PhươngHồng

Hội viên
  • Số nội dung

    282
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

Everything posted by PhươngHồng

  1. http://www.lyhocdongphuong.org.vn/forum/public/style_emoticons/default/grin.gif Friendship, Relationship, and Loving-kindness Tình bạn, Mối quan hệ và Tâm từ ái What is the key to people’s hearts? (Understanding.) Chìa khóa để mở ngỏ tâm hồn mọi người là gì ? (sự thấu hiểu) The most valuable thing in life is relationship (friendship). Điều quý giá nhất trong cuộc đời là những mối quan hệ (tình bạn). Life cannot be real if relationships are not real. Cuộc sống sẽ không bao giờ là thực nếu không có những mối quan hệ thực sự. Relationship is sacred. Mối quan hệ là điều thiêng liêng. The best thing I can give you is my friendship. Điều tốt nhất tôi có thể dành tặng bạn chính là tình bạn của tôi. Relationship is the source of the greatest joy and the greatest mental suffering. Mối quan hệ là nguồn gốc của niềm vui lớn nhất và đau khổ tinh thần lớn nhất. The quality of our life depends much on the quality of our relationship with people around us. Chất lượng cuộc sống của chúng ta phụ thuộc nhiều vào chất lượng của những mối quan hệ với những người xung quanh. It is nice to have good friends. Life would be so flat without kalyana mittas (noble/spiritual friends). Thật tốt khi có được những người bạn tốt. Cuộc sống sẽ trở nên tẻ nhạt nếu không có những thiện trí thức (những người bạn tinh thần/ những người bạn hướng thượng). How rare it is to have a friend. Thật là hiếm để có được một người bạn. Dear friend, I don’t have many friends left. So I value whatever friends I still have. Bạn mến, tôi không còn lại nhiều bạn bè. Vì vậy, tôi coi trọng những người bạn mà tôi vẫn đang có. To have a friend is one of the most wonderful experiences in life. To develop a deeper and deeper understanding of oneself and the world is also very wonderful. For me understanding is the most satisfying thing in life. Có được một người bạn là một trong những kinh nghiệm tuyệt vời nhất trong cuộc đời. Để phát triển một sự hiểu biết ngày càng sâu sắc về chính mình và về thế giời cũng rất tuyệt vời. Với tôi sự hiểu biết là điều thỏa mãn nhất trong cuộc đời. There is no time and space in our friendship. Không có thời gian và khoảng cảnh trong tình bạn của chúng ta. I have made many new friends with whom I can relate to; I don’t expect anything from them: just open-hearted, free-flowing communication. Tôi có nhiều bạn mới, những người mà tôi có thể chơi; tôi không trông đợi bất cứ điều gì từ họ: chỉ giữ tâm cởi mở, tự do giao thiệp. Yes, I also have "deeper cravings for some kind of sincere companion". Đúng, tôi cũng có "những dính mắc sâu sắc với một số tình bạn chân thành". I want my relationship with you, with him, with my daughters, with my former wife to be a nurturing, nourishing relationship. Tôi mong muốn mối quan hệ với bạn, với những đứa con của tôi, cả với mẹ của chúng nữa, được nuôi dưỡng, những mối quan hệ được nuôi dưỡng. Relationships with people are not really reliable in most cases. Most relationships are just games. An honest, open, sincere, genuine, non-manipulative, non-domineering relationship, where there is mutual respect and trust, and which does not have unrealistic expectations - is such a relationship possible? Những mối quan hệ với mọi người thì đều không thực sự đáng tin cậy trong hầu hết các trường hợp. Một mối quan hệ trung thực, cởi mở, chân thành, không lôi kéo, áp đặt, nơi có sự tôn trong và tin tưởng lẫn nhau, và không có những điều mong đợi không thực tế - liệu có thể có mối quan hệ như vậy không? I want to quote from C. Roger’s book Freedom to Learn: Tôi muốn trích dẫn từ cuốn sách của C.Roger "Tự do để học hỏi" : Furthermore, I have no desire to instruct my readers, or impress you with my knowledge in this field. I have no desire to tell you what you should think or feel or do. Hơn nữa, tôi không có mong muốn để hướng dẫn đọc giả, hoặc gây ấn tượng với bạn bằng kiến thức trong lãnh vực này. Tôi không có mong muốn để nói với bạn về những điều bạn nên suy nghĩ, cảm nhận, hay hành động. The only solution I have come up with is that perhaps I can share something of myself, something of my experience in interpersonal relationships, something of what it has been like to be me, in communication with others. Lời giải đáp duy nhất gần với nó mà tôi có đó là tôi có thể chia sẻ điều gì đó thuộc về bản thân, điều gì đó thuộc về những kinh nghiệm của tôi trong mối quan hệ với những cá nhân, điều gì đó giống như là tôi, khi giao thiệp với người khác.
  2. Cháu có biết 1 bài pháp về chủ đề này , cháu cop len mọi người ai quan tâm thì nghe ạ :D Đây là bài pháp của ngài Ajahn Chah giảng cho một cụ già trước lúc cụ lâm chung. Ngài dạy về bản chất của thân, tâm này và cách buông xả nó để có được một cái chết thanh thản, một sự chuẩn bị tốt đẹp cho kiếp sống kế tiếp. http://www.trangsuoitu.net/DocSach/NgoiNhaThucSuCuaTa.mp3
  3. Cụ già trăm tuổi kể chuyện quan tài trong hang động 24-05-2010 Người dân xã Trung Xuân (Quan Sơn, Thanh Hóa) đã phát hiện trên những ngọn núi ở đây có nhiều hòm đục bằng thân cây gỗ. Những chiếc quan tài này nằm cheo leo trên đỉnh núi dựng đứng khiến cho dân làng có nhiều câu hỏi lớn chưa có lời giải đáp. Phóng viên đã vượt qua nhiều vách núi và tận mặt chứng kiến kiểu an táng độc đáo này…Tìm nguồn nước, ra hài cốt Anh Hà Văn Hùng, Phó chủ tịch UBND xã Trung Xuân kể cho chúng tôi nghe về câu chuyện lạ kỳ trên núi Phá Họ (người dân thường gọi là núi “trời kêu”). Năm 1997, thời tiết khô hạn, dòng sông Lò chảy qua 5 bản trong xã cạn khô, người dân trong bản phải đi tìm nguồn nước khắp nơi. Ở trước làng có ngọn núi Phá Họ. Núi có nhiều đỉnh thác cheo leo, đến cả những tay thợ săn lão luyện trong bản cũng không dám trèo lên. Trong khi đó, nguồn nước người dân tìm được ngày càng nhỏ giọt. Anh Hùng đánh liều mang theo dây thừng, leo lên đỉnh núi tìm nguồn nước. Nhiều thân gỗ đã mục theo thời gian. Vượt qua các vách đá cheo leo, nham nhở trong suốt 3 giờ đồng hồ, cuối cùng anh Hùng đã lên đến gần đỉnh núi. “Trước mắt tôi hiện ra những chiếc hòm làm từ thân cây gỗ lớn, nằm cheo leo trên vách đá của hang. Dưới cái hang đó là một nguồn nước trong mát. Đi sâu vào bên trong hang còn sót lại bộ hộp sọ to và xương ống chân rất dài. Tôi đã mang chiếc hộp sọ về bản cho mọi người cùng xem. Đây có thể là nơi sinh sống của một gia đình của bộ tộc nào đó.” Được anh Hùng dẫn đường, chúng tôi đã “đột nhập” hang “trời kêu”. Tôi được tận mắt chứng kiến những chiếc hòm được làm bằng các loại thân gỗ quý như lim, lát, pơmu… Một cảm giác rờn rợn gợn lên trong tôi khi nhìn vào những bộ xương người đã bị phân hủy. Duy nhất chỉ còn một bộ xương còn nguyên hộp sọ và xương ống chân. Trong hang có các vật dụng sinh hoạt hằng ngày làm bằng đồ gốm như bát, chum, am… Anh Hùng cho biết, cách đây hơn 10 năm, những bộ hòm bằng gỗ còn nguyên vẹn. Rồi người ta kháo nhau rằng, đây là nơi sinh sống của một bộ tộc giàu có. Sau khi bị diệt vong thì họ để lại nhiều đồ trang sức. Người dân đổ về lùng sục, đập nát các thân gỗ để tìm châu báu. Nay, chỉ còn khoảng 10 bộ hòm bằng thân gỗ tương đối nguyên vẹn. Còn lại là một đống hoang tàn, vỡ nát… Kho quan tài của người xưa? Từ trung tâm xã Trung Xuân, vượt qua con đường núi hiểm trở và dòng sông Lò chảy xiết, hơn 2 giờ đồng hồ sau chúng tôi mới có mặt tại bản Muống. Ngọn núi Pha Dờn được người dân nơi đây ví như “nóc nhà Đông Dương”. Nó không chỉ cao nhất nhì Huyện Quan Sơn mà nếu nhìn từ dưới lên đỉnh núi cheo leo trên một vách đá, với các tảng đá dựng đứng. Điều kỳ lạ là trên đỉnh núi đó lại có một chiếc hang chứa rất nhiều hòm đục bằng thân cây. Hơn 20 năm về trước, trong một lần đi săn, anh Hà Văn Thủy đã bắn một con khỉ bị thương. Lần theo vết máu, anh tiến dần về hướng khỉ chạy thì giật mình kinh hãi khi thấy trong hang có rất nhiều hòm làm bằng thân cây. Thần hồn nát thần tính, anh phi một mạch về bản kể cho người dân nhưng không ai tin. Cũng đúng, bởi đây là địa điểm mà chưa một người dân địa phương nào đặt chân đến. Khi trấn tĩnh lại, một mình anh lại cất công trở lại hang, treo một chiếc bao tải lên thân cây, cắm ra cửa hang để đánh dấu. “Ngọn núi này toàn là đá tai mèo, vách đá thẳng đứng nhưng biết đường lên cũng không khó lắm. Nguy hiểm nhất ở đoạn giữa có nhiều đá, sảy tay cái coi như mất mạng. Nhiều người lên đến gần nửa đã phải đầu hàng vì không biết đường đi lòng vòng, không còn sức để leo tiếp nên phải lùi bước”, anh Thủy cảnh báo. Vượt qua nhiều hang đá, vách núi cheo leo, cuối cùng chúng tôi đã lên được hang hòm. Đây là một chiếc hang rộng chừng 20m2, trên có một cây gỗ vắt ngang, mà theo ông trưởng bản Hà Văn Muông thì cây gỗ này được dùng để bảo vệ hang và để treo đồ đạc. Trải qua hàng mấy trăm năm nhưng thân hòm vẫn còn nguyên vẹn. Theo quan sát của chúng tôi, trong hang hiện có gần 30 bộ hòm, tức gần 60 miếng gỗ úp lại với nhau. Các hòm này lại có các kích cỡ khác nhau như loại lớn nhất có bán kính 50cm, nhỏ hơn thì 40cm. Ở phần đầu thân gỗ được đục rộng hơn so với phần thân và cả 2 đầu đều có hai chốt để định vị vị trí khi chôn cất. “Hòm này làm chủ yếu bằng gỗ gụ, dổi, nghiến… cũng phải đến 300 – 400 năm nhưng gỗ vẫn còn rắn chắc, còn nguyên bản”, anh Thủy quả quyết. Điều lạ là đây lại toàn là những chiếc hòm đã được mở nắp, nhìn vào bên trong không có bất cứ cái gì. Một số người phỏng đoán, có thể nơi đây được người xưa làm nơi chứa hòm để khi người mất mang xuống dưới chôn cất… Chỉ nghe kể lại Đem theo những điều bí ẩn về những chiếc hòm trên đỉnh núi, chúng tôi gặp cụ Hà Văn Khái ở bản Muỗng. Chốn cao sơn dường như đã tiếp thêm sức mạnh cho cụ già hơn trăm tuổi nhưng vẫn còn minh mẫn này. Cụ Khái cho biết, cụ cũng chỉ được nghe ông bà kể lại rằng ngày xưa ở khu vực này có rất nhiều dân tộc khác nhau. Nhiều dân tộc bị tàn sát và phải ẩn nấp vào các hang núi, nên cũng không biết được những người lên trên hang đó là người gốc ở đâu. Các hang có chứa hòm bằng thân gỗ và xương người, trước đây cụ cũng chưa nghe thấy bao giờ. Phong tục của người Thái lấy gỗ về đục thân làm hòm, chôn cất người mất là có từ lâu đời. Trong mỗi gia đình, nhất là nhà có người từ độ tuổi 50 trở lên phải có ít nhất 1 – 2 bộ hòm đục bằng thân cây gỗ tốt. “Trước khi bỏ hòm vào huyệt đạo, phải lấy than từ gỗ để lót một lớp xuống dưới hòm và một lớp than trên hòm rồi mới lấp đất vào. Ngày xưa hỏa táng xong thì lấy tro để chôn, giờ không hỏa táng thì lấy than củi lót xuống dưới với mong muốn người mất đi sẽ được ấm áp, yên lành”, cụ Hà Văn Khái cho biết. “Ngày xưa tôi có nghe cụ đẻ ra bố tôi kể lại về một bộ tộc chân vòng kiềng, bàn chân to, thân người cao lớn, tiếng Thái họ là “người giới”. Người giới đi khai hoang nương rẫy, họ đã có thể làm ra gốm với nhiều loại hoa văn đẹp, được tìm thấy tại các ruộng trong bản. Họ có nhiều đổi mới trong trồng lúa trên các nương rẫy nên đời sống họ rất ổn định. Không hiểu sao họ đã bị một đội quân Hán từ bên Quan Hóa sang giết hại nên bị diệt vong”.Ông Hà Văn Bình (Chủ tịch UBND xã Trung Xuân). Giả thuyết mới về "mai táng treo" Căn cứ vào số lượng quan tài nhiều và kích thước lớn nhỏ khác nhau, có thể động có chứa quan tài treo ở huyện Quan Hóa (Thanh Hóa) là khu mộ của các gia tộc lớn. Nếu không phải của Thượng tướng quân Khằm Ban thì cũng là người có thế lực khác như các tạo mường, tạo cai, mụ mường, họ luông... >> Bí ẩn chưa có lời giải về động Hang Ma ở Mộc Châu Năm 2007, trên Báo CAND - Chuyên đề ANTG, chúng tôi đã đưa những thông tin về việc phát hiện những cỗ quan tài độc mộc, có cỗ dài tới 2,8m, rộng 0,48m nằm trong hang động trên vách đá cheo leo từ ngàn năm trước ở huyện Quan Hóa (Thanh Hóa). Các nhà khoa học đã vào cuộc, đi tìm lời giải cho câu hỏi: Chủ nhân của những cỗ quan tài này là ai? Tại sao những cỗ quan tài nặng cả trăm kilôgam ấy lại được đưa lên hang đá cheo leo mà không phải là "thổ táng", "thủy táng", "hỏa táng" hoặc "điểu táng"…? Phát hiện thêm nhiều quan tài cổ treo Trong khi những bí ẩn xung quanh các động có chứa quan tài treo ở huyện Quan Hóa (Thanh Hóa) vẫn chưa có lời giải thích thỏa đáng, thì một ngày nắng nóng tháng 5/2010, chúng tôi nhận được thêm thông tin từ người dân địa phương: Tại huyện miền núi, biên giới Quan Sơn (Thanh Hóa), gần đây liên tiếp phát hiện thêm nhiều hang động treo các quan tài cổ tương tự. Số lượng hang động nhiều hơn, số quan tài cũng nhiều không kém. Chúng tôi hăm hở lên đường. Huyện Quan Sơn nằm cuối quốc lộ 217A, giáp nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, cách trung tâm TP Thanh Hóa chừng 140km về phía Tây Bắc, cách Hà Nội gần 200km (đi theo quốc lộ 6 rồi rẽ vào đường 20B). Quan Sơn vốn được tách ra từ huyện Quan Hóa cũ, có 4 dân tộc anh em Thái, Mường, Mông, Kinh sinh sống trên nền đất cũ của Châu Quan Da cổ xưa, với các tổng Cổ Nam, Tam Lư, Hữu Sơn, Hữu Thủy. Những hang động mà người dân cho biết, đều nằm dọc theo dòng sông Lò, một trong những nhánh đầu nguồn của dòng sông Mã sau khi bôn ba trên đất bạn trở về đất Việt, cách động quan tài Quan Hóa chỉ chừng vài chục kilômét theo đường chim bay. Vách núi cửa hang Pha Quen, nơi có chứa các quan tài cổ. Anh Ngân Văn Hà, 45 tuổi, người dân tộc Thái, cẩn thận giắt dao rừng, cài chiếc đèn soi lên trán, rồi hăm hở dẫn chúng tôi rời bản đến chân ngọn núi đá dựng đứng nằm ngay kề dòng sông Lò, thuộc bản Máy (xã Trung Thượng, huyện Quan Sơn, Thanh Hóa). Đường chinh phục vách núi Pha Hang Quen cực kỳ mạo hiểm. Hang núi Pha Quen không rộng và sâu như động Pó Cúng (hay Hang Ma, Lụng Buốc Mu) bên huyện Quan Hóa, mà khá tối và chật hẹp vì chỉ có một cửa động. Động sâu chừng 15m, cao hơn 7m, khá khô thoáng, nhưng đầy mùi ẩm mốc. Các cỗ quan tài đều đã không còn nguyên vẹn và sắp xếp khá lộn xộn, hoặc do thời gian phong hóa, hoặc do bàn tay của một số người dân vô ý thức xâm hại. Chiếc quan tài lớn nhất dài chừng 2,7m, rộng khoảng 0,4m, nhỏ hơn một chút so với cỗ quan tài lớn nhất bên động Pó Cúng (Quan Hóa), và có khá nhiều quan tài nhỏ. Cách quần thể hang động núi Pha Hang Quen không xa, ở các hang núi của Pha Dờn (bản Muỗng, xã Trung Xuân, Quan Sơn) cũng còn khá nhiều cỗ quan tài như vậy. Đường lên hang núi Pha Dờn xa và hiểm trở hơn nhiều, nhiều đoạn phải dùng dây thừng để đu bám vào các vách đá, đi phải mất chừng nửa buổi mới leo đến nơi được. Hang núi Pha Dờn rộng rãi, cao thoáng như trong lòng một ngôi nhà sàn lớn, có nhiều hang hốc bên trong. Theo số đếm của anh Hà Văn Niêm, Trưởng bản Muỗng, trong hang chứa hơn 50 tấm "thuyền", tức gần 30 bộ quan tài cổ. Ấy là chưa tính, phía dưới cuối hang vẫn còn một hố sâu chừng 2m, như một chiếc giếng rộng, do không đủ đèn đuốc, dây rợ, nên chưa ai dám vào khám phá tận cùng hang núi. Anh Đinh Công Báo, cán bộ văn hóa xã Trung Xuân cho biết thêm: "Vẫn trong ngọn núi Pha Dờn này, người dân địa phương vừa phát hiện thêm một hang núi khác, có chứa nhiều quan tài, ước tính khoảng 40 - 50 bộ. Đường vào hang núi này còn hiểm trở, xa xôi hơn, nên nhà báo chưa vào khám phá được đâu. Cũng như ở các hang động khác, số quan tài ở đây cũng mục ruỗng khá nhiều do thời gian để trong hang động đã quá lâu". Người Thái cổ có phải là chủ nhân? Như đã nói, năm 2007, dư luận xôn xao về việc lần đầu tiên phát hiện động quan tài bí ẩn ở Quan Hóa, các nhà khoa học đã vào cuộc, đưa ra nhiều giả thuyết để lý giải bí ẩn. Nhưng mỗi giả thuyết đều chưa đi đến tận cùng sự việc, chưa xác định đích danh chủ nhân của các cỗ quan tài, mà gọi chung chung là người xưa; chưa chứng minh được phương pháp vận chuyển, đưa các cỗ quan tài lên hang núi cheo leo khả thi nhất… Tuy nhiên, với ý thức bảo tồn và phát huy di tích độc đáo, từ năm 2007, huyện Quan Hóa đã tiến hành xây dựng dự án du lịch tâm linh cho khu vực Hang Ma, trong tuyến du lịch cộng đồng chung của tỉnh Thanh Hóa và các tỉnh bạn. Những dấu tích huyền quan táng còn lại trong các hang động tại Thanh Hóa. Tiến sĩ Nguyễn Gia Đối nhận định: "Chủ nhân của những cỗ quan tài chắc chắn là một tộc người thuộc dòng Bách Việt, đã cư trú ở vùng đất Quan Hóa từ ngàn năm trước". Khi vị tộc trưởng uy tín người Thái ở huyện Quan Hóa cũ (huyện Quan Sơn mới tách ra từ năm 1997), ông Phạm Hồng Nêu chưa qua đời, có trao đổi với người viết bài một giả thiết rằng: chủ nhân của những hang động quan tài này là những người Thái cổ. Vì người Thái từng sống ở đây từ rất lâu đời, những hang động phát hiện ở xã Trung Xuân, Trung Thượng (Quan Sơn) đều thuộc đất Mường Chự, tổng Cổ Nam; động Pó Cúng (Quan Hóa) thuộc Mường Ca Da của người Thái cổ. Căn cứ vào số lượng quan tài nhiều và kích thước lớn nhỏ khác nhau, có thể đây là khu mộ của các gia tộc lớn, có địa vị trong cộng đồng. Nếu không phải của Thượng tướng quân Khằm Ban (còn gọi là Chu Kha Lài - người xăm mình; trấn giữ toàn bộ miền biên viễn phía Tây Tổ quốc thời Hậu Lê), thì cũng là người có thế lực khác như các tạo mường, tạo cai, mụ mường, họ luông... Phải là người giàu có, thế lực thì mới tập hợp được một số lượng người đông đảo, đủ sức đưa các cỗ quan tài lên động. Và cũng phải là mộ phần của một gia tộc, vì có nhiều cỗ quan tài lớn nhỏ trong động không chứa xương, chưa từng có dấu tích mai táng. Người ta để dành để táng cho những người có thân phận đặc biệt khác chăng? Tiến sĩ Nguyễn Gia Đối cho biết: "Mấy năm nay, việc nghiên cứu vẫn dừng lại tại chỗ, chưa có gì mới hơn", điều đó đồng nghĩa, trước khi tính đến phát huy giá trị di tích, người dân địa phương, du khách cần hiểu rõ và có ý thức bảo tồn các hang động kỳ lạ này. Như ông Lò Đình Múi, Chủ tịch UBND huyện Quan Sơn khẳng định: "Trước mắt, cán bộ địa phương đã đến các hang động trên địa bàn để tìm hiểu, báo cáo cơ quan chức năng cấp trên; đồng thời chỉ đạo thực hiện bảo tồn nguyên trạng, không để người dân tự ý vào các hang động chứa những dấu tích của người xưa này". Sau khi khám phá các hang động có chứa quan tài mới ở Quan Sơn trở về Hà Nội, chúng tôi có hỏi ý kiến của Tiến sĩ Nguyễn Gia Đối (Viện Khảo cổ học), người đã trực tiếp tham gia nghiên cứu thực địa hàng tháng trời về các quan tài treo tại Thanh Hóa trước đây. Tiến sĩ Nguyễn Gia Đối vẫn giữ nguyên quan điểm "giải mã" của mình xung quanh hình thức đưa các quan tài vào treo trong hang động quan tài này. Những bí ẩn tại hang động ở Quan Sơn cũng tương tự, gần như trùng khớp với bí ẩn tại hang động Quan Hóa, nên hoàn toàn có thể giải thích được. Việc các quan tài được đưa vào treo trong động núi mà không chôn vùi, hỏa táng…, thuật ngữ chuyên ngành khảo cổ gọi nghi thức mai táng này là "huyền quan táng", "nhai táng chế", "nhai động táng" hay "ma nhai táng". Từ chữ "huyền", "nhai" (vách núi đá dựng đứng) kết hợp với chữ "động" (hang động) hoặc chữ "quan" (quan tài) cho ta hình dung rằng, đây là hình thức để đưa quan tài của người chết vào an nghỉ trong các hang động trên vách núi đá cao, thẳng, thường là bên các con sông suối lớn.
