Thiên_Địa_Nhân

Hội viên
  • Số nội dung

    208
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

Everything posted by Thiên_Địa_Nhân

  1. Chào anh Liêm Trinh! Đúng như anh nói sự ảnh hưởng TQ và nền kinh tế của họ đến thế giới là rất lớn. Chúng ta chỉ cần tưởng tượng toàn bộ thế giới ăn cỗ và nếu cứ 6 người ngồi 1 mâm cỗ thì mỗi mâm cỗ có 1 người TQ. Tuy nhiên TQ đóng cửa Bô xít trong nước không đơn thuần vì sau này có giá hơn mà chính bản thân họ cũng lo ngại về môi trường. Cái bàn cụ thể ở đây là thặng dư sau khi chi phí, theo tính toán của các nhà kinh doanh thì với công nghệ hiên nay và sự ảnh hưởng đến môi trường thì chung qui lại là gần như không có lãi. Nếu có thì là sự đánh đổi lấy sự tàn phá môi trường. Vậy tại sao TQ lại sang khai thác Bô xít ở Tây Nguyên? Điều bí ẩn là trong các công trường khai thác hiện nay toàn là Công nhân TQ, trên nguyên tắc "Nội bất xuất, ngoại bất nhập". Trong nhiều bức thư của Đại tướng và những nhân sĩ yêu nước gửi đến nhiều cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất đều có nói đến những vấn đề trọng đại về MT, an ninh QP...đối với Tây Nguyên mà Đại tướng và 1 số lão thành Cách Mạng hiểu rõ nhất. Một đời lo cho dân cho nước không có lý do gì mà Bác lại đặt cao nguyên Trung phần là vị trí quan trọng. Mọi thứ chúng ta biết hiện nay cũng chỉ là qua thông tin báo chí, truyền thông...Còn nhiều thứ ẩn chứa đằng sau nó thì nhiều người chưa biết. Chúng ta không thể đánh đổi bằng mọi giá! Còn anh cho là tinh thần cộng sản thì em cũng xin thưa, điều đó không có! hoặc có cũng chỉ là trên tình thần "Liên quân Đồng minh", "buôn có bạn bán có phường". Em xin hỏi anh? Tại sao lại xảy 2 cuộc chiến tranh gần đây nhất trên lãnh thổ Việt Nam? Nhiều thứ không tiện đưa ra ở đây mà có thể anh chưa biết, với cương vị là 1 người lính Cụ Hồ đã chiến đấu vì non sông tổ quốc, hy vọng anh cũng là 1 người tiếp theo vì tổ tiên và Tổ quốc! Vài lời kính anh!
  2. BÀN VỀ TRUYỀN THUYẾT "NGÀY TẬN THẾ" (Gửi vào: 11/15/2007 7:05:40 PM) KNTL - Từ hàng ngàn năm nay đã có nhiều người quan tâm tìm hiểu thực chất của truyền thuyết “ngày tận thế”. Sau đây là một bài khảo cứu khá đầy đủ về vấn đề đó của tác giả Nguyễn Văn Thọ, cõ lẽ đã được viết trước năm 2000. Một số ý tưởng của tác giả phù hợp với nội dung thơ văn linh cảm. TẬN THẾ HAY CHUYỂN THẾ? Vấn đề nêu trên thực ra là vấn đề hết sức phức tạp. Tôi lần lượt bàn về các tiết mục sau đây: 1- Cái nhìn của Thánh kinh và Thiên Chúa giáo. 2- Cái nhìn của các nhà tiên tri. 3- Cái nhìn của khoa học. 4- Cái nhìn của các triết gia Đông và Tây. 5- Cái nhìn của tác giả: Cuộc chuyển thế sang kỷ nguyên Bảo Bình. 1. Cái nhìn của Thánh kinh và Thiên Chúa giáo Nếu chúng ta thành khẩn, thì thấy đối với Thiên Chúa giáo, Trời đất, con người và vạn hữu mới có khoảng 7000 năm nay và từ khi có Thiên Chúa giáo cho đến nay, không thế kỷ nào mà nhân loại không lo, không sống trong sự hồi hộp mong chờ ngày tận thế. Đại khái Thiên Chúa giáo - Công giáo cũng như Tin Lành - tin rằng thế giới này đã được tạo dựng nên khoảng năm 4004 trước kỷ nguyên. James Ussher (hay Usher) (1581-1656), Tổng Giám Mục giáo phận Armagh (Ái Nhĩ Lan), dựa vào Sáng Thế ký, cũng như dựa vào bản gia phả Chúa Jesus ghi trong Luke (3:23-38) đã tính toán ra rằng Trời đất đã được tạo dựng nên năm 4004, ngày 23 tháng 10, 9 giờ sáng. Bác sĩ Lightfoot ở Cambridge, sống đồng thời với Ussher cũng tính ra rằng Trời đất đã được tạo dựng nên ngày 23 tháng 10, năm 4004, lúc 9 giờ sáng. (1) Và từ 1701 về sau, Thánh kinh King James (King James Bible), đã có những thời kỳ hiên ngang in nơi giữa trang đầu sách Sáng Thế ký niên kỷ sau: B.C.4004. (2) Về phía Công giáo, quyển Martyrologe Romain, xuất bản theo sắc lệnh Giáo Hoàng Gregory XIII (1572-85), duyệt xét bởi các Giáo Hoàng Urban VIII (1623-1644), và Clement X (1670-1676) và tăng bổ bởi Giáo Hoàng Benedictus XIV (1740-58) vào năm 1749; dịch ra Pháp văn do Dom Albert M Schmitt, tái bản năm 1959, nơi trang 469, nhân dịp lễ Giáng Sinh đã trịnh trọng ghi rằng: Chúa Jesus ra đời: - 5199 năm sau ngày tạo Thiên lập Địa; - 2957 sau Hồng Thủy; - 2015 sau khi Abraham sinh ra; - 1510 sau khi Moses đưa dân Do Thái ra khỏi Ai Cập; - 1032 sau khi vua David thụ phong; - 752 sau khi xây thành La Mã v.v... Ở Âu Châu, cách đây vài thế kỷ, bất kỳ một học giả nào muốn bảo toàn danh dự, hoặc muốn có chút tiếng tăm, thời phải lo sao những điều mình quan sát khảo nghiệm phù hợp với Thánh kinh, hoặc với quan niệm truyền thống của giáo quyền, nếu không sẽ bị tai họa. Năm 1744, trong quyển lịch sử vạn vật (Histoire Universelle) Buffon chủ trương Trái đất đã có khoảng 70.000 năm, thế mà đã bị coi là xúc phạm lớn lao và tác phẩm đã bị giáo quyền cấm lưu hành. Khi Darwin chết (1809-1882), người ta vẫn còn dạy rằng vũ trụ được tạo dựng 4963 năm trước kỷ nguyên và cuốn Từ điển Larousse xuất bản năm 1882 ghi “đó là niên kỷ duy nhứt được chấp nhận trong các trường”. Còn về ngày tận thế thì ngay Chúa Jesus cũng đã phán quyết rằng: sau khi Ngài tử nạn, không bao lâu, Ngài sẽ xuống lại để phán xét thiên hạ và sẽ tận thế. Matthiew chép: "Vì chưng con người sẽ đến trong vinh quang của Cha Ngài, với các Thiên Thần của Ngài và bấy giờ Ngài sẽ trả cho mỗi người tùy theo hành vi của họ. Quả thật, Ta bảo các người: trong những kẻ có mặt đây, có người sẽ không nếm biết cái chết trước khi thấy. Con người đến trong Nước của Ngài” (Mat.16:27-28). Phúc Âm Marc còn chép long trọng gấp bội: "Nhưng trong những ngày ấy, sau cơn khốn quẩn ấy, mặt trời sẽ tối sầm, mặt trăng sẽ mất sáng, tinh tú từ Trời sa xuống và các quyền năng trên các tầng Trời bị lay chuyển. Và bấy giờ, người ta sẽ thấy con người đến trong mây với quyền năng cao cả và vinh quang. Và bấy giờ, Ngài sẽ sai các Thiên Thần thâu họp những kẻ được chọn của Ngài từ bốn phương, từ mút cùng mặt đất, đến mút cùng chân Trời... Quả thật Ta bảo các ngươi: thế hệ nầy sẽ không qua, cho đến khi mọi điều ấy xảy đến. Trời đất sẽ qua đi, nhưng lời Ta nói không bao giờ qua đi” (Marc 13:24-32). Các đại Tông đồ Chúa như Peter, Paul, John đều tin rằng: Tận Thế đến nơi. Thánh thư Peter I,4:7 viết: "Thời cùng tận đã gần rồi cho mọi sự”. Thessalonians I cũng cho rằng khi Chúa xuống phán xét, thì những giáo hữu còn sống sót khi ấy, sẽ được đưa lên mây để họp cùng các vị Thánh đã sống lại, để đón mừng Chúa quang lâm (I Thess. 4:13-18) và xin giáo dân giữ Thần, hồn, xác cho vẹn toàn, chờ ngày Chúa tới (I Thess. 5:23). Sách Khải Huyền của Thánh John mô tả tận thế như sự rung chuyển, sự phá tán, sự tan nát của vũ trụ bằng những lời lẽ hết sức văn vẻ: ”Khi Ngài mở ấn thứ sáu, thì xảy có động đất lớn; và mặt Trời hóa đen sẫm như vải dệt bằng tóc huyền và mặt Trăng hoàn toàn ra như máu. Tinh tú trên trời sa xuống như cây vả trút hết quả non, khi bị cuồng phong quây cho lăn lóc. Và trời biến mất đi như quyển sách bị cuộn lại,và núi non cùng hải đảo hết thảy đều bị đánh bật khỏi chỗ, và vua chúa trên đất cùng vương hầu và khanh tướng giàu sang hay quyền thế và nô lệ hay tự do hết thảy đều chui rúc ẩn mình nơi hang hốc và ghềnh đá núi non và họ nói với núi non đá tảng: Hãy sập đè trên chúng tôi và che khuất chúng tôi cho khỏi nhan Đấng ngự trên ngai, cho khỏi thịnh nộ của Chiên Con”. Tôi chuyển dịch thành thơ như sau: Mặt trời đen vải tóc huyền, Trăng màu ửng máu từ viền vào trong. Sao trời rơi rụng lung tung, Như sung, như vả, giữa chừng phong ba. Sơn nham, hải đảo gần xa, Xê đi, dịch lại la đà chông chênh. Vòm trời như giấy như tranh, Cuốn đi mất hút, lung linh, bẽ bàng. Công hầu khanh tướng trần gian, Sang hèn, tìm hốc, tìm hang rúc càn... Âm thầm van vái núi non, Sập đi cho khỏi thấy nhan thánh Ngài... (3) Cuốn sách Khải Huyền (22:12) có ghi lời Chúa phán: “Này sự tái lâm của Ta đã sắp tới nơi”. Thánh John cũng kết thúc sách Khải Huyền bằng mấy lời sau: "Phải kíp đây, ta sẽ đến!” Amen! Xin hãy đến! Lạy Chúa Jesus! Nhưng khổ nỗi mặc cho những lời tiên tri trang trọng, mặc cho sự nóng lòng trông chờ, thời gian cứ lặng lẽ trôi qua và tận thế vẫn chẳng chịu đến. Giáo dân tỏ ra bất bình. Các tông đồ và người bảo vệ giáo lý đổi giọng. Thánh thư Peter II nói: Ai cho rằng tận thế đến nơi là ngu muội, vì một nghìn năm trước mắt Thiên Chúa chẳng qua là một ngày (II,Peter,3:8). Thánh thư II Thessalonians đưa ra thêm điều kiện: Quỉ vương phải ra đời trước rồi mới tận thế. (II Thess.) Phúc Âm Matthiew đưa thêm điều kiện: Tin lành phải được giảng rao khắp thiên hạ rồi mới tận thế. (Mat. 24:14) Mà chữ “thiên hạ” cũng rất là mơ hồ. Thời ấy, thì vùng quanh Địa Trung Hải là Thiên hạ. Sau dần dần mới biết có Châu Á, Châu Úc, Châu Mỹ. Thành thử “thời gian” trở nên co giãn, "thiên hạ" trở nên co giãn và một phương trình về thời gian đã được tìm ta: “gần tới = còn lâu”. Cho nên khi nói là “Tận thế” ngay thì có thể là “ngay” thật, hay là còn lâu, còn rất lâu mới xảy ra hay sẽ ứng nghiệm vào trong những năm 2000 sắp tới. Cái gì cũng đúng hết... Ngày nay, các vị mục sư diễn giảng trên TIVI luôn tấm tắc khen rằng những lời tiên tri xa xưa, nói cho những người thế kỷ I, áp dụng vào bấy giờ lại thấy quá sức là đúng... Tận thế sẽ xảy ra trong kinh hoàng: "Các từng trời xèo xèo biến sạch, ngũ hành bốc cháy tiêu tan, đất và các công trình trên đó cũng sẽ tan biến.” (II Peter,3:9-12). Như vậy là hoàn cầu sẽ bị thiêu rụi bằng lửa. Phong trào tin “tận thế đến nơi” đã kinh qua nhiều thế kỷ cho mãi đến ngày nay: - Thời đại các Tông đồ, giáo dân đã chờ “tận thế”, đến nỗi nhiều người không còn chịu làm ăn (Xem II Thessalonians, và Vergilius, An Encyclopedia of Religion, Philosophical Library,1945, nơi chữ Thessalonians,First and Second Letters). - Thế kỷ I, có phong trào Montanus. Mọi người thường lên những đồi xứ Phrygia để đợi Chúa đến. - Thế kỷ 3, có phong trào Novatian. - Thế kỷ 4, có Donatus. - Năm 1000, mọi người thật sự tưởng tận thế đến nơi, nên đã ngừng làm ăn hoạt động. Sử gia gọi thời kỳ ấy là “Kinh Hoàng năm 1000”: Người ta tưởng sẽ tận thế năm 992 hoặc 995. Thủa ấy có nhựt thực; có một mùa Đông lạnh quá mức, có dịch tể, núi Vesusius phun lửa, các dân Magyar, Norman, aracen đi xâm chiếm, chinh phục khắp nơi, thành thử ai cũng tưởng là sắp thế mạt. Nhiều thành phố dân ra ngoài trời, dựng Thánh giá lên, rồi quì quanh đợi Chúa tới. Nhưng may mà vẫn chưa tận thế. (4) Sau này còn có những nhóm như là: Waldensians (1170), Albigenses (thế kỷ 11-13), Moravian Brethen (1457-), Anabaptists (1521-), Swiss Brethen v.v... đều tin sắp “tận thế”. Trong những thế kỷ gần đây, người ta quay ra tin “chuyển thế”, thay vì “tận thế”: “Chúa sẽ phục lâm để đánh nhau với Satan. Khi Chúa đến sẽ có 144.000 người được chọn lên mây sống cùng Chúa. Sau trận chiến gọi là Armageddon giữa Chúa và Satan, sẽ có 1000 năm an lạc hòa bình dưới quyền cai trị của Chúa Jesus (Revelation 19:11-21.- 20: 1-6). Những người tin chuyển thế và tin rằng Chúa sẽ cai trị nghìn năm được gọi là Apocalypticists, Millenarianists, hay Chiliasts. Và có lẽ để chuẩn bị tư tưởng, bản kinh Thánh New English Bible, xuất bản năm 1881, đã thêm vào sau câu Mat. 24:8 một đoạn như sau: Bản cũ: And these are the beginning of sorrows. Bản dịch năm 1881: “With all these things The Birth Pangs of The New Age Begin”. (5) Dịch: “Với tất cả những sự đó, một thời đại mới chuyển dạ thai sinh”. Và những người theo chủ trương mới này dựa vào mấy câu sách Khải Huyền sau: Khải Huyền 19:11-21.- 20: 1- 6. - Giáo Chủ Cơ Đốc Phục Lâm, William Miller (February 15,1782-1849) tin rằng Chúa tái lâm ngày 21 tháng ba năm 1884. Sau đó lại sửa là ngày 22 tháng 10, 1844. Tuy là đã đoán sai nhiều lần, nhưng giáo phái Cơ Đốc Phục Lâm ngày nay, vẫn tin rằng: “Sẽ tận thế không biết lúc nào, vì thế phải sống cho hẳn hoi”. Giáo chủ phái Jehovah's Charles Taze Russel (1852-1916) cũng tin rằng Chúa phục lâm năm 1914. Ông tạ thế ngày 31 tháng 10, 1916 mà vẫn chưa thấy Chúa đến... Người lãnh đạo giáo phái Chứng Nhân đấng Jehovah kế tiếp là J.F. Rutherford, một cựu thẩm phán thuộc tiểu bang Missouri. Dưới quyền lãnh đạo của Rutherford (1869-1942), giáo phái Chứng Nhân Jehovah càng tin Chúa sắp phục lâm, đến nỗi họ đã tạo một căn nhà ở San Diego, gọi là Beth-Sarim (nhà các Hoàng tử) để đón các vị Tiên Thánh như Abel, Noah, Abraham, Samuel, David, Daniel tái lâm, nhưng sau mãi không thấy đại chiến Armaggedon xảy tới, nên họ đã bán căn nhà đó... Họ cũng đã soạn sẵn và hát những bài quân hành như sau: Up, every soldier on Christ's side enlisted, Aye, gird for the fight! Mount Salem's ramparts,fight,shoulder to shoulder, With all who lift up the standard of light! See,all the nations in tumult assambling, Against God's Annointed their rulers are set; Satan,their prince,gives defy to Jehovah, Short is his time ere he suffers defeat. (6) Dịch: Đứng lên chiến sĩ hào hùng, Luôn trong tư thế xung phong mới là, Salem chiến lũy có ta, Kề vai đồng đạo, xông pha chiến trường. Kìa xem bao kẻ bất lương, Tính bài chống Chúa, nhiễu nhương bao nài, Satan kình chống Chúa Trời! Chống Trời, mấy nả mấy hồi sẽ thua! 2. Cái nhìn của các nhà tiên tri Người Âu Mỹ phần đông tin là “tận thế” sẽ lảng vảng đâu đây vào khoảng những năm 2000. Nhưng khảo kỹ các lời tiên tri, ta chỉ thấy có mấy loại dữ kiện sau: 1- Thiên tai như động đất, như giông tố, như núi lửa phun. 2- Chiến tranh nhưng không lâu. 3- Trái đất chuyển trục. 4- Sự suy sụp của các Đạo giáo Công Truyền. 