến giờ rộng quá ngoài Mông Cổ đến Tây Tạng biên cương và tận dưới Việt Nam và có thể sẽ đi xa hơn nữa. Bước thứ ba là họ muốn bành trướng theo kiểu kinh tế của người Mỹ. Tức là nếu họ nắm được kinh tế của những nước chung quanh thì họ có thể thống trị đất nước đó. Lấy thí dụ điển hình như Hongkong, tất cả thực phẩm nước uống điện lực đều từ Trung Quốc qua hết, thành bây giờ Trung Quốc nói Hongkong phải nghe. Họ cũng dùng chiến thuật như vậy với Đài Loan. Kinh tế Đài Loan gần 34% lệ thuộc vào Trung Quốc và tương lai sẽ còn nhiều hơn. Tương tự ở Việt Nam, bây giờ có thể nói kinh tế Việt Nam đã lệ thuộc vào Trung Quốc rất nhiều. Và trong thời gian tới, nếu không để ý, kinh tế của chúng ta sẽ bị Trung Quốc lũng đoạn, và lúc đó Việt Nam khó thể có độc lập được. họ muốn bành trướng theo kiểu kinh tế của người Mỹ. Tức là nếu họ nắm được kinh tế của những nước chung quanh thì họ có thể thống trị đất nước đó. Lấy thí dụ điển hình như Hongkong, tất cả thực phẩm nước uống điện lực đều từ Trung Quốc qua hết, thành bây giờ Trung Quốc nói Hongkong phải nghe GS.Trần Văn Đoàn Về mặt chính trị của Trung Quốc, điểm quan trọng từ đó phát xuất thái độ nước lớn uy hiếp nước nhỏ mà giáo sư Trần Văn Đoàn vạch ra, là nếu trong nước có những vấn đề đặc biệt thì Bắc Kinh sẽ gây hấn với các quốc gia lân cận, dùng ảnh hưởng ở bên ngoài để đàn áp hoặc để giảm nhẹ mức nghiêm trọng ở bên trong: Lấy thí dụ rất có thể là ông Tập Cận Bình được đặt ra làm tổng bí thư cho năm tới. Để có được quyền hành thì phải nắm được quân đội. Chính vì đó quân đội đã áp lực Tập Cận Bình để tăng cường thế lực của họ. Đấy là phương pháp tăng cường hải quân của họ và để tăng cường hải quân họ bắt buộc phải gây hấn với nước nhỏ để thí nghiệm. Nếu thắng họ sẽ được nhiều tiền hơn, nếu thua họ cũng sẽ được nhiều tiền hơn để canh tân. Đó là điều Đặng Tiểu Bình đã làm năm 1979 đối với Việt Nam. Khi đó nếu đánh Việt Nam mà thắng thì ông lấy đó để dẹp tan phe cuối cùng của nhóm Tứ Nhân Bang. Bản đồ các quốc gia tranh chấp vùng Biển Đông. Source us-china-institude Trường hợp thua thì ông vẫn đổ lỗi được cho bọn cách mạng văn hóa đã làm Trung Quốc tê liệt. Cả hai ông ta đều thắng cả. Tôi nghĩ lần này ở biển Đông y hệt như vậy, Tập Cận Bình lên rất có thể dùng phương pháp này. Nếu thắng được Việt Nam và các nước Đông Nam Á, ngay cảnh cáo được cả Nhật nữa, thì uy thế của Trung Quốc rất lớn, nhóm Tập Cận Bình sẽ thành ông vua mới thay thế Hồ Cẩm Đào. Nếu không thắng ông sẽ nói ở trong nước không có đoàn kết, ông tìm cách đập tan nhóm phản đối để có uy quyền trong tay. Có hay không có cuộc chiến Biển Đông Dưới mắt ông Trần văn Đoàn, trong vấn đề biển Đông, mới nhất là hôm thứ Năm Trung Quốc huy động một tàu tuần lớn đến khu vực tranh chấp, trong lúc vẫn cam kết là chỉ muốn duy trì hoà bình và ổn định trong khu vực, thì chuyện cần được nhìn và được hiểu theo văn hóa của Trung Quốc: Cái văn hoá của Trung Quốc là vấn đề đất và nước, làm thế nào để có càng nhiều đất càng nhiều nước, biểu tượng sự giàu có và thành công của Trung Quốc. Thành thử xưa nay họ luôn theo chiến lược đi hai bước, nếu bị quốc tế cảnh cáo họ sẽ lùi một bước. Cái văn hoá của Trung Quốc là vấn đề đất và nước, làm thế nào để có càng nhiều đất càng nhiều nước, biểu tượng sự giàu có và thành công của Trung Quốc. Thành thử xưa nay họ luôn theo chiến lược đi hai bước, nếu bị quốc tế cảnh cáo họ sẽ lùi một bước. GS.Trần Văn Đoàn Đó cũng là chiến thuật mà bộ trưởng quốc phòng Trung Quốc, ông Lương Quang Liệt, sử dụng tại hội nghị Đối Thoại An Ninh ở Singapore tuần trước: Ông Liệt trong bài diễn thuyết tại Singapore đã nói tới hai mươi bảy lần chữ “hoà bình”. Đây chỉ là một bước lùi của Trung Quốc mà thôi. Đó là vấn đề văn hoá cái bản chất của người Trung Quốc. Vấn đề thừ hai, trong thế giới mới hôm nay chúng ta phải ngồi vào bàn hội nghị để giải quyết. Đó là cái nhìn của người phương Tây, cái nhìn khi mà cân bằng lực lượng với nhau. Nhưng khi với một lực lượng quá lớn thì họ sẽ không ngồi vào bàn hội nghị, và nếu có ngồi vào bàn thì họ sẽ tìm cách áp đặt. Họ sẽ cùng đàm phán và cùng một lúc gọi là lấn đất của người khác. Khi mọi người phản đối họ có thể lùi một bước. Lùi lại một bước thì họ đã chiếm được một bước rồi. Thành thử trong thế giới hôm nay họ sẽ ngồi vào bàn hội nghị nhưng họ sẽ tìm cách để thắng. Đó là tính cách của Trung Quốc. Hôm thứ Hai vừa qua, trả lời câu hỏi của đài Á Châu Tự Do về sự kiện Việt Nam tập trận bắn đạn thật tại nơi cách vùng tranh chấp Hoàng Sa khoảng 250 kilômét, ông Greg Autry, đồng tác giả quyển sách Death By China, Thần Chết Trung Quốc, cho rằng trong vấn đề biển Đông Trung Quốc chẳng làm gì cả ngoài việc dương oai và thể hiện sức mạnh của mình, vì thế phản ứng của Việt Nam là hoàn toàn hợp lý : Đây là cơ hội để Việt Nam trực tiếp gởi thông điệp đến Trung Quốc, luôn có tư tưởng rằng họ có thể làm bất cứ điều gì mà không cần biết cộng đồng quốc tế phản ứng thế nào. Được hỏi về điều này, nhất là câu hỏi thực sự Trung Quốc có tiềm năng nước lớn để uy hiếp lấn chiếm và đe dọa các nước nhỏ chung quanh, nhất là Việt Nam, hay không, giáo sư Trần Văn Đoàn nhận định: Cho rằng Trung Quốc có tiềm năng thì chỉ là bề mặt thôi. Tôi không nghĩ là Trung Quốc có tiềm năng. Thứ nhất Trung Quốc phải lo giải quyết vấn đề một tỷ ba trăm triệu dân, trong đó còn đói kém có thể từ ba trăm đến bốn trăm triệu người. Cứ tưởng tượng ba bốn trăm triệu đó nỗi loạn lên thì xem cái ông Trung Quốc có đủ tiềm năng giải quyết vấn đề đó không. người Trung Quốc bên ngoài rất đoàn kết bên ngoài nhưng thực tế bên trong họ chia rẽ khi noí đến quyền lực đến tài sản vấn đề cướp đất của nhau. Đó là cái thường xảy ra ở Trung Quốc và cả Việt Nam, không giống bên Âu Châu hay Mỹ Quốc. GS.Trần Văn Đoàn Bây giờ vấn đề quan trọng nhất của Trung Quốc là tìm cái lực cái đánh bóng bên ngoài để làm cho những người nghèo đói thoả mãn cái tinh thần yêu nước để quên cái nghèo đói của họ đi. Nhưng mà cái đó chỉ nhất thời. Khi cái tạm thời qua đi họ phải trở lại giải quyết cái nghèo và lúc đó là vấn đề nhức đầu của Trung Quốc. Điểm thứ hai người Trung Quốc bên ngoài rất đoàn kết bên ngoài nhưng thực tế bên trong họ chia rẽ khi noí đến quyền lực đến tài sản vấn đề cướp đất của nhau. Đó là cái thường xảy ra ở Trung Quốc và cả Việt Nam, không giống bên Âu Châu hay Mỹ Quốc. Tôi không sợ cái tiềm năng của Trung Quốc như bên ngoài thường thổi phồng. Theo giáo sư Trần Văn Đoàn, dù được coi là một cường quốc kinh tế trên thế giới, dầu cố tìm cách bành trướng thế lực quân sự và dương oai diểu võ với lân bang, Trung Quốc thực sự không đáng sợ bởi vấn đề khó khăn phải đeo mang là một tỷ ba trăm triệu dân: Để giải quyết một tỷ ba trăm triệu dân thì kinh tế của họ ngày nay vẫn còn nghèo và chưa đủ để giải quyết vấn đề đó. Thế nhưng có một cuộc chiến tranh khác, một cuộc chiến thầm lặng mà Việt Nam và các nước Đông Nam Á cần lưu ý, ông Trần Văn Đoàn kết luận, đó là chiến thuật lấn đất để chen dân vào bên cạnh chiến thuật lũng đoạn kinh tế bằng hàng hoá Trung Quốc.
  2. 1.Tin mới KINH Tế Thứ Sáu, 17/06/2011, 08:42 (GMT+7) Sẽ có tour du lịch ra Trường Sa, Hoàng Sa TT - Ngày 16-6, Viện Nghiên cứu phát triển du lịch đã tổ chức hội thảo “Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch đến năm 2020, tầm nhìn 2030”. Phát biểu tại hội thảo, tổng cục trưởng Tổng cục Du lịch Nguyễn Văn Tuấn khẳng định “du lịch biển là ưu tiên hàng đầu của ngành du lịch Việt Nam”. Ông Tuấn cho biết Tổng cục Du lịch đã xây dựng đề án phát triển du lịch biển, đảo giai đoạn 2011-2020. >> Read this on Tuoitrenews.vn Hoa hậu Hương Giang (thứ ba từ phải sang) cùng các thành viên trong đoàn hành trình Tuổi trẻ vì biển đảo quê hương giao lưu văn nghệ với các chiến sĩ trên đảo Đá Thị thuộc quần đảo Trường Sa - Ảnh: TUẤN THÀNH Mục tiêu là đến năm 2020 sẽ hình thành được năm khu vực du lịch biển có sức cạnh tranh cao trong khu vực gồm: Hạ Long - Cát Bà, Lăng Cô - Sơn Trà - Hội An, Nha Trang - Cam Ranh, Phan Thiết - Mũi Né, đảo Phú Quốc. Các khu du lịch biển giàu tiềm năng như Vân Đồn - Cô Tô, khai thác tour du lịch ra Trường Sa - Hoàng Sa... cũng sẽ được tích cực đầu tư. “Phát triển du lịch biển đảo phải gắn với mục tiêu đảm bảo an ninh quốc phòng, đặt trong mối quan hệ phát triển tổng thể chung kinh tế - xã hội” - ông Tuấn nói. Đặc biệt, trong chiến lược du lịch biển đảo, du lịch Trường Sa cần được coi như một loại hình du lịch đặc thù, không đơn thuần chỉ là một sản phẩm du lịch mà còn là một cách thức để người Việt Nam thể hiện lòng yêu nước của mình; là một hành trình giáo dục tình yêu đất nước và biển cả. Do đặc thù của tour du lịch Trường Sa là hải trình dài, chi phí cao và ở khu vực xa đất liền, du lịch Trường Sa sẽ nhắm đến đối tượng khách là những người có tiềm năng kinh tế, khao khát khám phá Trường Sa. Các tour sẽ được tổ chức với hình thức xã hội hóa và sẽ phải phối hợp chặt chẽ du lịch với quốc phòng, đảm bảo an toàn tuyệt đối cho du khách. Theo PGS.TS Phạm Trung Lương - phó viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển du lịch, khu vực duyên hải Nam Trung bộ từ Đà Nẵng đến Bình Thuận là khu vực giàu tiềm năng du lịch biển, đảo bậc nhất. Đây cũng sẽ là khu vực có mức tăng trưởng du lịch cao nhất cả nước trong thời gian tới. Đà Nẵng, Hội An, Nha Trang, Mũi Né... đã trở thành những địa chỉ hấp dẫn đối với du khách trong nước và quốc tế, ngày càng khẳng định thương hiệu của mình. Theo quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam giai đoạn 2010-2030, dự kiến Việt Nam sẽ đón 10,3 triệu lượt khách quốc tế và thu hút 47,5 triệu lượt khách nội địa, mang lại doanh thu 19 tỉ USD vào năm 2020. L.KIÊN - T.HÀ Biển đảo là ưu tiên phát triển của du lịch Việt Nam 16/06/2011 | 14:50:00 Từ khóa : Du lịch Việt Nam, Hạ Long, Du lịch biển, Thị trường nội địa EMAIL PRINT CỠ CHỮ A A A Khách du lịch trong nước và quốc tế thăm di sản thiên nhiên thế giới Vịnh Hạ Long. (Ảnh: Nguyễn Đán/TTXVN) Phát triển du lịch biển là ưu tiên hàng đầu của ngành du lịch Việt Nam, do đó, bên cạnh xây dựng Chiến lược quốc gia về phát triển du lịch giai đoạn 2010- 2020, tầm nhìn 2030, Tổng cục Du lịch tiến hành xây dựng nhiều đề án phát triển du lịch các vùng miền, trong đó có Đề án phát triển du lịch biển, đảo giai đoạn 2011-2020. Khẳng định trên được Tổng cục trưởng Tổng cục Du lịch (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) Nguyễn Văn Tuấn đưa ra tại hội thảo "Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch đến năm 2020, tầm nhìn 2030" do Viện Nghiên cứu phát triển du lịch tổ chức ngày 16/6 tại Hà Nội. Theo Đề án phát triển du lịch biển, đảo giai đoạn 2011-2020, đến năm 2020, Việt Nam sẽ hình thành được 5 khu vực du lịch biển có sức cạnh tranh cao trong khu vực, đó là khu Hạ Long-Cát Bà; Lăng Cô-Sơn Trà-Hội An; Nha Trang-Cam Ranh, Phan Thiết-Mũi Né, khu du lịch Phú Quốc. Bên cạnh đó, Việt Nam tiếp tục đầu tư phát triển các khu du lịch biển giàu tiềm năng như Vân Đồn-Cô Tô; khai thác tour du lịch ra Trường Sa-Hoàng Sa; đầu tư, khai thác cảng du lịch chuyên dụng... Một điều cốt lõi luôn luôn được chú trọng là việc phát triển du lịch biển đảo phải gắn với mục tiêu đảm bảo an ninh quốc phòng, đặt trong mối quan hệ phát triển tổng thể chung kinh tế-xã hội. Trong bài thuyết trình "Những chỉ tiêu phát triển du lịch đến năm 2020, tầm nhìn 2030," Phó Giáo sư-tiến sỹ Phạm Trung Lương, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển du lịch cũng cho biết khu vực duyên hải Nam Trung Bộ gồm các tỉnh, thành phố từ Đà Nẵng cho tới Bình Thuận sẽ là khu vực có mức tăng trưởng du lịch cao nhất cả nước trong giai đoạn tới bởi khu vực này có tiềm năng về du lịch biển, đảo. Thêm vào đó, các tỉnh, thành phố trong khu vực này rất quan tâm tới phát triển du lịch, coi đây là yếu tố mũi nhọn trong phát triển kinh tế, xã hội của từng địa phương cũng như trong khu vực. Một số địa phương trong khu vực duyên hải Nam Trung Bộ đã tạo được ấn tượng với du khách quốc tế như Nha Trang (Khánh Hòa), Hội An (Quảng Nam), Mũi Né (Bình Thuận), Đà Nẵng... Theo ông Phạm Trung Lương, khu vực Tây Nguyên mặc dù có tiềm năng khai thác du lịch song sẽ là khu vực có tốc độ phát triển thấp nhất cả nước do nhiều yếu tố khác nhau. Một vấn đề khác cũng được ông Lương đưa ra là hậu quả của biến đổi khí hậu sẽ gây tác động tiêu cực và là thách thức với phát triển du lịch nước ta trong giai đoạn tới, nhất là với khu vực Đồng bằng sông Cửu Long... Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam giai đoạn 2010-2030 cũng nhấn mạnh việc phát triển du lịch với cả thị trường nội địa và quốc tế. Chỉ tiêu về lượng khách quốc tế đến Việt Nam đến năm 2020 là khoảng 10,3 triệu lượt, khách nội địa đạt 47,5 triệu lượt, mang lại doanh thu 19 tỷ USD cho ngành du lịch. Đến năm 2030, lượng khách quốc tế đến Việt Nam dự báo là khoảng 18 triệu lượt, khách nội địa là 58 triệu lượt và mang lại doanh thu trên 36 tỷ USD. Du lịch Việt Nam sẽ tiếp tục ưu tiên phát triển ở các thị trường Đông Bắc Á, ASEAN; duy trì ở thị trường Tây Âu, Bắc Âu, Bắc Mỹ, Đông Âu và mở rộng ra thị trường Trung Đông, Ấn Độ... Theo Tổng cục Du lịch, 5 tháng đầu năm 2011, lượng khách quốc tế đến Việt Nam đã đạt hơn 2,5 triệu lượt, khách nội địa là 14 triệu lượt, tăng 18% so với cùng kỳ năm 2010./. Thang Giang (TTXVN ViệtNam+) 2. Tin cũ (tin này chưa từng thấy VNTTX đưa tin): Bản đồ địa lý tỉnh Hải Nam Trung Quốc vẽ rõ vùng biển thuộc tỉnh Hải Nam là vùng lưỡi bò (chiếm 80% diện tích Biển Đông), trong đó quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa của Việt Nam được tô cùng màu với màu đảo Hải Nam. Sách giáo khoa dạy môn địa lý của trung học phổ thông Trung Quốc phần địa lý tỉnh Hải Nam Trung Quốc ghi rõ: Tỉnh Hải Nam là tỉnh có diện tích đất liền nhỏ nhất TQ, nhưng có diện tích biển lớn nhất trong các tỉnh của TQ (đó là cái lưỡi bò trên bản đồ), biển của tỉnh Hải Nam tây giáp vịnh Bắc Bộ của Việt Nam, đông giáp Đài Loan, đông nam giáp Philippin, Malaixia, Brunei, bao gồm đảo Hải Nam, quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa của Việt Nam), quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa (Trường Sa của Việt Nam). Diện tích biển của tỉnh Hải Nam là 210 vạn km2 (tức toàn bộ vùng lưỡi bò). Bộ giáo dục TQ mới công bố nội dung đề thi địa lý tốt nghiệp trung học phổ thông, trong đó nhấn mạnh là học sinh phải “thông hiểu địa lý và quyền lợi quốc gia TQ”. Bộ Tài chính Trung Quốc ngày 24-3-2011 ban bố chính sách thí điểm hỗ trợ du lịch biển đảo: Khách du lịch biển đảo được mua miễn thuế hàng hóa 18 mặt hàng gồm công nghệ phẩm, trang sức, đồng hồ v.v. với tổng số tiền mỗi người được mua cho mỗi lần du lịch là miễn thuế cho giới hạn tối đa 5000 nhân dân tệ (gần 20 triệu vnđ). Ban bố này có hiệu lực từ ngày 20-4-2011.
  3. Giải thích chữ HỢP 合 (Xin nhắc lại QT là viết tắt “Qui tắc Tạo ngôn từ Việt” ) Cái Bánh Chưng của người Việt Nam quả thật là một sự Hòa Hợp. Bài trước tôi đã theo QT giải thích chữ Hòa 和là “Hột Lúa trồng ở ruộng của Ta”=(lướt)=Hòa和 Người Việt đã tạo ra cái tượng đài vĩ đại độc đáo bằng thực phẩm là cặp Bánh Dầy-Bánh Chưng, chỉ dùng khi tế Tổ Tiên và Trời Đất. Đó là cái Đạo Việt dạy con người ta sống hòa hợp với thiên nhiên (như sách của Thiên Sứ đã giải thích), biết bảo vệ môi trường sống để có mãi mãi một nền nông nghiệp bền vững như hột Nếp Cái Hoa Vàng ( “nền Nếp của Mẹ là tinh Hoa huy Hoàng”) để làm nên bánh Chưng, trồng ở cùng một mảnh ruộng mà 5000 năm nay canh tác không ngừng nghỉ một mùa nào, vẫn tạo được hột Nếp nguyên gen hình dáng và thơm ngon như xưa. Cái bánh Dầy hình tròn tượng trưng Trời, lồi hình bán cầu như cái đầu Chầy, mà theo QT thì Chầy=Dầy; cái bánh Chưng hình vuông tượng trưng Đất, tổng hợp trong nó đủ Ngũ Hành về tính của chất liệu cũng như màu sắc tương hợp (như sách của Thiên Sứ giải thích) nên nó được mọi thế hệ hàng nghìn năm nay thèm và ưa thích tức là Ưng, mà theo QT thì Chưng= Ưng=Cưng=Cối. Cái Đạo Việt cổ đại ấy là đạo phồn thực của dân Chầy Cối, như hình cặp trai gái dã gạo ( hoặc dã vỏ cây Dó để làm Giấy) thể hiện trên trống đồng, mà theo QT thì Chầy Cối=Chọc Cối=Độc Cối (Độc lại đúng hình tượng con số 1 của chữ Latin, dáng đứng như cái Chầy), Độc Cối=Đâm Cối (người Việt còn gọi dã gạo là “đâm gạo”, dân vùng Thanh Nghệ gọi là “đâm gấu”, người Tày gọi là “tăm khẩu”), Đâm Cối=Đực Cái. Từ Cối ấy có trước, rồi mới có kinh đô nước Việt của Việt Vương Câu Tiễn là đất Cối Kê ở bờ nam sông Dương Tử, mà về sau Khổng Tử từng viết: “Từ Cối Kê đến Giao Chỉ dài tám trăm dặm là địa bàn của dân Bách Việt”. Chữ Cối 會ấy còn đọc là Hội會, mà theo QT thì Cối=Hội=Họp=Hợp=Hạp đúng như là cái Cối, là vật chứa đựng bao nhiêu là hạt gạo tụ hội trong lòng nó. (Cái Cối Đồng đã được phát âm theo kiểu Hán hóa cấu trúc là “Đồng Cổ 銅鼓”, hình dáng Cối Đồng là hình lộn ngược của cái Cối Đá dùng dã gạo, vì Cối Đồng là vật dùng cho thế giới Âm, là vật chỉ được Gõ=Vỗ khi thờ thần linh hay khi gọi hương linh Tổ Tiên về cùng con dân khi xung trận. Tiếng nó phát ra gọi là Trống vì nó là Không, nhưng có uy lực tâm linh vô cùng mạnh mẽ vì nó là năng lượng, theo QT thì Cối Vỗ=Cổ Võ鼓舞 ). Chữ Hợp 合là chữ nho của người Việt viết theo cách biểu ý bằng ghép chung ba chữ lại, đó là Thiên Địa Nhân cùng đồng thuận thì gọi là Hợp合. Trong chữ Hợp 合này thì Trời được biểu hiện bằng quẻ Càn mà ba nét kẻ ngang được hội tụ lại thành một nét kẻ ngang “ 一”, vì Trời là ở Ngang trên đầu mình, phải Ngẩng lên mới thấy được, Ngang=Càng=Giàng, Trời được tượng trưng là cái bánh Dầy, theo QT thì Trời=Giời=Chời=Chầy=Dầy. Chữ Đất là cái tượng trưng hình vuông “ 口” như bánh Chưng. Chữ Nhân “人” là Người, theo QT thì Người=Ngôi=Nòi=Dõi=Dân=Nhân. Chữ Hợp 合 là Thiên “ 一” + Địa “口” + Nhân “人” ấy chính là “Dân人 Dầy 一Chưng口” tức “Dân Chầy Cối”, nó thật đúng với lẽ trời là Hòa Hợp dân tộc. Cũng giống như chữ Đồng 同là cái vòng Cung=Quay Chung nối vòng tay lớn quanh đống lửa trong điệu Xòe=Xa của dân Dầy一 Chưng口. Cái lý của người Việt nó đúng như vậy nên mọi ngụy biện vô lý do tự vẽ ra bởi lòng tham đều thua dân Việt. Thành ngữ Việt có câu “Điêu ngoa đến mấy cũng không cãi nổi dân Chầy Cối”. Cái Chầy cái Cối đang hoạt động thật thì nó phát ra âm thanh, là cái Tiếng=Thanh=Thuyết=Thét=Thỏ-Thẻ=Thủ-Thỉ=Thầm-Thì.v.v. Nhưng tiếng Chầy đâm Cối thì nó đều đều, chậm rãi, bền bỉ, sâu lắng nên âm thanh ấy gọi là “Thậm-Thình”, nên ở Phú Thọ có làng tên là làng Thậm Thình, chuyên được phân công dã gạo nếp để gói bánh chưng ngày Giỗ Tổ Hùng Vương. Cứ theo QT mà dẫn thì cái lý của người Việt cứ như là đã được mã hóa sẵn trong ngôn từ Việt: Đất mẹ là cái bánh Chưng, Chưng=Ưng=Cưng=Cái=Cối=Hội=Họp=Hợp=Hạp=Nạp=Nộp=Gộp=Góp=Gom=Gái=Nái=Mái=Mẹ. Mẹ sinh ra trăm con, tài sức của trăm con lại gom về nơi Mẹ. Trăm con dân Việt Nam dù ở phương nào gần hay xa cũng đều Hợp nhau lại nơi đất Mẹ để bảo vệ Tổ Quốc. Cái sức mạnh tụ hội trong bánh Chưng ấy là sức mạnh của cộng đồng đa sắc mà thống nhất, như chuyện cổ tích Thánh Gióng kể rằng: Cả làng góp gạo thổi cơm, cả làng gánh cơm gánh cà đến cho cậu bé Gióng ba tuổi ăn. Cậu Gióng ăn cơm làng, lớn nhanh như thổi, thành một thanh niên cường tráng, nhảy lên ngựa sắt, cầm gậy sắt đi đánh giặc xâm lăng. ( Tình tiết này đã bị sách xuất bản ngày nay lược bỏ đi, mà chỉ viết rằng: “Cậu bé lên ba nghe tiếng rao truyền lời Vua, liền biết nói, ngồi dậy, vươn vai một cái biến thành một thanh niên cường tráng…”).