  4. <h1 id="title" class="title">Giếng trời trên vách núi</h1> 23/04/2010 06:37:04 - Đồng bào dân tộc Ma Coong trên xã Thượng Trạch bảo: nhờ có giếng trời linh thiêng trên đỉnh núi nên họ mới tồn tại đến ngày hôm nay. Chiếc giếng nhỏ, đầy nước xuất hiện bất ngờ giữa đỉnh núi đã cứu vớt cả dân làng trong những ngày chiến tranh chống Mỹ. TIN LIÊN QUAN Nung dao đỏ rực và... liếm Thoát chết nhờ giếng trời Ông Đinh Hợp, chủ tịch xã Thượng Trạch kể rằng: Thời chiến tranh, đường 20 là điểm bị bắn phá ác liệt của tỉnh Quảng Bình. Nằm ngay bên con đường này, xã Thượng Trạch nhiều lần bị bom đạn Mỹ oanh tạc dữ dội. Trong một lần mưa bom bão đạn, cả xã Thượng Trạch đã phải kéo nhau lên ngọn núi cao nhất đầu làng để tránh bom. Khi lên đến chót vót của đỉnh núi, hàng trăm người dân đã chọn vách đá làm nơi trú ẩn an toàn. Giếng trời rất sâu và nước luôn trong vắt. Thế nhưng, vừa thoát được bom đạn người dân lại phải đối diện với nguy cơ chết khát. Lúc chạy tránh bom chẳng ai còn nhớ đến một điều rằng trên ngọn núi này chẳng có lấy một giọt nước, chỉ đến lúc khát cháy họng mọi người mới hốt hoảng nhớ đến. Bom vẫn rơi, đạn vẫn nổ, hàng trăm người dân vẫn khát cháy cổ họng trên núi cao. Xuống làng sẽ bị chết vì bom, cố thủ trên núi sẽ chết khát. Sau nhiều ngày sống trong vô vọng nhiều người đã nghĩ đến cái chết đang chờ đợi trước mắt. Đúng lúc đó như có thần linh mách bảo, mấy người dân leo lên trên ngọn núi đá cao nhất hướng mắt về bản làng đang mịt mù khói lửa thì bất ngờ phát hiện ra giếng nước. Với người dân Ma Coong, núi rừng là nhà, mọi lùm cây bụi cỏ họ đều nắm như lòng bàn tay thế nhưng khi gặp chiếc giếng ai cũng phải bất ngờ. Giếng lại nằm ở vị trí rất... ngược đời, đó là trên mỏm đá. Một mỏm đá nhô lên cao và ở giữa là chiếc giếng tròn vành vạnh, nước dâng cao trong veo. Cả khu rừng không có nước, các vách đá không có nước ấy vậy mà trên ngọn núi đá lại mọc ra chiếc giếng, vì sự kỳ lạ đó nên người dân nơi đây gọi là "giếng trời". Điều lạ nữa là giếng nhỏ nhưng cả trăm người dùng vẫn không thể khô cạn. Giếng kiêng... phụ nữ Trong câu chuyện có một chi tiết nửa hư nửa thật đó là giếng rất "kỵ" những phụ nữ đang thời kỳ kinh nguyệt hoặc những người mới sinh nở (?!). Anh Đinh Toại, một người dân địa phương khẳng định chắc như đinh rằng đó hoàn toàn là sự thật. Ngày trước chính anh cũng chạy lên núi và sống nhiều ngày bên chiếc giếng. Theo Đinh Toại, có lần, một người phụ nữ đến bên giếng để lấy nước, bất ngờ giếng sôi ùng ục, đang trong lành, bùn đất từ dưới giếng đùn lên khiến mọi người kinh ngạc. Chỉ khi người phụ nữ này rời khỏi giếng, nước mới thôi gầm rú và trong xanh trở lại. Không chỉ một lần mà rất nhiều lần như thế, đi tìm nguyên nhân mọi người mới tá hỏa biết rằng, chỉ những người phụ nữ sau khi sinh và thời kỳ kinh nguyệt đến gần, giếng mới "nổi đóa" như vậy. Chặt cây nứa dài 6 - 7m cắm xuống nhưng vẫn chưa thấy đáy giếng ở đâu. Anh Đinh Toại đã tình nguyện dẫn chúng tôi lên đỉnh núi xem giếng. Vượt qua những khu rừng thâm u rậm rạp vô vàn rắn rết, nơi có bạt ngàn những cây cổ thụ ba bốn người ôm không xuể, mấy tiếng đồng hồ sau mới lên đến đỉnh núi. Sau nhiều năm không có người lên núi, rừng cây giờ cũng rậm rạp hơn nên mất rất nhiều thời gian Đinh Toại mới định vị được vách đá nơi có giếng trời. Sự xuất hiện chiếc giếng trên vách đá rất đúng với những câu chuyện chúng tôi đã được nghe. Giếng tròn, đẹp, nước trong xanh như có bàn tay của con người tạo thành. Chặt cây nứa dài 6 - 7m cắm xuống nhưng vẫn chưa thấy đáy giếng ở đâu. Chắc chắn giếng rất sâu. Chiếc giếng kỳ lạ trên vách đá là có thật, chỉ riêng chuyện "kiêng khem phụ nữ" thì chúng tôi chẳng có cách nào để kiểm chứng. Từ ngày có giếng trời, khu rừng này được gọi là rừng thiêng, người dân bảo vệ rất nghiêm ngặt. Cả một khu rừng nguyên sinh rộng lớn che chở cho cả xã Thượng Trạch. Ném trứng chọn đất Thiếu tá Hoàng Văn Đức kể rằng, ngày mới chân ướt chân ráo đặt chân lên mảnh đất miền biên viễn này anh lập tức được đồng chí đồn trưởng nắn gân: "Trên này ma dữ lắm đồng chí ơi, lúc nào có người chết tôi dẫn đi mà xem, lạ kỳ như người ta làm... ảo thuật vậy". Phong tục của người Ma Coong là khi có người chết, người cao tuổi nhất trong dòng tộc sẽ làm chủ lễ tang. Người ta không đào huyệt mộ trước như người dưới xuôi mà chỉ đến khi đưa xác người chết đến khu vực chôn cất, lúc đó mới tiến hành làm lễ tìm chỗ để đào huyệt mộ. Theo đó, người cao tuổi của dòng tộc sẽ mang theo một quả trứng sống. Khi đến nơi người này sẽ khấn vái xin thần linh một chỗ đất để mai táng. Nếu tung quả trứng sống lên trời trứng rơi xuống đất không vỡ nghĩa là chỗ đó không được và ngược lại. Giếng nhỏ nhưng cả trăm người dùng vẫn không thể khô cạn. Chuyện mới nghe thật hoang đường, trứng nào ném lên rơi xuống đất chẳng vỡ, thế nhưng đồng chí đồn trưởng quả quyết là có thật. Nhân một lần trong xã có người qua đời, đồn biên phòng đã kéo theo 20 người đi đám tang, thật ra là để kiểm chứng câu chuyện khó tin trên. Khi đến vùng đất trống khô cằn, thiếu tá Đức chắc bẩm ném trứng lên rơi xuống kiểu gì chả vỡ tung. Mọi người chăm chú nhìn theo từng động tác của người chủ tế. Sau bài khấn vái, người này tung quả trứng sống lên trời, trứng rơi xuống lăn lông lốc mà chẳng chịu vỡ. Hướng về hướng khác lại tung lên, lần nữa lại không vỡ. Người này lắc đầu và phải nhiều lần tung lên rơi xuống trứng mới chịu vỡ và huyệt mộ được đào đúng vị trí ấy. Theo tập tục người Ma Coong, đó mới là điểm được chấp nhận. Chưa thể lý giải Vẫn chưa thật sự tin. Một lần khác xã lại có người chết, lần này thiếu tá Đức bí mật kiểm tra quả trứng trước khi ném và đúng là quả trứng gà sống bình thường. Người chủ tế lại là người cao niên trong dòng tộc chứ chẳng phải thầy mo nên chuyện gian lận được loại bỏ. Hơn nữa, khi làm lễ anh Đức để ý rất kỹ là người này chỉ mặc áo cộc nên chuyện tráo đổi trứng cũng không có. Thế mà trứng ném cao cả chục mét rơi xuống lăn như một viên bi. Người chủ lễ có lúc ném quá tay trúng gốc cây vậy mà cả quả trứng văng ra mà chẳng hề hấn gì. Người dân Ma Coong.vẫn lưu truyền những huyền thoại khó tin. Anh Đức cũng vài lần lấy trứng thử ném, bởi anh nghĩ hay là có cách ném nào đó trứng rơi đứng nên không vỡ. Thế nhưng, lần nào cũng vậy anh ném trứng đều vỡ dù chỉ ném cao bằng đầu người. Đem câu chuyện ném trứng chọn đất cho người chết đến hỏi ông Đinh Hợp, chủ tịch xã Thượng Trạch, ông Hợp khẳng định là có. Còn việc trứng rơi không vỡ thì ông... cũng chịu. Có hay không có cách ném "tiểu xảo" nào đó, ông Hợp phủ nhận ngay: "Người chủ lễ là người trong dòng tộc, hằng ngày họ là nông dân bình thường. Chỉ đến khi có tang họ mới làm chứ có phải thầy mo chuyên nghiệp đâu mà dùng tiểu xảo này nọ". Người dân Ma Coong tin rằng, ông trời đã tạo ra giếng để cứu họ và mảnh đất họ ở ngày nay cũng linh thiêng và đầy may mắn dù nó nằm tít tắp giữa dãy Trường Sơn bao la, nơi giáp với nước bạn Lào. Nguyễn Tiến Dũng
  5. <h2 class="contentheading"> Thanh Hóa: Bí ẩn những quan tài cổ trong hang đá </h2> Thứ bảy, 22 Tháng 5 2010 02:47 manager Với những thông tin ít ỏi ban đầu về sự tồn tại của một hệ thống hang động chứa cả trăm quan tài cổ ở vùng núi, biên giới Quan Sơn (Thanh Hóa), chúng tôi đã làm cuộc hành trình khám phá ngược miền tây Thanh Hóa. Khám phá bên dòng sông Lò Đổ về sông Mã tại xã Hồi Xuân, huyện Quan Hóa là dòng sông Lò. Chưa năm nào, nước sông Lò lại cạn đến thế. Nhưng, để đến được chân ngọn núi có tên gọi địa phương là Pha Hang Quen (núi hang Thoáng đãng) nằm kề sông Lò, thuộc bản Máy, xã Trung Thượng, huyện Quan Sơn, chúng tôi phải dùng bè mảng (được ghép buộc chặt bằng những cây luồng chắc chắn) chèo qua sông. Không ai nghĩ rằng đường lên hang có chứa những quan tài cổ là những vách núi dựng đứng. Từ cửa hang, dễ dàng nhìn thấy những cỗ quan tài cổ có niên đại hàng trăm năm trước, thế nhưng để vào được trong hang còn phải vượt, bò qua một vách đá dựng thẳng đứng cao tới hàng chục mét. Động sâu chừng 15m, cao hơn 7m, khô thoáng nhưng có mùi ẩm mốc. Trong hang có tất cả 14 cỗ quan tài không còn nguyên vẹn và nằm lộn xộn, được đục từ nguyên thân cây gỗ lớn, nhỏ, chiếc nào cũng có một hoặc hai đầu chốt bằng gỗ. Cỗ quan tài lớn nhất dài chừng 2,7m, rộng khoảng 0,4m. Phần lớn số quan tài ở đây đều nhỏ. Bên cạnh những chiếc quan tài, chúng tôi còn tìm thấy những vật như nắp của ché rượu cần đã đen kịt. Trong quan tài vẫn còn những mảnh xương người. Ngân Văn Hà, người dẫn chúng tôi leo sang miệng hang thứ hai (cách hang thứ nhất khoảng chục mét) nói: “Tôi đã nhiều lần khám phá cả ba chiếc hang trên vách đá này. Hang thứ hai có hai cỗ quan tài, không còn xương. Hang thứ ba có gần hai mươi cỗ và còn xương sọ, răng hàm…”. Chúng tôi tiếp tục tới hang của núi Pha Dờn, bản Muỗng, xã Trung Xuân, huyện Quan Sơn. Đường lên Pha Dờn hiểm trở hơn. Trong lòng hang rộng rãi, cao thoáng và có nhiều hang hốc bên trong, có gần 30 bộ quan tài cổ như ở Pha Hang Quen. Phía cuối hang còn một hố sâu gần 3m nhưng chưa ai dám vào đây khám phá, vì quá tối và thiếu thiết bị an toàn. Anh Đinh Công Báo, cán bộ xã Trung Xuân cho biết: “Ngoài hang này ra, trong khu vực núi Pha Dờn, dân địa phương vừa phát hiện thêm một hang núi khác cũng chứa hơn 40 bộ quan tài”. Cần giải thích khoa học Năm 2007, báo chí từng thông tin về những cỗ quan tài độc mộc như thế này nằm trong hang động trên vách đá cheo leo từ hàng trăm năm trước ở huyện miền núi Quan Hóa (Thanh Hóa). Đến nay, giới khoa học vẫn chưa có giải thích cụ thể về những cỗ quan tài đó và những điều liên quan. Việc phát hiện thêm hàng loạt hang động có chứa quan tài cổ ở Quan Sơn như bổ sung những điều bí ẩn cần được lý giải. Anh Lê Văn Thuận, Giám đốc Trung tâm Văn hóa Thông tin Thể dục Thể thao huyện Quan Sơn cho biết: Sau khi phát hiện ra hệ thống hang động này, ngành chức năng địa phương đã có phương án bảo vệ nguyên trạng hang. Ngoài ra, Trung tâm cũng đã cố gắng thu thập thông tin từ dân bản địa để góp phần giải đáp những câu hỏi: Chủ nhân của những cỗ quan tài là ai? Tại sao có thể đưa được chúng lên hang?… Nhưng chưa có giải thích nào đủ sức thuyết phục. Ông Lò Đình Múi, Chủ tịch UBND huyện Quan Sơn khẳng định: “Chúng tôi xác định, công tác bảo tồn các hang động có chứa quan tài cổ để phục vụ nghiên cứu khoa học là nhiệm vụ quan trọng cho đến khi bí mật của các khu vực hang động này được giải thích cặn kẽ bằng khoa học. Đây là một di sản văn hóa vật thể và phi vật thể của người xưa để lại, liên quan đến táng tục của tộc người Việt xưa. Hình thức mai táng này đã qua lâu rồi, nay không còn nữa và các dấu tích sẽ dần biến mất?”. Một số người già ở địa phương cho rằng, thuở xưa, nước sông Lò dâng cao sát miệng hang Pha Hang Quen, nên người xưa dễ dàng đưa các cỗ quan tài vào táng trong hang. Giả thuyết tương tự đã từng được người già ở huyện Quan Hóa đưa ra năm 2007, khi người ta phát hiện trong hang đá lưng chừng núi cũng có một tảng đá người xưa. (Đã có một số nhà khoa học về huyện Quan Hóa nghiên cứu, nhận định ban đầu: Những mộ cổ rất có thể là mộ các quan quân thuở xưa đi đánh giặc ở miền biên thùy và hy sinh, được táng tập thể...). Hoàng Lam (Tiền phong) Hàng dãy quan tài nằm lồ lộ ngay trước mặt, một cảnh tượng hãi hùng xảy đến và người chứng kiến chỉ biết đứng chôn chân. Với những thông tin ít ỏi ban đầu về sự tồn tại của một hệ thống hang động chứa cả trăm quan tài cổ ở vùng núi, biên giới Quan Sơn (Thanh Hóa), chúng tôi đã làm cuộc hành trình khám phá ngược miền tây Thanh Hóa. Các bó quan tài trong hang Pha Hang Quen. Khám phá bên dòng sông Lò Đổ về sông Mã tại xã Hồi Xuân, huyện Quan Hóa là dòng sông Lò. Chưa năm nào, nước sông Lò lại cạn đến thế. Nhưng, để đến được chân ngọn núi có tên gọi địa phương là Pha Hang Quen (núi hang Thoáng đãng) nằm kề sông Lò, thuộc bản Máy, xã Trung Thượng, huyện Quan Sơn, chúng tôi phải dùng bè mảng (được ghép buộc chặt bằng những cây luồng chắc chắn) chèo qua sông. Không ai nghĩ rằng đường lên hang có chứa những quan tài cổ là những vách núi dựng đứng. Từ cửa hang, dễ dàng nhìn thấy những cỗ quan tài cổ có niên đại hàng trăm năm trước, thế nhưng để vào được trong hang còn phải vượt, bò qua một vách đá dựng thẳng đứng cao tới hàng chục mét. Động sâu chừng 15m, cao hơn 7m, khô thoáng nhưng có mùi ẩm mốc. Trong hang có tất cả 14 cỗ quan tài không còn nguyên vẹn và nằm lộn xộn, được đục từ nguyên thân cây gỗ lớn, nhỏ, chiếc nào cũng có một hoặc hai đầu chốt bằng gỗ. Cỗ quan tài lớn nhất dài chừng 2,7m, rộng khoảng 0,4m. Phần lớn số quan tài ở đây đều nhỏ. Bên cạnh những chiếc quan tài, chúng tôi còn tìm thấy những vật như nắp của ché rượu cần đã đen kịt. Trong quan tài vẫn còn những mảnh xương người. Ngân Văn Hà, người dẫn chúng tôi leo sang miệng hang thứ hai (cách hang thứ nhất khoảng chục mét) nói: “Tôi đã nhiều lần khám phá cả ba chiếc hang trên vách đá này. Hang thứ hai có hai cỗ quan tài, không còn xương. Hang thứ ba có gần hai mươi cỗ và còn xương sọ, răng hàm…”. Chúng tôi tiếp tục tới hang của núi Pha Dờn, bản Muỗng, xã Trung Xuân, huyện Quan Sơn. Đường lên Pha Dờn hiểm trở hơn. Trong lòng hang rộng rãi, cao thoáng và có nhiều hang hốc bên trong, có gần 30 bộ quan tài cổ như ở Pha Hang Quen. Phía cuối hang còn một hố sâu gần 3m nhưng chưa ai dám vào đây khám phá, vì quá tối và thiếu thiết bị an toàn. Anh Đinh Công Báo, cán bộ xã Trung Xuân cho biết: “Ngoài hang này ra, trong khu vực núi Pha Dờn, dân địa phương vừa phát hiện thêm một hang núi khác cũng chứa hơn 40 bộ quan tài”. Một số mẫu xương trong hang Pha Hang Quen. Cần giải thích khoa học Năm 2007, báo chí từng thông tin về những cỗ quan tài độc mộc như thế này nằm trong hang động trên vách đá cheo leo từ hàng trăm năm trước ở huyện miền núi Quan Hóa (Thanh Hóa). Đến nay, giới khoa học vẫn chưa có giải thích cụ thể về những cỗ quan tài đó và những điều liên quan. Việc phát hiện thêm hàng loạt hang động có chứa quan tài cổ ở Quan Sơn như bổ sung những điều bí ẩn cần được lý giải. Anh Lê Văn Thuận, Giám đốc Trung tâm Văn hóa Thông tin Thể dục Thể thao huyện Quan Sơn cho biết: Sau khi phát hiện ra hệ thống hang động này, ngành chức năng địa phương đã có phương án bảo vệ nguyên trạng hang. Ngoài ra, Trung tâm cũng đã cố gắng thu thập thông tin từ dân bản địa để góp phần giải đáp những câu hỏi: Chủ nhân của những cỗ quan tài là ai? Tại sao có thể đưa được chúng lên hang?… Nhưng chưa có giải thích nào đủ sức thuyết phục. Ông Lò Đình Múi, Chủ tịch UBND huyện Quan Sơn khẳng định: “Chúng tôi xác định, công tác bảo tồn các hang động có chứa quan tài cổ để phục vụ nghiên cứu khoa học là nhiệm vụ quan trọng cho đến khi bí mật của các khu vực hang động này được giải thích cặn kẽ bằng khoa học. Đây là một di sản văn hóa vật thể và phi vật thể của người xưa để lại, liên quan đến táng tục của tộc người Việt xưa. Hình thức mai táng này đã qua lâu rồi, nay không còn nữa và các dấu tích sẽ dần biến mất?”. Một số người già ở địa phương cho rằng, thuở xưa, nước sông Lò dâng cao sát miệng hang Pha Hang Quen, nên người xưa dễ dàng đưa các cỗ quan tài vào táng trong hang. Giả thuyết tương tự đã từng được người già ở huyện Quan Hóa đưa ra năm 2007, khi người ta phát hiện trong hang đá lưng chừng núi cũng có một tảng đá người xưa. (Đã có một số nhà khoa học về huyện Quan Hóa nghiên cứu, nhận định ban đầu: Những mộ cổ rất có thể là mộ các quan quân thuở xưa đi đánh giặc ở miền biên thùy và hy sinh, được táng tập thể...). 24H.COM.VN (Theo Tiền phong)
  6. Quan tài cheo leo trên vách đá (Dân trí) - Những chiếc quan tài treo trên các vách đá dựng đứng là một nghi lễ chôn cất truyền thống của người dân tại vùng Sagada, Philippines. Nghi lễ chôn cất truyền thống của người dân nơi đây đã tồn tại hàng ngàn năm qua. Sau khi mất, gia đình sẽ đặt người chết vào trong chiếc quan tài và mang đến một hang động để an táng. Nhưng thay vì được chôn xuống dưới đất, chiếc quan tài lại được treo trên các vách đá hoặc đặt dưới các tảng đá lớn trong hang động. Theo quan niệm của người dân, những chiếc quan tài được treo trên những vách núi dựng đứng để người đã khuất có thể ở gần với Thượng đế và tổ tiên của mình hơn. Do ảnh hưởng của thiên nhiên, những chiếc quan tài cũng cũ dần, nó bị hỏng và rơi xuống, người ta lại đặt chúng vào những vị trí thấp hơn. Hầu hết những chiếc quan tài mới có kích thước lớn hơn và màu sắc sặc sỡ hơn. Phong tục này cũng có tại một số nơi khác trên thế giới như Trung Quốc.
  7. chẳng để làm gì cả , chỉ để cho mình được hạnh phúc , tâm mình được đơn giản , thanh thản và tất nhiên chẳng ai đứng ra làm trọng tài cho việc mình làm . Thầy Tâm Pháp không là chân lý nhưng là thầy của Phương Hồng , xin bạn nên nói đúng đắn . Phương Hồng tôn trọng mọi suy nghĩ của mọi người vì vậy xin tôn trọng lại Phương Hồng , Phương Hồng post bài này lên diễn đàn đơn giản vì đó là chia sẻ , các bạn đọc hay không đọc không liên quan gì đên PH , Dù sao cũng cảm ơn các bạn đã đọc vày cho 1 vài quan điểm .
  8. đúng vậy đó , nhưng có người thầy để giúp mình đi đúng hướng , người bạn giúp mình học hỏi , trao đổi . Vẫn tốt hơn chứ , còn nếu ai mà làm điều đó 1 mình , càng quý , phải không :D cám ơn bạn nha :D
  9. cảm ơn mọi người đã đọc và cho vài dòng quan điểm ! Việc tu hành , xuất gia không quan trọng giàu nghèo , sang hèn , mà cái quan trọng nhất đó là Đức tin hay lòng tin vào giáo Pháp của Đức Phật . Nhưng cũng còn rất nhiều yếu tố khác như trong bức thư của sư Tâm Pháp cũng đã nói : " Đức Phật nói rằng có 5 điều khó được để có được một kiếp sống hoàn hảo: 1 là được sinh làm người là một điều khó, được sanh làm người lành lặn là một điều khó thứ 2, được sinh vào thời có giáo pháp của một vị Phật còn lưu truyền trên thế gian (như bây giờ) là điều khó thứ 3, được gặp và học hỏi giáo pháp, ấy là điều khó thứ 4, và được xuất gia trong giáo phấp ấy để tu tập giải thoát là điều khó thứ 5. Con đã có được mấy điều rồi hả con? " Vậy các bạn có được mấy điều rồi ! Hôm trước mình có post 1 bài về giữ giới , nếu các bạn còn có thắc mắc nên đọc lại bài đó xem , mình nghĩ sẽ giúp cho mọi người rất nhiều . Nếu như bạn nào quan tâm đến Đạo Phật có thể gặp mình , mình cũng đang trên đường học đạo , có bạn có thầy , Thầy Tâm Pháp là thầy của mình . Lúc đó sẽ có nhiều điều để học hỏi của nhau .