5- Chuyển thế thành một thế giới đẹp đẽ hơn. Ta sẽ duyệt lại ít nhiều lời tiên tri. A- Trước hết là các lời tiên tri của Giám mục Malachi O'Mogan (1094-1148), sau này đã được phong thánh, về các Đức Giáo Hoàng từ 1143 cho đến khoảng 2013. Mỗi Giáo Hoàng được mô tả bằng vài ba chữ. Ví dụ, De Ruro Albo: Adrian IV (1153-1159) là một người Anh sinh tại St. Albans. - Signum Ostiense: Alexander IV (1254-1261): Hồng y tại Ostia. - Aquila rapax: Plus VII (1800-1823) bị Napoleo bắt (Napoleo có thể được coi là con phượng tham mồi). - De Balneis Etruria: Gregory XVI (1831-1846), trước khi lên ngôi đã phục vụ ở Balnean, xứ Rtruria. - Religio depopulata: Benedict XV (1914-1922). Lúc ấy là thế chiến I, nên “Đạo giáo bị hoang tàn”, vì rất nhiều giáo dân Âu Châu đã bị giết. - Pastor Angelicus: Plus XII (1939-1958), một Giáo Hoàng muốn noi gương Thánh Thomas Aquinas, một vị tiến sĩ Thiên thần (angelcius doctor). - Pastor et Nauta: John XXIII (1958-63) người đã chỉ huy và lèo lái Công Đồng Vatican II. - Flos florum: Paul VI (1963-78) vì trên phù hiệu của Ngài có vẽ hoa. De Medietate Lunae: Bán Nguyệt: John Paul I. Ngài sống có 34 ngày, sau khi thụ phong (August 26-78- September 28,78). De Labore Solis: John II (1978-). Sau đó có thêm hai vị Giáo Hoàng với khẩu hiệu Gloria olivae và Petrus Romanus... Nếu mỗi Giáo Hoàng trị vì trung bình là 10 năm, thì đến khoảng năm 2015 sẽ không còn Giáo Hoàng nào nữa. Nhiều người đoán là lúc ấy Giáo Hội Công Giáo Công Truyền sẽ sụp đổ... Tôi không nghĩ rằng Giáo Hội có thể sụp đổ, nhưng sẽ có những chuyển hướng, chuyển biến, gạn đục khơi trong hết sức quan trọng. B- Ursula Sonthiel (1488-1561), nữ tiên tri người Anh, đã nói tiên tri về các phát minh như tầu ngầm, xe lửa, điện thoại, điện tín, nhưng đã nói rằng tận thế vào năm 1881. Như vậy là sai. C- Nostradamus (1503-1566): Theo John Hogue, tác giả quyển Nostradamus and The Millennium (A Dolphin Book, Doubleday & Company, Inc, Garden City, New York, 1987), thì Nostradamus đã có tiên tri rằng khoảng cuối thế kỷ 20 sẽ có những lụt lớn ở Anh, những động đất lớn, dịch tể (AIDS), chiến tranh, Phật Di Lặc giáng trần để cải thiện các Đạo giáo. Từ 2026 đến 3000 sẽ là thời kỳ bình yên. Đối với Nostradamus, nhân loại còn sống qua các thời đại Bảo Bình (2000-4000), Ma Yết (4000-6000), Nhân Mã (6000-8000). Theo các tác giả bộ The People's Almanach, thì Notradamus đã tiên tri rằng vào khoảng những năm cuối thế kỷ 20, sẽ có trận đại chiến giữa Arập - Trung Hoa một bên và Âu Mỹ một bên. Sẽ có những trận chiến tranh lớn vào năm 1999. Sau đó Âu Mỹ sẽ thắng và từ đó sẽ hòa bình... D- Edgar Cayce (1877-1945) cũng tiên tri rằng vào khoảng cuối thế kỷ 20, Nữu Ước, Âu Châu sẽ chìm xuống đáy biển; ông sẽ tái sinh năm 1998 để cứu nhân loại, và hòa bình sẽ đến vào khoảng năm 1998. Tôi không trình bày thêm các lời tiên tri về những năm 2000. Quí vị nào muốn thu thập tất cả các lời tiên tri lớn nhỏ, xin tìm đọc cuốn The People's Almanach của David Wallechinsky và Irving Wallace, Doubleday Garden City, NEW York, xuất bản năm 1975. Thực ra, nếu ta khảo tất cả các lời tiên tri từ 1500 đến nay xem có ai dám đoán quyết sẽ “tận thế” vào khoảng những năm 2000 hay không, thì thấy một là không ai dám tiên tri rằng có, hai là nếu ai dám tiên tri rằng sẽ tận thế thì đã hoàn toàn bị thực tế cho thấy là đã sai như trường hợp giáo chủ các giáo phái Cơ Đốc Phục Lâm, hay Chứng Nhân Đấng Jehovah. (7) 3. Cái nhìn của khoa học - Buffon (1707-1788) và Darwin (1809-1882) là những chiến sĩ tiên phong phất ngọn cờ khoa học xô lùi thời gian càng ngày càng về một quá vãng xa xôi. Sau này các khoa học gia cho rằng con người đã có từ lâu trước năm 4004 - năm Chúa dựng nên con người tính toán theo Thánh kinh - nên họ đã tạo ra chữ Tiền sử “Prehistory” để chỉ thời gian “tiền khai thiên” ấy. Buffon mới đầu cho rằng Trái đất này đã có khoảng 74.832 năm. Sau này càng ngày khoa học càng bỏ xa Thánh kinh. Ngày nay các nhà khoa học lại muốn đi tìm tiên tổ Adam và nơi thực sự đã phát tích khởi nguyên ra loài người. Nhờ có những tư tưởng và giả thuyết táo bạo như thế, nên con người đã làm phục sinh được cả một dĩ vãng tiền sử như: - Nam Hầu (Australopithecus) cách đây chừng 700.000 đến 500.000. - Hầu nhân (Pithecanthropus) cách đây từ 500.000 đến 150.000 năm. - Người Neanderthal cách đây chừng 100.000 năm. - Người Cro-Magnon (Linh Nhân) cách đây chừng 300.000 năm. Về phương diện nghệ thuật, người ta đã tìm thấy một con ngựa khắc bằng ngà khổng tượng (mammoth) cổ chừng 32.000 năm, các bích họa trong những hang động như động Pech-Merle (Lot-Pháp), động Altamira (Tây Ban Nha), động Eysies (gần Perigneux,Pháp), động Lascaux (Pháp) tất cả đều cũng đã có khoảng hai chục ngàn năm tuổi... Rồi người ta lại thấy tuổi Vũ trụ và Mặt trời tối thiểu là 10 tỷ năm; tuổi Trái đất tối thiểu là 2 tỷ năm. Và một khi Vũ trụ này đã dạn dày với phong sương tuế nguyệt hằng tỷ tỷ năm, nay nếu muốn cho nó cáo chung âu cũng phải dự trù thêm ít tỷ năm nữa. Chúng ta cũng đừng nên buồn vì tấn kịch vũ trụ và nhân sinh lại trình diễn quá lâu lai như vậy. 4. Cái nhìn của các triết gia Ấn Độ : Ấn Độ cho chúng ta những quan niệm về thời gian thực cũng rất là lâu dài. Ta có: - năm Người (human year) gồm 360 ngày. - năm Trời (divine year) = 360 năm Người. - ngày Brahma (Brahma day) = 12.000.000 năm Trời = 4.320.000.000 năm Người. - đêm Brahma (Brahma nigtht) = 12.000.000 năm Trời = 4.200.000.000 năm Người. - năm Brahma: 360 ngày và đêm Brahma = 8.640.000.000 năm Trời hay 3.110.400.000.000 năm Người. - kiếp Brahma: Brahma sống 100 năm Brahma. - Trong một ngày Brahma, Brahma chớp mắt 1000 lần: Mở mắt ra thì vũ trụ hiện ra, nhắm mắt lại thì vũ trụ biến đi. Như vậy, mỗi chớp mắt Brahma lâu bằng 12.000 năm Trời và bằng 4.320.000 năm Người. Mỗi cái chớp mắt đó lại chia ra thành 4 thời kỳ (yuga) vắn vần theo xỉ số 4, 3, 2, 1. - Krita yuga (Kim đại) 4=4800 x 360 = 1.728.000 năm người. - Treta yuga (Ngân đại) 3 = 3600 x 360 = 1.296.000 năm Người. - Dvapara 2 (đồng đại) 2 = 2.400 x 360 = 864.000 năm Người. - Kali yuga (Thiết đại) 1 = 1200 x 360 = 420.000 năm Người. (Xem Joseph Campbell, The Mythic Image tr.142-143) Joseph Campbell, trong quyển The Mythic Image của ông, (Bollingen Series C.- Princeton University,1974, nơi tr. 142) đã cho rằng Thời Thiết đại Kali Yuga bắt đầu ngày 17 February 3202 trước kỷ nguyên. Nếu vậy thì chúng ta còn có vô số thì giờ mà kéo lê cuộc sống... Rene Guenon, một nhà huyền học Pháp, sau khi so sánh các chu kỳ niên đại Ấn và Babylon (Chaldean) đã cho rằng, một Nguyên (Manvantara) lâu bằng 64.800 năm. Và như vậy Krita Yuga sẽ là 25.900 năm; Treta yuga là 19.440 năm; Dwapara Yuga là 12.960 năm và Kali Yuga là 6.480 năm. Theo Guenon, Kali Yuga bắt đầu vào năm 4.481 năm trước Kỷ Nguyên và sẽ tận cùng vào năm 1999. (Xem Michel de Socoa,Les Grandes Conjonctions, Paris Chacornac Frères,11 Quai St-Michel, 1051,p.7). Trung Hoa : Về Trung Hoa, Thiệu Khang Tiết lấy 129.600 năm (4320x 30) làm một Nguyên. Một Nguyên có 12 Hội. Mỗi Hội có 10.800 năm. Mỗi Hội có 30 Vận. Mỗi Vận có 360 năm. Mỗi Vận có 12 Thế. Mỗi Thế là 30 năm. Ta viết lại: - Nguyên = 129.600 năm. - Hội = 10.800 năm. - Vận = 360 năm. - Thế = 30 năm. Mỗi Hội lấy tên là Tí, Sửu, Dần, Mão v.v... Ông cho rằng Thiên khai ư Tí, Địa tịch ư Sửu, Nhân sanh ư Dần. Tận thế sẽ vào Hội Tuất. Vua Nghiêu (2357- 2256) sẽ ở vào Hội Ngọ, Vận thứ 30, Thế thứ 9. Như vậy ta có: Trời mở vào Hội Tí (1 - 10.800). Đất sinh vào Hội Sửu (10.800 -20.160). Người sinh vào Hội Dần (20.160 - 32.400). Hội Mão sẽ là 32.400 - 43.200. Hội Tị sẽ là 54.000 - 64.800. Hội Ngọ sẽ là 64.800 - 75.600. Nếu vua Nghiêu trị vì vào Hội Ngọ, Vận thứ 30, Thế thứ 9 thì ta sẽ tính toán ra là vào năm 75.510. Và lịch sử từ Nghiêu đến ngày nay (khoảng 4000 năm, đang diễn ra trong Hội Mùi (75.600 - 86.400). Nếu tận thế vào Hội Tuất (10.800 -11.880), thì ngày đó còn xa vời lắm đối với chúng ta. Thiệu Khang Tiết đã viết sở học nói trên của ông trong quyển Hoàng Cực Kinh Thế. Tôi từ khi so sánh các con số thời gian của ông với khoa học hiện đại, thấy sự khác biệt quá chừng là lớn, nên tôi không đi sâu vào học thuyết của ông nữa. Ba Tư & Hy Lạp : Ba Tư và Hi Lạp cho rằng năm Vũ trụ là 12.960 năm, tức là nhỏ hơn năm Vũ trụ của Thiệu tử 10 lần. - Plato cho rằng năm Vũ trụ là 25.920. Mặt trời phải mất 25.000 năm mới mọc đúng chỗ cũ gọi là điểm Gamma trên (giao điểm giữa Hoàng Đạo và Xích Đạo ở cung Aries (Bạch Dương) vào ngày Xuân phân (21 tháng ba Dương lịch). Nói vậy có nghĩa là không ngày Xuân phân nào mà Mặt trời mọc lại đúng như vị trí cũ. Mỗi năm cứ đến ngày Xuân phân lại mọc cách vị trí cũ là 0,70 độ. 72 năm sẽ mọc cách vị trí nguyên thỉ 1 độ và sau 25.000 mới lại trùng phùng một lần với vị trí nguyên thỉ vào ngày Xuân phân. Vì sự chuyển dịch không ngừng trên vòng Hoàng đạo như vậy mà có sự thay đổi trong lịch sử trần gian này. Người Âu Châu chia vòng Hoàng đạo ra làm 12 cung, gọi là Aries (Bạch Dương); Taurus (Kim Ngưu); Gemini (Song Tử); Cancer (Cự Giải); Leo (Sư Tử); Virgo (Xử Nữ); Libra (Thiên Xứng); Scorpio (Thiên Yết); Sagittarius (Nhân Mã); Capricorn (Ma Yết); Aquarius (Bảo Bình); Pisces (Song Ngư). 12 cung Hoàng Đạo tương ứng với Nhị Thập Bát Tú đại khái như sau: Aries: Lâu, Vị Taurus: Mão, Tất. Gemni: Chủy, Sâm, Tỉnh. Cancer: Quỉ, Liễu, Tinh. Leo: Chương, Dực, Chẩn. Virgo: Giác, Cang. Libra: Đê, Phòng, Tâm. Scorpio: Vĩ, Cơ. Sagittarius: Đẩu Ngưu. Capricorn: Nữ, Hư. Aquarius: Nguy, Thất. Pisces: Bích, Khuê. Trình bày vòng tròn, ta có đồ bản sau: Cứ 2160 năm Mặt trời lại đi vào một cung mới. Thời từ Chúa Jesus ra đời cho đến nay Mặt trời ở cung Song Ngư. Ngày nay Mật trời sắp đi vào cung Bảo Bình. Vì vậy nhân loại đang trông chờ một cuộc chuyển thế. Chúng ta sắp sửa bước sang một kỷ nguyên mới gọi là Tháng Vũ Trụ Bảo Bình, hay Kỷ Nguyên Bảo Bình (Aquarian age). Có những bạn đến tôi chơi, thấy đầu đề của bài này, hỏi tôi, Thời Đại Bảo Bình là gì? Tôi hiểu ngay là nhiều độc giả cũng ở trong tình trạng đó. Nên tôi muốn dùng sự vận chuyển của Mặt trời trên các Cung Trời mà bàn qua về lịch sử nhân quần từ trước sắp tới Cung Bảo Bình. + 10.000 - 8.000 trước Kỷ Nguyên: Mặt trời ở Cung Sư Tử (Leo). Sư Tử tượng trưng cho sự sáng tạo. Nên thời ấy người tiền sử bắt đầu khắc, vẽ. Những bích họa trong các hang động ở Pháp, ở Tây Ban Nha là những chứng cứ hiển nhiên. + 8.000 - 6000 trước Kỷ Nguyên: Mặt Trời đi vào cung Cự Giải (Cancer). Cự Giải làm liên tưởng đến mẫu hệ, đến mái ấm gia đình. Nên thời ấy, nhân loại bắt đầu ra khỏi hang hốc làm nhà cửa, bắt đầu canh tác. + 6.000 - 4.000 trước Kỷ Nguyên: Mặt trời đi vào Cung Song Tử (Gemini). Song Tử đánh dấu thời kỳ lý trí phát triển. Con người bắt đầu giao thiệp, chuyển di. Thời này bắt đầu phát minh ra chữ viết. Nhân loại bắt đầu biết sử dụng bánh xe. + 4000 - 2000 trước Kỷ Nguyên: Mặt Trời đi vào Cung Kim Ngưu (Taurus). Kim Ngưu tượng trưng cho sự vững chãi, đẹp đẽ. Nhân loại bắt đầu biết kiến trúc. Trong thời gian này, các Kim Tự Tháp được xây cất. + 2000 - 1 trước Kỷ Nguyên: Mặt trời đi vào cung Bạch Dương: Bạch Dương tượng trưng cho sự hăng hái, sống động. Dân Do Thái xuất hiện trong thời kỳ này. + 1-2000 sau Kỷ Nguyên: Mặt trời đi vào Cung Song Ngư (Pisces). Đạo Công giáo xuất sinh và phát triển trong thời kỳ này. + 2000 - 4000 sau Kỷ Nguyên: Mặt trời đi vào Cung Bảo Bình. Bảo Bình ngày nay được gắn liền với “nhân bản” (humanity), với khoa học, kỹ thuật, với điện từ, với đại đồng. Trong thời đại này nhân loại sẽ văn minh hơn, thanh lịch hơn, sẽ bớt phàm tục, sẽ thần tiên hơn, và thế giới sẽ trở thành một Liên Hiệp Quốc thực sự. 5. Tác giả: Cuộc chuyển thế sang thời đại Bảo Bình Trước hết, chúng ta khó mà xác định là bao giờ Mặt trời thực sự đi vào cung Bảo Bình. Mỗi sách nói một khác. Ông Zale H. Bechor, tác giả cuốn Prophecy Yesterday, Today, Tomorrow, (Astro Press 1980), nơi trang 145, đã cho rằng Mặt trời đã đi vào Cung Bảo Bình ngày 19 tháng Giêng năm 1881. Trong sách L'Astrologie của W.E. Peuckert, Payot Paris, 1965, nơi tr. 259, tác giả cho rằng Mặt trời vào cung Song Ngư năm 100 trước Kỷ Nguyên. Nếu vậy thì Mặt trời sẽ vào cung Bảo Bình năm 2060 tới đây. Theo sách Théosophie et Science thì Mặt trời vào cung Song Ngư năm 29 sau Kỷ Nguyên. Như vậy Mặt trời sẽ vào cung Bảo Bình năm 2132. Theo Trung Hoa, thì từ 1924 đến 1984 là Trung Nguyên; từ 1984 đến 2044 là Hạ Nguyên. Như vậy Thượng Nguyên mới sẽ bắt đầu năm 2045. Từ trên xuống dưới: 1. Vị trí Mặt trời ở cung Bạch Dương khoảng năm 900. 