-
Số nội dung
208 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by Thiên_Địa_Nhân
-
Chữ Việt cổ: Một phần kho tàng văn minh Việt còn ít được biết đến Hì hì...Nhân dịp nhà GIST dưới chỗ em hôm nay có bữa tiệc vui, anh em ngồi bàn luận từ truyện làm vườn, tưới cây, chuyển sang truyền thống yêu nước của dân tộc VN, ...Văn hóa Viêt>< Văn hóa Trung Quốc, và dừng lại ở Tiếng nói, Chữ Viết của người Việt_ đồng hóa hay chỉ là bị ảnh hưởng nhưng vẫn giữ nguyên bản sắc... Tranh luận khá sôi nổi và bất ngờ là ngay khi về, em được một người bạn cung cấp luôn chút tài liệu này, xin luôn tí đất đai 4rum nhà mình, em mạn phép post, Mời các bác cùng bạn luận tiếp quan điểm của các bác nhé. Mọi bàn luận xoay quanh chủ đề: Việt nam bị đồng hóa bởi Trung Quốc, hay chỉ là bị ảnh hưởng nhưng vẫn giữ nguyên bản sắc riêng. Trước hết giới thiệu về bài viết về chữ Việt cổ: Nội dung mời tham khảo tại đây: Chữ việt cổ phần 2 Ngoài ra các bạn có thể vào diễn đàn lịch sử VN để tìm hiểu thêm. Thi thoảng mình có vào, và rất có ich khi theo dõi các dòng tranh luận sự kiện. biết thêm thông tin nhiều chiều ================= Một trong nhiều điều nhầm tưởng của nhiều người Việt hiện nay rằng dân tộc ta có một nền văn minh cổ thấp kém hơn một số vùng khác trên thế giới, một phần vì chúng ta phải vay mượn chữ viết từ nước ngoài, trước là từ Trung hoa, sau từ La-tinh. Mặc cảm tự ti về tình trạng mù chữ của người Việt xưa là một chủ đề đã được nhắc đến nơi này, nơi khác. Sự thực hoàn toàn không phải như vậy: người Việt cổ là một trong số ít những dân tộc trên thế giới đã sáng tạo ra chữ viết cho riêng mình. Xin giới thiệu bài nghiên cưu của Đỗ Quang về chữ viết của người Việt cổ. Cách đây chưa lâu, từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường chúng ta thường được nghe thầy cô giảng về lịch sử 4000 năm của dân tộc. Nhiều sách viết về lịch sử, hầu hết đều cho rằng Việt Nam có nền văn hiến 4000 năm.Thực ra cách đây 5.000-6.000 năm, cộng đồng các cư dân Việt cổ đã sinh tụ và phát triển trên một lãnh thổ rộng lớn (Xem thêm bản đồ Migration patterns of early Humans và M175 từ Genographic project). Sử sách nước ta và nước ngoài từ xưa và hiện nay đều xác định rõ niên đại của triều đại Hồng Bàng, với Quốc hiệu Văn Lang là từ năm 2.879 trước Công nguyên (nước Xích Quỷ của Kinh Dương Vương – Hùng Vương 1) đến năm 258 trước Công nguyên (kết thúc triều đại của chi thứ 18), cũng được gọi là Kỷ Hồng Bàng, thời đại các Vua Hùng.Thời kỳ này, nền kinh tế sản xuất nông nghiệp, lúa nước đã khá phát triển với kỹ thuật đồ đồng, những trống đồng nổi tiếng mà hơn trăm năm qua đã tìm thấy ở nhiều nơi trên đất nước ta hiện nay và lãnh thổ nước Văn Lang xa xưa. Theo Khảo cổ học thì ở Việt Nam lúa nước đã có từ 10.000 năm về trước (Xem thêm bài 7: Văn hoá Hoà Bình – Hoabinhian) và đồ đồng đã phát triển khoảng cách đây 5.000 năm (Xem thêm bài 15 : Đồ đồng cổ Đông Sơn) .Thành tựu khảo cổ học, chủng tộc học, v.v…về cư dân Việt cổ và vùng Đông Nam Á, tuy đến nay vẫn còn là bước đầu, mới mẻ nhưng cũng đã chứng minh được phần nào những điều trên. Đặc biệt vui mừng là trong vài thập niên gần đây, nhiều chuyên gia trên thế giới và trong nước, đã có những thành tựu quan trọng chứng minh và khẳng định nền văn hoá tiền sử của cư dân Việt, văn hoá Văn Lang, tồn tại nhiều năm trước công nguyên. Một trong những thành tựu rực rỡ nhất mà ông ta xây dựng nên từ thời tiền sử là thành tựu giáo dục. Thời Hùng Vương chúng ta đã có một hệ thống giáo dục với các trường học, các thầy cô giáo và các em học sinh. Cha ông ta đã phát minh ra giấy viết và đặc biệt đã phát minh ra hệ thống chữ viết riêng. Chữ của thời Hùng Vương là loại chữ gì ? Chúng ta có thể khẳng định rằng: Không phải là chữ Hán. Mặc dù những tài liệu quý báu đã thất lạc rất nhiều, như việc Mã Viện đã tịch thu nhiều trống đồng có khắc chữ trên đó để đúc ngựa dâng cho Hán Quang Vũ và đúc cột đồng trụ, năm 207 sau công nguyên, Sỹ Nhiếp du nhập sang nước ta chữ Hán đồng thời ra lệnh thiêu huỷ sách vở và cấm nhân dân không được dùng thứ chữ viết của tổ tiên ta, nhưng chữ Việt Cổ càng ngày càng phát lộ nhiều : Trên trống đồng, trên qua đồng, trên vách các hang động, bãi đá cổ ở Sapa, ở Pá Màng xã Liệp Tè Thuận Châu Sơn La, chữ Việt Cổ còn tồn tại ở vùng biên viễn Thập Châu Nghiên cứu về chữ Việt cổ . Người Việt ta lập nước rất sớm, nhà nước Văn Lang thời Hùng Vương đã có thầy giáo và học trò, điều đó chứng tỏ dân tộc ta đã có chữ, nhưng đó là thứ chữ gì ? Trong hơn một chục năm gần đây, vấn đề chữ viết của người Việt cổ đã được đặt ra trên tinh thần nghiêm túc và khoa học trong các hội nghị nghiên cứu thời kỳ các vua Hùng. Trong một bản Ngọc phả từ thời vua Trần Thái tông ghi: “Nghiêu thế, Việt Thường thị kiến thiên tuế thần qui, bối hữu Khoa đẩu” nghĩa là thời vua Nghiêu nước Việt Thường tặng rùa thần nghìn tuổi, lưng có chữ Khoa đẩu. Theo cổ sử Trung Quốc “vào thời Vua Nghiêu ( năm 2357 trước công nguyên) có sứ giả Việt Thường đến kinh đô tại Bình Dương (phía bắc sông Hoàng Hà - tỉnh Sơn Tây ngày nay) để dâng một con thần quy, vuông hơn ba thước, trên lưng có khắc chữ Khoa Đẩu ghi việc từ khi trời đất mới mở trở về sau”. Vua Nghiêu sai chép lấy gọi là Quy Lịch. Sang thế kỷ 20, nhờ khảo cổ học và các môn khoa học khác phát triển, cung cấp nhiều bằng chứng khoa học mới về sự tồn tại của chữ Việt cổ. Năm 1979 Giáo sư Hà Văn Tấn phát hiện trên một công cụ bằng đồng - mà các nhà khảo cổ học quen gọi là lưỡi cày hình cánh bướm, đặc trưng cho vùng sông Mã - có hai kí hiệu ở hai bên họng tra cán. Hai kí hiệu này do hai bên không đối xứng nhau, ít có khả năng là hoa văn trang trí, nhiều khả năng là chữ viết. Những chữ việt cổ còn được phát hiện trên nhiều hiện vật khảo cổ khác. Trên bốn chiếc qua đồng Đông Sơn có chạm khắc 28 ký tự. Đó là những ký tự Việt cổ mà cho đến nay chưa giải mã được. Ngược dòng thời gian, năm 1930 một hiện vật gốm quý hiếm được M-CoLan phát hiện dưới chân vách đá Lan Gan ở Hoà Bình. Ban đầu người ta chỉ coi chúng là vật trang sức, “không có công dụng thực tế, không rõ để làm gì ...” . Hai chiếc đĩa cổ bằng đất nung có chữ Việt cổ (chữ O và chữ S) ở Lan Gan (Hòa Bình) Đây là những chữ cổ có tuổi khảo cổ học một vạn năm, thuộc nền văn hoá đồ đá giữa Hòa Bình (xem thêm bài 7: Văn hoá Hoà Bình – Hoabinhian) và trong đó có chữ thứ 2 giống chữ Sĩ của Hán tự ngày nay, phát hiện này trong thời gian dài đã làm đau đầu nhiều nhà nghiên cứu, vì nó có trước Chữ Giáp cốt Ân - Thương (1392 - 1122 - Tr. CN) khoảng 6000 năm. Lúc đó cả tộc danh Hoa Hạ và chủng Trung Mông -gô lô-ít đều chưa có mặt (xem thêm bản đồ Migration patterns of early Humans và M175 từ Genographic project). Sử cũ cho biết, sau khi nước Nam Việt của Triệu Đà bị người Hán xâm chiếm, văn hóa của Việt tộc bị thi hành chính sách đồng hoá. Nhâm Diên, Sĩ Nhiếp sang ta bắt đốt hết sách, nhà nào cất giữ thì bị giết hại. Cuộc tận thu trống đồng của Mã Viện năm 43, sau này cuộc cướp phá sách vở của nhà Minh đầu thế kỷ 15…, Với chính sách đó thì chữ “Khoa Đẩu” của người Việt cổ và có thể cả chữ “tượng hình” sơ khai của thời Văn Lang, Âu Lạc, sau một ngàn năm bị đô hộ, tưởng rằng đã bị xoá sạch là điều dễ hiểu. Trong tập: Sự hình thành và phát triển chữ Việt cổ, do Viện Văn hoá in năm 1986, Giáo sư Lê Trọng Khánh đã dẫn chứng: Nhiều dân tộc trong Bách Việt đã dùng chữ Khoa đẩu thời Phục Hy- Thần Nông để ghi tiếng dân tộc mình. Như vậy, dân tộc Kinh - Lạc Việt lại không còn văn bản hay sao? Riêng ở Việt Nam, chữ khoa đẩu được dùng lâu hơn. Mãi đến đời Sĩ Nhiếp vẫn còn, tuy Sĩ Nhiếp cấm đoán nhưng nhân dân ta vẫn dùng. Nhiều nhà nghiên cứu, từ Hà Văn Tấn, Lê Trọng Khánh, Bùi Văn Nguyên, Trần Ngọc Thêm... cho đến Vương Duy Trinh, Trương Vĩnh Ký, cả những nhà nghiên cứu nước ngoài như Anh, Tiệp Khắc, Mỹ, Pháp, nhất là Trung Quốc: từ Lục Lưu, đến Hứa Thân, Trịnh Tiểu... đều khẳng định: Việt Nam xưa đã có chữ viết riêng. Chữ Việt cổ được phát hiện ngày một nhiều trên nhiều hiện vật khảo cổ, được khắc trên đá, trên xương thú, trên đồ đồng như vũ khí, trống đồng cổ và phân bố rộng khắp lưu vực có người Việt sinh sống. Chữ Việt cổ trên thân trống đồng Lũng Cú Chữ cổ trên bãi đá cổ Sapa Một số văn bản có chữ Việt cổ tìm được tại Sơn La. . Gần đây Nhóm nghiên cứu Chữ Việt cổ và giáo dục thời Hùng Vương, do nhà văn Khánh Hoài- Đỗ Văn Xuyền lãnh đạo đã có những khám phá rất quan trọng. Một trong những kết quả nghiên cứu của Nhóm là phát hiện ra một bộ chữ Việt cổ được lưu giữ ở vùng Tây Bắc Việt Nam. Các nhà khoa học cho rằng văn tự này có thể là một biến thể của chữ “Khoa đẩu” hay “Hoả tự” đã ghi trong cổ sử. Thứ chữ đã tồn tại trong nền văn hoá tiền Việt - Mường. Do không được sử dụng phổ biến, bộ chữ này bị đóng băng, không phát triển theo kịp những biến âm trong tiếng nói người Việt hiện đại. Đến thế kỷ 16 khi đạo thiên chúa truyền vào nước ta, một nhóm trí thức người Việt đã cùng các giáo sĩ phương tây La Tinh hoá bộ chữ này thành chữ Quốc ngữ mà ta đang dùng ngày nay. . . Thầy Xuyền và một số chữ Việt cổ được phát hiện tại các khu vực khác nhau. . . Một sổ khu vực phát hiện dấu tích chữ Khoa đẩu. . Vào năm 1903 Tổng đốc Thanh Hóa lúc ấy là Vương Duy Trinh công bố việc tìm ra một văn bản viết bằng thứ chữ lạ, trông như những ngọn lửa vờn cháy mà ông gọi là chữ Hỏa tự. Dựa vào những chữ Hán ghi chú bên cạnh ông dịch được nội dung, thì ra đây là một bài thơ có tựa đề "Mời trầu" có nội dung ca ngợi tình yêu. Vương Duy Trinh cho rằng, đây chắc chắn là chữ của tổ tiên ta từ thời các vua Hùng nay vẫn còn truyền lại và lưu hành trong một bộ phận nhỏ xã hội. Theo nghiên cứu của Ông thì:"Thập châu là vùng biên viễn, nhân dân ta còn lưu giữ được thứ chữ này". Cách đây hơn một thế kỷ, Phạm Thận Duật, một nhà văn hóa lớn của dân tộc, trong thời gian làm Tri châu ở Tây bắc (khoảng năm 1855) đã phát hiện nhiều bộ chữ mà Ông cho là chữ Thái thổ tự , trong đó có một bộ chữ cái có kèm ghi chú chữ Hán. Theo mô tả của Ông, thứ chữ này được viết theo chiều ngang, bộ chữ gồm 18 thể chữ cái theo vần bằng, 18 thể chữ cái theo vần trắc. Còn ở Châu Mai Sơn, Châu Minh Biên có bộ chữ gồm 17 thể chữ cái theo vần bằng, 15 thể chữ cái theo vần trắc. Ngoài ra còn 11 chữ và nét phụ ở 04 bên mà Ông gọi là "tứ bàng phụ họa, sử dụng 03 thể chữ cái đảo lên, lộn xuống, ghép lại với nhau thành từ, thì đều có thể thông với văn tự Trung châu" (tức là có thể chuyển ngữ cho chữ Hán). Theo nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền: Bộ chữ do Phạm Thận Duật mô tả là bộ chữ không có dấu, trong đó 17 chữ vần bằng là phụ âm, đi với thanh không. 16 thể chữ theo vần trắc là phụ âm đi với thanh huyền. 11 nét phụ (tứ bàng phụ họa) cho những từ vần bằng chính là nguyên âm. Sau nhiều năm khảo sát ở nhiều miền trong cả nước, ông sưu tầm được một khối lượng lớn tư liệu về chữ Việt cổ, và khu biệt được một bộ chữ gồm 47 chữ cái mà Ông tin chắc là chữ Việt cổ, vì bộ chữ này thỏa mãn được 03 tiêu chuẩn kiểm tra ký tự của một dân tộc, được các nhà khoa học đề ra, đó là: - Có ghi lại được đầy đủ tiếng nói của dân tộc đó không ? - Những đặc điểm của ngôn ngữ dân tộc có thể hiện qua các đặc điểm của ký tự đó không ? - Có giải quyết được các "nghi án" về ngôn ngữ, ký tự của dân tộc đó trong quá khứ ? (Chứng minh bằng các cuộc kiểm tra thực tế ở các địa phương, bằng cách dịch lại các văn bản còn tồn nghi và đọc các văn bản cổ mới sưu tầm) Đây là bộ chữ ghi phát âm của tiếng nói (không phải chữ tượng hình nguyên thuỷ) có cấu tạo gần với hệ chữ La Tinh của phương Tây, nên rất dễ học. Tuy nhiên bộ chữ này có một nhược điểm là những chữ nguyên âm luôn thay đổi vị trí. Phải mất nhiều năm nghiên cứu ông mới tìm ra quy luật – Quy luật đặt vị trí nguyên âm theo đạo lý người Việt (ví dụ từ trời nguyên âm đặt phía trên, từ đất nguyên âm đặt phía dưới. Tương tự các từ cha, con nguyên âm đặt phía trước hoặc sau). Để thuộc bảng chữ cái và nắm được quy luật ghép vần , người ta có thể học sử dụng được bộ chữ này để đọc, viết trong khoảng thời gian 7-10 ngày. Nhóm nghiên cứu đang đang tập trung nghiên cứu để một ngày gần đây chứng minh giả thiết cho rằng, những nhà truyền giáo người BồĐào Nhađã tiếp thu bộ chữ cổ của người Việt, và có công La Tinh hóa nó, để ra được chữ Quốc ngữ. Chính trong cuốn “Từ điển Việt Bồ La”, Alexandre de Rodes đã viết: “Đối với tôi, người dạy tài tình nhất là một thiếu niên bản xứ. Trong vòng 3 tuần, anh ta đã hướng dẫn cho tôi tất cả các thanh của ngôn ngữ ấy và cách đọc các từ”. Theo thầy Xuyền thì “cách đọc các từ” đó nhiều khả năng là thứ chữ Việt cổ ! Hịch khởi nghĩa của Hai Bà Trưng kêu gọi cả nước khởi nghĩa giành độc lập, mùa xuân năm 40, được thầy Xuyền viết bằng chữ Việt cổ . . Một số bài thơ được thầy Xuyền viết bằng chữ Việt cổ . (Doremon360 tổng hợp từ bài viết của 2 tác giả Đỗ Quang và Quang Hoà, bổ sung thêm tư liệu và hình ảnh) . . Phụ lục : Chữ Ba Tư cổ (Iran) . Chữ Ai Cập cổ, chữ Arap, chữ Hy Lạp cổ. Chi tiết: http://vikool.org/thread10432.html