  10. Cảm ơn 2 bạn đã đọc và góp vài dòng quan điểm :)
  11. Như Thông thân mến . Học đạo phải có 1 tâm trong sạch , nếu như học mà mong muốn mình được cái gì từ đó thì đúng là tẩu hỏa nhập ma và rơi vào ma đạo là đúng rồi :D
  12. :) Thiên Phụ nói đúng :)
  13. qua chào anh TA :D em đọc bài của anh rồi :D phục mọi người thật :D chúc sức khỏe cho anh và gia đình :d

  14. uha :) em đồng í với anh Trần Anh :)
  15. TẠI SAO CHÚNG TA PHẢI GIỮ GIỚI? Tỳ kheo: Pannananda Thường thì mỗi Phật tử giữ 5 giới, tỳ kheo giữ 227 giới. Còn các thiền sinh giữ 8 giới hoặc 10 giới. Tại sao phải giữ giới? Điều này chúng ta cần phải biết. Nếu giữ giới thì lợi ích gì và không giữ giới thì kết quả ra sao. Quý vị cần phải hiểu thật rõ ràng. Ví dụ có một người thực hành không sát hại mạng sống của bất kì sinh linh nào, họ sẽ được gì? Khi quý vị không sát sinh, vào lúc cận tử nghiệp, nếu thiện nghiệp này khởi lên, quý vị sẽ được tái sinh ở cảnh người hoặc cõi trời. Đó là quả của giữ giới không sát sanh. Thiện nghiệp tích lũy nhiều chắc chắn bạn sẽ tái sinh ở cõi chư thiên, còn không sẽ tái sinh vào thai mẹ ở cõi người thì cũng là một gia đình giàu có, người mẹ sẽ thoát khỏi cảnh khổ sở từ khi bạn sinh vào nhà đó, gia đình có thêm nhiều của cải. Trước khi bạn sinh ra, cả nhà nghèo khó, từ khi có bạn, gia đình bỗng ăn nên làm ra. Như vậy đó.Tại sao lại như vậy? Đó chính là nhờ thiện nghiệp của bạn mà cả nhà được ảnh hưởng. Rồi nữa, cả đời bạn sống sung túc. Có nhiều người quý vị thấy không, cả đời sống cơ cực, lúc thì thân thể đau đớn, lúc thì khổ tâm, vì sao vậy? Vì trong quá khứ họ đã làm nhiều bất thiện nghiệp và giết nhiều mạng sống. Đến đời này nghiệp sát chín, họ phải sống khổ sở như vậy. Tôi có một người chị bà con, mọi người gọi chị là “Bé Khóc”. Tại sao vậy? Từ lúc sinh ra đã xanh xao, càng lớn thì da chuyển sang màu vàng, không thể ăn uống gì được, chỉ cần ăn một chút xíu vào là da đổi ngay sang màu vàng, mắt cũng vàng. Rồi 4, 5 tuổi chết. Tại sao? Vì quá khứ giết nhiều nên kiếp này ko thể sống thọ được. Nếu trong quá khứ quý vị giữ giới sát thì đời này sẽ giàu có và không bị khổ sở. Quý vị thấy không? Có nhiều người sống rất sung túc cả đời. Vì vậy chúng ta cần phải giữ giới sát để có một đời sống không đau khổ, không cơ cực. Một thiền sinh khi quán về tiền kiếp thấy mình là một thợ săn. Anh chàng này rất luyến ái với gia đình của mình. Và anh ta nuôi sống cả nhà bằng nghề giết chóc. Một ngày kia trong làng người ta tổ chức cúng dường cho các vị Tỳ kheo. Họ trang trí trước chỗ cúng dường hình ảnh các chư thiên. Anh thợ săn đi đến chỗ này thấy vậy nghĩ rằng “Ồ, các chư thiên trông thật là an lạc, thật đẹp. Làm chư thiên thiệt sướng ghê!” Sau đó anh đi cúng dường. Cùng lúc đó 1 người đàn ông quấn váy theo truyền thống Miến Điện rất đẹp cũng đang cúng dường, hình ảnh đó đập vào trong mắt của anh thợ săn và anh nghĩ “bộ đồ này đẹp quá”. Sau này, vào lúc cận tử nghiệp, hình ảnh các con thú bị anh giết không khởi lên trong tâm, mà anh thợ săn lại nhớ lại lúc mình đi cúng dường. Vào lúc đó, vô minh (tức là còn sự ham muốn một hình thức tồn tại khác, muốn một sự tái sinh khác nên gọi là vô minh) là sự muốn trở thành chư thiên. Nhờ vào thiện nghiệp cúng dường chư Tăng trở nên mạnh mẽ vào lúc cận tử nghiệp nên anh ta tái sinh thành 1 chư thiên. Nhưng không thể hóa sinh ở cảnh giới cao, chỉ là một chư thiên ở cảnh giới thấp nhất. Tại sao? Vì giới của anh ta không trong sạch, chỉ có mỗi một lúc anh ta cúng dường là giới trong sạch thôi. Vì vậy, giới bất thanh tịnh không giúp anh ta sinh ở cảnh giới chư thiên cao được. Anh ta chỉ làm một địa tiên ở trên cây mà thôi, mà màu da thì rất tối, và chẳng có quần áo gì hết, chỉ có mỗi cái quần đùi. Thiền sinh nói: “Thưa Thầy chư thiên này chẳng sung sướng gì, vì có quá nhiều bất thiện nghiệp của thợ săn nên tuổi thọ của con vào đời này rất ngắn”. Vào lúc chết, hình ảnh giết chóc máu me từ đời làm thợ săn khởi lên trong tâm thức, địa tiên đó tái sinh làm vào cảnh giới súc sanh làm con heo. Đời này nó cũng không thể sống lâu được. Vì sao? Vì nghiệp sát vây quanh anh ta, làm heo cũng chỉ sống được có mấy tháng rồi bị cắt cổ. Hình ảnh cận tử nghiệp lại tiếp tục là cảnh sát sanh. Hết kiếp heo anh ta tái sinh vào địa ngục. Địa ngục thì có nhiều tầng, anh ta rơi vào tầng bị đun sôi trong nước đồng, trong một cái chảo thật lớn. Anh ta nói: “ Thưa Thầy ở trong địa ngục con rất khổ sở, cả cơ thể nhúng chìm trong chảo đồng sôi không cách chi thoát ra được. Xung quanh con cũng có rất nhiều người. Nguyên cả kiếp đó thật là khổ không thể diễn tả hết. Chấm dứt địa ngục, cận tử nghiệp tâm sát sanh khởi lên lần nữa (cũng từ kiếp thợ săn mà ra) . Do vô minh và nghiệp lực này anh ta bị tái sinh vào cõi ngạ quỷ. Một con quỷ miệng và mắt nhỏ như lỗ kim chẳng thể ăn được gì. Nó rất đói khát khổ sở, tuy thấy rác rưởi đờm giãi (đồ ăn của quỷ) nhưng nó không thể ăn được vì miệng quá nhỏ. Như vậy nó sống nguyên một kiếp dài đằng đẵng khổ sở và đói khát. Ngày nọ nó đang lang thang thì thấy một vị tỳ kheo đi khất thực trong làng, nó nghĩ “ồ, vị Tỳ kheo này thật an lạc”. Trong tâm nó khởi lên sự tôn kính vị tỳ kheo này. Hết kiếp quỷ, nhờ thiện nghiệp này và đồng thời hình ảnh cận tử nghiệp là người đàn ông quấn váy theo kiểu Miến Điện. Qủy tái sinh làm một người đàn ông ở Miến Điện. Như vậy, thiện nghiệp của nó là đảnh lễ vị Tỳ kheo, vô minh khiến tái sinh là cái tâm muốn ăn bận như hình ảnh đã thấy (trong kiếp thợ săn). Kết quả là tái sinh làm người, ở Miến Điện. Vào kiếp này anh ta làm rất nhiều thiện nghiệp. Ngày kia anh thấy những Sư Cô giữ giới và hành thiền. Anh ta nghĩ: “Các Sư Cô giữ giới và hành thiền thật là điều tốt. Mình nên làm gì đó cho các Sư Cô”. Thế là anh ta đi vào chùa làm công quả. Sau này, lúc chết, mặc dù không muốn trở thành Ni cô, nhưng do tâm kính trọng các Sư cô vì các Sư cô giữ giới và hành thiền, tâm này chuyển thành cái muốn tái sinh thành người như vậy. Tại sao vậy? Vì tốc độ của tâm rất nhanh. Tỷ dụ quý vị đang kính trọng hoặc đảnh lễ một Sư cô, và ngay lúc đó quý vị qua đời, thì cái tâm đó sẽ chuyển thành tâm muốn thành Ni cô. Nhờ thiện nghiệp làm công quả trong thiền viện, và hình ảnh cận tử nghiệp như vậy nên kiếp tiếp đó anh sinh làm người nữ và đi tu. Kiếp đó Sư cô được hành thiền bắt đầu bằng đề mục Chánh Niệm trên Hơi Thở, đến 4 tầng thiền, 38 loại danh và sắc (tức quán cấu tạo nhỏ nhất, sự hoạt động của nama-rupa, tức tâm và thân), quán các tâm sở thiện và bất thiện, nhưng Sư cô này không thể quán Nhân-Quả được, tức là không thể quán về tiền kiếp và hậu kiếp, chỉ thành công đến giai đoạn quán danh-sắc. Trong kiếp này, Sư Cô cúng dường cho Phật ( tượng Phật) một ít hoa và nguyện rằng kiếp sau được tái sinh làm một người đàn ông bình thường. Và kiếp kế tiếp,các nghiệp này khởi lên hỗ trợ, cô tái sinh thành đàn ông. Quý vị thấy không luân hồi thật là khổ sở, chúng ta khi thì là đàn ông, khi là đàn bà, khi là súc vật, khi thì địa ngục, khi là ngạ quỷ. Vào đời này, người đàn ông này không thể hành thiền được, vì anh ta có vợ và sinh con. Nhưng anh ta cũng có một chút thiện nghiệp là cúng dường. Lúc cận tử nghiệp, hình ảnh cúng dường khởi lên, và anh ta thấy 1 người phụ nữ, như vậy tâm này biến thành muốn trở thành phụ nữ. Như thế đó, tâm của chúng ta thay đổi rất dễ. Anh ta tái sinh thành phụ nữ (tức là đời hiện tại), người này có cơ hội hành thiền, bắt đầu bằng đề mục Chánh Niệm trên Hơi thở đến tứ thiền, đến 32 thể trược (32 thành phần dơ bẩn cấu tạo thành cơ thể), rồi đến quán bộ xương, Kasina trắng, đến Danh Sắc (các đề mục thiền mà Đức Phật dạy) một cách dễ dàng. Vì sao? Vì trong quá khứ, cô ta đã từng thực hành rồi nên bây giờ có thể làm lại một cách dễ dàng. Sau đó cô ấy quán các kiếp sống quá khứ và tương lai, quán nhân và quả, cũng rất dễ dàng. Và khi quán về tương lai, cô thấy rằng nếu trong kiếp này cô ấy chết sẽ tái sinh thành 1 chư thiên có tuổi thọ rất dài nhờ sức mạnh của thiện nghiệp cúng dường y đến chư Tăng trong lễ Dâng y và giữ 9 giới trong nhiều năm (Theo truyền thống Nguyên Thủy mỗi năm có lễ dâng y Kathina vào mùa an cư kiết hạ của chư Tăng, Đức Phật dạy những ai dâng y trong lễ này có phước rất lớn), và rất nhiều thiện nghiệp khác mà cô đã làm trong đời này nữa. Và sau kiếp chư thiên sẽ là một Tỳ kheo, và vị Tỳ kheo này sẽ đắc Alahan. Như vậy thiền sinh này chỉ còn 2 kiếp nữa thôi là chấm dứt sinh tử luân hồi. Nhưng cô ta không muốn tiếp tục 2 kiếp sống đó nữa. Cô ấy muốn cố gắng hết sức để đắt A La Hán ngay trong đời này luôn. Cô ấy nói con sẽ cố gắng. Quý vị thấy đó, đời này cô ấy sẽ thành công nếu cố gắng, tương lai sẽ thay đổi nếu chúng ta cố gắng. Việc đắc quả Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A Na hàm, A la hán tùy thuộc vào quý vị. Nếu quý vị muốn thành công thì phải cố gắng. Có người nói tôi muốn đắt A La Hán, nhưng họ cứ ở nhà với vợ, đi đây đi kia, rất là bận rộn chẳng có thời gian hành thiền. Vậy thì hỏi làm sao mà đắt A La Hán được chứ? Vào thời Đức Phật, có lần Ngài đi bát trong làng cùng với Ngài A-Nan, bất chợt Ngài mỉm cười. Bình thường Đức Phật rất ít cười nên Anan thấy ngạc nhiên và hỏi nguyên nhân. Đức Phật hỏi: - Này Anan , ông có thấy con heo ở đằng kia không?” - Con thấy ạ! - Vào thời quá khứ lâu xa cách đây 4 A tăng kì 100 ngàn đại kiếp, ta và con heo này đã là 2 người bạn đồng tu, 2 tỳ kheo cùng hành thiền trong một tu viện trong rừng. Lúc ấy người này hỏi ta tại sao xuất gia thành tỳ kheo và ước nguyện như thế nào. Ta nói rằng ta muốn thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, ông ta nói rằng “Oh, thành Phật thì lâu lắm, ít nhất là 4 a tăng kì 100 ngàn đại kiếp, tôi chỉ muốn thành A La Hán thôi.” Rồi sau đó thì sao? Ông thấy không, sau 4 a tăng kì 100 ngàn đại kiếp Ta đã đắc quả A-La-Hán, Đẳng chánh giác, còn ông ta chỉ là một con heo đực thôi. Tại sao vậy, vì chỉ ưa nói mà không làm. Quý vị thấy không, không chịu hành thiền mà chỉ nói suông thì làm sao đắc quả A La Hán được. Vậy muốn chứng quả cần phải giữ giới, cần phải hành thiền. Tóm lại, nhờ sự cố gắng không giết hại bất cứ một sinh mạng nào (từ lớn như con voi đến nhỏ như con muỗi, con kiến), nếu kiếp sau tái sanh quý vị sẽ có một thân thể đầy đủ, không khiếm khuyết, ngay trong đời này cũng vậy, nếu qúy vị đang có một thân thể đàng hoàng có nghĩa là kiếp trước đã giữ giới không sát sanh. Rất nhiều người, ngay từ trong bụng mẹ đã bị khuyết tật, ví dụ như không có tai, không chân, không tay, mù, điếc...Tại sao như vậy? Vì trong quá khứ họ đã giết nhiều chúng sanh nên kiếp này không được đầy đủ các bộ phận thân thể. Như vậy nếu quý vị giữ giới sát thì trong nhiều kiếp sẽ được thân thể đàng hoàng, khuôn mặt sáng sủa, không bị đau khổ, sống lâu và có sức khỏe. Đó là quả của giữ giới sát. Tiếp theo là giới trộm cắp. Nếu quý vị không trộm cắp thì quý vị được gì nào? Đức Phật nói về các loại trộm cắp. Đó là gì? Có người rất thích cờ bạc, cá độ. Đây cũng chính là 1 loại trộm cắp. Có người mua đồ cũ về tân trang lại rồi bán cho người khác nói rằng đây là đồ mới và bán với giá như vậy, đây cũng là trộm cắp. Có người buôn bán tham lam, mua 10 bán 100, rồi khách hàng trả giá 90 thì nói “Ồ không thể được tui mua 90 đồng rồi sao bán cho ông giá đó được, thôi được rồi để lại cho ông 95 vậy”. Họ không những mang tội trộm cắp mà còn nói dối nữa. Giọng nam: Khi người ta làm ăn thì phải nói dối để kiếm tiền lời. Thầy : Ừ thì đó, nên qúy vị thấy không, giữ giới rất là khó. Rất nhiều người nếu họ chết thì họ không thể tái sanh vào cõi người và thiên được vì họ không giữ giới được, họ nghĩ rằng giữ giới rất khó nên chẳng chịu giữ. Nên sau khi chết họ sẽ xuống 4 cõi thấp. Một ngày nọ Đức Phật ở trong rừng cùng với các đệ tử, Ngài bóc một chút đất lên, vì da của Ngài rất mềm mại nên đất rơi xuống gần hết, chỉ còn một chút trên móng tay. Đức Phật hỏi các Tỳ kheo “ - Này các Tỳ kheo, các ông thấy đất trong móng ta nhiều, hay đất trên địa cầu này nhiều hơn? - Bạch Đức Thế Tôn không thể so sánh được vì đất trên trong móng tay của Ngài rất ít, trong khi trên địa cầu này thì không thể tính kể. - Cũng vậy này các Tỷ kheo, chúng sanh ở cõi người này sau khi chết đi bị tái sanh vào các cảnh giới địa ngục ngạ quỷ súc sanh nhiều như đất trên địa cầu này, số người được tái sinh lại cõi người và thiên giới ít như đất trên móng tay ta vậy. Tại sao vậy? Vì họ không chịu giữ giới. Họ nói sống ngoài đời khó giữ giới lắm, rồi họ chạy theo kinh tế, chạy theo các điều kiện của xã hội. Quý vị thấy đấy thời đại này nhiều nước rất phát triển, nhiều phương diện vật chất. Con người bị lệ thuộc rất nhiều vào vật chất. Ngày xưa không có máy chụp hình thì đâu có ai bị lệ thuộc vào nó đâu, bây giờ ai cũng phải có, người ta bị nô lệ bởi vật chất. Chẳng hạn khi đàn ông thấy kim cương họ muốn 1 viên cho vợ, mua dây chuyền...quà cáp cho con, rồi họ phải nghĩ cách kiếm tiền, làm sao ngày càng phải có nhiều tiền, họ suy nghĩ suốt cả ngày, bận rộn với việc làm giàu. Nên họ không thể giữ giới tốt được. Có một thiền sinh khi hành đến giai đoạn quán về tiền kiếp thấy mình là một phụ nữ rất ưa cá ngựa. Mỗi ngày cô mua cá ngựa, khi cuộc đua bắt đầu cô ta rất thích thú hứng khởi và tâm suy nghĩ tính toán liên tục con ngựa nào sẽ thắng...Quý vị thấy đó nhiều người cờ bạc thường tưởng tượng đến đủ chuyện khi mình thắng món tiền này sẽ mua xe, mua nhà mua kim cương đủ thứ. Thỉnh thoảng cô ấy cũng đến thiền viện làm công quả. Tại sao vậy? Vì cô muốn thắng cá ngựa. Cô nghĩ mình đi làm công quả như vầy thì được may mắn. Nhiều người cũng làm như vậy lắm. Rồi cô luyến ái một người đàn ông nọ và làm chuyện tà dâm với ông ta. Vậy trong kiếp đó cô làm cả chuyện thiện lẫn bất thiện. Lúc cô chết, cuộc đua ngựa sắp bắt đầu. Cô nghĩ đến cuộc đua, tâm trạng hào hứng như mọi khi, thỏa thích với hình ảnh những con ngựa chạy đua. Như vậy đó, khi con vật cực khổ mệt nhọc vì phải chạy hết hơi thì cô ta thỏa chí. Vì các loại tâm và nghiệp này vây quanh nên cô tái sinh thành 1 con ngựa trong nhà một ông chủ đạo Hồi. Ông này bắt con ngựa làm việc suốt cả ngày mà chẳng cho nó ăn no. Mỗi ngày nó chỉ được ăn một chút cỏ. Suốt cả ngày nó phải chịu đói và làm việc cực nhọc, nên nó rất rất ghét ông chủ đạo Hồi này. Nhưng có một điều may mắn cho nó là đằng sau nhà ông ta có một thiền viện. Mỗi sáng sớm ở đó các Sư tụng những bài kinh Parita, (kinh bảo hộ) như Mangala (Kinh Điềm Lành), Metta (kinh Tâm từ)... để tránh khỏi sự quấy phá của phi nhân và ma quỷ. Tất nhiên là súc vật nó chẳng hiểu gì và không tụng theo được. Nó chỉ nghe được âm thanh thôi, những âm thanh rất hay. Lúc chết, âm thanh của những lời kinh bảo hộ vang lên trong đầu nó. Nhờ thiện nghiệp lúc cận tử này nó được sinh làm một người đàn ông khá đẹp trai. Rồi anh chàng đẹp trai này làm gì quý vị biết không? Anh ta làm chuyện tà dâm với nhiều cô gái. Vì quá khứ đã từng thích làm như vậy, nên kiếp này cũng thế. Anh ta lăn nhăn với rất nhiều cô, nhưng trong đó có 1 cô gái rất “chảnh”, anh chẳng tài nào chinh phục cô ấy. Nên anh ta rất tức giận nghĩ rằng “Hừ, cô tưởng cô là ai chứ, thật là tự cao quá đáng, tại sao không chấp nhận tình yêu của ta, tức quá!”. Chỉ vài phút tức giận như vậy thôi. Rồi sau đó, lúc anh chết, bất thiện tâm này khởi lên lại và dẫn anh tái sinh thành một con chó cái lang thang. Thân thể nó rất đau đớn và đói khát, suốt ngày lang thang kiếm ăn trong những bãi rác nhưng cũng ăn không được vì bị những con khác cắn đuổi đi, nó rất tức. Nguyên cả đời chó này thiền sinh nhìn lại không thể kiếm ra một chút vui vẻ nào. Khi nó lớn, nó phải đẻ rất nhiều chó con, đẻ hết lứa này đến lứa khác, liên tục như vậy suốt một đời chỉ toàn thấy đẻ không thôi. Vì sao vậy? Vì kiếp trước nó toàn nghĩ đến chuyện tà dâm với người khác, nên kiếp này những con chó đực khác thích làm chuyện đó với nó. Đó là bất thiện nghiệp trổ quả và nó phải chịu khổ sở đau đớn hoài một đời. Chấm dứt kiếp này, lúc nó chết một hình ảnh trong ký ức hiện lên. Hình ảnh gì? Đó là hình ảnh đi làm công quả trong thiền viện từ đời làm cô gái ưa cá ngựa. Lúc đó cô ta thấy một vị Sư. Rồi nó tái sinh thành một người đàn ông, nhưng không thể làm gì vì rất nghèo, do nghiệp trộm cắp (cá độ ) từ kiếp trước. Và sau đó anh ta đi lính, lúc mới vào lính anh ta rất khổ sở, vì lính thì phải mang một ba lô rất nặng, rồi chạy bộ, leo núi, di chuyển, tập trận. Rất khổ và mệt, nhưng anh ta cố gắng nhiều và sau được lên sĩ quan. Khi quán đến kiếp này thiền sinh thắc mắc không biết tại sao mình lại dính mắc với kiếp lính này như vậy, sau này (khi quán tới kiếp cô gái) anh ta mới biết đó là vì trong kiếp làm cô gái cá độ, cô gái này rất thích thú khi thấy các con ngựa mệt mỏi, phải chạy hùng hục luôn. Nên bây giờ anh ta cũng bị bắt chạy hùng hục, suốt ngày mệt mỏi cực nhọc. Và một điều nữa là anh lính này rất ghét những người đạo Hồi, hễ nhìn thấy là muốn giết, sau này anh ta biết rằng đó là vì kiếp trước làm ngựa bị ông chủ đạo Hồi bỏ đói và hành hạ cực khổ. Nhân quả là thế đó, liên hệ rất chặt chẽ. Đời này anh ta cũng sinh ra nghèo khổ, vì sao vậy? Nghiệp ăn cắp cho quả trong nhiều kiếp nghèo khổ và đói khát. Nếu quý vị ghiết người thì sẽ bị sinh vào địa ngục, ở tầng đó người ta sẽ chịu nóng kinh khủng, cơ thể sẽ bị đâm thủng bằng những bó đuốc và đôi khi tan ra như ngọn nến bị thiêu cháy. Chúng sanh ở đó không thể di chuyển được. Ở trong địa ngục này một ngày bằng 575 năm ở cõi người. Và người chịu nghiệp phải ở trong đó 4000 năm. Sau khi ở địa ngục người ta sẽ tái sinh lên ngạ quỷ, đồ ăn của ngạ quỷ là đờm giãi phân nước tiểu rác rến. Nhưng đôi khi cũng không thể ăn được. Tại sao vậy? Vì đời trước nó ăn cắp của người khác. Người bị mất đồ rất buồn khổ khi bị mất. Giả sử quý vị lấy của ai cái gì đó, người ta sẽ đau khổ tìm kiếm “đồ của tôi đâu rồi?” Rồi bạn phải trả quả này, đó là khổ sở khi không có cái mình cần, muốn ăn mà không được, ngạ quỷ có khi đói suốt 15, 16 năm trời. Sau đó từ ngạ quỷ sẽ tái sinh lên súc sanh. Nhưng cũng không được làm súc sanh đàng hoàng nữa, súc sanh lang thang suốt đời. Không ai cho đồ ăn. Có nhiều con vật được sinh ra nghèo đói và có những con khác sinh ra trong nhà giàu rất sung sướng. Tại sao lại có sự khác biệt này? Có nhiều người thích cúng dường, đồng thời biết giữ giới nữa, nhờ 2 thiện nghiệp này sau khi chết họ được tái sinh lên cõi trời sung sướng hoặc làm người giàu có. Một số người khác cũng thích bố thí cúng dường nhưng không chịu giữ giới, sau khi chết không được hỗ trợ bởi thiện nghiệp của giới trong sạch nên họ sinh làm súc sanh trong nhà giàu. Nếu nó tái sinh làm ngựa thì cũng được làm con ngựa đầu đàn, nếu tái sinh làm chó thì cũng được làm chó nhà giàu. Giống như chó ở Mỹ chẳng hạn (cười). Vì sao, vì kiếp trước nó thích cho người khác. Nhờ có thiện nghiệp cúng dường bố thí nên những con vật này rất sung sướng, muốn ăn gì là được chủ cho.Có nhiều con chó vừa giàu vừa sống lâu, nhưng một số con khác thì sống trong nhà giàu có nhưng chết sớm. Tại sao? Do nghiệp lực của nó. Nếu một người nào đó chẳng những không thích cúng dường bố thí mà còn keo xẻn dính mắc với tài sản và gia đình của mình thì sau khi chết, nếu tâm dính mắc này khởi lên bị hỗ trợ bởi những nghiệp bất thiện khác thì họ sẽ bị tái sinh thành thú, hết kiếp thú đó sẽ sinh xuống ngạ quỷ. Một người kia vào thời Đức Phật có một ông phú hộ tên là Dhanapala rất giàu có nhưng rất keo kiệt chẳng muốn cho ai cái gì cả. Khi những vị tỳ kheo hoặc đạo sĩ đến trước nhà ông khất thực thì ông chỉ ngồi im trong nhà có khi còn xua đuổi: “Này ông kia đi chỗ khác đi, không ai có gì cho ông đâu.” Sau khi chết vì quá dính mắc với tài sản của mình ông tái sanh vào cảnh giới ngạ quỷ. Thân thể ốm nhách toàn xương xẩu, chẳng có quần áo gì cả. Chỗ ở của ông ta gần một bờ sông, nơi đó các đoàn thương nhân hay dừng chân nghỉ đêm. Một bữa nọ có đoàn lái buôn 500 người ngủ lại chỗ bờ sông này, nó thị hiện thân thể xương xẩu của nó và lẩm bẩm: - Cho tôi xin miếng nước. - Ông là ai. – họ hỏi. - Các ông không biết tôi sao? Trước đây tôi là phú hộ Dhanapala, vì quá keo kiệt không chịu bố thí cúng dường nên sau khi chết phải chịu tái sinh vào cảnh giới này, các ông đừng nên dích mắc với tài sản của mình. - Vậy ông muốn gì? - Tôi rất khát, Tôi muốn uống thật nhiều nước? - Tại sao? Cả một sông nước đây nè, sao ông không lấy nước mà uống? - Tôi không thể tự lấy được. Làm ơn cho tôi xin miếng. - Thôi được, ông đừng lo, chúng tôi sẽ giúp. Rồi 500 người mỗi người lấy một chén đổ vào miệng quỷ. Xong họ hỏi: - Ông đủ chưa? - Không được, tôi cần nhiều lắm. Tôi còn rất khát. - Vậy chúng tôi phải làm sao đây? - Đức Phật và Tăng đoàn của Ngài đang ở đây. Nếu quý vị có thể cúng dường cái gì đó đến Đức Phật và Tăng chúng rồi hồi hướng phước đó đến tôi , có thể tôi sẽ uống được. Chỉ có thể thôi. Không chắc chắn. Tại sao? Vì có rất nhiều loại ngạ quỷ, trong đó chỉ có 1 loại có thể nhận phần phước cúng dường được thôi. Quý vị thấy đấy, không chỉ không bố thí dẫn đến quả tái sinh ở cõi ngạ quỷ, mà tâm keo kiệt dính mắc vô tài sản của cải cũng khiến người ta rơi xuống cõi này và bốn cảnh giới thấp. Vậy quý vị không nên dính mắc vào bất cứ thứ gì cả, loài hữu tình lẫn vô tình. Sự dính mắc luyến ái chỉ dẫn đến đau khổ mà thôi. Quý vị hãy cắt đứt mọi tham ái với chúng hữu tình như vợ con, gia đình và những người khác. Nếu quý vị cắt đứt được mọi tham ái thì sẽ trở nên giàu có, trong đời này và cả đời sau. Khi xả bỏ được, lúc chết quý vị sẽ rất hạnh phúc “tôi không vướng bận vào thứ gì cả, tôi hoàn toàn tự do để ra đi”. Nếu quý vị giữ giới được thì tâm hồn càng an lạc. Ngay trong đời này quý vị được lợi lạc là không sợ nạn trộm cắp. Còn dính mắc thì suốt ngày cứ lo người ta chôm tiền của tôi, người ta quyến rũ vợ tôi, người ta bắt cóc con tôi...