2. Vị trí Mặt trời năm 1979 ở cung Song Ngư. 3. Vị trí Mặt trời vào năm 3300 ở giữa cung Bảo Bình. Nguyệt san TIME, trong số ra ngày 21 tháng 3, 1969 cho rằng Tháng Vũ Trụ Song Ngư đầy lo âu, châu lệ, đầy hoài nghi và ảo mộng, còn Tháng Bảo Bình tới đây sẽ là Tháng Vũ Trụ của những niềm vui, của những thực hiện khoa học tân kỳ, của những niềm ước mơ, hoài bão. Trong bài What is the Aquarian Age của Samuel Rittenhouse đăng trong Nguyệt san Rosicrucian Digest, tháng 8 năm 1969, tác giả cho rằng Kỷ nguyên Bảo Bình tới đây sẽ là 2000 năm của Tình Huynh Đệ Đại Đồng, tương thân, tương ái. Đó là thời kỳ của những chinh phục không gian, thời kỳ mà tâm trí con người sẽ mở rộng tầm kích, sẽ trở nên cao đại, đó là thời kỳ mà Đại-Đạo sẽ hiển dương... (8) Năm 1976 khi còn ở lại Việt Nam, tôi đã viết một bài Mùa Xuân Vũ Trụ Tương Lai (kỷ nguyên Bảo Bình) và Đại Đạo, và đã đăng trong Nguyệt San Giáo Lý Cao Đài. Hồi ấy tôi chủ trương rằng, trong thời đại Bảo Bình con người sẽ từ Tôn-Giáo tiến lên Đại-Đạo, mà Đại-Đạo theo tôi hiểu sẽ là tinh hoa các Tôn giáo. Khi ấy tôi dịch chữ Đại-Đạo là Mysticism. Nhưng càng để tâm suy tư chiêm nghiệm, tôi thấy rằng dẫu trong thời kỳ Bảo Bình sẽ có nhiều người đạt tới Đại-Đạo, sẽ Phối Thiên, tuy nhiên con số ấy vẫn luôn luôn là ít. Nhân loại còn phải băng qua một giai đoạn mới là ngồi lại với nhau, sánh tôn giáo mình với tôn giáo người, để học hỏi lẫn nhau. Nên chữ Đại-Đạo dành cho quần chúng trong những thời gian tới sẽ là chữ OECUMENISM (Hoà Đồng Tôn Giáo). Giờ đây, khi viết lại bài này tôi tình cờ đọc quyển The Aquarian Conspiracy của Marilyn Ferguson (J.P. Tarcher Inc. Los Angeles, 1976), và quyển Le Christianisme et les Religions du Monde của Hans Kung và tập đoàn (Editions du Seuil, 27, rue Jacob, Paris VI), tôi càng tin chắc chắn rằng trong một tương lai rất gần nhân loại sẽ tiến sâu hơn về phía tâm linh, sẽ có một tầm nhìn, lối nghĩ mới, sẽ bao dung hơn, khoan quảng hơn, sẽ dám đem các vấn đề tín lý, giáo điều ra mổ xẻ lại để xem đâu là chân lý thật, đâu là chân lý giả, mà xưa người ta đã dùng cường quyền, bạo lực, thủ đoạn, bắt mọi người theo. Nhân loại sẽ hoàn toàn được tự do tín ngưỡng. Tuy nhiên, trước khi đi sâu hơn vào lòng Thời Đại Bảo Bình, chúng ta phải qua cửa “Thiên Môn Tinh Tú”. Chắc quí vị đã biết thời kỳ nào mà Mặt trời, Mặt trăng cùng một số lớn hành tinh tụ tập vào một cung trời nào, thì thường nơi trần gian sẽ bị binh đao, thiên tai, địa họa, như động đất, như lụt lội, hay sẽ có một sự chuyển biến lớn về phía chính trị hoặc tâm linh v.v... Á Châu gọi hiện tượng đó là Nhật Nguyệt Hợp Bích, Thất Tinh Liên Châu. Thuật ngữ chiêm tinh Âu Châu gọi là DORIPHORIE. Xin kể ra đây ít nhiều trường hợp “Nhật Nguyệt Hợp Bích, Thất Tinh Liên Châu” mà tôi rút gọn lại là “Quần tinh hội tụ” trên Trời và tình trạng dưới Thế: 1- Quần tinh hội tụ ở Cung Cự Giải năm 57: Jules Caesar xâm chiếm Đức, Pháp (Gaul) và Anh. 2- Quần tinh hội tụ năm 13 sau Kỷ Nguyên nơi cung Nhân Mã: Vua Augustus trị vì. Bắt đầu thời đại bình an La Mã. 3- Năm 443, quần tinh tụ hội tại cung Cự Giải và Sư Tử: Hung Nô (Huns) xâm chiếm Âu Châu. 4- Quần tinh hội tụ nơi cung Sư Tử và cung Xử Nữ, năm 622: Hồi giáo bắt đầu chinh phục các nước. 5- Quần tinh hội tụ năm 849 tại cung Song Ngư và Bạch Dương: Nước thượng vị Carolingien tan rã. 6- Quần tinh hội tụ tại cung Song Tử năm 913: Nước Đức thuộc dòng Othoniens và Pháp thuộc dòng Capetiens chia rẽ. 7- Quần tinh tụ hội năm 1126 tại cung Thiên xứng: Tại Âu Châu người ta tưởng là đã đến ngày tận thế. Thánh chiến 1. 8- Quần tinh hội tụ năm 1306 tại cung Thiên Yết và Nhân Mã: Thời Trung cổ cáo chung. 9- Quần tinh hội tụ tại cung Cự Giải và Song Tử: Chinh chiến 100 năm. Trận Azincourt, Hòa ước Troyes (1420). 10- Quần tinh hội tụ tại cung Song Ngư và Bạch Dương năm 1850: Bắt đầu thời đại kỹ nghệ. Cuộc đổ xô đi tìm vàng. Tuyên ngôn Cộng sản Marx Engels năm 1848. 11- Quần tinh hội tụ năm 1941 ở cung Kim Ngưu: Thế chiến 2. 12- Quần tinh hội tụ năm 1989, tại cung Nhân Mã & Ma Yết (đồ bản thiết lập cho Mạc Tư Khoa, vào trưa ngày 28 tháng 12; ngoài ra còn có nhật thực toàn phần vào năm 1999 tại Luân Đôn): Động đất lớn như vừa xảy ra tại Armenia (Nga). Chuyển thế sang thời kỳ Hoà Bình Bảo Bình. [Trông vào đồ bản, ta thấy quần tinh hội tụ tại cung Nhân Mã và Ma Yết (Sagittarius & Capricorn). Chỉ duy có Mộc Tinh (Jupiter) ở tại cung Cự Giải (đối đỉnh) và Pluto tại cung Bạch Dương.] Berosus, một chiêm tinh gia thế kỷ 3 trước Kỷ Nguyên đã tiên tri rằng bao giờ quần tinh hội tụ ở cung Ma Yết (Capricorn), sẽ tận thế. Người Ấn Độ ngày nay cũng tin như vậy, nên ngày 5-2-1962, họ tưởng quần tinh hội tụ ở cung Ma Yết, nhiều người ở New Delhi đã thức suốt đêm chờ tận thế. (Xem Louis MacNEICE, Astrology, Doubleday and Co., Garden City, New York, p. 20 & 88.) Vì vậy mà nhiều người sợ tận thế vào những năm khoảng 2000. Cách đây mấy chục năm, một chiêm tinh gia người Ấn Độ tiên đoán sẽ tận thế vào ngày 14-7-1956. Bắt tội nhiều người đã tập họp nhau tại vùng núi Alpes, nước Thụy Sĩ, để chờ tận thế! (Xem sách trích dẫn trên, tr.18). Ông Ossendowski trong quyển Bêtes, Hommes et Dieux, xuất bản năm 1890 đã tiên tri rằng sẽ tận thế vào năm 2030. Ông Moggridge trong quyển Anti-Christ của ông xuất bản năm 1914 dựa vào sách Khải Huyền thánh Joan, cho rằng sẽ tận thế năm 1994. Jean de Pauly đã dựa trên truyền thuyết Do Thái để tính toán ngày tận thế. Do Thái giáo tin rằng sự tạo dựng nên trời đất là vào khoảng năm 3761 và thế giới này chỉ có được 6000 tuổi, nên đã kết luận tận thế vào năm 2239. (Xem Michel de Socoa, Les grandes conjonctions,Paris, Chacornac Frères, 1951, tr. 40-41.) Ngược lại, Michel de Socoa thì cho rằng vụ quần tinh hội tụ ở Cung Ma yết tới sẽ chỉ làm thay đổi cục diện toàn cầu. So sánh Chiêm Tinh Đông Tây, tôi nhận ra rằng Cung Ma Yết ứng với quẻ Phục, nên tổi đã mạnh dạn chủ trương con người sẽ hồi phục, sẽ trở lại sùng thượng những giá trị tâm linh trong một tương lai gần... Trên đây, tôi đã dùng lịch sử, khoa học và uy tín của các nhà tiên tri lớn của nhân quần để chứng minh rằng sẽ chỉ có một sự Chuyển Thế, chứ không thể nào có Tận Thế. Và một lần nữa, tôi muốn xác quyết như Zale H. Bechor, tác giả quyển Prophecy Yesterday, Today and Toorrow rằng sẽ không có tận thế vào khoảng năm 2000, mà chỉ thấy rằng trong tương lai những lo lắng, sầu bi, bệnh hoạn, đói khổ của loài người sẽ cáo chung hay sẽ giảm thiểu tới mức tối đa (9). Trong Thời Đại Bảo Bình (Aquarian Age), chúng ta sẽ thấy những gì? Dĩ nhiên là chúng ta sẽ thấy những phát minh khoa học tân kỳ, làm cho con người sung sướng hơn. Nhưng đây tôi chỉ nhấn mạnh tới sự Chuyển Hoá Tâm Linh Lớn Lao sẽ xảy ra cho nhân loại. Nhân loại sẽ vươn vượt để tìm cho ra Bản Thể Thần Linh, tìm ra Thiên Tính của con người. Những điều mà xưa kia một vài chiến sĩ tiền phong như Meister Eckhart (thế kỷ 14), Giovianni Pico della Mirandola (thế kỷ 15), Jacob Boehme (thế kỷ 16-17), Emmanuel Swedenborg (thế kỷ 17-18) chủ trương đơn độc, trong tương lai sẽ có vô số người tán đồng. Chủ trương đó là: Chúng ta hoàn toàn tự do về phương diện tâm linh. Chúng ta tự tạo số mệnh cho chúng ta, tự lèo lái sự tiến hóa tâm linh của chúng ta. Chúng ta sẽ giác ngộ, sẽ thấy mình có bản thể thần linh, sẽ có một tầm nhìn, một lối nghĩ cao siêu hơn, khoáng đạt hơn, sẽ dám nhìn lấy, suy lấy, nghĩ lấy. Con người sẽ đi sâu vào chiều kích tâm linh và sẽ tìm thấy rằng trong mình có Siêu Thức, có Đại Ngã, có Đại Hồn (Oversoul) của Vũ trụ. Nhiều người sẽ có được Tuệ Giác (Intuition), có được Đại Trí (transcendental reason; transcendent logic). Nhiều người sẽ trở nên Siêu Phàm (transcendentalists). Con người phàm phu, ô trọc đầy hờn giận, ghen tuông, khô khan, máy móc, xu thời sẽ được thay thế dần bằng những con người Siêu Phàm, Thanh Lịch, sảng khoái, thơ mộng, hồn nhiên... Người ta sẽ thực thi khẩu hiệu: Tứ Hải Giai Huynh Đệ; Vũ Trụ Với Mình Là Một; Mình Với Chúng Sinh Là Một, nên sẽ trọng thiên nhiên, tránh không phá phách hay làm ô nhiễm thiên nhiên; tránh không giết hại loài vật; nhất là không xúc phạm đến đồng loại dù người ấy là da đen, da vàng hay da đỏ, như đã làm trong hai nghìn năm vừa qua. Nhân loại sẽ nhìn nhận ra rằng các Đạo bên ngoài chỉ là những hình thức lễ nghi không cần thiết, chỉ là mầm sầu bi, thống khổ, gây chia rẽ giữa người với người; chỉ là một phụ tá cho cảnh sát, cho công quyền, chứ ít khi có thể làm cho con người được sung sướng, hạnh phúc, tự do, giải thoát thật sự... Chính vì vậy mà trong tương lai các đạo giáo công truyền sẽ càng ngày càng bị bẻ vụn ra, các giáo phái càng ngày càng thêm nhiều, để sau này chỉ là những phương tiện cho chúng ta tuỳ nghi sử dụng. Mọi người sẽ thấy rằng nền Minh Triết Á Châu thực sự mới cắt nghĩa được các nghi vấn của con người, và mới giúp con người đạt tới giải thoát thực sự. Trong tương lai nhân loại sẽ cảm nghiệm rằng thực sự Trời không có ở đâu xa mà chính là đã ở ngay trong lòng sâu con người; Đức tin không phải là một sự chấp nhận ngây thơ, ai bảo sao thì đâm lao làm vậy, mà sẽ là kết quả lâu dài của một đời học hỏi và tìm kiếm, suy tư... Con người sẽ tin rằng mình có những khả năng vô biên, tha hồ khai thác, không bao giờ hết, vì trong mỗi người đều có mầm mống Trời, mầm mống Phật. Các từ Trời, Phật ở đây được hiểu với một nghĩa hết sức là rộng rãi và cho đó là chính Bản Thế Của Vũ Trụ & Của Con Người Cũng Như Của Quần Sinh. Con người sẽ nhận ra rằng: 1- Con người không còn ở dưới đất, mà thực sự đang bay trên Trời. Trái đất cũng hoàn toàn giống như trăng sao, đang làm những cuộc vân du vô tận. 2- Con người, trông bên ngoài thời nhớp nhơ, lem luốc, nhưng trông vào bản thể bên trong, thì chói lọi hơn ánh dương quang. 3- Thượng Đế không còn là một vị thần ngồi tòa ở phương trời nào đó, nghe thiên thần ca hát, nhưng chính là Thần Linh nội tại, luôn thi triển quyền uy, luôn tung tỏa sức sống, trong lòng vũ trụ quần sinh, từ đáy lòng nguyên tử cho đến đại thể tinh cầu, cho đến lòng sâu vạn hữu. 4- Vì thế vạn vật, quần sinh, vũ trụ, tinh cầu họp lại đều là một Đại thể, đều là ngoại thân, ngoại thể của Đấng Tối Cao. 5- Như vậy, con người không bao giờ có thể lìa xa Bản thể, lìa xa Đại thể, dù là một phút giây. Cho nên đừng bao giờ dại dột quên đi dòng dõi sang cả của mình, thân thế tuyệt luân của mình, định mệnh huy hoàng của mình. Trái lại phải tham tán, tài thành cùng Trời Đất trong công cuộc hóa sinh, đại tạo, xứng với ngôi vị của mình trong thế Tam Tài: THIÊN-ĐỊA-NHÂN. Tin rằng trong tương lai gần đây, chúng ta sẽ chứng kiến một sự Chuyển Thế huy hoàng, chúng ta hãy bình thản mà đón nhận tương lai, và ngay từ bây giờ hãy giúp nhau mở rộng nhãn giới tâm linh, sống cho khinh khoát, khoan quảng, hòa đồng; lấy từ bi, bác ái làm phương châm; lấy suy tư, tìm hiểu, chứng nghiệm làm phương pháp và luôn cố gắng phát huy các tiềm năng tiềm lực nơi mình, luôn thắp sáng ngọn đuốc lương tâm, để ánh sáng Trời nội tâm ngày một tung tỏa khắp chốn nơi. (10) Chú thích: 1- a) Vòng tròn ngoài ghi tên các hành tinh. Thứ tự từ 12 giờ trưa, đọc thuận theo kim đồng hồ như sau: Neptune (Hải Vương Tinh); Pluto (Diêm Vương Tinh); Saturn (Thổ Tinh); Sun (Thái Dương); Moon (Thái âm); Mars (Hỏa Tinh); Venus (Kim Tinh); Mercury (Thủy Tinh); Jupiter (Mộc Tinh); Uranus (Thiên Vương Tinh). Giữa vòng tròn là dấu hiệu Cung Bảo Bình (Aquarius). 2- Cf. Daniel J. Boorstin The Discoverers,Random House, New York, 1883, p. 451. Garrett Hardin,Nature and Man's fate, A Mentor Book, New American Library, New York, p.19. 3- Thực ra khi đọc đoạn này xong tôi thấy bớt sợ tận thế, vì thấy tác giả tưởng rằng các vì sao chỉ nhỏ bằng cỡ quả vả, chứ không ngờ rằng chúng lớn bằng cả trăm mặt trời. Muốn phá trái đất này, thì đâu cần phải dùng đến nhiều tinh tú như vậy! Và mặc dầu vô số là sao đã rơi rụng xuống, mặc dầu núi non đã bị đánh văng đi hết, nhưng nhân loại vẫn còn sống nguyên, vẫn còn tìm ra được những hốc đá mà ẩn. Hơn nữa tôi rất mừng vì thấy tác giả tưởng rằng khung trời xanh kia là cái gì có thật, như là một cái vòm kiên cố mà Chúa xưa kia đã phải mất cả một ngày mới tạo dựng xong (Sáng thế ký 1:6-8); chứ không biết rằng đó chỉ một huyễn tượng gây nên bởi bầu khí quyển trông xa... 4- Richard Lewinsohn, Science, Prophecy and Prediction, Harper and Brothers Publishers, New York, 1961, tr. 78. 5- Xem Joseph Head and S. L. Cranston, Reincarnation, The Phoenix fire Mystery, Julian Press, Onc. 1977, p.138. 6- Marcus Bach,Strange Sects and Curious Cults,Dodd, Mead & Company, New York,1961, p.109-124. 7- Cf. The People's Almanac by David Vallechinsky & Irving Wallace, Doubleday & Company, Inc. New York, 1975, pp. 1-30. Marcus Bach,Strange Sects and Curious Cults, Dodd, Mead & Company, New York, 1961, pp. 109-124 (Chapter 9: The Apocalypticists). 8- When the world fully enters that sign, it has been prophesied, there will be “2000 years of humanitarian and universal brotherhood.” Further, all developments will be related to a factor as infinite and intangible as AIR. Great advances in aviation and all principles related thereto are predicted for the forthcoming air age. The advance of nuclear physics now being made as a liberation from the more finite substance of WATER and MASS is declared an indication of the coming Aquarian Age. Great breadth of mind or universality of thought, as mystical philosophy, is said to manifest, particularly in the Aquarian Age, as men's minds become as lofty and as unbounded as the air itself. (What is the Aquarian Age by Samuel Rittenhouse, in Rosicrucian Digest August, 1969, p.306.) 9- We are living in “The Time of the End.” The end of the World? The end of our civilization? The end of culture? The end of mankind? No! The end of fear, worry, poverty, starvation, sorrow and sickness. (Xem Zale H. Bechor, Prophecy Yesterday, Today and Tomorrow,Astro Press, 1980, tr.143-145). 10- Những từ in đậm và nghiêng là do KNTL thực hiện. Nguyễn Văn Thọ (Theo http:/forums.gamevn.com) Nhưng mới có 10 năm trong cung Bảo Bình sao lại thấy có nhiều Đạo tặc, đạo chích, đạo tham ô, đạo lừa đảo, đạo văn, xh thì điên loạn, kẻ cậy quyền cậy thế ức hiếp dân lành, vô văn hóa nhiều hơn văn minh...Nhưng có nhiều nhân tài thật, đấy: Tại Bắc Hàn mới có 27 tuổi mà đã làm "Đại tướng" đấy. Bài viết rất hay và đậm chất lý học. À, hoá ra là vậy!