-
Lời nguyền của TĐN: "Lời tiên tri của bà VANGA sẽ sớm trở thành sự thật, Bách Việt sẽ toàn vẹn" Chữ Việt Cổ (khoa đẩu tự) Chúng ta có cơ sở để tự hào về dân tộc chúng ta Văn minh dưới thời vua Hùng giữa Trung Hoa và nước Việt chúng ta không có sự khác biệt, có những lĩnh vực chúng ta hơn hẳn người phương Bắc. Vấn đề là ở chỗ người Hán âm mưu đồng hóa dân Việt mình, cho nên họ đã cấm người Việt học chữ khoa đẩu, là chữ viết riêng của dân Việt. Khi người Việt không đọc được chữ của mình thì lịch sử, văn học, văn minh của một dân tộc không còn nữa. Người Việt chúng ta đã bị biến thành dân mọi rợ ngu dốt, học chữ Hán để chúng dễ dàng biến dân Việt thành dân Hán. Theo những nghiên cứu dựa vào chữ khoa đẩu dưới thời Lý thì lúc đó (thời Hùng Vương) bên đất Việt mình văn minh, võ học, tư tưởng, học thuật có phần hơn Trung Quốc. Về võ học, sử sách còn ghi Vạn Tín hầu Lý Thân thắng các cao thủ trong triều Tần Thủy Hòang, giúp xây Vạn Lý Trường Thành, đánh giặc Hung Nô. Chúng ta có chữ khoa đẩu từ xưa ghi lại văn minh thời vua Hùng, văn minh thời Lĩnh Nam đều chép bằng loại chữ này. Đến thời Hai Bà Trưng, công chúa Phùng Vĩnh Hoa cũng đã tìm được 74.988 bộ sách đã được viết trong suốt các triều đại lịch sử trước kia. Kinh thì có các bộ Bách Tộc, Kinh Dương, Lạc Long... Những sách chép về y học, thiên văn học, lịch số học, cùng với hàng nghìn bộ sách lặt vặt rất nhiều. Có thể nói, lúc đó văn minh hai nước Trung-Việt ngang nhau. Khi Mã Viện đánh thắng Hai Bà Trưng rồi chiếm lấy nước ta, Mã Viện đã ra lệnh thu hết sách vở chở về Lạc Dương, cấm học chữ khoa đẩu hoặc trong nhà người nào có sách bằng chữ khoa đẩu sẽ bị bắt để cho dân Việt chúng ta không còn biết nguồn gốc và xem chúng ta giống như các bộ tộc man di mọi rợ. Cái thành công của tụi Hán là làm cho chúng ta tin mình như vậy. Vì những thư tịch cổ của mình bị mất nên tụi Tàu nó muốn chép láo lếu về dân Việt của mình như thế nào cũng được vì tụi nó nghĩ rằng không còn ai biết để mà sửa lại. Trong bộ Hậu Hán thư của Phạm Việp còn ghi rằng dân Việt lúc đó không biết lễ nghĩa và chính Sĩ Nhiếp là người đầu tiên dạy dân Việt học chữ Hán với lễ nghĩa. Thế mà ngày nay nhiều người Việt còn coi bộ sách này làm khuôn vàng, thước ngọc để tra cứu sử Việt. Cũng may là đến thời nhà Lý vẫn còn công chúa Bình Dương con vua Lý Thái Tông và một số người vẫn còn biết chữ khoa đẩu để mà ghi chép lại, nếu không thì không biết đâu mà tìm. Nếu chúng ta không có 1 nền văn minh tích tụ trước từ thời vua Hùng, người Việt không có nguồn gốc lịch sử, văn học hay võ thuật không thể tự nhiên tình cờ có Hai Bà Trưng cùng với 162 vị anh hùng nổi lên đánh những trận kinh thiên động địa như trận Trường An, Nam Hải, Hồ Động Đình, Tượng Quận... gắn liền với tên tuổi của các vị công chúa Hoàng Thiều Hoa, Thánh Thiên, Phật Nguyệt, Phùng Vĩnh Hoa làm cho tụi Hán phải chống cự vất vả. Những trận chiến kia vẫn còn vết tích để lại trên phần đất Lĩnh Nam của chúng ta mà tụi Tàu chiếm giữ đến ngày nay. Thiên cổ Miếu, thôn Hương Lan, xã Trưng Vương, TP Việt Trì, nơi thờ hai vợ chồng thày giáo Vũ Thê Lang, thời vua Hùng Nhà giáo về hưu 71 tuổi Đỗ Văn Xuyền (sinh năm 1937), hiện đang sống tại Việt Trì, sau một thời gian để công nghiên cứu đã bước đầu công bố công trình hơn 50 năm trời nghiên cứu “Giải mã chữ Việt cổ” tại Trung tâm Văn hóa Người cao tuổi Việt Nam. Để phản biện kết quả nghiên cứu của ông - một số người ngoài ngành tin rằng cần có một hội đồng chuyên gia đa ngành đánh giá và kết luận. Sơ bộ, đó là một thành quả nghiên cứu công phu, nghiêm túc, phản ánh sự lao động kiên trì, giàu nghị lực của tác giả và thành quả là một đóng góp có giá trị giúp chúng ta hiểu rõ hơn về cội nguồn lịch sử, văn hóa của dân tộc và có thể mở ra "cửa sổ mới" hết sức thú vị để chúng ta hiểu được các thư tịch cổ Sau nhiều năm nghiên cứu các Ngọc phả tại các đền thờ khác nhau rải rác khắp vùng trung du, đồng bằng Bắc Bộ, ông đã tìm ra 18 nơi thờ các thầy giáo, học trò từ thời An Dương Vương, Hùng Vương. Từ đó ông đưa ra một giả thiết ban đầu của mình là trước năm 186 công nguyên là năm chữ Hán được đưa vào Việt Nam thì dân tộc ta đã có chữ viết riêng - chữ Việt cổ, chữ viết đó được các thầy giáo thời Hùng Vương sử dụng. Giả thiết này hoàn toàn khác với điều đa số người Việt hiện nay vẫn cho rằng là trước khi bị Tàu đô hộ, nước Văn Lang (tức nước Việt) không có chữ viết riêng mà chỉ đến khi người Tàu qua xâm chiếm thì người Việt mới bắt đầu dùng chữ Hán để viết. Qua nghiên cứu các thư viện và tìm đọc các thư tịch trong, ngoài nước của nhiều nhà nghiên cứu tiền bối đã đi sâu vào vấn đề này: Từ Hà Văn Tấn, Lê Trọng Khánh, Bùi Văn Nguyên, Trần Ngọc Thêm... cho đến Vương Duy Trinh, Trương Vĩnh Ký, cả những nhà nghiên cứu nước ngoài như Anh, Tiệp Khắc, Mỹ, Pháp, nhất là Trung Quốc: Từ Lục Lưu, đến Hứa Thân, Trịnh Tiểu... ông đều gặp may bởi họ đã khẳng định: Việt Nam xưa đã có chữ viết riêng. Chữ Việt cổ có liên hệ gì với chữ Quốc Ngữ? Chữ Quốc ngữ xuất hiện ở nước ta từ thế kỷ 17. Nhiều cuốn sách cổ được in từ buổi đầu chữ Quốc ngữ xuất hiện, đến nay hầu như không ai đọc được. Khi đem bộ chữ Việt cổ đã được giải mã thử đọc một số cuốn sách cổ, như cuốn “Từ điển Việt-Bồ-La” (1651) của Alexandre de Rhodes, hay cuốn “Sách sổ sang” của Philip Bỉnh (Giám mục người Việt, ở Thủ đô Bồ Đào Nha những năm 1790-1820), thầy giáo Xuyền đã rất thú vị khi dễ dàng đọc được những từ khó mà lâu nay nhiều người không đọc cũng không giải thích được. Chính từ việc này, thầy Xuyền đã đưa ra một giả thuyết: Chữ Quốc ngữ có lẽ không phải là một công trình hoàn toàn mới của Alexandre de Rhodes. Những trang viết trong cuốn “song ngữ” La Tinh- Việt cổ do ông Xuyền biên soạn. Nhà truyền giáo người Bồ đã tiếp thu bộ chữ cổ của người Việt, và có công La tinh hóa nó, để ra được chữ Quốc ngữ?! Giả thuyết của thầy Xuyền không phải không có căn cứ. Bởi chữ Quốc ngữ và chữ Việt cổ do ông giải mã có cùng cấu trúc ghép vần tương tự nhau, chỉ khác nhau về hình dạng mà thôi! Chính trong cuốn “Từ điển Việt-Bồ-La”, Alexandre de Rhodes đã viết: “Đối với tôi, người dạy tài tình nhất là một thiếu niên bản xứ. Trong vòng 3 tuần, nó đã hướng dẫn cho tôi tất cả các thanh của ngôn ngữ ấy và cách đọc các từ”. Theo ông Xuyền thì “cách đọc các từ” đó nhiều khả năng là thứ chữ Việt cổ! Tôi xin góp ý về bài thơ trên bằng chữ cổ, tức là xem kỹ thì thấy: - ở từ "nghêu" thiếu chữ "-u" (phải viết thêm "c" đảo lộn) - quen viết thành "engn" ("vv" là -e-, "nb" là ng-, còn U-vuông là n/m) ->lối viết nguyên âm rất giống tiếng Khmer, Thái Quy luật đặt âm, vần của chữ Việt cổ Theo nhà nghiên cứu Đỗ Văn Xuyền: Bộ chữ do Phạm Thận Duật mô tả là bộ chữ không có dấu, trong đó 17 chữ vần bằng là phụ âm, đi với thanh không. 16 thể chữ theo vần trắc là phụ âm đi với thanh huyền. 11 nét phụ (tứ bàng phụ họa) cho những từ vần bằng chính là nguyên âm. Sau nhiều năm khảo sát ở nhiều miền trong cả nước, ông sưu tầm được một khối lượng lớn tư liệu về chữ Việt cổ, và khu biệt được một bộ chữ gồm 47 chữ cái mà Ông tin chắc là chữ Việt cổ, vì bộ chữ này thỏa mãn được 03 tiêu chuẩn kiểm tra ký tự của một dân tộc, được các nhà khoa học đề ra, đó là: - Có ghi lại được đầy đủ tiếng nói của dân tộc đó không ? - Những đặc điểm của ngôn ngữ dân tộc có thể hiện qua các đặc điểm của ký tự đó không ? - Có giải quyết được các "nghi án" về ngôn ngữ, ký tự của dân tộc đó trong quá khứ ? (Chứng minh bằng các cuộc kiểm tra thực tế ở các địa phương, bằng cách dịch lại các văn bản còn tồn nghi và đọc các văn bản cổ mới sưu tầm) Đây là bộ chữ ghi phát âm của tiếng nói (không phải chữ tượng hình nguyên thuỷ) có cấu tạo gần với hệ chữ La Tinh của phương Tây, nên rất dễ học. Tuy nhiên bộ chữ này có một nhược điểm là những chữ nguyên âm luôn thay đổi vị trí. Phải mất nhiều năm nghiên cứu ông mới tìm ra quy luật – Quy luật đặt vị trí nguyên âm theo đạo lý người Việt (ví dụ: từ trời nguyên âm đặt phía trên, từ đất nguyên âm đặt phía dưới. Tương tự các từ cha, con nguyên âm đặt phía trước hoặc sau). Để thuộc bảng chữ cái và nắm được quy luật ghép vần , người ta có thể học sử dụng được bộ chữ này để đọc, viết trong khoảng thời gian 7-10 ngày. "Nghiêu thế, Việt thường Thị Kiến thiên tuế thần quy, Bối hữu khoa đẩu". Sách Tân Lĩnh Nam Chích quái của Vũ Quỳnh (đời Lê, thế kỷ 15) viết đại ý: Thời Lạc Long Quân có người hái củi, bắt được con rùa, lưng rộng khoảng ba thước, trên mai có khắc chữ như con nòng nọc gọi là chữ Khoa Đẩu. Hùng Quốc vương đã cử phái đoàn đem rùa thần đó cống cho vua Nghiêu. Về việc này, sách Thông Giám Cương Mục do Chu Hy đời Tống viết: “Năm Mậu Thân đời Đường Nghiêu thứ IV (2352 trước Công nguyên) có Nam Di Việt Thường thị đến chầu, hiến con rùa lớn”. Sách Thông Chí của Trịnh Tiểu cũng đời Tống nói rõ hơn: “Đời Đào Đường, Nam Di Việt Thường thị qua nhiều lần thông dịch đến hiến một con rùa thần. Rùa ước được ngàn tuổi, rộng hơn ba thước, trên lưng có chữ Khoa Đẩu, chép việc từ lúc khai thiên lập địa đến nay. Vua Nghiêu sai chép lấy gọi là Quy Lịch”. - Đây còn là khởi thủy của KINH DỊCH đấy ! Một lần trên đường đi tìm kiếm ông đã dừng chân bên ngôi miếu nhỏ của một xóm núi, đọc được một bản Ngọc Phả thời Trần Thái Tông với những dòng chữ vang vọng tự hào: "Nghiêu thế, Việt thường Thị Kiến thiên tuế thần quy, Bối hữu khoa đẩu". Như vậy thời Hùng Vương, dân tộc ta đã có chữ viết với tên gọi Khoa Đẩu, đó là điều có thể khẳng định chắc chắn. Hơn một nghìn năm Bắc thuộc, cuộc tận thu trống đồng của Mã Viện năm 43, cuộc cướp phá sách vở của nhà Minh đầu thế kỷ 15, cuộc đốt phá hết thư khố quốc gia và thư khố của các bộ (sau cuộc tấn công vào đồn Mang Cá) của Pháp năm 1875, liệu có còn sót lại những gì? Ông Xuyền đến Sa Pa, trên tảng đá vùng Hầu Thảo, sau khi cạo lớp rêu phủ đã tìm được những chữ giống như chữ cái của Vương Duy Trinh, Hiệp biện Đại học sỹ, Tổng đốc Thanh Hóa. Trong cuốn Thanh Hóa quan phong viết năm 1903, Vương Duy Trinh đã giới thiệu một số chữ lạ sưu tập được, khẳng định đó là chữ Việt cổ từ thời Hùng Vương, và đưa ra nhận xét: “Vì Thập Châu là nơi biên viễn nên dân ta còn lưu giữ thứ chữ ấy. Các nơi khác, Sĩ Nhiếp bắt bỏ hết để học chữ Trung Quốc”. Giáo sư Hà Văn Tấn đã công bố công trình nghiên cứu “Về một nền văn tự trước Hán và khác Hán”, Giáo sư Lê Trọng Khánh thì khẳng định “Nhiều dân tộc trong Bách Việt đã dùng chữ Khoa Đẩu thời tiền sử để ghi tiếng dân tộc mình”. Nhớ tới câu nói của Vương Duy Trinh: "Vì thập Châu là vùng biên viễn, nhân dân ta còn lưu giữ được thứ chữ ấy", ông hướng tìm tòi lên vùng Tây Bắc, Việt Bắc, vùng khu 4 cũ, rồi lăn lộn lên cả Đông và Tây dãy Trường Sơn để tìm theo dấu vết. Để đi được dài ngày và đi xa, với số tiền lương hưu ít ỏi, ông đã phải tính đến việc ăn ngủ giản tiện nhất, đó là: một chiếc võng bạt, một bi đông đựng nước, một ít bánh mì sấy khô và dăm gói mì tôm. Thế là ông "cầm cự" được hàng chục ngày để đi đến các vùng sâu vùng xa, quyết tìm cho ra chữ Việt cổ. Trong các tài liệu sưu tầm được, ông đặc biệt chú ý đến một bộ chữ lạ. Rất tiếc là những trang sách này đã bị nguỵ trang và khoá mã, mặc dù vậy nó đã tồn tại hàng mấy trăm năm mà không ai chú ý tới. Linh cảm mách bảo, ông đã thức nhiều đêm trắng để mày mò giải mã. Kiến thức tổng