  4. Lại chuyện sử, tròn và méo Trung Quốc dựa vào đường lưỡi bò , được vẽ vô lý năm 1947, để nói chỉ có Trường Sa là vùng còn “tranh chấp” với nhiều nước, còn toàn bộ vùng trong đường lưỡi bò ở Biển Đông vốn từ cổ đại đến nay là của Trung Quốc không ai có thể tranh cãi. Quan điểm chính thống của Trung Quốc, đọc mạng: 南海 2011-06-12 01:38:38 阅读16 评论0 字号:大中小 订阅 (người đọc 16, người bình luận 0) …南海及其东沙,中沙,西 沙,南沙群岛屿自古以来是中国不可分割的领土,有些岛屿长期没有立碑和驻军也是事实,这里即有历史原因,也有国力因素,最重要的一点是在第二次世界大战 前,越南以及菲律宾,马来西亚等国尚未实现民族独立,历史上长期以来越南的北方还是中国的藩国… Lược dịch: Biển Nam Hải cũng như các đảo bãi Đông Sa, Trung Sa, Nam Sa, Tây Sa từ cổ đến nay là lãnh thổ không thể chia cắt của Trung Quốc, có một số đảo bãi trường kỳ chưa có lập bia và trú quân là sự thực, nhưng đó là do nguyên nhân lịch sử và cũng do nhân tố quốc lực. Một điểm trọng yếu nhất là trước chiến tranh thế giới thứ hai, các nước Việt Nam, Philippin, Malaixia v.v. chưa giành được độc lập dân tộc, trong lịch sử trường kỳ, miền Bắc Việt Nam ( ý nói Đàng Ngoài) vẫn còn là phiên quốc của Trung Quốc cho đến chiến tranh Nha Phiến lần thứ hai cuối thời Thanh, sau chiến tranh Trung Pháp, mới hoạch định Bắc Việt Nam nhập vào thuộc địa của Pháp, miền Nam Việt Nam (ý nói Đàng Trong) sau đó cũng bị nhập vào thuộc địa của Pháp, sau gần một trăm năm đầu tranh Việt Nam mới tuyên bố độc lập năm 1945. Quần đảo Nam Sa và quần đảo Tây Sa từ cổ đến nay là trong bản đồ của các triều đại phong kiến Trung Quốc, là điều không thể tranh cãi, cho đến thời kỳ thuộc địa của Pháp về sau mới xuất hiện tranh chấp lãnh thổ và lãnh hải với Trung Quốc. Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam khi chưa hoàn thành thống nhất quốc gia, tự nhiên không có một tranh chấp gì về lãnh hải và đảo bãi với Trung Quốc. Bình luận: Hãy đọc lại lịch sử Trung Quốc . Thời nhà Thanh đem 20 vạn quân sang xâm lược Việt Nam đang là một nước độc lập,chiếm được thủ đô Thăng Long, bị Nguyễn Huệ thần tốc từ Đàng Trong ra, đánh cho đại bại phải tháo chạy về nước, “…đánh cho sử tri Nam Quốc anh hùng chi hữu chủ…- Quang Trung Nguyễn Huệ”. Người Việt Nam ở Đàng Trong đã khai thác quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa trong Biển Đông của Việt Nam từ hàng ngàn năm trước. Các Chúa Nguyễn đã dựng bia chủ quyền trên các đảo Hoàng Sa từ hơn 300 năm trước. Hòa Thượng Thích Đại Sán của Trung Quốc thời nhà Thanh được mời sang thăm hành sự Phật giáo ở Đàng Trong đã viết trong cuốn Hải Ngoại Ký Sự: “ Ra khỏi vùng biển Quảng Đông là đến cương vực của nước Đại Việt, tức Cổ An Nam Quốc xưa, (cho nên tôi viết cuốn sách này) tức vị chi Hải Ngoại Ký Sự dã”( khắc bản năm 1696 đời Khang Hy). Trong cuốn sách đó Hòa Thượng kể cảnh ở Hội An năm 1694 xem ngư dân Việt Nam hàng ngày chở thuyền hải sản khai thác được từ quần đảo Hoàng Sa ngoài khơi về ( mời đọc 釋大汕-海外記事online). Cũng thời nhà Thanh, Thanh triều cử tướng Thi Lương sang xâm chiếm Đài Loan. Thời cổ đại “Tùy thư. Lưu Cầu truyện” có viết: “Lưu Cầu Quốc ở giữa biển, phía đông quận Kiến An (tức An Huy ngày nay) đi thuyền năm ngày thì tới nơi”.(Các sử gia TQ cho rằng nhà Tùy chỉ Lưu Cầu đó là quần đảo Lưu Cầu, chưa phải là Đài Loan). Người Mãn Châu chiếm Bắc Kinh năm 1644, lập nên triều Thanh, sau thống trị toàn bộ Trung Quốc, thời kỳ đầu, nhà Minh tạm lui về phía nam, lập chính phủ lưu vong kháng chiến chống Thanh, trong đó có cha của Trịnh Thành Công là tổng đốc Phúc Kiến, sau ông bị nhà Thanh dụ lên Bắc Kinh hứa cho chức to hơn, nhưng giam lại đó cho đến chết. Trịnh Thành Công cương quyết kháng chiến, không đi theo cha. Tháng 4 năm 1661 Trịnh Thành Công lúc đó là Đại Minh Chiêu Thảo Đại Tướng Quân, đem 25000 quân và hàng trăm chiến thuyền sang đánh Đài Loan lúc đó đang là thuộc địa của Hà Lan, ngày 1-2-1662 chính quyền thuộc địa Hà Lan đầu hàng, họ Trịnh thiết lập vương triều tại Đài Loan, kiên trì “phản Thanh phục Minh”, họ Trịnh từng đổ bộ đánh chiếm lại Phúc Kiến, giữ được 4 năm (1674-1680).Trịnh Thành Công mất năm 1662 mới 39 tuổi. Vương triều họ Trịnh tồn tại ở Đài Loan 23 năm trải qua 3 đời vua. Sau do lục đục nội bộ nên nhà Thanh nhân cơ hội cử tướng Thi Lương sang đánh Đài Loan năm 1683, họ Trịnh đầu hàng, nhà Thanh thống trị Đài Loan trong 213 năm ( 1683-1895), coi Đài Loan là phiên quốc, “đắc vô sở gia, bất đắc vô sở tổn 得無所加, 不得無所損” ( được cũng chẳng thêm, không được cũng chẳng thiệt). Nên năm 1895 do vụ ngư dân Nhật Bản xâm phạm bờ biển Đài Nam bị thổ dân Đài Loan giết chết, Nhật Bản kháng nghị Thanh, Thanh triều nói : Đài Loan là hải ngoại, Đại Thanh không chịu trách nhiệm, Nhật Bản tức quá phát động chiến tranh với nước Thanh, nhà Thanh phải ký thỏa ước nhượng Đài Loan cho Nhật, Đài Loan trở thành thuộc địa của Nhật Bản trong 45 năm. Hàng không mẫu hạm đầu tiên của hải quân Trung Quốc vừa mới chế tạo được mang tên Thi Lương.
  5. Còn có tư liệu sớm hơn về nhà nước Đại Việt quản lý Hoàng Sa và Trường Sa là vào đời Trần. Sách của học giả Trung Quốc Trần Kinh Hòa viết: “Năm 1306 vua Trần Anh Tông liên kết với Chiêm Thành để cùng nhau chống quân Nguyên xâm lược. Anh Tông đem em gái gả cho Vua Chiêm , Vua Chiêm đưa sính lễ là hai châu Ô và Lý cho Vua Trần. Vua Trần Anh Tông chia hai châu đó thành châu Thuận ( sau gọi là Thừa Thiên phủ) và châu Hóa (sau gọi là Quảng Nam tỉnh)”. Quảng Nam quản hạt quần đảo Hoàng Sa. Nhưng trong lịch sử thì người dân Việt Nam đã quản lý và khai thác Hoàng Sa và Trường Sa từ thời nước Văn Lang cổ đại. Các học giả Trung Quốc viết rằng: “Truyền thuyết Trung Hoa có nói về nước Cam cổ đại, nhưng chẳng biết nước Cam ấy nằm ở đâu”. Bản thân tên Cam để lại trong truyền thuyết sử đã nói rõ rồi thây. Đó là nước của người “Kinh ở phía Nam”=(lướt)=Cam, mà ranh giới tận cùng của nó thời ấy là Cam Ranh. Về sau cổ sử Trung Hoa còn gọi nước đó là Cổ An Nam Quốc, mà Hòa Thượng Thích Đại Sán viết cuốn “Hải ngoại ký sự” gồm 6 quyển, chỉ kể về chuyến sang thăm và làm việc ở nước Đại Việt, đã vui mừng nói “được thăm Cổ An Nam Quốc”. Nước An cổ đại ở phía Nam, ấy chính là nước Yên=nước Nguyễn=nước Duôn=nước Lâm tức Lâm Âp. Dân cư gồm người Kinh, người Chăm và các dân tộc bản địa khác của đại tộc Việt sống xen kẽ các làng bản, cũng giống như 54 dân tộc anh em của Việt Nam ngày nay, hai sắc tộc ở hai làng chỉ cách nhau một cánh đồng cùng làm chung nhưng đều có ngôn ngữ riêng, trang phục riêng, phong tục riêng, có lễ hội nào cũng chung cả các săc tộc, còn chuyện yêu nhau lấy nhau lẫn lộn sắc tộc thì bình thường như từ hàng ngàn năm nay, vì người Việt vốn yêu tự do, tự do tỏ tình và thích hát múa. Xem bức họa mà người phương Tây vẽ cảnh dân cư Đàng Trong ngồi nghỉ trưa nói chuyện dưới gốc cây ngoài đồng (trong cuốn “Có năm trăm năm như thế”, mới XB năm 2011) thì thấy có ông người Kinh mặc áo và xống, Xà Rông=(lướt)=Xống, hơi giống cái Phạ Xà Lùng của người Lào, để cái nón quai thao dựng bên đầu gối, có bà người Ba Na cổi trần đang ăn trầu, có ông người Chăm mặc áo và váy v.v., ở Đàng Ngoài đàn bà mặc yếm và cái bằng Vải=Váy=Vận=Quấn=Mấn ,là cái váy, là “ cái thúng mà thủng hai đầu, bên Ta thì có bên Tàu thì không”, Mấn=Quần, người Hán gọi cái váy là Quần, phát âm là “Xuýn”, từ Quần ấy là một từ Việt, vì cổ đại dân du mục phương Bắc chưa biết làm vải, họ mặc cái bằng da cừu có hai ống để ngồi lưng ngựa cho tiện, sau họ gọi cái hai ống ấy bằng từ Khố của tiếng Việt, họ phát âm là “khu”. ( Chỉ có cái xi líp thì ta phải mượn từ của Pháp thôi, vì cổ đại dù người Việt có dệt được lụa bằng tơ tằm mỏng như tơ nhện, người Việt cũng không vận thứ đó vì nó “mất tự do”). Nước Lâm Ấp thì nhà Đường gọi là Hoàn Vương, nhà Tống gọi là Chiêm Thành hay Chiêm Bà. Thủ lĩnh Lâm Ấp là Khu Liên, “Hậu Hán thư” viết là Khu Lệnh, “Lương thư” viết là Khu Đạt, sử liệu Việt Nam viết là Thích Lợi Ma La, là người Chăm. Thời Bắc thuộc Khu Liên làm Tả Sứ cho huyện lệnh Tượng Lâm (như chức trợ lý của huyện lênh). Năm 137 Khu Liên lãnh đạo nhóm người cùng tộc giết chết huyện lệnh. Thứ sử người Hán đang cai trị ở Giao Chỉ là Phừng Diễn đem một vạn quân ở Giao Chỉ và Cửu Chân đánh không lại vài nghìn quân của Khu Liên, nên đòi xin thêm bốn vạn quân nữa từ Kinh Châu, Dương Châu, Dự Châu ( tức vùng Hồ Bắc, Hồ Nam, Triết Giang) sang. Nhưng Lý Cố can ngăn vua Hán Thuận Đế, vì trong nước cũng đang có loạn, không cho viện binh. Khu Liên giành được độc lập, lập Vương Quốc Chăm Pa, truyền được 2-3 đời, sau đó do không có trai thừa tự nên lập cháu ngoại là Phạm Hùng người Kinh lên làm vua. Vương Quốc Chăm Pa đa sắc tộc tồn tại độc lập được hơn 1700 năm trải qua nhiều đời vua. Đến thời Lê Lợi thì mới hội nhập hoàn toàn vào nước Đại Việt. Người Việt Nam giỏi hàng hải từ thời cổ đại, mà thời đó phương tiện rất thô sơ, nhưng vẫn vượt đại dương được nhờ người Việt đã sáng chế ra cái La-Canh là cái kim chỉ phương La=phương Lả=Phương Lâm=phương Lam=phương Nam=phương Nóng=phương Nóc(mặt trời ban trưa luôn trên đỉnh đầu, điều mà vùng ôn đới không thể có)=phương Sóc=phương South, và phương Canh=phương Lạnh=phương Nạnh=phương North. Cũng còn gọi là Kim Chỉ Nam, Hán thư gọi là cái La Bàn. Người Việt gọi Hải là Bể, phương tiện để đi bể là cái Bè, Bể=Bè, Bè là thứ để đi dọc tức đi xa, còn đi gần tức đi ngang thì có Mảng, đều là bằng cây nứa ghép lại. Mảng=Miểng=Minh, sinh ra từ bác học “Liên Minh” nghĩa là “ghép sát lại với nhau”, cũng như từ ghép Bè Phái; Bè=Bậu=Tầu; Chỗ chung Bậu=(lướt)=Châu, từ Châu thường dùng để chỉ nơi tập kết nhiều bè, như địa danh Châu Ổ ở Quảng Ngãi, Châu Ổ=Tầu Đỗ; Bè Miểng=(lướt)=Biển, nên tiếng Việt có hai từ để gọi Hải là Bể hoặc Biển. Từ Châu và từ Biển đã được Hán ngữ mượn chỉ dùng để chỉ phương tiện đi bể, họ gọi là Châu Biển, chữ Châu là chữ tượng hình, còn chữ Biển chỉ là chữ để mượn âm làm “giả tá”, Châu Biển=Tầu Biển=Tầu Bè. Học giả Trung Quốc Trần Kinh Hòa ( 1957) viết: Trung Quốc thời Minh Thanh e sợ tầu biển của Nhật Bản nên có “hải cấm chính sách”, không cho tầu biển của thương nhân Nhật vào Trung Quốc mua hàng, cũng cấm không cho thương nhân Trung Quốc dùng thuyền chở quặng sang bán cho Nhật (từ năm 1371-1567). Sau nhờ có quan tuần vũ tỉnh Phúc Kiến tâu xin đề nghị cho thương nhân dùng thuyền ra biển buôn bán để mỡ mang thương nghiệp nước nhà, lệnh mới được dỡ bỏ, nhưng vẫn cấm bán hàng, chủ yếu là quặng, cho Nhật. Thế là thương nhân Nhật và Trung Quốc hẹn buôn bán với nhau ở cảng Hội An của Việt Nam, riêng từ 1604 đến 1635 đã có được mấy trăm chuyến thương vụ trao đổi tại Hội An. Chúa Nguyễn Hoàng vào Thuận Hóa từ năm 1558, Chúa Nguyễn cho phép người Hoa chạy loạn từ nước Đại Minh sang được định cư khai khẩn đất hoang xen kẽ với các làng Việt, những người Hoa ấy gọi làng của họ định cư là Làng Minh Hương. Họ thấy làng Việt nào cũng có nơi sinh hoạt cộng đồng gọi là Đình, nên cũng bắt chước dựng nơi sinh hoạt cộng đồng gọi là Đình Minh Hương, mà kiến trúc thì giống như kiến trúc của miền Trung Bộ Việt Nam. Họ hội nhập nhanh vào xã hội Việt Nam, niên hiệu dùng trong viết gia phả hay văn tế đều lấy niên hiệu các Vua Đại Việt. Trong số họ cũng có nhiều người thành đạt hoặc được làm quan, như Võ Trường Toản, Trương Vĩnh Ký, Trịnh Hoài Đức, Phan Thanh Giản. Không giống như những người Hoa tới sau từ nước Đại Thanh, họ lập Hội quán riêng cho từng cộng đồng, niên hiệu vẫn viết theo niên hiệu nhà Thanh. Họ qui định với nhau, người Đại Thanh sang thì phải đến thế hệ hai mới có thể được xét để đóng thuế gia nhập Làng Minh Hương. Hòa Thượng Thích Đại Sán được mời sang thăm và làm việc ở nước Đại Việt. Về nước, ông viết sách “Hải ngoại ký sự” gồm 6 quyển , được khắc bản đời Khang Hy nhà Thanh. Ông kể sôi nổi về chuyến đi Việt Nam “Đi thuyền trên biển khỏi Quảng Đông là đến nước Đại Việt, tức vị chi Hải ngoại ký sự dã”. Ông được Chúa Nguyễn tiếp ở Thuận Hóa “ Bính Tí , Bồ nguyệt, Đại Việt Quốc Vương Nguyễn Phúc Chu thụ tiếp丙子蒲月大越國王阮福周受接”, rồi làm lễ ở “Tây Cung Giác Vương Nội Viện西宮覺王內院”. Từ Huế ông lại được đi thuyền biển vô Hội An, ấy là năm 1694. Ông say sưa kể về sự giàu có và dân cư Việt Nam lao động siêng năng trên đồng ruộng và trên biển. “Đâu cũng có thành quách, xung quanh thành quách đều có trồng tre”, “sản vật vô cùng phong nhú, hương liệu, kỳ nam chất như núi”, “hàng ngày đều có các thuyền của ngư dân Việt đem sản vật khai thác từ quần đảo Hoàng Sa về như cá, tôm, mực, đồi mồi, rau câu, ngọc trai”. Mời xem cập nhật bài của Tiến Sĩ Nguyễn Nhã: Cơ sở pháp lý xác lập chủ quyền VN tại Hoàng Sa Cập nhật ngày Thứ năm, 21 Tháng 10 2010 01:47 Cơ sở pháp lý quốc tế và các hành động xác lập và thực thi chủ quyền rất cụ thể của VN suốt từ đầu thế kỷ XVII là những bằng chứng hiển nhiên, bất khả tranh nghị về chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa. Mọi sự tranh giành chủ quyền với Việt Nam là hành động trái phép với luật pháp quốc tế - Bài viết của Tiến sĩ sử học Nguyễn Nhã. Cơ sở pháp lý quốc tế về sự thiết lập chủ quyền lãnh thổ tại các hải đảo Trong giai đoạn từ đầu thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX, các nước Hà Lan, Anh, Pháp cũng phát triển dần trở thành cường quốc, bị đụng chạm quyền lợi, không chịu chấp hành sắc lệnh của Giáo Hoàng Alexandre VI ký ngày 4 tháng 5 năm 1493 xác định nguyên tắc phân chia các vùng lãnh thổ mới phát hiện ngoài Châu Âu. Từ thực tế này, các nước đã tìm ra nguyên tắc mới về thiết lập chủ quyền trên những vùng lãnh thổ mà họ phát hiện. Đó là thuyết "quyền ưu tiên chiếm hữu" một vùng lãnh thổ thuộc về quốc gia nào đã phát hiện ra vùng lãnh thổ đó đầu tiên. Đó chính là thuyết "quyền phát hiện". Trên thực tế, việc phát hiện như trên chưa bao giờ tự nó đem lại cho quốc gia phát hiện chủ quyền lãnh thổ vì rất khó xác định chính xác thế nào là phát hiện, xác nhận việc phát hiện và xác định giá trị pháp lý của việc phát hiện ra một vùng lãnh thổ. Vì thế việc phát hiện đã mau chóng được bổ sung bằng việc chiếm hữu trên danh nghĩa, nghĩa là quốc gia phát hiện ra một vùng lãnh thổ phải để lại dấu vết trên vùng lãnh thổ mà họ phát hiện. Một đảo lớn trong quần đảo Hoàng Sa. Ảnh: TTO Sau hội nghị Berlin về châu Phi năm 1885 của 13 nước Châu Âu và Hoa Kỳ và sau khoá họp của Viện Pháp Luật Quốc Tế ở Lausanne ( Thụy Sĩ) năm 1888, nguyên tắc chiếm hữu thật sự trở thành quan điểm chiếm ưu thế trên thế giới. Điều 3, điều 34 và 35 của Định ước Berlin ký ngày 26 tháng 6 năm 1885 xác định nội dung của nguyên tắc chiếm hữu thật sự và các điều kiện chủ yếu để có việc chiếm hữu thật sự như sau: - “Phải có sự thông báo về việc chiếm hữu cho các nước ký định ước trên". - "Phải duy trì trên những vùng lãnh thổ mà nước ấy chiếm hữu sự tồn tại của một quyền lực đủ để khiến cho các quyền mà nước ấy đã giành, được tôn trọng…” Tuyên bố của Viện Pháp Luật Quốc Tế Lausanne năm 1888 đã nhấn mạnh “mọi sự chiếm hữu muốn tạo nên một danh nghĩa sở hữu độc quyền … thì phải là thật sự tức là thực tế, không phải là danh nghĩa”. Chính tuyên bố trên của Viện Pháp Luật Quốc Tế Lausanne đã khiến cho nguyên tắc chiếm hữu thật sự của định ước Berlin có giá trị phổ biến trong luật pháp quốc tế chứ không chỉ có giá trị với các nước ký định ước trên. Nội dung chính của nguyên tắc chiếm hữu thật sự là : 1.Việc xác lập chủ quyền lãnh thổ phải do nhà nước tiến hành. Tư nhân không có quyền thiết lập chủ quyền lãnh thổ vì tư nhân không có tư cách pháp nhân quốc tế, vì quan hệ quốc tế là quan hệ giữa các quốc gia. 2. Sự chiếm hữu phải được tiến hành một cách hoà bình trên một vùng lãnh thổ thật sự là vô chủ (res nullius) hoặc là đã được quốc gia làm chủ chủ động từ bỏ (derelicto). Dùng võ lực để chiếm một vùng lãnh thổ đã có chủ là một hành động phi pháp. 3. Quốc gia chiếm hữu trên thực tế phải thực hiện những hành động chủ quyền ở mức độ tối thiểu phù hợp với các điều kiện tự nhiên và dân cư trên vùng lãnh thổ đó. 4. Việc thực hiện chủ quyền phải liên tục trên vùng lãnh thổ đó. Ngày 10 tháng 9 năm 1919, công ước Saint Germain đã được các cường quốc lúc bấy giờ ký tuyên bố hủy bỏ định ước Berlin năm 1885 với lý do là trên thế giới không còn lãnh thổ vô chủ nữa và như thế nguyên tắc chiếm hữu thật sự không còn giá trị pháp lý nữa. Song do tính hợp lý của nguyên tắc này, các luật gia trên thế giới vẫn vận dụng nó khi phải giải quyết các vụ tranh chấp chủ quyền trên các hải đảo. Như phán quyết của toà án trọng tài thường trực quốc tế La Haye tháng 4 năm 1928 về vụ tranh chấp đảo Palmas giữa Mỹ và Hà Lan, phán quyết của toà án quốc tế của Liên Hợp Quốc tháng 11 năm 1953 về vụ tranh chấp các đảo Minquiers và Écrehous giữa Anh và Pháp. Những thay đổi trong pháp luật quốc tế nửa đầu thế kỷ XX đã làm thay đổi phương pháp thủ đắc chủ quyền lãnh thổ trên thế giới. Sau chiến tranh thế giới thứ 2, Liên Hợp Quốc được thành lập tiếp theo Hội Quốc Liên. Từ các cuộc chiến tranh xâm lược, Hiến Chương Liên Hợp Quốc đưa ra nguyên tắc (điều 2 khoản 14) có giá trị như một nguyên tắc pháp lý áp dụng cho tất cả các quốc gia. Nguyên tắc cấm sử dụng vũ lực trên đã được phát triển và tăng cường trong Nghị Quyết 26 – 25 năm 1970: “Lãnh thổ của một quốc gia không thể là đối tượng của một cuộc chiếm đóng quân sự do sử dụng vũ lực trái với “các quy định của Hiến Chương”. Lãnh thổ của một quốc gia không thể là đối tượng của một sự chiếm hữu của một quốc gia khác sau khi dùng đe dọa hay sử dụng vũ lực. Bất kỳ sự thụ đắc lãnh thổ nào đạt được bằng đe dọa hay sử dụng vũ lực sẽ không được thừa nhận là hợp pháp”. Nghị quyết trên cũng qui định: “Các quốc gia có bổn phận không dùng đe dọa hay sử dụng vũ lực để vi phạm các biên giới quốc tế hiện có của một quốc gia khác hay như biện pháp giải quyết các tranh chấp quốc tế , kể cả các tranh chấp về lãnh thổ và các vấn đề liên quan đến các biên giới của các quốc gia.” Năm 1982, Công ước về luật biển Liên Hợp Quốc gọi là “United Nations Convention on Law of Sea" ,viết tắt là UNCLOS Convention công bố ngày 10-2-1982 tại Montego Bay ở Jamaica đã được 159 quốc gia ký nhận. Sau khi có đủ 60 quốc gia duyệt y (ratification), kể từ ngày 16-11-1994 thoả ước UNCLOS hay LOS Convention trở thành luật quốc tế đối với các quốc gia phê chuẩn và được mang ra, thi hành, đã xác định về chủ quyền trên biển của mỗi quốc gia … Như thế trước khi bị các nước ngoài xâm phạm chủ quyền Việt Nam ở quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa tức đầu thế kỷ XX trở về thế kỷ XVII, theo pháp lý quốc tế theo kiểu Phương Tây lúc bây giờ, sự xác lập chủ quyền Việt Nam một cách thật sự, liên tục, hoà bình là cơ sở pháp lý quốc tế đương thời. Đến khi chủ quyền của Việt Nam bị xâm phạm, vào thời đểm 1909, pháp lý quốc tế có giá trị phổ biến là Tuyên bố của Viện Pháp Luật Quốc Tế Lausanne năm 1888. Sau đó Hiến Chương Liên Hiệp Quốc và Luật Biển 1982 cũng là cơ sở pháp lý quốc tế mà các thành viên ký kết bao gồm các nước đang vi phạm chủ quyền của Việt Nam ở quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là Trung Quốc, Philippines, Malaysia, Brunei đều phải tôn trọng. Tính pháp lý quốc tế của sự xác lập chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa Vào đầu thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XX, năm 1909, Việt Nam đã chiếm hữu thật sự, hoà bình và thực thi liên tục theo đúng nguyên tắc pháp lý quốc tế lúc bấy giờ với những chứng cứ sau đây: Một là với tính cách nhà nước, đội Hoàng Sa, một tổ chức bán quân sự đã được giao nhiệm vụ, riêng một mình kiểm soát và khai thác định kỳ, liên tục và hoà bình hải sản quý cùng các sản vật kể cả súng ống của các tàu đắm tại các đảo Hoàng Sa suốt thời Đại Việt, trong thời các chúa Nguyễn và thời Tây Sơn, tức từ đầu thế kỷ XVII đến năm 1801 và sau đó là buổi đầu triều Nguyễn từ 1802 – đến trước 1815. Từ năm 1816, đội Hoàng Sa phải phối hợp với thủy quân. Hàng năm, đội Hoàng Sa hoạt động trong 6 tháng từ tháng 3 đến tháng 8 âm lịch (tháng 4 đến tháng 9 dương lịch) để phù hợp với điều kiện thời tiết ở vùng biển của quần đảo Hoàng Sa. Hai là suốt thời nhà Nguyễn, bắt đầu từ 1816, thủy quân được giao trọng trách liên tục kiểm soát, bảo vệ Hoàng Sa và Trường Sa. Ba là về mặt quản lý hành chánh liên tục suốt trong 4 thế kỷ từ thế kỷ XVII đến năm 1974 (khi Trung Quốc dùng vũ lực cưỡng chiếm), Hoàng Sa được các chính quyền ở Việt Nam để thể hiện quyền lực tối thiểu của mình, đặt dưới sự quản lý hành chánh của Quảng Ngãi (khi là phủ hoặc là trấn hay tỉnh qua từng thời kỳ lịch sử) hoặc của tỉnh Thừa Thiên (thời Pháp thuộc) hoặc của tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng (thời chia cắt Nam Bắc) rồi đến thành phố Đà Nẵng (thời thống nhất đất nước). Việc xác định sự quản hạt này hoặc đựợc ghi trong các sách địa lý của nhà nước biên soạn như bộ Hoàng Việt Địa Dư Chí hoặc Đại Nam Nhất Thống Chí dưới triều Nguyễn, hoặc do chính hoàng đế hay triều đình (Bộ Công) như thời vua Minh Mạng khẳng định, hoặc bằng các dụ, sắc lệnh, quyết định của chính quyền ở Việt Nam như dụ của Bảo Đại, triều đình Huế, Toàn Quyền Đông Dương ở thời Pháp thuộc, hoặc tổng thống, tổng trưởng trong thời kỳ Việt Nam bị chia cắt, hoặc quyết định, nghị quyết của nhà nước, quốc hội thời độc lập thống nhất. Điều này khác với Trung Quốc, chỉ xác định sự quản lý hành chánh sau năm 1909 tức vào năm 1921 và rồi vào năm 1947… có nghĩa là sau Việt Nam hơn 3 thế kỷ. Còn tất cả chỉ là suy diễn không có bằng chứng cụ thể rõ ràng. Chính quyền ở Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử, ngay cả thời Pháp thuộc, chưa bao giờ từ bỏ chủ quyền của Việt Nam ở quần đảo Hoàng Sa, nên ngay cả khi bị Trung Quốc chiếm đóng trái phép sau chiến tranh thế giới thứ 2 hay năm 1974, quần đảo Hoàng Sa vẫn được tỉnh Quảng Nam và từ năm 1997 đến nay là thành phố Đà Nẵng quản lý. Bốn là trước thời kỳ bị xâm phạm, bất cứ dưới thời đại nào, nhà nước ở Việt Nam cũng có những hành động tiếp tục khẳng định và thực thi chủ quyền hàng năm như đo đạc thủy trình, để vẽ bản đồ do đội Hoàng Sa cuối thời chúa Nguyễn hay do thủy quân từ năm 1816 dưới triều Nguyễn (bộ Đại Nam Thực Lục Tiền Biên, Đại Nam Thực