Ôiii! Quá nhiều thứ để lo lắng. Bây giờ quý vị chỉ có mỗi một bộ y thôi. Không cần lo mấy tên trộm đến phải không? Thật là giàu có! Đức Phật cho chúng ta một cuộc sống thật hoàn hảo. Chúng ta chỉ có 3 y, một bình bát và chỉ một ít vật dụng cần thiết rẻ tiền thôi. Không có gì đáng giá cả, nhưng chúng ta rất tự do. Có thể đi bất cứ nơi đâu không vướng bận thứ chi. Người giàu rất khó đi đây đi kia. Nhiều người muốn đi hành thiền cũng không được. Người thì nói “Thưa Sư con chưa đi được, công ăn chuyện làm còn lu bu lắm.” Hoặc là “Thưa Sư con chưa nói với vợ con”. Kẻ thì bảo “Sư ơi con của con còn nhỏ lắm, giờ con chưa hành thiền được đâu.” Họ nghĩ rằng họ sẽ không chết, họ quên mất điều đó. Khi con họ lớn rồi thì họ lại nói “cháu con còn nhỏ lắm, con phải lo cho nó” họ không thể dừng những chuyện này lại, không thể hành thiền được. Tại sao vậy? Họ còn quá dính mắc với cuộc sống gia đình. Có một cặp vợ chồng nọ sống với nhau đến lúc bà hơn 80, ông gần 90. Ông già yếu không thể ăn gì cả. Nhưng bà lại mất trước. Đến ngày bà mất các cháu lại nói với ông “Ông ơi, bà mất rồi”. Các con cháu đưa ông lại gần xác bà và cầm tay ông đặt lên cơ thể bà lần cuối. Ông khóc hu hu và nói “Trời ơi, khổ quá, tôi và bà không thể sống với nhau đến đầu bạc răng long được” Họ nghĩ gì vậy? Họ nghĩ rằng họ còn rất trẻ. Ông ta đã 90 tuổi, bà 80 mà ông còn nói vậy. Sau đó họ chôn bà cụ và chuẩn bị cho ông một phần mộ cách đó 8 inch (khoảng 2 tấc) rồi đưa ông ra nghĩa trang và chỉ: “Thưa ông đây là mộ của bà, đây là chỗ của ông sau này”. Ông cụ nói rằng: “Trời, sao con làm xa dữ vậy? 8 inch rất là xa, ta không chịu đâu”. Tại sao lại như vậy? Quá là luyến ái! Vậy thì sau khi chết hỏi làm sao mà tái sinh ở cảnh giới loài người và chư thiên được chứ? Chỉ có thể xuống các cõi thấp là địa ngục ngạ quỷ súc sanh được thôi. Như vậy, quý vị thấy không? Sự tham đắm chỉ đem lại đau khổ cho đời sống hiện tại và tương lai. Chính vì vậy mà chúng ta phải giữ giới. Không nên nghĩ đến chuyện hoàn tục. Thiền sinh: Thưa Thầy con có đọc một chuyện trong kinh như vầy, có một cô gái mỗi lần cúng dường Phật đều nguyện kiếp sau con sẽ được sinh lên cõi trời với chồng của con. Đó cũng là một hình thức của tâm luyến ái. Vậy làm sao cô ấy sinh lên cõi trời được? Thầy: Đó cũng là sự dính mắc và cũng là vô minh nữa. Nhưng cô biết rằng nếu mình tạo thiện nghiệp thì sẽ được sinh lên cõi trời, như vậy cô còn dính mắc với cảnh giới chư thiên và với chồng mình. Cô ấy nỗ lực làm phước và giữ giới trong những ngày bát quan trai. Cô còn cúng dường suốt cả năm. Cô tạo được rất nhiều phước, nhờ năng lực phước thiện nên được sinh lên cõi trời. Tuy nhiên bất cứ hình thức sống nào cũng khổ cả. Kể cả chư thiên! Quý vị thấy không, chư thiên tuổi thọ 500 năm, ai cũng có dung sắc thù thắng cả, lúc nào cũng trẻ như mới 16. Nhiều chư thiên khó giữ giới lắm. Chư thiên có dung sắc rất đẹp, vị thì có ánh sáng như vang ròng, vị thì ánh sáng như sao mai...Rất đẹp! Ở cõi người này nhiều phụ nữ không đẹp đẽ gì mà chồng họ còn luyến ái chẳng rời xa được huống hồ các thiên nam làm sao rời xa những thiên nữ xinh đẹp của họ được. Khi họ muốn nhảy múa thì âm nhạc tự nhiên trỗi lên. Hỏi làm sao mà đi ngồi thiền được chứ? Cho nên quý vị hãy giữ giới với tâm nguyện đắt niết bàn. Không nên nghĩ đến chuyện hoàn tục. Niết bàn là tốt nhất. 32 cõi thế giới chỉ toàn khổ! Sinh rồi tử, sinh rồi tử, rồi tái sinh... cứ lặp đi lặp lại hoài chỉ có bấy nhiêu! Tóm lại chúng ta vừa nói xong giới thứ 2. Nếu quý vị muốn giàu có thì không trộm cắp. Được không? Quý vị không giữ được giới này sẽ rất nghèo. Trước tiên là bị rơi xuống các cõi dữ, sau đó sinh làm người thì thành người nghèo. Quý vị biết không phía sau làng tôi sống có rất nhiều người nghèo đến nỗi mỗi ngày chỉ có 1 bữa ăn. Họ rất ốm. Tại sao họ lại bị sanh vào những gia đình như vậy? Mà nhiều nhà nghèo thì đông con, tại sao? Vì họ không thích giữ giới trộm cắp. Cho nên sau khi chết. Nếu được hỗ trợ bởi nghiệp thiện họ sẽ sinh vào cõi người nhưng nhà nghèo. Giá mà quý vị có thể thấy được những người này họ ốm thế nào, tay họ chỉ toàn xương, quý vị mà thấy họ đang đi thì ắt sẽ nghĩ rằng một bộ xương đang di chuyển. Nghèo vậy nhưng họ đẻ rất nhiều, mỗi năm 1 đứa, đẻ liên tục, nhưng mà không chết. Tại sao, vì trong kiếp trước họ ăn cắp của người khác làm người ta khổ sở nên giờ họ phải sống chịu khổ lại như vậy. Có lần tôi hỏi họ: “Ông có đói không?” “Đói lắm Sư ơi, nhưng không có gì ăn hết.” Ông bố lười lắm, nằm ngủ suốt ngày, người mẹ cũng không thích làm việc, cho nên đứa con cũng không muốn ăn gì cả. Khổ vậy đó. Quý vị thấy không, trên thế giới này có bao nhiêu người giàu chúng ta có thể đếm được. Có bao nhiêu người nghèo có đếm được không? Không thể đếm xuể! Nếu cộng số người nghèo trên các quốc gia lại sẽ rất nhiều. Chỉ có một số người giàu có thôi. Vì sao? Vì chỉ có một số người muốn giữ giới. Như vậy đó. Giới thứ 3 là tà dâm. Thật ra tôi định nói chuyện về hành thiền thôi nhưng nãy giờ lại nói về giới không. Vì giới là nền tảng căn bản để hành thiền. Nếu qúy vị giữ giới tốt, quý vị sẽ hành thiền tốt. Nếu không giữ giới được không thể hành thiền tốt. Tại sao? Vì giới không trong sạch thì tâm không an, suy nghĩ lung tung và không hứng thú với việc thiền tập. Quay lại vấn đề, giới thứ ba là tránh không tà dâm. Một thiền sinh quán về tiền kiếp thấy mình là 1 ông vua, trong kiếp thứ 8 (kể từ kiếp này). Ông vua này có rất nhiều vợ và rất thích chuyện chăn gối. Rồi thiền sinh quán tiếp về kiếp trước đó thì thấy mình là một ẩn sĩ hành thiền trong rừng, đề mục Kasina đất, ẩn sĩ này thường nhập định rồi trú trong thiền vô sắc giới. Sau đó lúc chết hóa sinh lên thành 1 phạm thiên ở cõi trời vô sắc giới và sống ở đó rất lâu. Sau khi hết tuổi thọ rồi vị phạm thiên này tái sanh xuống thành 1 chư thiên (ở cõi trời dục giới). Sau kiếp chư thiên này xuống cõi người làm ông vua đó. Vua có nhiều cung phi mỹ nữ và rất ham thích chuyện vợ chồng. Thiền sinh đó nói rằng “Đời làm vua con chỉ thấy toàn là ăn nằm với các phi tần.” Một ngày kia vua đó muốn ngủ với 1 trong số những cung phi của mình. Nhưng cô này bị ốm và không thể đáp ứng được. Ông vua không thể kiềm chế mình và vẫn làm chuyện đó. Sau đó cổ không thể thở được và qua đời. Thấy cô chết ông hối hận và kinh sợ sự dâm dục của mình, liền đi tới một vi tỳ kheo và xin xuất gia. Tỳ kheo này học thiền với thầy bắt đầu bằng chánh niệm trên hơi thở trước, rồi tiếp tục thành công với 10 đề mục kasina, tiếp theo vị ấy quán danh sắc và quán tiếp đến 5 thủ uẩn. Như vậy vị ấy thực tập nhiều năm trời. Lúc chết vị ấy nghĩ rằng mình chưa đạt được Maggasacca (Đạo đế), vì sao vậy? Vì vị ấy chưa hành được đến giai đoạn nhân quả. Đức Phật đã nói “Trong giáo pháp của ta, ai chưa hành được nhân quả thì chưa thể đắc được tuệ Maggasacca”. Vị tỳ kheo này tự biết mình chưa hành được giai đoạn này vì vị ấy không quán được các kiếp sống quá khứ và tương lai của mình. Cận tử nghiệp vị ấy muốn hóa sinh lên phạm thiên ở cõi trời vô sắc giới nên dùng kasina trắng rồi trú trong định và hóa sinh. Phạm thiên này sống ở đó rất rất lâu, trải qua nhiều kiếp trái đất (tức các giai đoạn thành, trụ, hoại, không của trái đất). Khi hết tuổi thọ tái sinh xuống cõi người thành 1 người nam. Nhưng người nam này không thích kết hôn. Tại sao? Những người ở cõi phạm thiên xuống chỉ thích sống một mình và không hứng thú với đời sống hôn nhân (ái dục). Sau đó anh ta hành thiền bắt đầu bằng đề mục Kasina trắng. Sau đó anh ta biến cả căn phòng thành màu trắng anh ta ở trong đó. Cho đến khi đạt được, nhưng anh ta nghĩ căn phòng này không đủ yên tĩnh, làm sao đây? Anh ta cố gắng tìm kiếm một nơi thích hợp... Rồi để thân xác ở đó, tâm anh đi chỗ khác. Anh ta nghĩ cái này yên tĩnh hơn. Rồi anh ta cứ trú trong định như vậy. Sau đó người ta phát hiện ra thân anh không còn hơi thở nữa. Nghĩ anh đã chết, họ bỏ anh vào hòm rồi đem chôn. Lúc đó thức anh nhập vào cơ thể lại, cảm thấy rất mệt vì không thể thở được. Không có không khí, anh ta dùng tay chân đẩy đạp nắm hòm ra nhưng không thể. Thế là phải chấm dứt ở đây, hình ảnh cận tử nghiệp là cảnh 2 người nam nữ đang quan hệ với nhau. Đó là hình ảnh từ quá khứ ở kiếp làm vua khởi lên. Quý vị thấy chưa! Sức mạnh của nghiệp rất là... Nó có thể trở lại thành hình ảnh quyết định cho cận tử nghiệp của quý vị. Nhưng nhờ sức mạnh của tuệ minh sát nên anh ta không bị rơi xuống địa ngục mà bị tái sinh thành 1 con chó. Thiền sinh hỏi: Thưa Thầy nhưng anh ta đã đắc thiền, có khả năng trú trong thiền rồi mà. Thiền Sư: Vâng, người nào có khả năng nhập thiền lúc chết có thể hóa sinh lên cõi phạm thiên. Trong trường hợp này không được. Tại sao? Vì các bất thiện nghiệp vây quanh. Khi bị nghiệp lực đẩy thì người ta không thể làm gì được. Rồi thành chó, anh ta rất khổ. Nguyên một đời toàn tâm sân nổi lên. Tại sao? Lúc mới kiểm tra, thiền sinh chưa thấy rõ hình ảnh con vật, chỉ thấy tâm sân là chính, rất sân. Thiền sinh đó nghĩ chắc kiếp đó là rắn. Vì rắn thường có tâm sân trội. Nhưng khi quán đi quán lại nhiều lần, thì thấy thân thể đó rất to. Rồi hình ảnh một con chó hiện lên. Thiền sinh đã kiểm tra nhiều lần cho chắc chắn. Con chó này mới đầu sinh ra trong nhà nghèo. Quý vị biết không nghiệp của tà dâm sẽ bị sinh vào gia đình nghèo. Bởi vậy nghiệp lực rất nguy hiểm. Quý vị không nên nghĩ đến chuyện hoàn tục làm chi. Sau đó khi con chó lớn một chút được một gia đình giàu có thấy dễ thương và đem về nuôi. Giờ nó thành chó nhà giàu. Nó là con chó đực, nhưng suốt ngày ở trong nhà giàu kín cổng cao tường nên không gặp một con chó nào khác. Nó rất thân thiết với cô con gái của ông chủ, một quý cô xinh đẹp, thiền sinh nghĩ rằng cô gái này là người Trung Hoa. Suốt đời đó nó sống với cô và cô rất thương nó. Khi chết nó nghĩ “lúc nhỏ mình sinh ra trong nhà nghèo, sau đó sống sung sướng trong nhà giàu tới giờ, nghiệp lực thật không thể nói được.” Tại sao con chó lại có thể nghĩ như vậy? Vì nó có thiện nghiệp từ kiếp trước là niềm tin vào nhân quả. Khi nó chết, hình ảnh cô chủ hiện lên, nó sinh làm một người phụ nữ, không phải là con gái của cô chủ mà là một cô gái ở Miến Điện. Khi trẻ khá xinh xắn, cô lấy chồng rồi sinh 3 con, toàn là con trai. Sau đó chồng cô đi lấy vợ khác, cô vô cùng tức giận. Tại sao lại như vậy? Nghiệp tà dâm khiến cô bị bỏ rơi như vậy. Nhiều người cũng vậy, khi có vợ một thời gian rồi bỏ đi. Họ không còn luyến ái người vợ đó nữa, tại sao? Vì nghiệp lực của người đó trong quá khứ khiến họ phải chịu cảnh bị bỏ rơi. Sau đó, cô cúng dường món cà ri cho một thiền viện lớn. Được cúng dường cho nhiều người nên cô rất hoan hỷ cô ước nguyện được thành 1 vị tỳ kheo. Lúc chết hình ảnh này tái hiện hỗ trợ cho các thiện nghiệp mà cô đã tích lũy và đời này được sinh ra như ước nguyện. Các vị thiện nam tín nữ hay cúng dường rất dễ khởi nhớ lại các hình ảnh này lúc chết. Sau đó mọi hình ảnh biến mất và chỉ hiện lên một màu đỏ rất đẹp-tử cung người mẹ, đó là dấu hiệu cho biết chúng sanh đó đang đi vào cõi người. Như vậy cô gái đó chết và tái sinh thành 1 người nam và xuất gia, tức là kiếp này. Nếu quý vị phạm tội tà dâm sẽ rơi vào 3 tầng địa ngục. Một là địa ngục mà ở đó cơ thể quý vị bị chó ăn đến chết, hai là địa ngục mà ở đó cơ thể bị (nghe không rõ), ba là địa ngục ở đó chúng sanh không có da, chỉ có máu mủ bao bọc cơ thể. Một thiền sinh hiện nay chỉ khoảng 16 tuổi, trong kiếp thứ 6 quá khứ là một người nam rất thích chuyện tà dâm, anh ta trả tiền và ngủ với các cô gái dịch vụ, rất nhiều lần như vậy. Lúc chết hình ảnh này tái hiện vây quanh khiến anh tái sinh xuống địa ngục. Anh ta nói “con chó rất lớn, nó nhào đến ăn thân thể con, thật kinh sợ. Nó rượt con chạy quanh, khi thì ăn tay, khi thì ăn chân, khi thì ăn cả người. Cứ chết đi sống lại trong địa ngục và bị ăn như vậy”. Anh ta sống rất lâu trong địa ngục. Hết kiếp này tâm muốn làm chuyện đó lại khởi lên và anh ta bị tái sinh thành một con chó cái. Chó cái thì lúc nào cũng vậy, chỉ có đẻ đẻ đẻ liên tục. Ngày nọ nó đang lang thang thì thấy 1 cô gái đang đặt bát cho 1 vị tăng. Nó nghĩ rằng “Hay quá, nếu mình là một cô gái mình cũng sẽ cúng dường như vậy”. Nó hoan hỷ khi thấy người khác cúng dường chư tăng. Lúc chết thiện nghiệp này khởi lên nhưng không được mạnh lắm vì nó không tự cúng dường, nó sinh ra thành một người nữ nhưng nghèo kiết xác. Cô gái này phải đi làm mướn công nhật những công việc nặng nhọc, và cũng đẻ rất nhiều con. Loại gạo cô ăn là gạo rất xấu, cứng như gạo lức vậy. Nếu quý vị bị nghiệp gì đó thì quý vị cũng sẽ thích ăn gạo lức (cười) vì ở đây gạo lức rất rẻ. Ngày nọ cô cúng dường cơm lức đến 1 vị tỳ kheo, và nguyện “con sẽ tái sinh thành 1 cô gái”. Tại sao chỉ nguyện thành 1 cô gái? Nghiệp tà dâm khiến như vậy, kiếp trước làm đàn ông thích ăn nằm với phụ nữ, bây giờ nghiệp chín khiến cô lại muốn thành phụ nữ. Rồi lúc chết, nghiệp này khởi lên, nhưng cô ta không cúng dường nhiều, chỉ một chút cơm. Nên được sinh thành 1 phụ nữ, cũng đẻ nhiều con. Nhưng kiếp này cô được cúng dường thiền viện món cà ri, cơm và một số thứ khác. Các vị tỳ kheo dạy cô ta quán bộ xương, nhưng cô ta không thể nhập định được. Như vậy đời này cô ta làm nhiều thiện nghiệp, lúc chết hình ảnh cúng dường khởi lên hỗ trợ các nhân thiện và cô ta tái sinh thành một người nữ tiếp (kiếp thứ nhất, kế kiếp này). Cô ta đi hành thiền và được dạy quán bộ xương, rồi quán danh sắc. Đến kiếp này, thiền sinh bắt đầu với đề mục quán bộ xương. Chỉ sau 1 ngày, có thể tập trung liên tục trong vòng 1 tiếng đồng hồ đề mục bộ xương. Quán danh sắc chỉ trong 1 tuần, sau đó quán nhân duyên, kiếp thứ nhất quán trong 2 ngày, kiếp thứ 2 quán chỉ trong 1 ngày. Tại sao lại nhanh như vậy? Vì nhờ thiện nghiệp của kiếp trước đã thực hành rồi nên kiếp này hành rất dễ. Cho nên nếu quý vị hành thiền bây giờ, thì những thiện nghiệp này sẽ không mất đi. Khi các ba la mật bồi bổ đầy đủ sẽ có ngày quý vị đắt Niết-bàn. Nếu chưa đắt Niết-bàn liền được thì trong những kiếp tương lai cũng được sanh lên cõi thiện. Tuy nhiên, mọi hình thức sống đều không tốt, chó hay chư thiên gì cũng khổ, nhưng chư thiên thì tốt hơn. Nên hãy cố gắng giữ giới. Nó không dễ, nhưng chúng ta phải cố gắng giữ. Nếu vị muốn chấm dứt khổ thì phải giữ. Được không? Vì không đủ thời gian nên tôi không nói nhân duyên các kiếp sống tiếp theo của thiền sinh này được. Trở lại vấn đề, từ 3 địa ngục này chúng sanh phải trả quả cho nghiệp tà dâm đó sẽ sinh lên loài ngạ quỷ, khổ sở đói khát. Từ ngạ quỷ sẽ lên súc sanh, và những súc sanh này thường bị cắt bỏ bộ phận sinh dục. Quý vị thấy những con chó hay các loại khác không, một số con bị cắt bộ phận này. Do nghiệp của chúng! Tiếp đó nếu chúng sanh này sinh lên làm người thì thường thích làm người nữ. Cho dù họ là đàn ông họ cũng không thích cuộc sống đàn ông mà muốn sống như đàn bà. Quý vị có thấy những người gay không? Họ giải phẫu và chuyển đổi giới tính như phụ nữ. Một số còn tự quảng cáo mình và mời gọi đầy trên các phương tiện. Tất cả đều do nghiệp tà dâm, vì kiếp trước tâm họ rất thích thú chuyện này nên kiếp này vẫn không thể dừng lại được. Một số chúng sanh sinh vào cõi người, thành phụ nữ hoặc đàn ông, nhưng nguời khác không ưa. Nếu quý vị thấy họ, quý vị không muốn tới gần. Có không? Nhiều người không có cảm tình với họ, có thể nói là ghét. Tại sao? Nghiệp lực của họ khiến như vậy. Rất đáng ghét. Thậm chí người trong gia đình cũng ghét họ nữa. Nghiệp lực mạnh và nguy hiểm như vậy đó. Đó cũng là 1 cái quả của tội tà dâm. Khi quý vị giữ giới tà dâm, làm được điều này rất khó. Quý vị hiểu không? Nếu quý vị cố gắng giữ giới thật thanh tịnh, trong sạch, thì trong đời này quý vị sống xứng đáng rồi, và tương lai sẽ được hạnh phúc. Quý vị sẽ không khổ! Người trong sạch giới này sẽ có một thân hình và dung mạo đoan chính khả ái, mọi người thấy là quý mến ngay. Đó là do kiếp trước họ trong sạch không dâm dục, không làm người khác đau khổ. (còn tiếp) (Do máy thu âm bị trục trặc, không thể nghe được phần đầu thầy giảng về giới nói dối.Sau đây là phần dịch tiếp theo phần trên, nhưng bị mất khoảng 17 phút.) ...Một số người bị nghiệp hôi miệng, khi nói chuyện quý vị không thể đứng gần họ được vì mùi hôi. Đó là vì trong kiếp trước họ nói dối nhiều. Có một số người làm nghề bói toán coi số mệnh hoặc phán chuyện tương lai, họ nói dối rất nhiều. Ở nước chúng tôi(Miến Điện) chuyện này phổ biến lắm. Đặc biệt là quý cô rất dễ tin họ. Bây giờ chính phủ của chúng tôi cũng tin họ nốt. Những người này khi chết sẽ bị sinh xuống địa ngục Maha Tapana (hay còn gọi là địa ngục Đại Viêm Nhiệt) tức là địa ngục thứ 7. Địa ngục khiến chúng sanh ác đến ngọn núi sắt nóng đỏ, rồi rơi xuống cây giáo ở phía dưới do mãnh lực của gió và lửa đang cháy. Chungs sanh chịu tội tái sinh đến chỗ này, rơi trên đỉnh ngọn núi sắt nóng đỏ nhưng không có chỗ nào khác để chạy trốn, chỉ có thể chạy quanh ngọn núi được thôi. Sau đó mãnh lực của nghiệp tạo ra gió và lửa hất tung chúng sanh này rơi xuống dưới ngọn núi, phía dưới là những cây giáo nhọn chờ sẵn đâm xuyên cơ thể họ. Trong địa ngục này họ phải sống rất lâu chịu khổ như vậy. Do nghiệp lực nên họ phải ở cảnh giới này một thời gian nhất định, muốn chết sớm cũng không được. Chúng ta ai cũng muốn sống lâu phải không? Nhưng ở địa ngục thỉ chẳng ai muốn sống tuổi thọ dài cả. Sau khi trả nghiệp ở địa ngục họ tái sinh lên cõi ngạ quỷ . Sau đó đầu thai lên làm súc sanh rồi mới lên tiếp thành người, làm súc sanh cũng dị hợm, mà thành người cũng có bộ dạng xấu xí. Những người làm nghề bói toán mang nghiệp rất nặng, rất nguy hiểm cho họ. Quý vị làm việc thiện thì tương lai, của quý vị sẽ tươi sáng. Có nhiều người trong quá khứ làm việc bất thiện, giả sử có người giảng pháp khuyên họ giữ giới nhưng họ không muốn làm. Những người này sau khi chết tái sanh vào các cõi dữ một cách dễ dàng. Nếu quý vị giữ giới không nói dối thì đời sau khi quý vị nói chuyện sẽ có mùi thơm của hoa sen. Khuôn mặt quý vị sẽ rất bình an, rất đẹp. Có một số người, khuôn mặt không cân xứng, ví dụ bị lé, họ nhìn đâu bạn cũng không biết được... Vì sao? Đời trước họ nói dối, bây giờ nghiệp chín nên sinh ra với bộ dạng như thế. Như vậy có tốt không? Không tốt! vì vậy quý vị không nên nói dối với bất cứ ai. Hãy cố gắng giữ giới, đời sống của tỳ kheo rất tốt. Cuộc sống người tại gia giữ giới không dễ dàng tí nào. Giả sử họ phạm giới ăn cáp thì họ cũng dễ dàng phạm luôn giới nói dối. Hai giới này thường phạm chung với nhau. Chỉ cần một con muỗi bu lại là họ đập bốp ngay, chết liền tại chỗ, đó là phạm giới sát sinh rồi. Quý vị thấy không, phạm giới dễ lắm! Giới tà dâm cũng vậy, sống ngoài đời xung quanh có nhiều cô gái đẹp, rồi thì xu hướng chung của xã hội là như vậy nên rất dễ phạm... Giới cuối cùng là uống rượu. Nhiều người rất thích uống rượu phải không nào? Một thiền sinh quán về kiếp trước cua mình. Thiền sinh này thấy có một đời anh ta là một cô gái mất trí. Cô gái này không chịu bận quần áo gì và có một thú vui là thích trần truồng chạy rong ngoài đường. Nhiều người đưa quần áo cho cô bận nhưng cô vứt hết, người khác bận cho thì cô cũng cởi ra hết và chạy ra đường, làm như vậy cô thấy rất vui. Thiền sinh thấy kiếp trước mình như vậy nên rất đau khổ tự hỏi tại sao minh lại ra nông nỗi này. Chuyện gì xảy ra vậy? Nên anh ta quán tiếp về một kiếp trước nữa thì thấy nguyên nhân. Trong đời này anh ta là một bợm nhậu, rất khoái uống bia và rượu, say xỉn tối ngày với bạn bè. Trong suốt một đời đó anh ta chỉ làm được một việc đàng hoàng thôi đó là đem một cành hoa đến cúng dường tượng Phật. Lúc chết may mắn hình ảnh này hiện lên làm nhân hỗ trợ( cho các thiện nghiệp mà anh ta đã tạo từ nhiều kiếp quá khứ), nhưng tâm anh ta bị bủa vây bởi nghiệp uống rượu của đời này, nên anh ta được sinh làm người nhưng bị điên. Do tâm nhớ tưởng việc uống rượu của đời này không mạnh lắm nên còn được sanh làm người. Nếu không sẽ rơi thẳng xuống địa ngục và uống nước đồng sôi. Khi quý vị uống nước đồng này vào đến miệng, miệng bốc cháy, xuống đến bao tử, bao tử bốc cháy, rồi cả thân thể bốc cháy. Rất đau đớn nhưng không thể dừng lại được tại sao vậy? Vì lúc uống rượu bia người này rất vui, và thỏa thích, đầu óc không tỉnh táo, cứ như vậy nhiều năm trời. Ở địa ngục này chúng sanh rất khát, lúc ấy sẽ có người đến cho nước, bảo chúng sanh ấy há miệng ra, rồi họ đổ nước vào, nước này chính là nước đồng đang sôi hoặc than đang cháy. Hết nghiệp ở địa ngục, chúng sanh ấy sẽ tái sinh lên ngạ quỷ, nhưng không thích ăn các đồ ăn của quỷ mà chỉ thích chạy rong. Sau nó tái sinh lên thành súc sanh cũng sẽ bị điên và ngu si. Quý vị có thấy con chó điên chạy rong ngoài đường cắn người không? Nếu nó sinh làm heo sẽ thành heo điên. Sinh làm người thành người điên, hoặc ngốc nghếch. Quý vị có muốn như vậy không? Chắc chắn là không rồi!Cho nên quý vị phải giữ giới luật thật tốt. Nếu người đó có phước sinh lên thiên lận. Như vậy đấy! Rất là nguy hiểm. Cho nên chúng ta cần phải giữ giới một cách thận trọng. Trong luân hồi chúng ta chỉ có cơ hội giữ giới được vài đời thôi, không phải đời nào cũng giữ đâu. Cho nên có thể đời này chúng ta không thích giữ giới lắm phải không? Vì sao? Vì nhiều đời chúng ta không giữ nên đời này cũng không thích giữ. Tâm chúng ta thường thích làm gì nào? Thích ở nhà với gia đình, thích có vợ sinh con đẻ cái, rồi bạn bè hội họp... rất nhiều thú vui. Như vậy đấy và dễ phạm giới. Bây giờ quý vị đã giữ đươc giới rồi, quý vị đang tiến lên một cấp độ cao hơn là hành thiền( Đức Phật dạy 3 cấp độ của việc phước là Bố thí - Trì giới - Hành thiền). Có 40 đề mục thiền, Chánh niệm trên hơi thở là một trong số đó. Giả sử quý vị bắt đầu với đề mục này, khi quý vị có thể định tâm liên tục trên đề mục hơi thở, nimita mỗi người sẽ xuất hiện , nimita chính là sức định của quý vị. Màu sắc và hình dạng nimita của sức định của quý vị mạnh quý vị sẽ nhập vào sơ thiền cho đến tứ thiền. Khi thuần thục quý vị sẽ quán 32 thể trược. Nếu quý vị quán 32 thể trược được rồi sẽ quán tiếp đến đề mục bộ xương, từ đề mục bộ xương quý vị có thể vào các tầng thiền và quán sang đề mục kasina, kasina trắng, kasina đất và 10 kasina. Sau đó nếu quý vị muốn sẽ hành tiếp đến tứ vô lượng tâm tức là Từ - Bi - Hỷ - Xả... lần lượt như vậy đi hết các đề mục thiền định. Nếu quý vị thành công hết sẽ chuyển sang hành thiền tuệ, tức Minh sát tuệ, khi quán đén giai đoạn này mọi đối tượng đều có thể làm đề mục hành thiền, quý vị sẽ không bị dính mắc với bất cứ đối tượng đều có thể làm đề mục thành thiền, quý vị sẽ không bị dính mắc với bất cứ đối tượng nào nữa, mà khi nó xuất hiện quý vị sẽ thấy tứ đại trong đó và nó chỉ là danh và sắc nói tổng quát sơ sơ thôi. Vì đi vào lộ trình này khá chi tiết và đòi hỏi phải có thầy theo sát hướng dẫn. (Đến đây là kết thúc phần dạy về giới. Tiếp theo là phần vấn đáp cảu thầy và các thiền sinh về kỹ thuật hành thiền, vì đoạn này dành cho người chuyên hành thiền nên con thấy không cần thiết phải dịch hết.) Kính thưa cả nhà, Đây là bài pháp Thầy Pannananda giảng cho các vị Tỳ kheo, sau đó Sư Giới Tịnh chia sẻ cho mấy chị em.Út mới dịch được phần dạy Pháp của Thầy về 3 giới này thôi. Còn phần Thầy dạy về 2 giới nữa Út sẽ cố gắng dịch tiếp khi có thời gian. Út gởi phần này trước để mọi người đọc lần hén. Chứ nếu thấy dài quá chắc cũng lười đọc, phải không ạ? Ở bên này chuyện hành thiền và quán nhân quả kiếp trước kiếp sau là bình thường, Bố mẹ, các anh chị và bé đừng nghĩ rằng Thầy đưa ra để hù dọa hoặc pháp môn gì mà lạ quá vậy. Vì thực ra vào thời Đức Phật chính Ngài cũng hay kể chuyện tiền thân của mình và các đệ tử để làm bài học cho mọi người đấy thôi! Ngài thường kể để phân tích do nhân như vậy duyên như vậy nên người đó phải bị hoặc được như vậy. Các thiền sinh ở thiền viện này hội tụ đủ khả năng và điều kiện được may mắn hành đúng theo lời Phật dạy nên có thể quán được tiền kiếp hậu kiếp để hiểu sự vận hành của luật nhân quả, bồi bổ chánh kiến và sự phát triển của trí tuệ. Nhưng đó chỉ là một giai đoạn tiến hóa trên con đường đi đến sự chấm dứt sinh tử luân hồi, không phải là mục đích cuối cùng của người hành thiền. Vì thời nay hầu như không ai làm được nên nhiều người ta bài bác chuyện chứng đắc, cái gì không có số đông cổ xúy thường bị cho là sai lầm. Nhưng khi đối chiếu với kinh điển do chính Đức Phật nói thì thấy không sai một chút xíu nào. Chúng ta đọc kinh thường thấy sau khi Đức Phật nói một thời pháp có rất nhiều vị chứng Alahan, hoặc Tu đà hoàn...Như vậy, những gì Đức Phật có nói thì là đúng chứ không sai, chúng ta cứ dựa trên kinh điển mà Ngài đã giảng có nguồn gốc rõ ràng để đi thì bảo đảm đúng hướng. Những thiền sinh có khả năng quán đến giai đoạn nhân duyên này là những chúng sanh tiến hóa rất cao trên con đường tâm linh mà còn phải chịu cảnh khổ ở các cõi dữ vì những bất thiện nghiệp lỡ tạo từ kiếp trước. Tuy nhiên số lần bị tái sinh trong đường dữ như vậy đã là rất ít. Huống hồ những chúng sanh không biết bố thí cúng dừng, giữ giới và tu tập thì chỉ có đi từ cõi tối đến cõi tối mà thôi. Chúng ta nếu không lo làm việc phước, giữ gìn các giới và tu tập thì khả năng rơi xuống địa ngục ngạ quỷ súc sanh rất cao. Sống ngoài thế gian đôi khi vì dễ duôi theo xã hội và hoàn cảnh mà chúng ta coi thường việc giữ giới. Khi Thầy chứng minh cụ thể bằng tấm gương của các hành giả ở đây chúng ta mới thấy được sự nguy hiểm và cái quả đau khổ của việc phạm giới. Cho nên mong cả nhà hãy cố gắng tạo một nhân lành cho mình ngay trong đời này và đời sau. Kính chúc Bố mẹ, các anh chị và Bé được nhiều lợi ích từ bài pháp này. Vì đây là bài dịch từ văn nói nên có nhiều chỗ bị trùng lặp, đồng thời, “dịch giả” cũng mới vào “nghề” nên không thể tránh khỏi những sơ sót. Kính mong “quý độc giả” lượng tình tha thứ và góp ý. Xin hồi hướng công đức cùng khắp tất cả. Nguyện mọi người được sống an lạc, hạnh phúc, luôn đi từ chỗ sáng đến sáng. Sadhu! Sadhu! Sadhu! Chú thích: Những chỗ có dấu... là câu thầy bỏ lửng. Câu trong ngoặc đơn là lời giải thích thêm của người dịch cho dễ hiểu.