  3. Huyền bí về sự thất lạc hoá thạch người Bắc Kinh Trước khi bị thất lạc, hóa thạch người Bắc Kinh nổi tiếng thế giới luôn được lưu giữ trong két bảo hiểm ở bệnh viện Hiệp Hoà Bắc Kinh. Sau khi bùng nổ cuộc chiến tranh thái bình dương không lâu, ông Ngụy Đôn Thụy, nhà nhân chủng học nổi tiếng chuyên nghiên cứu về việc này cho rằng bệnh viện Hiệp Hoà không bảo đảm được an toàn của hoá thạch, nên kiến nghị đưa nó tới Mỹ bảo quản. Vào một hôm trong 2-3 tuần trước khi xảy ra sự kiện Chân Châu Cảng, bệnh viện Hiệp Hoà nhận được thông báo đóng hòm những hóa thạch này gồm 5 hộp sọ và 15 mảnh xương sọ, cùng nhiều mảnh xương khác tổng cộng 147 mảnh và chở tới Đại sứ quán Mỹ tại Bắc Kinh để chuẩn bị cho thủy quân lục chiến Mỹ chuyển sang Mỹ. Nhưng từ đó về sau những hóa thạch người Bắc Kinh cực kỳ qúi hiếm được cả thế giới quan tâm này đã thất lạc một cách huyền bí, và đến nay vẫn chưa tìm thấy. Có người nói rằng những hóa thạch này được chuyển lên tàu Ha-ri-xơn ở Tần Hoàng Đảo, và bị chìm đắm cùng với con tàu đang trên đường đi Mỹ; cũng có người nói rằng con tàu bị quân Nhật bắt giữ và cướp những hóa thạch này, sau bán đi bán lại và tới nay không biết tăm tích. Sau khi đại chiến thế giới thứ 2 kết thúc, quân Mỹ đã lục soát tại Nhật nhưng vẫn không tìm thấy. Năm 1972, một nhà tỷ phú Mỹ đã treo thưởng lớn để tìm những hóa thạch này, có nhiều người thông báo manh mối nhưng sau khi điều tra đều không phải là hóa thạch người Bắc Kinh. Năm 1970, một phụ nữ Niu-oóc gọi điện cho nhà khoa học Cri-xtô-phơ chuyên nghiên cứu về hóa thạch người Bắc Kinh nói rằng chồng bà lúc sinh thời từng cất giữ hoá thạch người Bắc Kinh. Một giáo sư Trường Đại học Ha-vớt sau khi xem những bức ảnh do bà cung cấp đã nhận định đây là hóa thạch người Bắc Kinh bị thất lạc. Nhưng sau đó không lâu nhà khoa học Cri-xtô-phơ đã liên hệ với người phụ nữ này. Năm 1991, nhà sử học, sĩ quan hải quân Mỹ Brao bỗng dững nhận được cú điện thoại của tiến sĩ Phlây đang bị giam giữ do làm thất lạc hóa thạch người Bắc Kinh năm xưa nói rằng ông đã liên hệ được với người phụ nữ tự xưng đang cất giữ hóa thạch người Bắc Kinh, mong sớm vén tấm màn huyền bí về sự thất lạc của “người Bắc Kinh”, nhưng đáng tiếc là mùa thu năm 1992 tiến sĩ Phlây qua đời. Cuối năm 1970, Tờ Thời báo Niu-oóc từng đăng một mẩu quảng cáo của bác sĩ Uy-liêm nói rằng ông nắm được ba thông tin về “người Bắc Kinh”, một là đang cất giữ ở gia đình một người bạn ở Thiên Tân, hai là cất giữ ở Viện Pa-xtơ do người Pháp mở tại Thiên Tân, ba là cất giữ ở ngân hàng do người Thiên Tân mở. Trong thời gian cạch mạng văn hóa Trung Quốc, có người đã từng viết sách nói rằng hoá thạch “người Bắc Kinh” căn bản không phải được chuyển ra nước ngoài, nhưng sau nay không tìm được người viết cuốn sách này. Cách đây ít lâu nhà nhân chủng học Trung Quốc Chu Quốc Hưng trải qua nhiều năm điều tra nghiên cứu phát hiện một thông tin đó là: trước ngày xảy ra sự kiện Chân Châu Cảng, một lính thủy đánh bộ Mỹ từng trông thấy có hai người khênh một hòm lớn vào trong sứ quán Mỹ và trôn trong khuôn viên sứ quán, ông cho rằng trong hòm này rất có thể là hóa thạch người Bắc Kinh. Ông đã tìm đến nơi này những trên mặt đất đã xây dựng nhà cửa, không thể khai quật. Hóa thạch người Bắc Kinh bị thất lạc đã vài chục năm nhưng đến nay vẫn chưa tìm thấy. Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai lúc sinh thời từng nói, người vượn Bắc Kinh là do mấy người Trung Quốc giao cho người Mỹ bảo quản, và bị mất từ tay người Mỹ, các nhà khoa học có lương tri cần phải tìm lại chúng”. - Bày trò thôi!
  4. Tại sao người Trung Quốc Lại gọi minh là "con cháu của rồng" Việc người Trung Quốc gọi mình là “con cháu của Rồng” là bắt nguồn từ Tô-tem và truyền thuyết trong thời cổ đại. Tuyền thuyết kể rằng: trước khi Hoàng Đế thống nhất Trung nguyên coi “Gấu” là Tô-tem. Sau khi thống nhất Trung nguyên, để lấy lòng các bộ tộc qui thuận, Hoàng Đế từ bỏ tô-tem Gấu thay bằng một tô-tem mới gọi là “Long” tức rồng, nó được kết hợp giữa đầu tô-tem Gấu với thân tô-tem một loài rắn. Thực ra tô-tem Rồng là sự hết hợp hình ảnh của tô-tem bộ tộc cha với tô-tem bộ tộc mẹ của Hoàng Đế. Sự hình thành của hình ảnh Rồng độc đáo này đã phản ảnh lên lịch sử phát triển của dân tộc Trung Hoa và quá trình hội nhập của các dân tộc. Sau này hình ảnh Rồng tượng trưng cho dân tộc Trung Hoa này bắt đầu xuất hiện trong các đồ án, dần dần hình thành văn tự. Mọi người tìm thấy chữ “Long” trong chữ giáp cốt cổ xưa thời Ân Thương, trên các mảnh gốm cổ xưa được khai quật có đồ án của Rồng. Cách đây ít lâu, các nhà khảo cổ Trung Quốc khai quật được hai mảnh gốm có hình rồng tại di chỉ Tra Mai Phụ Tân tỉnh Liên Ninh, một mảnh có hình rồng đang đi, một mảnh hình rồng cuộn tròn rất sinh động, vẩy của rồng cũng rõ nét. Rồng trở thành tô-tem thủy tổ của dân tộc Trung Hoa, Dân tộc Trung Hoa cũng gắn chặt với Rồng. Bởi vậy xoay quanh rồng đã sản sinh truyền thuyết “Cảm Thiên Nhĩ Sinh”, nói rằng Viêm Đế là con của Trần Long với một thiếu nữ tên là Đăng, Hoàng đế là được sinh ra do cảm động của “Sao bắc đẩu”, Nghiêu là được sinh ra bởi sự cảm động Xích Long. Thủy tổ của dân tộc Trung Hoa là hóa thân của Rồng, như vậy con em dân tộc Trung Hoa hiển nhiên là dòng dõi của Rồng. - Vừa thấy lố bịch, vừa thấy trơ trẽn, và hầu như tất cả những gì to lớn của Khựa sinh ra đều được gán cho Thần thoại. tài liệu sưu tầm trên internet!
  5. Chào anh! Em hiểu những điều đó cho dù em cũng chỉ mới mon men tìm hiểu lý số. Tuy nhiên chỉ giải thích tại sao thường thì các hố đều có hình tròn hoặc tương tự chứ chưa đủ kiến thức lý giải nguyên nhân hình thành sự việc. Cũng như hiện tượng hang các tơ (hang, hố...) tại sao chỉ xảy ra trong 1 số lại đá chứ không hầu hết các loại đá. Trong công tác sử lý đê điều hiện nay các nhà thuỷ lợi học cũng đã ít nhiều dựa vào nguyên lý của Phong thuỷ. Cụ thể để giảm áp lực của dòng nước người ta xây dựng các Giếng giảm áp phía chân đê đối diện cho nước rò rỉ tạo ra quá trình giảm áp của dòng nước của bên đê đối diện. Trong đông y để cấp cứu tai biến cũng vậy, bằng cách trích máu trong các đâu ngón tay và sau dáy tai 2 bên cũng là để giám áp cho mạch máu. Trong bài báo nói về việc chữa trị ung thư (Ở Hải Dương) khi bệnh viện trả về, rất nhiều trường hợp đã khỏi bệnh. Tất nhiên những trường hợp chưa động dao kéo lại có tỷ lệ thành công cao hơn (Khẳng định của thầy thuốc) phải chăng hệ thống kinh mạch ở những người này chưa bị tổn thương? Viện sỹ viện hàn lâm khoa học Nga_Lương Ngọc Huỳnh (1 trong 2 người Việt) là ví dụ điển hình về châm cứu khai thông kinh mạch của bà nội sau khi bị bại liệt mấy năm trời. Hiện nay anh ấy cũng là nhà châm cứu nổi tiếng. Thực ra trong cs và khoa học hiện nay rất nhiều ứng dụng của Lý số đi vào cuộc sống. Tất nhiên nó được sử dụng dưới ngôn từ hiện đại. Vài lời kính anh!
  6. Chào anh! - Đúng thế! Còn nhiều lý do khác nữa chứ không như Ngài Liêm Trinh nói. Đến ngay đất nước TQ họ còn đóng cửa khai thác bô xít, vậy không hà cớ gì họ lại sang VN? - Chúng ta kiếm được bao nhiêu từ vụ này? Và đánh mất bao nhiêu?
  7. Chào bạn Liêm Pha! Âm thanh thần Chú trong Mật tông và hình quán tưởng có tác dụng rung động khai mở các Luân Xa, quán tưởng hình ảnh là để chú tâm vào 1 việc (tĩnh tâm) cho tâm an tịnh. Tuy nhiên bên MT nhiều học giả vẫn khăng khăng phải có lễ Quán Đảnh trao truyền nếu không sẽ lạc vào tà đạo. Nếu truy đến cùng thì ai là người làm lễ quán đảnh lần đầu tiên? Tôi đồng ý "Không thầy đố mày làm lên", đó chỉ là hướng dẫn tu tập đó là kinh nghiệm được chắt lọc từ hàng ngàn năm qua. Còn vấn đề tôn sư trọng đạo thì ở đâu cũng vậy. Chào bạn Thiên Đồng! Tôi có nói năm 1975 sau giải phóng Miền Nam cái xe máy 82-89 giá có 200 đồng tiền ngày đó, thế mà có người tin và còn hỏi, Sao cậu không mua?. Vấn đề là chúng ta giải thích hiện tượng để mọi người cùng chiêm nghiệm khi mà khoa học hiện đại còn chưa tiếp cận.
  8. - Theo tôi cái này giải thích theo vật lý hiện đại cũng có thể sáng tỏ: Trong vật lý hiện nay đã chứng minh được sự tác động của ngoại lực vào cấu trúc hình tròn, trụ...lên tất cả các điểm là như nhau và do đó các cấu trúc có dạng hình như vậy ổn định hơn các cấu trúc hình chữ nhật, hình vuông...Dựa trên lý thuyết đó, trên nguyên tắc lực ma sát, thể tích (hình cầu có thể tích lơn hơn các hình khác cùng diện tích, chu vi..) người ta đã thiết kế bồn chở Xăng Dầu là cấu trúc hình trụ.
  9. Khà khà khà! Đúng thế!
  10. - Qua đây tôi thấy có gì đó như trong cách dựng trứng trên mặt gương và trên đầu đũa của người Việt. Phảo chăng khi người dựng trứng có ý niệm "Quả trứng phải cân bằng" thì đồng thời phát ra luồng năng lượng bao xung quang trứng dưới dạng đặc (tất nhiên chúng ta ko nhìn thấy) và giữ cho quả chứng cân bằng? Vài lời đột biến không cho là đúng.
  11. Khoa học hiện đại cũng chỉ đưa ra được chừng đó những nhận định , trong các sự kiện đó thì sự kiện hành tinh NiBiRu vẫn còn đang tanh cãi sự tồn tại của nó. Hình ảnh trên là 1 trong những hình ảnh của dân tộc Maya, sau này có nhiều tổ chức đã sử dụng nó để làm biểu tượng. Ngoài những ý nghĩa về mặt lịch sử cũng như nền văn minh Maya mà đa số đã biết (tầng thứ 13 - Con mắt) nói đến này "Tận thế" thì nó còn chứa đựng một sự thật. Con mắt thứ 13 nằm trên cùng đỉnh tháp tỏa ra một luồng ánh sáng minh chứng cho việc "Những điều mà con người và khoa học từ cổ đến hiện nay đã nhìn thấy, khám phá và hiểu biết chỉ là rất nhỏ (Con mắt đang nhìn so với cả tòa tháp).
  12. Tổ tiên người Mỹ là người Trung Quốc? Cập nhật lúc 15/12/2010 04:30:00 PM (GMT+7) Nguồn: http://vietnamnet.vn/vn/khoa-hoc/3140/to-t...rung-quoc-.html Việc phát hiện hài cốt của những người cổ sống ở Mehico đã gây mối nghi ngờ học thuyết cố điển về sự định cư của những người di dân sang châu Mỹ. Theo một thuyết đã được thừa nhận rộng rãi, vào cuối kỷ Băng hà, tức 13 nghìn năm trước, những người Âu-Ấ (Euro-Asian) dã đến định cư tại lục địa Mỹ. Vào thời kỳ này tại vị trí của eo biển Bering ngày nay có một con đường bộ chạy ngang qua và những người Đông bắc Á đã có một cuộc di cư lớn tới lãnh thổ Alaska. Người Trung Quốc có thể là tổ tiên của những người châu Mỹ. Ảnh minh họa. Nguồn: Internet. Sau đó họ chuyển dần xuống phía nam, con cháu của những người di cư đầu tiên sống rải rác tại Bắc và Nam Mỹ. Những thổ dân da đỏ hiện nay vẫn giữ nét mongoloid của tổ tiên mình và là họ hàng xa với người Inuit và Tchukhotca ở vùng Viễn đông. Song vào năm ngoái, người ta đã tìm thấy hoá thạch của người hang động trên lãnh thổ của bang Oregon, và việc xác định niên đại chứng minh rằng những di tích này còn lâu đời hơn vài nghìn năm so với di vật tìm được. Theo quan điểm khảo cổ, chênh lệch vài nghìn năm không phải là lớn, thế nhưng lại gây ra những ấn tượng rất mạnh vì theo lịch sử ngành địa chất vào thời kỳ này chưa xuất hiện con đường bộ giữa lục địa Âu-Á và châu Mỹ. Những hài cốt mới tìm thêm được tại bán đảo Yukatan ở Mehico là dẫn chứng bổ sung thứ hai để thuyết phục những người còn hoài nghi. Các nhà khoa học tại Viện nhân chùng học quốc gia Mehico đã từ xương mặt, phục hiện lại chân dung cụ thể thì thấy đó là diện mạo của một phụ nữ, sống tại đây 10 nghìn năm về trước. Người phụ nữ này không giống những người Bắc Á mà phân tích về mặt nhân chủng học lại hoàn toàn giống với người Đông Nam Á, nhưng người ở phía Nam Trung Quốc và người Việt Nam. Để giải thích sự có mặt của tổ tiên những người da đỏ ở bang Oregon, người ta buộc phải thừa nhận họ đã đến đây bằng đường biển. Từ Tchukotka đến Alasca đi bằng thuyền chẳng mất bao nhiêu thời gian vì chính những người Tchukotka ngày nay vẫn thường làm điều này trên những con thuyền gỗ, chèo tay, thậm chí dưới thời xô viết người dân vẫn vượt biên như vậy để tránh các đồn biên phòng. Câu hỏi khó trả lời hơn là, vì lý do gì và bằng cách nào, những người Trung Quốc từ vùng Hồng kông ngày nay lại đến Tchukotka, để trở thành những người di dân đầu tiên. Các nhà khảo cổ phải tìm thêm chứng cớ mới lý giải được những điều này một cách thuyết phục. Sợ gì bố con thằng nào mà không dám nói ngay là dân tộc Bách Việt phía Nam sông Dương Tử
  13. Đúng thế! Cái này đến này khoa học di truyền đã chứng minh. Cả nền văn hóa được cho là của Trung Hoa thực chất là của dân tộc Bách Việt cổ. Tổ tiên chúng ta sau khi miền đât giáp biển bị quá trình biển tiến (cái này khoa học địa chất đã chứng minh) xâm lấn đã di cư lên phía bắc và làm lên nền văn hóa đó. Dân tộc Hán là dân du mục, mọi cái sinh hoạt cũng như nơi ăn chốn ở đều trên lưng ngựa lên không thể sản sinh ra nền văn hóa đó được. Đến nay rất nhiều các nhà khoa học trong và ngoài nước khẳng định "nền văn minh lúa nước và chăn nuôi bắt nguồn từ đông nam á cụ thể là Việt nam. Trong các di chỉ khảo cổ tại HB đã minh chứng điều đó, nền văn hóa lúa nước và chăn nuôi được tìm thấy ở Châu Mỹ nhưng niên đại ngắn hơn và họ khẳng định con người ở Đông Nam Á đã di cư sang và đem theo nền văn minh đó. Trong tác phẩm "109 những hiện tượng bí ẩn của thế giới", tác giả: Kính Vạn Lý, dịch giả: Phạm Bá (Nhà xuất bản thanh niên-2002) có kể câu chuyện về việc các nhà khoa học và khảo cổ hỏi những thổ dân Nam Mỹ (người Maya) về những kì bí và nền văn minh của họ thì các thổ dân nói rằng :" Họ được 1 vị thần mặc quần áo trắng cưỡi trên 1 phi thuyền đến từ 1 quốc gia phương đông đã dạy cho họ điều đó, sau khi dạy xong vị thần đã lên phi thuyễn bay đi và hẹn sẽ trở lại". Hiện có rất nhiều bằng chứng ngày càng sáng tỏ về tổ tiên chúng ta. Tôi tin chắc rằng sớm hay muộn thì cái thế giới này cũng phải công nhận điều đó. Chúng ta có quyền ngẩng cao đầu về nguồn gốc của mình!!!
  14. Hiện nay trên đất nước này những người phụ nữ nói riêng và cả nam giới nói chung đã phần nào hiểu được cuộc sống khi tha phương cầu thực. Đơn giản họ nghĩ họ sẽ tìm kiếm được 1 thiên đường nơi đất khách quê người và đa số đã sai lầm, bởi vì họ không biết và chưa từng đặt chân đến đó. Họ chỉ nghe kể, qua những thước phim hoặc qua nhưng tài liệu khác trên internet và báo chí...Hoặc có lần nào đó ra nước ngoài họ được đối xử như vị thượng khách trong thời gian ngắn họ nghĩ cs ở đó thật tuyệt vời. Rồi họ mơ ước...và rồi đa số không dám trở lại VN vì lòng sĩ diện. "Ra đi không bao giờ trở lại" đó là bản chất của con người việt dù có đói khổ họ phải cố gắng vượt qua. Trở lại thành phố thì khác chứ trở về quê thì cs của họ sẽ cực kỳ tẻ nhạt và gần như tách khỏi cộng đồng. Tháng 10 năm ngoái tôi cũng quen biết 02 cô đem theo con từ HQ về quê chơi, nhìn nét mặt bủng như ở trong tù. Tiếp xúc các cô đều nói, chỉ cần có ai ngỏ lời và dù có xấu đẹp, giàu nghèo thế nào cũng sẽ quyết định ở lại VN và không bao giờ sang HQ nữa. Ở Đức và nhiều quốc gia khác cũng như vậy, tuy nhiên ngoài những lý do đã nêu trên thì họ ở lại là vì tương lai con cái họ. Thế mới biết quê hương nó gắn liền với con người Việt biết bao. Ngoài vật chất thì tình cảm và tình yêu gia đình, bạn bè, cũng như cộng đồng cùng văn hóa với mình là những điều kiện sống vô cùng quí giá. Sinh ra đến lúc bập bẹ nói chúng ta gọi "Bà, Bố" và rồi từ dân nghèo đến những ông Bự khi đau yếu đều gọi "Mẹ ơi, trời ơi tôi đau quá" và ít khi gọi Bố. 9 tháng mang nặng đẻ đau đã gắn kết tình cảm của con người 1 cách mãnh liệt và lúc đó con người ta mới trở về thực tại sau những thăng trầm của cuộc sống. Một điều đặc biệt không kém, trước khi lâm chung cho dù con người ta thành đạt hay không thì đều muốn sau khi chết được đưa về quê và an táng cùng tổ tiên. Quê hương là cái gì đó rất cao cả và thiêng liêng, nó thấm đẫm mồ hôi và nước mắt. Nó gắn chặt tình cảm giữa người với người và cộng đồng XH.