Lục Chính Biên hoặc Đại Nam Hội Điển Sự Lệ của Nội Các, hoặc Châu Bản triều Nguyễn đã ghi rất rõ, đã được trình bày trong phần tài liệu). Sau này, từ đầu thế kỷ XX cho đến năm 1974, Việt Nam cũng tiếp tục tổ chức các đoàn thám sát, đo đạc, vẽ bản đồ. Năm là trước thời kỳ bị xâm phạm, dưới triều Nguyễn, nhất là từ năm 1836 trở thành lệ, hàng năm đều luôn luôn tổ chức xây dựng bia chủ quyền từng hòn đảo. Trong thời bị xâm phạm cũng thế, các chính quyền ở Việt Nam luôn tiếp tục cho dựng bia chủ quyền thay thế bia bị hư hỏng. Sáu là trước thời kỳ bị xâm phạm, các triều đại Việt Nam, nhất là thời vua Minh Mạng của triều Nguyễn đã cho dựng miếu thờ làm bằng nhà đá (đá san hô), đào giếng mà năm 1909 các đoàn khảo sát đầu tiên của Trung Quốc ở Hoàng Sa đã trông thấy và khẳng định không biết có từ thời nào. Riêng tại đảo Phú Lâm, tài liệu Trung Quốc [ ghi có miếu ghi rõ Hoàng Sa Tự của Việt Nam. Sau khi có sự xâm phạm, chính quyền ở Việt Nam cũng tiếp tục cho xây miếu và nhà thờ. Bảy là trước thời kỳ bị xâm phạm, dưới triều Nguyễn nhất là thời vua Minh Mạng đã cho trồng cây tại các đảo để cho thuyền bè ở đàng xa nhận thấy, tránh bị nạn, và các nhà nghiên cứu thực vật như La Fontaine cũng thừa nhận các thực vật cây cối ở Hoàng Sa phần lớn có nguồn gốc ở Miền Trung Việt Nam. Tám là trước thời kỳ bị xâm phạm, dưới triều Gia Long như tài liệu phương Tây của Gutzlaff viết trong The Journal of The Geographical Society of London, vol 19, 1849, trang 97, đã cho biết Việt Nam đã thiết lập trại binh nhỏ và một điểm thu thuế. Đến thời kỳ bị xâm phạm từ năm 1909, các chính quyền Việt Nam lại là chính quyền sớm nhất đã tổ chức các trại lính đồn trú ở đảo Hoàng Sa (Patlle). Trong khi Trung Quốc chỉ cho quân chiếm đóng một thời gian ngắn sau chiến tranh thế giới lần 2 rồi rút đi (năm 1956, Trung Quốc chiếm lại đảo Phú Lâm (Ile Boisée). Đến năm 1974, Trung Quốc dùng vũ lực chiếm trái phép các đảo còn lại trong các trận đánh trên đảo và ở biển với hải quân Việt Nam Cộng Hoà, kết thúc vào ngày 20 –1-1974). Chín là chính quyền ở Việt Nam đã cho xây trạm khí tượng đầu tiên tại đảo Hoàng Sa (Pattle) vào năm 1938 hoạt động trong thời gian dài cho đến khi Trung Quốc chiếm đóng bằng vũ lực năm 1974. Mười là trước thời kỳ bị xâm phạm tức năm 1909, chính các hoàng đế Việt Nam như vua Minh Mạng và triều đình, cụ thể là Bộ Công đã lên tiếng khẳng định Hoàng Sa là nơi hiểm yếu trong vùng biển của Việt Nam, nằm trong cương vực của Quảng Ngãi. Mười một là trước khi bị xâm phạm, chưa có một hải đảo nào được nhiều tài liệu chính thức của nhà nước, từ chính sử địa lý của Quốc Sử Quán Triều Nguyễn như Đại Nam Thực Lục Tiền Biên, Đại Nam Thực Lục Chính Biên, hoặc địa dư như Hoàng Việt Dư Địa Chí, Đại Nam Nhất Thống Chí, hoặc sách hội điển, một loại pháp chế ghi những điển chương pháp chế của triều đình như Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ. Cũng chưa có một hải đảo nào tại Việt Nam lại được những nhà sử học lớn của nước Việt Nam đề cập đến như Lê Quí Đôn trong Phủ Biên Tạp Lục (1776), Phan Huy Chú (1821) trong Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí , Dư Địa Chí, hay Nguyễn Thông trong Việt Sử Cương Giám Khảo Lược. Đặc biệt việc xác nhận chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa lại còn do sách của chính người Trung Hoa viết như Hải Ngoại Ký Sự của Thích Đại Sán viết năm 1696. Đó là chưa kể nhiều tác giả tây Phương như là Le Poivre (1749), J Chaigneau (1816-1819), Taberd (1833), Gutzlaff (1849)… cũng đã khẳng định rõ ràng Hoàng Sa thuộc chủ quyền Việt Nam! Mười hai là bản đồ An Nam Đại Quốc Họa Đồ Của Giám mục Taberd trong cuốn Tự Điển Việt – La Tinh, nhan đề Latino – Anamiticum xuất bản năm 1838 đã ghi rõ : Paracel Seu Cát Vàng ở Biển Đông. Trong khi bản đồ "An Nam" này chỉ vẽ có Paracel Seu Cát Vàng, lại không có vẽ Hải Nam của Trung Quốc trong biển Đông. Rõ ràng bản đồ An Nam Đại Quốc Hoạ Đồ đã minh chứng Cát Vàng tức Hoàng Sa chính là Paracel nằm trong vùng biển của Việt Nam. Như thế với chức năng kiểm soát sự khai thác các sản vật ở Biển Đông và những hành động cụ thể trực tiếp khai thác các sản vật của Đội Hoàng Sa, một tổ chức dân binh liên tục gần hai thế kỷ suốt từ đầu thế kỷ XVII cho đến năm 1816 cùng những hành động xác lập và thực thi chủ quyền rất cụ thể như nêu cột mốc, dựng bia, xây miếu, trồng cây, đo đạc thủy trình vẽ bản đồ của thủy quân Việt Nam từ năm 1816 dưới sự chỉ đạo trực tiếp của vua và triều đình cũng như những lời tuyên bố của vua , triều đình nhà Nguyễn và sự quản hạt hành chánh vào Quảng Ngãi từ đầu thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XX là những bằng chứng hiển nhiên, bất khả tranh nghị về chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa. Mọi sự tranh giành chủ quyền với Việt Nam là hành động trái với luật pháp quốc tế. Nguyễn Nhã (Tiến sĩ sử học) Nguồn: Báo Vnexpress.net
  6. Nhân ngày Giỗ Quốc Mẫu Âu Cơ Diễn nội dung bài ca “Con có một Tổ Quốc” : Ngàn năm chuông Việt thâm trầm Chuông ngân buồn thảm não nùng những năm Những năm chuông Việt lừng vang Tiếng chuông thanh thoát, Việt Nam nguyện cầu Non sông muôn vẻ sắc màu Biển Đông vỗ sóng chứa giàu tài nguyên Đồng bào hiền hậu siêng năng Đời đời chiến sĩ hào hùng đứng lên Biển cuộn sóng, máu cuộn hơn Núi cao, núi chất xương còn cao hơn Non nổi danh bởi có Tiên Nước nổi danh bởi Rồng thiêng muôn đời Của Con đất nước sáng ngời Con xin dốc hết một đời máu say Giữ gìn trọn vẹn Nước này Bằng tim bằng óc dựng xây nước nhà Vui cùng dân tộc chúng ta Buồn cùng nỗi nhục xót xa đồng bào Của Con một dải đất Đào Một hồn văn hóa đồng bào Việt Nam Một truyền thống, một nước non Của Con Tổ Quốc Việt Nam muôn đời.
  7. nguồn : daohieu.wordpress.com/2011/05/26 BÍ ẨN CỦA LỊCH SỬ Ngày chết trùng của OSAMA ! OBAMA KILLED OSAMA Osama bin Laden bị Hoa Kỳ ám sát vào ngày 02 tháng 5 năm 2011 hay May 2nd-2011 mà 5-2nd-2011 = 5+2+2011 = 9+11 hay là 9/11 !!! BÍ ẨN LỊCH SỬ Chúng ta tin vào có những hiện tượng siêu hình và nhân quả hay không ? Hãy nhìn vào lịch sử: Qua cuộc binh biến 11 tháng 1 năm 1963, Gia đình - Anh Em Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị thảm sát vào ngày 2 / 11 / 1963 ! Tổng Thống Hoa Kỳ Kenedy chịu một phần trách nhiệm lớn về việc làm xấu xa này: hậu quả là hai mươi ngày sau, Kenedy bị ám sát vào ngày 22/11/1963 tại Dallas, Texas. Bí ẩn lịch sử sau đây còn khiển quý vị nổi da gà: (Hãy nhờ một giáo sư Sử Học giải thích những hiện tượng này) Abraham Lincoln được bầu vào Quốc Hội năm 1846 John F. Kennedy được bầu vào Quốc Hội năm 1946 ! Abraham Lincoln được bầu làm Tổng Thống năm 1860. John F. Kennedy được bầu làm Tổng Thống năm 1960 ! Cả hai đều đặc biệt chú trọng đến vấn đề dân quyền. Cả hai phu nhân đều mất một đứa con khi ngụ tại Toà Bạch Cung Hai vị Tổng Thống đều bị hạ sát vào ngày Thứ, và đều bị bắn vào đầu. Và càng kỳ dị hơn là: Thư ký của Lincoln tên là Kennedy. Thư ký của Kennedy tên là Lincoln ! Cả hai đều bị ám sát bởi người miền Nam và được kế vị bởi hai người cùng tên là Johnson, cũng người miền Nam ! Andrew Johnson, kế vị Lincoln, sinh năm 1808. Lyndon Johnson, kế vị Kennedy, sinh năm 1908: John Wilkes Booth, ám sát Lincoln, sinh năm 1839. Lee Harvey Oswald, ám sát Kennedy, sinh năm 1939 ! Cả hai tên sát nhân đều có tên ba chữ, và cả hai tên này gồm 15 chữ cái. Booth và Oswald đều bị ám sát trước khi đưa ra toà xử. Nào bạn hãy ngồi yên: Lincoln bị bắn tại hí viện tên ‘Ford’. John F. Kennedy bị bắn trên một chiếc xe ‘Lincoln’ được hãng ‘Ford’ chế tạo ! Lincoln bị bắn tại hí viện và tên sát nhân chạy trốn tại một nhà kho. Robert Kennedy bị bắn tại một nhà kho và tên sát nhân chạy trốn vào một hí viện ! Và điều đáng ngạc nhiên là: Một tuần trước khi Lincoln bị ám sát, ông ta ở thành phố Monroe, Maryland Một tuần trước khi Kennedy bị ám sát, ông ta ở với nàng Marilyn Monroe !
  8. Con Trâu và con Ngựa của người Lạc Việt Đại gia súc để kéo cày thì chỉ có ở người Việt vì sống bằng nông nghiệp. Những từ chỉ đại gia súc hàng vạn năm trước ở Trung Nguyên đều là tên Việt, phát âm như người Việt Nam ngày nay. Ví dụ Tlu (tiếng Mường)=Tru=Trâu=Ngầu (tiếng Quảng Đông)=Ngưu=Sửu (trong 12 con giáp). Hán ngữ phiên âm chữ Sửu này là “Sẩu” 丑 và phải giải thích nghĩa của nó là con trâu, nhưng chữ Sửu 丑 thì lại không phải là chữ Ngưu 牛chứng tỏ chữ Sửu 丑 chỉ là mượn âm để phiên cái âm Sửu của người Việt, còn ở tiếng Việt thì theo tuần tự ngược về cội nguồn: Sửu=Ngưu=Ngầu=Trâu. Vậy 12 con giáp rõ ràng là của người Việt. Hứa Thận hướng dẫn đọc chữ Ngưu 牛 là Ngũ 五 Cầu 求 =(thiết)=Ngầu. Nếu theo phát âm của Hán ngữ thì là Vủ 五 Xíu 求=(thiết)=Víu, trật lấc, vì Hán ngữ gọi con trâu là “Níu” chứ đâu phải là “Víu”, cả hai đều trật với Ngưu=Ngầu. Con Ngựa của người Việt chính là con Ngọ trong 12 con giáp, Ngựa=Ngọ 午 =Ngự 御. Chữ Ngọ 午 này là do Hán ngữ mượn âm chữ Ngọ 午 nghĩa là giờ giữa trưa của tiếng Việt, “Ngày thật Rõ”=(lướt)= “Ngọ”, để phiên âm chữ Ngựa trong 12 con giáp của người Việt, chứ chữ Ngọ 午 nó chẳng có biểu ý hay biểu âm gì là con Mã 馬 của người Hán cả. Chữ Ngự 御mới thú vị, hóa ra nó chỉ là từ bình dân của người Việt dắt ngựa thồ hàng. Hứa Thận giải thích nghĩa của nó là “điều khiển ngựa”(-Ngự nghĩa là gì?,-Sử 使 mã 馬 ạ也 !, nguyên văn: Sử 使 mã 馬 dã 也). Mà chữ Mã là do tiếng Tày, “con Ngựa” là “tu Mạ”, mà Kẻ=Con=Cò(tiếng Thanh Hóa)=Kô(tiếng Nhật)=Cu=Tu(tiếng Tày)=Tử 子. Còn chữ Sử 使 có nghĩa là Sai khiến, là do từ Sửa của tiếng Việt, gò kẻ khác phải thao tác theo ý hướng dẫn của mình thì gọi là Sửa. Chữ Ngự ấy đã được nâng lên thành tính bác học trong từ Chế Ngự và từ Phòng Ngự trong Binh Pháp Tôn Tử. Và Hứa Thận hướng dẫn cách phát âm chữ Ngự 御 là Ngưu 牛 Cứ 據 =(thiết)=Ngự. Hán ngữ phát âm chữ Ngự 御 bắt chước Việt, thành lơ lớ là Uỳ, vì họ không có phụ âm Ng, không thể phát âm được “ngờ” mới khổ cho họ. Như họ phát âm chữ Ngự 御 theo Hứa Thận dạy “thiết” thì sẽ là “Níu” 牛 “Chuy” 據 =(thiết)= “Nuy”, đều trật lấc như Uỳ, đâu phải là Ngự. Còn cái chữ “Hán tự” mà từ điển Hán ngữ hiện đại dạy đọc là “Cù” 牯 (mà họ cũng chẳng dùng vì không hiểu), nhưng Hứa Thận thì giải nghĩa là “giữ trâu ngựa” và hướng dẫn cách phát âm chữ “Cù”牯 ấy là Cổ 古 Ốc 屋=(thiết)= Cốc thì hóa ra nó đúng là cái Cọc của tiếng Việt, Neo=Nọc=Cọc=Cây=Côn=Càn=Cắm=Cấm. Hứa Thận cũng có con Dê 羝, còn giống Dê lớn con thì gọi là Dê Tượng, như giống xoài lớn trái gọi là xoài tượng, Dê Tượng=(lướt)=Dương 羊. Dê và Dương cùng loài nhưng khác giống.
  9. Có mỗi một chữ A nặng Ạ Trẻ sơ sinh khóc ra tiếng đầu tiên là A. Người mẹ Việt Nam từ hàng vạn năm trước dù biết chữ, hay ở “vùng sâu vùng xa” không biết chữ, thì vẫn dạy cho con tiếng giao tiếp đầu tiên khi nó còn được ẵm trên tay, còn lâu mới bắt đầu biết tập nói, đã hiểu tiếng giao tiếp đầu tiên mẹ dạy là Ạ, tức A nặng Ạ. Đó là một tiếng giao tiếp vô cùng lễ phép “con ạ cụ đi, Ạ cụ Ạ !). Vậy mà chữ A ấy cũng là chữ đầu tiên trong bảng Anphabet của ngôn ngữ Latin, sau thành quốc tế, để tra từ điển. Nhưng A nặng Ạ của mẹ Việt Nam dạy con khi mới ra đời tiếng giao tiếp được biết đầu tiên là Ạ, nó hàm nghĩa lễ phép, hàm nghĩa đồng thuận, lại hàm nghĩa nhắc nhớ ơn, Mẹ là người “mang Nặng đẻ đau”, nên mới có “nặng Ạ” chứ không thì đã dùng dấu khác hay từ khác làm từ giao tiếp đầu tiên dạy trẻ sơ sinh rồi.Tiếc rằng bộ Giáo Dục Đào Tạo Việt Nam đã tốn công sức, thời gian và tiền bạc cho dự án hàng mấy năm trời, có mời cả cố vấn nước ngoài, để “cải cách sách giáo khoa tiếng Việt lớp Một” là “dạy bắt đầu bằng chữ E”. Từ Ạ ấy mới sinh ra những từ giao tiếp lễ phép khác nữa, rồi dần dần lớn lên nó mới thành các từ giao tiếp bỗ bã hơn để cho người lớn dùng với nhau, đều là nghĩa đồng thuận hay khẳng định. Tiến trình ấy là như sau: Ạ=Dạ=Dã 也=Nhá=Nhé=Nghe=À Nghe. Tiếng Nhật Bản dùng từ “Nhé” cũng đặt cuối câu và cũng nghĩa như vậy, mà họ phát âm cứng hơn chút là “Nê”, rồi nữa, Nê=Hề=Hầy=Hày ( có phải đúng là cái lõi giữa là Hề và Hầy thì nó đang dùng trong tiếng Việt, còn Nê và Hày thì vẫn đang dùng trong tiếng Nhật đấy thôi. Bởi vì người Việt Nam là dân Giữa Chỗ= Giao Chỉ, là trung tâm văn hóa của đại tộc Việt thời cổ đại, mà thời cổ đại ấy Giữa Chỗ = Giao Chỉ nó nằm ở nam sông Dương Tử). Cũng do tiếng giao tiếp lễ phép này của người Việt Nam mà có từ “Nho Nhã”, Nho là do QT vo cụm từ “Vuông Chữ Nho Nhỏ” thành còn lõi giữa là “Chữ Nho”, Vuông Chữ = Vựa Chữ = Văn Tự của người Việt chính là “Vuông Chữ Nho Nhỏ” = Chữ Nho, có chữ nho rồi học giả mới dùng chữ nho làm công cụ để tổng kết tư tưởng của người Việt thành một cái Đạo gọi là Đạo Nho, người tổng kết ấy là ông Khổng Tử. Có chữ Nho trước rồi mới có Đạo, gọi theo nó là Đạo Nho, cũng như nói “có thực mới vực được đạo”, phải có cái công cụ trước rồi nó mới thành đạo, con người ta phải làm cái việc tốt trước thì mới trở thành người tốt. Khi nêu Qui Tắc Tạo Từ Việt gọi tắt là QT, Tôi chưa từng biết xưa có ông Hứa Thận viết cuốn sách Thuyết Văn Giải Tự. Tình cờ đọc trên mạng, bắt gặp Mạng http://zh.wikipedia.org/wiki/說文解字 tôi mới được biết Hứa Thận ( Hứa Thận 許 慎 sinh năm 58, mất năm 147, người Nhữ Nam tỉnh Hà Nam Trung Quốc, thời Đông Hán có làm công chức, nổi danh “Ngũ Kinh vô song Hứa Thúc Trọng五 經 無 雙 許 叔 重”. Ông viết cuốn “Thuyết văn giải tự 說 文 解 字” trong vòng 21 năm, hoàn thành năm 100) được coi là người làm từ điển đầu tiên của Trung Quốc. Và đọc mới chỉ Lời nói đầu của Hứa Thận viết, ngắn có một trang, đã thấy rõ nhiều điều về Lạc Việt thời tiền sử. Đúng là nhờ đọc mạng, đúng như tôi đã dẫn theo QT là: Mẹ=Mẫu=Nhau=Máu=Mạng=Mắt=Bắt=Biết (có ngôn ngữ nào dẫn khái niệm ra được như vậy không?), nhờ có mạng internet tôi mới biết chứ không tôi cũng mù tịt. Văn Hứa Thận viết , Hán ngữ hiện đại phải dịch. Mỗi chữ Hứa Thận giải thích đều là bằng câu trả lời khẳng định bằng tiếng Ạ rất lễ phép như của học trò vậy (mặc dù ông ấy đang là thầy dạy cho người ta biết cách đọc đúng chữ nho, mà hóa ra hầu hết toàn là âm Việt như người Việt Nam nói ngày nay. Vậy mà gần hai ngàn năm sau học giả Đào Duy Anh của Việt Nam lại nói: “Từ Hán Việt là do các ông đồ Việt Nam chọn ra khoảng hơn hai trăm cái âm Việt Nam để dùng đọc chữ Hán cho dễ phát âm” ). Ví dụ trong sách Hứa Thận giải thích nghĩa chữ và hướng dẫn cách phát âm đúng khi đọc như sau: -(Chữ Việt 越 nghĩa là gì?) - Đò 度 Ạ 也 ! (nguyên văn Độ 度 Dã 也 ! -( Đọc như thế nào? ) - Vương 王 Phiệ 伐 =(thiết)= Việt 越 ( Rõ ràng là thời cách nay gần 2000 năm, Hứa Thận ở Hà Nam thuộc Trung Nguyên mà phát âm thì như người Việt Nam vẫn nói ngày nay. QT “lướt” tôi nêu, không biết để hẹn mà lại gặp, cũng trùng hợp với qui tắc “thiết” của Hứa Thận. Bởi vì dẫn theo QT thì Lưỡi=Liền=Liếm=Lát=Lướt=Lướt-Thướt=Thiết, một lát cắt thì nó cũng liền ngọt như tà áo dài lướt -thướt hay như một “thiết diện” của Hán ngữ, nghĩa là liền thành một tiếng. Hán ngữ mà theo cách đọc “thiết” như Hứa Thận hướng dẫn thì sẽ đọc như sau: Váng 王 Fá 伐=(thiết)=Vá, trật, sao thành Việt được, đó là nếu cách nay 2000 năm, còn ngày nay Hán ngữ hiện đại đọc Việt là “Yuê”, cũng trật nốt. Việt nghĩa là Đò thì đúng quá còn gì, người Việt đã đò qua sông Trường Giang để khai thá vùng Trung Nguyên thời cổ đại. -(Chữ Thương 商 nghĩa là gì?) - Cùng 從 ngoài 外 biết 知 trong 內 Ạ 也 ! (nguyên văn Tùng 從 Ngoại 外 Tr i知 Nội 內 Dã也 !). Đúng là như vậy Thương 傷là “nhìn ngoài biết trong”, mẹ thương con chỉ nhìn ngoài mà biết con đói hay nó hay thèm cái gì. Thương 商 nhân thì cũng là nhìn ngoài (chợ) mà biết trong (nhà) phải làm gì để đem ra bán. Cả hai chữ Thương 傷,商 ấy đều là của người Việt Nam, vì nó là do “Thấy thấu Xương”=(lướt)=“Thương” - (Đọc như thế nào?) - Thí 式 Dương 陽=(thiết)= Thương ( QT “lướt” của tôi nêu là “nghĩa”= “nghĩa” nên không còn cần giải thích, vì như “Thấy thấu Xương” thì nó đã chính bằng “Thương” rồi. Qui tắc “thiết”của Hứa Thận là chỉ để hướng dẫn đọc đúng âm, mươn hai chữ lấy âm để “thiết”, là chỉ mượn âm chữ, đừng để ý đến nghĩa hai chữ đó, nghĩa thì phải theo phần giải thích, tức phần trà lời cho câu (Chữ… nghĩa là gì?), thực ra câu này không có, nên tôi để trong ngoặc đơn. Cứ vậy mà tra từng chữ theo Hứa Thận giải nghĩa và hướng dẫn đọc thì vô cùng nhiều, và toàn là Việt cả, cả nghĩa lần âm đọc. Nên chi chỉ đọc vài đoạn trong Lời nói đầu cúa sách Hứa Thận, cũng đã thấy lấp lóe lịch sử Việt ( Phần trong ngoặc đơn là tôi phân tích tại chỗ ngay, để bạn đọc dễ theo dõi) : Thời cổ đại, họ Phục Hy trị lý thiên hạ, nhìn hình trời, coi địa lý, quan sát hình tượng chim thú và mạch lý đất đai, gần thì lấy phép tự thân, xa thi lấy ở vật khác, trên cơ sở đó mà sáng tác ra Dịch và Bát Quái, dùng bói tượng để coi cát hung của người. Đến thời đại họ Thần Nông, dùng cách thắt gút dây thừng để ghi sự việc nhằm trị lý xã hội, quản lý sự vụ đương thời, các ngành nghề trong xã hội và các sự việc phức tạp càng ngày càng nhiều, phát sinh nhiều việc chưa rõ ràng…Khi đã sáng tạo ra chữ viêt, Vua sử dụng công cụ văn tự để càng tiện ban ơn trạch cho dân, còn thần dân thì dùng chữ để mà biết sống cho có đức chứ không phải tự thị rằng biết dùng công cụ là chữ rồi thì dựa nó để mà kiếm chác tước lộc. Chữ tạo ra thuở ban sơ là dựa vào vật mà vẽ ra hình thể vì vậy gọi là “văn” ( Kẻ=Vẽ=Viết=Văn. Đúng là có động tay làm trước rồi nó mới ra hình), sau đó mới xuất hiện các hợp thể là chữ “hội ý”, chữ “hình thanh” để tăng số lượng chữ, những thể sau đó thì gọi là “tự”. Gọi là “tự” vì nó được sinh ra ở “văn” ( Vuông=Vựa=Văn; Chửa=Chứa=Chữ=Trữ=Trự=Tự. Đúng là có cái vật để chứa là cái Vựa=Văn rồi thì mới có vật cần chứa ở trong nó là cái đang được Chửa, mà Chửa=Chữ=Tự, người ta còn đi cầu Tự để mong có con, Chửa chính là chỉ cái thai, còn người mẹ đang “mang thai” thì gọi là đang “có Chửa”, tức đang “có Tự” hay là đang tự có, những chữ “Tự” này viết khác nhau nhưng cái âm Việt thì vẫn giữ nguyên từ 5000 năm trước như vậy,Tự là do Chửa=Chữ=Tự là cái Chồi để làm ra con Người, nên con người là do cái Tế lớn dần dần lên mà sinh ra, sinh ra rồi ai cũng có cái Tên là một Từ gọi lên thành một Tiếng và kèm theo là Tự được viết bẵng Chữ. Và có Vựa rồi mới có vật Chứa ở trong tức Chửa chứ không phải là “mất bò rồi mới lo làm chuồng”, Vuông=Chuồng=Chứa=Vựa=Văn. Cái Vuông Chứa chính là Vựa Chữ, mà Vựa Chữ=Văn Tự, chữ vuông cũng chính là chữ của người Việt ! dù về sau được người Hán kế thừa, đổi hành văn theo ngữ pháp Hán vì vậy gọi nó là Hán Tự. Hành văn trong sách Thuyết Văn GiảiTự của Hứa Thận viết năm 100, cách nay gần hai ngàn năm, như trong phần “ Lời nói đầu” này, Hán ngữ hiện đại phải “dịch” mới ra, gọi là dịch từ cổ văn, vì chữ thì vẫn vậy nhưng hành văn thì không hoàn toàn như ngữ pháp Hán ngữ hiện đại. Nhưng trong sách này Hứa Thận còn nói đến cái còn “Cổ Văn” hơn, đó là “thứ chữ trong vách nhà Khổng Tử mà thời đó chỉ có Khổng Tử và các học sĩ của Khổng Tử là mới đọc hiểu được mà thôi”. Mà đời sau, tức đương thời của Hứa Thận, Hứa Thận còn nói trong sách này rằng: “Lắm kẻ ngu muội chẳng hiểu gì còn nói rằng thứ chữ đó chẳng qua là do các học sĩ của Khổng Tử ngụy tạo ra mà thôi , để làm cho các sách Kinh, do Khổng Tử biên soạn, mang vẻ huyền bí”). Đem văn tự viết trên ống tre ( vậy thời cổ đại kẻ sáng tạo ra chữ phải là của cư dân Việt ở phương nam mới có tre lớn chứ ở bắc Hoàng Hà của người Hán làm gì có tre?), viết trên lụa, gọi là “Thư”. Thư nghĩa là viết việc giống như sự của nó. Văn tự trải qua những năm tháng dài thời Ngũ Đế, Tam Vương có sửa đổi bút họa: Có tạo thêm dị thể, vì vậy tại 72 đời Vua tế thiên phong thiền ở Thái Sơn có lưu chữ khắc trên đá, thể chữ đều không giống nhau. Thời Xuân Thu sách Kinh do Khổng Tử soạn, rồi sách Tả Truyện do được tặng đều viết bằng Cổ Văn. Các học giả thời đó vẫn thông hiểu hình thể và ý nghĩa của Cổ Văn. Về sau đến thời Chiến Quốc thì cục diện là bảy nước hùng cứ các phương, đơn vị đo đạc đồng điền khác nhau, qui cách xe cộ cũng khác nhau, chế độ pháp lệnh khác nhau, quần áo mũ mão cũng qui định khác nhau, lời nói cũng phương âm khác nhau, chữ viết cũng khác nhau. ( Bởi vậy đến tận ngày nay Trung Quốc vẫn tồn tại bảy phương ngữ lớn khác biệt nhau, đủ thấy “ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ”). Lỗ Cống Vương 鲁 恭 王khi phá hủy nhà Không Tử, vô ý lấy được các cổ tịch. Cùng thời, một số quận huyện và nước chư hầu cũng khai quật được từ dưới đất lên rất nhiều bảo đỉnh và khí vật đời xưa, minh văn trên đó đều là Cổ Văn đời trước. Những tư liệu Cổ Văn đó đều tương tự nhau, tuy nói rằng không thể tái hiện được toàn mạo, nhưng cũng cho biết được đại khái tình trạng lưu hành rộng rãi Cổ Văn thời Tiên Tần. Người đời không biết, cực lực phủ định, thị hủy Cổ Văn, cho rằng Cổ Văn này là do người hiếu kỳ cố ý cải biên văn tự hiện hành mà viết ra, bịa ra chuyện đào được trong vách nhà Khổng Tử, ngụy tạo ra thứ chữ không thể đọc hiểu nổi; cho rằng Cổ Văn là ngụy biến chính tự, quấy loạn thường qui; cho rằng những người ủng hộ Cổ Văn đã mượn đó để làm cho có vẻ huyền diệu ở đời. Tần Thủy Hoàng tiêu diệt lục quốc, muốn thống nhất thành một chế độ, phế bỏ mọi văn tự không giống chữ của nước Tần . Lý Tư 李 斯 được cử ra phụ trách qui phạm văn tự. Bọn họ đều dùng thể chữ Đại Triện, có một số chữ bị giản hóa và sửa đổi thành ra thể chữ mà người ta gọi là Tiểu Triện. Lúc này Tần Thủy Hoàng đốt hết Kinh Thư, trừ diệt cổ tịch… thế là sản sinh ra Lệ Thư làm cho cách viết giản dị hơn, thể chữ Cổ Văn từ đó bị đình tuyệt. Pháp lệnh nhà Hán qui định học sinh sau 17 tuổi được bắt đầu ứng khảo, người thuộc lòng viết đọc thông thạo 9 nghìn Hán tự thì mới được làm Thư sử tiểu lại. Tiếp đó thi thư pháp cả 8 thể chữ. Sau khi thi ở quận xong chuyển lên trung ương, thái sử lệnh tái khảo thí. Người đạt thành tích tối ưu thì được làm thư ký Sở khu mật, công văn của quan sứ, Tần chương, văn tự mà viết không chính xác thì bị kiểm cử, trách phạt. Điều lệnh ấy đến nay tuy vẫn tồn tại nhưng khảo hạch thì bỏ, công phu với văn tự không được giảng tập nên hiện tượng sĩ tử không thông Hán tự xuất hiện kể cũng lâu rồi….