  16. vậy em xin cố gắng không hiểu :) cảm ơn Như Thông :D
  17. Có người hỏi Đức Dalai Lama: "Điều gì làm Ngài ngạc nhiên nhất ở nhân loại ?" Ngài trả lời: "Con người... bởi vì con người phung phí sức khỏe để tích tiền của, rồi lại bỏ tiền ra để tìm mua lại sức khỏe. Và vì quá lo nghĩ cho tương lai, con người quên mất hiện tại, đến nỗi không sống với hiện tại lẫn tương lai. Con người sống như thể sẽ không bao giờ chết... Nhưng rồi sẽ chết như chưa bao giờ đã từng sống"
  18. Phương Hồng rất dốt nhưng cũng rất nhiệt tình :) cho mình 1 vé :)
  19. sao Như Thông lại nói như vậy nhỉ :D không hiểu :D cám ơn đã đọc bài :D
  20. Nguồn : http://www.trungtamhotong.org/NoiDung/ThuVien/CuocDoiLa/index.htm Cuộc Đời Là Một Hành Trình Tâm Linh oo0oo “Cuộc đời là một chuỗi những bài kiểm tra. Khó khăn chính là những bài kiểm tra. Chúng ta đang ở trong một trường đời. Toàn bộ cuộc đời chúng ta là một trường học. Từ khi mới lọt lòng sinh ra cho đến khi nhắm mắt xuôi tay, chúng ta đều học ở dưới mái trường này.” Đó là một trường học không chính thức. Không có giảng đường, phòng học. Tất cả mọi thứ chúng ta nhìn, mọi thứ chúng ta nghe, mọi thứ chúng ta cảm nhận, tất cả hạnh phúc và khổ đau, tất cả mọi vấn đề khó khăn trong cuộc sống, mọi thành công và thất bại đều là bài học cho chúng ta. Khi chúng ta thành đạt, đó là một bài kiểm tra. Nó kiểm tra và thử thách mức độ khiêm tốn của chúng ta khi đứng trước thành công và vinh quang. Hầu hết chúng ta đều rất tự hào, nở mặt mở mày và tự cao tự đại trong giờ phút đó: “Ôi, tôi đã thành công, tôi đã thành đạt. Trong khi khối kẻ khác thì đang thất bại”. Vì vậy, chúng ta không còn đối xử với mọi người một cách trân trọng nữa. Chúng ta trở thành những kẻ hãnh tiến và ngã mạn. Cũng như vậy, thất bại cũng là một bài kiểm tra. Chúng ta có thể duy trì một nội tâm quân bình, thanh thản ra sao khi đứng trước thất bại? Chúng ta có thể giữ thăng bằng mà không cảm thấy trầm uất, khổ đau, hụt hẫng, không cảm thấy thua kém và bất hạnh vì không thành đạt được không? Nó cũng là một bài kiểm tra để cho thấy liệu bạn có cố gắng đứng dậy được nữa hay không. Bạn thất bại, bạn cố gắng đứng lên. Rồi bạn lại thất bại, và lại cố gượng đứng lên lần nữa. Đây là một bài kiểm tra để xem bạn có thực sự trưởng thành, có đủ dũng khí và tự tin vào chính bản thân mình và tin vào cuộc đời hay không; để xem bạn có cố gắng đứng lên được nữa hay không. Hầu hết mọi người đều không có niềm tin vào cuộc đời. Họ cũng không tự tin vào chính bản thân mình nữa. Đây là những điều chúng ta cần phải suy nghĩ thật sâu sắc. Khi đã học cách tin tưởng vào cuộc đời và tự tin vào chính mình, từ khi đó tôi đã học hỏi được nhiều hơn và dễ dàng hơn. Nó là một trò chơi, nhưng là một trò chơi thực sự nghiêm túc. Khi bạn đối mặt với khó khăn và thất bại, điều quan trọng là phải hiểu nó một cách thật sâu sắc và không để mình bị hụt hẫng và trầm uất. Cố gắng tìm ra phương cách tốt nhất để vượt qua nó và tiếp tục thực hành như thế nhiều lần. Cuộc đời là một chuỗi những bài kiểm tra, nhưng bạn sẽ biết khi nào mình vượt qua các bài kiểm tra đó một cách thành công; bạn sẽ có thể nhìn lại chúng như là những kinh nghiệm bổ ích cho mình! Khi đối diện với những tình huống khó khăn trong cuộc sống, bạn thường nghĩ: “Trời ơi, sao tôi lại không may đến thế! Tôi đã làm những gì đến nỗi phải chịu khổ thế này?”. Bạn than phiền, đổ lỗi cho nghiệp chướng của mình, trách móc cha mẹ, vợ, chồng mình, hay đổ lỗi cho cả chính quyền. Bạn ca thán ngày một cao giọng và to tiếng, ngày càng nói dài, nói dai hơn. Khi bạn càng than trách, nó càng cho thấy rằng bạn đang thi rớt bài kiểm tra đó. Đây là một bài kiểm tra sự trưởng thành của bạn, sự nhẫn nại của bạn, kiểm tra tâm xả ly và trí tuệ của bạn. Bất cứ khi nào đối diện với khó khăn, bạn hãy tự nhắc nhở mình rằng: “Đây là một bài kiểm tra. Đây là một thử thách cho mình. Tôi phải học được điều gì đó từ khó khănnày để trở nên chín chắn và trưởng thành hơn”. Tôi thích nói về bản thân mình, bởi vì đó là con người mà tôi hiểu rõ hơn cả. Cuộc đời tôi là một hành trình đầy những khó khăn, cơ cực. Từ khi còn là một cậu bé, tôi đã phải gánh chịu biết bao nỗi khó khăn khổ ải trên đời, hết cơ hàn này đến nghiệp chướng kia. Nhưng tôi cũng đã học hỏi được rất nhiều từ chúng. Vì vậy, đó cũng là lý do tôi muốn khuyến khích các bạn hãy làm như thế. Cho dù những khó khăn, vất vả bạn đang phải trải qua đó có nặng nề đau đớn đến đâu, cũng hãy cố gắng duy trì một mức độ quân bình, buông xả nào đó trong tâm. Hãy trầm tĩnh lại một chút và xem xét xem mình có thể học hỏi được gì từ những hoàn cảnh đó không. Hãy chú ý xem mình có thể phát triển được các phẩm chất nội tâm nào đó không. Hãy cố gắng để hiểu biết hơn, yêu thương và khoan dung, tha thứ hơn và cố gắng kham nhẫn, chịu đựng thêm được chút nào hay chút ấy. Mỗi khi chúng ta có khó khăn, khúc mắc với người nào đó, chúng ta thường đổ lỗi cho họ. Chúng ta buộc tội và trách móc họ là đã không làm đầy đủ mọi thứ cho mình. Đôi khi chúng ta cũng tự trách móc chính bản thân mình nữa: “Mình đúng là đồ ngu, ai lại tự đi rước vạ vào thân như thế”. Chúng ta không thể tha thứ cho mình và cảm thấy tự xấu hổ cho bản thân mình: “Trời ơi, rồi mọi người sẽ biết hết, mình là kẻ ngu; làm sao mình có thể phơi cái mặt này ra trước bàn dân thiên hạ được nữa. Mình phải trốn đi một nơi nào đó thật xa, đến chỗ nào không ai biết đến mình nữa”. Rất nhiều người đã làm như thế. Họ chạy trốn. Họ không còn muốn gặp lại bạn bè và người quen nữa, bởi vì họ thấy tự hổ thẹn trong lòng. Nhưng nếu bạn có thể nhìn kỹ những điều này một cách trầm tĩnh trong tâm xả, bạn sẽ qua được kỳ thi này và sẽ quay lại nhìn nó như là một kinh nghiệm tốt cho mình. Bạn sẽ nhìn lại nó như là một thành công của mình. Bạn đã thành công. Bạn đã học hỏi ra điều gì đó trong đời. Ẩn chứa trong mỗi hoàn cảnh mới mà chúng ta đang phải trải qua là một bài học tâm linh cần học hỏi. Toàn bộ cuộc đời này là một bài học tâm linh mà chúng ta sinh ra trên đời để học bài học đó. Chúng ta có mặt ở đây, trên thế gian này, trong kiếp nhân sinh này, trong thời đại này là để học hỏi ra những gì cần học hỏi. Khi đọc những câu chuyện kể về những người có thể nhớ được kiếp trước của mình, tôi thấy rất nhiều người trong số họ diễn đạt cùng một tư tưởng như nhau. Một trong những tư tưởng đó là: họ sinh ra ở đây, trên cõi đời này là để hoàn thành một công việc gì đó, để học hỏi một điều gì đó, và tôi cũng cảm thấy y như thế đối với cuộc đời mình. Tôi sinh ra ở đây, mang cái thân người này, là để học hỏi ra một điều gì đó, để hoàn thành một bổn phận, một trách nhiệm nào đó hay bất cứ điều gì bạn có thể gán cho nó. Khi nhìn cuộc đời theo quan kiến đó, từ góc độ đó, tất cả mọi thứ trong cuộc đời bạn sẽ trở nên vô cùng ý nghĩa. Một điều tôi đã từng đọc và ghi nhớ rất sâu trong tâm là một câu nói rất giá trị và rất hay này: Tất cả mọi thứ trên thế gian này đều ẩn chứa những ý nghĩa riêng của nó. Bởi vì chúng ta chỉ thấy một cách quá hời hợt và nông cạn, nên chúng ta không thể thấy được ý nghĩa sâu sắc đằng sau những gì đang diễn ra, và do vậy mọi thứ trở thành vô nghĩa đối với chúng ta. Rất nhiều người đã hỏi tôi rằng: “Cuộc đời có ý nghĩa gì?”. Tôi có thể trả lời câu hỏi đó như thế nào được đây? Bởi vì điều đó còn phụ thuộc vào mức độ chín chắn và trưởng thành của chính bạn. Nó phụ thuộc vào mức độ nhiều ít của ý nghĩa mà bạn đã đặt trên cuộc đời mình. Đừng hỏi cuộc đời có ý nghĩa gì. Mà trước hết hãy tự hỏi mình xem mình coi cuộc đời này có ý nghĩa như thế nào. Chính chúng ta cho cuộc đời ý nghĩa của nó. Đừng đi hỏi người khác về ý nghĩa của cuộc đời. Hãy đem đến cho tất cả mọi thứ những ý nghĩa của chính mình. Điều này rất quan trọng. Mỗi khi có điều gì đó xảy ra, hãy cố gắng tìm ra: “Nhất định phải có một ý nghĩa nào đó đằng sau kinh nghiệm tâm linh này; cần phải tìm hiểu xem tại sao mình phải đối diện với hoàn cảnh này”. Dù xấu hay tốt, tất cả mọi kinh nghiệm, mọi hoàn cảnh đều có ý nghĩa riêng của nó. Nếu không thấu hiểu ý nghĩa của nó một cách đúng đắn, rất có thể chúng ta sẽ bỏ lỡ cơ hội, không tận dụng được hoàn cảnh đó, để rồi lại phải vướng vào rắc rối nữa. Cho dù chúng ta có được kinh nghiệm xấu hay tốt, điều quan trọng là phải nhìn sâu vào nó và tìm hiểu xem: “Điều này có ý nghĩa gì đối với mình đây?”. Ý nghĩa cho mình chứ không phải cho những người khác. Chúng ta thường có tật cứ muốn tìm kiếm ý nghĩa cho mọi người và đôi khi người ta lại chẳng hề đồng ý với chúng ta về cái ý nghĩa đó. Vì vậy, đừng hỏi xem có ai đồng ý với ý nghĩa của mình hay không, mà hãy chỉ nên tự hỏi chính mình mà thôi. Có lúc tôi đã làm được những việc thật sự rất ý nghĩa đối với chính mình. Tuy thế, hầu hết tất cả bạn bè của tôi đều nói: “Cái đó thật vô nghĩa. Tại sao anh lại làm việc đó? Chắc anh điên rồi!”. Nếu tôi nghe lời họ, thì hẳn là tôi đã đánh mất ý nghĩa của mình rồi. Hầu hết mọi người chúng ta đều có xu hướng tin vào những gì người khác nghĩ và bảo chúng ta làm, hơn là tự tin vào chính bản thân mình. Chúng ta không có đủ tự tin. Hãy bỏ qua một bên những gì người khác nói. Bạn có thể có những tiêu chuẩn giá trị khác với gia đình và bạn bè của bạn và họ có thể sẽ chỉ trích hay chê cười bạn. Dẫu sao, tất cả những người bước chân đi trên con đường phát triển tâm linh này đều vướng phải cái cảnh bị hiểu lầm như thế. Bạn cần phải tự tin vào chính mình: “Tôi biết mình đang làm gì và tôi biết điều đó có ý nghĩa như thế nào đối với tôi. Nếu nó chẳng có ý nghĩa gì đối với những người khác, thì đó chẳng phải là vấn đề của tôi”. Chịu sự kiểm tra và thử thách là điều rất tốt. Chúng ta trưởng thành và học hỏi được từ chính việc vượt qua các bài kiểm tra đó. Chúng ta cắp sách đến trường, chúng ta học và chúng ta thi. Chúng ta vượt qua được kỳ thi đó và học lên lớp cao hơn, đây cũng chính là cách chúng ta sống cuộc đời mình. Mỗi khi vượt qua được một bài thi, chúng ta lại học hỏi và trưởng thành lên. Chúng ta trưởng thành và chín chắn, không đến nỗi nhanh như tốc độ lão hóa của mình. Một số người ngày càng già đi, nhưng họ không trưởng thành. Một số người mặc dù còn rất trẻ, song họ đã thực sự trưởng thành. Sự trưởng thành và chín chắn của bạn không phụ thuộc vào số năm bạn đã sống trên đời. Sự trưởng thành phụ thuộc vào việc bạn đã học hỏi được bao nhiêu từ những kinh nghiệm sống của chính mình, chứ không phải từ sách vở, không phải từ những người khác – mà từ chính cuộc đời của bạn. Một trong những niềm vui của cuộc sống là: biết rằng mình đang trưởng thành, mỗi ngày trôi qua bạn đang lớn lên. Tôi coi tất cả những bài kiểm tra như là những kinh nghiệm tốt cho mình. Tôi hy vọng là các bạn cũng có thể tự nói với mình như thế. Một người bạn đã nói điều này với tôi và tôi rất thích. Có một thời tôi đã nghĩ rằng, thật khó chịu khi cứ phải đương đầu với một vấn đề khó khăn nào đó. Tôi thường cố gắng tống khứ nó đi hoặc là đẩy cho ai đó giải quyết thay mình. Mỗi khi phải đối mặt với khó khăn, chúng ta thường có tâm lý muốn đẩy nó cho người khác giải quyết thay; cha, mẹ sẽ giải quyết việc đó cho mình. Hoặc giả như bạn đã có gia đình thì lại trông chờ chồng mình, vợ mình sẽ làm việc đó thay mình. Đôi khi chúng ta còn trông chờ vào cả con cái sẽ gánh vác hộ cho mình nữa. “Trước kia tôi thường tìm cách lảng tránh khó khăn hoặc đẩy cho người khác giải quyết thay mình”. Người đó sẽ thật sự là một con người hạnh phúc khi có thể nói rằng: “Nhưng cái thời ấy đã xưa rồi”. Họ không còn trông chờ người khác sẽ giải quyết vấn đề thay cho mình nữa. Ngày đó quả là một ngày vĩ đại trong cuộc đời tôi, cái ngày tôi đã phát hiện ra mục đích và ý nghĩa kỳ diệu của mọi khó khăn. Tất cả mọi khó khăn đều có mục đích và ý nghĩa của nó. Nó là một bài học mà chúng ta cần phải học hỏi để trưởng thành. Đúng thế, nó có một ý nghĩa thật tuyệt vời. Một số người thường cầu mong cho mình được sống một cuộc đời bình yên, xuôi chèo mát mái, không khó khăn, không gian khổ cơ hàn. Nhưng tôi thì không hề cầu mong một cuộc sống như thế cho bất cứ người nào trong các bạn. Cái tôi nguyện cầu cho các bạn là có một được nghị lực phi thường để giải quyết mọi khó khăn của mình một cách ý nghĩa để trưởng thành lên. Mục đích của cuộc đời chúng ta là để trưởng thành, là để giải quyết các vấn đề của mình một cách chánh niệm và ý nghĩa. Trí tuệ sẽ đến và chánh niệm cũng đến cùng. Bạn cần chánh niệm và bạn cần phát triển trí tuệ. Bạn cần phải luôn luôn sẵn sàng, luôn luôn được chuẩn bị, luôn luôn tỉnh thức và không phản ứng một cách máy móc. Khi chúng ta phản ứng một cách máy móc, chúng ta không giải quyết được các vấn đề của mình một cách có ý nghĩa, bởi vì các phản ứng máy móc đa phần diễn ra một cách vô thức và thường là không có trí tuệ. Các phản ứng máy móc thường là không thích hợp, không khéo léo. Mỗi khi đối diện với một vấn đề khó khăn, chúng ta phải tự nhắc nhở mình: “Hãy chánh niệm, hãy chánh niệm đi”. Hãy thong thả, khoan khai. Hãy trầm tĩnh và đừng nghĩ nó là vấn đề của riêng bản thân mình. Đừng phản ứng lại nó từ những tình cảm cá nhân. Hãy nhìn nó từ một tầm nhìn cao hơn. Hãy chánh niệm, bởi vì khi chánh niệm, bạn sẽ có cảm giác mình đứng trên tất cả mọi sự. Bạn có thể thấy được tất cả mọi thứ như thể chúng đang diễn ra dưới tầm mắt mình. Bạn có thể thấy bao quát được tất cả; thấy được các sự việc liên kết với nhau ra sao, cái gì sẽ xảy ra tiếp theo, mọi người đang làm gì, những lực tác động nào tham gia và diễn biến tình hình thực tế ra sao. Hãy cố gắng có được cái tầm nhìn đó nhiều hơn mỗi ngày. Điều tốt đẹp nhất bạn có thể làm được là: sớm mai thức dậy sớm, hành thiền và tự điều chỉnh mình vào trong trạng thái tâm đó. Trạng thái tâm là rất quan trọng. Khi bạn ở trong trạng thái tâm đúng đắn, thích hợp thì bất cứ sự việc không may nào xảy đến, bạn cũng đã sẵn sàng để ứng phó. Chánh niệm đem đến cho bạn một trạng thái tâm xả, một nội tâm quân bình, khiến bạn trở nên trầm tĩnh và xả ly. Xả ly không có nghĩa là bạn bàng quan với mọi thứ. Xả ly nghĩa là không ngã mạn, tự cao, không nhìn nhận sự việc dưới góc độ cá nhân và không bị dính chấp vào kết quả. Khó khăn là những kinh nghiệm tốt để chúng ta học hỏi và trưởng thành. Nếu không muốn đối diện với khó khăn, bạn sẽ không bao giờ học hỏi được điều gì, bạn sẽ không thể trưởng thành, cho dù con người bạn đã lớn tuổi, niên cao lão hạp đến mấy. Tôi biết một người, năm nay bà ấy cũng chừng 50 tuổi. Bố bà ấy đã chết cách đây 3 năm. Khi đó bà ấy 47 tuổi. Bà ta khóc rất nhiều và than rằng: “Bố tôi chăm sóc tôi như thể tôi còn là một đứa bé, cho đến tận khi ông chết và đến bây giờ tôi vẫn chưa trưởng thành và chín chắn được”. Bố bà giải quyết tất cả mọi công chuyện trong gia đình. Ông là người rất gia trưởng và có quyền uy lớn. Ông quyết định thay cho tất cả mọi người. Không ai cần phải quyết định một điều gì cả. Khi ông mất đi, trong nhà không ai biết phải làm gì. Một cuộc đời không khó khăn, khúc mắc là một cuộc đời cằn khô và vô vị. Đó là một cuộc đời thật ngây ngô, ấu trĩ, vô vị và vô nghĩa, không hề có cơ hội trưởng thành về mặt tâm linh. Thực ra, chính những hoàn cảnh khó khăn trong cuộc sống mới là những cơ hội để chúng ta học hỏi và phát triển các phẩm chất tâm linh của mình. Khi người ta cư xử tệ bạc với mình, thì đó là một cơ hội để mình chánh niệm mà không sân hận, không oán ghét họ và không phản ứng quá mức. Khi cuộc sống trở nên khó khăn, bất thuận lợi thì đó là một cơ hội để chúng ta làm cho cuộc sống của mình trở nên đơn giản hơn. Tất cả mọi khó khăn đều là cơ hội. Nếu bạn hiểu được điều này và xem tất cả mọi vấn đề chỉ là cơ hội cho mình, thì khi đó cuộc đời bạn sẽ ngày càng có ý nghĩa hơn. Để coi tất cả mọi vấn đề, mọi hoàn cảnh khó khăn như là cơ hội, chúng ta cần phải có chánh niệm. Chúng ta phải luôn luôn chánh niệm. Chánh niệm phải luôn luôn có mặt sẵn sàng trong tâm bạn. Chúng ta phải tận dụng tất cả mọi cơ hội để sống với lý tưởng tâm linh của mình. Lý tưởng tâm linh của bạn là gì? Khi còn trẻ, tôi có rất nhiều lý tưởng. Tôi thường ôm ấp một lý tưởng nào đó, rồi sau một thời gian lại thấy không thỏa mãn với nó và vứt bỏ nó đi. Đôi khi tôi sống mà chẳng có một lý tưởng nào để sống vì nó, hay sống với nó cả. Một cuộc sống như vậy quả là một cuộc sống vô định hướng, mê mờ, một cuộc sống đau khổ. Rồi tôi lại cố gắng tìm một cái gì đó để đáng sống vì nó, nhất định phải tìm ra một cái gì đó xứng đáng làm mục đích và hướng đi cho cuộc đời mình chứ. Trong quãng đời đó, tôi còn khá thực dụng, chạy theo vật chất và cuộc sống của tôi khi đó hầu như vô nghĩa, bởi vì một quan niệm sống thực dụng, nghiêng nặng về vật chất sẽ làm cho cuộc sống của bạn trở thành vô nghĩa. Tôi đã cố tìm kiếm một điều gì đó khiến cho cuộc sống của mình có ý nghĩa, nhưng rất khó để tìm cho ra một lý tưởng, một mục đích thật sự cho mình. Tuy nhiên, khi bắt đầu nghiên cứu giáo lý đạo Phật, dần dần tôi đã bắt đầu trân trọng, đánh giá cao một số điều chỗ này chỗ kia trong đó. Tôi chưa thể hiểu hết được tất cả mọi điều. Thời đó tôi là một kẻ hoài nghi và rất cứng đầu, cứng cổ không dễ chấp nhận bất cứ điều gì từ bất cứ một người nào. Tôi luôn sẵn sàng để không tin vào bất cứ ai, để luôn nghi ngờ tất cả. Tuy nhiên, tôi đã dần dần học hỏi ra một điều gì đó. Chẳng hạn, tôi đã biết đặt mình vào vị trí của người khác mà suy nghĩ và lý tưởng của tôi lúc đó là: không làm tổn thương đến bất cứ một ai cả. Tôi không muốn bị tổn thương, vì vậy tôi nghĩ điều quan trọng đối với mình là không được làm tổn thương bất cứ ai. Đối với tôi, không muốn bị tổn thương nghĩa là tôi không muốn bị người khác lừa dối, không muốn bị xúc phạm, sỉ nhục, không muốn bị đối xử thiếu tôn trọng. Do đó, nếu tôi cũng đối xử một cách thiếu tôn trọng với người khác, nếu tôi làm tổn thương đến họ thì điều đó có nghĩa rằng tôi là kẻ hai mặt. Đó là điều không tốt. Vì vậy tôi đã nuôi dưỡng lý tưởng này và cho đến nay nó vẫn là lý tưởng sống của tôi. Nếu tôi muốn được yêu thương, thì tôi phải là một người dễ thương. Tôi phải học cách yêu thương người. Điều đó là rất khó và tôi vẫn còn đang học cách để yêu thương vô điều kiện. Nếu tôi muốn được người khác tôn trọng thì tôi phải biết tôn trọng người. Nếu tôi muốn được đối xử một cách chân thành thì tôi cũng phải đối xử chân thành với người, và điều đó đã trở thành lý tưởng của tôi. Hồi tôi còn học trong trường đại học, mỗi khi phải khai sơ yếu lý lịch, đến mục: “Tôn giáo của bạn là gì?”, tôi luôn luôn khai là: “Vẫn chưa theo tôn giáo nào!”. Hồi đó tôi vẫn chưa theo một loại tôn giáo nào cả. Điều đó rất thật bởi vì lúc đó tôi vẫn chưa thể quyết định mình sẽ tin vào cái gì. Tôi không hề tin bất cứ loại tôn giáo nào. Nhưng khi bạn bè tôi hỏi: “Anh theo tôn giáo nào?” Tôi trả lời rằng: “Tôn giáo của tôi là sự chân thật”. Về sau, tôi chuyển sang lấy chánh niệm làm lý tưởng cho mình. Khi mọi người hỏi tôi: “Tôn giáo của anh là gì?” Tôi nói rằng: “Tôn giáo của tôi là chánh niệm”. Tôi cố gắng chánh niệm càng nhiều càng tốt, ở mọi nơi chốn, ở bất cứ chỗ nào, vào bất cứ lúc nào, bởi vì nếu bạn chỉ tập giữ chánh niệm từ 7.30 đến 8.30 mỗi tối và bỏ quên nó trong suốt thời gian còn lại, thì bạn chỉ đang tự lừa dối chính mình mà thôi. Hãy tự hỏi mình xem: “Lý tưởng của mình là gì?”, và nếu bạn lấy chánh niệm làm lý tưởng cho mình thì hãy tự hỏi xem: “Mình có thực sự làm điều đó trong suốt thời gian tỉnh thức hay không?”