hợp và vốn ngoại ngữ đã giúp ông rất nhiều trong lĩnh vực nghiên cứu chữ Việt cổ. Kết quả, ông đã khu biệt được loại ký tự này với các loại văn tự xung quanh, tìm ra được hình dạng, chức năng của từng chữ cái và cách cấu trúc của một loại ký tự mà người ta đã nhầm là chữ Mường, chữ Thái... Qua công trình nghiên cứu về ngôn ngữ người Việt cổ HauĐricourt, ông khẳng định được bộ ký tự này có từ trước công nguyên (loại ký tự bắt nguồn từ chữ Khoa đầu tượng hình chuyển sang chữ cái có ghép vần). Căn cứ vào ý kiến của giáo sư Lê Trọng Khanh: "Các dân tộc Bách Việt dùng thứ chữ này". Khi đã đọc thông viết thạo chữ Việt cổ, ông lại tìm đến các vùng người Thái, người Mường. Loại văn tự này có thể ghi được tiếng Thái, tiếng Mường nhưng không đầy đủ. Ông lại tìm đến các vùng quê Thái Bình, Bắc Ninh, Sơn Tây, Thanh Nghệ Tĩnh... để lắng nghe những người già phát âm. Thứ ký tự này đã giúp ông ghi lại đầy đủ giọng nói, âm vực của họ, giúp ông giải thích được tiếng nói khác nhau của từng vùng - gần như nó đã ghi lại nguyên tiếng nói người Việt cổ. Nó đã giúp ông giải thích được nhiều vấn đề còn thắc mắc. Ví dụ: Vì sao trong tờ Le Paria và tờ L'Humanité từ những năm 20 của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Chữ Nguyễn Ái Quốc được viết là Nguyễn ái Quấc. Và trong cuốn sách sổ sáng của Filíp Bỉnh viết ở Bồ Đào Nha năm 1822, chữ huyên được viết là huên, chữ dòng được viết là dào. Cũng như vậy ông có thể chứng minh được một nền văn tự có trước Hán và khác Hán, của giáo sư Hà Văn Tấn qua việc giải thích sự tồn ghi trong cuộc khai quật của bà Cô La Ni ở Lam Giận Hoà Bình năm 1923. Tháng 9/2004, giáo sư Hà Văn Tấn đã mời ông về Hà Nội nghe ông kể lại quá trình đi tìm chữ Việt cổ và khi được ông tặng bản Hịch của Hai Bà Trưng đã chuyển sang chữ Việt cổ, giáo sư đã cảm động nghẹn ngào: "Vấn đề lớn lắm. Chúng ta phải sớm báo cáo lên nhà nước". Dịp hè năm nay, nghe tin tỉnh Sơn La tìm được hàng nghìn cuốn sách cổ có chữ lạ. Ông cầm vài tờ photo lên, đọc mà nước mắt ràn rụa. Như vậy điều dự đoán của các nhà khoa học trước đây đã được chứng minh: Thứ ký tự đặc biệt để ghi âm tiếng nói của người Việt cổ (thứ chữ dân tộc ta đã có từ thì đại Hùng Vương) đã được các dân tộc sử dụng chung và còn được lưu giữ bảo tồn ở vùng Tây Bắc cho đến ngày nay. . TIẾNG VIỆT TRÊN THƯ TỊCH CỔ Tìm về nguồn gốc chữ Việt cổ chính là những ưu tư khắc khoải của tất cả mọi người Việt Nam yêu nước. Lịch sử ghi nhận vua Lê Thánh Tông (1460-1497) là một vị minh quân, không những sáng suốt trong việc trị quốc an dân mà nhà Vua còn là nhà có tài văn chương thi phú. Lê Thánh Tông là vị vua duy nhất trong lịch sử đứng đầu "Nhị thập bát tú" đã để lại nhiều tác phẩm thi văn cho hậu thế. Theo "Cổ Việt Hùng thị Thập bát Diệp Thánh Tông Ngọc Phả cổ truyền" do Hàn Lâm viện Trực học sĩ soạn năm Nhâm Thìn 1472, niên hiệu Hồng Ðức thứ 3 thì vua Lê Thánh Tôn giao cho Bảng Nhãn Nguyễn Như Ðỗ nghiên cứu về cương giới nước Việt xưa. Bản "Hùng Vương bát cảnh" do Nguyễn Như Ðỗ sưu tập thì lãnh thổ nước Văn Lang gồm: 1. MIỀN GÒ NGỰA (Mã Kỳ) rộng khoảng 2.000 dặm, xưa tên là châu Ðiền nay thuộc tỉnh Vân Nam TQ. 2. MIỀN CỎ TRÂU (Ngưu Lan) rộng khoảng 1.500 dặm tức Việt Tây nay là tỉnh Quảng Tây TQ. 3. MIỀN AO CÁ (Ngư Trì) rộng 1700 dặm xưa có tên là Việt Ðông nay là tỉnh Quảng Ðông Trung Quốc. 4. MIỀN RỪNG QUẠ (Ô Lâm) xưa là châu Kiềm nay thuộc tỉnh Phúc Kiến, Quí châu giáp hồ Ðộng Ðình TQ. 5. MIỀN ÐỘNG HOA tức tức nước Phù Nam cổ rộng khoảng 1.000 dặm thời LêThánh Tôn là nước Chân Lạp. Vương quốc Phù Nam cổ ở Hạ Lưu sông Mekong, Vương quốc này tồn tại mãi đến thế kỷ thứ VI. Cương giới Phù Nam trải rộng hầu như khắp lục địa Ðông Nam Á cổ bao gồm cả miền Nam Trung Việt, Nam Việt Nam sang phía Tây gồm cả thung lũng sông Mê Nam Thái Lan. Phía Bắc tời vùng trung lưu sông Mê Kông tức lãnh thổ Lào ngày nay trải dài xuống phương Nam tới tận bán đảo Mã Lai, tức nước Malaysia bây giờ. 6. MIỀN NÚI QUAû (Quả Sơn) rộng khoảng 1.000 dặm tức nước Hồ Tôn ( Lâm Aáp cổ còn gọi là Chămpa ) sau là Chiêm Thành. 7. MIỀN BẦY VOI (Tượng Tào) rộng khoảng 1.000 dặm tức nước Ai Lao. 8. MIỀN LŨ HƯƠU (Lộc Hữu) rộng khoảng 1.000 dặm ở phía Nam Ai Lao tức Cao Miên (Cambodia) bây giờ. Còn về trước nữa thì biên giới nước ta lên tới Hồ Bắc và Nam Hà Nam lấy phân dã 2 sao Ngưu Nữ làm giới cận.(18) Thuở xa xưa Tổ Tiên ta định cư ở cuối dãy Nam Sơn, sau dời xuống vùng Tam giang Bắc gồm sông Hoàng Hà, sông Vị, sông Lạc. Ðời Kinh Dương Vương dời xuống vùng Tam giang Nam gồm sông Dương Tử (Trường Giang) sông Nguyên và sông Tương. Vùng đất này là vùng đất đỏ Basalt nên Kinh Thư gọi là Xích Qui phương nên Kinh Dương Vương mới đặt tên nước là XÍCH QUI. Cổ thư Trung Hoa gọi vùng này là Nam Giao, Cửa Việt, Giao Chỉ. Người Việt cổ thông đạt thiên văn ngay từ thời cổ đại. Người xưa đã quan sát chiêm nghiệm vị trí các vị sao với thời tiết mùa vụ để làm ra Nông Lịch đầu tiên trên thế giới. Theo nhà nghiên cứu "Tiên Tích Việt", Giáo sư Nguyễn Ðoàn Tuân thì toàn bộ chòm sao TĨNH theo kinh Thái Aát đóng tại giữa cung Khôn và Ly bao bọc các châu Lương, Tần, Kinh, Sở, Dương, Trinh của Xích Qui phương thời Kinh Dương Vương. Ðứng trước sao Tĩnh là sao VIỆT nên mới gọi là "Việt Tĩnh cương" là cương giới, phân dã sao ứng cho Ðông Việt, Tây Việt, Việt Thường và Bách Việt. Quan sát vị trí của 17 sao trong chòm sao Tĩnh, phận dã ứng với 15 bộ của VĂN LANG. Hai sao Thủy Phủ (Suifu) và Thiên Lang được chọn làm Kinh đô THỦY PHỦ{Suifu) và đặt tên nước là VĂN LANG. Mới đây, các nhà thiên văn người Pháp gồm 2 Thạc sĩ Sử Ðịa là Baron và P. Gourou cùng với Tiến sĩ văn chương P. Loubet đã tìm ra địa danh Thủy Phủ (Souifou) trên bản đồ Thái Bình Dương Pacific Ocean của National Geographic Society nay là cảng Thành Ðô tỉnh Tứ Xuyên. Địa danh Thủy Phủ (Suifu) cũng được ghi rõ trên bản đồ New International ATLAS of the World của Geographical Publishing company in năm 1949. Chòm sao Tĩnh đứng đầu 7 sao của chòm sao Chu Tước. Chu Tước chính là chim huyền thoại Phượng Hoàng chính là chim Trĩ, Công cùng họ với Bạch Trĩ là vật tổ biểu trưng của chi Aâu Việt. Chu Tước có bộ lông màu đỏ, hai sao Bạch Trĩ và Chu Tước ứng về phương Nam của Việt tộc. Về sau Hán tộc xâm lăng đẩy Việt tộc phải lùi dần về phương Nam nên "Tấn thư" mục Thiên văn chí chép:" Ðất Việt thuộc về phận dã sao Khiên, Ngưu và Vụ Nữ .. Ngày nay Thương Ngô, Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân, Nam Hải và Nhật Nam đều thuộc về địa phận nước Việt. Vua nước ấy thuộc dòng họ Vũ, con thứ của vua Thiếu Khang nhà Hạ phong ở đất Cối Kê". Ðây chính là nước VIỆT (U-Việt) của Việt vương Câu Tiễn đã từng xưng Bá thời Xuân Thu. Ðến thời Hán, nước NAM VIỆT của Triệu Vũ Ðế chỉ còn lại phía Nam Ngũ Lĩnh nên "Hán Thư", Thiên văn chí chỉ chép phân dã Việt ứng với 2 sao Dực Chẩn, sao Ngưu Nữ ứng với địa phận Dĩnh Xuyên nên truyền thuyết Ngưu Lang Chức Nữ là của người Việt chứ khơng phải của Tàu như người ta viết từ trước đến giờ. Tập " Thánh Tông dị thảo" gồm 20 truyện ký đặc biệt là truyện Mộng ký kể lại giấc mơ của nhà Vua như nỗi thao thức trăn trở về ngọn nguồn gốc tích dân tộc gửi lại cho những thế hệ sau. Truyện kể, một lần Vua Lê đi dạo chơi gặp mưa, nghỉ đêm bên hồ Trúc Bạch, Vua nằm mộng thấy hai người con gái thời Lý Cao Tông hiện lên dâng thư bày tỏ nỗi niềm oan ức gồm một bài thơ bằng chữ Hán và một tờ tấu bằng chữ bản địa có 71 chữ ngoằn ngoèo. Vua đọc không được, suốt ba năm cả triều đình cũng không có ai đọc được tờ tấu đó. Thế rồi, Vua lại nằm mơ có người hiện lên giảng giải cho Vua thêm về bài thơ chữ Hán. Vua hỏi âm, nghĩa của 71 chữ ngoằn ngoèo trên thì người ấy nói :" Chữ ấy là lối chữ cổ của nước ta. Nay Mường Mán ở núi rừng có người còn đọc được, nhà Vua cho vời họ đến thị tự khắc sẽ biết". Vấn đề ở đây không phải ở tình tiết thực hư của giấc mơ mà cốt lõi là Vua Lê Thánh Tông trao chiếc chìa khoá cho thế hệ sau chúng ta cùng giải mã vấn nan lịch sử đó. Cứ theo Vua Lê thì dân tộc ta đã có chữ viết riêng lối chữ cổ đó còn rơi rớt hiếm hoi ở thời Lý, theo đó hình dáng của lối chữ Việt cổ có nét chữ ngoằn ngoèo và hiện lối chữ ấy còn bảo lưu ở một đồng bào Mường Mán của chúng ta. Ðiểm đặc biệt là chính thư tịch cổ Trung Quốc cũng xác nhận Việt tộc đã có thứ chữ riêng hình con Nòng Nọc mà họ gọi là "Khoa Ðẩu tự" từ thời xa xưa. Sử ký Tư Mã thiên chép " Ðất Giao Châu ở phía Nam có Việt Thường Thị qua nhiều lần thông dịch, đến hiến một con chim Trĩ trắng". Sách Thông giám cương mục do Chu Hi đời Tống soạn cũng ghi:"Năm Mậu Thân đời Ðường Nghiêu thứ 5 (tức năm 2353TDL) có Nam di Việt-Thường Thị đến chầu, hiến rùa lớn" và sách Thông Chí do Trịnh Tiêu đời Tống chép rõ hơn: " Ðời Ðào Ðường, Nam di có Việt Thường Thị qua nhiều lần thông dịch đến hiến một con rùa thần. Rùa được nghìn tuổi, rộng hơn 3 thước, trên lưng có chữ "Khoa đẩu" chép việc từ lúc khai thiên lập địa tới nay. Vua Nghiêu sai chép lấy gọi là Qui lịch". Sự kiện lịch sử này được xem như mối giao hảo giữa hai dòng Thần Nông phương Nam và phương Bắc của Việt tộc chứ không phải giữa nước ta với nước Tàu như các sử gia viết sai lầm từ trước đến giờ. Nguồn thư tịch cổ trên cho chúng ta thấy là Họ Việt Thường, một trong 15 chi tộc sau này họp lại thành quốc gia Văn Lang đã hiện hữu ngay từ thời Ðào Ðường thị Ðế Nghiêu. Việt Thường là một nhà nước sơ khai của Việt tộc đã cĩ chữ viết và một nền văn minh khá cao nên mới làm được lịch gọi là lịch rùa (Qui lịch). Ðặc biệt, trên lưng rùa có ghi chép những sự việc từ thời khai thiên lập địa được xem như khởi đầu của triết học với vũ trụ quan phương Ðông, uyên nguyên Âm Dương Dịch biến luận của người Việt cổ. Sự kiện sứ giả Việt Thường đến được Trung Nguyên trong khi đó dòng Thần Nông phương Bắc chưa biết đến Việt Thường đã chứng tỏ kiến thức về địa lý và thiên nhiên của Việt Thường cao hơn thời Ðường Nghiêu khiến Vua Nghiêu phải sai chép lại lịch rùa (Qui lịch). Quan trọng hơn là lúc đó Việt Thường đã có chữ viết dạng Khoa đẩu tức lối viết theo hình loăn quăn ngoằn ngoèo như con Nòng nọc. Truy cứu lại lịch sử chữ viết Trung Hoa cho chúng ta biết chữ Bát quái của Phục Hi, chữ Kết thằng là lối chữ ký hiệu bằng cách thắt nút giây của Ðế Thần Nông. Ðến đời Hoàng Ðế có Thương Hiệt là sử gia đã thống nhất được lối chữ cổ kể trên, đồng thời theo dấu hình chân chim thú bay nhảy mà biết văn lý phân biệt rồi khuếch trương bằng hình thanh đặt ra lối chữ ÐIỂU TRIỆN. Ðến thời Chu Tuyên Vương của Hán tộc mới sai thái tử Trứu thêm bớt lối chữ khoa đẩu đặt ra lối chữ ÐẠI TRIỆN nét tròn thường viết bằng sơn trên gỗ tre. Bởi vậy, lối chữ đại triện này gọi là Trứu thư được xem là của Hán tộc vì nó hoàn toàn khác với lối chữ khoa đẩu, Ðiểu triện thời Hoàng Ðế của Việt tộc. Theo những công bố gần đây được hầu hết học giả Trung Hoa học các nước chấp nhận thì cái gọi là văn hoá Trung Hoa chính là VĂN HOÁ VIỆT CỔ mà cổ thư gọi là văn hoá tứ di hay Di-Việt. Triều Thương của Hán tộc đã tiếp thu nền văn hoá này nhưng mãi đến đời Chu mới đưa thêm vào một số yếu tố du mục, chịu ảnh hưởng của Iran như chế độ thiên tử, hoạn quan, luật hình và tổ chức quân đội chuyên nghiệp… để rồi từ đó mặc nhiên tự nhận là văn hóa Hán. Triều Chu đóng đô ở Thiểm Tây và đặt ra chế độ Tông pháp để bảo vệ chế độ. Triều Chu phong cho họ hàng và các công thần làm Vua 15 nước chư hầu để làm phên giậu bảo vệ lãnh thổ của Chu. Ngày nay, các học giả đều thừa nhận là đời Chu mới bước vào văn minh với những thể chế hình mẫu của nhà nước phong kiến. Chức thiên tử uy quyền tuyệt đối mà Vua Chu tuy không quan niệm Vua là Thần thánh như ở Iran, nhưng Vua là con trời (thiên tử) nên vừa làm Vua, vừa là tư tế thượng phẩm. Vua Chu đại biểu của chế độ phong kiến nên độc tài chuyên chế, trói buộc người dân trên mọi phương diện. Vị Vua thế quyền nắm cả giáo quyền đã khống chế cả đời sống vật chất lẫn tinh thần của dân bị trị. Chu là một chư hầu của Thương ở Tây Thiểm Tây, là một tộc người du mục chứ không phải dòng dõi Ðế Cốc như các sử gia "Ðại Hán" đã tô điểm thêm thắt. Thế mà thư tịch cổ Trung Hoa chép Chu là dòng dõi ông Khí (con của Ðế Cốc) làm quan