  10. Hà Nội dùng “đèn trừ tà” Trung Quốc trang trí ngày bầu Quốc hội, HĐNDTP? 22.05.2011 LTCG (22.05.2011) Không phải ngẫu nhiên mà ở Hà Lan có phố đèn đỏ, là phố giành cho các nhà chứa kinh doanh nghề “ bán hương, buôn phấn “… Không biết do vì yêu thích, lợi dụng vẻ đẹp của đèn lồng Trung Quốc, nên trong những ngày bầu cử Quốc hội, Hội đồng nhân dân thành phố ngày 22/5 năm nay, người dân Hà Nội lại được nhìn thấy đèn lồng Trung Quốc treo trang trí dọc đường phố Huế, đoạn phố Huế giao nhau với Đại Cồ Việt tới ngã tư Nguyễn Công Trứ… Đèn lồng Trung Quốc treo trước các cửa nhà của các cửa hiệu, các trụ sở các cơ quan, đoàn thể và trước cửa của các địa điểm bầu cử. Đèn lồng treo xem kẽ với những băngjôn ghi: Bầu cử Quốc hội và HĐND các cấp 22/5/2011… Việc treo đèn lồng Trung Quốc của Hà Nội trong dịp bầu cử Quốc hội và HĐND thành phố ngày 25/5/2011 là một việc làm kính chẳng bõ phiền; những chiếc đèn lồng này đã vô tình hay cố ý biến một con phố Hà Nội thành phố Tàu ? Mà cái quang cảnh này đập vào mắt hàng vạn cư dân Thủ đô Hà Nội trong nhiều ngày. Chưa kể theo một vài thông tin, giá một chiếc đèn lồng như vậy trên thị là 200.000 đ; với một dãy phố dài như phố Huế, cách vài mét một chiếc đèn lồng, dễ phải đến ngót nghét ngàn chiếc đèn lồng Trung Quốc đã được sử dụng…Cộng với tiền điện, tiền công treo dễ phải mất vài ba trăm triệu để mua sắm cái thứ xua đuổi tà ma ngoại đạo nhập về từ Trung Quốc chứ không phải chuyện chơi… Các cơ quan chức năng quản lý văn hóa Hà Nội nghĩ sao ??? Có thấy xót tiền dân không ?! Phúc Lộc Thọ. Nguồn: http://phamvietdaonv.blogspot.com/2011/05/ha-noi-dung-en-tru-ta-trung-quoc-trang.html
  11. Thượng Toạ Thích Chân Quang nói chuyện với Doanh nhân -------------------------------------------------------------------------------- ..."Nếu phúc đi trước Doanh nghiệp không bao giờ bị đình đốn. Phúc đi chậm vận hành Doanh nghiệp đi nhanh hơn thì sẽ bị đình đốn. Do đó từ ông chủ đến nhân viên phải tạo một phúc gì đó đi trước tốc độ vận hành của Doanh nghiệp. Đây là bí quyết dẫn đến sự thành công tăng trưởng lợi nhuận mà lòng ta cứ phơi phới bình an. Đây là quyết tâm của toàn doanh nghiệp không phải của riêng ông chủ."... Nhận lời mời của cô Huỳnh Hồng Hải – Giám đốc Câu Lạc Bộ CEO, chiều ngày 14/03/2011, TT Thích Chân Quang (BRVT) có buổi nói chuyện về chủ đề LỢI ÍCH THIỀN ĐỊNH CHO DOANH NHÂN, tại Câu Lạc Bộ Hà Nội (số 76 Đường Yên Phụ Hà Nội), với sự tham dự của 300 thành viên Câu Lạc Bộ CEO. Được biết, Câu Lạc Bộ CEO thành lập tháng 5/2007 do các Doanh nhân hàng đầu Việt Nam. Ông Đặng Thành Tâm – Chủ tich Tập đoàn Đầu tư Sài gòn là Chủ tịch Câu Lạc Bộ. Mục đích của CEO là tạo giá trị gia tăng cho CEO và Cộng đồng. Soạn theo bài nói chuyện của Hòa Thượng Thích Chân Quang: Chữ Thương 商là lướt “Thấu Xương” Là khi “nhìn ngoại biết đường làm trong” ( Theo giải tự của Hứa Thận) Những ai sự nghiệp kinh doanh Xưa nay đều biết làm gần bán xa Họ là nguyên khí quốc gia Nước nhà thịnh vượng đều là nhờ thương 傷,商 Họ mà thành đạt thương trường Đất nước mới vững con đường đi lên Doanh nhân đạo đức vững bền Chính họ là kẻ tạo nên anh hùng Họ có Phật pháp ở trong Như là Bồ Tát đem lòng thực thi Rủi ro chấp nhận mọi khi Gánh nền kinh tế đến khi trưởng thành Họ luôn liều lĩnh đi nhanh Kinh tế cũng vậy, đều thành rủi ro Đầu tư ai chắc mà dò Bước đầu đặt vốn, còn lo cuối cùng Tham số bí ẩn chen chung Sao lường hết được, đâu dùng kịp tay Tình hình thế giới ngày nay Sóng thần, động đất ngày ngày bất an Rối loạn xã hội tràn lan Những nước cường quốc cũng còn lâm nguy Ảnh hưởng tài chính tức thì Việt Nam bối cảnh khác chi toàn cầu Dân ta phải biết cùng nhau Cùng với nhà nước bắc cầu vượt qua Tham số bí ẩn chính là: Nhân Quả chi phối mọi nhà doanh nhân Doanh nhân mà có phúc phần Là do Âm Đức nó mần vận may Lòng họ phơi phới tương lai Vận khí tốt tỏa đến ngay mọi đàng Doanh nghiệp tiến triển vững vàng Công việc trôi chảy trên đàng thành công. Doanh nhân suy nghĩ mà nông Hẹp hòi, đố kỵ , lại không thiện tình Tham vọng vượt phước của mình Thì doanh nghiệp đó lình xình rối ren Tồn tại lay lứt là hèn Do hưởng quá khứ, bõ bèn gì đâu Kéo theo nhân sự khổ đau Doanh nghiệp sụp đổ, lời đầu tiên tri. Doanh nhân mà biết đường đi Phải lo xây phước từ khi bắt đầu Âm Đức đâu biết ít nhiều Nên phải xây dựng để chiều tương lai Phúc-Tội chi phối hoài hoài Vận hành doanh nghiệp phải bày nông sâu Doanh nhân giàu có vẫn đau Mục đích hạnh phúc biết đâu mà lần. Hạnh phúc trùm mọi khó khăn, Hạnh phúc trùm mọi thành công, thịnh giàu. Doanh nhân bản lĩnh làm đầu Mọi người đoàn kết dựa vào doanh nhân Cho dù tình huống khó khăn Tâm yên, mình vần an nhiên mỉm cười Bù phúc quá khứ lỗi thời: Trí tuệ, bản lĩnh, thương người như ta Khi ấy phúc sẽ sinh ra Phù hộ doanh nghiệp để mà đi lên Phúc mà đi trước như trên Vận hành doanh nghiệp sẽ luôn thông hành Một bí quyết của sự thành: Tạo phước đi trước, vận hành đi sau Chẳng cứ ông chủ phải theo Nhân viên cũng vậy, cùng nhau mà làm Trong lòng phơi phới bình an Lợi nhuận tăng trưởng, càng làm càng thêm Ông chủ giáo dục nhân viên Biết yếu tố phúc khắp trên cuộc đời, Gia đình, xã hội, nơi nơi Biết sống tử tế cho đời ấm no Thần thánh trên sẽ hộ cho Đó là bí quyết, nguyên do nhiệm màu. Thiền đem lợi ích cho nhau: Kiểm soát trí tuệ, soát vào cái tâm Lúc thương thảo gặp khó khăn Ta không nóng giận, tham lam, lo rầu Nên không mắc bẫy của nhau Cái trí thông tuệ, cái đầu xử phân Thiền giỏi mới thực doanh nhân Thiền cũng là thuốc nhân quần thế gian Thiền định kiểm soát cái tâm Giúp cho cả hệ tâm thần vệ sinh Ta nên hiểu trước chính mình Tâm linh, đạo đức làm binh đi đầu Dù rằng kỹ thuật ta sau Phần mềm đi trước đón đầu thế gian Tiên phong là những doanh nhân Kéo cả xã hội, Tâm linh và Thiền Việt Nam đi trước nêu gương Cho một thế giới huy hoàng mai sau.
  12. Thuyết Văn Giải Tự của Hứa Thận Nguồn: http://zh.wikipedia.org/wiki/說文解字 Trong cuốn Thuyết Văn Giải Tự của Hứa Thận, ở lời nói đầu ông viết có đoạn như sau. Ta hãy phân tích (phần viết trong ngoặc đơn) để thấy từ vựng Việt nhiều vô cùng, lặn sâu dưới số chữ nho ít hơn, mà về sau chữ nho ấy gọi là Hán tự. Hứa Thận viết: “Chu Lễ 《周礼》” qui định trẻ con 8 tuổi vào sơ đẳng học quán để học tập, được thầy dạy môn đầu tiên là “lục thư”. Tên gọi của lục thư gồm: 1.Thứ nhất gọi là “chỉ sự” tức chữ hình, nhìn kết cấu mà nhận ra nhưng cũng phải qua khảo sát mới biết được nghĩa mà chữ thể hiện, ví dụ chữ Thượng 上chữ Hạ 下 là kiểu chỉ sự . (Trong Việt ngữ thì Trên=Lên=Lâng-Lâng=Nâng=Tâng =Tầng 層=Thăng 升=Thượng上=Ngưỡng 仰=Ngẩng=Ngược 逆; Xuống=Xuôi=Duỗi=Dưới=Giáng 降=Háng=Hạ 下. Hán ngữ phát âm chữ Thượng 上 là “sang” và chữ Hạ 下là “xia”). 2.Thứ hai gọi là “tượng hình” tức dùng cách vẽ miêu tả vật thể giống như tư thế của nó trong tự nhiên, ví dụ chữ Nhật 日chữ Nguyệt 月 là kiểu tượng hình. (Trong Việt ngữ thì Blời=Trời=Giời=Chời=Chói=Rọi=Rực=Nhức=Nhật 日; Trăng=Thăng=Tháng=Sáng=Soi=Ngoi=Ngời=Nguyệt 月. Hán ngữ phát âm chữ Nhật 日là “rư” và chữ Nguyệt 月là “duê”) 3.Thứ ba gọi là “hình thanh” tức theo cách gọi và tính chất của sự vật mà chọn phù hiệu nghĩa và phù hiệu thanh tương ứng ghép lại thành một chữ, ví dụ chữ Giang 江 chữ Hà 河là kiểu hình thanh . (Chữ Giang 江 thì phần hình là hình nước của chữ Thủy 氵,phần thanh là mượn âm tương đương của chữ Công 工. Vậy chữ này phải đọc chính âm nguyên thủy của nó là Sông, vì trong Việt ngữ thì Krông=Sông=Ống=Cống=Dòng=Giang 江 . Vậy mà Hán ngữ lại đọc chữ Giang 江 ấy là “cheng” và chẳng có từ nào gốc ch… hay gốc…eng cùng mang khái niệm dòng nước với “cheng” cả. Chữ Hà 河 thì phần hình là hình nước của chữ Thủy 氵, phần thanh là mượn âm tương đương của chữ Khả 可. Mà trong Việt ngữ thì Sông=Suối=Khuổi=Khe=Khê 溪 =Khả=Hà 河 =Hói=Ngòi=Xói=Moi=Mương=Máng, đều là khái niệm dòng nước. Nhưng chữ Hà 河 ấy Hán ngữ đọc là “hứa” và chẳng có từ nào gốc h… hay gốc …ứa chung mang khái niệm dòng nước với “hứa” cả) 4.Thứ tư gọi là “hội ý” tức chọn hai chữ (đồng âm) có liên quan sự lý cấu thành một chữ phối hợp ý nghĩa để dẫn ra được nghĩa của chữ mới, ví dụ chữ Vũ 武 chữ Tín 信 là kiểu “hội ý”. (Chữ Vũ 武 phân tích trong Việt ngữ thì nguyên thủy của nó là chữ Múa, là một thế võ mà người thực hiện phải Dựa vào cái khí cụ là cái Rựa để làm, Dựa=Rựa=Múa. Chữ Rìu=Rựa=Khua=Khoe=Khoa 夸 =Qua 戈 chính là cái Qua 戈 đồng đang được lấy làm khí cụ biểu diễn, Hán ngữ phát âm chữ Qua 戈 này là “Cưa”. Chữ Dựa=Dừng, con người ta phải dựa vào cái đang dừng chứ không thể dựa (lưng) vào cái đang chuyển động. Dựa=Dừng=Đừng=Đình 停 =Chĩnh=Tĩnh 靜 =Tưng-Hửng=Chựng=Chỉ 止 (Chĩnh Chọe=Tĩnh Tọa), Hán ngữ phát âm chữ Chỉ 止 này là “trử”. Hai chữ Dựa và Rựa “hội ý” thành chữ Múa. Người múa biểu diễn khí cụ Rìu ấy phải là người chủ xới, nên Múa=Khua=Chúa=Chủ 主 =Vũ=Võ 武, Hán ngữ phát âm chữ Võ 武 này là “Vủ”. ( Nếu theo phát âm của Hán ngữ thì hãy cứ so sánh chữ “cưa 戈”, chữ “trử 止”, chữ “vủ 武” xem chúng có dính líu logic gì với nhau không?) Từ Múa có trước, từ Võ có sau, nên người Việt mới nói là Múa Võ chứ không ai nói là võ múa. Chữ nho Võ 武ấy chính là chữ của người Việt. Nội một chữ Võ 武 được tạo ra bằng kiểu “hội ý” của chữ Dựa 止 và chữ Rựa 戈 ấy đã cho thấy rằng thời tiền sử, người Việt đã mang Rìu 戈 đi mở mang nông nghiệp đến khắp Trường Giang và Hoàng Hà, một vùng rộng liền khoảnh ở 18 tỉnh của TrungQuốc ngày nay, mà điển hình nhất là sự mở mang của nước Sở. Chữ Tín phân tích trong Việt ngữ thì nguyên thủy của nó là chữ Tôi, do “hội ý” của hai chữ đồng âm là chữ Người亻, Hán ngữ phát âm là “rấn”, và chữ Lời 言 , Hán ngữ phát âm là “yán”. Người=Lời=Tôi, dẫn ra nghĩa là Tôi=Tin=Tín 信, Hán ngữ phát âm là “xin”. Đã tin thì chỉ có tin người và tin lời, và tin thì chỉ có tin tôi là nhất chứ chẳng lẽ tôi lại tin người khác hơn là tin tôi. (So sánh ba âm Hán “rấn亻”, “yán 言” và “xin 信” xem có logic không?).) 5.Thứ năm gọi là “chuyển chú” tức lập một chữ làm đầu coi như gốc rồi sáng chế chữ loại thuộc có ý nghĩa tương đồng với chữ gốc, ví dụ chữ Khảo 考 chữ Lão 老 là kiểu “chuyển chú”. (Trong Việt ngữ thì động tác xới đất để tìm kiếm là Cuốc=Cào=Khảo 考, nên chữ Khảo 考 có chữ gốc là bộ Thổ 土. Chữ Lão 老 cũng có chữ gốc là bộ Thổ 土, Tra=Già=Dão=Lão 老 =Lâu=Luôn=Lưu 留 =Cửu 久 =Cựu 旧 =Cũ=Cụ=Kỵ=Kỳ 耆). 6.Thứ sáu gọi là “giả tá” tức không tạo chữ cho vật hay việc cần diễn đạt mà mượn luôn chữ nào đó có sẵn đồng âm để đại diện cho nó, ví dụ chữ Lệnh 令 chữ Trưởng 长 là kiểu “giả tá”. (Chữ Lệnh 令 là mượn âm chữ Làm của Việt ngữ, Làm=Lệnh=Lịnh (Làm ông, làm bà còn gọi là Lệnh Ông, Lệnh Bà, “làm cho nó sướng” tức “lệnh cho nó phải sướng”), Hán ngữ phát âm chữ Lệnh 令 là “ling”. Chữ Trưởng 长 nghĩa là lớn , mượn chữ Trường 长 nghĩa là dài, đồng âm. Trong Việt ngữ thì Nậy=Đẫy=Lẩy=Lớn=Nhớn=Tợn=Tướng 将 =Trưởng 长; Dài=Doãng=Loãng=Luồng=Truông=Trường 长). Tóm lại là Hứa Thận soạn sách Thuyết Văn Giải Tự là để giúp cho người Hán đọc đúng âm chữ nho của người Việt như người Việt đọc. Chẳng thế mà trong sách đó có chữ Phiệt 伐( sau dùng trong từ ghép Chinh Phạt 征 伐 ) gồm “hội ý” bằng chữ Nhân亻 và chữ Qua 戈 mà lại đọc là Phiệt 伐, vậy chữ “Nhân” thành phần đó phải đọc là “Người Việt” thì chữ ấy mới đọc thành Phiệt 伐 được. Cũng trong sách đó Hứa Thận giải thích cách đọc chữ Việt 越 là: Vương 王 Phiệt 伐=(thiết)=Việt越, nghĩa là ông Vua 王 là Người亻 cầm Qua 戈 đi chinh Phạt 伐, đó chính là tộc Việt thời tiền sử. Hán ngữ phát âm chữ Việt 越 là “duê”, còn nếu theo phát âm của Hán mà đọc chữ Việt 越 theo qui tắc Hứa Thận hướng dẫn thì thành là “váng 王” “fá 伐”=(thiết)= “vá”. Cả hai âm “duê” và “vá” đều trật lấc với chữ Việt 越. Vậy chữ nho chỉ có thể là do người Việt làm ra đầu tiên. Vậy mà sách “ Việt Nam minh sử” (NXB Lao Động, xuất bản quí 4 năm 2003) viết: “Cuộc tiếp xúc đầu tiên với nền văn minh miền nam Trung Hoa…đó là làn sóng đầu tiên của nền văn minh Trung Hoa ào ạt tiến vào nước ta. Trong số dân tị nạn này có những người biết chữ Nho. Họ dạy chữ ấy…sau này gọi là từ Hán Việt”. Sách “Văn minh Việt Nam” (NXB Hội nhà văn và Công ty văn hóa Phương Nam xuất bản quí 2 năm 2005) viết: “…ở nước Việt Nam thời kỳ đá mới cũng kéo dài đến một thời kỳ muộn, và chính ảnh hưởng khai hóa của Ấn Độ và Trung Hoa đã tác động đến các cư dân vừa mới ra khỏi đồ đá và mới bắt đầu sử dụng đồ đồng…Người Việt Nam hiện nay chẳng qua chỉ là người Mường đã Hán hóa và chắc là lai giống nhiều”. Chán wá !