. Bạn hãy cố gắng giữ chánh niệm từ khi mở mắt thức dậy vào buổi sáng cho đến khi lên giường đi ngủ, và mặc dù đôi lúc có thể bạn sẽ quên, bởi vì quên là điều rất tự nhiên và rất dễ xảy ra, nhưng đừng cố tình quên nó. Rồi khi đó hãy tự nhắc nhở mình rằng: “Tôi đang cố gắng hết mình để chánh niệm trong mọi hoàn cảnh, ở mọi nơi, trong mọi lúc”. Và nếu làm được điều đó, bạn sẽ phát triển được tất cả các phẩm chất tâm linh khác của mình. Vì vậy, chỉ cần làm một việc đó thôi, nhưng hãy làm hết mình, đó là điều rất quan trọng. Chúng ta phải tận dụng tất cả mọi cơ hội để sống với lý tưởng tâm linh của mình, không chỉ trong công tác từ thiện, không chỉ trong các công việc chính của đời mình, mà cả ở trong nhà, trên đường phố, nơi chợ búa và trong mối quan hệ tương giao với tất cả mọi người thuộc mọi tầng lớp xã hội, mọi nơi mọi chỗ. Nếu bạn làm được điều đó, bạn sẽ cảm nhận được sự mãn nguyện luôn hiện hữu trong mình. Mặc dù vẫn biết rằng mình chưa phải là hoàn hảo, song bạn vẫn luôn luôn cảm thấy một sự thanh thản và mãn nguyện trong lòng. Kiến thức, tự thân nó có rất ít giá trị. Mà chính sự vận dụng thực tế của kiến thức mới đem lại giá trị cho nó. Khi bạn đã học hỏi và hiểu được chánh niệm nghĩa là gì, hiểu biết nó qua kinh nghiệm thực tế, bạn sẽ biết được tâm mình. Bạn sẽ thấy được sự khác biệt về phẩm chất của tâm khi chánh niệm và khi thất niệm, chẳng hạn khi đãng trí quên mình hay mơ mộng vẩn vơ, nếu thực sự nhận thức rõ hai trạng thái tâm này, bạn sẽ chọn cái nào? Tất nhiên là bạn chọn chánh niệm. Khi thất niệm, khi đãng trí quên mình, khi mộng ảo giữa ban ngày, bạn đang cho phép tất cả các loại suy nghĩ lộng hành trong tâm, để cho tất cả các loại cỏ dại mọc lan tràn trong ngôi vườn của mình. Thiền tập cũng giống như công việc chăm sóc một mảnh vườn. Bạn phải làm cỏ cho mảnh vườn của mình hầu như mỗi ngày, bởi vì cỏ dại không ngớt theo gió bay vào vườn bạn. Giống cỏ rơi xuống vườn, nếu nhìn thấy khi chúng mới rơi vào, bạn có thể nhặt bỏ được ngay, nhưng nếu không thấy, chúng sẽ nhanh chóng mọc tràn lan. Nếu cỏ còn non bạn vẫn có thể nhổ bỏ dễ dàng, song nếu để yên một thời gian dài, chúng sẽ ăn sâu bén rễ um tùm, rất khó tiệt trừ. Nếu bạn để cỏ dại mọc kín cả khu vườn, hoa của bạn sẽ không có cơ hội lớn lên, bởi vì cỏ dại đã xanh um lấn át cả hoa. Chúng hút hết dinh dưỡng và nước để nuôi cây, hoa sẽ không có đủ chất để mà lớn. Thiền tập cũng giống như công việc làm vườn. Bạn phải chăm sóc mảnh vườn của mình mỗi ngày, làm đất tơi xốp và tưới tắm cho cây. Điều quan trọng là cách chúng ta sống cuộc sống hàng ngày của mình ra sao, cách chúng ta sử dụng những nguồn lực có được một cách hữu ích như thế nào và cách chúng ta đối xử với những người xung quanh với tình thương như thế nào. Chỉ ngồi thu lu một góc hành thiền thì không đủ. Khi chúng ta trở nên nhạy cảm hơn với bản thân mình, chúng ta sẽ nhạy cảm hơn đối với những người khác. Có khả năng yêu thương được mọi người, đó là điều rất quan trọng. Khi thực hành thiền tuệ quán Vipassana, chúng ta cũng nên thực hành một số loại thiền khác nữa để hỗ trợ cho thiền Vipassana. Một trong số đó là thiền tâm từ, tức là tu dưỡng tình thương và tấm lòng từ ái, nhân hậu. Không có tâm từ, chúng ta không thể nuôi dưỡng trái tim mình. Nó cũng giống như việc tưới nước và bón phân, làm cho đất màu mỡ nuôi cây. Tâm từ (mettā) bao gồm cả tâm bi, tâm hỷ và tâm xả (karuna, mudita, upekkha). Niệm tưởng đến các phẩm chất của Đức Phật là lý tưởng cao nhất, là sự thành đạt cao nhất về tâm linh.Yêu mến và kính tín Đức Phật là việc làm rất ý nghĩa, bởi vì Ngài là hiện thân cho mục đích của chúng ta, Ngài là bậc đạo sư của chúng ta. Càng hiểu nhiều về Đức Phật và càng kính yêu Ngài, bạn sẽ càng cảm thấy hạnh phúc hơn trong pháp hành của mình. Một số người chẳng bao giờ chịu nghĩ đến điều đó một cách sâu sắc. Họ nghĩ rằng chỉ cần hành thiền, thế là đủ. Không, chúng ta cần phải yêu thương và kính tín một người nào đó, chúng ta phải tôn vinh một ai đó làm thầy mình. Chọn được một người thầy đúng đắn là điều vô cùng quan trọng. Nếu chọn phải một người thầy sai lầm, bạn sẽ gặp rắc rối lớn. Bạn cũng nên quán niệm cả về cái chết nữa. Bởi cuộc đời này thật quá ngắn ngủi. Điều quan trọng là việc chúng ta sống cuộc sống hàng ngày của mình như thế nào. Tất cả mọi phương diện trong cuộc sống của chúng ta đều có liên kết chặt chẽ với những phương diện khác.Tất cả mọi mặt trong cuộc sống của chúng ta đều có liên quan, kết nối với những mặt khác của cuộc sống. Chân lý này là nền tảng cơ bản cho một cuộc đời giác ngộ. Tôi có thực sự trung thực không? Tôi có là một người biết yêu thương không? Tôi có chánh niệm không? Nếu bạn có thể làm được điều này – và thực sự nó cũng không dễ làm được đâu; nếu bạn có thể làm một cách kiên trì, bạn sẽ phát triển được các phẩm chất tâm linh của mình và thiền sẽ trở thành bản chất của bạn. Song nếu bạn làm một điều gì đó không tương ưng, khế hợp với pháp hành của mình, thì xung đột sẽ chất chứa trong tâm bạn. Với những xung đột nội tâm như thế, bạn sẽ không thể thực sự phát triển được tuệ giác thâm sâu. Đó là một số điều tôi muốn các bạn hãy ghi nhớ, hãy suy nghĩ và đưa vào thực hành trong thực tế. BẺ GÃY XIỀNG GÔNG “Chừng nào chúng ta còn đánh giá, đo lườngngười khác bằng tiêu chuẩn của mình và chừng nào chúng ta còn tự đánh giá mình bằng các tiêu chuẩn của người khác; chừng đó chúng ta sẽ còn LUÔN LUÔN ĐAU KHỔ! ” CHẶT ĐỨT VÒNG THẬP NHỊ NHÂN DUYÊN Hầu hết chúng ta đã từng nghe nói đến Thập nhị nhân duyên (Paticcasamuppàda - pháp duyên khởi, pháp tùy thuộc phát sinh). Trong 12 nhân duyên này có hai cách khởi đầu: một là khởi đầu từ vô minh (avijjā); vô minh duyên hành (avijjā-paccayā sankhàrà). Paccay nghĩa là duyên. Do vô minh làm duyên cho hành. Các hành động về thân khẩu ý, thiện hay bất thiện, tất cả đều là hành (sankhāra). Kể cả thiền và các tầng thiền an chỉ (jhāna) cũng đều là hành. Thiền Vipassana hoàn toàn khác, bởi vì chuỗi mắt xích 12 nhân duyên có thể bị phá vỡ bằng cách thấy đúng thực tướng của danh và sắc. Điều này tôi sẽ giải thích chi tiết sau. Tuy nhiên, khi hành giả thực hành thiền an chỉ định (jhāna), khi thể nhập vào trong các tầng thiền, bạn sẽ không thể thấy được thực tướng của danh và sắc, bạn tự đồng hóa mình với chúng. Bạn thấy và cảm nhận rằng nó chính là của mình và điều đó sẽ tạo duyên cho một lần tái sinh khác. Nó sẽ là một cảnh giới rất tốt đẹp, bởi vì trạng thái tâm thiền đó rất tập trung, định tĩnh, an lạc và rất sáng suốt, song ở bên trong vẫn còn vô minh. Kiếp tái sinh kế tiếp sẽ là sự phản ánh của trạng thái tâm đó. Tất cả mọi thứ xảy đến trong cuộc đời chúng ta đều là sự phản ánh trạng thái tâm của chính chúng ta. Đây là một quy luật rất cơ bản mà chúng ta phải hiểu. Chính các trạng thái tâm và sức mạnh của chúng sẽ tạo ra những hoàn cảnh trong cuộc sống của chúng ta. Đôi khi mọi người hỏi tôi: “Tại sao lại có loại đời sống này xảy ra? Cái gì là nhân duyên khiến nó xảy ra như vậy? Có bao nhiêu loại cảnh giới sinh tồn?”. Tôi không thể nói cho các bạn biết là có bao nhiêu loại kiếp sinh tồn được, bởi vì điều đó tùy thuộc vào số lượng các trạng thái tâm. Tùy thuộc vào các trạng thái tâm khác nhau mà các dạng sinh tồn khác nhau có thể diễn ra. Thậm chí ngay trong thế giới loài người này thôi, nếu bạn nghiên cứu thật cặn kẽ từng cá nhân mỗi con người, bạn sẽ thấy cực kỳ kinh ngạc. Mặc dù về mặt thể lý, chúng ta cùng ở trong một thế giới vật chất này, nhưng về mặt tinh thần, xúc cảm và tri thức, mỗi cá nhân chúng ta lại rất khác biệt nhau. Một số người sống trong những hoàn cảnh rất đau đớn, khổ sở, về mặt tinh thần họ luôn đau khổ. Họ không có tình thương và lòng bi mẫn (mettā, karunā), họ không có sự sáng suốt. Khi nghĩ về cuộc đời, chúng ta nên nghĩ nhiều hơn đến phẩm chất của tâm. Người này có thể là một tỷ phú, trong khi kẻ khác có thể nghèo rớt mồng tơi, nhưng kẻ nghèo đó vẫn có thể sống một cuộc đời rất mãn nguyện và hạnh phúc, trong khi con người giàu có kia có thể đang phải trải qua một cuộc sống đầy đau khổ. Chúng ta không thể đánh giá, cân đo đong đếm cuộc đời một con người dựa trên tiền của hay địa vị hay bất cứ cái gì mà người ấy đang sở hữu. Nếu tôi phải đánh giá cuộc đời của một người nào đó, tôi sẽ đánh giá họ bằng chính trạng thái tâm của họ. Nếu họ là những người từ ái, nhân hậu và biết đủ và nếu tâm của họ an lạc và trong sáng, họ sẽ sống một cuộc đời tốt đẹp. Vì vậy, cuộc sống là sự phản ánh các trạng thái tâm của bạn, cuộc đời bạn thành công hay thất bại là tùy thuộc vào trạng thái tâm của bạn, chứ không phải vào những gì bạn có. Có một người đến hỏi tôi về sự thành công trong cuộc sống. Anh ta làm việc rất chăm chỉ để được thăng quan tiến chức. Anh ta đánh giá cuộc đời mình bằng sự thăng tiến trong sự nghiệp và anh ta vẫn còn tiếp tục phấn đấu để được bổ nhiệm lên một chức vụ cao hơn. Anh ta đang nghĩ đến việc đi học thêm để lấy một cái bằng nữa để được thăng chức. Tôi hỏi anh ta tại sao anh lại muốn được thăng chức, và anh ta nói rằng nếu được thăng chức thì anh ta sẽ được hưởng lương cao hơn. “Thế tại sao anh lại muốn lương cao?”, tôi hỏi. “Để có nhiều tiền hơn và mua một căn nhà to hơn, một chiếc xe đẹp hơn”. Tôi hỏi tiếp tại sao anh lại muốn có một cái xe đẹp, muốn có nhà cao cửa rộng. “Khi đó tôi sẽ thấy mãn nguyện và tự cho mình là một người thành đạt, và điều đó sẽ làm cho tôi cảm thấy hạnh phúc”. Tôi nói: “Đến một ngày nào đó, lưng còng sức kiệt, anh phải dừng lại không còn làm được những gì mình đang làm nữa, liệu lúc đó anh có nghĩ là cuộc đời anh đã thất bại không? Sự thành đạt của anh sẽ kéo dài được bao nhiêu lâu? Trong một số năm nào đó anh có thể cảm thấy mình là người thành đạt, rồi sau đó lại quay về với thất bại! Chừng nào anh còn tự cân đo đong đếm cuộc đời mình bằng những gì mình có, chừng đó anh vẫn còn luôn luôn lo sợ một ngày nào đó mình sẽ lại thất bại”. Rồi anh ta nói: “Ồ, đúng thế, tôi sẽ nghĩ lại quá khứ của mình và về những gì mình đã đạt được và điều đó sẽ làm cho tôi cảm thấy hạnh phúc”. Đó là một ảo tưởng; Hạnh phúc đích thực đến từ chính những gì mình đang là bây giờ, chứ không phải từ những gì mình đã là. Chừng nào còn bám víu vào mình đã là hay đang là cái gì, chừng đó bạn vẫn còn có cảm giác không an toàn. Sự an lòng thực sự chỉ đến từ việc mãn nguyện với thực tế mình là ai chứ không phải mình là cái gì. Nếu bạn là người an lạc và trầm tĩnh, từ ái và bi mẫn, chánh niệm và minh triết, bạn có thể rất mãn nguyện với bản thân mình và dù mọi người có coi trọng, có đánh giá cao bạn hay không, đối với bạn cũng chẳng thành vấn đề. Sự mãn nguyện của bạn được thể hiện trong cách bạn sống cuộc đời mình, bạn sẽ không còn sợ người khác không kính trọng bởi vì bạn không có địa vị cao nữa. Chừng nào chúng ta còn bám víu vào địa vị hay chức vụ của mình, chừng đó chúng ta vẫn còn phải sống trong nỗi lo sợ và bất an. Cuộc đời là một sự phản ảnh các trạng thái tâm của chúng ta, vì thế việc chúng ta là ai, điều đó phụ thuộc vào trạng thái tâm của chính chúng ta. Bây giờ chúng ta hãy quay lại với thiền. Trong thiền Vipassanā, chúng ta chú ý vào những gì đang diễn ra ngay trong hiện tại, không phải trong quá khứ. Chúng ta chú ý vào những gì đang diễn ra trong hiện tại, song quá khứ vừa qua ngay tức thì cũng có thể được gộp vào trong hiện tại. Chẳng hạn, nếu tôi đánh vào cái chuông này, không, tôi vẫn chưa đánh; bây giờ tôi chuẩn bị đánh, vì vậy nó vẫn còn ở trong tương lai. Bây giờ chúng ta không thể quan sát được tiếng chuông bởi vì nó không tồn tại. Vì vậy, khi bạn nghĩ: “Thầy đang chuẩn bị đánh và nó sẽ phát ra một tiếng chuông”, đó chỉ là một ý nghĩ, nó không phải là sự quan sát, nó không phải là thiền Vipassanā. Bây giờ tôi đánh chuông, bạn nghe thấy tiếng chuông và chú ý tới nó, “nghe”, đây là một âm thanh. Bạn cũng có thể chú ý tới tính chất của tiếng chuông, từ từ nó trở nên nhỏ dần nhỏ dần rồi tắt hẳn, bạn không còn nghe thấy gì nữa. Vậy vào lúc bạn nghe tiếng chuông, bạn có thể chú ý vào tiếng chuông và bạn cũng có thể chú ý vào tâm nghe tiếng chuông đó nữa, “nghe”. Nghe nghĩa là tâm nghe (nhĩ thức). Tâm nghe tiếng chuông này sanh khởi bởi vì có tiếng chuông, không có tiếng chuông sẽ không thể có tâm nghe đó. Phải có cái “đối tượng” này (tức tiếng chuông) hiện hữu để cho nhĩ thức sanh khởi. Khi bạn quán sát tâm nghe này, tức là bạn đang quán sát thức uẩn (viññāṇa-kkhandha). Chúng ta biết rằng tâm biết “đối tượng” sẽ không thể sanh khởi nếu không có “đối tượng”. Tiếng động này là nhân của tâm nghe này, chúng ta có thể thấy được mối quan hệ nhân quả giữa chúng với nhau và nhân này cũng chính là samudaya (sự sanh khởi). Samudaya có hai nghĩa: sanh khởi và nguyên nhân. Do đó Thánh Đế thứ hai được gọi là Dukkha samudaya sacca, sự thật về nguyên nhân của khổ, hay là Tập đế. Do đó, âm thanh này là nhân của tâm nghe này. Chúng thường xuyên song hành với nhau, cái này là nhân cho cái kia, chúng ta không nghĩ “cái này xảy ra trước rồi cái kia xảy ra sau”. Trong thực tế, chúng diễn ra đồng thời; khi có tiếng động ở đó, thì cũng có tâm nghe; khi không có tiếng động thì không còn tâm nghe ấy nữa. Đôi khi, chỉ trong cùng một lần nhận biết, khi tâm hoạt động rất nhanh, chúng ta có thể thấy được cả hai cùng một lúc. Trong cùng một sự nhận biết có hàng loạt tâm chánh niệm, thực ra ngay chỉ trong một giây cũng có thể có vô số tâm. Cái thấy sáng suốt trở nên mạnh mẽ đến mức, chỉ trong một sự nhận biết bạn có thể hiểu được rất nhiều điều. Khi chứng nghiệm được điều này bạn sẽ biết được nó đáng kinh ngạc đến thế nào. Không hề suy nghĩ về bất cứ điều gì, chỉ trong một cái thấy, bạn có thể hiểu biết được rất nhiều. Khi bạn nhận biết được tâm biết tiếng động thì đồng thời bạn cũng ý thức được về tiếng động đó, bạn không thể tách rời hai cái này ra được. Đôi lúc, khi bạn chú ý tới tiếng động, bạn có thể quán chiếu được một sự kiện thực tế là: bởi vì có tiếng động này nên mới có cái nghe, không có tiếng động sẽ không thể có sự nghe xảy ra. Mặc dù khi nghĩ về điều này, nó rất hiển nhiên, rất rõ ràng và bạn có thể hiểu ngay được điều đó, nhưng khi đã thực sự thấy được cái tâm biết sanh khởi ngay trong hiện tại, bạn mới thực sự biết rằng: bởi vì có tiếng động này, nên mới có tâm biết này sanh khởi. Bạn biết rằng đây chính là một điều gì đó rất mới mẻ mà bạn vừa mới chứng nghiệm được. Thiền không phải là để thấy cho được những điều chưa hề thấy trước kia; mà thiền là để thấy cũng chính những hiện tượng đó nhưng theo một cách khác. Nó là một cách thấy hoàn toàn mới. Tất cả mọi người đều biết rằng bởi vì có tiếng động nên mới có cái nghe, nhưng đó chỉ là biết trên bề mặt suy nghĩ. Chúng ta có cảm tưởng rằng có một người nào đó hiện diện ở đấy để nghe tiếng động, nhưng trong thiền, khi điều này diễn ra chúng ta biết rằng tâm nghe này chỉ đang diễn ra trong HIỆN TẠI, và nó xuất hiện bởi vì có tiếng động. Bạn nhận biết tâm nghe này như một điều gì đó hoàn toàn mới mẻ. Khi chúng ta có thể thấy được các hiện tượng như một cái gì hoàn toàn mới, chỉ mới xuất hiện trong hiện tại, chỉ khi ấy chúng ta mới có thể thấy được thực tại. Điều này diễn ra trong thiền Vipassanā, bạn thấy được tâm đó sanh khởi ngay trong hiện tại bởi vì có đối tượng này hiện hữu, và chúng ta cũng biết rằng bởi vì có đối tượng này hiện hữu nên mới có tâm biết này xuất hiện. Đó là thuộc tính sanh khởi. Chúng ta cũng có thể thấy được tiếng động sanh và diệt; sanh là samudaya và diệt là vaya Chúng ta có thể hiểu cùng một pháp đó theo rất nhiều cách khác nhau. Đức Phật nói: "Vị ấy sống quán tính sanh khởi, vị ấy sống quán tính diệt tận của các pháp”. (Kinh Đại Niệm Xứ, Trường Bộ Kinh.) Vaya cũng có nghĩa là nirodha (diệt tận). Từ này có nhiều từ đồng nghĩa: Samudaya (sanh khởi) cũng có nghĩa là nibbati-lakkhana. Vaya cũng có nghĩa là viparināma-lakkhana và cũng có nghĩa là nirodha (diệt tận). Từ nirodha (diệt tận) này cũng được sử dụng trong 12 nhân duyên của Pháp duyên khởi: Avijjā-paccayā sankhāra (vô minh duyên hành) có thể diễn tả theo cách khác là: avijjā tveva asesavirāga-nirodha; sankhāra-nirodho (các hành diệt do hoàn toàn ly dục và diệt tận vô minh). Ở đây có sử dụng từ diệt tận là nirodha. Do đó, khi có vô minh (avijjā) là có hành (sankhāra). Chúng ta lăng xăng tạo tác, làm bao nhiêu thứ việc trên đời là bởi vì chúng ta không thực sự thấu hiểu được thực tại chân đế (hay thực tại tuyệt đối). Chúng ta cứ nghĩ rằng khi chúng ta làm những công việc đó, nó sẽ làm chúng ta được hạnh phúc, và nếu không làm nó thì chúng ta sẽ không hạnh phúc. Ở đó luôn luôn có mặt của “cái tôi”. Nhưng khi chúng ta thực sự nhận chân ra rằng: không có cái gì là “cái tôi” thực sự, mà chỉ có những tiến trình tâm lý và vật lý (danh và sắc), khi đó tri kiến của chúng ta sẽ thay đổi. Khi vô minh (avijjā) đã hoàn toàn bị tận diệt, thì ngay cả những việc thiện chúng ta làm cũng không còn tạo nghiệp nữa, và bởi vì không còn tạo nghiệp nên cũng không có quả báo và không có hành (sankhāra) nào được tạo ra nữa. Chuỗi xích đã bị phá tung, sankhāra nirodha, sankhāra nirodho (thức diệt do hành diệt). Khi tái sanh, tâm đầu tiên của đời sống mới sanh khởi bởi vì có hành (sankhāra), mà trong trường hợp này thì chính là nghiệp (kamma). Bởi vì do nghiệp lực thúc đẩy nên có tâm tái sanh và tâm này được gọi là thức (viññāna). Nếu không có hành thì sẽ không có nghiệp đưa đi tái sanh; vì vậy cũng không hề có sự tái sanh nữa. Do đó, sankhāra nirodha, viññāna nirodho. Viññāna nirodha, nāma-rūpa nirodho (do duyên hành diệt nên thức diệt, do duyên thức diệt nên danh sắc diệt). Nếu không có tâm tái sanh thì cũng không có tiến trình tâm - vật lý đi theo nó. Nếu cái này diệt thì cái kia cũng diệt, nó cứ tiếp diễn liên tục như thế. Nāma - rūpa nirodha, phassa nirodho (do duyên danh sắc diệt nên xúc diệt): nếu không còn tiến trình thân tâm tiếp diễn, sẽ không thể có sự tiếp xúc giữa căn, trần, thức (giác quan và đối tượng bên ngoài) nữa. Điều ngược lại là, bởi vì có tiến trình tâm - vật lý tiếp diễn, nên có sự tiếp xúc với các đối tượng giác quan. Phassa-samudāya, vedanā-samudayo, phassa-nirodha, vedanā-nirodho (do duyên xúc nên thọ sanh khởi, do duyên xúc diệt nên thọ diệt), bởi vì có sự xúc chạm nên có cảm thọ lạc, khổ hoặc xả (trung tính). Nếu không có xúc sẽ không còn thọ lạc, thọ khổ hoặc thọ xả nữa. Ở một giai đoạn trong thiền Vipassanā, bạn sẽ thấy được điều này rất rõ ràng, đôi khi chỉ một suy nghĩ ngắn ngủi thoáng qua hoặc có lúc thậm chí không hề có một suy nghĩ nào và bạn chợt hiểu rất rõ điều này. Bạn có thể thấy được chân lý đó một cách vô cùng rõ ràng. Vedanā-nirodhā, tanhā-nirodho (do duyên thọ diệt nên ái diệt): nếu không có bất cứ loại cảm thọ nào khởi lên, thì cũng không thể có tham ái với bất cứ cái gì nữa. Khi chúng ta cảm thấy thích thú hay không thích thú cái gì đó, chúng ta cảm nhận được điều đó bởi vì có cảm thọ, bởi vì có sự hưởng thụ, nên tham ái càng gia tăng. Khi thấy thích, chúng ta muốn có nó nhiều hơn, và khi không thích thì chúng ta không muốn nó nữa, chúng ta muốn thay thế nó bằng một cái gì đó chúng ta thích. Cảm thọ hướng tâm chúng ta tới tham ái lớn hơn. Khi có cảm thọ trung tính (không khổ không lạc), chúng ta không thích nó và mong muốn có điều gì đó thích thú, đáng ưa, mong muốn có một cái gì đó mang lại cho chúng ta những cảm xúc mạnh, mà đó chính là tâm tham ái mạnh mẽ hơn nữa. Mỗi khi có tham ái sanh khởi, chúng ta có thể thấy rằng nó sanh khởi bởi vì có cảm thọ, nếu không có cảm thọ sẽ không thể có chút tham ái nào nữa. Cảm thọ chi phối toàn bộ đời sống của chúng ta. Cảm thọ chính là nhân tố thúc đẩy chúng ta làm mọi công này việc kia, để được cảm thấy thoải mái, dễ chịu. Khi thấy được điều này một cách rõ ràng, nó sẽ giúp tâm chúng ta trở nên xả ly hơn. Chính sự xả ly này là tự do, giải thoát. Xả ly khiến tâm trở nên sáng suốt hơn và mang lại cho chúng ta nhiều tự do và giải thoát hơn. Càng thấy rõ cách thức cảm thọ chi phối tâm chúng ta, chúng ta càng có thể tự giải phóng mình. Đây chính là chỗ mà chuỗi mắt xích 12 nhân duyên ( paticcasamuppāda) bị phá vỡ và chúng ta tìm được lối thoát: mắt xích giữa thọ ( vedanā) và ái ( tanhā). Chúng ta cảm nhận các cảm thọ nhưng nếu không để nó trở thành tham ái (tanhā) thì chúng ta có thể thoát ra khỏi nó. Nhưng nếu chúng ta để nó tiến triển tiếp trở thành tham ái, khi đó tham ái sẽ ngày càng tích tụ thêm nhiều sức mạnh, ngày càng có thêm động lực hơn nữa. Lúc đó tham ái (tanhā) sẽ trở thành thủ (upādāna), bám giữ, chấp thủ - tức là tham ái ở mức độ rất mạnh. Tanhā là tham ái ở mức độ bình thường; thủ (upādāna) là tham ái mãnh liệt. Khi có tham ái hiện hữu, bạn cảm thấy là “Tôi muốn có cái đó”, khi đã trở thành thủ (upādāna) bạn sẽ cảm thấy là mình không thể sống thiếu cái đó được. Bạn sẽ làm gì khi cảm thấy là không có nó thì mình không thể sống được? Bạn sẽ làm bất cứ điều gì để có được nó. Thủ (upādāna) sẽ dẫn đến hữu (bhava). Ở đây chữ bhava có hai nghĩa, một nghĩa là nghiệp (kamma), và một nghĩa là “một kiếp sống mới”. Chữ Bhavatrong 12 nhân duyên nghĩa là nghiệp bởi vì khi chấp giữ một tâm tham ái mãnh liệt như thế, bạn sẽ không ngừng suy nghĩ về nó, nói về nó và làm việc này việc kia vì nó, chính điều này sẽ tạo thành nghiệp. Nghiệp (kamma) sẽ đưa tới sanh (jāti), bởi vì có nghiệp nên sẽ có một kiếp sống khác tiếp theo nữa. Vô minh --> Hành --> Thức --> Danh Sắc --> Lục Nhập --> Xúc --> Thọ --> Ái --> Thủ --> Hữu --> Sanh --> Lão Tử --> Vô minh -->... Chuỗi nhân duyên này cứ tiếp diễn mãi như thế. Trong khi thực hành, có lúc chúng ta nhìn thấy được một đoạn nào đó, lúc khác lại thấy được một đoạn khác, song hầu hết chúng ta bắt đầu thấy được mắt xích giữa thọ (vedanā) và ái (tanhā) rõ hơn cả. Sau này, trong quá trình thực hành, khi niệm và định đã rất mạnh, chúng ta có thể kinh nghiệm được xúc (phassa), tâm xúc chạm với đối tượng (hoặc đề mục), sự xúc chạm trở nên