  15. (Tôi xin bổ xung về các chòm sao cho tư liệu thêm đầy đủ) Truyền thuyết về 12 Cung Hoàng Đạo Theo các nhà thiên văn học thời cổ đại, trong khoảng thời gian chừng 30 ngày hoặc hơn một chút, Mặt Trời sẽ đi qua một trong 12 chòm sao đặc biệt. Chu kỳ này lập lại sau một năm, gọi là Hoàng Đạo. Khoảng thời g mặt trời đi qua 1 chòm sao gọi là một Cung. Vì vậy có tất cả 12 Cung Hoàng Đạo, tên gọi của các Cung này cũng là tên các chòm sao (có nguồn gốc từ thần thoại Hy Lạp): Aries, Taurus, Gemini, Cancer, Leo, Virgo, Libra, Scorpio, Sagittarius, Capricorn, Aquarius và Pisces. Con người vào thời điểm sinh ra trên trái đất cũng chịu ảnh hưởng nhất định của những bức xạ mặt trời và các thiên thể. Vì vậy tính nết và cốt cách của con người sinh ra có cùng Cung Hoàng Đạo, không ít thì nhiều cũng có những nét đặc trưng chung. - Nhân Mã (Sagittarius – Còn gọi là Xạ Thủ) (23/11 – 21/12) Người nửa người nửa ngựa Chiron của Achilles đã bị Heracles, trong một lần truy đuổi kẻ thù, lỡ tay phóng lao đâm chết. Hối hận vì hành động nông nổi Heracles đã đưa người Chiron lên thành một chòm sao trên trời. Chiron là một nhân mã xuất sắc nhất trong loài của mình, ông đã đào tạo nhiều anh hùng trong thần thoại Hy Lạp, ông không những hiểu biết nhiều trong nhiều lĩnh vực mà còn có võ nghệ cao cường với tài bắn cung tuyệt nghệ. Vì lẽ đó người ta thường thấy chòm sao Nhân Mã đang giương cung lên ngắm bắn nên còn gọi là chòm sao Xạ Thủ. - Ma Kết (Capricorn – Con Dê) (22/12 – 20/1) Capricorn hay dê biển (Seagoat) là hình ảnh của nam thần xứ Babylon, đầy quyền năng tên là Ea. Ông có nửa dưới cơ thể là cá, đầu và mình dê. Ban đêm, vị thần sống trong đại dương nhưng mỗi ngày đều ngoi lên để canh giữ đất liền. Nhưng thần thoại Hy Lạp ko nói đến dê biển mà nói đến Pan, một bán thần (demigod) có nửa trên là người nửa dưới là dê. Ông là con của thần Hermes và một nữ thần rừng (Nymph). Khi Pan ra đời, nữ thần hét lên vì khiếp sợ và bỏ chạy mất trong khi Hermes thương đưá con dị dạng, đưa nó lên Olympus nơi các vị thần khác cũng thích cậu bé. Từ đó Pan trở thành vị thần của các mục đồng và gia súc, gánh vác trách nhiệm của cha. Anh ko ở lại Olympus mà thích sống trong những bóng cây trên núi. - Bạch Dương (Aries – Con Cừu) ( 21/3 – 20/4) Vua xứ Thebes được hoàng hậu sinh hạ hai người con nhưng trái tim lại say đắm nàng Ino, người xinh đẹp đến mức nhà vua quyết định ly hôn và sắc phong Ino làm hoàng hậu mới. Người mẹ kế Ino rắp tâm từ bỏ hoàng tử Phrixus và công chúa Helle bằng một lời tiên tri độc ác rằng họ sẽ bị sát hại. “Mùa màng thất bát là dấu hiệu nổi giận của Zeus. Cần phải hy sinh cả hai trước mũi kiếm để làm hài lòng Zeus”. Vua và tất cả dân chúng đều tin vào lời tiên tri độc ác nọ, họ quyết định hy sinh hai đứa trẻ. Từ trên cao, Zeus thấy thương tình bèn gửi một chú cừu vàng có khả năng bay rất nhanh xuống cứu họ. Bộ lông vàng của chú cừu đực này về sau trở thành báu vật khuynh thành của vương quốc Colchis, nơi hai anh em được che giấu suốt đời thoát khỏi Ino. Chính vì bộ lông ấy mà Jason, người anh hùng trong thần thoại Hy Lạp đã tìm kiếm trong suốt hành trình truy tìm bộ lông cừu vàng nổi tiếng của mình, được kể rất kỹ trong câu chuyện về cuộc viễn chinh của nhóm thủy thủ tàu Argo. - Kim Ngưu (Taurus – Con Trâu) (21/4 – 20/5) Một buổi chiều tuyệt đẹp, Europa, con gái một vị vua của Phoenicia đang nhổ cỏ cạnh bờ sông thì một con trâu trắng to lớn không biết từ đâu xuất hiện và tiến lại gần nàng. Kinh ngạc trước vẻ đẹp của chú trâu, Europa quên hết cả cẩn trọng, liền ngồi lên lưng. Bất thình lình, chú trâu đực nhảy ngang qua đất bằng và biển rộng với một sức mạnh khủng khiếp, bước đi trên sóng chẳng khác nào trên đất liền. Chú trâu ấy, kỳ thực chính là Zeus, chúa tể của các vị thần biến thành. Zeus mang Europa ngang qua biển Địa Trung Hải đến vùng đảo Crete của Hy Lạp, và cưới nàng ở đó. Kể từ đấy, miền đất mà Zeus mang Europa đến được biết đến dưới cái tên Europe, chính là châu Âu ngày nay. - Song Tử (Gemini – Sinh Đôi) (21/5 – 21/6) Hai anh em song sinh Castor và Pollux là con của Zeus, chúa tể trong tất cả mười hai vị thần trên đỉnh Olympus, và nữ hoàng của thành Sparta. Đó là hai đứa trẻ trung hậu, rất dũng cảm và cùng nhau nổi danh khi lập được nhiều chiến công hiển hách trong cuộc hành trình của nhóm thủy thủ tàu Argo vĩ đại, và trong biết bao cuộc phiêu lưu khác. Bất kể khi nào, hai anh em luôn luôn tìm cách giúp đỡ lẫn nhau. Trong một trận đánh, Castor bị tử trận sau một vết thương rất đau đớn. Trong nỗi buồn vô hạn, Pollux đã cố gắng tự sát theo anh. Nhưng khác với Castor, Pollux được thừa hưởng dòng máu của Zeus vua cha, nên là một chiến binh bất tử. Khi không còn cách nào nữa, cậu bé thốt lên lời khóc “Hãy để con chết thay Castor, thưa cha!”. Zeus thương tiếc vô cùng, đã đồng ý cho họ thay phiên nhau mỗi người được sống một ngày và đưa họ cùng bay lên bầu trời. Hai anh em hóa thành chòm sao Gemini, mỗi một ngày một người sẽ được sống trên thiên đàng và là ngôi sao được tỏa sáng, ngôi sao còn lại không sáng vì người kia lúc ấy đang ở trần gian. Cũng kể từ đó chòm sao Song Sinh được coi là biểu tượng cho tình bạn, tình anh em. - Cự Giải (Cancer – Con Cua) (22/6 – 22/7) Con cua trong chòm Cancer vốn là bạn của quái vật biển cả Hydra. Câu chuyện về chú cua này xuất hiện trong truyền thuyết về mười hai chiến công của Hercules thời kỳ chàng phải làm nô lệ cho Eurystheus, vì phạm tội giết vợ con mình trong một cơn điên do nữ thần Hera gây nên. Lần này Heracles buộc phải xóa sổ thế giới của Hydra ở Lerna. Vào lúc quái vật có nhiều đầu Hydra xông tới và quấn lấy Heracles, lần lượt từng cái đầu ghê sợ ấy bị Heracles cắt cho đến khi, đối với Hydra, tình thế thật là thê thảm. Nhìn người bạn của mình liều lĩnh mãi trong tuyệt vọng, chú cua bật khóc “Bạn Hydra của ta khổ quá!” và gan góc dùng những chiếc càng tấn công Heracles. Nhưng trước người anh hùng vĩ đại nhất của thần thoại Hy Lạp, chẳng có cơ hội nào cho chú cua cả, và chú bị chế ngự ngay lập tức. Nhìn thấy tình bạn này, các vị thần rất cảm động và đã đưa bức tranh ba nhân vật lên thành một chòm sao trên thiên đàng. - Sư Tử (Leo) (24/7 – 23/8) Hercules, người anh hùng xuất hiện trong rất nhiều thần thoại Hy Lạp, nhận lệnh từ vua Eurystheus thành Tiryns phải thực hiện mười hai nhiệm vụ vô cùng hiểm nghèo, mà sau này đã trở thành truyền thuyết mười hai chiến công của Heracles. Nhiệm vụ đầu tiên trong số ấy là chế ngự một con sư tử chuyên ăn thịt người ở rừng rậm Nemea. Với cung tên và thanh kiếm của mình, Hercules đã tấn công con quái vật ngay khi nó xuất hiện trước chàng. Thế nhưng, kẻ thù vốn là một con sư tử siêu phàm, bất tử với một tấm thân không hề sợ kiếm cung. Hercules bị nó ôm lấy cổ và ghì chặt trên đôi tay với toàn bộ sức mạnh khủng khiếp. Nhưng cuối cùng, chú sư tử siêu phàm nọ cũng không là ngoại lệ trước sức mạnh và khả năng chiến đấu tuyệt vời của Heracles, nên bị tiêu diệt. Chú sư tử có một không hai này đã được vinh danh vào một trong những chiến công lừng lẫy của Heracles. - Xử Nữ (Virgo – Trinh Nữ) (24/8 – 23/9) Demeter, nữ thần Mùa màng cai quản tất cả cây trái của nhân gian, chỉ có một người con gái duy nhất là nàng Persephone xinh đẹp. Một ngày, nàng đang mải hái hoa ngoài đồng thì mặt đất bỗng mở rộng ra và Hades, vua của Địa ngục, xuất hiện, bắt nàng đi trên một cỗ xe ngựa màu đen. Quá đau buồn và thương nhớ con gái yêu quý của mình đã bị mang về Địa ngục, Demeter bỏ đi ở ẩn trong một hang động. Kể từ khi không có bà, chẳng còn hoa trái nào có thể lớn lên nữa và mặt đất trở nên khô cằn, hoang vắng vô cùng. Zeus thấy vậy bèn ra lệnh cho Hades trả Persephone lại cho Demeter. Nhưng trong thời gian bị giam giữ, Persephone trót ăn một miếng của quả lựu, và bất kỳ ai đã nếm thứ gì của Địa ngục đều phải chịu số phận phải sống ở đó. Vĩnh viễn Persephone sẽ chỉ được sống với mẹ trong một nửa của mỗi năm, nửa năm còn lại nàng phải về sống với Địa ngục. Và từ đấy Trái Đất có những mùa khác nhau. - Thiên Bình (Libra – Cái Cân) (24/9 – 23/10) Chòm sao Libra được coi là thứ cán cân mà với nó, Astraea – nữ thần Công Lý – có thể phân định ra thiện và ác. Ngày xưa, ở thời đại Vàng, lúc mà các vị thần dùng vàng để tạo ra giống người đầu tiên (trong thần thoại Hy Lạp, loài người trải qua 5 thế hệ: Vàng, Bạc, Đồng, Bán thần, và Sắt), cán cân của Astraea luôn hướng về sự công bằng. Con người và muông thú sống hạnh phúc với mùa xuân vĩnh hằng cứ dài suốt hàng năm. Khi thời đại Vàng qua đi, thời đại Bạc được thay thế, là lúc mà con người rất xấu xa và bản ác, kẻ mạnh ăn hiếp kẻ yếu. Các vị thần mệt nhọc rút lui về thiên đàng khi sự chịu đựng con người của họ đã khô kiệt. Chỉ mình Astraea còn ở lại với loài người để tiếp tục thực hiện sự công bằng. Rồi thời đại Đồng lại đến, con người trở nên hung bạo bội phần với những chiến tranh, chém giết. Cán cân của Astraea cứ tiếp tục nghiêng về cái ác, làm cho vị nữ thần này không thể chịu đựng được nữa‎, cuối cùng cũng rút lui khỏi thế gian về với thế giới Slanper. - Thiên Yết (Scorpius – Bọ Cạp) (24/10 – 22/11) Theo thần thoại Hy Lạp, cung Scorpius đề cập tới con bọ cạp được nữ thần Hera (hoặc có thể là Gaia) phái đi giết thợ săn Orion, con bọ cạp đã bất ngờ từ dưới đất chui lên tấn công Orion. Mặc dù bọ cạp và Orion xuất hiện cùng nhau trong truyền thuyết này nhưng chòm sao Orion gần như đối lập với chòm sao Scorpius trên bầu trời đêm. Người ta cho rằng sự đối lập này là biện pháp của các vị thần nhằm ngăn chặn mối thù hận tiếp diễn giữa bọ cạp và Orion. Tuy nhiên trong một số dị bản khác, thần Apollo mới là người cử bọ cạp đi giết Orion, bắt nguồn từ sự ghen tuông ngày càng lớn của thần với Orion khi thấy Artemis ngày càng quan tâm tới chàng ta. Sau đó, hối hận vì hành động của mình, Apollo đã giúp Artemis treo hình ảnh của Orion lên bầu trời đêm. Tuy nhiên, hình ảnh của bọ cạp cũng được đưa lên trời, và mỗi khi bọ cạp xuất hiện trên đường chân trời thì ở phía bên kia của bầu trời, Orion bắt đầu lặn đi, Orion vẫn luôn phải bỏ chạy khỏi kẻ thù của mình. Bọ cạp cũng xuất hiện trong một dị bản về câu chuyện của Phaethon, đứa con xấu số của thần Mặt Trời Helios. Phaethon đã nài Helios cho phép mình cưỡi cỗ xe ngựa mặt trời một ngày. Vì quá nuông chiều con, Helios đã chấp thuận. Sau đó Phaethon đã mất điều khiển cỗ xe mặt trời. Lũ ngựa đã hoảng sợ khi trông thấy một con bọ cạp thần khổng lồ hung hãn chặn trên đường đi, và chúng đã kéo cỗ xe di chuyển khắp nơi trên bầu trời, không tuân theo sự điều khiển của Phaethon nữa. Truyền thuyết nói rằng vệt chuyển động của cỗ xe đã tạo ra chòm sao Eridanus. Cuối cùng, thần Zeus đã hất văng Phaethon ra khỏi cỗ xe bằng một tia sét để kết thúc sự hỗn loạn đó. - Bảo Bình (Aquarius – Người mang nước, Cái Bình) (21/1 – 19/2) Trong nhiều nền văn hoá cổ đại, kể cả Babylon, Ai Cập và Hy Lạp, có một vị thần tên “Thần mang nước” hay “Thần đổ nước”. Nước đã cưu mang và duy trì sự sống, do đó quyền lực làm cho nước đổ xuống tứ thiên đường nắm trong số quyền năng được con người cổ đại tôn kính nhất. Theo thần thoại Hy Lạp thì Zeus là “Thần mang nước”. Trong cương vị chúa tể của các vị thần, một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của ông là tạo ra bão. Chòm sao Aquarius là biểu tượng cho “Thần mang nước Zeus”. Một thần thoại khác lại nói đến Deucalion, người sống sót duy nhất trong trận Đại hồng thủy và “Thời đại đồ sắt” trong thần thoại Hy Lạp. Ở thời đại này con người cũng tàn bạo như thú dữ giết chóc lẫn nhau, bất kể cha con. Lời giáo huấn của thần thánh ko có giá trị gì với họ. Thất vọng, Zeus tạo ra trận lụt lớn trên trái đất, giết chết mọi người trừ Deucalion và vợ Pyrrha (Trong chuyến thăm trái đất cuối cùng, Zeus thấy cặp vợ chồng này dù sống trong túp lều đơn sơ ko có đủ thức ăn, vật dụng vẫn cung cấp đầy đủ thức ăn chỗ ở cho mình nên ông mới cho họ sống qua trận lụt) đồng thời giúp họ tạo ra chủng tộc người mới mạnh hơn và có đạo đức. Deucalion chính là “Người mang nước” đặc trưng bằng chòm sao Aquarius. - Song Ngư (Pisces – Đôi Cá) (20/2 – 20/3) Aphrodite, nữ thần sắc đẹp, và con trai Eros, thần tình yêu, đang đi dọc bờ sông thì con quỷ Typhon thình lình ngoi lên lên mặt nước định hủy diệt họ. Typhon là hậu duệ của Gaia và Tartarus, tuy già nua nhưng có sức mạnh như một Titan với đôi mắt toé lửa. Thân hình cao chọc trời, Typhon không có ngón tay mà có 100 đầu rồng mọc lên từ bàn tay. Không có vị thần trên đỉnh Olympus nào đủ mạnh để hủy diệt Typhon. Cách duy nhất để tránh khỏi Typhon là biến hình thành con vật như cá để bơi đi. Aphrodite va Eros cũng biến thành cá, bơi vào nhánh sông và được hai con cá khác dẫn đường đưa đến nơi an toàn. Chòm sao Song Ngư có biểu tượng hai con cá đan đuôi vào nhau để tưởng nhớ hành động cứu giúp thần sắc đẹp và tình yêu.