  13. Chữ Mình. Hứa Thận 許慎 (58 – 147) người Nhữ Nam tỉnh Hà Nam, thời Đông Hán nổi danh “Ngũ Kinh vô song Hứa Thúc Trọng 五 經 無 雙許 叔 重”. Ông viết cuốn “Thuyết văn giải tự 說 文 解 字” trong vòng 21 năm, hoàn thành năm 100 ( Vĩnh Nguyên năm thứ 11 nhà Đông Hán), qui nạp 540 bộ thủ, 9353 chữ nho và 1163 chữ nho dị thể, được 10516 chữ nho, lưu hành sách gốc này từ năm 100 – 121, sau đó thất truyền. Các sách khác do Hứa Thận viết như “ Ngũ Kinh dị nghĩa 五 經 異 義” ( tức là “Những nghĩa khác lạ trong Ngũ Kinh”. Tại sao có nghĩa khác lạ? Hẳn là vì những từ đó có gốc cổ là lời Việt); và cuốn “Chuân Nam Hồng Liệt giải cô 準 南 鴻 烈 解 詁” (tức là “Giải thích lời cổ của Hồng Lạc, tức của người Lạc Việt nước Hồng Bàng, vùng Chuân Nam”, Chuân Nam thuộc vùng hạ lưu Trường Giang) đều cũng bị thất truyền. Trong cuốn”Thuyết văn giải tự” của mình, Hứa Thận trong lời tựa có đoạn tự giới thiệu : Là miêu duệ họ Hứa, tổ tông có gốc từ Viêm đế, Thần nông. Viễn tổ từng phụ tá Hạ Vũ, hộ vệ nhà Chu, được vua Chu phong cho đất Hứa, nối dõi đời đời ở đó. Sau họ Hứa thiên di đến vùng Nhữ Nam, từ đó đích tông dòng họ Hứa sống bên bờ Nhữ Thủy. Sách “Thuyết văn giải tự” của Hứa Thận là hướng dẫn cách phát âm từng chữ bằng cách “thiết” tức là đọc “lướt” hai chữ mượn âm để đọc; và cách “phản thiết” tức là “lái” hai âm của hai chữ mượn âm để đọc một chữ cần đọc, như cách người Việt Nam vẫn nói lái ngày nay. Do “Trăm năm bia đá thì mòn, nghìn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ”, cái cách phát âm của mỗi cộng đồng nó vẫn tồn tại nguyên vẹn hàng nghìn năm. Hán ngữ hiện đại ngày nay (hoàn thiện từ bốn trăm năm nay) là một ngôn ngữ phong phú hoàn chỉnh có ngữ pháp chặt chẽ theo cấu trúc tư duy ngữ pháp Hán. Nhưng về phát âm của các cộng đồng thì vẫn tồn tại 7 phương ngữ lớn khác biệt nhau ở Trung Quốc, mà các nhà ngôn ngữ học Trung Quốc nhận định rằng 7 phương ngữ lớn đó đều bảo lưu nguồn rất lớn từ vựng của ngôn ngữ dân tộc Bách Việt thời cổ đại. Đặc biệt phương ngữ Quảng Đông, được gọi là Việt ngữ ( 粵 語 ), lấy âm chuẩn là âm Quảng Châu nên còn gọi là tiếng Quảng Phủ, được coi như là một loại ngôn ngữ độc lập, chủ yếu phân bố ở Hồng Kông, Áo Môn, đại bộ phận tỉnh Quảng Đông ( có đến 47 huyện thị người dân chỉ thuần nói tiếng Quảng Phủ), đông nam Quảng Tây và ở cộng đồng người Hoa hải ngoại. Sách “Thuyết văn giải tự” còn đến ngày nay dùng là sách biên soạn lại từ sách của Hứa Thận, biên soạn lại vào đời Tống đến đời Thanh. Từ đời Minh sách “Thuyết văn giải tự” biên soạn lại năm 1615 (Vạn Lịch thứ 43) chỉ dùng 214 bộ thủ. Đời Thanh có Khang Hy Tự Điển là kế thừa sách này, cũng dùng có 214 bộ thủ. Hán tự có 90% chữ là kiểu “hình thanh”, một trong lục thư, “hình” để biểu ý, là bộ thủ, nên cũng dùng để tra theo bộ; “thanh” là để biểu âm, là một chữ nào đó cho mượn âm để đọc. Trong sách “Thuyết văn giải tự”của Hứa Thận vô cùng nhiều chữ, nhất là những chữ cổ, nếu cứ đọc theo âm của người Việt Nam đọc chữ nho thì thấy cách “thiết” rất đúng âm, còn nếu đọc theo âm Hán ngữ hiện đại thì trật. Ví dụ chữ Điểu 鳥, Hứa Thận “thiết” cách đọc là Đô 都 Liễu 了=(lướt)=Điểu 鳥, còn Hán ngữ hiện đại phát âm là Tu Lẻo=(thiết)=Tẻo, thì sai, vì thực tế Hán ngữ hiện đại phát âm chữ Điếu 鳥 (tức con chim) là “Nẻo” chứ không phải là Tẻo như theo qui tắc “thiết” hay là Điểu như âm Việt Nam đọc đúng như Hứa Thận hướng dẫn . Chứng tỏ vào cái thời Đông Hán ấy ông Hứa Thận là người Việt, như ông đã tự giới thiệu về tiên tổ mình. Sách gốc của ông đã thất truyền, người đời sau trích lại, biên soạn chỉnh lý lại thì có nhiều từ được thay âm cho đúng phát âm của người Hán đương thời. Cũng là một trong lục thư, chữ kiểu “hội ý” thì hoàn toàn dùng “hình”, ví dụ chữ Tương 相 (Hán ngữ đọc là “xeng”) là ghép từ hai chữ kiểu “hình” là chữ Mộc 木 (nhìn giống như cái cây, tức cái đang Mọc) và chữ Mục 目 (nhìn giống như con Mắt). Hứa Thận giải thích cách đọc là Tức 息 Lương 良=(lướt)=Tương 相, Hán ngữ hiện đại phát âm Xi 息 Léng 良=(thiết)=Xeng 相 là cũng đúng qui tắc “thiết”. Và Hứa Thận giải thích nghĩa của chữ Tương 相 là “cùng mắt, cùng cây (nên) dễ nhìn”. Ngày nay tiếng Hán dùng Tương 相 trong từ “tương trợ”, tiếng Việt đọc là Nhau trong từ “giúp nhau”. Vậy chữ Tương 相 này nguyên nó là gốc Việt hay gốc Hán? Chữ Tương 相 này căn bản không có âm đọc vì nó là chữ tạo bằng “hội ý”. Tại sao lại lấy Mộc 木 với Mục 目 (mà Hán ngữ phát âm hai chữ này đều là “mù”) làm “hội ý”? Tại sao Mộc 木 với Mục 目 ghép với nhau lại không đọc bằng âm nào cùng gốc M ? Hóa ra “hội ý” của chúng thành ra nghĩa là “cùng” như Hứa Thận giải thích, “cùng” tức là “cùng Một” nên đã mượn hai chữ Mộc và Mục (Hán ngữ phát âm đều là “mù”) để thay cho âm “Một” của tiếng Việt mà người Hán không phát âm được (nếu bắt phát âm chữ “Một” họ sẽ phát âm thành hai chữ là “ Mô” “Thờ”). Hai chữ bất kỳ mà phát âm như nhau, đem ghép lại gần nhau thành một chữ thì cho nghĩa là “cùng” và ở trường hợp âm cụ thể này là “cùng Một”. “Cùng Một” tức rất gần nhau rồi nên mới cho nghĩa “dễ nhìn”. Thực ra cái nghĩa “cùng một” ấy chính là chữ “Mình” của tiếng Việt. Tiếng Việt có từ “Thân 身” do “Thể trên Chân”= (lướt)= “Thân”, nên mới còn có thêm các từ dính có gốc logic với Thân 身 để nói các sắc thái của Thân 身 như: Thon-Thả, Thộn-Thện, Thõng-Thượt ( chứ trong Hán ngữ làm gì có những từ dính có cùng gốc với Thân 身 mà diễn tả sắc thái của Thân 身 như ở tiếng Việt, họ chỉ có thể dịch được các sắc thái khái niệm như vậy nhưng bằng các từ ghép khác mà thôi, không cùng gốc với từ Thân身 , mà từ Thân 身 thì Hán ngữ phát âm là “sân”). Có từ Thân rồi mới có từ Mình, nên tiếng Việt còn có từ Thân Mình. Mà từ “Một Mình” lại chính là từ “Nhau” do cái cuống “nhau” là cái gắn cái bào thai với cơ thể mẹ để lấy dinh dưỡng, thành “một mình”. Người Việt vẫn nói “chúng mình”= “cùng nhau”, hay “giúp mình một tay”= “giúp nhau một tay”, “mình”=”nhau”, chồng gọi vợ là “mình ơi”, vợ cũng gọi chồng là “mình ơi”. Mình=Tình=Tương=Thương=Giường=Giềng=Thiêng=Thấu=Nhau. “Láng Giềng”= “Lân Tương”= “Gần Nhau”, mà cấu trúc theo Hán ngữ thì là “Tương Lân” (phát âm “xeng lín”). Trải qua hai ngàn năm, chữ 相 từ chỗ đọc là Mình đã chuyển thành đọc là Tương, nhưng nghĩa của nó trong tiếng Việt Nam vẫn là “Nhau” và có cùng nôi khái niệm gồm các nghĩa từ Nhau đến Mình rất có logic theo QT, như đã dẫn ở trên. Và từ Nhau đến Mình cũng chính là tuần tự lớn lên của cái thai trong bụng mẹ cho đến khi ra đời thành Mình, thật thấu, thật thiêng, thật tình thương. Có ngôn ngữ nào có QT diễn tả được như vậy không? Cho nên dù ở đâu người Việt vẫn nhớ về nơi “chôn nhau cắt rốn” của Mình.
  14. Địa bàn của người Lạc Việt Trích: “Thòi đại Ngũ Lĩnh: Đời Viêm Đế thứ ba vì sức bành trướng của Hoa tộc Đế Minh truyền ngôi cho con là Đế Nghi rồi đem một số bộ lạc Miêu và Thái đi xuống vùng năm hồ năm núi. đấy là cuộc Nam tiến thứ nhất lập ra nước Xích Quỷ gồm ba hệ: - Hệ Âu Việt (Thái) ở Tứ Xuyên, Quý Châu, Vân Nam, Miến Điện. - Hệ Miêu Việt ở giữa thuộc các tỉnh Hồ Bắc, Hồ Nam, Giang Tây. - Hệ Lạc Việt ở Chiết Giang, Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây, Bắc Việt, Trung Việt (1). Thời đại Phong Châu: lập ra Văn Lang… tiếp đến là Hán thuộc.” Thử nghe trong tiếng chửi của người Quảng Đông có thấy được gợi ý gì chăng? Người Lạc Việt quan niệm bào thai khi đang lớn dần lên để có đủ các bộ phận của cơ thể là do “bà mụ nặn”. Có “nặn” mới nên “nòi” mà hai vật để tạo nòi là cái “nõn” (âm vật) và cái “nường” (dương vật). Cặp Nõn/Nường=Lồn/Lường=Nồn/Lang, mà Nồn=Dôn=Yoni và Lang=Linga lại là cặp Yoni/Linga của người Chăm. Người Quảng Đông gọi cái “nường” (dương vật) ấy là “nán”, là một từ tục dùng trong câu chửi hoặc nhấn mạnh một cách thô lỗ, cách dùng cũng như trong tiếng Việt vẫn dùng, ví dụ: có “nán” cơm ăn tức là nhấn mạnh: chẳng có cơm ăn. Từ tục luôn là từ gốc của mỗi ngôn ngữ. Từ “nán” này là của riêng tiếng Quảng Đông chứ nó không có trong tiếng Hán, nhưng nó lại có gốc là từ tiếng Việt Nam là cái “nường”, bởi vì người Quảng Đông có gốc từ người Lạc Việt. Từ “nặn” mà Bà Mụ dùng để “nặn” ra người ấy đến cách nay hàng vạn năm người Việt dùng cho động tác làm gốm là “nặn”, chữ nho viết là 撚 hoặc 捏(Hán ngữ phát âm là “nián”). Chữ 撚 được mượn (giả tá) trong tiếng Quảng Đông để gọi cái “nán” (dương vật) trong câu nói tục. Còn cái âm vật trong câu chửi của tiếng Quảng Đông lại là cái “hai” mà nó lại là gốc từ cái “hi” (âm vật) của người Tày-Thái. Cái “hai” là một từ gốc ấy của người Quảng Đông cũng không có chữ viết nên phải mượn chữ Đoài là phía Tây, viết Đoài 西 mà đọc là “hai” để nói cái “hai”, còn để gọi hướng thì đọc là “Sài”. Chỉ nội hai từ trong tiếng chửi, đương nhiên là từ gốc nhất trong ngôn ngữ, là “Nán” (dương vật) và “ Hai” (âm vật) đủ cho thấy thủy tổ của tộc người Quảng Đông là bố Việt mẹ Tày, đó chính là giống Rồng với giống Tiên của người Lạc Việt. Tiếng Quảng Đông cũng dùng từ “câu”, nghĩa là dương vật, có gốc là từ “cặc” của tiếng Việt để chửi. Tiếng chửi “câu” ấy cũng không có chữ nên mượn chữ chim Câu 鳩 để thế. Từ Lẹo=Đéo=Cheo=Gieo (gieo giống)=Giao trong tiếng Việt dùng để nói động tác giao cấu, chọn riêng từ “Đéo” để chửi hoặc nói tục. Từ để chửi “Đéo” ấy sang tiếng Quảng Đông là “Tỉu”, cũng không có chữ nên tiếng Quảng Đông phải tự tác ra chữ để gọi “Tỉu” (giao cấu) bằng cách ghép chữ Thây 尸, bên dưới có chữ Treo 吊 để nói cái vật lủng lẳng ở dưới, là chữ 屌 đọc là “Tỉu”. (Tiếng chửi ví dụ “Tỉu Hai 屌 西” nghĩa là “Đéo Hi”). Cũng vậy, tiếng tục “Đếch” của tiếng Việt khi truyền đến Quảng Đông thì thành “Txách” và phải mượn chữ Thất 七 để mà làm “giả tá”.
  15. Thử nghe trong tiếng chửi của người Quảng Đông có thấy được gợi ý gì chăng? Người Lạc Việt quan niệm bào thai khi đang lớn dần lên để có đủ các bộ phận của cơ thể là do “bà mụ nặn”. Có “nặn” mới nên “nòi” mà hai vật để tạo nòi là cái “nõn” (âm vật) và cái “nường” (dương vật). Cặp Nõn/Nường=Lồn/Lường=Nồn/Lang, mà Nồn=Dôn=Yoni và Lang=Linga lại là cặp Yoni/Linga của người Chăm. Người Quảng Đông gọi cái “nường” (dương vật) ấy là “nán”, là một từ tục dùng trong câu chửi hoặc nhấn mạnh một cách thô lỗ, cách dùng cũng như trong tiếng Việt vẫn dùng, ví dụ: có “nán” cơm ăn tức là nhấn mạnh: chẳng có cơm ăn. Từ tục luôn là từ gốc của mỗi ngôn ngữ. Từ “nán” này là của riêng tiếng Quảng Đông chứ nó không có trong tiếng Hán, nhưng nó lại có gốc là từ tiếng Việt Nam là cái “nường”, bởi vì người Quảng Đông có gốc từ người Lạc Việt. Từ “nặn” mà Bà Mụ dùng để “nặn” ra người ấy đến cách nay hàng vạn năm người Việt dùng cho động tác làm gốm là “nặn”, chữ nho viết là 撚 hoặc 捏(Hán ngữ phát âm là “nián”). Chữ 撚 được mượn (giả tá) trong tiếng Quảng Đông để gọi cái “nán” (dương vật) trong câu nói tục. Còn cái âm vật trong câu chửi của tiếng Quảng Đông lại là cái “hai” mà nó lại là gốc từ cái “hi” (âm vật) của người Tày-Thái. Cái “hai” là một từ gốc ấy của người Quảng Đông cũng không có chữ viết nên phải mượn chữ Đoài là phía Tây, viết Đoài 西 mà đọc là “hai” để nói cái “hai”, còn để gọi hướng thì đọc là “Sài”. Chỉ nội hai từ trong tiếng chửi, đương nhiên là từ gốc nhất trong ngôn ngữ, là “Nán” (dương vật) và “ Hai” (âm vật) đủ cho thấy thủy tổ của tộc người Quảng Đông là bố Việt mẹ Tày, đó chính là giống Rồng với giống Tiên của người Lạc Việt. Tiếng Quảng Đông cũng dùng từ “câu”, nghĩa là dương vật, có gốc là từ “cặc” của tiếng Việt để chửi. Tiếng chửi “câu” ấy cũng không có chữ nên mượn chữ chim Câu 鳩 để thế. Từ Lẹo=Đéo=Cheo=Gieo (gieo giống)=Giao trong tiếng Việt dùng để nói động tác giao cấu, chọn riêng từ “Đéo” để chửi hoặc nói tục. Từ để chửi “Đéo” ấy sang tiếng Quảng Đông là “Tỉu”, cũng không có chữ nên tiếng Quảng Đông phải tự tác ra chữ để gọi “Tỉu” (giao cấu) bằng cách ghép chữ Thây 尸, bên dưới có chữ Treo 吊 để nói cái vật lủng lẳng ở dưới, là chữ 屌 đọc là “Tỉu”. (Tiếng chửi ví dụ “Tỉu Hai 屌 西” là “Đéo Hi”). Cũng vậy, tiếng tục “Đếch”của tiếng Việt khi truyền đến Quảng Đông thì thành “Txách” và phải mượn chữ Thất 七 để mà làm “giả tá”.
  16. Thượng Toạ Thích Chân Quang nói chuyện với Doanh nhân -------------------------------------------------------------------------------- ..."Nếu phúc đi trước Doanh nghiệp không bao giờ bị đình đốn. Phúc đi chậm vận hành Doanh nghiệp đi nhanh hơn thì sẽ bị đình đốn. Do đó từ ông chủ đến nhân viên phải tạo một phúc gì đó đi trước tốc độ vận hành của Doanh nghiệp. Đây là bí quyết dẫn đến sự thành công tăng trưởng lợi nhuận mà lòng ta cứ phơi phới bình an. Đây là quyết tâm của toàn doanh nghiệp không phải của riêng ông chủ."... Nhận lời mời của cô Huỳnh Hồng Hải – Giám đốc Câu Lạc Bộ CEO, chiều ngày 14/03/2011, TT Thích Chân Quang (BRVT) có buổi nói chuyện về chủ đề LỢI ÍCH THIỀN ĐỊNH CHO DOANH NHÂN, tại Câu Lạc Bộ Hà Nội (số 76 Đường Yên Phụ Hà Nội), với sự tham dự của 300 thành viên Câu Lạc Bộ CEO. Được biết, Câu Lạc Bộ CEO thành lập tháng 5/2007 do các Doanh nhân hàng đầu Việt Nam. Ông Đặng Thành Tâm – Chủ tich Tập đoàn Đầu tư Sài gòn là Chủ tịch Câu Lạc Bộ. Mục đích của CEO là tạo giá trị gia tăng cho CEO và Cộng đồng. Mở đầu bài nói chuyện, Thượng tọa nêu cao vai trò hết sức quan trọng của Doanh nhân trong việc xây dựng nền kinh tế quốc gia. Từng doanh nhân thành công thì cả quốc gia mới cất bước đi lên. Nếu người Doanh nhân sống có đạo đức, có lý tưởng thì họ không khác gì một anh hùng trên chiến trường và trong Phật pháp thì họ không khác gì một vị Bồ Tát. Theo quan điểm của Thượng toạ, “Nền kinh tế Quốc gia đặt trên đôi vai của người Doanh nhân, mà người Doanh nhân thì chấp nhận rủi ro và liều lĩnh. Điều đó đồng nghĩa nền kinh tế Quốc gia đặt lên sự liều lĩnh. Bởi vì khi đầu tư thì không ai dám biết chắc được kết quả cuối cùng, kể cả những người giỏi kiến thức về kinh tế nhất, ví dụ như một Tiến sĩ hay một người đạt giải Nobel về kinh tế. Mọi việc vấn có những tham số bí ẩn chen vào làm ta không lường hết được, không trở tay kịp”. Hiện nay, chúng ta đang ở vào thời điểm hết sức khó khăn của thế gới. Đó là trận động đất, sóng thần vừa xảy ra ở Nhật Bản. Cả thế giới đau xót trước sự kiện này. Một sự kiện nữa là nền kinh tế của các quốc gia lớn Âu Mỹ đang lần lượt sụp đổ, đang đứng trên bờ vực nguy hiểm, ảnh hưởng đến cả hệ thống tài chính toàn cầu. Trong bối ảnh đó Việt Nam ta cũng không tránh khỏi bị ảnh hưởng. Trước mắt là là đối diện với sự lạm phát. Toàn dân ta phải chuẩn bị tâm lý cùng Nhà nước đi qua khó khăn này. Trong buỗi nói chuyện, Thượng toạ luôn nhấn mạnh đạo đức của người Doanh nhân và cho rằng “Tham số bí ẩn chi phối mọi hoạt động của doanh nghiệp đó là Luật Nhân Quả, là Phúc của người doanh nhân”. Khi một người làm Doanh nghiệp có vận khí mạnh, thẩm sâu người này tử tế, vận số của người đó tốt tức là phúc quá khứ tốt. Tâm hồn người đó tốt tức là tương lai tốt, doanh nghiệp sẽ thành công; khi nhìn một Doanh nhân thấy có yếu tố như vận khí đang có tức là công việc đang trôi chảy, nhưng nếu trong tâm hồn người này có sự hẹp hòi, có yếu tố kiêu ngạo, ngang tàn, đôi khi tham vọng vượt trên phước của mình thì Doanh nghiệp tồn tại không lâu lắm, đến lúc nào đó sẽ gẫy đổ vì đang hưởng phúc của quá khứ. Và khi Doanh nghiệp gẫy đổ sẽ kéo theo thân phận của nhiều người rơi vào khốn cùng. Đã hiểu tường tận yếu tố PHÚC - TỘI chi phối hoạt động của Doanh nghiệp, ta vỡ ra nhiều vấn đề trong việc vận hành Doanh nghiệp. Nhưng không ai biết rằng phúc quá khứ ta làm nhiều hay ít nên ta phải lo liệu ngay từ bây giờ. Sự thật, Doanh nhân mặc dù giàu có và thành đạt nhưng vẫn đau khổ. Mục tiêu là Doanh nhân phải có hạnh phúc. Hạnh phúc trùm lên cả sự giàu có, thành đạt, lúc đi qua khó khăn ta vẫn mỉm cười. Người Doanh nhân phải đứng vững cho mọi người nương tựa vào mình nên phải có bản lĩnh làm cho mình bình an. Để bù được phúc quá khứ và để vận hành doanh nghiệp, ngoài trí tuệ và bản lĩnh người Doanh nhân cần có một tấm lòng yêu thương con người. Khi ấy Phúc sinh sôi nảy nở và bảo vệ Doanh nghiệp. Nếu phúc đi trước Doanh nghiệp không bao giờ bị đình đốn. Phúc đi chậm vận hành Doanh nghiệp đi nhanh hơn thì sẽ bị đình đốn. Do đó từ ông chủ đến nhân viên phải tạo một phúc gì đó đi trước tốc độ vận hành của Doanh nghiệp. Đây là bí quyết dẫn đến sự thành công tăng trưởng lợi nhuận mà lòng ta cứ phơi phới bình an. Đây là quyết tâm của toàn doanh nghiệp không phải của riêng ông chủ. Để tạo phúc cho toàn Doanh nghiệp, ông chủ phải giáo dục cho toàn thể nhân viên về yếu tố phúc. Từng cá nhân người nhân viên phải sống tử tế không chỉ ở công ty mà ở cả trong gia đình và xã hội. Tất cả cùng góp phúc của mình vào công ty. Khi đó thần thánh ở trên sẽ gia hộ cho công ty. Đây là sự linh thiêng mầu nhiệm. Cần nhớ kỷ một điều: Nếu phúc ta tạo chưa nhiều nhưng nếu mọi người có tâm linh mạnh, có tâm hồn yêu thương tử tế với con người, chỉ với đức đó thôi Thần Thánh sẽ gia hộ cho ta, làm cho Doanh nghiệp phát triển thành công và Doanh nhân được bình an. Sau đó, Thượng toạ nhấn mạnh về LỢI ÍCH THIỀN CHO DOANH NHÂN. Để có tâm linh mạnh, Thiền định là người bạn đồng hành của Doanh nhân trong suốt hoạt động của Doanh nghiệp. Thiền cho ta ít nhất hai điều tốt, đó là sự kiểm soát tốt về cảm xúc và có trí tuệ. Ví dụ trong quá trình đàm phán thương thảo, nếu ta gặp phải đối tác không tốt nhưng do có cảm xúc tốt người Doanh nhân không nóng giận, không tham lam, không mất bình tĩnh, nhờ vậy mà không lọt vào bẫy của họ. Thiền cho ta một trí tuệ tốt: Người Doanh nhân biết được vấn đề mà không phải tốn công đi điều tra và có phương án xử lý tốt. Vì vậy người Doanh nhân phải biết tu Thiền mới là người Doanh nhân giỏi. Ngoài ra, Thiền là tương lai của nhân loại. Càng lúc người ta càng khám phá ra rằng việc kiểm soát tâm hồn của mình thông qua Thiền định là một giải pháp vệ sinh thần kinh cực kỳ quan trọng, giảm bớt những bệnh về thần kinh và tâm thần. Người nào khôn thì mới đi trước, đón trước, làm trước để thế giới đi sau mình. Trong kỹ thuật ta đã đi sau thế giới rất nhiều, nhưng lần này trong lĩnh vực tâm linh, đạo đức ta sẽ không đi sau thế giới nữa mà phải đi trước thế giới. Trong lĩnh vực tâm linh thiền định này, ta nguyện với nhau sẽ đi trước để dẫn dắt thế giới, làm gương cho thế giới. Chính những người Doanh nhân là những người tiên phong trong việc đi trước đón đầu thế giới về Tâm linh và Thiền định. Từ đó ảnh hưởng lan tốt trong cộng đồng xã hội, khiến Việt Nam sẽ đi đầu trong Tâm linh và Thiền định. Trước khi kết thúc buổi nói chuyện, Thượng toạ hướng dẫn phương pháp thực hành Thiền định và một số động tác khí công để tăng sức khỏe cho tất cả thành viên Câu Lạc Bộ CEO. Buổi nói chuyện về Thiền dành cho Doanh nhân đã giúp cho họ vỡ ra nhiều điều thật thú vị và có lợi ích trong nghề nghiệp. Người doanh nhân có cơ hội vệ sinh thần kinh, thanh lọc tâm hồn trên cuộc chiến xây dựng mà mãi mãi không dừng lại được.