rất rõ ràng và mạnh mẽ. Thông thường chúng ta không kinh nghiệm được sự xúc chạm này bởi vì thọ (vedanā) đã xuất hiện ngay lập tức, cùng với cảm giác thụ hưởng cảm thọ đó. Do vậy, khi chánh niệm trở nên rất mạnh mẽ, thay vì tiếp tục lao theo tiến trình của tham ái, chúng ta dừng lại ở đó và quán sát đối tượng. Ở trong tiến trình của các trạng thái tâm thông thường, chúng ta tiếp nhận đối tượng, chúng ta xác định nó và chúng ta hưởng thụ nó. Trong thiền tập, chúng ta tiếp nhận đối tượng, nhận biết được nó một cách rõ ràng nhưng chúng ta không lao vào hưởng thụ nó. Thay vì hạnh phúc hay đau khổ vì nó, chúng ta chỉ dừng lại ở ngay tại đó và chỉ quan sát nó mà thôi. Chúng ta thấy nó sanh lên rồi diệt mất, không có gì để mà phải hạnh phúc hay đau khổ vì nó cả. Khi điều này xảy ra, tiến trình sẽ dừng lại tại phassa - xúc: chỉ có sự xúc chạm, tiếp xúc mà không phản ứng lại. Chúng ta không nhìn nó như là tốt hay xấu, không còn sự phân biệt nào nữa. Cũng không hề mong muốn nó phải khác đi. Sự quán sát trở nên rất sáng suốt, rõ ràng, vì thế cũng không suy nghĩ rằng nó phải khác đi theo bất cứ cách nào, tâm chỉ đơn thuần quán sát nó, không phân biệt, dù bất kể nó là như thế nào. Phassa-samudayā vedanā -samudayo; phassa-nirodhā vedanā-nirodho: xúc sanh thọ, xúc diệt thì thọ diệt, đây là mắt xích cực kỳ quan trọng. Từ vedan ā-samudayā, tanhā-samudayo: (thọ sanh ái) đến vedan ā-nirodhā, tanhā-nirodho (thọ diệt thì ái diệt). Khi thấy được những mối liên kết như thế, chúng ta sẽ thấy được nhân sanh và nhân diệt của nó, thấy được cả hai: thấy nó sanh lên và thấy nó diệt mất. Thấy được nguyên nhân nó sanh khởi và thấy được nguyên nhân nó diệt tận. Tất cả những điều này có nghĩa là bạn đã thấy được pháp sanh (samudaya-dhamma) và pháp diệt (vaya-dhamma). HỎI và ĐÁP Hỏi: Trong khi hành thiền chúng ta có thể thấy được mọi thứ một cách rất rõ ràng, sáng suốt và không tham cầu, mong muốn, nhưng trong cuộc sống đời thường thì rất khó để không phản ứng. Đáp: Đúng vậy, trong cuộc sống hàng ngày thì khó mà không phản ứng, không tham cầu mong muốn điều gì. Điều quan trọng trong quá trình thực hành của chúng ta là phải thấy chúng thật rõ chỉ như là những hiện tượng tự nhiên mà thôi, để thấy được tham muốn đó không phải là một người nào. Tham muốn sanh khởi bởi vì có cảm thọ, bởi vì có xúc cảm, bởi vì có sự tiếp xúc với những ấn tượng giác quan. Trong quá trình thiền tập, bạn có thể thấy được cả toàn bộ tiến trình một cách rất rõ ràng. Bạn thấy rằng căn trần xúc chạm là một hiện tượng tự nhiên, cảm nhận được những ấn tượng kích thích của giác quan cũng là một hiện tượng tự nhiên, tham muốn cũng là một hiện tượng tự nhiên. Không có người nào, không có chúng sanh nào ở đó cả. Khi bạn nhận chân rõ ràng điều này, tuệ giác này có một sức mạnh vô cùng lớn. Ngay cả trong cuộc sống hàng ngày, có những lúc bạn thất niệm và bị lôi đi theo đối tượng bên ngoài, bạn bị cuốn theo chúng, tham cầu mong muốn điều này điều kia, bạn phản ứng lại với chúng. Song ngay thời điểm bạn chánh niệm về chúng, mức độ tác động của phản ứng và tham muốn đó sẽ nhanh chóng tan biến và bạn cảm thấy được giải thoát ở một mức độ nào đó. Trong quá trình thực hành, điều quan trọng hàng đầu là không được cố vượt qua tham ái một cách hoàn toàn ngay lập tức, mà phải “tiến dần từng bước một”. Việc đầu tiên là phải thấy tất cả chúng chỉ như là những hiện tượng tự nhiên mà thôi. Ở đó không có chúng sanh nào, không có người nào cả. Ngay cả tầng đạo quả đầu tiên cũng chưa tận diệt được tham và sân. Tầng đạo quả đầu chỉ đoạn tận được tà kiến chấp rằng có một linh hồn, một thực thể trường cửu mà thôi. Nếu chúng ta có thể thấy không có gì là một thực thể vĩnh cửu, không có gì là một linh hồn cả, mà tất cả chỉ là những tiến trình tự nhiên, chỉ đến và đi, sanh và diệt. Nếu thấy được điều này một cách thật rõ ràng và mạnh mẽ, thì mặc dù đôi lúc bạn vẫn bị cuốn theo và đắm chìm với những đối tượng bên ngoài do thiếu chánh niệm, song ngay cả trong khi bị cuốn trôi và phản ứng như thế, nếu lấy lại sự chú tâm, bạn vẫn có thể tự giải thoát cho mình. Đây chính là lợi ích của sự thấy biết rõ ràng. Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta không thể thấy biết mọi thứ một cách sáng suốt rõ ràng trong mọi lúc được, nhất là khi chúng ta sống như một con người bình thường chứ không phải là một thiền sinh, chúng ta phải giao tiếp với mọi người, tự thể hiện mình, thể hiện tình thương và lòng nhân hậu của mình. Khi nghĩ đến nhân hậu và tình thương là chúng ta suy nghĩ đến một người nào đó, chúng ta nghĩ đến thái độ và tình cảm của người khác. Trong cuộc sống đời thường, ngay cả khi cảm nhận tất cả những cảm xúc này, chúng ta cũng không coi chúng như một cái gì đó thuộc cá nhân mình. Chúng ta có thể hành động theo hai mẫu thức khác nhau, chúng ta phải hành động, phải sống theo hai mẫu thức như thế. Bởi vì, giả dụ chúng ta nhìn con mình mà nói rằng: “Không có đứa con nào ở đó cả, nó không phải là con tôi, đó chỉ là danh và sắc thôi”, thì không lẽ khi nó nghịch lửa đến bỏng và la khóc, chúng ta cũng nói rằng “Không có đứa con nào, không có ai cả, đó chỉ là cảm giác thôi” ư? Điều đó thật phi lý và nhẫn tâm. Chúng ta không thể hành động như thế! Chúng ta phải hiểu rằng có hai cách nhận thức và thấy biết thực tại, và phải hành động theo cả hai cách đó. Một cách là thấy biết thực tại này như thực sự nó đang là và chính điều này sẽ đem đến giải thoát cho chúng ta. Điều quan trọng ở đây là ngay cả khi chúng ta tham muốn một cái gì đó, khi thấy tham muốn đó chỉ như là những hiện tượng tự nhiên, chúng ta vẫn có thể cố gắng phấn đấu để đạt được nó nếu thấy nó là cần thiết, song chúng ta sẽ làm việc đó một cách thích hợp và thấu tình, đạt lý. Chúng ta sẽ không bao giờ hành động một cách vụng về, ngu xuẩn để có bằng được nó. Bởi vì chúng ta biết rằng không đáng làm những việc bất thiện chỉ để có cho bằng được điều mình mong muốn. Một người đã đạt tới tầng đạo quả đầu tiên sẽ vẫn còn tham muốn và thích thú những cái hay, cái đẹp, nhưng họ sẽ không bao giờ ăn cắp, sát sanh hay làm bất cứ việc bất thiện nào khác để có được cái mình muốn. Đó chính là một sự khác biệt lớn giữa họ với những người bình thường khác. Hỏi: Chúng ta không nhất thiết phải cố ý chuyển sang một mẫu thức hành động khác, đúng không? Có phải việc đó sẽ tự nó xảy đến? Đáp: Việc đó xảy đến một cách tự nhiên một khi bạn đã có được một mức chánh niệm vững mạnh, những thoáng chánh niệm đó sẽ thường xuyên đến đều đặn, nhất là mỗi khi bạn xúc động thì chánh niệm thường quay trở lại. Thông thường khi bị xúc động mạnh thì con người ta hay thất niệm, không ý thức được mình nữa, nhưng đối với một thiền sinh thì trong những tình huống khẩn cấp đó, chánh niệm thường quay trở lại với họ. Mặc dù bạn cảm thấy xúc động mạnh, nhưng bạn vẫn ý thức được về nó. Nó có thể còn tiếp tục cả một thời gian dài, nhưng bạn vẫn chánh niệm hay biết nó. Do đó, một thiền sinh giỏi sẽ không còn bị mắc kẹt trong bất cứ trạng thái tình cảm hay cảm xúc nào nữa. Một thiền sinh giỏi vẫn có thể rất dễ xúc động, vẫn có thể rất tình cảm bởi vì anh ta không cố đè nén và ức chế tình cảm của mình. Đây là một sự khác biệt lớn. Để trở thành một thiền sinh giỏi, nhất định bạn phải giữ cho tâm mình hoàn toàn rộng mở, không ức chế, đè nén hay chối bỏ bất cứ điều gì, không kháng cự hay xua đuổi bất cứ điều gì. Ức chế, đè nén, phủ nhận hay chối bỏ không mang đến hiểu biết và giải thoát và dĩ nhiên là cũng không đem đến trí tuệ. Một thiền sinh giỏi đích thực, một người hiểu được ý nghĩa của chánh niệm, sẽ giữ tâm mình luôn luôn rộng mở, không kháng cự, không chối bỏ, không phủ nhận, không đè nén, ức chế bất cứ điều gì. Vì thế một thiền sinh giỏi có thể cảm nhận được thậm chí nhiều hơn người bình thường, họ dễ cảm nhận hơn và cũng rất dễ bị tổn thương bởi vì họ không tự bảo vệ, không tự che chắn cho mình. Một người chánh niệm sẽ rất dễ bị tổn thương, song bởi vì có chánh niệm và sự sáng suốt nên anh ta có thể vượt qua được tất cả mọi chuyện mà không bị dính kẹt vào chúng. Chính điều này sẽ đem lại những hiểu biết thâm sâu uyên áo, đem lại giải thoát và về một khía cạnh nào đó cũng đem lại cả sức khỏe cho bạn nữa. Bất cứ một hình thức đè nén, ức chế nào cũng đều không lành mạnh, không có lợi cho sức khỏe, nhưng bất cứ một hình thức phản ứng hay hành động bất thiện nào thì cũng không lành mạnh chẳng kém. Không phản ứng lại một cách bất thiện, hành giả sẽ kinh nghiệm, cảm nhận và vượt qua được toàn bộ tiến trình đó và thoát ra khỏi nó một cách an toàn, khỏe mạnh hơn xưa. Bạn có thể vẫn tức giận hay tham lam, nhưng bạn có thể thấy rõ điều đó, thấu hiểu nó và vượt qua nó, thoát ra khỏi nó. Một số người bị mắc kẹt lại tại đó và không thể thoát ra được, họ bị kẹt lại trong một số loại tình cảm hay cảm xúc nào đó và trở nên rất ốm yếu, không lành mạnh. Khi bạn gặp khó khăn hay một vấn đề rắc rối nào đó, nếu có chánh niệm, bạn sẽ không chạy trốn nó, không kháng cự lại nó và cũng không tự bào chữa hay biện hộ cho mình; mà bạn sẽ chú ý nhiều hơn nữa và học hỏi từ nó. Khi phải có một hành động nào đó, bạn sẽ hành động với chánh niệm và trí tuệ, cố gắng làm những điều tốt đẹp và lợi ích nhất cho mọi người. Bạn không giải quyết vấn đề chỉ cho một mình bản thân mình. Khi có một vấn đề khó khăn và bạn muốn giải quyết nó thì hãy làm sao để vấn đề của những người khác cũng được dàn xếp êm thấm. Chẳng hạn, có một lần tôi đến xem một bể chứa nước, bởi vì tôi rất thích nhìn ngắm mặt nước, dù đó là nước hồ hay nước bể. Khi tới đó, tôi thấy có nhiều người đang tắm trong bể, mà thực ra nước trong bể đó là để dùng làm nước ăn. Tôi tới nói chuyện với người quản lý bể nước và nói rằng để mọi người tắm rửa ở đó là không tốt, bởi vì những người khác sẽ phải uống nước đó. Ông ta nói ông sẽ đến rình và bắt tất cả bọn họ. Đó là cách giải quyết vấn đề của ông ta. Vì vậy tôi nói: “Ông có thể làm như vậy được bao nhiêu lần? Ông có thể bắt và phạt một số người rồi sau đó ông lại đi. Ông có thể thường xuyên làm như thế được không? Tại sao không kiếm lấy mấy ống nước và đưa nước đến nhà cho họ, họ sẽ không đến tắm ở bể nữa!”. Khi bạn muốn giải quyết vấn đề của mình thì hãy giải quyết cả vấn đề của người khác nữa, chỉ khi đó bạn mới thực sự giải quyết được tận gốc vấn đề. Đây chính là điều tôi thường tự nhắc nhở mình mỗi khi muốn giải quyết một vấn đề nào đó. Tôi thường hay nghĩ đến cả những người có liên quan và xem mình có thể nhân tiện giúp giải quyết vấn đề của họ được hay không. Chỉ khi đó thì mới có thể thực sự giải quyết được tận gốc rễ vấn đề. Khi có một vấn đề rắc rối nào đó xảy ra, thường có rất nhiều người liên quan đến nó. Tôi thấy một số người chỉ quen giải quyết vấn đề bằng áp bức, đè nén hay trừng phạt mà thôi, nhưng làm như vậy sẽ không bao giờ giải quyết được vấn đề cả. Hỏi: Nếu chúng ta thực sự chánh niệm và cảm thấy có ý muốn phải hành động, làm sao chúng ta có thể trở thành một người thực sự phát triển về tâm linh và làm sao biết được đó chính là chánh niệm ngăn không cho chúng ta làm điều đó, hay đó chỉ là do mình sợ bị thất bại hay sợ chết mà thôi? Đáp: Nỗi sợ thất bại, sợ mình sẽ không thành công đến từ một cảm giác mạnh mẽ về sự ngã mạn hay lòng kiêu hãnh của mình. Nhưng kiêu hãnh không phải là thủ phạm mà chính ngã mạn mới là thủ phạm đích thực. Khi đã phát triển chánh niệm và trí tuệ, bạn sẽ nhìn nhận thành công theo một cách rất khác, thành công không còn mang ý nghĩa như cũ nữa. Bạn sẽ không còn đánh giá cuộc đời mình bằng số tiền mình có; mà bạn đánh giá cuộc đời mình bằng chính trạng thái tâm của mình. Nếu thực sự hạnh phúc và mãn nguyện với tâm mình, bạn sẽ rất bằng lòng và biết đủ và sẽ không còn đánh giá mình theo những tiêu chuẩn của người khác nữa. Trong hầu hết mọi trường hợp, chúng ta đánh giá người khác bằng những tiêu chuẩn của chính mình và tự đánh giá mình theo những tiêu chuẩn của người khác. Nếu còn tiếp tục làm như thế, chúng ta sẽ còn luôn luôn đau khổ. Trong quá trình hành thiền, bạn thấy được mọi thứ một cách rất rõ ràng và vượt qua được thân kiến (sakkāya-diṭṭhi: tà kiến chấp ngã), tức là một cảm giác về bản ngã rất mạnh, khi đó tiêu chuẩn giá trị của bạn sẽ hoàn toàn thay đổi và bạn sẽ không còn trở lui lại nữa. Bạn sẽ thấy cái gì là giá trị đích thực trong đời, bạn sẽ thấy được ý nghĩa thực sự của cuộc sống; bạn sống với những giá trị của riêng mình và rất hạnh phúc về điều đó. Khi có người nào đó thành công về vật chất, bạn cũng không tự so sánh mình với họ. Đôi khi, thậm chí bạn còn cảm thấy bi mẫn, tội nghiệp cho họ nữa. Bạn suy tư đến một thực tế là con người này đang phung phí cả cuộc đời mình chỉ để tìm kiếm vật chất mà không quan tâm phát triển các phẩm chất tâm linh của mình. Đó là lý do tại sao họ đã đánh mất đi một điều thực sự quan trọng trong đời, bạn không coi họ là những con người thành công. Mặc dù họ có thể làm rất tốt một công việc nào đó, song họ đã bỏ quên một công việc quan trọng nhất: phát triển tâm linh. Khi bạn đã thấy và sống với những giá trị đích thực của cuộc đời, bạn sẽ cảm thấy vô cùngtri túc và mãn nguyện với nó. Mặc dù bạn cảm thấy ít ham muốn vật chất hơn, nhưng bạn vẫn thấy có một ham muốn khác: đó là ham muốn phát triển hơn nữa những phẩm chất tâm linh của mình và ham muốn được giúp đỡ người khác. Bạn cũng thấy ra được rất nhiều thứ không đáng ham muốn và buông bỏ chúng. Hỏi: Nhưng đôi lúc cũng có rất nhiều việc đáng làm chứ, chẳng hạn như hiện nay tôi đang suy nghĩ đến một dự án giải trí. Tại sao sống trên thế giới này chúng ta lại cần quá nhiều đến chuyện trò và giao tiếp như vậy. Khi bạn đã mất đi bản ngã, bạn sẽ nghĩ rằng mình chẳng có gì để nói cả, vậy khi nào đó là do sự vô ngã và khi nào đó là do sự tự lừa dối và sợ hãi thất bại xui khiến mình hành động? Đáp: Mọi người đều cảm thấy rằng mình cần phải làm một cái gì đó. Đôi khi chúng ta tự hỏi chính mình là liệu điều đó có đáng làm hay không và có lúc chúng ta nghĩ là nó cũng chẳng đáng làm. Khi nào chúng ta cảm thấy mình bị thất bại? Đó là khi chúng ta tự đánh giá mình bằng những gì mình đã làm ra. Sự giao tiếp và trao đổi là rất quan trọng, đó cũng chính là điều tôi đang làm ở đây và tôi nghĩ rằng nó thực sự là việc đáng làm. Tôi biết đã có nhiều đạo sư đã từng đến đây và tôi cũng biết rằng ở đây có hàng ngàn cuốn sách trong thư viện, nhưng tôi vẫn tiếp tục lặp lại những điều y hệt như vậy, tại sao tôi phải làm như thế? Bởi vì điều đó là cần thiết, sự tiếp xúc và trao đổi trực tiếp là cần thiết. Chúng ta có thể hiểu ra được điều gì đó nhờ đọc chỗ này chỗ kia, thông qua câu chuyện với người này người nọ. Sự giao tiếp cần phải có trong mọi lúc và nó sẽ đem lại sự thay đổi cho bạn. Khi chúng ta thấy rằng nó đã đem lại sự khác biệt, chúng ta sẽ cảm thấy có hứng thú làm điều đó hơn. Chúng ta thấy rằng việc đó là cần thiết và cảm thấy nó đáng làm. Hỏi: Như vậy thì có cái bản ngã nào đang làm việc đó không? Đáp: Có một sự thỏa mãn nào đó khi bạn làm công việc đó, nhưng bản ngã nghĩa là, chẳng hạn khi bạn cố gắng diễn đạt điều gì đó cho người đối diện và người ấy không hiểu, không thèm để ý hay phủ nhận những gì bạn nói và bạn cảm thấy bị chạm tự ái. Trong trường hợp này thì đó chính là bản ngã. Tuy nhiên, nếu trong khi bạn nói chuyện với người khác mà người đó không hiểu bạn, bạn tự nhủ mình rằng: “Được rồi, tôi sẽ chờ đợi, sẽ có người nào đó hiểu”. Bạn không mong đợi là tất cả mọi người sẽ hiểu và trân trọng những gì bạn nói. Thậm chí bạn cũng không mong đợi là mình luôn luôn giao tiếp một cách thành công nữa. Khi đó cái bản ngã của bạn sẽ giảm xuống. Rất nhiều lần tôi nghĩ rằng mình đã không diễn đạt được rõ ràng điều mình muốn nói, nhưng tôi vẫn tiếp tục cố gắng, cố gắng…Một số người hiểu được, một số khác thì không, một số trân trọng và đánh giá cao những gì tôi nói và cũng có một số khác chẳng thèm để ý, thế cũng chẳng sao. Đó cũng là điều hoàn toàn tự nhiên thôi mà. Nhưng khi bạn nổi cáu lên với một người nào đó chỉ vì anh ta không hiểu ý bạn hay không coi trọng những gì bạn nói, thì khi đó bản ngã đang có mặt. Bạn cố gắng hết sức mình, nhưng không dính mắc vào kết quả. Tất cả mọi người đều có cách giao tiếp riêng của mình với những người xung quanh. Có một cách giao tiếp khác, đó là chỉ sống với pháp hành của bạn, chỉ là một người chánh niệm, khi đó bạn đang giao tiếp và đang thể hiện ra một điều gì đó. Chúng ta không có cách nào ngừng giao tiếp được, ngay cả khi chẳng nói năng gì thì chúng ta vẫn đang giao tiếp. Hỏi: Khi ngồi thiền và đi kinh hành tôi thường tìm những chỗ kín đáo, không có người qua lại để được một mình hành thiền, thế khi tôi hành thiền ở nơi có người qua lại thì có sao không? Đáp: Chúng ta có thể hành thiền ở tất cả mọi nơi chốn và mọi hoàn cảnh khác nhau. Chúng ta phải học cách điều chỉnh và vận dụng pháp hành của mình để có thể hành thiền được ở bất cứ chỗ nào. Bạn có thể hành thiền trong khi ngồi trên xe buýt với đôi mắt vẫn mở mình thường. Bạn ngồi giống như tất cả những người khác trên xe; thậm chí bạn còn có thể nhìn ra ngoài cửa sổ, mà vẫn đang thiền. Bạn có thể nuôi dưỡng và duy trì một mức chánh niệm và tỉnh giác trong bất cứ công việc gì bạn đang làm, ngay cả khi đi mua sắm nữa. Bạn có thể luôn luôn chánh niệm về các trạng thái tâm của mình. Hành thiền không có nghĩa là ngồi yên một nơi thanh vắng trong một tư thế nhất định, hai chân bắt chéo, đôi mắt nhắm nghiền. Đó chỉ là một phần trong quá trình thiền tập của chúng ta mà thôi. Tuy nhiên, khi hành thiền chỉ (samatha) bạn phải ở một nơi rất yên tĩnh, không có nhiều xáo động và phải ngồi theo một tư thế nhất định, không xê xích, thay đổi nhiều, bạn phải ngồi rất tĩnh, rất yên. Bạn phải an trú tâm vững vàng trong đề mục và không được thay đổi sang đề mục khác, đó là thiền chỉ. Thiền chánh niệm nghĩa là bạn chánh niệm, hay biết tất cả mọi thứ đang diễn ra, hết đối tượng này đến đối tượng khác, Bạn có thể chuyển dịch và thay đổi để mục luôn luôn, nhưng điểm quan trọng là không để bị lôi theo những dòng suy nghĩ vẩn vơ hoặc nằm mơ giữa ban ngày. Nếu bạn có thể duy trì chánh niệm ngay cả trong khi đang đi trên xe buýt, đạp xe đạp hay đang ngồi trong lớp, bạn sẽ có được khả năng nhớ, hiểu và học hỏi nhiều hơn nữa. Bạn sẽ dễ cảm nhận và dễ tiếp thu hơn bởi vì bạn có sự chú ý nhiều hơn. Hãy cố gắng điều chỉnh và vận dụng pháp hành của mình sao cho có thể hành thiền ở bất cứ nơi nào, bởi vì nếu chúng ta không thực hành được khi ra khỏi góc riêng của mình, thì sự thực hành chánh niệm sẽ bị hạn chế rất nhiều. Đức Phật nói rằng chúng ta phải chánh niệm ngay cả khi đi đứng, nói năng và ăn uống nữa. Hãy cố gắng chánh niệm, chú tâm khi chúng ta nói chuyện, nếu học được cách làm điều đó, bạn sẽ thấy tất cả mọi việc khác trở nên rất dễ dàng. Từ “hành thiền” mang một nghĩa quá nghiêm túc, “chánh niệm, tỉnh giác” cũng có vẻ nghiêm trọng quá mức, “chú tâm” cũng thế. Thay vì dùng chữ “hành thiền”, tôi ưa nói “chú ý” hơn. Bạn có thể chú ý trong những tình huống khác nhau, chú ý tới những cái bạn đang nhìn, những điều bạn đang nghe, những gì bạn đang suy nghĩ và những cảm xúc, tình cảm của mình được không? Nếu cố gắng, bạn có thể chú ý được không? Được chứ, đến một mức độ nào đó, bất cứ người nào cũng có thể làm được. Đừng mong đợi là mình sẽ chánh niệm được 100% trong mọi lúc, bởi vì điều đó là không thể, nhưng hãy cố gắng hết mình. Hỏi: Chánh niệm và tỉnh giác khác nhau như thế nào? Đáp: Đó chỉ là do mức độ, do sự khác nhau giữa chánh niệm nhiều và chánh niệm ít mà thôi. Chánh niệm nghĩa là tâm bạn đang ở trong hiện tại, tâm bạn đang có mặt ở đây. Do đó, càng chánh niệm về một đối tượng nào đó trong mình, bạn lại càng hay biết và ý thức được về nó. Chánh niệm ngược lại với đãng trí, thất niệm, quên mình. Chánh niệm và tỉnh giác cũng có nhiều mức độ. Chẳng hạn khi đang nói chuyện với bạn bây giờ là tôi đang chánh niệm. Nhưng đó là một loại chánh niệm khác, bởi vì tôi đang suy nghĩ về những điều mình muốn nói và trong khi nói, tôi cũng phải suy nghĩ xem nên nói như thế nào, chọn câu cú, từ ngữ ra sao cho rõ ý. Bình thường, tôi đang theo dõi và lắng nghe bạn nói, nhưng tâm tôi cũng đang có mặt, nó đang hiện hữu ở đó. Giữ chánh niệm trong khi nói chuyện, tôi cố gắng thấu hiểu tình huống hiện tại, chú ý tới rất nhiều khái niệm và ý tưởng, nhưng một phần tâm tôi vẫn hay biết trạng thái tâm của mình, hay biết những gì đang diễn ra trong tâm. Đây là một trạng thái tâm khác hẳn. Tuy nhiên, khi tôi ngồi yên tĩnh, không tiếp xúc với bất cứ ai, hoàn toàn đặt sự chú ý trong thân tâm mình, thì đó lại là một loại chánh niệm khác. Nhưng bản chất cơ bản của chánh niệm thì vẫn không thay đổi, chỉ có đối tượng hay đề mục là khác mà thôi. Chánh niệm trong khi giao tiếp là rất quan trọng, nó giúp cho chúng ta chánh niệm hơn, bởi vì trong giao tiếp, nếu chúng ta không biết được tâm mình, không ý thức được thái độ của mình, chúng ta có thể có những thái độ sai lầm và với thái độ sai lầm đó, sự giao tiếp sẽ không tốt đẹp. Chúng ta có thể nói những điều tổn thương đến người khác hay những điều không trung thực, không lợi ích. Giữ chánh niệm trong khi nói chuyện, trong quan hệ giao tiếp với mọi người, chúng ta sẽ ít bóp méo sự thật hơn. Chúng ta sẽ không nói những điều không thực, chúng ta sẽ không nói dối hoặc nói phóng đại. Rất khó phân định rõ ràng giữa nói dối và đại ngôn. Chúng ta sẽ chỉ nói những gì lợi ích, chỉ nói những gì đúng sự thật. Chúng ta sẽ nói những điều người khác muốn nghe và đôi lúc cũng có thể phải nói những điều họ không thích nghe nữa. Điều quan trọng là nói sự thật và nói những điều lợi ích. Khi có chánh niệm, chúng ta sẽ không ba hoa những điều vô nghĩa hay những chuyện ngồi lê đôi mách. Với chánh niệm, bạn sẽ dừng lại ngay khi thấy rằng cuộc nói chuyện này là vô ích. Những thiền sinh cố gắng thực hành chánh niệm trong lúc nói chuyện thường kể với tôi rằng, khi họ chánh niệm, họ không thể tiêu hóa nổi những loại chuyện phiếm vô bổ về phim ảnh, về thời trang hay ngôi sao điện ảnh…Họ không còn hứng thú để nghe và nói những chuyện đại loại như vậy nữa. Đây là một sự tiến bộ lớn, bởi vì con người ta thường phí phạm rất nhiều thời gian vào những câu chuyện phiếm vô bổ như thế. Vì vậy, cho dù bất kể thế nào đi nữa, bạn cũng hãy cứ cố gắng hết sức giữ chánh niệm. Chánh niệm sẽ có nhiều mức độ và chất lượng khác nhau và khi có chánh niệm thì rồi sẽ có tỉnh giác. Hỏi: Tôi có một khó khăn là, khi chuẩn bị ngủ tôi thường theo dõi tâm mình và sau đó lại không thể ngủ được nữa! Đáp: Rất tốt, tại sao lại cứ phải lo lắng về chuyện không ngủ được làm gì nhỉ! Muốn bắt mình ngủ, đó là một loại tham, đó là lý do tại sao đôi khi người ta thường uống thuốc ngủ. Con người ta thường thích thú hưởng thụ trạng thái tâm buồn ngủ lơ mơ, đờ đẫn như vậy, và họ rất thích chìm đắm trong một giấc ngủ thật sâu. Đây quả là một loại thú vui kỳ lạ, bởi vì khi ngủ say bạn không biết là mình đang ngủ, nhưng bạn vẫn cứ thích ngủ. Khi tỉnh dậy bạn nói: “Ôi, một giấc ngủ thật tuyệt vời!”