  16. Đền Quan Thánh (Võ Miếu) Cuối đường Phan Đình Phùng (TP Hà Tĩnh) về phía đông bắc khoảng 200m, trên địa phận phường Tân Giang, thị xã Hà Tĩnh, có một ngôi đền cổ kính, với ngôi thượng điện 8 mái, đường giải đỉnh với những đầu rồng cách điệu cao vút vượt lên cả không gian xung quanh… Đó là đền Quan Thánh, còn gọi là Võ Miếu, thờ Quan Võ, tự Họ Trường, sau đổi là Vân Trường, một võ tướng có tài mưu lược và rất mực trung nghĩa, là anh em kết nghĩa với Lưu Bị và Trương Phi thời Tam quốc. Võ Miếu ban đầu chỉ là ngôi nhà gỗ lợp tranh. Năm 1898, được xây dựng lợp ngói, nhưng hơn 20 năm sau bị hư hỏng nặng. Đến năm 1922 (Khải định năm thứ 7), Võ Miếu được sửa chữa lại, bổ sung và mở rộng như ngày nay. Nguyên xưa Võ Miếu chỉ thờ có Quan Thánh, gồm tượng Ngài đặt ở giữa, hai bên là tượng Châu Bình và Châu Xương. Võ Miếu xây dựng quy mô lớn trên diện tích dài 70m, rộng 44m, cấu trúc theo kiểu chữ “ Môn”, với cổng Tam quan, hai toà nhà hạ và thượng điện, quay hướng Nam. Các bộ phận nội ngoại thất liên hoàn chặt chẽ, đăng đối và hài hoà. So với nhiều di tích trên địa bàn Hà Tĩnh, cổng Tam quan Võ Miếu có quy mô và kiến trúc đẹp trong một không gian ba chiều, vừa tách bạch vừa liên hoàn và trang nghiêm. Hai bên cổng có hai cột nanh to, trên đỉnh đắp hai con nghê đang chầu. Cổng có 3 cửa ra vào, phía trên được trang trí mặt hổ phù, chim phượng cuốn thư phía dưới có đề 3 chữ “Quan Thánh từ” và câu đối… Nhà Hạ điện dài 10,6 m, rộng 8, 7 m với 3 gian xây tường bao quanh. Cửa chính hình vòm cung trên có 3 chữ Hán “Trạc quyết linh”. Hai cửa hai bên cấu trúc giống nhau, trên đề hai chữ Hán “Trung Can” và “ Nghĩa Khí”. Xung quanh treo nhiều biển gỗ sơn son thiếp vàng khắc một số chữ Hán. Nhà Thượng điện là một ngôi nhà chồng diêm 8 mái, gian giữa có một hương án sơn son trang trí đẹp, phía trên bài trí các đồ thờ, tiếp đến là bệ long ngai đặt 4 pho tượng bằng gỗ sơn son đó là tượng Quan Công (chính giữa) xung quanh là tượng Châu Bình, Châu Xương và Trần Hưng Đạo. Ngoài kiến trúc nghệ thuật độc đáo, việc tôn thờ một dũng tướng có tài mưu lược và trung nghĩa như quan Vân Trường làm cho Võ Miếu trở thành di tích văn hoá giàu ý nghĩa lịch sử và nhân văn. Hà Tĩnh Online - Như thế chứng tỏ Lưu Bị không phải là cháu của Hán cao tổ như sử sách Trung Hoa vẫn nói?
  17. LỊCH SỬ LOÀI NGƯỜI TRÊN TRÁI ĐẤT Lịch sử loài người được phác hoạ sau đây có cơ sở từ nhiều nguồn tư liệu khác nhau: sách Kinh, dẫn liệu của các Bậc được bí truyền, thông tin từ các latma và đạo sư... Điều đáng chú ý trước tiên là con người đã xuất hiện nhờ sự cô đặc phần “hồn” dần dần. Cho đến nay, trên Trái đất đã tồn tại 5 chủng tộc (chúng ta thuộc chủng tộc thứ Năm), chủng tộc sau xuất hiện trong lòng chủng tộc trước và dần dần thay thế nhau. Lịch sử loài người được phác hoạ sau đây có cơ sở từ nhiều nguồn tư liệu khác nhau: sách Kinh, dẫn liệu của các Bậc được bí truyền, thông tin từ các latma và đạo sư... Điều đáng chú ý trước tiên là con người đã xuất hiện nhờ sự cô đặc phần “hồn” dần dần. Cho đến nay, trên Trái đất đã tồn tại 5 chủng tộc (chúng ta thuộc chủng tộc thứ Năm), chủng tộc sau xuất hiện trong lòng chủng tộc trước và dần dần thay thế nhau. Vũ trụ và sự phát sinh con người Người cổ xưa cho rằng, vật chất phát sinh từ “khoảng không”. Nhà vật lý thiên tài Nga G. Sipop, người đã lập được phương trình mô tả vật lý Chân không (Tuyệt đối) mà bản thân Einstein không làm được, cũng đã ủng hộ ý tưởng như vậy. Mundasep và một số bạn ông cũng có đồng quan điểm này. Cái Tuyệt đối không đơn thuần là hư không (không có gì), đó là khoảng không chứa Cái gì đó(1). Trước mắt khoa học chưa biết Cái gì đó. Theo G. Sipop, các nguyên tử và phản nguyên tử phát sinh từ Tuyệt đối. Chúng sinh ra, đụng độ nhau và tiêu huỷ nhau. Nhưng có một lần cách đây nhiều tỷ năm, các nguyên tử và phản nguyên tử sau khi được tạo thành trong không gian đã tản đi ngay, nên mỗi thứ vẫn tồn tại. Vật chất đã phát sinh từ Tuyệt đối là như vậy. Vào thời gian đầu, tồn tại các trường xoắn siêu cao tần và các trường phản xoắn triệt tiêu lẫn nhau. Chúng cũng phát sinh từ Tuyệt đối. Nhưng đã xuất hiện một thời điểm, mà sau khi các trường xoắn và phàn xoắn được hình thành thì chúng đã tản đi mỗi thứ một nơi. Phần trường xoắn siêu cao tần đó tạo thành “thế giới vi tế” (thế giới phi vật lý hay thế giới tâm linh - BT). Theo giả thuyết của G. Sipop, giữa các trường xoắn của thế giới vi tế và ý thức có mối liên hệ trực tiếp bởi các trường xoắn là những chất chứa dusa và dukhơ(2). Như vậy, từ Tuyệt đối đã phát sinh ra hai thế giới: thế giới vi tế và thế giới vật thể. Thế giới vật thể phức tạp dần. Đã xuất hiện các sao, hành tinh, các hệ thiên hà v.v... Thế giới vi tế bao gồm các trường xoắn (vật chất siêu mịn và tinh tế) cũng phức tạp dần. Dần dần trong quá trình tiến hoá, trong thế giới vi tế đã xuất hiện các dukhơ là những khối năng lượng tinh tế kết đông dưới dạng các trường xoắn có khả năng bảo toàn vĩnh cửu trong mình một khối lượng thông tin to lớn. Những mối liên hệ thông tin đã được tạo ra giữa các dukhơ và dần dần đã tạo ra Không gian thông tin toàn thể. Có thể đây chính là Trung tâm điều hành sự sống, Cõi kia hay Chúa Trời như các tôn giáo đã nói tới. Trong khi ở thế giới vi tế diễn ra quá trình hoàn thiện, giữ gìn và truyền tải thông tin thì tại thế giới vật thể tồn tại song song vẫn vô sinh và chưa có bản sắc. Thân thể người trong thế giới vật thể có thể đã được tạo ra bằng cách cô đặc phần dukhơ dần dần. Hình thái sự sống trong thế giới vi tế phải được hoàn thiện đến một mức nào đó mới có thể dùng năng lượng của thế giới đó tạo ra bộ gen và thân thể người. Không phải ngẫu nhiên mà người xưa nói rằng: ‘Con người là tiểu vũ trụ”. Cùng với sự tạo ra con người, các dạng sự sống đơn giản hơn cũng được sinh ra ở thế giới vật thể: con vật, côn trùng, cây cỏ... Nguyên lý tạo thế giới thực vật và thế giới động vật vẫn như vậy - bằng cách cô đặc dần dần các dạng trường xoắn đơn giản hơn của thế giới vi tế. ******************************************************************************** KNTL - Chúng tôi sẽ trích giới thiệu một số khía cạnh khác thường của cuốn sách “Chúng ta thoát thai từ đâu?” (tác giả người Nga Erono Mundasep, Hoàng Giang dịch, NXB Thế giới, Hà Nội, 2002, 532 trang). Đây là cuốn sách có nội dung kỳ lạ về Khoa học và Tâm linh của một nhà bác học Nga nổi tiếng thế giới, đặc biệt là trong lĩnh vực y học... GIỚI THIỆU TÁC GIẢ Erono Mundasep là Tiến sĩ y học, Giáo sư, Giám đốc Trung tâm phẫu thuật mắt và tạo hình liên bang thuộc Bộ Y tế Nga, Thầy thuốc Công huân, nhà phẩu thuật thượng hạng, nhà tư vấn danh dự thuộc Đại học Luinsvin của Mỹ, Viện sĩ Viện hàn lâm Nhãn khoa của Mỹ, bằng bác sĩ nhãn khoa của Mehico, kiện tướng du lịch thể thao. Erono Mundasep được coi là nhà bác học lớn trên trường quốc tế. Ông là người khai sáng phương hướng mới trong y học: phẩu thuật tái sinh hay phẫu thuật cấy ghép mô người. Ông là người đầu tiên trên thế giới tiến hành phẫu thuật cấy ghép mắt thành công. Những năm gần đây, ông bắt tay nghiên cứu các cơ sở của phẫu thuật tái sinh hàng loạt bộ phận cơ thể người. Erono Mundasep đã nghiên cứu 90 loại phẫu thuật mới, sáng chế và đưa vào ứng dụng 60 loại nguyên liệu sinh học alloplant, đã có trên 300 công trình khoa học được đăng tải, đã nhận 36 bằng sáng chế của Nga và nhiều nước khác trên thế giới. Ông đã đi thỉnh giảng và phẫu thuật trên 40 nước. Hàng năm, ông thực hiện khoảng 600-800 ca phẫu thuật phức tạp nhất. Bản thân nhà bác học cho đến nay vẫn thú nhận rằng, ông chưa hiểu thực chất của sáng chế chủ yếu của mình là nguyên liệu sinh học “alloplant” được chế tạo từ mô người chết, mang trong nó những cơ cấu tự nhiên cao sâu trong việc sáng tạo cơ thể con người. Vì thế, trong quá trình nghiên cứu ông không chỉ tiếp xúc với các nhà khoa học thuộc nhiều lĩnh vực như vật lý, sinh học phân tử v.v... mà còn tìm hiểu cơ sở của các tín ngưỡng tôn giáo và huyền học, nghiên cứu năng lượng tâm thần, cũng như những vấn đề liên quan đến nguồn gốc loài người và Vũ trụ. Phần 1 CHÚNG TA THOÁT THAI... Lịch sử loài người được phác hoạ sau đây có cơ sở từ nhiều nguồn tư liệu khác nhau: sách Kinh, dẫn liệu của các Bậc được bí truyền, thông tin từ các latma và đạo sư... Điều đáng chú ý trước tiên là con người đã xuất hiện nhờ sự cô đặc phần “hồn” dần dần. Cho đến nay, trên Trái đất đã tồn tại 5 chủng tộc (chúng ta thuộc chủng tộc thứ Năm), chủng tộc sau xuất hiện trong lòng chủng tộc trước và dần dần thay thế nhau. Các giai đoạn phát triển loài người Có thể phân chia sự phát triển nhân loại thành mấy giai đoạn sau đây: giai đoạn người giống thiên thần và ma, giai đoạn người Lemuri, giai đoạn người Atlan và giai đoạn người văn minh chúng ta. Giai đoạn người giống thiên thần và ma Nhiều triệu năm về trước, trên Trái đất xuất hiện những sinh vật tựa thiên thần, cao tới 60 mét và hơn thế. Những người đó ở dạng năng lượng nên có thể đi xuyên vật cản đặc. Có nhiều thứ sống trong thiên nhiên cũng chưa đặc: cây cối, con vật v.v... Tuy vậy, những người chưa đặc cũng có bộ gen cho phép tái tạo dòng giống tựa như họ nhờ cách đâm chồi và phân chia. Những người tựa thiên thần khi sống phải tuân thủ quy luật của thế giới vi tế và liên hệ trực tiếp với Cõi kia. Họ khó có thể thay đổi và thực hiện được điều gì trong thế giới vật thể đông đặc hơn họ nhiều. Vì vậy, tiến trình hoàn thiện dukhơ có quan hệ trực tiếp với sự năng động của con người, nó cũng đã diễn ra từ từ. Có thể gọi giai đoạn người giống thiên thần là thời kỳ hài nhi của nhân loại. Mặc dù Cõi kia và dukhơ đã hỗ trợ những người xuất hiện trên Trái đất, nhưng thực tế đã không nhận được gì thay thế. Trong quá trình tiến hoá, thân thể người được cô đặc dần, nhỏ đi về kích thước và con người từ chỗ giống thiên thần (chủng tộc thứ Nhất) đã chuyển thành người giống ma (chủng tộc thứ Hai). Người giống ma có một mắt nhìn thấy trong thế giới vi tế, họ cũng sinh sôi bằng cách đâm chồi và phân chia, có thể đi xuyên vật cản đông đặc, nhưng đã có thể làm một số việc trong thế giới vật thể chỉ nhờ năng lượng của thế giới tế vi như tác động lên lực hấp dẫn để di chuyển vật nặng. Người giống ma bắt đầu hoạt động tích cực trong thế giới vật thể, nó đã đem lại những kết quả đầu tiên đối với việc hoàn thiện dukhơ ở Cõi kia. Từ thời kỳ hài nhi, loài người chuyển sang thời kỳ ấu thơ. Giai đoạn người Lemuri Việc cô đặc dần dần thân thể người giống ma đến một mức nào đó đã làm xuất hiện người Lemuri (chủng tộc thứ Ba). Người Lemuri sơ kỳ cao gần 20 mét, có hai mặt, 3 mắt và bốn tay. Hai tay phía trước phục vụ hai con mắt trong thế giới vật thể, còn hai tay phía sau phục vụ con mắt trong thế giới vi tế. Người Lemuri không còn khả năng đi xuyên qua vật cản đông đặc, nhưng nhờ có bốn tay nên đã làm được nhiều việc trong thế giới vật thể. Họ có thể không những sử dụng có hiệu quả năng lượng của thế giới vi tế (tác động lên lực hấp dẫn, tác động lên loài vật...), mà cả năng lượng của thế giới vật thể (sử dụng cơ bắp, lửa, nước...). Bộ gen của họ đã hoàn thiện tới mức là đã có sự phân chia giới (nam và nữ) để có thể sinh con cái. Quá trình cô đặc thân thể vẫn được tiếp diễn, tầm vóc người Lemuri trung kỳ (Lemuri - Atlan) nhỏ dần, cao chỉ còn 10 mét. Con mắt thứ ba ở phía sau tụt vào khoang sọ, nhưng vẫn giữ các chức năng là cơ quan điều chỉnh sang sóng của Cõi kia. Hai tay phía sau phục vụ con mắt thứ ba biến mất. Người Lemuri hậu kỳ sống nửa dưới nước, có những cái mang nhỏ giúp họ hít thở dưới nước. Họ xây dựng các đô thị to lớn, có trình độ kỹ thuật cao (thiết bị bay, chinh phục vũ trụ...), có nền khoa học phát triển, biết cách sử dụng nội năng để chữa bệnh. Tuổi thọ của họ vào khoảng 1000 - 2000 hoặc nhiều hơn. Người Lemuri hậu kỳ biết sử dụng toàn diện năng lượng của thế giới vật thể, nhưng công nghệ của họ dựa chủ yếu vào sự hiểu biết quy luật của thế giới vi tế. Người nào cũng có quan hệ với Cõi kia, thu nhận kiến thức từ đó, còn sự hoạt động của họ có tác dụng bổ sung tri thức cho Cõi kia. Họ có khả năng ngồi thiền và nhập định dễ dàng. Những người Lemuri ưu tú nhất biết cách phi vật chất hoá và vật chất hoá (giảm hoặc tăng cô đặc vật chất). Họ thông thạo thuật khinh thân (bay nhanh trong không trung). Thậm chí, họ có thể phi vật chát hoá và vật chất hoá cả máy bay hay những thiết bị khác. Cõi kia có thể tự hào về đứa con của mình đã sinh ra - con người ở thời kỳ văn minh. Những người Lemuri không chỉ chinh phục được thế giới vật thể và củng cố hình thái của sự sống vật thể, họ còn bằng các hoạt động nghiên cứu và việc thiện của mình đã làm phong phú trường xoắn của Không gian thông tin toàn thể (Cõi kia hay Chúa Trời), bổ sung thông tin mới cho nó. Họ đã đạt được mục tiêu là tạo dựng cuộc sống ở mức cao trong thế giới vật thể, thúc đẩy quá trình hoàn thiện và phát triển sự sống nơi thế giới vi tế. Trong lịch sử nhân loại, giai đoạn người Lemuri kéo dài và tiến bộ hơn cả. Khi đó cái Thiện và Tri thức được tôn vinh trong nhiều triệu năm đã đem đến sự tiến bộ mà vĩ lẽ đó mà Cõi kia đã tạo dựng nên loài người. Tuy nhiên, trong lòng nền văn minh Lemuri phát triển cao đã diễn ra quá trình thay thế tri thức bởi nạn sùng bái quyền lực. Kiến thức bị sử dụng vào việc giành giật quyền lực, sự tôn sùng cái Thiện dần bị phá vỡ và cái Ác xuát hiện. Bắt đầu sản xuất vũ khí, người Lemuri chia thành các nhóm đe doạ thù địch nhau. Bầu âm khí xuất hiện trên mặt đất. Không gian thông tin toàn thể được tiếp nhận ở người Lemuri không những về kiến thức và năng lượng tâm thần tích cực, mà cả tâm năng tiêu cực(3), gây tác động huỷ hoại lên trường xoắn của Cõi kia. “Kho tư liệu” về sự sống trên Trái đất đã được thiết lập trong suốt thời kỳ tiến hoá của con người và tập trung trong các trường xoắn của Cõi kia đã bị huỷ hoại. Tại sao người Lemuri từ chỗ đề cao tri thức lại chuyển sang tôn sùng quyền lực? Khó cắt nghĩa vì sao lại xảy ra như vậy. Có thể người Lemuri đã phạm phải một tội tầy đình - họ tự cho mình là cao siêu nhất trong Vũ trụ mà quên mất chính Cõi kia đã sinh ra họ. Điều rõ ràng là, trong số những người Lemuri chỉ có thể có một “Chúa” (người cầm đầu), cho nên họ phải tiến hành chiến tranh để giành ngôi thứ. Những người Lemuri phát triển nhất (những người có kinh nghiệm phi vật chất hoá, vật chất hoá và di chuyển trong không gian) đã hiểu rằng, Chúa Trời không để tâm năng tiêu cực tác động huỷ hoại kéo dài, có thể dẫn đến xoá bỏ “kho tư liệu” về sự sống trên Trái đất trong các trường xoắn của Cõi kia. Họ cũng đã hiểu rằng, cả thể giới vật thể lẫn thế giới vi tế có cùng một khởi nguồn là Tuyệt đối, rằng thế giới vi tế tiến bộ trước thế giới vật thể và vì