  17. Nguồn gốc từ “Giao Chỉ”: Bản thân từ Giao Chỉ nói lên sự giao lưu hình thành nên văn hóa.Trong các cặp Âm/Dương của tiếng Việt như cặp Nõn/Nường còn có các cặp Cái/Cộc, Nái/Nọc, Mái/Mồng, Bu/Bố v.v. Mà Bố=Phò=Phụ 父 =Đụ=Đéo=Lẹo=Chéo=Chung= =Chạ=Chỗ=Chỉ 址 =Chợ=Cheo=Gieo=Giao 交 =Giữa=Vừa=Vặn=Vùng=Vuông=Văn 文 =Vi 囗 =Vây=Quây=Cõi=Cái=Kẻ (địa danh Lạc Việt có nhiều Kẻ…, cũng có lắm Cái… như Cái Sắn, Cái Nước v.v., “ Bố Cái Đại Vương” là “vua lớn làm bố một vùng”). Từ ghép: Vừa-Vặn, Vuông-Vắn, Chung-Chạ, Chỗ Giữa. Từ Chỗ Giữa bị Hán hóa về cấu trúc thành Giữa Chỗ = Giao Chỉ, viết là 交 址 nghĩa là Vùng 址 Giữa 交. Về sau có những Hán thư viết Giao Chỉ không bằng chữ “Chỉ 址” bộ đất 土 mà bằng chữ “Chỉ 趾” bộ chân 足 nghĩa chữ “Chỉ 趾” ấy là “ngón chân”, để giải thích miệt thị Giao Chỉ 交 趾 là dân có ngón chân cái tẽ ra giao nhau, ( thực tế là dân lúa nước vẫn đi chân đất làm ruộng, kể cả người Liêu là hậu duệ của Lạc Việt ở Hồ Nam và Tứ Xuyên vẫn quen đi chân đất), nhưng cách viết mượn đồng âm dị chữ ấy lại chỉ ghép thành được một động từ ( “giao- chỉ 交- 趾” là: “giáp nhau 交- ngón chân 趾”, là một động từ thì không thể dùng để gọi vùng đất được), chứ không phải là một danh từ ( “giao- chỉ 交- 址” là “Chỗ 址- Giữa交”, ghép tạo danh từ thì cấu trúc Hán ngữ ngược với cấu trúc Việt ngữ, là danh từ thì mới có thể dùng làm địa danh được) . Giải thích ngôn từ như trên có thể trả lời lại mục chú thích 5: 5- Tính trạng Giao Chỉ : đó là tính trạng di truyền thể hiện bằng hai ngón chân cái của bàn chân chìa ra, chạm nhau khi người đứng thẳng. Sử liệu Trung Hoa chưa từng ghi nhận tính trạng giao chỉ trong cộng đồng bách việt từ ngàn xưa đến nay. (Theo: Cập nhật lúc 19 Tháng chín 2008 - 05:01 AM Lược Sử Cổ Đại Việt Nam, Tác giả: Tranghuyendo_Techno http://www.lyhocdongphuong.org.vn/diendan/...da_i/t1280.html ) Giải thích “tính trạng di truyền” như trên của Techno không đúng với khoa học. Trái dưa hấu vuông hoặc hình thỏi vàng chẳng qua là do khuôn, nếu lấy hạt của trái dưa dị dạng do khuôn đó đem trồng thì vẫn cho ra những trái dưa bình thường. Qúi tộc người Hán xưa đàn bà có tục bó bàn chân từ nhỏ, về già bàn chân họ vẫn bé tí, đi đôi giày vải như giày trẻ con, không đỡ nổi cơ thể nặng nề nên đi nhúc nhắc như người có tật.Tuy vậy con cái họ đẻ ra bàn chân vẫn đẹp và bình thường. Người Việt nếu mà ở vùng có thổ nhưỡng là đất thịt quánh như đất sét, ướt thì rất trơn, đi chân đất, nhất là khi gánh nặng, phải bấm xuống bùn trơn khỏi té, ngón chân cái chịu lực nhiều nhất nên cứ tòe dần ra thành tật. Nhưng con cái họ đẻ ra bàn chân vẫn các ngón suôn đẹp như thường, nhỏ lên thành phố học, không phải làm ruộng, chân vẫn đi giày Gia Định oách như Tây, oai hách=(lướt)=oách.
  18. Các bộ thủ là thành tố tạo chữ nho, nếu giải thích dẫn theo Qui tắc tạo ngôn từ Việt (QT) sẽ thấy chúng là gốc Việt. Thứ tự trong mỗi dòng dưới đây là: Nghĩa - Chữ nho - (âm Hán) - ÂM VIỆT : giải thích bằng QT. Ví dụ: Mở mồm 凵 (kan) KHẢM : khai mõm=(lướt)=KHẢM Hang để ở 厈 (han) HÃN : hang náu ẩn=(lướt)=HÃN Vây 囗 (wéi) VI : vuông=vùng=VI=vây=quây=cõi=quanh=khoanh=khuông=khung Đêm 夕 (xi) TỊCH : đêm=đẵm=tối-tăm=tối mịt=(lướt)=TỊCH Cái che 宀 (mián) : mái hiên=(lướt)=MIÊN Khăn巾 (jin) CÂN : cái khăn=(lướt)=CÂN Cái mộc 干 (gan) CAN : cái cản=(lướt)=CAN Em bé 幺 (yao) YÊU : em út yếu=(lướt)=YÊU Che chở 庵 (an) AM : ẵm=ôm-ấp=AM Cúng 廾 (gong) CỦNG : vái=cúng quải=cúng=CỦNG Dẫn 廴(yin) DẪN : dắt=dìu-dắt=dẫn=DẪN Dây cung 弋 (yì) DỰC : dây bựt=(lướt)=DỰC Cung 弓 (gong) CUNG : cong=vòng=vòng-vèo=queo=quành-quèo=CUNG Lòa xòa 彡(shan) SAM : lòa-xòa=loàm-xoàm=xồm-xoàm=sồm-soàm=SAM Nhấc chân 彳(chí) XÍCH : nhấc=nhích=xê-xịch=(lướt)=XÍCH Chữ 文 (wén) VĂN : chữ=chứa=vựa=vuông=vuông-vắn=VĂN Nhóm người nhà 戶 (hù) HỘ : túm-tụm=to=họ=HỘ Ngày 日 (rì) NHẬT : blời=lói=chói=rọi=rực-rỡ=rực=nhức=NHẬT Vuông方 (fang) PHƯƠNG : phẳng vuông=(lướt)=PHƯƠNG Thiếu 欠 (qian) KHIẾM : khá hiếm=(lướt)=KHIẾM Lửa 火 (huo) HỎA : lả=lửa=li=lễ=hè=hạ=HỎA=hửng=hồng=hừng-hực=phừng=bừng Trâu 牛 (níu) NGƯU : tlâu=trâu=ngầu=NGƯU Cho biết 示 (shì) THỊ : thấy thì chỉ=(lướt)=THỊ Ốm 疮 (chuáng) NẠCH : nhọc=nhằn=nản=nằm=nằm ệch=nằm ạch=(lướt)=NẠCH Đồ đựng 皿 (min) MINH : mâm=mâm rinh=(lướt)=MINH Mũi tên 矢 (shi) THỈ : tên=tiễn=then=thoi=THỈ Dáo có móc 矛 (máo) MÂU : móc câu=(lướt)=MÂU Già 老 (lao) LÃO : trước= tra=già=giỗ=lồ=lớn=lâu=lớn-lao=LÃO=lãnh=lĩnh Đến cùng 至 (zhì) CHÍ : chót=chót-chét=chót chứ=chót chớ=chót chi=(lướt)=CHÍ Cái cối臼 (jiu) CỮU : cối=cối gạo=(lướt)=CỮU Chạy 走 (zou) TẨU : đi mau=ti mau=(lướt)=TẨU Ngừng 艮 (gèn) CẤN : dừng=khựng=cựng hẳn=(lướt)=CẤN Che 覀 (xìa) Á : lá=Á Hang 谷 (gu) CỐC : cái hốc=(lướt)=CỐC Con heo 豕 (shi) THỈ : thịt lợn ỷ=(lướt)=THỈ Gọn 齐 (qí) TỀ : xếp=xấp=tập=tấp=tấp gọn-gàng= tấp gọn-ghẽ=(lướt)=TỀ Rồng 龙 (lóng) LONG : klan=tlăn=rắn=rắn mồng=(lướt)=rồng=lồng-lộn=LONG Rùa 鬼 (gui) QUI : rùa=rù-rì=con chậm rì=con rì=(lướt)=QUI Thân 身 (shen) THÂN : thẳng trên chân=(lướt)=THÂN=thon=thon-thả=thõng-thượt Chim 隹 (zhui) CHUY : chim=chim quí=(lướt)=CHUY Con chim 禽 (qín) CẦM : con chim=(lướt)=CẦM Âm 音 (yin) ÂM : ồn=ồn-ào=ầm-ầm=ÂM Cửa 門 (mén) MÔN : cái đưa=(lướt)=cửa=mửa=mõm=mồm=MÔN Xương 骨 (gu) CỐT : xương=cương=cứng=cột=cái cột=(lướt)=CỐT Đánh 鬥 (dòu) ĐẤU : đánh=đấm=đả=đánh nhau=(lướt)=ĐẤU Đất mặn 鹵 (lu) LỖ : đất=lật=lầy=lầy-lội=lợ=LỖ Đen 黒 (hei) HẮC : đen=hoen=hun=hoen-hoẻn=hoẻn đặc=(lướt)=HẮC Vàng 黃 (huáng) HOÀNG : vàng=hun vàng=(lướt)=HOÀNG Cái trống 鼓 (gu) CỔ : cái cối gõ=(lướt)= CỔ ; cối gõ=cối vỗ=cổ vũ 鼓舞 (còn tiếp)
  19. 1.Hành MỘC trong Ngũ Hành ứng với NHÂN (仁) trong Ngũ đức: MỘC: Mộc=Mọc=Cọc=Cây=Cơn=Nhơn=NHÂN=Xuân (mùa Xuân) NHÂN (仁 ), biểu ý bằng ghép các bộ thủ của chữ nho : Làm người ( 亻 ) đứng đắn thẳng ngay Cư xử NHÂN (仁) đức như hai (二) vợ chồng. Và ứng với các tố khác trong các lĩnh vực khác, dẫn theo QT (qui tắc tạo từ Việt): MỘC (thiên văn)=Lộc=Lục (màu)=Le (giai đoạn: sinh Dương cực)=Lói=Nòi=Nẻ=Đẻ (nảy sinh năng lượng)=Đông(hướng)=Sống=Sao=Sáng=Sanh=Thanh (vật biểu:THANH LONG)=Xanh=Xuân (mùa)=Xinh=TINH=Sinh (trạng thái)=Sớm (thời gian trong ngày)=Đởm (lục phủ)=Chớm=Chua (vị)=Chó (vật nuôi)=CHẤN (bát quái, tượng Sấm)=Nhân (ngũ đức)=Phân (ngũ tân)=Gân (cơ thể)=Gan=Can (ngũ tạng)=Cân=Cẩu=Cứt=Ca (giọng)=Ba (số 3 Hà Đồ, số 3 Cửu Cung)=Dã=Dài (thế đất)=DẦN (thập nhị chi)=Mận (trái cây)=Mật=Mắt (ngũ khiếu)=MÃO (thập nhị chi)=Mì (ngũ cốc: lúa mì)=Mi (nốt nhạc) =Mủn=Bùn=Bốn (cửu cung số 4)=TỐN (bát quái, tượng Gió)=TUẾ (sao TUẾ TINH)=Tồn=Bốn (số 4 Cửu Cung)=Ôn=ẤT (thập can)=Ấm (thời tiết)=Áp=GIÁP (thập can)=Gió=Giận ( xúc cảm)=Hận=Sân 2. Hành HỎA trong Ngũ hành ứng với LỄ (禮) trong Ngũ đức: HỎA: Lả=Lửa=Ly=LỄ=Hè=HỎA=Hạ (mùa Hạ) LỄ ((禮), biểu ý bằng ghép các bộ thủ của chữ nho: Người hơn vật có áo ( 衤) quần LỄ (禮) là đời sống tinh thần phú phong (豐) Và ứng với các tố khác trong các lĩnh vực khác, dẫn theo QT (qui tắc tạo từ Việt): LY (bát quái, tượng Lửa)=Lửa=Trưa (thời gian trong ngày)=Trời=Trải (mở rộng năng lượng)=Trưởng (trạng thái)=Trường (lục phủ)=Dương (cực dương)=Doi (thế đất nhọn)=Rọi=Rực=Ruột=Rồi (giai đoạn: hoàn chỉnh Dương cực)=Hôi=Hãn (ngũ tân)=Hai (số 2 Hà Đồ)=Hè=Hạ (mùa)=Lả=Lộ=Ló=NGỌ (thập nhị chi)=Đỏ (ngũ sắc)=Đắng (ngũ vị)=Đậu (ngũ cốc)=ĐINH (thập can)=BÍNH (thập can)=Kinh=Minh=Mừng (xúc cảm)=Mạch (cơ thể)=Mơ (trái cây)=Mồ=Mở=Lở=Nở=Nam ( hướng)=Nóng (thời tiết)=Xong=Xon (nốt nhạc)=Hỏn=HỎA = HUỲNH (thiên văn: sao HUỲNH TINH)=Hồng=Rộng=Rong=Dòng=Dê (vật nuôi)=Lễ (ngũ đức)=Liễu=Chiếu=Chín (số 9 Cửu Cung)=CHU (vật biểu : CHU TƯỚC)=Nhú=Lú=Lưỡi (ngũ khiếu)=Cười (giọng)=Tươi=TƯỚC=TINH=TỴ( thập nhị chi)=Tim=Tâm (ngũ tạng) 3. Hành THỔ trong Ngũ hành ứng với TÍN (信) trong Ngũ đức: THỔ: Đất=Thật=Thu (mùa Thu)=Thổ=Tổ=TÍN TÍN (信), biểu ý bằng ghép các bộ thủ của chữ nho: Người (亻)ngay thẳng miệng (口) nói (言) câu Nói, làm hai (二) việc , cần đầu (亠) là TIN (信) Và ứng với các tố khác trong các lĩnh vực khác, dẫn theo QT (qui tắc tạo từ Việt): Trâu (vật nuôi: trâu bò)=Âu (xúc cảm: lo âu)=Ẩm (thời tiết: ẩm thấp)=Lấm=Lăm=Năm= =Nửa=Giữa ( giai đoạn: Âm Dương cân bằng)=Chửa=Chúa=Chiều (thời gian trong ngày)=Chủ=Ngũ (số 5 Hà Đồ, số 5 Cửu Cung)=Ngọt (vị)=Ngưu=SỬU ( thập nhị chi)=Sùi=MÙI (thập nhị chi)=Miếng=Miệng (ngũ khiếu)=MẬU (thập can)=Lậu=Lo=Bò (vật nuôi)=Bọt=Bát (số 8 Cửu Cung)=Bằng=Vằng=Vàng (màu)=Hoàng=Hóa (trạng thái)=Hai (số 2 Cửu Cung)=Dãi (ngũ tân)=Vãi=Vuông (thế đất)=Vị (lục phủ)=Qúi=KỶ (thập can)=KỲ (vật biểu: KỲ LÂN)=Nhị=Tỳ (ngũ tạng)=Tám=TUẤT (thập nhị chi)=TINH=Tàu=Táo=Gạo=Khao=Khóc (xúc cảm)=KHÔN (bát quái, tượng Đất)=Cồn=CẤN (bát quái, tượng Núi)=LÂN=TRẤN (saoTRẤNTINH)=THẦN =THÌN (thập nhị chi)=Thấp (thời tiết)=Thu (mùa)=Thịt (cơ thể) =THỔ=Đô (nốt nhạc) 4. Hành KIM trong Ngũ hành ứng với NGHĨA ( 義 ) trong Ngũ đức: KIM : Quặng=Kim=Chìm=Nghỉm=Ngầm=Ngũ=NGHĨA=Địa=ĐÔNG ( mùa Đông) NGHĨA (義), biểu ý bằng ghép các bộ thủ của chữ nho: Tau=tui=ta=ngã (我) với dê (羊) Sống chung nương tựa NGHĨA (義) nghì với nhau. Và ứng với các tố khác trong các lĩnh vực khác, dẫn theo QT (qui tắc tạo từ Việt): KIM=Cam (màu)=Cay (vị)=Kê (vật nuôi)=CÀN (bát quái)=CANH (thập can)=Sanh (sinh Âm cực)=Sao=Sáu (số 6 Cửu Cung)=Sinh=TINH=Tây (hướng)=Tứ=TÂN (thập can)=THÂN (thập nhị chi)=Thất=Thâu (trạng thái)=THÁI (thiên văn: sao THÁI BẠCH)=ĐOÀI (bát quái)=Đẻ=Đào (trái cây)=Trào=Trái=Trắng (màu)=Tròn (thế đất)=Bốn (số 4 Hà Đồ)=Bảy (số 7 Cửu Cung)=BẠCH (vật biểu: BẠCH HỔ)=Buồn (xúc cảm)=Tuôn=Tối (thời gian trong ngày)=Phổi=Phiền=Phế=Rê (nốt nhạc)=Lệ (ngũ tân)=Lục=La=Gà (vật nuôi)=Da (cơ thể)=DẬU (thập can)=Hậu=Tâu=Túi=Mũi (ngũ khiếu)=Mát (thời tiết)=Hát=Hỏi=Nói (giọng)=Nẻ=Hé=Hét=Hò=Hô=HỔ=Ngô (ngũ cốc)=Nghĩa (ngũ đức) 5. Hành THỦY trong Ngũ hành ứng với TRÍ (智) trong Ngũ đức: THỦY : Thủy=Thác=Đác=Nác=Nước=Não=Ảo=Óc=Trốc=TRÍ) TRÍ (智), biểu ý bằng ghép các bộ thủ của chữ nho: Miệng (口) nói (曰 ) trúng thỉ (矢)=then= tên TRÍ (智) tri (知) là biết viết lên tận trời Và ứng với các tố khác trong các lĩnh vực khác, dẫn theo QT (qui tắc tạo từ Việt): Khuya ( thời gian trong ngày)=KHẢM (bát quái)=Xám=Nhạm=NHÂM (thập can)=Lầm=Lam=Lục=Liễu=Lưu=Lợn (vật nuôi)=Lạnh (thời tiết)=La (nốt nhạc)=Ca=Còn=Kê (ngũ cốc)=Cốt=Quang=QUÍ (thập can)=Trí (ngũ đức)=Rĩ=Si=Sợ (xúc cảm)=Ớ=E=Dè=Dẻ (trái cây)=Dát=Dão=Nhão=Tháo=THỦY=Thận (ngũ tạng)= =THẦN (thiên văn: sao Thần Tinh)=Thương=Xương (cơ thể)=Xáng=Tàng (trạng thái)=TINH=TÝ (thập nhị chi)=Tồn (năng lượng)=Tiểu (ngũ tân)=Tủy=Tai (ngũ khiếu)=Hãi=HỢI (thập nhị chi)=Heo=HUYỀN (vật biểu: Huyền Vũ)=Viên=VŨ=Vẹo (thế đất)=Vặn=Mặn (vị)=Mãn (giai đoạn hoàn chỉnh Âm cực)=Một (số 1 Hà Đồ , số 1 Cửu Cung )=Hột=Hạt=Nhát=Nhất=Bật=Bấc=Bắc (hướng)=Bảo=Bóng=Bàng=Bọng (lục phủ: Bàng Quang)=Đóng=Đông (mùa)=Đen=Rén=Rón=Rên (giọng)=Rồi
  20. Tôn hiệu do người đời sau gọi Bà, nên tôi hiểu là: Mẹ hiền (Từ thị) làm hoàng đế thần thánh như vằng trăng (kim luân) thời viễn cổ.Không biết có đúng không? Thời viễn cổ trên đất Trung Hoa thì nó là Việt cũ.
  21. Từ nhiều nguồn tư liệu, trong đó có cả di truyền học, nay ta biết rằng, người Hoa Hạ, tổ tiên người Hán chỉ ra đời khoảng 2600 năm TCN, kết quả của sự lai giống giữa người du mục Mông Cổ và người Bách Việt sau cuộc xâm lăng của tộc Mông Cổ.(Trích) Nền văn minh lúa nước của người Bách Việt dẫn đến nền văn minh nông canh của người Hoa Hạ. Tộc du mục vào Trung Nguyên bất quá một trăm năm sau là bị Hán hóa hoàn toàn. Nhưng tộc Việt trải qua hàng ngàn năm bị Hán hóa vẫn không thể Hán hóa hoàn toàn (Trích mạng Trung Quốc). “Bác vật chí” 《博物志》viết:”Nam Việt sào cư, bắc tố huyệt cư, tị hàn thử d㔓南越巢居,北溯穴居,避寒署也”: Người Nam Việt ở nhà sàn, người Bắc ngược lại ở nhà hầm trong đất để tránh nóng lạnh. Tộc Liêu là các tộc người Bách Việt , sử xưa còn gọi là Nam Man, thời cổ đại sống đông đúc ở Kim, Điền, Quế, Tương, Việt, tức Tứ Xuyên, Vân Nam, Qúi Châu, Hồ Nam, Lưỡng Quảng ngày nay . Cái tên “Liêu” là cái tên miệt thị, chỉ dân bản địa Lĩnh Nam, còn thường gọi là “Lý Liêu”, “Di Liêu”. Tiên nhân của người Liêu thời tiên Tần là người Tây Âu và Lạc Việt, thời Hán là người Ô Hủ 乌浒 và Nam Việt. Về sau sử gọi chung là Bách Việt Di Man. Cuốn “Thông khảo dư địa khảo “《通考舆地考》 viết: “Tự Lĩnh nhi Nam, đương Đường Ngu tam đại Man Di chi quốc, thị Bách Việt chi địa 自岭而南,当唐虞三代蛮夷之国,是百越之地”: Từ Ngũ Lĩnh trở vào Nam là nước của Man Di ba đời Đường, Ngu, là đất của Bách Việt. Bởi vậy các dân tộc bản địa vùng lưu vực Châu Giang cổ đại thường được gọi là Bách Việt. Thời Đường, sử tịch gọi là “Lý Liêu”. “Ngụy Thư” thì gọi là “Nam Man”. Hán Vũ Đế gọi dân nước Dạ Lang là “Di Liêu”. Từ “Liêu” tiếng Choang và Bố Y phát âm là “Raeu” có nghĩa là “Tao”. Thời Đông Tấn người Liêu phân bố rộng khắp Vân Nam, Quảng Tây, Qúi Châu ,Tứ Xuyên. Thời các nước Nam Chiếu (649-902), Đại Lý (937-1253) cư dân Liêu phân hóa thành nhiều tộc người như Kim Xỉ, Mường, Mán, Bạch Y v.v. nhưng vẫn tự xưng là Liêu. Ở Tứ Xuyên là người Nam Bình Liêu, ở nhà sàn, trai mặc áo tả nhậm, để tóc trần và đi chân đất. Ở Quảng Đông người Liêu phát triển thành các tộc người Lê, người Dao Liêu, người Man Liêu, người Dao Đồng. Giáo sư Triệu Đồng Mậu 赵桐茂 và các nhà khoa học Trung Quốc nghiên cứu về gen đã chia người Trung Quốc thành hai nhóm gen là quần thể người phương Bắc và quần thể người phương Nam. Nghiên cứu đó chỉ ra người Tứ Xuyên, Hồ Nam và Hồ Bắc (riêng Hồ Bắc là bị bất ngờ) đều thuộc nhóm gen quần thể phương Nam. (Như vậy người nước Sở, còn gọi là nước Kinh hay nước Kinh Sở, là người tộc Việt. Nước Sở lúc đầu gồm Hồ Bắc và Hồ Nam, sau chiếm trọn Trung Nguyên và các nơi khác, rộng lớn gồm 11 tỉnh của Trung Quốc ngày nay). Người An Huy, nam Giang Tô, bắc Triết Giang (riêng bắc Triết Giang là bị bất ngờ) là thuộc nhóm gen quần thể phương Bắc (vốn là người Giang Nam nhưng gen lại thuộc nhóm quần thể phương Bắc). Chứng tỏ thời cận đại đã từng có có một sự di cư xáo trộn lớn. Riêng người Quảng Phủ được xác định, họ huyết thống chủ yếu là người Bách Việt. Người Quảng Phủ là do đa số người Việt cổ hòa huyết với thiểu số người Hán di cư đến từ Trung Nguyên. Gen di truyền của họ gần gũi nhất với người Việt Nam và người Thái Lan. Người Quảng Phủ coi tiếng Quảng Phủ là tiếng mẹ đẻ, ngôn từ có đến 1/3 là phương ngôn, nhưng lại là những từ gốc có tần suất xuất hiện trong khẩu ngữ nhiều gấp 5-6 lần những ngôn từ hiện đại khác, nhất là trong cấu trúc câu có số lượng rất nhiều là theo cấu trúc xuôi chứ không theo ngược như ở Hán ngữ hiện đại. Ví dụ người phương bắc nói “nhĩ tiên tẩu”(anh trước đi) thì người Quảng Châu lại nói “nhĩ hành tiên”(anh đi trước), người phương bắc nói “rất cảm ơn” thì người Quảng Châu lại nói “cảm ơn nhiều”, người phương bắc nói “quá no rồi”, người Quảng Châu lại nói “no đến đầy”, người phương bắc nói “cho anh một đồng tiền”, người Quảng Châu lại nói “ tiền một đồng cho anh”, người phương bắc nói “tìm không được anh”, người Quảng Châu lại nói “tìm anh không được” v.v. Đặc biệt về phát âm thì tiếng Quảng Phủ còn gọi là Việt ngữ, phát âm có mở và ngậm môi phân biệt rõ ràng như tiếng Việt Nam . Trong 7 phương ngữ của TQ , Việt ngữ 粤方言được coi là cổ nhất cả về từ vựng cả về cách dùng, lạ lùng đối với người phương Bắc. Như “xí 企” là đứng (xí chỗ), “thực 食” là ăn, “hàn 行” là đi 、“cảnh 颈” là cái cổ、“cừ 渠” là nó、“yến=om 晏” là tối、“kiệm 悭” là tiết kiệm、“vô=mô 无” là không có、“ngân 银子” là tiền tệ、“tốt=chót 卒之” là cuối cùng, thán từ như “chả 嗟” mang ý phủ định. Những từ người Quảng Phủ phát âm cũng giống như người Việt Nam phát âm có rất nhiều như: Lợi 利, Thị 市, Thiêu 烧, Nam 男, Nữ 女, Nam南, Bắc 北, đông 东, Tây 西, Đậu Phụ 豆腐, Cẩm 锦, Ngọc 玉, Cộng 共, Chí 志, Minh 明, Gia 加, Cát 吉, Anh 英, Ốc 屋, Cơ 机, Nha 牙 v.v. Cổ Hán thư như “Ngụy thư 魏书” đã hình dung xứ Lĩnh Nam là “ Điểu thanh cầm hô, ngôn ngữ bất đồng, hầu xà ngư biết, kỳ dục giai dị 鸟声禽呼,言语不同,猴蛇鱼鳖,嗜欲皆异”: tiếng nói khác lạ như chim, đủ thứ quái dị như khỉ, cá, rắn, ba ba. Đủ thấy là vào thời Tam Quốc vùng Lĩnh Nam vẫn còn là thiên hạ của Bách Việt, người Hán ở vùng này chẳng có bao nhiêu. Học giả Triều Sán là Lâm Luân Luân 林伦伦 cho rằng người Quảng Phủ học tiếng Việt Nam thì rất nhanh. Ở Quảng Đông thì hai huyện Triều Châu và Sán Đầu ven biển cư dân lại là cộng đồng người Triều Châu, nói tiếng Triều Châu khác tiếng Quảng Phủ nhưng lại càng gần tiếng Việt Nam hơn. Người Quảng Phủ là do người Việt cổ bản địa đa số và di dân thiểu số từ Trung Nguyên tới hòa hợp với nhau mà thành. Nguồn thứ nhất là người Việt cổ 古越人 ,chủ yếu là người Nam Việt, là dân bản địa. Nguồn thứ hai là di dân gồm hai thời kỳ, thời kỳ đầu là thời Quảng Tín 广信时期, thời kỳ sau là thời di dân từ Nam Hùng tới do vụ Chu Cơ Hạng 珠玑巷 cuối Tống đầu Nguyên, do chiến loạn nên dân Trung Nguyên ồ ạt di cư xuống Lĩnh Nam rồi xuống đồng bằng Châu Giang, hỗn cư với người Nam Việt bản địa. Những khảo cổ ở đất Quảng Đông năm 1957 và 1982 với những di chỉ đồ đá mới với rất nhiều rìu đá cuội mài có vai và vật dụng đồ gốm niên đại cách nay 5-6 ngàn năm, chứng minh người định cư ở Quảng Đông thời đó là người Việt cổ. Giai đoạn từ thời Nam Bắc triều đến thời Đường dân cư vùng đồng bằng Châu Giang đã rất đông đúc, với các nghề nông nghiệp, đánh cá, làm muối, thủ công, buôn bán hưng thịnh, riêng thành Quảng Châu dân số đã quá 1 triệu người. Cả vùng Quảng Đông và Quảng Tây nói thông dụng ngôn ngữ Quảng Phủ là tiếng Pạc Và. Cuối thời Nam Tống là lần di cư đầu tiên của dân từ Trung Nguyên xuống Quảng Đông. Những lần di cư đại qui mô sau là thời Tần, thời Hán Vũ Đế, thời Bắc Tống và thời cuối Tống đầu Nguyên là từ Chu Cơ Hạng