Hậu tắc, coi việc nông chính dưới triều Vua Thuấn, được phong ở đất Thái (tỉnh Thiểm Tây) truyền đến Công Lưu thì dời sang đất Mâu cũng giữ chức Hậu tắc. Tám đời sau đến Cổ Công Ðản phụ vì tránh nạn Bắc địch phải dời đến ở dưới núi Kỳ mới đổi quốc hiệu là Chu. Theo các công trình nghiên cứu của học giả Eberhard và Gernet thì Chu là một bộ lạc Thổ (Turc) sống chung với người Tạng (Tibet) chịu ảnh hưởng của văn hoá Thương tức văn hoá Di-Việt do Thương tiếp thu của Hạ. Tộc Chu có dòng máu Thổ và Hung nô nên qúi tộc Chu đã phân biệt giai cấp và gọi nhân dân là dân đen (Lê dân) tức dân tóc đen khác với tóc hung vàng của giới thống trị Thổ (Turc). Chu sau khi tiếp nhận văn hoá Di Việt, cộng thêm bản chất du mục đã hình thành nền văn minh Chu với đế chế phong kiến chuyên chế thống trị nhân dân trong nước mà còn phân biệt chủng tộc. Giới thống trị Chu tự cho họ là văn minh và gọi các dân tộc khác là Man Di, di địch. Ðời Chu công Quí Lịch đi chinh phục các nước đã gọi cửu hầu là cửu quỉ (19). Sau Chu đến Tần cũng lấy lối chữ Ðại triện của đời Chu làm tiêu chuẩn để thống nhất chữ viết kể cả giọng nói để triệt tiêu ngôn ngữ của các dân tộc khác. Ðế chế Tần buộc các địa phương phải gửi người về Hàm Dương để học giọng Quan Thoại và lối chữ viết thống nhất khi trở về địa phương dạy lại từ quan đến dân lối chữ ấy. Tần ra chỉ dụ cấm đoán và trừng phạt khắt khe những ai còn nói giọng địa phương và viết chữ của dân tộc họ. Biện pháp cưỡng bách này khiến ngôn ngữ riêng của các dân tộc biến mất theo thời gian. Theo "Trúc thư kỷ niên" thì vào thế kỷ thứ 22 TDL mới có thứ chữ để viết dùng trong việc hành chánh, nghĩa là vào khoảng thời nhà Hạ của Việt tộc (2.205-1766TDL). Ðó là thứ chữ dựa vào câu sử truyền như sau: "Thượng cổ thánh nhân Kết thằng dĩ trị, hậu thế thánh nhân dịch chi dĩ Thư khế bá quan dĩ trị, vạn dân dĩ sát" nghĩa là thời xưa, đấng thánh dùng loại chữ "kết thằng" để trị, đời sau thánh nhân biến chữ đó làm một thứ "Thư khế" trăm quan theo đó mà trị, vạn dân lấy đó mà xét nghiệm. Câu nói này cũng chép trong mục "Thần Nông" tựa kỷ. Theo Nguyễn Ðoàn Tuân thì Kết Thằng còn đọc là Cát Thặng hay Kết thừa nghĩa là nhắc nhớ tới thời Lão Long Cát thị truyền chữ lại và coi chữ Kết Thằng như một "Kết ước thần linh". Chính vì vậy mà đời sau đổi Kết Thằng thành Thư Khế. Thư khế là sách ước xưa truyền lại và nhờ đó mà kết tinh trong Dịch. Ðiều này đến đời Thiệu Khang Tiết mới phát hiện. Các chữ cổ đời Hạ, Thương đều là lối chữ phiên thiết, nói chung lối chữ gọi là Hán tự thay đổi hoài. Ðến đời Tần, Tần Thủy Hoàng sai thừa tướng Lý Tư (213TDL) lấy lối chữ Kết Thằng đời Thần Nông (Viêm Việt) soạn ra chữ Tiểu Triện, mới được khoảng 3300 chữ. Thực ra Lý Tư chỉ lấy chữ Kết Thằng của Viêm Việt để hợp thành những danh tự chỉ đồ vật. Năm 120, Hứa Thận soạn sách "Thuyết văn Giải tự" kiểm điểm sắp xếp lại chữ Tiểu triện sắp lại thành 540 chìa khoá bộ chữ tạo thành 10.515 chữ được xem là chữ Hán định hình. Sau đó sách "Thuyết văn Thông thuận Ðịnh thành Lục thư thông" đã bổ túc và định nghĩa chắc chắn từng chữ một. Sau đó, Trình Mao Tạo ra cây viết chì nhọn, chấm vào mực để viết tròn ra vuông, cong ra gẫy. Mông Ðiềm giao lưu văn hoá với Hung Nô (Mông cổ) tạo ra bút lông, bút giấy. Bút lông không viết ngược chiều được, giấy hút mực nên phải viết cho lẹ, nét chữ biến hoá một cách tự do, nét đậm nét nhạt, mập mờ, nét móc, nét lồi, nét gối, nét nối liền nhau, thành thảo tự gọi là viết thảo. Người đời sau do sai lầm cứ dựa vào "Lục thư" mà tuỳ tiện xét đoán. Khi tìm thấy lối chữ cổ của vua Ðại Vũ viết trên tấm bia chôn ở núi Cú Lũ (tên cổ là hang rùa). "Lĩnh Nam Dật sử" có chép chuyện này, tác giả đoán chắc đó là bảng chữ Việt. Sách "Tô Ký Kinh ngoại" cũng xác nhận đó là tiếng Việt. Sách "An Nam Chí lược" của Lê Tắc, dẫn lời cẩn bạch của Ngạn Ngân Hương đề cao lối chữ này là "Thần vũ hữu Cú Lũ sơn" rằng :"Thiết nghĩ thước ngọc khuôn vàng vườn Côn Luân bản đồ trình hiến, chữ xanh vằn đỏ (xích văn lục tự) thơ truyền Vụ Uyển, thư tịch lưu truyền". Ðây chính là thứ chữ trong Lạc thư Bách Việt, ý người xưa Lạc là Thần, phát xuất từ cái nôi sinh tụ đầu tiên của tộc Việt là Rượu Cô Dịch di chuyển về Tiểu Côn Lôn là vùng núi Vụ Uyển nơi Ðại Vũ đã chôn giấu tấm bia mà sách Lĩnh Nam Dật sử nhắc tới. Thực tế lịch sử cũng cho chúng ta biết thời Xuân Thu các quốc gia Bách Việt cũng đã có ngôn ngữ riêng. Thật vậy, Nước Việt có quốc luật, Sở quốc có Hiến lệnh là những pháp lệnh thành văn đầu tiên cùng thời Tử Sản người nước Trịnh(20) năm 532 TDL đã soạn ra Hình thư rồi đem văn bản hình khắc lên chín cái đỉnh đúc bằng sắt gọi là Chú Ðỉnh hình. Tả truyện của Tả Khâu Minh chép truyện quan lịnh doãn nước Sở là Tử Ngươn đi đánh Trịnh, đến bên thành Trịnh thì thấy dân chúng bình tĩnh như không có gì xảy ra, lại còn lên đầu thành mà nói với xuống bằng tiếng nước Sở, cũng là tiếng Việt của họ. Sở dĩ họ không lo sợ gì vì là đồng chủng nên đối với họ, chiến tranh chỉ là sự tranh giành quyền lãnh đạo của giới cầm quyền mà thôi. Ðến ngày nay mà sách giáo khoa Tàu vẫn gọi tiếng Quảng Ðông là Việt ngữ. Học giả Lê Mạnh Thát trong tác phẩm "Vài tư liệu mới cho việc nghiên cứu lịch sử âm nhạc Việt Nam giai đoạn trước 939" đã đưa ra chứng cớ về sự hiện diện của chữ Việt cổ, căn cứ trên " Thuyết uyển" do Lưu Hướng viết vào khoảng năm 16 TDL. Nguồn sử liệu minh văn trên đã xác nhận một cách đúng đắn là người Việt đã có ngôn ngữ riêng, âm nhạc riêng đó là bài "VIỆT CA". Lục độ tập kinh cùng với "Cựu Tạp Thí dụ kinh" đã để lại cho chúng ta một loạt những cấu trúc tiếng Việt cổ quý giá mà từ đó, chúng ta tham khảo thêm bài Việt ca do Lưu Hướng chép lại trong Thuyết Uyển để có thể phục chế lại một phần nào diện mạo của tiếng nói dân tộc ta cách đây mấy ngàn năm. Ðặc biệt, ngoài bản Việt ca còn bảo lưu được trên 15 trường hợp các cấu trúc ngữ học theo văn pháp tiếng Việt cổ. Toàn văn Lục độ tập kinh thể hiện một cách có hệ thống và toàn diện, liên tục nhất quán của ngữ pháp, cú pháp về ngữ vựng của tiếng Việt ví dụ như tiếng Tàu gọi Trời xanh là thanh thiên, mây trắng là bạch vân hoàn toàn khác với tiếng Việt. Lê Huy Yêm trong tác phẩm " Lê phổ chí tục biên" đã viết về lối chữ Khoa Ðẩu của dân tộc ta như sau: "Con Rồng cháu Tiên, chữ con chữ Rồng viết như thế này .. Bọn Nhâm Diên, Sĩ Nhiếp sang cai trị dân ta bắt đốt hết sách ta, nhà nào cất giữ thì bị giết hại. Ðây không phải chữ Nôm đâu, chữ Nôm về sau, cách đây khoảng năm trăm năm do Nguyễn Thuyên, tức Hàn Thuyên đặt ra bằng cách ghép chữ, còn chữ cổ Việt Nam đã có hàng mấy nghìn năm về trước. Nhà ta cất giữ được quyển sách này từ cụ Lê Huy Nghiêm. Các cháu phải biết là nước ta có chữ trước chữ Hán rất lâu .."(21) Năm 1932, nhà văn Lê Dư trên Tạp chí Nam Phong đã cho rằng dân tộc ta có chữ viết từ thời cổ. Thời Tự Ðức, Văn Ða cư sĩ đã viết : "Ta học chữ Tàu, thầy dạy hay học trò học, thế nào cũng pải lấy tiếng nước ta mà giải thích mới có thể hiểu, lại phải có một thứ chữ gì để làm phù hiệu, ghi cho dễ nhớ. Nhân vậy, Sĩ Vương (Sĩ Nhiếp) mới lựa những chữ Hán nào phát âm như tiếng ta, lấy những chữ ấy để làm phù hiệu, âm các tiếng chữ Tàu. Nhân vậy mới lấy một nửa hình chữ Hán khác hợp lại thành chữ hoặc dùng nghĩa, hoặc dùng ý hội, đem làm phù hiệu dịch thứ tiếng của ta. Vả chăng, Sĩ vương người đất Quảng Tín, quận Thương Ngô (trước thuộc lãnh thổ Bách Việt) thuộc nước Tàu bây giờ, mà bên ấy xưa cũng có một thứ chữ tục tự hệt như chữ Nôm của ta vậy …". Sách "An Nam kỷ lược" viết " Nước Việt Nam ta có lối chữ viết từ đời Ðinh, Lê trở về trước thì không trông thấy được nữa. Còn lối chữ từ thới Lý, đời Trần trở về sau thì bắt chước triều Tống". Trương Vĩnh Ký cũng cho rằng dân tộc ta đã có chữ viết trước thời Hán thuộc nhưng sau khi bị Hán tộc thống trị cấm sử dụng tiếng Việt cổ, đồng thời bắt dân ta phải học tiếng Hán nên sau hơn một ngàn năm nô lệ, tiếng Việt cổ mai một dần theo thời gian. TIẾNG VIỆT TRONG NGHIÊN CỨU THỰC TẾ Các nhà ngôn ngữ học ghi nhận ở vùng Nghệ Tĩnh ngôn ngữ địa phương vẫn còn giữ lại được nhiều từ tiếng Việt cổ như xưa họ nói "nác" nay là nước, "cơn" nay gọi là cây, "lả" là lửa, "ló" là lúa… Năm 1903,Vương Duy Trinh là Hiệp Biện Ðại học sĩ làm Tổng Ðốc Thanh Hóa đã sưu tập đựơc 35 mẫu tự của chữ cổ ở "Châu", đó là "Phụ Man mẫu tự tam thập ngũ tự" (Ba mươi lăm mẫu tự của chữ "Châu"). Vương Duy Trinh, tác giả Thanh Hoá Quan phong (thế kỷ XI) viết : " Ðây là chữ Châu tiếng Châu. Trên kia đã dịch làm tiếng chợ, một khúc ca có 12 đoạn, có tầng thứ, có nông sâu, có mở đóng, có hồi cố. Có khác gì 13 nước Phong-thi. Người làm bài ca là người có học. Vậy mới biết có văn tự thì phải có văn chương. Tỉnh Thanh Hóa một châu quan có lối chữ thập châu đó. Người ta thường nói rằng Việt Nam không có chữ, tôi nghĩ rằng không phải. Thập Châu vốn là đất nước ta. Trên Châu còn có chữ lẽ nào dưới chợ lại không? Lối chữ trên Châu chính là lối chữ nước ta đó. Nay xem chữ trên Châu với chữ Xiêm, chữ Lào … tuy rằng viết dọc viết ngang có khác dạng nhưng cũng là một lối chữ Loan Phụng Khoa Ðẩu. Ðời xưa Trung quốc từ người Lý Tư đời Tần trở về sau hay có người thay đổi làm lối khác, mà nước ta nội thuộc kể đã dư ngàn năm. Từ sau Sĩ vương dạy lấy chữ Trung quốc mà lối chữ nước ta bỏ hết. Thập châu bởi là nơi biên viễn cho nên lối chữ ấy còn ..". Nguyễn Ðổng Chi trong tác phẩm "Việt Nam cổ văn học sử" đã sưu tầm được 35 chữ cái của đồng bào Mường. Ðó là lối chữ ngoằn ngoèo như con nòng nọc đúng như Tiền Hán thư chép và cũng đúng như giấc mơ cũng chính là ưu tư của Vua Lê Thánh Tông đã gợi mở cho chúng ta. Mặt khác, vùng Tây Thanh Hoá, Nghệ Tĩnh địa bàn cư trú của Việt Thường, Văn Lang xưa cũ mà Tiền Hán thư ghi rõ là ngay từ thời Ðào Ðường khoảng thiên niên kỷ thứ II trước Dương lịch, người Việt cổ đã có một thứ chữ riêng biệt trông như con nòng nọc. Hình dạng chữ viết của đồng bào Mường gần giống như những hoa văn với những đường cong lạ trên mặt trống đồng Lũng cú, Hà Tuyên mới được phát hiện trong thập niên 70 với những hoa văn kỷ hà có những nét giống chữ Phạn cổ trên bia đá Võ Canh ở Khánh Hoà và chữ cổ khắc trên đá ở di chỉ Óc Eo (An Giang). Theo các nhà Tiền Sử học thì cách nay hơn 6 ngàn năm, một nhánh Malaynesian đã thiên di sang Ấn Ðộ định cư, một số lại quay trở lại Ðông Dương. Các công trình khảo cổ mới tìm thấy ở 2 bang Punjap và Sin ở Tây Bắc Ấn Ðộ một nền văn minh Harrapa và Mohenjo Daro. Ðó là nền văn minh tối cổ của MaLaynesian mà các nhà nhân chủng gọi là cư dân Dravidian. Ðó là nền văn minh sông Ấn. Nền văn minh này phát sinh rất sớm vào khoảng giữa thiên niên kỷ thứ III TDL và tàn lụi vào khoảng giữa thiên niên kỷ thứ II TDL vì sự xâm lấn của chủng Á Âu (Arian). Cư dân Dravidian tôn thờ mặt trời, thờ nữ thần Mẹ và nhiều thần có liên quan đến nông nghiệp và chăn nuôi. Cư dân Dravidian có tín ngưỡng phồn thực và đã sáng tạo ra lối chữ cổ Ấn Ðộ. Ðặc biệt trong sử thi Anh hùng ca Ramayana của Ân Ðộ cổ cũng có truyền thuyết về cội nguồn được xem như dị bản của huyền thoại Rồng Tiên với khái niệm Bách Việt mà Hoàng tử Rama là con trai trưởng giống như Hùng Quốc vương trong huyền thoại Rồng Tiên. Tất cả tự dạng trên có một điểm chung nhất là ký hiệu sổ ngang sổ uốn tròn như bộ di chuyển của con Nòng nọc. Tự dạng mang tính biểu trưng, lối chữ tượng ý chứ không tượng hình như Hán tộc.Theo Ðặng Ðức Siêu thì bên cạnh hình ngôi sao12 cánh, hoa văn vòng tròn có chấm, đường thẳng song song hướng tâm, đường gấp khúc hoặc nửa hình thoi, hình người hoá trang cách điệu, người ta còn thấy những đường nét uốn lượn tạo thành các hình dạng ngoằn ngoèo hoặc những vạch thẳng phối hợp với nhau thành những góc, những hình, những đường có tính chất kỷ hà. Phải chăng đó là dấu tích của lối chữ viết "ngoằn ngoèo như con nòng nọc" được khắc hoạ trên trống đồng Lũng cú Hà Tuyên? Rõ ràng là loại chữ này đã vượt qua giai đoạn chữ viết tranh vẽ như kiểu thư của bộ tộc XiTơ gửi cho vua Ba Tư. Nó cũng không phải là loại chữ tượng hình còn gắn bó nhiều với các yếu tố đồ hoạ như chữ cổ Ai Cập. Rất có thể, đó là thứ chữ bao gồm một hệ thống ký hiệu khá đơn giản. Mỗi ký hiệu là