. Đúng, nó có thể làm cho bạn cảm thấy tươi mới và sảng khoái hơn, điều đó thì tốt. Nhưng đừng lo lắng về chuyện không ngủ được. Nếu bạn có thể giữ cho mình tỉnh thức bằng việc theo dõi chính trạng thái tâm buồn ngủ của mình, thì đây là một dấu hiệu rất tốt, bởi vì hầu hết mọi người đều không thể làm được điều đó. Đa phần mọi người chỉ cảm thấy buồn ngủ rũ ra và họ không thể quan sát nổi trạng thái tâm buồn ngủ đó, họ không thể theo dõi được cái tâm đờ đẫn, rũ rượi của mình, họ không thể theo dõi được tâm mình đang mất dấu đề mục, mất sự hay biết rõ ràng. Do đó, nếu bạn có thể theo dõi được cái tâm buồn ngủ đó, và bởi vì có chánh niệm về nó nên bạn tỉnh thức và nếu bạn cứ tiếp tục chánh niệm như thế, thì đó là một dấu hiệu rất tốt đối với một thiền sinh. Hãy ra quyết định cho mình, chẳng hạn như: “Bây giờ là lúc tôi đi ngủ đây”, thế rồi bạn có thể “tắt” cái tâm mình đi. Đó là điều tôi vẫn thường làm. Khi không muốn ngủ, tôi có thể rất tỉnh táo, còn khi muốn đi ngủ thì tôi quyết định trong tâm rằng: “Bây giờ tôi sẽ đi ngủ” và tôi thư giãn, thả lỏng toàn bộ cơ thể và tâm mình ra, cảm nhận được thân thể và tâm trí mình đang trở nên ngày càng thư giãn…ngày càng buông lỏng hơn. Đức Phật cũng dạy các vị Tỳ khưu cách đi ngủ và cách thức dậy như thế nào cho đúng. Đối với một thiền sinh thì cách đi ngủ và cách thức dậy là điều rất quan trọng. Lời dạy của Đức Phật rất đơn giản, Ngài nói: “Đừng cố ngủ”, bởi vì nếu bạn cứ cố ngủ, đôi lúc bạn cũng không thể làm được điều đó, và nếu bạn cố quá thì đó lại là một loại tham. Đó là một cách muốn thất niệm, đó không phải là một việc tốt. Vì vậy, bạn hãy quyết định: “Bây giờ tôi sẽ đi ngủ một cách chánh niệm”. Vâng, bạn có thể đi ngủ một cách chánh niệm. Đa phần mọi người, trước khi ngủ họ cứ lan man suy nghĩ đủ chuyện này chuyện kia, đó là một trạng thái mơ màng, rồi sau đó thì chìm vào giấc ngủ. Một thiền sinh giỏi trước khi ngủ không bao giờ suy nghĩ lung tung về bất cứ chuyện gì. Bạn chú ý vào cơ thể mình và ngày càng thư giãn, tĩnh lặng và bình an hơn. Bạn chỉ chú ý vào sự bình an, tĩnh lặng và thư giãn này, bạn vẫn hay biết được điều đó mà không hề suy nghĩ. Tâm bạn rất yên tĩnh và không hề có những ý nghĩ nặng nề hay mơ mộng vẩn vơ, rồi sau đó bạn ngủ. Nhưng trước khi ngủ, bạn tự nhắc mình: “Tôi sẽ thức dậy vào 4 giờ sáng mai, khi thức dậy tôi sẽ chánh niệm, tỉnh táo, sảng khoái và sáng suốt”. Đây chính là cách chúng ta đi ngủ và thức dậy. Hãy cố gắng làm điều đó, rồi nó sẽ diễn ra như vậy. Hỏi: (nói thêm về vấn đề khó ngủ) Đáp: Nghĩa là bạn có thể ngủ tốt hơn khi ngồi thiền? Khi bạn thực sự mệt mỏi thì cần phải đi ngủ. Câu hỏi của tôi bây giờ là bạn ngủ trong bao lâu? Tôi nghĩ điều này sẽ xảy đến với tất cả mọi thiền sinh, ở một giai đoạn trong thiền, bạn sẽ hành thiền nhiều hơn và ngủ ít đi. Đôi khi, trong lúc đang ngồi thiền bạn chợt ngủ thiếp đi, có khi chỉ trong vài phút mà người không bị đổ và rồi lại thức dậy. Bạn có thể ước lượng được thời gian mình ngủ quên đi mất đó không, 5 phút hay 10 phút? Khi thức dậy trạng thái tâm của bạn như thế nào? Bạn có cảm thấy tươi mới, sảng khoái và tỉnh táo, sáng suốt không? Buồn ngủ trong lúc hành thiền không phải là một vấn đề lớn lắm. Nếu lúc thức dậy bạn cảm thấy tỉnh táo, sáng suốt và tiếp tục hành thiền được thì điều đó không thành vấn đề, nó cũng có lợi ích nhất định. Nhưng nếu chỉ sau 5 phút ngồi thiền mà bạn đã buồn ngủ và tiếp tục ngủ cả giờ đồng hồ sau đó, thì điều đó đúng là không tốt. Tuy nhiên, khi có chánh niệm bạn sẽ tỉnh táo hơn. Chánh niệm mang đến nhiều năng lượng hơn cho tâm bạn. Nhưng nếu bạn đã làm việc cả ngày và trước khi đi ngủ bạn ngồi thiền, thì lẽ tự nhiên là bạn sẽ bị buồn ngủ. Chắc các bạn đã từng được dạy rằng khi buồn ngủ phải niệm thầm: “buồn ngủ, buồn ngủ, buồn ngủ” rồi phải không? Làm như vậy sẽ khiến bạn tỉnh thức. Bởi vì khi bạn thấy được trạng thái tâm hôn trầm thì chính việc đó sẽ đem lại cho bạn thêm năng lượng. Tôi không biết giải thích điều đó ra sao, có thể một phần não bộ của chúng ta lúc đó ít hoạt động và “tắt” công tắc đi, nếu chú ý thì bạn sẽ tỉnh thức hay “bật” trở lại và vì vậy bạn lại tỉnh táo. Hỏi: Một số vị Tỳ khưu và những người khác đã giải thích câu: “sanh là khổ” nghĩa là không phải sự sanh của thân vật lý mà là sự sanh khởi của các ý niệm trong tâm, hay là tự ngã. Họ nói rằng đó mới là cách hiểu đúng đắn. Tuy nhiên, theo như định nghĩa ở trong kinh Tứ Niệm Xứ thì sanh chỉ có nghĩa là sự sanh của cơ thể vật lý này thôi. Đáp: Đúng vậy, chúng ta phải hiểu về khổ trong từng ngữ cảnh khác nhau, theo nhiều cách thức và chiều sâu khác nhau. Trong bài kinh này, tôi nghĩ câu “sanh là khổ” có nghĩa là bạn không kinh nghiệm được sự sanh là khổ theo nghĩa đau đớn. Bạn thấy rằng sanh là một điều bất toại nguyện. Bởi vì, bây giờ chúng ta không thể thấy được sự sanh của mình như thế nào, nó đã xảy ra từ rất lâu trước đây. Đó là nghĩa thông dụng của sanh (jāti), già ( jarā) và chết (maraṇa), nhưng khi quán sát trực tiếp các hiện tượng tâm - vật lý, chúng ta có thể thấy được sự sanh và diệt. Một số người muốn diễn dịch điều đó, rằng sanh là jāti (sanh ra) và diệt là marana (chết), nhưng tôi nghĩ điều này đi hơi quá xa. Nó có ý nghĩa và ngữ cảnh riêng cùng với chiều sâu riêng của nó. Dù sao, khi chúng ta thấy bất cứ một hiện tượng nào bất toại nguyện, không vừa ý thì chúng ta cũng thấy rằng sanh là bất toại nguyện. Nhưng nếu cứ nghĩ về sanh như là sự sanh của riêng mình và rồi đau khổ về điều đó thì đó không phải là giải pháp. Tri kiến về Pháp (dhamma) không làm cho chúng ta đau khổ. Bởi vì nếu thường xuyên đau khổ là khi đó có rất nhiều bản ngã trong đó. Chúng ta phải thấy ra được tất cả mọi thứ chỉ là bất toại nguyện và rồi xả ly, buông bỏ.
  21. :D 10 nghiệp lành: 1.Không sát sanh : Từ Bi, không sát hại, sẽ được khoẻ mạnh trường thọ. 2.Không trộm cắp : Ngay thẳng, không lấy của người, sẽ được giàu sang , an ổn. 3.Không tà dâm : Trong sạch, không quan hệ bất chính, được xinh đẹp, hạnh phúc. 4.Không nói dối : Chân thật, không dối gạt, sẽ được uy thế tiếng tăm. 5.Không thêu dệt : Trung thực, không xảo ngôn, sẽ được mọi người kính mến. 6.Không đâm thọc : Hoà hợp, không nói lời ly gián, sẽ được nhiều người ủng hộ. 7.Không nói thô ác : Hoà nhã, không cay nghiệt , không thô tục, sẽ được cao sang. 8.Không xan tham: rộng rãi thí xả, sẽ được vô lượng phước báu. 9.Không sân hận: từ hoà, nhẫn nại, sẽ được vô lượng duyên lành. 10.Không si mê: sáng suốt tỉnh giác, sẽ được vô lượng tri tuệ.
  22. khoảng lặng Chủ Nhật, ngày 31 tháng 01 năm 2010 - 06:17pmSửa | Xoá Khoảng lặng,đó là những giây phút nào đó trong đời,mọi việc vẫn trôi chảy,mọi người vẫn sống và làm việc,chỉ có mình,như dừng lại.Tâm hồn trống rỗng,không cảm thấy gì nữa,đột nhiên chỉ muốn một mình,muốn làm gì đó-một mình.Buồn?Cô đơn?Thất vọng?Hay gì nữa thì không biết.chỉ biết rằng ta không thể biết ta đã nghĩ gì.Nhiều lúc nhìn vào vách tường 1h đồng hồ mà không nhìn thấy gì,chuông điện thoại reo hay một tiếng động nào làm ta giật mình tỉnh lại,nhân ra rằng thế giới vẫn tồn tại,dù ta có sao đi nữa.. Khoảng lặng,đó là những lúc ta không muốn có ai bên mình.Ngồi bên tách trá nóng,li cà phê.ngẫm nghĩ về tất cả những gì đã qua,suy tưởng hay thậm chí triết lý nữa.. Khoảng lặng,đó là những lúc muốn có anh bên cạnh,để nghe em cười,nói, nhưng không được.Những cơn nhớ cồn cào mà nhất định không cầm điện thoại lên.Để nỗi nhớ tràn đầy.Rồi nó sẽ tự qua đi... Sự cô độc,đó là những đêm lạnh lẽo.Một mình một phòng,không có ai để gửi,dù một tin nhắn thôi... Sự cô độc,đó là căn bệnh của những người hiện đại.Họ muốn mà họ không đủ can đảm để nói,để làm... Phương Hồng :D PS : ai rảnh nghe Phương Hồng hát :D cũng kém ca sỹ chút thui :D http://sannhac.com/r2645055/Nguoi-thay-phuonghongaof.htm
  23. Am tiên chuyện và giai thoại Am Tiên là nằm trên đỉnh núi Nưa nơi bà Triệu đóng quân :D đỉnh núi Am Tiên là nơi có 1 trong 3 huyệt đạo của đất nước . Ai từng lên Am Tiên sẽ cảm nhận vẻ đẹp của nó :D trập trùng mây nui .... Và cũng chính là quê ngoại của Phương Hồng ... Nhân tiện bác cả của Phương Hồng có viết đôi lời về đỉnh núi Nưa hùng vĩ . Phương Hồng xin được giới thiệu về quê ngoại của mình :D Nói đến Am Tiên - Ngàn Nưa quê tôi có rất nhiều chuyện kể và giai thoại. Ngày tôi lớn lên ông nội tôi thường kể rằng đỉnh Am Tiên nơi ấy thiêng lắm.Chuyện kể rằng ngày xưa tiều phu ở Cổ Định vẫn ngày ngày đi đốn gỗ về bán làm cột nhà. Có cây cả chục người khênh ( khiêng), to nữa thì trâu kéo, nhỏ thì vác...Ngàn Nưa trở thành nơi cung cấp gỗ làm nhà cho cả một vùng đồng bằng... Đường lên Am Tiên hôm nay Một hôm, người trưởng tràng đầu nhóm nói ông phải đi tìm chọn một cây gỗ Lim về làm cột đình làng. Ông leo lên đỉnh núi cao nhất của Ngàn Nưa...nhưng đến chiều tối dân làng vẫn không thấy ông trở về. Dân làng đốt đuốc, khua chiêng gõ mõ đi tìm, nhưng vẫn không thấy chút dấu vết nào. Một ngày, rồi hai ngày ...cả tháng không thấy ông về. Người ta đồ rằng đây là nơi Tiên ông giáng thế Đền Bà Triệu Dân làng nghĩ rằng ông đã bị thú dữ ăn thịt mất rồi. ( ngày ấy nhiều hổ, báo, voi, đười ươi...), Gia đình đành lấy ngày ông đi lên núi làm ngày giỗ... Rồi một ngày kia, khi mà cả làng không còn nhắc đến chuyện của ông nữa, thì đột nhiên ông trở về làng. Dân làng thấy một tiều phu vạm vỡ, nhưng chẳng ai biết tên ông. Ông về chính ngôi nhà của mình, làng mình nhưng sao bây giờ khác thế. Không thấy vợ con đâu. Chỉ thấy toàn người lạ. Ông hỏi mọi người về người thân, xưng tên, thì mọi người tròn mắt: người có cái tên ấy là ông cụ dòng họ đã chết từ lâu rồi. Bát nhang và bài vị thờ ông đặt trang trọng trên bàn thờ kia. Phải chăng là hồn ông hiện về. Không. Đây đúng là người, bằng da bằng thịt - ai dám mạo danh chăng. Nhưng sao ông nói tường tận thế, đúng là ông. Nhưng ngần ấy thời gian ông ở đâu? Những người cháu gọi ông là ông nội nay cũng đã râu tóc bạc phơ. Còn ông, vẫn ở cái tuổi trung niên. Chuyện ông đi tìm gỗ đối với ông chỉ là chuyện hôm qua, ông ở trên núi có mấy ngày xem hai ông lão đánh cờ thôi mà.Hết ván cờ phân thắng bại là ông về ngay... Ông kể, ông lên núi đi tìm gỗ Lim về làm cột Cái đình làng, tìm mãi chưa thấy, vừa mệt, vừa thất vọng thì ông nhìn thấy ở trên mỏm đá bằng kia có hai ông già đang ngồi đánh cờ. Cờ ông cũng biết và ham mê, nên ông đứng chống rìu xem hai ông lão toạ đấu. Cả chủ và khách mãi mê trong trận cờ mặt trời xuống núi lúc nào không hay, mà ván cờ vẫn chưa phân thắng bại. Ông định ra về, nhưng hỡi ôi cái cán rừu của ông mối đã xông hết, chỉ trơ lại lưỡi rìu. Ông thất kinh. Nhưng hai ông lão lại cười ngất, bảo ông cứ ở lại xem cho hết ván cờ. Trời tối mau, thú dữ nhiều họ khuyên ông ở lại. Hai ông lão không ăn cơm, mà chia cho ông ăn hoa quả và uống nước trong hồ lô. Ông nhớ, hai ông đấu với nhau đúng 3 ngày 3 đêm mới phân thắng bại. Xong trận cờ là ông xuống núi về ngay. Chỉ có điều ông thắc mắc là sao lúc ông xuống núi nhanh thế. Loáng cái đã không thấy hai ông lão đâu. Chỉ thấy hai con Hạc bay lên...Ông cũng chưa kịp hỏi tên, quê ở làng nào... Chuyện của ông được lưu truyền, mỗi người giải thích mỗi cách. Người ta bảo ông đã gặp các tiên ông, ông được ăn đào tiên, uống nước giếng tiên, nên ông trẻ mãi. Rằng, 3 ngày trên "cõi tiên" thì đã là một trăm năm ở hạ giới... Các hương lão trong làng Cổ Định, sau khi nghe chuyện của ông tin rằng ông đã gặp Tiên...Nên đã chung sức xây chùa, lập miếu thờ cúng phật, thánh thần, và tiên tổ. Từ đó nơi đây có tên gọi là Am Tiên. Ngày nay, trên đỉnh Am Tiên có Chùa thờ Phật; có đền thờ Bà Triệu; Có miếu thờ thần . Hàng năm có lễ hội Đền Nưa từ rằm Nguyên tiêu đến 19 tháng Giêng. Đặc biệt có Đền thờ Thánh Mẫu, để con nhang lảo đảo bóng cô đồng... Cô đồng và hình nhân... :D Am Tiên Tự :D QUỐC NINH Tân Ninh - Cổ Định - nhiều nguời quê tôi vẫn thích được gọi cái tên kép như vậy. Tại sao ư? Giản đơn bởi nó hàm chứa truyền thống của một mảnh đất Anh hùng: Na Sơn nơi xưa đấy nghĩa, nay là xã được Phong Anh hùng LLVT thời chống Mỹ... Theo sử sách và những giai thoại lưu tryền, thì đất Cổ Định - Tân Ninh quê tôi đã có lịch sử lâu đời, từng có nguời Việt cổ sinh sống và kiến tạo nên một vùng văn hoá, có dấu ấn riêng. Những đồ đá, đồ gốm ,đồ đồng tìm thấy ở Tân Ninh có niên đại hàng ngàn năm. Dãy Na sơn hùng vĩ và giàu có về khoáng sản và lâm sản, với bao huyền thoại mà sử sách và dân gian đã lưu truyền. Con người ở đất này tạo nên những khúc tráng ca. Na Sơn - Núi Nưa nơi Bà Triệu dấy binh khởi nghĩa; nơi căn cứ địa của nghĩa quân Lam Sơn và triều đại Nhà Lê... là hậu phương vững chắc của ...thời chống Pháp. Có truyền thống hiếu học, nhiều nhà khoa bảng thành danh, mà ở Vương triều nào cũng có. Có các Tiến sĩ mà bia đá Văn miếu còn ghi; có những sĩ phu xả thân mình dấy binh chống Pháp...được sử sách lưu danh. Na Sơn còn với bao trầm tích văn hoá: Đỉnh Am Tiên huyền thoại, có Huyệt khí Quốc gia (?); nơi có bàn cờ Tiên, Giếng Tiên...nơi Hạc tiên bay về. Con người, có dấu ấn văn hoá đặc trưng của người xứ Thanh, thông minh cần cù sáng tạo và nhân ái . Quê tôi ấy, có nhiều chùa, mỗi làng có ít nhất một ngôi chùa; có đền thờ Thánh; có Nghè thờ Tướng, có Đình thờ Thần hoàng...Bởi thế, trong mục này tôi muốn giới thiệu đôi nét về Cổ Định - Tân Ninh quê tôi. Am Tiên tự Theo các cụ cao niên và sử sách ghi lại. Trong dãy núi Nưa hùng vĩ bao gồm 7 phiến nằm ở tây nam Thanh Hóa, thì núi Am Tiên nhánh tận cùng nhô ra ở phía đông nam của cả dãy là cao nhất, đẹp nhất, người ta ví nó như Ba Vì của tỉnh Thanh vậy. " Na Sơn nhất phiến quang nhật nguyệt Tam khê động khoát khứ quy vân " Tạm dịch : " Am Tiên đẹp nhất sáng ngày đêm Ba khe động rộng mây đi về" Am Tiên là đỉnh nhô cao nhất, nhưng đặc biệt trên đỉnh lại có nước : giếng Trình ở đầu phía Đông Bắc, giếng Tiên ở giữa ( bao gồm giếng thờ, giếng nước ăn, giếng nước rửa ), Động Đào ( tương truyền là nơi tắm rửa của các tiên nữ ), xung quanh có cây hóp bao quanh, kín đáo nên nhân dân địa phương còn gọi là ao Hóp. Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, quanh năm có nước trong xanh, nhìn thấy đáy và cá bơi lượn, có bàn cờ tiên bằng đá. Giai thoại có hai ông tiên ngồi đánh cờ đỉnh núi này nên có tên là Am Tiên (?) Cũng có tích nói rằng, tiều phu có nguời đã gặp những cô tiên tắm ở ao Hóp - Động Đào...do vậy, phiến núi đẹp nhất của ngàn Nưa này từ xửa, từ xưa đã gọi là đỉnh Am Tiên. Đỉnh cao nhất Am Tiên - nơi Huyệt khí quốc gia Sơ đồ Huyệt khí tại đỉnh Am Tiên Vào nửa đầu thế kỷ thứ III sau công nguyên (248), Bà Triệu đã lấy ngàn Nưa làm căn cứ tụ nghĩa, luyện quân. Xét về mặt quân sự, Na Sơn thực sự là một căn cứ đạt được hai mặt: công - thủ toàn diện, mặt phía đông dưới chân núi là cánh đồng sâu chiêm trũng, xen lẫn mau, vưc, một vài con đường độc đạo đi vào núi, còn tấn công chỉ với thời gian ngắn là nghĩa quân đã có mặt ở gần khắp đồng bằng Thanh Hóa... Am Thờ Một giá của Cô đồng tại Đền Mẫu ở Am Tiên Đỉnh núi Am Tiên là một cao điểm ( cao gần 500m so với mặt nước biển ), một tiền đồn có tầm quan sát và khống chế cả một khu vực rộng lớn (của huyện Như Xuân - Nông Cống - Triệu Sơn ngày nay.) Do vậy. ở cứ điểm trọng yếu này có thể xây dưng được doanh trại, bãi luyện quân. Mà còn là nơi linh thiêng qua nhiêu thế hệ đã lập bệ thờ, thờ cúng trời đất, thần phật, tổ tiên... theo truyền thống người Việt. Khi đàn áp được khởi nghĩa của Bà Triệu, bọn xâm lược đã tàn sát dân Cổ Na và tất nhiên cả những gì có liên quan đến Bà Triệu đều bị phá hết... Không ai khẳng định được sau đó bao nhiêu thế kỷ chùa Am Tiên được xây xây lại. Chỉ có chuyện lưu truyền rằng, cuối đời Trần có một ông tên là Tu Nưa, sống ẩn dật và tu hành ở đó. Khi Hồ Quý Ly lên làm vua, có sai người lên núi mời ông ra làm quan cho nhà Hồ, nhưng ông không được, họ Hồ cả giận, cho lính đốt núi Nưa và cho phá chùa Am Tiên...( còn có giai thoại nói Nhà Hồ cho người lên núi nhờ các Tiên ông cúu giúp lúc lâm nguy nhưng không được, khi xuống núi đi đến đâu thì cây leo chằng chịt lấp đường đến đó. Con cháu Hồ Quí Ly đã nổi giận đốt núi, cháy cả tháng ròng. Sau đó ngưòi ta thấy có hai con Hạc đen rời núi bay bay đi !) Sau sự kiện này, khoảng năm 1414- 1415, hương Cổ Na lại bị quân Minh tàn sát cả Cổ Định chỉ còn khoảng 13 người. Tuy vậy, Cổ Na hồi phục lại, dân cư đông đúc lên, chùa Am Tiên lại được xây dựng lại và sửa sang thêm. Vào cuối thời nhà Nguyễn, chùa Am Tiên vẫn còn đó. Một ngôi chùa 3 gian khiêm tốn, xây bằng đá, lợp tranh cỏ, nằm giữa một khung cảnh: thực thực, hư hư, nép mình dưới những cây đa cổ thụ, cành lá la đà, đó đây những tảng đá lớn, khánh đá cũ, những cột rêu phong ... Ông từ coi chùa cuối cùng trước Cách mạng tháng Tám - 1945 là cụ Hương Nhã, người họ Trần, (thân sinh ra ông Trần Huy Nhượng , người bí thư chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam đầu tiên của xã Tân Ninh.) Sau Cách mạng tháng Tám - 1945, cụ Hương Nhã qua đời, chùa lại bỏ hoang, dột nát. Khoảng năm 1950, có ông Hoàng Văn Chí ( Tú Chí )đã đem gia đình về ở trên Am Tiên. Ông nuôi bò sữa, mở xưởng nhỏ nấu cồn, trồng cây.Đến năm 1955, ông về quê ở Thiệu Hóa, từ đó Am Tiên lại bị bỏ hoang. Đầu những năm 90 của thế kỷ 20 bà con phật tử trong xã đã khôi phục, xây lại chùa mới, trồng cây xung quanh chùa. Năm 1993 Sở Văn hóa - Thông tin tỉnh Thanh Hóa công nhận danh thắng Am Tiên cùng với đền Nưa, nghè Giáp , miếu Tào Sơn Hầu là di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh. Nay, có nhiều con em của Cổ Định đi xa tham gia cùng cung tiến tiền, công sức cùng chính quyền các cấp và nhân dân trong xã đã và đang trùng tu xây mới đẹp hơn rất nhiều. Cây đa do ông Lê Khả Phiêu nguyên TBT tiến trồng tại đỉnh Am Tiên Cây đa do bà Nguyễn Thị Doan, Phó Chủ tịch nước tiến trồng tại Am Tiên Vãn cảnh Am Tiên
  24. :DBài thơ này ông ngoại viets tặng bà ngoại :D chúc ông bà mãi mãi hạnh phúc :D Người vợ quê Lê Tân Em như dòng suối nhỏ Róc rách trong lòng anh Em như con sông lớn Tràn ngập cả đồng xanh Mang bao nhiêu mầu mỡ Tưới mát mọi cây cành Em như là biển cả Cho lòng anh bao la Em như một bài ca Anh như luồng gió nhẹ Buồm, thuyền rợp biển xa... Thác ghềnh, gió cả, sóng va Cuộc đời vất vả, chỉ ta với mình Đến nay vững cội, tỏa cành Lênh đênh đâu nữa, yên lành không em!