xuống. Tại sao nhiều người Quảng Phủ lại tự nhận tổ tiên mình là người từ Chu Cơ Hạng xuống? Đó là vì sau khi Hán Vũ Đế diệt nước Nam Việt, vùng Lĩnh Nam bị Hán hóa, sự khác biệt giữa người Việt “粤人” và người Hán “汉人” dần dần xóa mờ, nên đến thời cuối Tống đầu Nguyên khi đợt di dân qui mô lớn từ Chu Cơ Hạng xuống thì người Quảng Phủ hầu như bị Hán hóa hoàn toàn, tự coi mình như là phát tích từ Chu Cơ Hạng mà quên mất lịch sử tổ tiên mình là dân bản địa Việt cổ từ 5-6 ngàn năm trước. Tóm lại người Quảng Phủ và ngôn ngữ Quảng Phủ là hình thành từ sau khi Hán Vũ Đế diệt Nam Việt chứ không phải là sau thời Nam Tống mới hình thành. Việt ngữ 粤语 bảo lưu nhiều nhất đặc điểm và từ ngữ của tiếng Việt cổ , rất nhiều từ gốc là giống tiếng Choang. Huyết thống Quảng Phủ tộc là huyết thống Bách Việt. Khi văn hóa Hán từ Trung Nguyên xâm nhập Lĩnh Nam thì có sự giao thoa và văn hóa Hán chỉ là thứ yếu, bởi dân số người Hán từ Trung Nguyên xuống không phải là chiếm ưu thế. Thời Tần , Hán, dân di cư xuống Mậu Danh (nay Cao Châu Quảng Đông) đa phần là dân từ Phúc Kiến, gồm người Khách Gia 客家民系 và người Phước Lào 福佬民系, đều là huyết thống Bách Việt. Thời Tùy chưa có văn hóa ghi gia phả. Thời Đường mới có văn hóa ghi gia phả của người Hán di cư xuống Mậu Danh, nhưng các họ thời Đường ,Tống ghi không nhiều. Đến thời Minh, Thanh di dân Phúc Kiến xuống đồng bằng Châu Giang càng nhiều, đem theo văn hóa ghi gia phả thịnh hành. Người Quảng Phủ mới bắt chước ghi gia phả, nhưng lại rập khuôn cách lập gia phả của người Hán từ Trung Nguyên nên lại cũng ghi rằng họ mình có nguồn gốc từ Trung Nguyên. Ví dụ họ Tiển 洗 rõ ràng là dân bản địa, là vọng tộc của dân tộc Lý 俚族 cổ, nhưng gia phả của họ Tiển cũng theo trào lưu mà ghi mình nguồn gốc từ Trung Nguyên. Dân tộc Lý cổ 古俚族 gồm các họ lớn là Phùng冯, Ninh 宁, Lý 李, Trần 陈, Bàng 庞 v.v., do vậy nói là tổ tiên từ Trung Nguyên đến là không chính xác. Học giả Nhật Bản nhận đinh rằng các truyền thuyết như “truyền thuyết Chu Cơ Hạng 珠矶巷传说” của người Quảng Phủ, “Truyền thuyết Bồ Điền 莆田传说” của người Phước Lào, “Truyền thuyết Ninh Hóa thạch bích 宁化石壁传说” của người Khách Gia là kết quả truyền bá đồng bộ Hán hóa dân tộc thiểu số, tồn tại rất nhiều thành phần hư cấu. Bởi vậy Quảng Phủ tộc đại bộ phận là hậu duệ của Việt tộc 越族, không thể đơn giản cứ căn cứ vào gia phả của họ để nhận định nguồn gốc được. Các họ có gốc là Nam Việt tộc 南越族 về sau diễn biến thành họ của người Hán là: Sử 史, Tu 须, Đô 都, Khu 区(Âu 欧、瓯), Cư 居, Hoa 毕, Hoàng 黄, Vi 微, Châu 朱, Thi 诗, Phiên 番, Triệu 赵, Phạm 范, Lô 卢, Nguyễn 阮. Các họ có gốc là Lý tộc 俚族 về sau diễn biến thành họ của người Hán là : Trương张, Uất Lâm郁林 (ở Ngọc Lâm), Đằng滕, Đoan Khê端溪 (ở Tất Khánh肇庆), Lĩnh岑, Vương 王 (ở Quảng Châu 广州), Chu 周, Lý 李, Mạc 莫, Tính 并, Phùng 冯 (ở Cao Châu 高州), Tiển 洗, Lâm 临, Hạ 贺 (ở Hạ Châu贺州), Chung 钟, Ngu 虞, Tượng Châu 象州 (ở Tượng Huyện 象县), Đỗ 杜, La Châu 罗州 (ở Hóa Châu 化州), Bàng 庞, Lương 梁 (ở Kiến Châu 建州), La 罗, Trần 陈 (ở La Định 罗定), Ninh 宁 (ở Khâm Châu 钦州), Hà 何 (ở Qúi Huyện 贵县), Lục 陆. Người Quảng Phủ và người Choang Quảng Tây có tính tương tự cao độ, theo như kết quả phân tích nghiên cứu đặc trưng thể chất nhân chủng của đại học Trung Sơn Quảng Châu. Sách “Bách Việt dân tộc 百越民族” của Thương Vụ Ấn Thư Quán 商务印书馆 xuất bản, viết: Thời cổ đại khi Hán tộc chưa đặt chân đến Lĩnh Nam thì đất Nam Việt rộng lớn đã tồn tại nền văn hóa Châu Giang rực rỡ của cư dân sớm nhất vùng đất này là dân tộc Bách Việt. Đại bộ phận hậu duệ của họ ngày nay là người Quảng Phủ. Nam Việt Vương Triệu Đà đã thực hành chính sách hòa mục Bách Việt. Khi bắt đầu cục diện Hán Việt dung hợp thời Tần, Hán thì Việt ngữ 粤语 thoát ly khỏi mẫu thể của nó, trở thành tiếng Quảng Phủ, còn lại như ngày nay, là phương ngữ cổ nhất trong bảy phương ngữ hiện tồn tại ở Trung Quốc. Riêng Quảng Tây qua nghiên cứu nhân chủng học, các nhà khoa học Trung Quốc nhận định rằng số người Quảng Tây có huyết thống Choang tộc nhiều hơn số có huyết thống Hán tộc. Song trước đây do Hán hóa nên cư dân thuộc các tộc phi Hán cứ nhận mình là người Hán để tránh bị kỳ thị. Tình trạng này không chỉ riêng Quảng Tây, mà còn ở Quảng Đông, Phúc Kiến và một số tỉnh khác, gia phả người Hán đa phần là ghi tổ tiên đến từ lưu vực Hoàng Hà bắc bộ Trung Quốc, thuộc chính thống Hoa Hạ vĩ đại, nhưng thực tế huyết thống họ lại là thuộc tộc phi Hán, thuộc gen quần thể phương Nam. Giáo sư Triệu Đồng Mậu 赵桐茂 và giáo sư Trần Nhã Dũng 陈雅勇 nghiên cứu về gen đã chỉ ra hai quần thể Bắc và Nam ở Trung Quốc là khác nhau. Cuốn sách “Quảng Đông tộc quần dữ văn hóa nghiên cứu 广东族群与区域文化研究” do Hoàng Thúc Sính 黄淑娉 chủ biên, nghiên cứu đặc trưng thể chất ba cộng đồng dân cư chủ yếu ở Quảng Đông là người Quảng Phủ, người Triều Châu và người Khách Gia, đã kết luận rằng người Quảng Phủ có huyết thống gần gũi nhất với người Choang ở Quảng Tây, huyết thống Việt tộc trong họ chiếm đa số, huyết thống Hán tộc trong họ chiếm thiểu số. Đa số họ là hậu duệ của dân bản địa là tộc Lý 俚族 cổ chứ không phải là di cư từ Trung Nguyên xuống. Văn hóa Quảng Phủ là văn hóa Nam Việt di truyền lại, có giao thoa với văn hóa Hán. Quá trình Hán hóa người Quảng Phủ có thể coi như là một điển hình: Đầu tiên là Hán hóa nhanh chóng tầng lớp trên, sau đó trải qua một nghìn năm dân gian mới dần dần quên đặc trưng độc đáo của mình, cũng mơ theo cái hiển quí, ta cũng là “Hà Lạc di dân 河洛移民( tức dân từ Trung Nguyên xuống) đây, dẫn đến gán ghép gia phả là người Hán, chứ không nhận mình là dân bản địa như đích thực mình là (trích Hoa Đông Sư Phạm Đại Học hiệu san). Trong lịch sử, vì tranh đoạt đất đai nên giữa người Hán và người Liêu trường kỳ có chiến tranh. Người Liêu ở Lưỡng Quảng nhiều lần khởi nghĩa chống đô hộ nhà Đường. Năm Đường Khai Nguyên 16, Trần Hạnh Phạm khởi nghĩa , xưng đế ở Long Châu, quốc hiệu Đại Long; Hà Du Lỗ xưng Định quốc đại tướng quân; Bằng Lâm xưng Nam Việt Vương cát cứ Lĩnh Nam. Suốt các thời Ngũ Đại, Tống, Nguyên, Minh ,Thanh đều có đấu tranh anh dũng của người Liêu chống Hán hóa. Năm1446 Minh Chính Thống thứ 11, người Dao ở Quảng Tây công hãm thành Hóa Châu, giết tri châu Mâu Tự Đắc. Năm 1448 nhà Minh sai Ngô Dương xuất binh bắt giết người Dao, cuối năm đó Triệu Âm Vượng lãnh đạo người Dao tiến công Thủy Long, Điện Bạch, công hãm thành Thần Điện Vệ, tự xưng “Thiên hiền tướng quân”. Năm Thiên Thuận 14 (1460-1467) khởi nghĩa của người Choang Quảng Tây công hãm thành huyện Tín Nghi. Năm Gia Tịnh có khởi nghĩa của người Dao ở La Bàng. Năm Vạn Lịch thứ 4 (1576) tướng Minh là Trần Lâm đàn áp cuộc khởi nghĩa của người Dao ở La Bàng, càn quét san bằng hơn 90 trại của người Dao. Sau chiến tranh La Bàng thì cái tên “Liêu” như một tộc người đã biến mất trong sách sử., chỉ còn lại các dân tộc thiểu số vùng Tây Nam Trung Quốc. Quảng Đông cũng từng là nơi phản kháng quân Nguyên kịch liệt nhất TQ đương thời. Người Quảng Phủ và người Khách Gia đều đồng lòng theo anh hùng dân tộc Văn Thiên Tường chống Nguyên, sau đó họ lại cùng nhau quyết chiến chống quân Thanh, máu đổ khắp miền nam TQ, kiên quyết bảo vệ nền văn minh Trung Hoa. Tại sao vào thời buổi Nguyên thay Tống, hay Thanh thay Minh thì người miền nam TQ lại chống lại tráng liệt và bi thảm như vậy? Phải liên hệ lại với lịch sử thời Tây Tấn Nam Bắc Triều thì mới không khó tìm được câu trả lời. Thời Mãn Thanh, nhà Thanh thực hiện chính sách chia rẽ, khích bác người Quảng Phủ và người Khách Gia, gây nên cuộc xung đột giữa hai sắc tộc, thương vong tới 5-6 chục vạn người, lâu sau đó khó lành vết thương. Người Quảng Phủ nếu có ai thông hôn với người Khách Gia liền bị cộng đồng dè bỉu. Người Khách Gia giữ di huấn hàng trăm năm quyết không thông hôn với người Quảng Phủ. Chuyện này đã qua cách nay hơn một thế kỷ rồi. Ba cộng đồng dân cư lớn nhất ở Quảng Đông là người Quảng Phủ, người Khách Gia và người Triều Châu. Người Khách Gia ở Trung Quốc tập trung đông nhất là ở tỉnh Quảng Đông, hơn 20 triệu người. Ở tỉnh này người Quảng Phủ có 40 triệu, gấp đôi người Khách Gia. Do vậy văn hóa ở Quảng Đông chủ lưu là văn hóa Quảng Phủ, ngôn ngữ thông dụng cũng là tiếng Quảng Phủ. Tuy vậy nắm quyền chính trị ở Quảng Đông hàng nghìn năm qua lại chủ yếu là người Khách Gia. Do người Khách Gia là dân di cư từ Trung Nguyên đến từ thời Tần ,Hán, không còn đất nên họ phải tập trung khai phá vùng núi hoang cằn cỗi “vô sơn bất trú Khách 无山不住客”, vì vậy họ hiếu học với mục đích làm quan để đổi đời. Người Quảng Phủ chỉ lo làm ăn, tư duy hành động. Người Quảng Phủ và người Khách Gia đều di cư đi khắp thế giới nhiều, đương nhiên do người Quảng Phủ sống gần biển nên họ xuất ngoại nhanh hơn, số người Quảng Phủ ở nước ngoài cũng đông gấp đôi số người Khách Gia ở nước ngoài. Người Quảng Phủ nói: “ Mặt trời không bao giờ lặn trong xã hội người Việt 粤人”. Người Khách Gia nói: “Phàm nơi nào có nước mặn thì ở đó có người Khách Gia”, phẩm vị của hai câu ngạn ngữ này cho thấy sự cảm thụ khác nhau: Người Quảng Phủ nhấn mạnh mặt trời, họ khoáng đạt, lạc quan và tự tin. Người Khách Gia tâm tư nồng hậu, nước mặn là nước biển, vừa mặn vừa chát, nghìn năm phiêu bạt, bối cảnh ly hương, họ đem cả ý thức đó ra nước ngoài. Cũng có người Khách Gia nói dòng máu của họ cũng có dòng máu của người Hẹ 畲, nhưng người Khách Gia và người Hẹ ngôn ngữ hoàn toàn không giao tiếp đượcvới nhau. Người Quảng Phủ và người Khách Gia có rất nhiều điểm tương đồng, cũng có rất nhiều điểm khác biệt. Người Khách Gia ở Quảng Đông đều biết nói tiếng Quảng Phủ, cũng giống như người Khách Gia ở Phúc Kiến đều biết nói tiếng Mân Nam. Nhưng chỉ cần nhìn cách xử sự, tiếp đãi là có thể phân biệt ra người Khách Gia hay người Quảng Phủ, đặc trưng tính cách rất rõ rệt, hình tượng, phong độ, giá trị quan hoàn toàn khác nhau, thể hiện trong rất nhiều góc độ, do lịch sử hình thành, quan niệm văn hóa, địa vực, kinh tế, phong tục tạo nên. Ở đây chỉ nêu qua biểu hiện ở ngạn ngữ của hai cộng đồng người này, vì một câu ngạn ngữ phải qua vài trăm năm mới định hình được, nó thẩm thấu văn hóa của một dân tộc, thể hiện ra giá trị quan và lối sống của một cộng đồng người. Người Khách Gia thì “ Ninh mại tổ tông điền, bất mại tổ tông ngôn 宁卖祖宗田,不卖祖宗言”, cái mà họ trọng nhất là “tổ tông ngôn”, vì đó là di huấn của văn hóa lịch sử, là một thứ thừa truyền, trọng ngôn tức trọng tinh thần. Hay “ Tố bất tận đích tử tôn ốc, mãi bất tận đích tử tôn điền 做不尽的子孙屋,买不尽的子孙田”, mua nhà mua ruộng thì dễ, nhưng cái quan trọng hơn là lưu giữ được cho con cháu cái “ngôn”, văn hóa của tổ tiên mới là cái mạnh. Hay “Tố quan mãi điền, bất như tử hiếu thê hiền 做官买田,不如子孝妻贤”,làm quan mua ruộng chẳng bằng con hiếu vợ hiền; “Hảo tử bất bần phủ thiên địa, hảo nữ bất cầu giá thời y 好子不贪爷天地,好女不求嫁时衣”,( trai ngoan khắp chốn chẳng nghèo, gái ngoan chẳng phải mè nheo tiền tài); “Gia hữu thiên kim bất như tàng thư vạn quyển 家有千金,不如藏书万卷”, (nhà giàu có sẵn ngàn vàng, chẳng bằng có được kho tàng sách văn), v.v. đều là chú trọng vào văn hóa tinh thần truyền thống, coi kinh cái quan mỏng, cái ruộng, hồi môn, vàng bạc. Người Quảng Phủ lại lưu hành nhất những câu ngạn ngữ “ Đỉnh ngạnh thượng 顶硬上”, cứng cỏi là nhất, như câu cửa miệng, hay “Mã tử lạc địa hành 马死落地行”, rớt ngựa thì đi đất, họ không bao giờ lùi bước trước khó khăn. Câu cửa miệng “Đỉnh ngạnh đầu” còn phổ thành bài dân ca lưu truyền 顶硬上,鬼叫你穷! Đỉnh ngạnh thượng, quỉ khiếu nhĩ cùng! 铁打心肝铜打肺, Thiết đả tâm can, đồng đả phế, 立实心肠去捱世。 Lập thực tâm trường khứ nhai thế. 捱得好,发得早, Nhai đắc hảo, phát đắc tảo, 老来叹番好! Lão lai thán phiên hảo! (Ở đời cứng cổ làm đầu. Qủi ma cũng phải ghen giàu với ta. Gan đồng dạ sắt mới là. Thẳng ngay lòng dạ xông pha thương trường. Sớm chịu đựng, sớm thịnh cường. Về già yên ổn gia đường thong dong). Đó là tinh thần ngoan cường bất khuất, kiên trì độc lập không thể lung lay; miệt thị cái nghèo túng; siêng năng, dám mạo hiểm, không sợ rủi ro, dám đi xa, dù khi chỉ một người cũng dám tự bươn chải không ỷ lại vào bất cứ gì, cũng không oán trời trách người, nhất định phải tìm cho ra thế giới của riêng mình, đó chính là truyền thống “Tẩy cước thượng điền洗脚上田”, rửa chân vào ruộng, “ Yếu sĩ tùng thương 要仕从商”, đảm việc lãnh đạo kinh doanh, của người Quảng Phủ. Những câu ngạn ngữ với khí phách đó có rất nhiều ở người Quảng Phủ. Như “Tể đại tể thế giới 崽大崽世界” (trẻ đã lớn rồi là thế giới của trẻ), để chúng độc lập tự chủ đương đầu đi lập thế giới. Hay “Sơn cao hoàng đế viễn, hải khoát gia cường 山高皇帝远海阔家强” (chẳng dựa núi chẳng ỷ vua, nhà ta biển rộng đủ thừa mưu sinh), người Quảng Phủ dựa biển mà sinh sống, tư duy của họ là “thượng” và “hành” tức thiên về tiến thủ và hành động chứ không câu nệ vào “ngôn”. Từ những ngạn ngữ đó thấy rõ tư duy người Khách Gia nặng về “ Độc thư lang 读书郎” hay “Độc thư nhân 读书 人”. Trẻ con người Khách Gia từ nhỏ đã bị kèm cặp vào con đường học gạo, như bài đồng dao “Nguyệt quang quang, tú tài lang 月光光,秀才郎”, nhấn mạnh vào việc học để ra làm quan. Nào là “读不尽的书,走不完的路”( học bao giờ hết được văn, đi bao giờ hết được chăng độ đường)、“唔读书,瞎眼球”( đọc cho mòn mắt chưa thôi)、“养子不读书,不如养头猪”( nuôi con chẳng học, thà nhọc nuôi heo)、“秀 才不怕衫破,最怕肚中无货”(tú tài chẳng biết sợ ai, sợ nhất trong bụng chẳng tài cán chi)、“补漏趁天晴,读书赶少年” (trời tạnh lo dọi mái nhà, học hành tranh thủ khi là trẻ măng)、“读书肯用功,茅寮里面出相公”( siêng năng dốc sức học hành, nhà tranh vách đất cũng thành tướng công)……luôn luôn theo đòi tố chất văn hóa, học vấn, theo truyền thống “Học nhi ưu tắc sĩ 学而优则仕” của Trung Nguyên. Đó là do điều kiện sống của họ ở vùng đất núi cằn cỗi (do di cư từ Trung Nguyên xuống sau, khi người Bách Việt bản địa đã khai phá hết vùng đồng bằng trù phú), cuộc sống nghèo khó, không học không có lối thoát, mà tiền đồ thì chỉ có con đường học để ra làm quan. Đối với người Quảng Phủ, học đương nhiên cũng rất quan trọng, chẳng thế mà riêng huyện Thuận Đức đã từng có 3 trạng nguyên văn, 1 trạng nguyên võ, tỷ lệ số đỗ đạt của người Quảng Phủ so với người Khách Gia ở Quảng Đông là 11/10 ( tỷ lệ số dân là 20/10). Nhưng người Quảng Phủ không chỉ coi trọng học hành, ý chí họ rộng hơn, tư duy họ là muốn làm “mãnh nhân”, ngôn từ cửa miệng của họ là từ “sinh mãnh”, giàu là ở sức sống năng động, sức mạnh phi thường, như câu “Bất thị mãnh long bất quá giang 不是猛龙不过江” v.v. “Mãnh nhân” của họ tuy cũng bao gồm cả những trạng nguyên , nhà văn, nhưng rộng hơn là bao gồm tất cả những ai có thành tựu trong sự nghiệp, tức là những người có “tính hành động”, dám làm dám chịu, không sợ bất cứ gì, nhất là dám xuất ngoại ra đi va chạm với thế giới, “ quá giang”, “độ hải”. Hai chữ “mãnh nhân” thể hiện một điều bắt buộc bản thân, rất có khí thế, không tin tà, không sợ khó. Cái mà người Quảng Phủ theo đòi là hành động, đó là tinh thần vật thực, tinh thần hành động dám làm dám chịu, tự mình lớn lên, bởi họ có sắc thái văn hóa biển mạnh hơn là người Khách Gia. Người Quảng Phủ và người Khách Gia cũng có những điểm chung, thể hiện trong ngạn ngữ như câu chung “ Hữu trạng nguyên học sinh, vô trạng nguyên tiên sinh 有状元学生,无状元先生” tức coi “con hơn cha là nhà có phúc”. Hoặc người Khách Gia nói “Bất bần lang điền địa, chỉ bần lang tinh chí 不贪郎田地,只贪郎精致”, thì người Quảng Phủ lại nói “ Hảo tế bất luận tía điền địa, hảo nữ bất luận giá thời uy 好仔不论爹田地,好女不论嫁时威”cũng đều cho rằng giá trị bản thân là ở tự tại chứ không phải ở cha mẹ lắm ruộng hay mình có lắm của hồi môn . Họ đều có ý thức tiết kiệm, người Khách Gia nói “Cận sơn mặc uổng sài, cận hà mặc uổng thủy” thì người Quảng Phủ cũng nói “ Cận tỉnh ngộ hảo sử uổng thủy, cận sơn ngộ hảo sử uổng sài”. Họ đều coi giữ khí tiết là nguyên tắc, như người Khách Gia nói “Miên đảo đả ngộ thất 眠倒打唔跌” là dù có ngủ say cũng không đánh đổ được họ, thì người Quảng Phủ nói “Tố nhân yếu hữu yêu cốt 做人要有腰骨” là làm người phải vững xương hông. Người Quảng Phủ nói cửa miệng “Đỉnh ngạnh thượng 顶硬上” nhấn mạnh cái “thượng” là chí tiến thủ, thì người Khách Gia cũng nói “ Ngạnh cảnh 硬颈” là cứng cổ, nhấn mạnh về tính kiên trì không lay chuyển. (Tổng hợp từ mạng Trung Quốc)
  22. Huyện Đông Lan tỉnh Quảng Tây Trung Quốc là nơi bảo lưu sâu sắc nhất kế thừa văn hóa trống đồng của lưu vực sông Hồng. Trong các bảo tàng trên toàn thế giới hiện có 2400 trống đồng, còn ở huyện Đông Lan hiện thừa kế và sử dụng 612 trống đồng, gần bằng 1 phần 3 số trống đồng của thế giới, trong người Choang và người Dao, là cư dân chủ yếu của huyện này. Trống đồng trong lòng người Choang và người Dao ở đây là biểu trưng cho cát tường phú quí và quyền lực. Năm 2008 huyện Đông Lan được gắn danh hiệu “Khu du lịch di sản văn hóa dân gian của Trung Quốc”. Tháng 3-2009 được bộ văn hóa Trung Quốc công nhận danh hiệu “Làng nghệ thuật trống đồng dân gian dân tộc của Trung Quốc”. Ngày 26-1-2010 Đông Lan đã đúc thử thành công một trống đồng đường kính 1,8m. Tháng 8-2010 thành phố Hà Trì được sự giúp đỡ của Đông Lan cũng xây dựng khu bảo vệ sinh thái văn hóa trống đồng, nay đang tiếp tục đầu tư xây dựng. Những năm gần đây công việc khai quật khảo cổ ở huyện Đông Lan, nơi được coi là phát tích của văn hóa trống đồng, được tiến hành sôi động, với sự tham gia của các chuyên gia Nhật Bản, Pháp, Nga, Singapo để khảo sát và nghiên cứu văn hóa trống đồng. Trong hai ngày 30 và 31 tháng 3-2011 sắp tới tại huyện Đông Lan sẽ tổ chức “Ngày du lịch quốc tế văn hóa trống đồng”, trong đó sau phần lễ trống đồng có hội thảo văn hóa trống đồng thế giới tại viện bảo tàng trống đồng, phần hội có biểu diễn ca múa nhạc các dân tộc miền Tây Trung Quốc, hội chợ nông sản, phố ẩm thực. Ngày 17-3-2001 đã có cuộc họp báo công bố chương trình của “Ngày du lịch quốc tế văn hóa trống đồng”, với chủ đề là “Thiên Niên Đồng Cổ, Thịnh Thế Hòa Minh” 新闻发布。广西新闻网记者 陶媛摄