một đường nét ngắn, uốn lượn theo một thể thức nào đó. Số lượng ký hiệu hoạt động trong hệ thống chắc cũng có hạn, cho nên, khi viết nhiều ký hiệu đã được lập đi lập lại nhiều lần nên trong giống như đàn nòng nọc đang quấy bơi. Căn cứ vào sự mô tả ngoại hình đó, chúng ta có thể suy đoán rằng đó là một hệ thống văn tự được xây dựng trên nguyên tắc ghi âm. Những ký hiệu ghi âm trong hệ thống văn tự ấy được sử dụng độc lập không cần đến sự hiệu chính của các ký hiệu tượng hình ghi ý. Nếu những dấu tích trên trống đồng Lũng cú đúng là dấu tích văn tự thật và niên đại tuyệt đối của di vật này được xác định rõ thì đó sẽ là một đầu mối rất quan trọng giúp chúng ta lần tìm ra hình ảnh hệ thống chữ viết cổ sơ của dân tộc. Gần đây, giới khảo cổ mới khám phá ra một di tích tại thung lũng Mường Hoa, Hoàng Liên Sơn cách thị trấn Sapa khoảng 6 km. Ðó là những tảng đá trên bề mặt có nhiều nét chạm trổ. Chúng nằm rải rác xen giữa những thửa ruộng bậc thang của đồng bào Hmong-Dao. Di tích bãi đá cổ rộng khoảng 8 km2 được các nhà khảo cổ Pháp nghiên cứu từ năm 1925 gồm khoảng 159 hòn đá kích thước to nhỏ. Lớn nhất là hòn Bố dài 15 m, cao 6m trong đó đáng chú ý là những hình vẽ người, nhà sàn và các dấu hiệu có thể là hình thức phôi thai của chữ viết. Kế đến là đàn hổ đá và tấm bia có khắc chữ Việt cổ. Tại bản Pho thuộc thung lũng người ta tìm thấy những hòn đá có khắc chữ viết cổ, gần đó trên những thửa ruộng bậc thang thuộc 2 xã Lao Chẩy và Hầu Thào cũng tìm thấy những chữ viết cổ được khắc trên mặt đá. Theo nhận định của các nhà chuyên môn thì đây là chữ Việt cổ nhưng còn phải nghiên cứu giải mã những ký tự, văn tự này mới thoả đáp được vấn đề. Năm 1965, các nhà khảo cổ Trung Quốc đã tìm thấy một thanh kiếm cổ trong ngôi mộ cổ ở núi Vọng Sơn, Gia Lăng tỉnh Hồ Bắc thuộc địa bàn cư trú của Bách Việt xưa. Sau khi gột rửa lớp đất bám trên kiếm, các nhà khảo cổ vô cùng ngạc nhiên xen lẫn thán phục vì thanh kiếm bị chôn vùi dưới lòng đất gần 2.500 năm nhưng vẫn sáng loáng dưới ánh sáng mặt trời và toả ra một làn ánh sáng màu xanh. Dùng mũi kiếm rạch nhẹ lên một chồng giấy gồm 10 thếp manh, chồng giấy bị cắt đứt như khi ta dùng máy xén bây giờ. Ðặc biệt trên thân thanh bảo kiếm có 8 chữ nạm sợi bạc, khắc theo lối "Ðiểu triện" tức lối chữ Triện viết theo dạng hình chân chim, nội dung như sau:" Việt vương Câu Tiễn tự tác dụng kiếm" nghĩa là vua Việt Câu Tiễn tự đúc kiếm ..". Toàn thân và chuôi kiếm có cẩn ngọc Minh Châu màu Lam và lục tùng rất đẹp. Lối chữ " Ðiểu Triện" của người Việt cổ chính là lối chữ Thương Hiệt thời Ðế Hoàng. Công trình nghiên cứu trên được kiểm chứng bởi các công trình khảo cổ. Ðặc biệt gần đây giáo sư Hà văn Tấn, viện trưởng viện Khảo cổ CHXHCNVN đã tìm thấy một lưỡi cày Ðông Sơn, một qua đồng ở Thanh Hoá và 3 qua đồng trong 1 ngôi mộ của người nước Sở ở Hồ Nam Trung Quốc bây giờ. Trên những di vật này đều có những ký hiệu được xem là dấu vết của một hệ thống chữ viết có niên đại vào thời Chiến quốc. Giới nghiên cứu ghi nhận:"Loại chữ này có từng ký hiệu riêng rẽ, phần lớn không phải chép lại hình ảnh hiện thực nghĩa là không phải các ký hiệu hình vẽ mà là các ký hiệu qui ước. Mỗi ký hiệu có khả năng tương ứng với một từ. Như vậy, đây là một loại chữ rất tiến bộ trong lịch sử chữ viết. Nó đã trải qua giai đoạn chữ viết hình vẽ mà ý tứ trong cả văn bản được thể hiện bằng một bức vẽ như vậy có thể hệ thống chữ viết này đã ở giai đoạn chữ viết biểu ý". Theo cách phân loại của các nhà nghiên cứu chữ viết hiện nay, thì chữ viết hình vẽ được gọi là chữ viết ghi câu vì hình vẽ truyền đạt ý cả câu. Còn chữ viết mà trong đó mỗi ký hiệu tương ứng với một từ thì gọi là chữ viết ghi từ. Hệ thống chữ cổ mà chúng tôi vừa phát hiện có thể là chữ viết ghi từ (logogramme) hoàn toàn khác biệt với chữ Hán. Chữ viết trên lưỡi cày văn hoá Ðông Sơn thì hẳn là chữ viết của người Việt cổ. Các nhà nghiên cứu cũng vừa tìm thấy qua đồng ở vùng sông Mã Trung Việt và sông Dương Tử bên Trung Quốc bây giờ, trên lưỡi qua có lối chữ chỉ có thể là của người Lạc Việt, chủ nhân nền văn hoá Ðông Sơn. Như vậy, ngay giờ đây đã có thể nói rằng: " Có một hệ thống chữ viết cổ thời kỳ văn minh Ðông Sơn phát triển rực rỡ vào khoảng thế kỷ thứ IV TDL, trước khi người Hán vào xâm lược và đô hộ đất nước của người Việt cổ hơn một nghìn năm và đến năm 938 đã bị đánh đuổi về phương Bắc .."Này mời các bạn bảng hình chữ Việt cổ chép lại cho nó đúng hơn một chút... - nhóm I gồm những âm cao - nhóm II dành cho những âm tiết thấp - nhóm III là những dạng chữ ở đuôi các từ - những chỗ có dấu hỏi tôi chưa thấy có / chưa dám chắc chắn ... - cách sắp xếp và hình dáng khá giống chữ Devanagari (Thai,Khmer) - cách phát âm (gi=d=r, x=s) viết cũng theo sát âm Việt hiện đại nên thứ chữ này không thể có trước CN (thời các vua Hùng đó) Với những nghiên cứu gần đây về : Chữ Việt Cổ, Nguồn gốc Kinh Dịch, Nguồn gốc Luận thuyết Âm Dương Ngũ Hành ... xu thế tìm hiểu cội nguồn dân tộc được các nhà Học Giả tập trung nghiên cứu đã tạo nên một tâm thế mới, kích thích lòng tự hào dân tộc của chúng ta. Dân tộc Việt Nam có thể ngẩng cao đầu nếu một mai lịch sử ghi nhận những nghiên cứu của ngày hôm nay là chính xác - Chúng ta có thể giành lại bản quyền của nhiều phát kiến có tầm ảnh hưởng lớn. Chi tiết: http://i4vn.com.vn/forum/kham-pha/111390-chu-viet-co-khoa-dai-u-tui.html
-
Liệu những cư dân trên trái đất hiện nay có từng sảy ra trong quá khứ như cách giải thích của bạn? Có thể lắm chứ? Tôi đã từng đọc trong cuốn "101 câu chuyện bí ẩn"(tôi ko nhớ chính xác) trong đó có 1 câu chuyện kể về 1 vùng cư dân ở Nam Mỹ họ thường xuyên nhìn về chòm sao Bắc Đẩu và nói đó là quê hưong của họ và họ đến trái đất trên 1 phi thuyền (đại thể giống như thế vì lâu lắm rồi tôi không nhớ chính xác). Tuy nhiên điều trên cũng khó giải thích nền văn minh hiện tại vì với khoa học phát triển như vậy thì tại sao nền văn minh của chúng ta hiện nay vẫn còn thua họ? CHỉ có cách giải thích theo các tài liệu cổ về trận Đại hồng thủy và nền văn minh đó bj diẹt vong và nền văn minh của cúng ta hiện nay chỉ là hậu duệ của nền văn vinh đó Kính bạn!
-
CHào bạn LT. Tôi công nhận câu "Vật chất quyết định ý thức" là đúng ngay với khoa học hiện tại. Tuy nhiên ngay mệnh đề đó hình nhu cũng tự chia Vật chất và ý thức ra 2 phạm trù khác nhau."Hổ cũng không an thịt con" và trong cs hiện tại tôi thấy dù 1 kẻ có tàn ác thế nào thì với vợ, con, bố mẹ chúng vẫn còn nhân tính người (trừ vài trường hợp đặc biệt). Tuy nhiên đối với XH và đồng loại thì lại là chuyện khác chúng sẵn sàng hành động bằng mọi cách để đạt được mục đích. Tôi cũng không đồng tình với quan điểm Mê tín dị đoan cuồng tín, nhưng nếu "Chết chưa phải đã hết" thì mỗi con ngừoi trong xh này đều có thể sẽ khác và sống có tâm hơn. Tôi cũng đã chứng kiến rất nhiều các hiện tượng trong thế giới siêu hình từ áp vong, gọi hồn, đứng cách xa đọc thư...Vậy trong hiện tượng áp vong vào nguòi thân thì theo quan điểm "VC quyết định YT" sẽ được hiểu thế nào? và Những điều mà vong nói ra đúng nhu thực tại thì liệu YT có lý trí như con người hay ko? Tôi không muốn bàn về hai chữ Nhân Đức ở đây. Điều này để Xh đánh giá và mỗi chúng ta tụ hiểu và hãy sống theo những gì mình biết.
-
Vật chất quyết định Ý thức Chính điều này đã làm băng hoại đạo đức XH, quan điểm "chết là hết" giống như kiểu thằng cùn, thằng cùng đường không còn gì để mất nên sẵn sàng "làm tất cả" để có được mọi thứ trong cuộc sống. Theo tôi câu nói trên chúng ta phải xem xét "ý thức" thuộc phạm trù hữu hình (VC) hay siêu hình (TL) đã, mà cái này thì khoa học đang pó tay.
-
Luân hồi và nghiệp quả không phải trong 1 đời bạn à.
-
"Đời cha an mặn, đời con khát nước" Có 1 hiện tượng ứng nghiệm rất nhanh. Những ai làm nghề giết mổ thì hay yểu thọ và gia đình thế hệ sau thường tan nát và hay có người chết bất đắc kỳ tử.
-
Mua Dcom 3G và máy sách tay là ok! Viettel nhé
-
Xem qua vài phút về lời bình luận và diễn giải của GS. Nguyễn Tài Thu về 2 từ "Châm cứu" tôi mới hiểu được đôi chút về xuất xứ của 2 từ này. Nam thì dùng châm, còn bắc thì cứu-Xông. Do kiến thức có hạn trong các lĩnh vực của cổ sử, lý học....TĐN chỉ đưa ra chủ đề này đề các cao nhân, ACE và những người quan tâm về nguồn gốc Bách Việt có tư liệu cùng chia sẻ và bàn luận để làm sáng tỏ hơn chân lý! Chủ để này không nói đến các phương pháp chi tiết trong Đông y, chỉ nói đến cái Kim Châm trong đông y! Từ "Châm cứu" được cấu thành từ 2 phương pháp: Người phương nam dùng Kim Châm, Người phương Bắc dùng "Cứu-Xông". Cái này đã được GS xác định và khẳng định. Theo như sử sách và được cồng đồng thế giới công nhận thì cha đẻ và xuất xứ của Địa bàn, La Bàn...là của người Trung Quốc. So sánh các từ ngữ và "Nam thì dùng kim châm" và các chi tiết trong Địa Bàn, La Bàn tôi thấy có gì đó tương đồng? Xin mời ACE cùng thảo luận!
-
Đúng vậy! Bọn pha học bao giờ cũng dùng cái hiểu biết nông cạn trong vài năm ngổi dứoi mái trường "Vô thần" để giải thích cho những điều Siêu Việt mà đến nay khoa học hiện đại vẫn chưa thể nào khám phá được. Tiện đây tôi xin kể câu chuyện tìm mộ của gđ tôi. Trong các làng quê VN chuyện đi xem bói là chuyện bình thường và cũng từ đây gđ tôi đã tìm được ngôi mộ cụ mà đời tôi phải gọi là cụ Ngũ Đại. Bố tôi là 1 đảng viên CS nên đôi khi cũng bị chính sách vô thần che khuất.Tuy nhiên trong họ hàng đã có nhiều người vì có chuyện lên đã tìm đến những nhà bói toán và hầu như ai đi xem xong về đều nói mất ngôi mộ cụ Ngũ Đại, tứ Đại theo ngôi bậc của người đó. Cuối cùng bố tôi là trưởng tộc cũng không thể ngồi nghe con cháu nói, cụ đích thân đi xem. Sau khi chọn ngày giờ xuất hành đến xếp hàng gặp thầy. Đến lượt thầy phán ngay đúng như những người khác đi xem, kể cả những người xem chỗ khác. Khi ra về thày có vẽ cho 1 cái sơ đồ lấy nhà tôi làm điểm xuất phát. Về nhà nhìn sơ đồ thì ai cũng hiểu con sông lớn phai đi qua là con sông Hồng. Tuy nhiên thày nói rõ là phải lần thứ 3 mới tìm thấy, người chỉ khu vực có mộ là 1 người chăn Trâu và người đào thấy sinh năm 1976 (cậu em họ tôi). Kết quả đúng như những gì thầy nói, 2 lần đầu đi về trắng tay. Bỗng nhiên lần thứ 3 đang tìm kiếm thì có 1 cụ ông 75 tuổi tiến lại gần và hỏi "Các vị tìm gì", chúng tôi nói "chúng con tìm mộ cụ ạ". Ông cụ nói ngay "hồi còn nhỏ gần 10 tuổi tôi hay nghịc ngợm và thả Trâu khu này thì thấy có cái mộ to lắm nằm ở góc chùa kia , nhưng lâu rồi dân làm ruộng, nhà chùa trồng cấy san phẳng lên ko còn nhìn thấy nấm mộ nữa. Cậu em sinh năm 1976 là người nhanh nhẹn cầm cây Thuốn chạy 1 mạch lại góc vườn chùa xâm khoảng 10 thuốn thì gặp Quách. Điều lạ hơn là khi đào lên thì đúng như thầy mô tả, ngay cái chi tiết có 1 góc tấm đậy bị vỡ theo vòng tròn cũng đúng góc và hướng luôn. Thực sự đây là 1 vấn đề khó có thể giải thích! Trong đời chúng ta cũng đã từng đi gọi hồn hoặc chí ít cũng chứng kiến. Tuy nhiên khi hồn về nhập vào người nhà thì chúng ta không thể dùng cái hiểu biết của những bọn "pha học" để giải thích được. Khi người nhà bị hồn nhập thì sau đó không thể nhớ được gì và cũng không hiểu đc mình bị sao chứ chưa nói đến hiểu biết chuyện đó. Nếu chúng ta lấy bất cứ lý do hay 1 phương pháp khoa học nào để giải thích thì tôi cho rằng chúng ta đang áp đặt theo cách hiểu của chúng ta. Vấn đề là khi bị hồn nhập ngừoi đó tự nói ra những điều trong quá khứ và hiện tại rất chi tiết và chính xác mà đôi khi chúng ta được nghe những người cao tuổi kể lại (Người bị nhập có khi chưa dược nghe kể). Nếu linh hồn chỉ tồn tại với 1 dạng vật chất bình thường thì liệu có nói được ra như vậy han không? Vậy "linh hồn" có ý thức và lý trí hay không? Tôi dám chắc 1 điều nếu có 1 cuộc thách đố với bọn "Pha học" tôi tin họ sẽ không làm được như từng phát biểu và họ sẽ là những kẻ chạy đầu tiên, tôi từng thách đố rất nhiều những kẻ như vậy bằng cách " Anh vào cái miếu kia-Dân gian nói rất linh thiêng" đem vật gì trong đó về để vào nhà anh, cho trong két, tôi giữ chìa khóa và dán niêm phong. Nếu anh làm được thì tôi với anh làm văn bản và hợp đồng thực hiện trong 5 năm. Trời đất! Nghe đến đây thì ai cũng có thể hiểu, nó chạy mất dép luôn.