  23. Địa danh Lạc Việt trên đất Lĩnh Nam Người Choang ngày nay sống chủ yếu ở Quảng Tây và bộ phận ở Quảng Đông , Qúi Châu và Vân Nam, dân số 17 triệu người, là một bộ phận còn lại của dân Nam Việt, còn giữ khá nguyên vẹn bản sắc. Ngôn ngữ của họ là do phát triển từ ngôn ngữ Việt cổ. Tên các địa danh đều là tên Lạc Việt, đều cấu trúc xuôi như tiếng Việt Nam, trái với cấu trúc ngược của Hán ngữ, tiếng đầu của các địa danh thường biểu hiện thực thể địa lý tự nhiên hoặc khu vực. Có đến hàng chục chữ , làm tên đầu địa danh ở vùng Lĩnh Nam xưa, đều là tên Lạc Việt, mà phải chú vào cái phát âm mới nhận được ra. (Những chữ ấy là do thư lại người Hán đời sau mượn chữ nho để ghi âm lại tên địa danh Lạc Việt, chứ theo biểu ý của chữ thì nhiều chữ chẳng khớp gì với nghĩa của âm tiếng Choang và tiếng Việt cả) ,nếu cứ đọc và hiểu chữ theo Hán ngữ hiện đại thì không thấy được và ý nghĩa của nhiều địa danh theo Hán ngữ lại thành ra vô lý. Ví dụ như sau: 1.“Nà 那” nghĩa là ruộng nước. ( Vùng Giang Nam từ vĩ tuyến 24 vào vĩ tuyến 21 có đến 90% tên các địa danh bắt đầu bằng chữ “Nà”, chủ yếu nằm ở vùng thung lũng có sông và vùng đồng bằng lưu vực như ở các vùng Quảng Tây 廣 西Quảng Phiếm 廣 泛,Việt Tây 粤 西,Quỳnh Lôi 瓊 雷) 2.“Động洞,峒,垌” nghĩa là Vùng, chỉ nơi thung lũng hẹp có sông nhỏ, sau nghĩa mở rộng hơn chỉ quần thể dân cư cùng huyết thống (như ở Việt Nam thì ở Quảng Bình có Đồng Hới=Động Hới=Vùng Hời là nơi người Hời xưa, cũng thuộc tộc Việt sinh sống). Chữ Động 洞 này không phải là Hang như giới sử học Việt Nam có người giải thích. Chữ Hang là bộ thủ gọi là bộ “Hãn 厈”, một trong các nét cấu trúc cơ bản của chữ nho của người Lạc Việt. Ví dụ vùng Quảng Phủ tại Đài Sơn có Động Mỹ 洞 美, tại Tân Hội có Động Giác 洞 角; tại các nơi khác chữ đã đổi ngược theo Hán hóa như ở Dương Xuân có Đại Động 大 洞, ở Dương Giang có Cao Động 高 洞, Tùy Động 隋 洞, Nho Động 儒 洞, Dương Động 陽 洞(xưa chữ Dương 陽 này đọc là Việt), ở Thẩm Quyến có Nam Động 南 洞, Bạch Hoa Động 白 花 洞, ở Trung Sơn có Mai Hoa Động 梅 花 洞 v. v. 3.“Phong 封” nghĩa là Vùng lớn. Nếu theo nghĩa này như của tiếng Choang, thì phủ Khai Phong ở Trung Nguyên vốn nguyên thủy nó phải là phủ “Phong Khơi”, tức “Vùng lớn Mới” , vì so lịch sử thì nó vẫn là mới hơn Phong Châu ở Việt Nam hay Phiên Ngung ở Quảng Đông. Khai Mới=(lướt)=Khơi , đi biển khi ra Khơi thì càng ra càng Mới. Ví dụ ở phía bắc Hợp Phố thuộc Quảng Tây có Phong Xuyên 封 川, Phong Khê 封 溪 ( Phong Xuyên nghĩa là “Vùng lớn của Sông”, Phong Khê nghĩa là “Vùng lớn của Khe”, còn giải nghĩa theo cấu trúc Hán ngữ và biểu ý chữ là “Sông bịt Kín” và “Khe bịt Kín” thì vô lý), Phong Sơn 封 山, Phong Khai 封 開; ở đông Khai Bình cũng có Phong Khai 封 開; ở tây nam huyện Nhữ Nam có Phong Môn Sở 封門 所; ở bắc Tân Hội có Phong Lạc 封 樂; ở đông bắc huyện Phong Khai có Phong Hưng 封 興,v.v. 4.“Phu 夫,扶” nghĩa là Núi. Từ thời Tam Quốc đến thời Đường, Tống thì “Phu” là đơn vị hành chính, ví dụ thời Tống ở quận Tấn Khang có huyện Phu Nguyễn 夫 阮 nay thuộc La Định 羅 定, thời Đông Tấn có huyện Phu Ninh 夫 寧 nay thuộc bắc Thắng Huyện 藤 縣 Quảng Tây, v.v. 5.“La 羅” nghĩa là Lưới, hay Lụa dệt thưa. Ví dụ ở Dương Xuân có La Ngân 羅 銀; ở Dương Giang có La Cầm Sơn 羅 琴 山, La Dẫn Sơn 羅 引 山; ở Việt Trung có La Cương 羅 崗, La Lâm 羅 林, La Khê 羅 溪, La Kháng 羅 坑, La Tế 羅 仔, La Tú 羅 秀, v. v.; ở lưu vực Tây Giang (xưa là Châu Giang, đến thời nhà Thanh đổi tên thành Tây Giang nhằm xóa hết dấu vết nhà Chu) có La Định 羅 定, La Kính 羅 鏡, La Bình 羅 坪, La Phùng 羅 逢, La Khổng 羅 孔, La Hiệp 羅 荔, La Sa 羅 沙, La Cầu 羅 求, La Xung 羅 冲, v.v.; tại Việt Đông thì ở Nhiêu Bình có La Kháng 羅 坑. 6.“Xung 冲” nghĩa là Sông nhỏ, cũng hàm ý Động, mở rộng nghĩa là bổn khu. Ví dụ Thuận Đức có Xung Hạc 冲 鶴; tân hội có Xung Đường 冲 塘, Xung Liêm 冲 廉, Xung Hoa 冲 花, Xung Trà 冲 茶; Tùng Hoa có Xung Lĩnh 冲 嶺; Đài Sơn có Xunng Dương 冲洋, Xung Hoa 冲 華, Xung Sài 冲 柴, Xung Vân 冲 雲; Phong Khai có Xung Đẳng 冲 等, Xung Lăng 冲 陵,v.v. 7.“Lai 瀨” nghĩa là con Lạch. Sách “Hán thư. Vũ Đế kỷ 漢 書.武 帝 紀” viết: “Lai, thoan dã, Ngô Việt vị chi Lai, Trung Quốc vị chi Thích 瀨,湍 也,吴 越 謂 之 瀨,中 國謂 之 磧, ý là tiếng Ngô Việt gọi Lai là dòng nước xiết, tiếng Trung Quốc gọi Lai là bãi đá sỏi”. Lai là địa danh tiếng Choang nghĩa là Lạch. Các tên đã bị Hán hóa đổi ngược như ở vùng Dương Giang có Thượng Lai 上 瀨, Hạ Lai下 瀨, Tây Lai 西 瀨, v.v. 8.“Mãnh 猛” nghĩa là Mảnh 9.“Bằng 馮” nghĩa là Bằng 10. “Bộ 步, 埗,埔,甫” nghĩa là Bờ. Cũng giống như Chợ Bờ ở Hòa Bình. Thời Tống có Ngô Hậu Sở 吴 厚 處viết cuốn “Thanh hương tạp ký 青 箱 雜 記” nói: “ Lĩnh Nam vị thủy tân vi Bộ 嶺 南 謂 水 津 為 步 ý là người Lĩnh Nam gọi cảng là Bờ”. Dấu vết địa danh là “Bờ” này ở phương bắc thì đã tuyệt tích, nhưng ở vùng Lĩnh Nam thì vẫn còn không ít. Như Quảng Châu có Thập Bát Bồ 十 八 甫, Hoàng Bộ 黄 埔, Tăng Bộ 增 步, Diêm Bộ 鹽 步; Hoa Đô có Quan Lộc Bộ 官 禄 埗; Thẩm Quyến có Thượng Bộ 上 步. 11. “Biên 邊” nghĩa là Bến. Cũng có chỗ thì Biên nghĩa là Bản, cũng viết bằng chữ Bản 板 . Quảng Đông có vô vàn tên làng có chữ sau là Biên邊hay Bản 板. Giáo sư Trung Quốc Từ Tùng Thạch徐松石 nói, nếu đảo lại cấu trúc xuôi theo như thổ ngữ xưa thì Biên hay Bản phải đứng trước, có nghĩa là “Bản” tức làng. Ở Nam Hải, thành phố Phật Sơn, có đến 80 địa danh là “Biên”, như Tạ Biên 謝 邊, Đàm Biên 潭 邊, Âu Biên 歐 邊, Cao Biên 高 邊, Quảng Biên 鄺 邊v.v. Ở Tam Thủy có Mạch Biên 麥 邊, La Biên 羅 邊, Sát Biên 蔡 邊 v.v.Dương Giang có Cát Biên 葛 邊. Chợ Kim Biên ở tp HCM là chợ Bến Vàng, chữ Biên ấy dù là mượn chữ Biên nghĩa là ranh giới, nhưng nghĩa của nó là ở cái âm chứ không phải ở biểu ý của chữ, nó đồng bộ với chợ Bến Thành. 12. “Lan 欄” nghĩa là Lán, Lều. Tiếng Choang thì Lan nghĩa là phòng ốc.Quảng Châu có Đậu Lan, Kiến Lan, Tương Lan v.v.Dương Giang có Ngư Lan; Hương Cảng có Quả Lan v.v.Ngoài ra Quảng Châu có các chợ, các phố, các hẻm, các hãng chuyên một mặt hàng, mang tên mặt hàng đó. 13. “Vân 雲” nghĩa là Vạn, tức vạn chài, Vân tiếng Choang còn có nghĩa là Dân tức người. Ví dụ ở Cao Yếu có Vân Giải Sơn 雲 解 山; Đức Khánh 德 慶có Vân Trinh 雲 貞; Phong Khai có Vân Kính 雲 鏡; Nhữ Nam có Vân Lệ Đường 雲 霄 塘;La Định có Vân La Phụng 雲 羅 鳳,nghĩa là “dân lưới chim”; Hoài Tập có Vân Điền 雲 田,nghĩa là “dân ruộng” chứ không phải là “ruộng trên mây” v.v.Vùng đồng bằng Châu Giang tại Thuận Đức có Vân Lộ 雲 路, Bác La có Vân Bộ 雲 步,nghĩa là “dân cảng” chữ không phải là “bước trên mây”, Phổ Ninh có Vân Lộ 雲 路, Hải Phong có Vân Lộ 雲 路v.v. 14. “Đô 都” nghĩa là làng qui mô lớn, đây là do từ Đông Họ=(lướt)=Đô, là làng lớn , dân cư có nhiều họ tộc sinh sống. Như Thuận Đức có Đô Ninh 都 寧, Tân Hội có Đô Hội都 會, Cao Minh có Đô Quyền 都 權, Tân Hưng có Đô Hộc 都 斛, Đức Khánh có Đô Hồng 都 洪, Vân Phù có Đô Kỵ 都 騎, La định có Đô Môn 都 門, Phong Khai có Đô Lũ 都 縷, Hoài Tập có Đô Khẩu 都 口 v.v. 15. “ Tư 思” nghĩa là Tụ=Trù=Chù=Chợ, là làng có mật độ dân cư lớn, trong tiếng Choang thì Tư= Tứ =Hư 虚=Khư 墟 , đều có nghĩa là chợ , mức độ lớn tăng dần. Hán thư giải thích “ Việt vị dã thị viết Hư 粤 謂 野 市 曰 虚 ý là người Việt gọi chợ ngoài trời là Hư” . Như ở Phong Khai có Tư Lục 思 六; Tân Hưng có Tư Lai 思 來; Vân Phù có Tư Lao 思 勞, Cao Yếu có Tư Lâm 思 霖v.v. 16. “Lương 良, 俍” nghĩa là Làng. Tiếng Choang chữ Lương nghĩa là đất bằng có quần cư đông dân (vậy nó giống như Làng ở miền đồng bằng Việt Nam, còn ở miền núi gọi là Bản), cũng còn có nghĩa là màu vàng, rồi sau dùng để chỉ đất hoàng tộc. Ví dụ Đại Lương ở huyện Thuận Đức từng là cứ địa của Hoàng tộc. 17. “Cổ 古” hay “Kê 鷄” nghĩa là Kẻ Hàng ngàn tên làng ở Quảng Đông , Hồ Nam, Qúi Châu, Quảng Tây đều có tên Lạc Việt, vẫn tồn tại đến tận ngày nay, bắt đầu bằng chữ Kẻ (chứ không bị đổi thành tên khác như ở Việt Nam, vì cho rằng Kẻ là tên Nôm, từ tục tĩu, xấu). Chữ Kẻ ấy được ghi bằng âm chữ nho là chữ Cổ古hoặc chữ Kê鷄 ( học giả Trung Quốc Từ Tùng Thạch 徐 松 石cho rằng dùng chữ Kê 鷄gọi tên làng vì người Quảng Phủ nước Nam Việt xưa, mà ngày nay vẫn nói Việt ngữ 粤 語,có tục coi bói bằng chân gà, thực ra không phải như vậy, Kê 鷄là phiên âm chữ Kẻ, còn tục coi bói bằng chân gà thì người Việt Nam vẫn có từ cổ đại đến tận ngày nay. Như tên làng thì chỉ lấy một đặc điểm nổi trội nhất của cư dân kèm sau chữ Kẻ thành tên làng chứ không bao giờ lấy tới hai đặc trưng, ví dụ Kê Phụng là “Kẻ Phụng” chứ không thể là Gà Phụng được, làm gì lấy đến hai con vật làm đặc trưng; hay Kê Tâm Lĩnh nguyên phải là “núi Kẻ Tằm”, Kẻ Tàm là Dân nuôi tằm, chứ không thể là Núi Tim Gà được, vì quả tim con gà nó nằm trong mình con gà thì ai hình dung ra được mà đặt tên cho núi; hoặc Kê Ma Địa là “đất Kẻ Vừng” chứ không thể là Đất Gà Vừng được, tên làng không lấy hai đặc trưng !). Ví dụ Quảng Châu có Cổ Điền 古田, Phật Sơn có Cổ Qui 古 竈, Phiên Ngung có Cổ Bá 古 壩, Thuận Đức có Cổ Lầu 古 樓, Trung Sơn có Cổ Trấn 古 鎭, Đài Sơn có Cổ Đấu 古斗, Hạc Sơn có Cổ Lao 古勞, Cao Yếu có Cổ Bàng 古旁, Tân Hưng có Cổ Luân 古倫, Đức Khánh 德慶có Cổ Hạnh 古杏, Phong Khai có Cổ Kim 古 今, Nhữ Nam có Cổ Phiên v.v. Quảng Châu có Kê Tâm Lĩnh 鷄 心 嶺, Kê Tâm Nham 鷄 心 岩; Trung Sơn có Kê Trường Khiếu 鷄 腸 滘; Đông Hoàn có Kê Lĩnh 鷄 嶺, Kê Lồng Sơn 鷄 籠 山; Thẩm Quyến có Kê Miếu 鷄 廟; Tăng Thành có Kê Phụng 鷄 鳳; Bác La có Kê Ma Địa 鷄麻地; Tân Hưng có Kê Điền 鷄田, Nhữ Nam có Kê Lâm 鷄林; Vân Phù có Kê Sơn 鷄山v.v. 18. “Hạc 鶴” là tên làng bằng totem chim Hạc, là loài chim mà người Việt cổ sùng bái nhất. Quảng Châu có các làng Hạc Biên, Hạc Lâm, Bạch Hạc Động; Thuận Đức có Xung Hạc; Trung Sơn có Cổ Hạc; Phiên Ngung có Hạc Châu, Hạc Trang; Đấu Môn có Hạc Thả; Thâm Quyến có Hạc Đấu; Đông Hoàn có Hạc Điền; Ân Bình có Hạc Bình; Dương Giang có Bạch Hạc; Đức Ái có Điền Hạc v. v. Các khu vực người Khách Gia và người Phước Lào sinh sống ở Quảng Phủ cũng có các địa danh “Hạc”. 19. “ Dõng 湧” (冲)nghĩa là Dòng, Sông con. Trong thành Quảng Phủ có Tây Quan Dõng 西 關 湧, Đông Hào Dõng 東 濠 湧; Hoa Đô có Lô Bao Dõng 蘆 包 湧; Phật Sơn có Phật Sơn Dõng 佛 山 湧v.v. 20. “ Khiếu 滘” nghĩa là nhánh sông nhỏ, chữ KheTiểu=(lướt)=Khiếu. Hán thư giải thích: “thủy câu viết Khiếu”. Không chỉ đồng bằng Châu Giang mà nhiều vùng khác ở Quảng Đông đều có tên này. Như gần Quảng Châu có Lịch Khiếu 瀝 滘, Tân Khiếu 新 滘, Hoành Khiếu 横 滘, Tăng Khiếu 增 滘; Thuận Đức có Bắc Khiếu 北 滘 v.v. 21. “Quyến 圳” là mương con dẫn nước vào ruộng, do từ “cuốn” hay “cún” là mương dẫn nước từ cọn vào ruộng, sau thành từ “câu” là “thủy câu”. Hán thư giải thích “điền biên thủy câu viết Quyến”. Như Đức Khánh 德 慶 có Quyến Biên 圳 邊; Tam Thủy có Quyến Đông 圳 東, Phong Khai có Quyến Điền 圳 田, Quyến Trúc 圳竹 v.v.Krông=Sông=Sóng=Súng=Xung=Xuyên=Quyến. Thâm Quyến 深 圳 nghĩa là “mương sâu” là tên một xóm nghèo xưa hẻo lánh vùng “chó ăn đá gà ăn sỏi”, nay sau 40 năm đã thành một thành phố công nghiệp công nghệ cao hiện đại 8 triệu dân. Nhưng các bà buôn hàng phụ tùng điện, máy ở chợ Sắt Hải Phòng lại gọi nó là “Xóm Trăng”, vì: “Nghe người ta gọi thành phố ấy là Sấn Trân nên tụi em gọi là Xóm Trăng cho dễ gọi”. 22. “Lãng 朗, 塱” nghĩa là Lắng, chỉ vùng đất bồi lắng ở cửa sông ven biển. Như Quảng Châu có Lãng Khẩu 塱 口, Lãng Biên塱 邊, Lãng Đầu 塱 頭, Lãng Khê 塱 溪, Quách Lãng 郭 塱, Hoàng Trúc Lãng 黄 竹 塱, Tùng Bá Lãng 松 柏 塱; Đông Hoàn có Đại Lãng 大 塱; Dương Giang có Tân Lãng 新 塱, Nguyễn Lãng 阮 塱, Tư Lãng 司 塱v.v. 23. “ Đàm 鐔, 談” nghĩa là Đầm và “Trung 中” nghĩa là Trũng là tiếng Bách Việt ở vùng Lĩnh Nam cổ, sau Đàm biến thành Đường 塘 nghĩa là cái hồ. Như Quảng Châu có Kiến Đường 蜆 塘, Khẩu Đường  塘, Lăng Dụng Đường 菱 角 塘 v. v. Ở vùng Tây Giang thì tiếng Choang gọi là “ Điền 榃” nghĩa là Đầm. Như huyện Phong Khai có Điền Cẩu 榃 狗, Điền Điền 榃 田, Điền Cát榃 吉, Điền Lộng 榃 弄, Điền Vũ 榃 武v.v. 24. “Đê” nghĩa là Đê. Như Quảng Châu có Trường Đê 長 堤, Đông Đê 東 堤, Tây Đê 西 堤. 25. “Vi 圍” là đê quây, Quây=Vây=Vi. Như đồng bằng Châu Giang có Tàm Viên Vi 桑 園 圍, Trường Lợi Vi 長 利 圍, Xích Hạng Vi 赤 項 圍, La Cách Vi 羅 格 圍, Long Lợi Vi 龍 利 圍, Đại Hữu Vi 大 有 圍v.v. 25. “Cơ 基” là đê quai, Quai=Cơ. Như Quảng Châu có Lê Gia Cơ 黎 家 基, Thủy Tùng Cơ 水 松 基v.v. Đến đời Đường, ở Trung Nguyên, mà Võ Tắc Thiên vẫn còn lưu luyến tiếng Việt: Võ Tắc Thiên là tên đời sau gọi nữ hoàng đế họ Võ. Tên đó lần đầu tiên xuất hiện là trong cuốn “Tắc Thiên thực lục” biên soạn năm 721, đời Đường Khai Nguyên năm thứ 9. Nguyên do là khi đang chấp chính, hoàng đế họ Võ đã từng đứng trên Tắc Thiên Môn tuyên bố rằng đổi lại quốc hiệu Đường 唐 thành quốc hiệu Chu 周, tự lập là Võ Chu Hoàng Đế (năm 690-705), định đô ở Lạc Dương kèm tên là Thần Đô. Bà tên thật là Minh Không “曌”, là pháp danh của Bà, vì Bà rất sùng đạo Phật.( Chữ Minh Không gồm Trời ,Trăng và Không, có nghĩa là chiếu sáng trên trời, cũng có thể đọc là Chiếu, sau Bà ngự triều tự xưng là Chế). Chữ Minh Không 曌này là một trong 19 chữ cổ, đương thời không dùng nữa, gọi là chữ chết, khi Võ Tắc Thiên xưng đế Bà đã đem phục hồi lại rồi dùng, sau khi Bà mất, những chữ đó đời sau lại không dùng nữa, cũng dần dần quên lãng. Ví dụ chữ cổ mà Bà đem dùng lại như: Minh Không 曌 (nghĩa là Chiế u照), Nguyệt 月(là Vuông Con 囝 ), Địa (là Đất Nước Non 埊 ), Quốc 国(đổi là Vuông trong có Tám Hướng 圀,hay là ý muốn nói Vùng có Bát Quái?) , Nhân 人 ( đổi là 玍 , chữ này từ điển Hán ngữ đọc là “Cả” , giải thích là phương ngữ, nghĩa là “tính khí không ra gì”, nhưng Việt ngữ thì Cả=Kẻ=Ca=Con tức con người), Chính 正(đổi là 缶 ) v.v. Ngoài ra , sách “Cựu Đường Thư” còn ghi rõ, khi Võ Tắc Thiên đổi Đường thành Chu thì đồng thời các địa danh có “Hoa” như Hoa Nguyên 华 原, Hoa Châu Thượng Phố 华 州 上 辅, Hoa Âm 华 阴, Hoa Đình 华 亭, Hoa Dung 华 容, Giang Hoa 江 华v.v. đều bị gạch bỏ chữ “Hoa”, đến khi Đường Trung Tông phục vị mới lại đổi về có “Hoa” như tên cũ . Học giả Trần Dương 陈 洋khi tra sử liệu còn phát hiện, thậm chí như Hoa Sơn 华 山 Tây Nhạc 西 岳 thời Võ Chu cũng bị đổi thành Thái Sơn 太 山. Võ Tắc Thiên còn tự lập bia cho mộ của mình, gọi là “Vô Tự Bi”. Đến thời Tống, Kim về sau nhiều người vì thấy tên là “Vô Tự Bi” nên đề chữ nhằng nhịt lên đó. Người đời sau không đoán được dụng ý của Bà lập “Vô Tự Bi” là gì, cho rằng Bà để cho hậu thế tự luận công tội của Bà, có người lại cho rằng Bà kiêu ngạo ngầm ý không văn tự nào diễn tả được về bà. Nhưng điều đáng nói nhất là trên “Vô Tự Bi” không phải là không có chữ, mà là có khắc một loại chữ dân tộc thiểu số mà ngày nay thứ chữ ấy đã tuyệt diệt, chỉ còn “Vô Tự Bi” của Võ Chu là đang bảo tồn được văn tự ấy( theo mạng Trung Quốc, không có hình ảnh, không biết thứ chữ ấy là thuộc văn tự gì). Võ Tắc Thiên sinh tại Lợi Châu (nay là tp Quảng Nguyên tỉnh Tứ Xuyên) ngày 17-2-624 ( năm Đường Cao Tổ Võ Đức thứ 7), mất ngày 16-12-705, thọ 82 tuổi. Bà là Hoàng Hậu đời Đường Cao Tông (655-683), là Hoàng Thái Hậu đời Đường Trung Tông (683-690), là Võ Chu Hoàng Đế (690-705). Võ Tắc Thiên là con gái thứ của Võ Sĩ Hộ 武 士 彠, là công thần khai quốc của nhà Đường, tuy là công thần khai quốc nhưng cũng chỉ được xếp hạng thứ tộc là hàng thấp chứ không phải là thế tộc. Tên thật của bà không rõ là gì. Năm Bà 14 tuổi được vào cung làm Tài Nhân (Chánh ngũ phẩm, cũng là hàng thấp), Đường Thái Tông đặt tên cho là Mị, gọi là Võ Mị Nương 武 媚 娘. Đời Cao Tông, Bà có tôn hiệu là “Thiên Hậu”. Đời Trung Tông, Bà là Hoàng Thái Hậu, khi lâm triều xưng là Chế, sau đổi là Minh Không. Sau khi xưng đế thì lấy tôn hiệu là “Thánh Thần Hoàng Đế”, sau khi thoái vị đổi tôn hiệu là “Tắc Thiên Thuận Thánh Hoàng Hậu”. Sau khi Bà mất, thụy hiệucủa Bà được thay đổi nhiều: Thiên Hậu (710), Đại Thánh Thiên Hậu (710), Thiên Hậu Thánh Đế, Thánh Hậu (712), Tắc Thiên Hoàng Hậu (716), Tắc Thiên Thuận Thánh Hoàng hậu (749),Thánh Mẫu Thần Hoàng, Thánh Thần Hoàng Đế, Kim Luân Thánh Thần Hoàng Đế, Việt Cổ Kim Luân Thánh Thần Hoàng Đế, Từ Thị Việt Cổ Kim Luân Thánh Thần Hoàng Đế, Thiên Sách Kim Luân Thánh Thần Hoàng Đế, Tắc Thiên Đại Thánh Hoàng Đế, Tắc Thiên Đại Thánh Hoàng Hậu. Tên thường gọi nhất mà đời sau gọi Bà là Võ Tắc Thiên hay Võ Hậu. Cống hiến của Võ Tắc Thiên đối với lịch sử được đời sau đánh giá như sau: Đánh tan cái cửa van quí tộc trong tuyển dụng nhân tài; Phát triển mạnh kinh tế; Giữ ổn định đất nước bằng chính sách dân tộc ôn hòa; Phát triển văn hóa. Các tác phẩm của Võ Tắc Thiên: “Thùy Củng Tập” 100 quyển, “Kim Luân Tập” 10 quyển, đã thất tán, thơ 46 bài, biên trong “Kim Đường Văn”.
  24. Lời Phật Phật rằng: “Phúc họa tự Con Trên trời, dưới đất, độc tôn chính mình” (Con người là chủ kiếp sinh Không làm nô lệ hư vinh bên ngoài) “Duyên sinh” giáo lý dạy rồi Nhiều duyên thành vật, hết thời lại tan. “Ta là tối thượng thế gian” (Chẳng do tạo hóa thượng ngàn sinh ra, Cuộc đời muôn sự tại Ta Giàu, nghèo, sướng , khổ do Ta tự làm, Bắt đầu do tự cái tâm Tự mình quyết định mình làm mọi khi Không tự giác ngộ tức thì Xấu xa , phù phiếm sẽ trì giữ Ta Thành ra ngu muội, sa đà Chẳng nguyền nào ứng, sự là do Ta). Đạo Phật lương thiện, vị tha Đến chùa ta cảm thấy ta gần Người Nơi chùa gội sạch bụi đời Dành được giây phút xa thời bon chen Xua tan buồn nản, thấp hèn Do cảnh mộc mạc, tĩnh thiền tạo nên Con người trần tục bước lên Đắm mình với cảnh diệu huyền mênh mang Tâm hồn thanh thản lạ thường Quyện hồn dân tộc cửu trường nghìn xưa “Quê tôi có gió bốn mùa Có trăng giữa tháng, có chùa quanh năm Chuông hôm gió sớm trăng rằm Chỉ thanh đạm thế, âm thầm thế thôi” Mà sinh dân tộc tuyệt vời Vững bền văn hóa, cây đời mãi xanh.