-
XH này đúng là thế. Tôi cũng gặp nhiều tình huống tương tự, lòng tự trọng và những người đó họ luôn xác định chỉ lấy đúng thành quả của họ làm ra, không hơn, không kém. Tuy nhiên trong xh có những kẻ ra tay vơ vét đến những xu dính túi cuối cùng của ngay nhưng con người bần cùng nhất. "ác báo ác giả", câu đúc kết này sẽ không sai tuy nhiên có khi nó khôg ứng nghiệm ngay trong 1 hoặc 2 thế hệ mà có hậu quả lâu dài về sau. Chứng kiến những gia đình giàu có, quyền chức, tham ô... nhưng con cái nghiện ngập...gia đình đang tan nát mà thấy "Ông trời có mắt". Tuy họ đã nhận ra được nhân quả nhưng đã quá muộn. Ông cha ta có câu "Con hơn cha là nhà có phúc", duy trì được ý nghĩa câu nói này và thực hiện nó tôi nghĩ xh sẽ trở lên tốt đẹp.
-
Chào anh TS, Laido cùng toàn thể anh chị em! Cũng như Rubi theo tôi anh lên dùng Phông chữ khác cho nó gọn gàng và đẹp hơn, các chữ và kí tự lên nhỏ hơn diện tích của ô chia. 4 góc lên để đủ 4 hình tượng của anh TS và www.lyhocdongphuong.org.vn, khi đó chúng ta quay chiều nào cũng có cảm giác thấy thuận. Các vòng tròn và đoạn thẳng ngăn cách theo tôi anh cho nét đậm hơn chút. Về màu sắc có thể sử dụng 5 màu của ngũ hành, tôi thấy phấn ngoài toàn bộ 1 màu đỏ khi in ra nó sẽ quá nổi lên làm mất trọng tâm của La Kinh phần bên trong. Đây là sản phẩm đầu tay của PTLV lên chúng ta cũng phải làm cho có ý nghĩa. Xin trân trọng cảm ơn!
-
Chào cả nhà! Thật đáng buồn cho đất Việt, vâng bọn Lá Cải bao giờ cũng vậy. Lúc thì tung hô, lúc thì chọc gậy bánh xe, âu cũng là "Thằng Mõ". họ được đào tạo để đi copy chứ ko phải để sáng tạo ra mọi thứ, hãy thông cảm cho đầu óc tăm tối của họ! Nói về nhà ngoại cảm PTBH thì đất nước ta không phải có nhiều, từ cõi chết trở về rồi trở thành nhà ngoại cảm có những khả năng đặc dị nếu loại bỏ nhưng gì khoa học chưa tiếp cận và giải thích được thì theo cách giải thích dân gian đó là "trời cho ăn lộc, thánh nhập, ...". Tôi có quen 1 chị cũng có khả năng ngoại cảm rất cao, tuy nhiên từ năm 19 tuổi không ra giúp đời và từ đó gia đình lục đục, làm ăn lụi bại, cuối cùng phá sản. Sau khi gặp 1 cao tăng chi đc thầy phán "nếu con không giúp đời cứu nhân độ thế thì con không bao giờ ngóc đầu lên được". Tư đó chị ta bắt đầu tu luyện và giúp đỡ chúng sinh, hiện nay cs cũng khá giả, gia đình hp. Tôi cũng đã từng chứng kiến chi ấy tìm mộ và để quả chứng trên đầu đũa chứ không phải trên cái mặt gương và vô cùng kinh ngạc. Nói chung những người có khả năng ngoại cảm như PTBH theo dân gian thì đó vừa là trời cho ăn lộc nhưng cũng đồng nghĩa với trách nhiệm thánh ứng để cứu nhân độ thế. Vì thế sự lựa chọn tiếp tục hay nghỉ công việc không phải là sự lựa chọn của mỗi cá nhân! Xin cảm ơn!
-
Nhân danh khoa học nhưng giải thích phi khoa học. Chúng ta thừa biết 1 vật khi dựng đứng luôn có xu hướng về trạng thái mất cân bằng với tiết diện tiếp xúc điểm. Sự so sánh gữa người đi trên dây và quả Trứng là sự so sánh quá khập khiễng không hiểu biết. Vì còn người luôn biết điều khiển trạng thái của trọng lực để được cân bằng, còn quả trứng thì không. "nước chảy chỗ trũng" đó là xu hướng vận động của trọng lực, do đó chất lỏng trong quả trứng không thể chạy ngược để tự cân bằng và hơn nữa nó được giới hạn bởi 1 cái khung là vỏ quả trứng. Xin đừng nhân danh khoa học nữa các vị, càng nói thì càng thể hiện sự ấu trĩ, bảo thủ, trì trệ, ngu dốt... (Tôi có anh bạn luôn vỗ ngực là "Tiến Sỹ" kinh tế học tốt nghiệp tại Liên Xô nhưng qua cộng tác làm việc tôi thấy còn dốt hơn 1 con buôn ở chợ Đồng Xuân, thế nhưng làm đến chức Vụ trưởng. Tuy nhiên ông ta lại tin vào việc có con rùa nổi lên đưa cho chị bạn ông ấy 1 thanh kiếm và 1 cái ấn tại đền Ngọc Sơn vao năm 2009).
-
Hiện nay các nhà Khoa học, các nhà sử học đã có những cái nhìn khác chiều trong việc luận giải cổ sử nước nhà, điều mà trước đây cứ vớ được là chụp mũ cho khẳng định của mình và coi đó là chân lý. Cách tiếp cận mới này khác với cách suy luận những điểm không phù hợp và mâu thuẫn với thực tế hay là kiểu "sinh con rồi mới sinh cha, sinh cháu trong nhà rồi mới sinh ông". Đây hoàn toàn là cách ngoài các chứng lý, ngoài các tài liệu khảo cổ ...là tương đối thuyết phục. Tuy nhiên truyền thuyết hay huyền sử theo tôi cũng có nguyên nhân của nó (không có lửa làm sao có khói), có thể do bị đô hộ và cách áp đặt của các chế độ thực dân mà ông cha chúng ta phải đưa những giá trị văn hoá, văn minh và trong dân gian bằng các câu chuyện truyền thuyết, bằng huyền sử. Cách này có nhưng ưu điểm dễ truyền miệng, dễ đi vào lòng người, dễ lưu giữ, trránh được sự dòm ngó của các thế lực thù địch. Hy vọng rằng các nhà khoa học trong nước, các nhà sử học, các nhà khoa học thé giới hãy xem lại các tiếp cận cổ sử trước đây và tôi cũng hy vọng với cách tiếp cận này thì nền Văn hiến, văn minh Bách Việt hoàn toàn được khôi phục. Tộc bách việt vô cùng rộng lớn bao trùm nhiều nước, với nền văn hiến, văn minh...phát triển vo cùng rực rỡ, khẳng định được điều này sẽ khơi tình đoàn kết, tính thống nhất, tính hợp tác...như nhiều dân tộc khác trên thế giới giúp cho nước nhà nhiều điều bổ ích. Chính trị - Xã hội (nguồn: http://www.thanhnien.com.vn/News/Pages/201...028162123.aspx) Thử lật lại “vụ án” Trần Thủ Độ giết hết tôn thất nhà Lý 29/10/2010 8:21 Lăng Thái sư Trần Thủ Độ (Thái Bình) - Ảnh: T.L (TNTS) Nhà Lý và nhà Trần đều có công lớn đối với lịch sử dân tộc. Tuy nhiên mỗi lần đọc lại sử sách lại thấy “cộm” lên câu chuyện Trần Thủ Độ “giết hết” tôn thất nhà Lý. Hãy thử lật lại “vụ án” này. Đúng là Đại Việt sử ký toàn thư có ghi: “(Năm 1226)… Mùa thu, tháng 8, ngày mồng 10, Trần Thủ Độ giết Lý Huệ Tông ở chùa Chân Giáo. Trước đó, Thượng hoàng nhà Lý có lần ra chơi chợ Đông, dân chúng tranh nhau chạy đến xem, có người thương khóc. Thủ Độ sợ lòng người nhớ vua cũ, sinh biến loạn, cho dời đến ở chùa Chân Giáo; bề ngoài giả vờ là để phụng sự, nhưng bên trong thực ra là để dễ bề giữ chặt. Có lần Thủ Độ qua trước cửa chùa, thấy Huệ Tông ngồi xổm nhổ cỏ, Thủ Độ nói: “Nhổ cỏ thì phải nhổ cả rễ sâu”. Huệ Tông đứng dậy, phủi tay nói: “Điều ngươi nói, ta hiểu rồi”. Đến nơi, sai người bày biện hương hoa đến bảo (Huệ Tông): “Thượng phụ sai thần đến mời”. Thượng hoàng nhà Lý nói: “Ta tụng kinh xong sẽ tự tử”. Nói rồi vào buồng ngủ khấn rằng: “Thiên hạ nhà ta đã về tay ngươi, ngươi lại còn giết ta, ngày nay ta chết, đến khi khác con cháu ngươi cũng sẽ bị như thế”. Bèn thắt cổ tự tử ở vườn sau chùa. Thủ Độ ra lệnh cho các quan đến khóc, khoét tường thành phía nam làm cửa (người bấy giờ gọi là “cửa khoét”), đưa linh cữu ra phường Yên Hoa để thiêu, chứa xương vào tháp chùa Bảo Quang, tôn miếu hiệu là Huệ Tông…”. Đoạn sử trên đây có nhiều điều cần bàn. Thứ nhất, từ hai câu đối đáp giữa Trần Thủ Độ và Lý Huệ Tông, đến Lý Huệ Tông tự tử, để nói Trần Thủ Độ giết Lý Huệ Tông là không thỏa đáng. Thứ hai, lời khấn của Lý Huệ Tông trong phòng ngủ nếu có thì chỉ có Lý Huệ Tông biết và chắc chắn không đem ra kể lại, thế thì tại sao có người biết mà ghi ? Hơn nữa, Trần Thái Tông là con rể của mình, con cháu họ Trần sau này cũng chính là con cháu của Lý Huệ Tông, sao ông nỡ có lời khấn như vậy được. Cả hai câu đối đáp ở trên cũng có khả năng là sự đồn đại, không thể có xuất xứ từ một tài liệu tin cậy. Cần biết, do bối cảnh Đại Việt sử ký toàn thư được biên soạn vào thời Lê sau khi nhà Minh tiêu hủy gần hết sách vở tài liệu của các đời trước, vua Lê Thánh Tông đã cho phép sử quan tập hợp tất cả truyền thuyết, dã sử và các câu chuyện kể trong dân gian vào sử sách, nên có khả năng những đoạn như thế này được lấy từ những câu chuyện hư cấu. Hổ đá tại lăng Thái sư Trần Thủ Độ (Thái Bình) - Ảnh: T.L Đại Việt sử ký toàn thư ghi tiếp: “(Năm1232)… Trần Thủ Độ giết hết tôn thất nhà Lý. Khi ấy Thủ Độ chuyên chính lâu ngày, đã giết Huệ Tông, tôn thất nhà Lý đều bùi ngùi thất vọng. Mùa đông năm ấy, nhân người họ Lý làm lễ tế các vua Lý ở Thái Đường, Hoa Lâm, Thủ Độ ngầm đào hố sâu, làm nhà lên trên, đợi khi mọi người uống rượu say, giật máy chôn sống hết”. Tiếp theo đoạn này, Đại Việt sử ký toàn thư mở ngoặc: “Xét thời Trần Anh Tông còn có người họ Lý làm tướng, hơn nữa Phan Phu Tiên không ghi lại, việc này chưa chắc đã có thực, hãy tạm chép vào đây”. Ngày nay một “nghi án” mà không có tài liệu, không có “nhân chứng vật chứng” thì không thể kết tội, không kết tội được thì phải tuyên bố đương sự vô tội. Sử sách cũng vậy thôi, đã ghi một điều thì phải có nguồn dẫn tin cậy. Vấn đề là lâu nay khi giáo dục truyền bá lịch sử người ta thường không lưu ý đến câu mở ngoặc này của Ngô Sỹ Liên. Khi nghiên cứu lịch sử, nhiều nhà nghiên cứu cũng không để ý đến bối cảnh có chỉ dụ của Lê Thánh Tông. Để làm rõ hơn mối quan hệ kế thừa giữa nhà Trần và nhà Lý, có thể dẫn thêm một nguồn khác. Đó là An Nam chí lược của Lê Tắc. Dù Lê Tắc là người “có vấn đề”, nhưng An Nam chí lược chứa đựng những sử liệu hết sức quý giá, là cuốn sử cổ nhất của nước ta viết từ thời nhà Trần đến nay còn truyền bản. Đề cập đến Lý Huệ Tông và Trần Thừa (cha Trần Thái Tông), An Nam chí lược viết: “(Trần) Thừa có công đánh giặc, xin cho con kết hôn với công chúa Chiêu Thánh. Vương (Lý Huệ Tông) bằng lòng”. Đến đoạn nói về Lý Chiêu Hoàng, An Nam chí lược viết: “Lên ngôi được một năm, năm Canh Dần (1230) trao quốc chính cho chồng là Trần Nhật Cảnh”. Và An Nam chí lược có một đoạn rất quan trọng: “Lúc nhà Lý truyền ngôi được ba đời, Vương Võ Xứng nhà Tống làm sách Đông Đô sử lược Giao Chỉ phụ lục có đoạn : (…) Nay họ Lý truyền ngôi tám đời 220 năm. Huệ Tông không con, truyền nước cho rể. Đến nay họ Lý vẫn được tế tự luôn luôn, kể sự may thì may biết bao nhiêu”. Dẫn như vậy để thấy nhà Trần đã kế thừa ngôi nhà Lý một cách danh chính ngôn thuận, không có lý do để “nhổ cỏ tận gốc”. Trần Thủ Độ, Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông… đều là những anh hùng có công với nước, đặc biệt có có công trạng lẫy lừng trong cuộc kháng chiến chống đội quân xâm lược mạnh nhất hành tinh lúc bấy giờ là quân Nguyên - Mông. Không thể vì những đoạn sử thiếu căn cứ mà làm tổn hại đến uy danh của tiền nhân. Đối với Trần Thủ Độ, ông một tay quán xuyến cơ nghiệp nhà Trần trong buổi đầu, dù quyền hành “nghiêng nước” nhưng ông quang minh lỗi lạc, chí công vô tư, dù cho hết lòng bảo vệ nhà Trần ông cũng không thể dùng thủ đoạn lừa dối để giết người bừa bãi như vậy được. Vả lại, Trần Thái Tông là con rể của Lý Huệ Tông và Trần Thánh Tông chính là cháu ngoại của Lý Huệ Tông. Nhà Trần, kể từ Trần Thánh Tông có một nửa dòng máu của họ Lý. Cho nên nói “Họ Lý vẫn được tế tự luôn luôn” là có cơ sở. Hoàng Hải Vân
-
Bọn họ nhố nhăng làm trò đấy, đừng tin. Quảng cáo thôi.
-
Vì sao xác 2 người vụ nổ pháo hoa chưa ai nhận? (Nguồn: http://laodong.com.vn/Tin-Tuc/Vi-sao-xac-2...-ai-nhan/18050) Thứ Ba, 26.10.2010 | 10:22 (GMT + 7) Theo lãnh đạo Công ty Đầu tư Thương mại và Dịch vụ Quốc tế (Interserco), sở dĩ xác 2 nạn nhân người Đức chưa sớm được chuyển đi do còn vướng một số thủ tục pháp lý, trong đó có thủ tục về bảo hiểm. Trước đó, ngày 6/10, một vụ cháy nổ container pháo hoa nghệ thuật đã xảy ra tại khu đất phía sau khán đài C Sân vận động quốc gia Mỹ Đình, Hà Nội khiến 4 người thiệt mạng. Hai trong số 4 xác nạn nhân cho đến nay vẫn được giữ tại kho lạnh của bệnh viện Thanh Nhàn. Được biết, ngay trong ngày xảy ra sự cố, cơ quan chức năng cùng Interserco và các bên liên quan xem xét, cùng lập biên bản xác định có 4 nạn nhân bị thiệt mạng trong vụ nổ này. Trong số này, có 2 người quốc tịch Đức (xác đang bảo quản tại bệnh viện Thanh Nhàn), một phụ nữ Singapore (vợ ông tổng giám đốc tập đoàn GLORIOUS, Singapore) và một quân nhân Việt Nam, người Phú Thọ. Sau khi xác định danh tính, xác nạn nhân người Việt đã được đưa về Phú Thọ. Xác nạn nhân quốc tịch Singapore sau khi được đưa trở lại sân Mỹ Đình làm lễ nhập linh hồn cũng đã được làm lễ truy điệu, hỏa táng ngay tại Hà Nội. Xác 2 người Đức thì một trong tình trạng nguyên vẹn, một trong tình trạng không còn nguyên vẹn cũng đã được giám định ADN, có người nhận nhưng chưa chuyển đi mà tạm thời vẫn quàn tại bệnh viện Thanh Nhàn từ đó đến nay. Về phía bệnh viện Thanh Nhàn, việc lưu giữ, bảo quản xác các nạn nhân trong một thời gian dài cũng khiến lãnh đạo bệnh viện này “khó xử” và khó khăn cho công tác bảo quản thi hài, chi phí bảo quản một thi hài/ngày của bệnh viện này là 280.000 đồng. Tuy nhiên, vị đại diện Interserco cũng cho biết, phía Đức đã cam kết chậm nhất là 2 tuần và lâu nhất là 20 ngày kể từ ngày 22/10 sẽ đến nhận, chuyển thi thể 2 nạn nhân người Đức về nước.
-
Trân trọng cảm ơn! Xin thống báo lại và TĐN cũng rất buồn. Trưa hôm sau TĐN đưa xe để đón cụ xuống chùa nhưng khi đó cụ trả lời là không đi nữa. Sau khi tìm hiểu cụ nói "sáng ngày có mấy bác qua chơi bảo tôi đừn đi vì đã có mấy cụ từng vào chùa (ko rõ chùa nào) nhưng 3 năm lại quay ra". Mấy kẻ độc mồm độc miệng đó còn nói Mỗi ngày cụ thu nhập được mấy chục ngàn thì đi làm gì. Ko hiểu cụ nghĩ gì về mấy suy nghĩ nông cạn đó của bọn họ? Họ có nghĩ được lúc mưa gió, giá lạnh và lúc ốm đau ko? Tiền ko fải là tất cả, trụ trì chùa còn nói "vào đây có cả 1 phòng đông y chữa trị cho cụ. Đến nay là ngày thứ 3 TĐN thuyết phục nhưng cụ vẫn chưa đồng ý. Rất buồn nhưng ko biết thế nào. ACE nào ở HN cố gắng ghé qua, mỗi người nói 1 câu chắc cụ siêu lòng. TĐN vẫn chờ cụ đồng ý để giúp cụ 1 nơi nương tựa lúc yếu đau, tuổi cao. Xin chân thành các bạn đã chia sẻ!
-
hix hix, thèm quá!
-
Nhìn cảnh ngoảnh mặt của đất nước với dự án Bô-Xít tây nguyên mà đau lòng vô cùng. Vận mệnh đất nước sẽ đi về đâu trong những năm tới và trong tương lai.
-
Như tin đã đưa mấy ngày nay TĐN đã đi tìm hiểu và có thông tin hoàn cảnh của cụ đến một số Chùa và 1 số trụ trì mà TĐN quen biết. Cuối cùng Chư phật và Bồ tát đã hiển linh, qua điên thoại trao đổi với trụ trì chùa Bát Phúc (tại huyện Đan Phượng, Hà Nội) về hoàn cảnh của cụ với tấm lòng thành kính sau khi nghe câu chuyện thì TĐN nhận được ngay câu trả lời "Con đưa cụ xuống ngay, nhà chùa sẵn sàng đón tiếp và chăm sóc cụ và không quan trọng cụ còn khoẻ hay ốm đau gì" . Lòng thấy hoan hỉ vô cùng, một cảm giác thanh thản đến tột cùng lan toả khắp cơ thể. Chiều mai TĐN sẽ đưa cụ xuống chùa, cuối cùng cụ cũng đã tim được 1 nơi mà ở đó với tình thương bao la của Chư phật và các để tử cụ thấy ấm lòng hơn trong 1 xh đầy tai ương này. Con xin thành tâm bái tam bái đến 10 phương chư phật, Bồ tát và thần thánh đất Việt. Mọi công đức con xin hồi hướng đến 10 phương chư phật, bồ tát, trụ trì, tăng ni phật tử chùa Bát Giác. Mọi tấm lòng từ bi và hảo tâm của của bách tinh trăm họ xin hãy liên hệ với nhà chùa.
-
Người Việt thông minh rất đúng. Tôi nói vậy không phải để tự ca ngợi người dân Việt. Chúng ta hãy thử đọc nhưng thông tin cộng đồng ngươi Việt khắp nam châu sẽ rõ. Trong số đó có các bạn học sinh, sinh viên đã góp phần vào làm rạng rỡ Việt Nam. Tôi được biết có rất nhiều người nước ngoài làm trong những tổ chức đa quốc gia, 1 người của LHQ cũng phát biểu rằng "1 người việt làm việc bằng 8 người nước ngoài" và đó là sự thật. Tất cả những gì tồn tại trên thế giới này mà chúng ta nhìn thấy có giá trị thực sự rất nhỏ so với những gì còn ẩn chứa ở đâu đó (ngầm). Mà cái lớn lao này lại hầu hết do những ngừoi mang dòng máu Bách Việt tạo ra (xin không tiết lộ). http://www.vietinfo.eu/cd-tai-duc/lich-su-...viet-o-duc.html Lịch sử cộng đồng người Việt ở Đức 25-02-2010 17:37 Lịch sử cộng đồng người Việt ở Đức Quan hệ giữa hai nước: Năm 2010 sắp tới sẽ đánh dấu 35 năm thành lập quan hệ ngoại giao giữa 2 nhà nước BRD và Việt Nam. Mối quan hệ này ngày một chặt chẽ; chỉ trong năm qua đã có 2 cuộc viếng thăm cấp cao, cuộc viếng thăm đầu tiên của Bộ trưởng ngoại giao Đức tới Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh từ ngày 28.2 – 1.3.08, tiếp theo là cuộc viếng thăm Berlin, Frankfurt/Main, Wiesbaden của Thủ tướng Việt Nam, từ ngày 6.3 – 10.3.08. Nhiều hiệp định song phương đã được 2 bên ký kết, như Đức hỗ trợ Việt Nam đào tạo để từng bước xây dựng một hệ thống tòa án độc lập, lập Trung tâm Đức và xây dựng trường học quốc tế Đức tại thành phố Hồ Chí Minh, tổ chức Năm nước Đức tại Việt Nam và Năm Việt Nam tại Đức trong năm 2010. Tháng 9 năm ngoái, tại thành phố Hồ Chí Minh đã khai trương trường Đại học Tổng hợp Đức Việt, do tiểu bang Hessen khởi xướng. Bước sang năm 2009, ngày 26.2, Thứ trưởng Bộ Hợp tác kinh tế và phát triển Liên bang cùng Bộ trưởng Xây dựng Việt Nam đã mở hội nghị 2 ngày tại Đức về đề tài xây dựng thành phố. - Hợp tác phát triển: Tính từ năm 1990 tới nay, Đức đã viện trợ phát triển cho Việt Nam tổng cộng 900 triệu Euro, chưa kể phần đóng góp của Đức trong các tổ chức quốc tế như Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng phát triển châu Á, Liên hiệp quốc, hay tổ chức Eu. Trong niên khóa tài chính 2008-2009, Đức bảo đảm viện trợ phát triển cho Việt Nam 117 triệu Euro, 22 triệu Euro được dùng vào mục đích hợp tác kỹ thuật và 95 triệu Euro cho mục đích tài chính, nhằm vào các lĩnh vực cụ thể như: phát triển bền vững kinh tế, bao gồm cả đào tạo nghề; bảo vệ môi trường, bảo vệ và sử dụng hiệu quả lâu dài các nguồn lợi tự nhiên, đặc biệt trong cấp thoát nước; cải cách chăm sóc sức khỏe, nhất là nông thôn. - Quan hệ kinh tế: Đức đã trở thành bạn hàng lớn nhất của Việt Nam trong khối EU. Kim ngạch ngoại thương giữa 2 nước năm 2008 lên tới 3,4 tỷ Euro. Sản phẩm Việt Nam xuất khẩu sang Đức chủ yếu giày dép quần áo, cà phê và hạt tiêu; hai mặt hàng sau Đức nhập đứng hàng thứ 2 trên thế giới. Doanh nghiệp Đức tìm thấy cơ hội làm ăn với Việt Nam ở mục tiêu của Việt Nam tới năm 2010 trở thành nước công nghiệp. Việt Nam sẽ có như cầu lớn về máy móc, trang thiết bị, công nghệ, nhất là đối với các sản phẩm thương hiệu nổi tiếng thế giới của Đức. Luật cải cách về đầu tư và doanh nghiệp của Đức ban hành tháng 6.2006 cùng với việc gia nhập WTO của Việt Nam đầu năm 2007 tạo điều kiện thuận lợi pháp lý cho các doanh nghiệp 2 nước làm ăn. Đức đã đặt văn phòng ngoại thương tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, mở bộ phận thông tin của Cơ quan Ngoại thương Liên bang tại Hà Nội. Từ năm 1997,hàng năm 2 nước đều thay nhau lần lượt tổ chức các diễn đàn chính sách kinh tế hợp tác 2 nước, lần gần nhất ngày 6.3.2008 tại Đức. - Quan hệ văn hóa: Hiệp định văn hóa được 2 nước ký kết năm 1990, và được phát triển tích cực nhờ lực lượng cộng đồng đông đảo chừng 100.000 người Việt ở Đức. Cơ quan cấp học bổng du học DAAD, Quỹ Humbolt-Stiftung, Quỹ nghiên cứu khoa học Đức, tài trợ ngày càng nhiều cho các chương trình trao đổi khoa học, và hợp tác. Vào thời điểm năm 2009, có tới 3.300 du học sinh tại các trường đại học Đức. Trung tâm Đức Việt (VDZ) đã hoạt động từ tháng 12.1999, tại trường Đại học Bách khoa Hà Nội. Bộ Đào tạo và khoa học Liên bang (BMBF) hợp tác chặt chẽ với Bộ khoa học của Việt Nam, tổ chức trao đổi thường xuyên cả về chuyên môn lẫn chính sách, trên các lĩnh vực đào tạo, công nghệ sinh học, nghiên cứu bảo vệ nguồn nước và môi trường, quản lý khoa học. Sau nhiều năm đàm phán, một hiệp định về trao đỏi văn hóa giữa 2 nhà nước đã được ký kết tháng 1.1997. Nhờ đó, tháng 12.1997, Học viện Goethe-Institut đã mở cửa tại Hà Nội, cuối năm 2003 cùng với DAAD mở thêm chi nhánh tại thành phố Hồ Chí Minh, hình thành nên một trung tâm giảng dạy tiếng Đức và tư vấn đào tạo, khoa học. Quỹ Friedrich Ebert-Stiftung thuộc lĩnh vực chính trị được mở văn phòng tại Hà Nội vào tháng 11.1990, tiếp theo quỹ Konrad Adenauer-Stiftung vào năm 1993, rồi quỹ Hanns Seidel-Stiftung vào tháng 2.2009, cuối cùng là quỹ Rosa Luxemburg-Stiftung năm 2009. Với sáng kiến của Bộ trưởng Ngoại giao Đức Steinmeier: Trường học là đối tác tương lai, ở cả hai nước Đức và Việt Nam sẽ mở rộng chương trình dạy tiếng Đức và tiếng Việt cho những trường kết nghĩa. An ninh người Việt: Lịch sử an ninnh người Việt ở Đức được trình bày cặn kẽ trong một công trình nghiên cứu, trích dịch nguyên văn dưới đây, của Olaf Beuchling – giảng dạy chuyên ngành Khoa học Giáo dục so sánh chuẩn quốc tế và đa dạng văn hóa (interkulturell-und international-vergleichende Bildungswissenschaft) tại trường Đại học tổng hợp (ĐHTH) Magdeburg và hiện là phó giáo sư thỉnh giảng tại trường ĐHTH Autònoma de Barcelona, Tây Ban Nha. Những mạng lưới tội phạm xuyên quốc gia: Từ khi khối Đông Âu sụp đổ và sau đó là sự kiện thống nhất nước Đức, những tổ chức tội phạm người Việt đã đặt chân lên Đức cũng như nhiều nước Châu Âu khác. Đối với nhìn nhận của xã hội bên ngoài, việc buôn bán thuốc lá lậu là thể hiện mạnh nhất, nhưng trên thực tế, đó chỉ là một trong nhiều hình thức hoạt động tội phạm của các băng nhóm người Việt. Với tính chất dùng bạo lực bất chấp mọi giá và một mật độ hoạt động tội phạm trải rộng, những mạng lưới tội phạm xuyên quốc gia của người Việt đã trở thành gánh nặng lớn trong việc xây dựng hình tượng xã hội và quá trình hòa nhập của những người Việt khác. Một quá trình hòa nhập đầy mâu thuẫn: Nếu quan sát những đặc điểm cơ cấu xã hội được dùng để miêu tả quá trình hòa nhập của những nhóm người di dân, thì trong cộng đồng người Việt tại Đức sẽ nhận thấy một nghịch lý: Một mặt, người Việt hòa nhập rất thành công và có mối quan hệ tốt đẹp với người Đức, đặc biệt là những người Việt sống tại Tây Đức, rời khỏi Việt Nam trong giai đoạn “thuyền nhân” sang Đức từ những năm 70-80. Cả những du học sinh và công nhân lao động xuất khẩu từ thời DDR, nay được phép ở lại, cùng thích nghi nhanh với cuộc sống mới tại Đông Đức, bằng cách tự lo toan cuộc sống, tự hành nghề và mở các tiệm kinh doanh, cũng để giúp đỡ thêm cho gia đình tại quê nhà. Điều này đặc biệt biểu hiện rõ rệt trong phạm vi giáo dục, nơi những con em và thanh thiếu niên xuất thân từ các gia đình người Việt luôn tạo nên những nhóm học sinh với thành tích cao trong học tập. Theo đó, tỉ lệ phần trăm học sinh Việt học trường chuyên (Gymnasium) tại tất cả các bang đều cao như học sinh Đức, thậm chí ở một vài bang còn cao hơn. Nhưng mặt khác, người Việt tại Đông Đức, một trong nhiều cộng đồng di dân, đã dần hình thành những băng nhóm tội phạm với những án hình sự nặng nhất. Tỉ lệ những nghi can người Việt trong tổng số những nghi can không mang quốc tịch Đức, trong nhiều năm, chỉ ở mức bình quân 1,7% với giao động nhỏ, nhưng tính trên tổng số ngoại kiều Việt ở Đức là một tỷ lệ lớn so với các sắc tộc khác. Theo số liệu thống kê tội phạm của cảnh sát Đức, vào năm 2007, có 8.181 nghi can người Việt trên toàn liên bang, đứng vị trí thứ 12 trong bảng xếp hạng số lượng nghi can không mang quốc tịch Đức, nhưng đã chiếm tới chừng 9% số người Việt sống ở Đức. Tỷ lệ trên cao đặc biệt tại một số địa phương. Năm 2002, tù nhân người Việt tại bang Sachsen chiếm tỉ lệ 17,2% là nhóm lớn nhất trong số các phạm nhân không mang quốc tịch Đức, cũng như vậy ở Sachsen-Anhalt 13,1% và Thüringen gồm 11,4%. Tại trại giam Berlin, họ là nhóm đứng thứ 2 với 9,4% sau số lượng phạm nhân Thổ, tại Brandenburg cũng xếp thứ 2 với 15,9% sau số lượng tù nhân Ba Lan. Không có một bang nào tại Tây Đức lại có tỉ lệ phạm nhân người Việt cao có thể đem so sánh được như vậy. Thống kê tội phạm của Berlin từ nhiều năm đã xếp hạng những tội phạm người Việt trong số 10 dân tộc gây chú ý nhất, và đứng vị trí thứ 3 trong số các tội phạm nghiêm trọng. Cả trong những thông cáo truy quét những tổ chức tội phạm hình sự của Cơ quan điều tra hình sự liên bang và các tiểu bang cũng đã bắt đầu xuất hiện nhiều băng nhóm tội phạm người Việt. Nguyễn Sỹ Phương Theo TBVĐ Bookmark and Share
-
http://vnthuquan.net/truyen/truyen.aspx?ti...q83a3q3m3237nvn
-
Đẩy nhanh tốc độ giải cứu các thợ mỏ (cập nhật liên tục) 13/10/2010 12:14 Thợ mỏ thứ tư vui mừng khi được đưa lên mặt đất - Ảnh: AFP * 33 thợ mỏ sẽ chung tay viết sách * Không tiết lộ về 17 ngày đầu tiên sau sập hầm (TNO) Tính đến 20 giờ tối nay 13.10 (giờ VN), đã có 11 trong số 33 thợ mỏ mắc kẹt trong hầm mỏ San Jose (Chile) được đưa lên mặt đất an toàn. >> Bốn thợ mỏ đã lên mặt đất an toàn >> Diễn tiến vụ sập mỏ lịch sử Đẩy nhanh tốc độ giải cứu Liên tục những người thợ mỏ Chile đang được đưa lên mặt đất với tốc độ nhanh hơn. Chỉ 40 phút sau khi Alex Vega trở lên mặt đất, Jorge Galleguillos, người thợ mỏ thứ 11 đã được gặp những người thân của mình. Cho đến thời điểm này, đã có 11 người được giải cứu ra khỏi hầm mỏ tối tăm. Đó lần lượt là: Florencio Avalos, Mario Sepulveda, Juan Illanes, Carlos Mamani, Jimmy Sanchez, Osman Araya, Jose Ojeda, Claudio Yanez, Mario Gomez, Alex Vega và Jorge Galleguillos. Mọi việc đang diễn biến suôn sẻ, công tác giải cứu chưa gặp phải một trục trặc nào. Cùng lúc đó, tin từ bệnh viện cho biết, sức khỏe của các thợ mỏ đều ổn định. Phát biểu trước các phương tiện truyền thông trên khắp thế giới, Bộ trưởng Bộ Khai mỏ Chile, Laurence Golborne khẳng định: "Chúng tôi đang đẩy nhanh tốc độ giải cứu. Mặc cho những rủi ro xung quanh, mọi việc vẫn đang diễn ra rất tốt. Cứu lấy những người thợ mỏ!" Người thợ mỏ thứ 10 đón ánh bình minh San Jose Chiếc lồng cứu hộ Phoenix đã đưa người thợ mỏ thứ 10 lên khỏi hầm mỏ San Jose, Chile. Alex Vega năm nay 31 tuổi. Người đứng đón anh ngay tại chiếc lồng Phoenix khi nó vừa nhô lên mặt đất chính là Jessica Salgado, vợ anh. Sau một thời gian dài dưới lòng đất, Alex Vega vẫn khỏe khoắn, tỉnh táo khi được giải cứu. Anh nhanh chóng tháo chiếc nón bảo hộ của mình ra, ôm hôn vợ trước sự reo vui của tất cả mọi người xung quanh. Sau 69 ngày không thấy ánh mặt trời, Alex Vega được đón ánh bình minh tại mỏ San Jose (giờ địa phương), tức vào khoảng 19 giờ 15 (giờ Việt Nam). Người thợ mỏ già nhất trở về Người dân Chile nói chung và những người đang tập trung xung quanh khu mỏ San Jose, bắc Chile đã chào đón bình minh ngày 13.10 (giờ địa phương) bằng việc đón người thợ mỏ thứ 8 Claudio Yanez trở lại mặt đất. Hiện giờ, đang có thêm những người thợ mỏ khác đang được cứu lên... Mario Gomez là thợ mỏ thứ 9 được đoàn tụ với gia đình trong đợt giải cứu thứ nhất. Mario Gomez cũng là người già nhất trong nhóm thợ mỏ gặp tai nạn. Mario Gomez được giải cứu thành công Những giọt nước mắt hạnh phúc chảy tràn trên khuôn mặt Roxana Gomez, con gái người thợ mỏ Mario Gomez "Em sẽ ở đây cho đến khi nào anh cùng trở về với em!". Đó là nội dung lá thư mà Lilianet Ramirez - vợ của Mario Gomez -đã gửi xuống cho chồng mình khi ông ở dưới hầm sâu. Bây giờ, họ đã ôm choàng lấy nhau và được thỏa nguyện - cùng trở về nhà. Thợ mỏ thứ 8 được cứu Người thợ mỏ thứ tám đã được giải cứu lên trên mặt đất. Anh là Claudio Yanez, 34 tuổi. Khi vừa được kéo lên, vừa bước ra khỏi "lồng", Claudio Yanez đã ôm choàng lấy những người thân của mình. Họ cũng ôm lấy anh và khóc trong niềm sung sướng. Con số 33 định mệnh Có quá nhiều sự trùng khớp liên quan đến con số 33 trong vụ tai nạn và giải cứu lịch sử này. Đầu tiên là 33 thợ mỏ bị mắc kẹt. Tiếp đến là 33 ngày để khoan xong đường hầm cứu hộ. Ngay cả Tổng thống Chile, ông Sebastian Pinera cũng phải nhắc đến “con số định mệnh” trong bài diễn văn phấn khởi sau khi thợ mỏ đầu tiên được đưa lên mặt đất: tổng các con số trong “ngày thần kỳ”: 13.10.10 cũng chính là 33! "Đó là một quãng thời gian dài, rất dài, khi chúng tôi ở dưới hầm mỏ. Thật hạnh phúc khi tôi đã lên được đây và gặp lại gia đình tôi", Claudio Yanez nói trong niềm xúc động. Claudio Yanez đã nhanh chóng được đưa lên xe cứu thương để vào bệnh viện kiểm tra sức khoẻ. Như vậy, tính đến 17 giờ 30 (giờ Việt Nam), thế giới đã chứng kiến cuộc giải cứu ngoạn mục tại mỏ San Jose, bắc Chile. Lần lượt tám thợ mỏ đã thoát khỏi hầm sâu về với gia đình, người thân gồm: Florencio Avalos, Mario Sepulveda, Juan Illanes, Carlos Mamani, Jimmy Sanchez, Osman Araya, Jose Ojeda và Claudio Yanez. Claudio Yanez, người thợ mỏ thứ tám, vừa được kéo lên trên mặt đất Niềm vui của sự tự do và hít được khí trời của Claudio Yanez sau 69 ngày dưới lòng đất sâu Claudio Yanez ôm hôn vợ trong vòng vây của báo chí Hạnh phúc vỡ òa khi gặp lại người thân Claudio Yanez được đưa đến bệnh viện để kiểm tra sức khỏe Người thợ mỏ 30 năm tuổi nghề lên mặt đất Jose Ojeda, 46 tuổi là thợ mỏ thứ 7 thoát khỏi "nhà tù dưới lòng đất" để trở về với cuộc sống thường nhật. Cho tới nay, trình tự đưa các thợ mỏ lên mặt đất diễn ra theo đúng như kế hoạch. Tất cả đều kiên nhẫn và bình tĩnh chờ đợi tới lượt mình. "Hãy cẩn thận. Anh sẽ ổn cả thôi" là câu trấn an mà các nhân viên cứu hộ nói với Ojeda khi anh bước vào chiếc lồng kim loại để chuẩn bị được kéo lên. Và cuối cùng, anh đã bước lên mặt đất trong niềm vui sướng tột độ vào lúc 16 giờ 30 chiều nay (giờ Việt Nam). Lồng cứu hộ lại qua một đợt kiểm tra kỹ lưỡng sau đó, trước khi được đưa xuống lòng đất để cứu người thợ mỏ tiếp theo. Vừa lên đến mặt đất, Jose Ojeda, người thợ mỏ thứ 7 được giải cứu thành công, đã giương cao quốc kỳ Chile đầy tự hào Con gái của Jose Ojeda, Elizabeth lao đến bên bố Trong một diễn biến khác, Tổng thống Chile Sebastian Pinera cùng đệ nhất phu nhân đã rời khỏi khu mỏ để trở về nhà chợp mắt vài tiếng trước khi mặt trời mọc. Video clip Thợ mỏ thứ 6 được đưa lên mặt đấtOsman Araya đã trở thành thợ mỏ thứ 6 trở về với gia đình khi lồng cứu hộ chở theo anh chạm mặt đất vào lúc 15 giờ 37 phút chiều nay, theo giờ Việt Nam. Trước đó, trong tin nhắn gởi từ dưới mỏ lên cho gia đình, Osman Araya viết: “Anh sẽ không bao giờ rời xa tất cả mọi người. Anh sẽ chiến đấu đến cùng để ở cùng với gia đình”. Angelica, vợ của Osman Araya căng thẳng đến cực độ trong những thời khắc cuối cùng chờ chồng. Cô được các quan chức Chile liên tục động viên, khuyến khích. Thợ mỏ trẻ nhất Sanchez đã được cứu Vợ người thợ mỏ: Chúng tôi sẽ về nhà Vợ các thợ mỏ tranh thủ "chỉnh trang" sắc đẹp Thế giới hồi tưởng lại cuộc giải cứu các thợ mỏ Úc năm 2006 Diễn tiến vụ sập mỏ lịch sử Ấn định thời điểm cứu thợ mỏ Chile Thợ mỏ Chile mong ngóng "giờ G" Thợ mỏ Chile sắp được cứu Thợ mỏ Chile có thể được cứu vào cuối tuần này Một ngày không như mọi ngày Ra mắt lồng giải cứu thợ mỏ Chile Thợ mỏ Chile học cách giết thời gian Thợ mỏ Chile được phép hút thuốc lá Kế hoạch C cứu thợ mỏ Chile Thợ mỏ Chile nhận bữa ăn nóng đầu tiên Không thể rút ngắn thời gian cứu thợ mỏ Chile Thợ mỏ Chile trò chuyện với người thân Chile nghiên cứu kế hoạch B giải cứu thợ mỏ Một số thợ mỏ Chile bị trầm cảm Kế hoạch giải cứu các thợ mỏ Chile Mất 4 tháng để cứu các thợ mỏ Chile Đúng 14 giờ 10 phút, lồng cứu hộ mang theo Jimmy Sanchez - thợ mỏ trẻ nhất trong số 33 người gặp nạn - đã xuất hiện trên mặt đất cùng các tiếng reo hò của mọi người. Công tác cứu hộ xuyên đêm (giờ địa phương) cho đến thời điểm này diễn ra khá trôi chảy. Jimmy Sanchez cho biết, sau 69 ngày sống trong đêm tối, động lực giúp anh có được cuộc sống ổn định về tinh thần là mong muốn sớm được trở về với đứa con gái mới hai tháng tuổi tên Barbara của anh. Trước đó, một bác sĩ tại bệnh viện Copiapo nói với BBC là bốn thợ mỏ đầu tiên được cứu sẽ được đưa đến bệnh viện trong 2 giờ tới bằng trực thăng. Lúc 13 giờ 46 phút, Jimmy Sanchez bước vào lồng cứu hộ Phoenix để chuẩn bị được đưa lên mặt đất. Anh là người thứ 5 chuẩn bị được giải cứu sau hơn 2 tháng sống dưới lòng đất San Jose. Jimmy Sanchez là người trẻ nhất trong số 33 thợ mỏ gặp nạn, anh được 19 tuổi và mới vào làm việc được 5 tháng. Thợ mỏ Bolivia được tổng thống tặng đất "Cảm ơn tất cả mọi người" là câu nói đầu tiên mà Carlos Mamani, thợ mỏ thứ 4 vừa đặt chân lên mặt đất, thốt ra. Phản ứng tiếp theo của anh là một vòng tay không thể chặt hơn dành cho vợ - cô Veronica. Các tai nạn hầm mỏ tại Chile - Tháng 6.1945, thảm họa kinh hoàng xảy ra trong một hầm mỏ tại El Teniente khiến 355 người chết do hít phải khí độc carbon monoxide. - Tháng 1.2006, vụ nổ xảy ra tại một mỏ ở Copiapo khiến 70 thợ mỏ bị kẹt dưới hầm. Công tác cứu hộ được triển khai và các thợ mỏ nhanh chóng được đưa lên, tuy nhiên vụ tai nạn này cũng khiến hai người chết. - Tháng 8.2010, 33 thợ mỏ bị kẹt dưới lòng đất sâu 700m. Công tác giải cứu hiện đang được thực hiện. (B.D) Không chỉ có người Chile mà cả nhân dân Bolivia cũng hồi hộp cực kỳ trong đợt giải cứu thứ 4 này, bởi Carlos Mamani là người duy nhất mang quốc tịch Bolivia trong nhóm 33 thợ mỏ gặp nạn. Còn lại đều là người Chile. Lá cờ Chile nổi rõ trên chiếc áo thun Mamani mặc. Anh hô vang "Chile, Chile" trong khi Tổng thống Chile cùng đệ nhất phu nhân mỉm cười vẫy lá cờ Bolivia trong tay. Trước đó, đích thân Tổng thống Bolivia, ông Evo Morales đã hứa là sẽ cấp cho gia đình Mamani một mảnh đất thành phố Cochabamba, miền trung Colombia để họ bắt đầu cuộc sống mới. "Gia đình anh đang đợi anh" là dòng chữ trên chiếc lá cờ Bolivia mà vợ của Carlos Mamani đang cầm trong lúc chờ chồng - Ảnh: Reuters Được biết, vợ chồng Mamani có một đứa con gái. 3 thợ mỏ đầu tiên được giải cứu Theo thứ tự, đó là Florencio Avalos, Mario Sepulveda và Juan Illanes Thợ mỏ đầu tiên được kéo lên khỏi mặt đất là Florencio Avalos (đeo kính đen) lúc 10 giờ 11 phút. Tiếp đó là Mario Sepulveda (đeo kính đen) - thợ mỏ thứ hai được giải cứu thành công. Juan Illanes, thợ mỏ thứ 3 được giải cứu, cười rạng rỡ sau khi "hồi sinh". Đoan Nhật - Bùi Dũng - Trí Quang - Viên An >> tiếp tục cập nhật 33 thợ mỏ sẽ chung tay viết sách Theo trang tin Examiner.com (Mỹ), 33 thợ mỏ Chile bị mắc kẹt trong lòng đất đã được các hãng truyền thông mời gọi kể lại câu chuyện của họ cho riêng hãng. Trong lá thư gởi cho vợ hồi tuần trước, thợ mỏ Yonni Barrios, 50 tuổi, cho hay: “Bọn anh đã nhận được nhiều lời mời quay phim và phỏng vấn của đài truyền hình quốc gia”. “Nhưng bọn anh không đồng ý vì bọn anh sẽ lập quỹ và tất cả những trải nghiệm của bọn anh trong suốt thời gian ở trong lòng đất sẽ được viết thành sách hoặc dành cho những dự án khác”, ông Barrios tiết lộ thêm. Theo trang tin này, các thợ mỏ đã ký một thỏa thuận mật với nội dung rằng, họ sẽ không bàn thảo về 17 ngày đầu tiên sau vụ sập hầm ở mỏ San Jose. Đây là khoảng thời gian đen tối, cực nhọc nhất trước khi họ bắt được liên lạc với mặt đất. “Mọi thứ xảy ra ở đó sẽ không được tiết lộ. Họ đã thề sẽ giữ im lặng”, vợ của một thợ mỏ nói. Các thợ mỏ cũng đã mời luật sư soạn thảo một hợp đồng pháp lý để bảo đảm rằng 33 thợ mỏ sẽ cùng được hưởng lợi như nhau từ những hợp đồng về viết sách, hồi ký, ghi hình với các phương tiện truyền thông. Những chàng trai dũng cảm này hy vọng họ sẽ ký được nhiều hợp đồng béo bở với các hãng truyền thông khi kể lại câu chuyện thần kỳ của mình. Các thợ mỏ này cũng hy vọng rằng họ không phải đi làm trở lại. “Nếu chúng tôi làm việc này hợp lý, chúng tôi sẽ không phải nai lưng ra làm cả phần đời còn lại”, một thợ mỏ khác tiết lộ. Hơn 1.000 lời mời về việc làm cũng như hàng loạt các dự án viết hồi ký, kể lại những trải nghiệm của họ trong hơn 2 tháng trong lòng đất với các phương tiện truyền thông đã được gởi đến các thợ mỏ. Theo báo Telegraph, các đài truyền hình đã chào giá 250.000 bảng Anh (tương đương 7,8 tỉ đồng) đối với mỗi thợ mỏ để được độc quyền đưa lại câu chuyện của họ. Trong khi đó, các hãng quảng cáo cũng đang tranh nhau trở thành hãng đầu tiên được ký hợp đồng với các thợ mỏ sau khi họ được đưa lên mặt đất. Các thợ mỏ đã được mời quảng cáo cho các sản phẩm từ bia, vitamin trợ giúp chuyện ái ân cho đến các thiết bị khai thác mỏ. Những thợ mỏ này cũng nhận được lời mời làm việc ở nhiều công ty khác. Kênh truyền hình MSNBC hồi tháng 9 đưa tin rằng, tại một hội chợ việc làm, hơn 20 công ty hoạt động tại Chile đã đưa ra hơn 1.000 lời mời những thợ mỏ bị mắc kẹt cũng như 317 đồng nghiệp của thợ mỏ về làm việc. Cho dù các thợ mỏ quyết định trở lại hầm mỏ làm việc thì công việc của họ vẫn không nhất thiết ở dưới lòng đất và chắc chắn đó sẽ là công ty có điều kiện làm việc an toàn hơn người chủ hiện tại của họ, MSNBC đưa tin. Được biết, 33 thợ mỏ từ mỏ San Jose ở Copiapo đã bị mắc kẹt sâu trong lòng đất 700 mét sau khi hầm bị sập vào hôm 5.8. Huỳnh Thiềm
-
Chào bạn! Rất cảm ơn bạn về những hướng dẫn đó. Đúng như bạn nói có những lúc mình thấy đau đầu lắm. Mấy hôm nay thấy căng và đau bên trái đầu, luồng điện hay khí gì đó mạnh lắm. Nó cứ như cái vòng Kim cô xiết đầu mình lại vậy. Có nhưng hôm nhắm mắt lại vân thấy sáng trước mặt. Hôm nay ra ngoài ngồi 1 chút thấy nhiều đốm sáng quá. Khôgn biết thế nào nữa. Bạn chỉ rõ cho mình cách luyện tập nhé. Chân thành cảm ơn. GmaiL: hoangthanhland@gmail.com