vậy, có thể có ảnh hưởng lên Tuyệt đối, mà kết quả là các khách thể vũ trụ (hành tinh, thiên thạch...) sẽ thay đổi và tiếp theo là thảm hoạ toàn cầu. Nhiều người Lemuri hiểu là tất yếu sẽ có thảm hoạ, nên đã bỏ đi vào hang động, nhập định và tổ chức Quỹ gen nhân loại (phòng khi loài người bên ngoài bị huỷ diệt toàn bộ). Những người Lemuri phát triển nhất đã sử dụng khả năng phi vật chất hoá và vật chất hoá để chuyển xuống dưới lòng Trái đất. Họ mang theo các máy móc thiết bị, lập nên Sambala và Agatchi để bảo toàn và phát triển công nghệ văn minh Lemuri, gìn giữ "Quỹ gen nhân loại". Rồi thảm hoạ toàn cầu đã xảy ra. Nền văn minh của người Lemuri trên mặt đất đã bị tiêu vong. Cái giá của sự đề cao quyền lực, thay vì tri thức, đã dẫn đến hậu quả thê thảm như vậy. Đấng Trí Tôn không thể để “kho tư liệu” về sự sống trên Trái đất trong các trường xoắn của Cõi kia bị phá huỷ hoàn toàn. Và chỉ Sambala và Agachi còn lại, những cái đó như một biểu tượng của nền văn minh Lemuri hùng vĩ và tiếp tục bổ sung kiến thức cho Cõi kia. Nhưng trước khi xảy ra thảm hoạ rất lâu, trong xã hội Lemuri đã bắt đầu sinh ra những người tầm vóc nhỏ hơn và có diện mạo khác thường. Họ cao khoảng 3-5 mét. Số lượng những người như vậy ngày càng gia tăng. Đó là đại diện đầu tiên của chủng tộc tiếp theo trên Trái đất - người Atlan. Một bộ phận người này đã sống sót sau thảm hoạ Lemuri và còn lại như những bộ lạc người thiểu số. Giai đoạn người Atlan Người Atlan thời kỳ văn minh Lemuri về mọi mặt đều dựa vào kinh nghiệm và công nghệ của bậc đàn anh là người Lemuri - được coi là các Thiên tử. Nhưng sau khi nền văn minh Lemuri bị tiêu vong, người Atlan đã rơi vào hoàn cảnh nguy kịch - điều kiện sống trên Trái đất đã thay đổi, còn bậc đàn anh Lemuri lại không còn nữa. Trong số những người Atlan sống sót sau thảm hoạ, chỉ một số người tiếp tục tồn tại kiểu tự nhiên bán khai. Cũng như người Lemuri, người Atlan có “con mắt thứ ba” phát triển. Nhờ vậy, họ có thể tự điều chỉnh sang sóng của Không gian thông tin toàn thể và thu nhận từ đó kiến thức của người Lemuri. Nhưng kiến thức của người Lemuri ẩn chứa trong trường xoắn của Cõi kia không lộ ngay cho người Atlan biết. Bởi vậy, giai đoạn đời sống bán khai của người Atlan kéo dài rất lâu. Lý do mà người Atlan chưa thể sử dụng ngay được tri thức của người Lemuri có thể như sau: - Bộ nào người Atlan kém phát triển hơn người Lemuri. Cho nên khi tiếp cận với Trường kiến thức toàn thể cũng không hiểu được gì. Quá trình tiến hoá lâu dài đã tạo cho họ thói quen dựa dẫm nhiều vào bậc đàn anh Lemuri, không cho họ khả năng tự phân tích kiến thức và áp dụng vào đời sống để tiến bộ. - Đấng Trí Tôn đã cắt mối liên hệ của người Atlan khỏi Không gian thông tin toàn thể (Cõi kia), tức là đưa ra nguyên tắc “SoHm” (hãy tự thể hiện mình). Có nhiều khả năng nguyên tắc “SoHm” đã có từ thời văn minh Lemuri khi tồn tại nhiều cuộc xung đột và quyền lực được đề cao. Nguyên tắc “SoHm” có lẽ có vai trò che chở các trường thông tin khỏi sự huỷ hoại của năng lượng tâm thần tiêu cực xuất phát từ Trái đất. Còn ở giai đoạn đầu văn minh Atlan, nguyên tắc đó chưa bị huỷ bỏ bởi chưa có gì đảm bảo là người Atlan sẽ là nguồn tâm năng tích cực. Chỉ có Sambala và Agatchi đề cao tri thức và tư tưởng hướng thiện là không bị nguyên tắc “SoHm” phong toả đường vào tri thức của Cõi kia. Trong một số tôn giáo có khái niệm “Thời hoàng kim”, khi mà tri thức cổ xưa luôn mở ra trước con người. Nói cách khác, “Thời hoàng kim” là thời kỳ mà nguyên tắc “SoHm” được huỷ bỏ đối với loài người và con người được tự do tiếp cận với tri thức cổ xưa của người Lemuri. Trong điều kiện phải tự xoay xở, nền văn minh Atlan đã phát triển rất chậm. Con người biết sử dụng thông thạo một số dạng năng lượng vật thể như sức cơ bắp, lửa, nước... để xây cất nhà cửa, tìm kiếm thức ăn (chủ yếu ở biển), sinh sống vừa dưới nước vừa trên cạn. Trong thời kỳ đó, thỉnh thoảng Sambala và Agatchi lại thả những người Lemuri từ Quỹ gen nhân loại ra để làm nhiệm vụ tiên tri. Cõ lẽ người Atlan khi thấy người Lemuri đã tung hô: “Các Thiên tử về rồi!”. Những người Lemuri “tiên tri” chủ yếu truyền cho người Atlan tinh thần bác ái và điều thiện là những thứ sẽ giúp cho sự tiến bộ xã hội Rồi văn minh người Atlan đã có những bước tiến nhảy vọt. Họ thông thạo khoa thần giao cách cảm, tác động tâm thần lên lực hấp dẫn, nắm được sức mạnh của thần chú và các dạng năng lượng khác của thế giới vi tế. Họ có khả năng dùng ánh mắt di chuyển vật nặng khi xây dựng phố phường, tự chữa bệnh bằng nội năng, sử dụng sức mạnh của thần chú trong ngành hàng không, xây dựng các thành phố lớn, máy vimana bay lượn trên bầu trởi, dưới nước có những đồn điền tuyệt vời, những đài kỷ niệm đồ sộ (vẫn còn đến ngày nay). Tất cả những thứ đó chứng tỏ người Atlan đã có một nền văn minh hùng hậu. Thế giới sống trong những sắc màu đỏ thắm. Vào thời kỳ đó, cái thiện và tình yêu thương là quy tắc sinh hoạt cơ bản của người Atlan. Tri thức được đề cao, nhưng chưa chắc chắn, bởi người Atlan nhờ con “mắt thứ ba” tự điều chỉnh sang sóng của Không gian thông tin toàn thể, bằng thần giao cách cảm dễ dàng thu nhận kiến thức của nền văn minh Lemuri. Con em của người Atlan không cần phải học hành tại các trường thấp cũng như cao. Nhờ sự phát triển của bộ não, kiến thức đã đến với họ từ không gian thông tin toàn thể. Kiến thức của nền văn minh Lemuri được lưu trữ trong các trường xoắn của Cõi kia phong phú tới mức mà người Atlan cảm thấy không cần phải khẩn trương phát triển khoa học, họ chỉ cần sử dụng một phần hiểu biết của người Lemuri cũng đủ rồi. Có vẻ như đã sinh ra thói quen “ăn không ngồi rồi” trong tìm hiểu và nghiên cứu khoa học. Thói “ăn không ngồi rồi” của người Atlan trong khoa học đã không thể đề cao được tri thức rất cần thiết để bổ sung vào trường thông tin của Cõi kia. Việc khó nhất là có được kiến thức mới, điều này thuộc chức phận của một số người có năng lực và tiến bộ nhất. Trong khi đó, người Atlan nào cũng có thể nhận được kiến thức bằng cách tự điều chỉnh sang sóng của Không gian thông tin toàn thể. Bởi vậy, các kiến thức dần dần đã lọt vào tay những kẻ háo danh và thiển cận, đã không đứng vững trước sự cám dỗ của quyền lực. Thế là thay vì tri thức, một số người Atlan đã đề cao quyền lực. Lòng tôn sùng cái Thiện đã không đương đầu nổi với những ham muốn quyền lực tiêu cực và có thể dẫn đến những hiểm hoạ mới. Người ta cho rằng, con người đã được sắp đặt để luôn luôn được hướng tới một cái gì đó. Con người được tạo ra như một thực thể tự phát triển. Vì vậy, ý nguyện của con người cần được hướng vào đâu đó. Vào chỗ nào? Câu trả lời thật giản đơn: kiến thức và cái Thiện. Việc đề cao cái Thiện và tri thức là thứ cấu thành chủ yếu sự tiến bộ của cả nhân loại. Nếu khác đi thì sẽ là tình trạng sùng bái quyền lực và đi kèm là cái Ác và hậu quả tất yếu sẽ là sự diệt vong. Tình hình sùng bái quyền lực ở người Atlan gia tăng. Họ được chia thành những nhóm người kình địch nhau. Kiến thức của Cõi kia do tiếp nhận của người Lemuri đã bị người Atlan sử dụng để chế tạo vũ khí. Bắt đầu những cuộc chiến tranh triền miên. Các trường xoắn của Cõi kia tiếp nhận một số lượng lớn năng lượng tâm thần tiêu cực. Nhìn thấy trước sẽ có thảm hoạ toàn cầu, những người Atlan tiến bộ nhất đã bỏ vào hang động và nhập định, bổ sung Quỹ gen nhân loại. Có cảm tưởng rằng, hiện tượng nhập định có tính chất đại chúng. Vì vậy, bộ phận chủ yếu của Quỹ gen nhân loại hiện nay vẫn là từ người Atlan. Sambala và Agatchi đã không ngăn cản được thảm hoạ toàn cầu, bởi các nhà tiên tri là người Lemuri không đủ khả năng thuyết phục, còn sử dụng quân sự thì không thể. Rất có thể người Atlan chưa đủ trình độ để bổ sung Quỹ gen nhân loại ở sâu trong mặt đất vì họ chưa đạt đến khả năng phi vật chất hoá và vật chất hoá là tối cần thiết trong điều kiện như vậy. Thảm hoạ đã xảy ra cách nay khoảng 850.000 năm. Trục Trái đất thay đổi vị trí, các cực chuyển chỗ, bắt đầu trận đại hồng thuỷ. Nguyên tắc phong toả “SoHm” lại phát huy hiệu lực. Nhưng nền văn minh Atlan không tiêu vong ngay một lúc. Một bộ phận (người Atlan da vàng) dùng thiết bị bay vimana đã kịp bay thoát tới vùng cao Himalaya (Tây Tạng) và sa mạc Gobi, những nơi trước đại hồng thuỷ là Bắc cực. Họ sinh cơ lập nghiệp trên bờ và các đảo của Nội hải, rồi sống ở đó thêm vài nghìn năm nữa. Nhưng cuộc sống cô lập, dân số ít ỏi và điều chủ yếu là không có kiến thức từ Không gian thông tin toàn thể đã làm cho xã hội như vậy đi đến chỗ thoái hoá, hoá hoang và diệt vong. Thói quen “ăn không ngồi rồi” của người Atlan đã làm hại họ. Một bộ phận khác (người Atlan da đen) đã sống sót ở những vùng cao của lục địa châu Phi. Nhưng họ nhanh chóng bị thoái hoá, hoá hoang và tiêu vong cũng vì các nguyên nhân như trên. Rất có thể, những người Atlan đen đó đã góp phần vào sự hình thành lớp người da đen ngày nay. Còn một bộ phận người Atlan thứ ba nữa cũng đã thoát chết nhờ sống trên hòn đảo Platon(4) ở khu vực Đại Tây Dương. Nhóm người Atlan này tiến bộ hơn cả. Họ đã không bị thất thoát kiến thức của mình trong hoàn cảnh không thể tiếp xúc với Không gian thông tin toàn thể do nguyên tắc phong toả “SoHm”. Họ vẫn tổ chức nghiên cứu khoa học, bảo toàn được công nghệ và bắt buộc mọi người phải tu thân hoàn thiện về mặt tâm linh mà không có sự hỗ trợ trực tiếp của Cõi kia. Người Atlan trên đảo Platon đã tự khẳng định được mình trong điều kiện mới của Trái đất và sống qua một thời kỳ dài từ năm 850.000 đến năm 11.000 về trước. Trong thời kỳ đó, nước của trận Đại hồng thuỷ tràn ngập Trái đất rút dần đã để lộ ra những vùng đất mới, người chủng tộc mới (chủng tộc thứ Năm, lớp người của thời dại chúng ta) đã đến sống ở đó. Đối với người Atlan, những người mới đó bé nhỏ (cao 2-3 mét), nhưng hiếu chiến và đần độn. Người Atlan đảo Platon đã gây chiến với một số người mới này, nhưng cũng như duy trì tình hữu nghị với một số người mới khác. Ví dụ, người Atlan đảo Platon đã có liên hệ chặt chẽ với người Ai Cập cổ đại, dạy bảo họ nhiều kỹ thuật của mình và cùng họ xây nên những kim tự tháp Ai Cập. Khi di chuyển các vật cực nặng (khối đá), họ đã dùng tâm năng tác động lên lực hấp dẫn. Các kim tự tháp đã được xây dựng cách đây khoảng 75.000 - 80.000 năm. Sau khi xây xong kim tự tháp, nhiều người Atlan và cả một số đại diện người Ai Cập đã chuyển xuống dưới kim tự tháp ở. Họ nhập định và bổ sung Quỹ gen nhân loại. Nhưng rồi cách nay 11.000 năm, các nhà thiên văn người Atlan đảo Platon đã tiên đoán sao chổi Chifon sắp lao vào Trái đất. Và sao chổi này đã rơi xuống vùng Đại Tây Dương. Nơi cư trú cuối cùng của người Atlan đảo Platon đã bị chìm sâu xuống biển. Nền văn minh Atlan tiêu vong hoàn toàn kể từ đó. Giai đoạn tồn tại nền văn minh Atlan ngắn ngủi hơn nhiều so với nền văn minh Lemuri và kém xa về mặt tiến bộ. Giai đoạn người arian Không hiểu vì sao mà chúng ta quen gọi người Jecman là người Arian. Điều này không đúng. Trong tất cả các nguồn tư liệu cổ đại, người thuộc nền văn minh chúng ta đều được gọi là người Arian. Người Arian đã xuất hiện trong lòng nền văn minh Atlan có mặt gần một triệu năm về trước. Trong số người Atlan bắt đầu sinh ra những người có tầm vóc thấp hơn, không có màng giữa các ngón chân, mũi và bàn chân to bè. Những người này thích nghi với đời sống trên cạn hơn, vì thế có nhiều thuận lợi hơn so với người Atlan. Những người có ngoại hình khác thường đó năng động và có sức làm việc hơn, nhưng về mặt tâm linh và đặc biệt về khả năng tạo tác động tâm năng thì thua kém người Atlan nhiều. Tuy vậy, khả năng tâm linh của họ phát triển cao hơn đáng kể so với loài người ngày nay. Nhờ học hỏi bậc tổ tiên Atlan của mình, người Arian thông thạo một số dạng năng lượng của thế giới vi tế; họ có thể nhập định và tạo hiệu quả thần giao cách cảm cũng như điều khiển từ xa. Những người Arian đầu tiên cao khoảng 2-3 mét. Ở giai đoạn cuối của nền văn minh Atlan, khi đã xuất hiện những người Arian đầu tiên, nguyên tắc phong toả “SoHm” hết hiệu lực. Vì thế, cả người Arian và người Atlan đều có thể sử dụng kiến thức của Cõi kia. Con cháu của những người Arian đầu tiên cũng không đi học. Khả năng tiếp thu kiến thức từ Không gian thông tin toàn thể tuỳ thuộc vào sự phát triển của bộ não. “Mắt thứ ba” ở những người Arian đầu tiên phát triển, nhưng về mặt cơ năng kém hơn người Atlan. Họ có nhiều tính vật chất và phàm tục hơn người Atlan. Giai đoạn sinh tồn đầu tiên của những người Arian trùng với thời kỳ hiềm khích, chiến tranh giành quyền lực của người Atlan. Những người Arian đầu tiên đã hấp thụ đức tính sùng bái quyền lực của người Atlan, tính này được lưu giữ trong nền văn minh Arian của chúng ta cho đến tận ngày nay. Cùng với người Atlan, những người Arian đã tham gia các cuộc chiến tương tàn. Họ tỏ ra dai sức và ít đòi hỏi quyền lợi hơn người Atlan. Người Arian cũng nhận thức được sắp có thảm hoạ toàn cầu, nhưng tính sùng bái quyền lực của họ đã trội hơn. Trước khi xảy ra thảm hoạ, có nhiều người Arian đã bỏ vào hang động, nhập định và bổ sung vào Quỹ gen nhân loại. Rất có thể, những người Arian đầu tiên biết được và tôn sùng Sambala và Agatchi, sùng kính người Lemuri là “Thiên tử”. Trước khi xảy ra tai biến toàn cầu, có nhiều người Arian đã nhập định không những nhằm mục đích bổ sung Quỹ gen nhân loại, mà còn để tránh thảm họa. Phần lớn những người Arian và cả người Atlan đều đã chết trong thời gian trận Đại hồng thủy sau đó. Chỉ có số ít người sống sót trên khu vực không bị ngập lụt. Bắt đầu thời kỳ khó khăn vì nhà cửa, máy móc và công nghệ bị mất sạch. Nhưng khó khăn nhất vẫn là điều con người bị tách khỏi tri thức của Cõi kia do hiệu lực của nguyên tắc “SoHm”. Hầu hết con người bị hóa hoang và chuyển sang đời sống nguyên thủy. Trong bối cảnh đó, người Arian đã thường xuyên gây chiến với người Atlan còn lại. Người Arian tỏ ra thích nghi hơn với điều kiện sống khắc nghiệt và đẩy lùi người Atlan ở nhiều khu vực. Họ nhanh chóng dọn đến những vùng nước vừa rút để xây dựng làng xóm. Còn người Atlan vẫn sống thành từng khu biệt lập. Do ít người và những cuộc hôn nhân đồng huyết thống nên họ bị suy thoái dần. Sự tiến bộ của xã hội người Arian không kéo dài đến 100.000 năm. Lý do là sau trận Đại hồng thủy, đất đai trong một thời gian dài chỉ toàn là đá, sự cô lập và hôn nhân đồng huyết thống đã làm cho các chỉ số di truyền của người Arian ngày càng xấu đi. Có một số tư liệu cho biết rằng, vào thời gian đó Quỹ gen nhân loại đã xuất ra không ít các nhà tiên tri (ở dạng Phật), nhưng hình như sự hoạt động của họ không có kết quả. Tầm vóc của người Arian nhỏ dần, chỉ còn cao 1,5 mét và nhanh chóng trở thành các bộ lạc mọi rợ. Dường như khoảng 100.000 - 200.000 năm về trước có ba nhóm người Arian chủ yếu sinh sống ở vùng Tây Tạng, miền Nam châu Phi và Địa Trung Hải. Nhưng hai nhóm đầu hoàn toàn thoái hóa và hóa hoang, chỉ còn nhóm Địa Trung Hải từ từ đi trên con đường tiến bộ và kết quả đã hình thành nên nền văn minh Ai Cập cổ đại. Nền văn minh Ai Cập cổ đại đã phát triển cao, có lẽ kim tự tháp là công trình hợp tác của họ với người Atlan đảo Platon. Sự tiêu vong của Ai Cập cổ đại có thể là do thảm họa của sao chổi Chifon va vào Trái đất (cách đây 11.000 năm) và sự diệt vong của người Atlan đảo Platon - những người có kiến thức và kinh nghiệm mà người Ai Cập vẫn sử dụng. Cách đây 18.013 năm, ở vùng Tây Tạng và Himalaya đã xuất hiện một bậc tiên tri mới. Một số người gọi Ngài là Manu, số khác gọi Ngài là Rama, còn số khác nữa gọi Ngài là Phật Ponpo. Nhà tiên tri này có tầm vóc to lớn và ngoại hình khác thường. Có vẻ như cặp mắt của Ngài đã được vẽ trên tất cả các đền chùa Tây Tạng. Dựa vào đặc điểm của đôi mắt, nhà tiên tri đó có nhiều khả năng là người Lemuri. Khoảng thời kỳ 18.000 năm về trước, nhân loại chủ yếu là các bộ lạc man rợ và bán khai, triển vọng phát triển ngày một thu hẹp. Chỉ có nền văn minh Ai Cập là nổi bật, nhưng cũng đã có những thoái hóa nghiêm trọng. Sambala và Agatchi đã tìm hiểu trong nền văn minh Arian, cuối cùng đã quyết định để người Lemurri làm nhiệm vụ tiên tri. Và đó chính là Phật Ponpo như trên đã nói tới. Ngài bắt đầu hoạt động ở vùng Tây Tạng bằng việc tuyển chọn những cặp vợ chồng tốt nhất của người Arian, rồi cách ly họ với các bộ lạc man rợ, dạy bảo họ cách sống, giúp đỡ họ nhân giống và xếp đặt nơi cư trú trên Trái đất. Chính những người như vậy đã lan tỏa ra khắp địa cầu, lấn át các bộ lạc bán khai. Tuy có pha trộn với các bộ lạc bán khai và có hiện tượng hóa hoang ở một số khu vực, nhưng những người Arian xuất thân từ Tây Tạng đã đem lại cho nền văn minh chúng ta sự tiến bộ dần dần. Nhà tiên tri người Lemuri đã ngăn chặn được con đường thoái hóa của chủng tộc Arian. Vì vậy, Ngài sẽ còn mãi mãi trong ký ức mọi người, còn đôi mắt của Ngài tô điểm cho các đền chùa Tây Tạng có ý nghĩa như biểu tượng của sự tiến bộ. Sambala và Agatchi luôn theo sát cuộc sống của người Arian. Nguyên tắc phong tỏa “SoHm” đã làm cho người Arian tôn sùng quyền lực và không né tránh cái Ác. Nhiều cuộc chiến tranh triền miên xảy ra. Dần dần con người không còn biết đến Cõi kia là gì. Khoảng trên dưới hai ngàn năm trước đây, đã xuất hiện một nhóm các bậc tiên tri như Phật Thích Ca, Chúa Jesus, Mohammed... để dạy bảo loài người kiến thức về Cõi kia. Hoạt động của các nhà tiên tri đó có kết quả rõ ràng, các tôn giáo ra đời ngày càng nhiều: đạo Phật, Ấn Độ giáo, đạo Hồi v.v... Tinh thần tôn vinh cái Thiện và tri thức gia tăng, nhưng không thắng nổi tư tưởng đề cao quyền lực và bắt tay với cái Ác. Trong tình hình như vậy không thể có chuyện tiết lộ tri thức cổ xưa của người Lemuri cho người Arian. Nhưng rồi vào các thế kỷ 18-19 của kỷ nguyên chúng ta, ở một số vùng trên thế giới đã xuất hiện sự sùng mộ kiến thức khác lạ, chỉ nghiên cứu thế giới vật thể (các tiến bộ KHKT, học thuyết tiến hóa...), không có sự tìm hiểu kinh nghiệm thần thánh. Người Arian như thể muốn tỏ rõ vẫn có tiến bộ khoa học kỹ thuật mà không cần đến kiến thức của Cõi kia. Song, sự tôn sùng kiến thức kiểu đó đã dẫn đến tai họa. Thảm họa nhanh chóng giáng xuống nhân loại là hai cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất và lần thứ hai. Tệ tôn sùng quyền lực đã làm cho sự hiện hữu các trào lưu tôn giáo trở nên nguy hiểm. Con người không nhận biết được một điều rằng: cội nguồn của mọi tín ngưỡng, tôn giáo là một. Đã đến lúc cần phải thống nhất các tôn giáo và xây dựng thành một Tín ngưỡng Duy nhất. Liệu bằng sự việc này có thể tránh được chiến tranh và thảm họa toàn cầu hay không? Chưa thể biết được! Năm 1999 là năm cuối và bắt đầu một giai đoạn mới của Phật lịch. Có nhiều nhà tiên tri đã phán rằng: thời điểm này chính là ngày tận thế. Hậu quả có khoảng 2/3 nhân loại sẽ bị hủy diệt. Họ còn cho biết thêm: sẽ xuất hiện các nhà tiên tri mới, các Ngài sẽ thống nhất các tín ngưỡng và tạo dựng Tôn giáo Thống nhất trên cơ sở cái Thiện và lòng nhân ái. Cũng sẽ xuất hiện nhiều tiên tri giả danh do lực lượng Ác phái đến. Nhân loại sẽ tiến dần đến “Kỷ nguyên của Chân lý” và được tiết lộ tri thức cổ xưa. Có hay không “Ngày tận thế?” Sẽ có Ngày tận thế hay không? Không thể có lời giải đáp đơn nhất cho câu hỏi này. Những người tiên đoán tương lai có lẽ đã dựa vào kiến thức của Không gian thông tin toàn thể mà họ có khả năng tiếp cận. Nhưng một số người cho rằng, thông tin ở trong đó về tương lai không phải là hoàn toàn xác định và bất biến, tất yếu xảy ra. Tất cả các thứ đó cũng chỉ là dự báo và kết cục cụ thể phụ thuộc phần lớn vào sự phát triển của nhân loại. Sự kiện Ngày tận thế có xảy ra hay không sẽ phụ thuộc nhiều ở chúng ta. Chúng ta cần ghi nhớ rằng, cái Thiện và tri thức sẽ thúc đẩy quá trình hiện thực hóa dự báo tích cực đối với sự phát triển của nhân loại, còn cái Ác và thói hám quyền lực có thể dẫn đến thảm họa toàn cầu trong tương lai, kể cả tận thế, hoặc tạo điều kiện phát triển yếu tố thụt lùi, dẫn đến hóa hoang. Nguyễn Hiếu (Sưu tầm và giới thiệu) (còn tiếp) ============================================= (1) Cái gì đó hay Tuyệt đối được gọi là lớp vật chất phi cấu trúc hay bình diện tâm thức trong cuốn sách “Vũ trụ và con người dưới góc độ khoa học tâm linh”. (2) Theo tiếng Nga, “dusa” có nghĩa là tâm hồn, nó ngụ ý phần cảm xúc và lý trí của con người. Trong thuyết tâm linh hiện nay, hai thứ đó được gộp làm một và được gọi là tâm trí. Còn từ “dukhơ” có nghĩa là linh hồn. Nó thường được dùng để chỉ một cái gì đó trường cửu của con người, vẫn tồn tại sau cái chết của thể xác. (3) Theo nhiều tài liệu tâm linh của Nga, năng lượng tâm thần (tâm năng) được sinh ra từ các ý nghĩ và xúc cảm của con người. (4) Đó chính là châu lục Atlan huyền thoại.
  18. Nhiều thế hệ chúng ta vẫn được dạy rằng, tổ tiên của loài người là khỉ. Cơ sở để rút ra điều đó là thuyết tiến hóa của các loài nói chung. Trong cuốn sách này lại bàn đến một giả thuyết ngược lại: rất có thể loài khỉ chỉ là một số con người thời xa xưa đã bị hóa hoang do hậu quả của những thảm họa toàn cầu... CHÚNG TA THOÁT THAI... - Phần 2 HIỆN TƯỢNG HÓA HOANG TRÊN TRÁI ĐẤT Không thể không nói đến sự kiện con người bị hóa hoang và sự suy biến của cả một dân tộc thành những bộ lạc bán khai và hoang dã. Rất có thể, hóa hoang là yếu tố thụt lùi trong quá trình tiến hóa của nhân loại từ thời xa xưa và không thể coi nhẹ vai trò của hiện tượng này Khỉ từ người hay người từ khỉ? Chương trình học tập ở nhà trường cho chúng ta biết là con người thoát thai từ khỉ. Nhưng một số người lại khẳng định rằng, loài khỉ bắt nguồn từ con người. Lý lẽ của họ cũng tương tự như thuyết “tiến hóa”, chỉ khác là thay cho từ “tiến hóa” cần phải sử dụng từ “hóa hoang”. Có thật như vậy không? Rất khó khẳng định điều này hoặc điều kia. Nhưng giả thuyết loài khỉ có nguồn gốc từ người cũng xác đáng, chẳng thua kém giả thuyết coi người thoát thai từ khỉ, bởi vì trong tự nhiên ngoài quá trình tiến hóa đi lên, còn có quá trình thoái hóa thụt lùi; đối với loài người đó là hóa hoang. Dựa vào các nguồn tư liệu phương Đông, có thể nói đến hiện tượng con người hóa hoang hàng loạt liên quan đến các thảm họa toàn cầu. Hiện tượng này đã xảy ra với cả người Atlan cũng như người Arian (chủng tộc người thời đại chúng ta). Có lẽ chỉ người Lemuri là không bị hóa hoang hàng loạt (không loại trừ trường hợp hóa hoang cục bộ). Vào thời kỳ xảy ra thảm họa toàn cầu, đại bộ phận người Lemuri đã chết. Chỉ một bộ phận nhỏ người Lemuri ưu tú với khả năng đặc biệt phi vật chất hóa và vật chất hóa đã chuyển xuống lòng đất và tổ chức nên Sambala và Agatchi. Trong hệ thống đời sống song song (Sambala và Agatchi), người Lemuri đã đạt tầm mức phát triển cao nhất. Khó mà tin được là người Lemuri bị hóa hoang. Người Atlan hai lần đã bị hóa hoang hàng loạt. Sinh ra trong lòng nền văn minh Lemuri, một bộ phận người Atlan đã thoát khỏi thảm họa toàn cầu xảy ra cách nay 850.000 năm. Ngay sau đó, họ không còn sự hướng dẫn của người Lemuri và tụt dần xuống đời sống nguyên thủy. Các bộ lạc Atlan hóa hoang đã bị các bộ tộc tiến bộ lấn át dần dần và quá trình đó cứ tiếp diễn mãi cho tới khi được phát hiện ra những ghi chép viễn cổ của người Lemuri. Đợt người Atlan hóa hoang hàng loạt lần thứ hai đã xẩy ra tại một thời kỳ khá xa so với trận Đại Hồng Thủy cách đây 850.000 năm. Sau một thời gian dài nhất định, người Atlan càng ngày càng quên nền văn hóa của mình và dần trở lại đời sống hoang dã: họ lấy da thú rừng làm quần áo che thân, ăn quả dại và săn thú để thêm nguồn dinh dưỡng. Phần lớn người Atlan hóa hoang đã bị người Arian lấn át và dần bị tiêu vong. Chỉ có người Atlan trên đảo Platon là không hóa hoang và bảo tồn nền văn minh của mình cho đến thời kỳ bị tiêu vong cách đây 11.000 năm, sau khi sao chổi Chifon rơi xuống Thái Bình Dương. Người Arian phát sinh trong nền văn minh Atlan và một bộ phận đã thoát chết trong trận Đại Hồng Thủy cũng đã bị hóa hoang hàng loạt. Có nhiều tư liệu cổ mình chứng điều này. Hiện tượng hóa hoang của người Arian sâu sắc và rộng lớn tới mức là chỉ ở thời kỳ lịch sử không xa (cách đây 18.000 năm), các bậc Tiên tri mới chặn đứng được bước thụt lùi và bắt đầu có sự tiến bộ nhất định. Cũng có thể cho rằng, 11.000 năm về trước sau khi sao chổi Chifon rơi xuống Trái đất, một đợt hóa hoang hàng loạt liên quan đến điều kiện sinh sống bị thay đổi mạnh. Cần lưu ý là không phải tất cả những người hóa hoang trên Trái đất đều đã chết. Như chúng ta biết, một số người bị hóa hoang vẫn tồn tại ở nhiều khu vực của thế giới. Người mọi rợ, họ là ai? Ngày nay có thể bắt gặp các bộ lạc mọi rợ và bán khai ở nhiều nước trên thế giới như Indonexia, Tân Ghi Nê, Úc, Việt Nam, Chi Lê, Brazin, Peru, nhiều vùng ở châu Phi v.v... Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng, trong số những người mọi rợ ngày nay có hậu duệ của ba chủng tộc chính trên Trái đất: Lemuri, Atlan và Arian. Liệu có thể tin được rằng, ngày nay vẫn còn con cháu của người Lemuri đã sống cách đây nhiều triệu năm không? Rất khó khẳng định nhưng hoàn toàn có khả năng. Việc khảo sát và nghiên cứu các tộc người mọi rợ trên Trái đất là một trong những vấn đề khoa học phức tạp và lý thú nhất. Nó đang đòi hỏi sự quan tâm thích đáng của các nhà khoa học trên toàn thế giới. Các nhân tố hóa hoang Theo nhận định của một số nhà nghiên cứu, một trong những nhân tố hóa hoang là lối sống nhàn cư của tổ tiên xa xưa. Nhàn cư bao giờ cũng là nhân tố thụt lùi, bởi lẽ con người vốn là một khởi nguyên tự phát triển (tiến bộ). Các thế hệ nhàn cư nối tiếp nhau không nhận thức được rằng, có nhiều yếu tố tinh thần như chí khí và bộ não thoái hóa dần. Số người có năng lực trí tuệ giảm theo thế hệ. Các yếu tố bản năng như loài vật (ăn uống, ngủ, sinh đẻ...) chiếm ưu thế dần trong con người.Nhân tố hóa hoang khác là đời sống biệt lập. Bằng chứng là đời sống cư dân thuộc các hòn đảo nhỏ biệt lập đều là dân mọi rợ. Một nhân tố hóa hoang nữa là chế độ cai quản độc tài cuồng tín ở một số quốc gia và bộ lạc. Tại đó, bị truy đuổi đầu tiên là những người có năng lực trí tuệ và tầm mức tâm linh cao hơn chủ nghĩa cuồng tín, họ thường bị giới cầm quyền ghen ghét và tìm cách sát hại. Đời sống xã hội tại những khu vực như vậy thụt lùi nhanh chóng. Có vẻ như sự tiến bộ là một quá trình tiến hóa lâu dài và gian khổ, còn sự thụt lùi và hóa hoang của xã hội sẽ diễn ra sau một thời gian tương đối ngắn hơn. Điều đó thật dễ hiểu. Các quá trình phá hủy, kể cả trong tiến hóa, đòi hỏi ít sức lực hơn so với quá trình xây dựng. Lịch sử nhân loài dường như đã có nhiều khả năng quay lại con đường thoái hóa và hóa hoang không thể đảo ngược. Các bằng chứng có thể được tìm thấy trong nhiều nguồn tư liệu tôn giáo và thư tịch cổ. Trong những nguồn tư liệu như vậy đã cho biết rằng: khi sự thụt lùi của loài người có dấu hiệu nguy hiểm thì không biết từ đâu lại xuất hiện các bậc Tiên tri; các Ngài dùng mãnh lực tâm linh của mình để chặn đứng xu hướng thụt lùi và hướng nhân loại vào con đường sáng tạo và đi lên. Nhóm nghiên cứu của Erono Mundasep đã đi đến kết luận: các bậc Tiên tri trên Trái đất đã xuất hiện từ Quỹ gen nhân loại. Nói cách khác, Quỹ gen nhân loại đã được tạo dựng trên Trái đất nhằm mục đích ngăn ngừa sự hóa hoang của con người. (Còn nữa) Nguyễn Hiếu (Sưu tầm và giới thiệu) CHÚNG TA THOÁT THAI... - Phần 3 Một trong những hậu quả kinh hoàng nhất của các thảm họa diệt chủng trên Trái đất là loài người có thể biến mất vĩnh viễn. Nếu Thiên nhiên lại tạo ra con người từ đầu thì đó sẽ là một quá trình vô tận và cực kỳ khó khăn. Dường như các thể hệ Tổ Tiên loài người đã nghĩ đến vấn đề đó từ lâu và họ đã và đang duy trì một nguồn Quỹ gen nhân loại. QUỸ GEN NHÂN LOẠI Nhóm các nhà thám hiểm và nghiên cứu do Erono Mundasep đứng đầu đã đưa ra phỏng đoán cho rằng, Trên Trái đất tồn tại Quỹ gen nhân loại dưới dạng các nền văn minh khác nhau, được bảo tồn trong trạng thái xômachi hàng ngàn, thậm chí hàng triệu năm; trong trường hợp xảy ra thảm họa toàn cầu thì nó là nguồn sẽ duy trì sự sống trên Trái đất, còn trong trường hợp xã hộ loài người thoái hóa thì nó hướng sự phát triển của nhân loại theo con đường tiến bộ nhờ sử dụng tri thức cổ xưa. Ý nghĩa của Quỹ gen nhân loại Theo Kinh Thánh và dẫn liệu của các Bậc được bí truyền thì con người xuất hiện trên Trái đất là do “hồn” được cô đặc dần. Con người chủng tộc thứ Nhất vẫn còn giống thiên thần. Họ đặc dần và khi tới chủng tộc thứ Ba (chủng tộc Lemuri) thì đã khá đặc, rồi đến chủng tộc thứ Tư (người Atlan) càng đặc hơn và cho đến chủng tộc thứ Năm (người Arian) thì đặc nhất. Thân xác người trong thế giới vật thể được tạo nên do hồn đặc dần, là kết quả của công cuộc lao động to lớn và dài lâu của Tạo hóa. Nhưng loài người sống trên Trái đất không được bảo hiểm phòng khi xẩy ra thảm họa địa chất và vũ trụ cũng như cả những xung đột nội bộ, mà trong điều kiện khoa học và kỹ thuật khá phát triển có thể dẫn tới thảm họa toàn cầu cùng với sự diệt vong loài người. Trong trường hợp đó, Thiên nhiên lại bắt đầu từ đầu công cuộc lao động khổng lồ để phục hồi nhân loại bằng cách cô đặc phần hồn. Bởi vậy, việc xây dựng trên Trái đất một hệ thống bảo hiểm nhân mạng loài người (Quỹ gen nhân loại) là hợp lý hơn khi Thiên nhiên phải tạo dựng lại phần thể xác con người trong trường hợp tiêu vong. Theo tư liệu cổ xưa, khả năng nhân loại tiêu vong đã xuất hiện từ thời văn minh Lemuri. Dường như ngay từ thời đó Quỹ gen nhân loại đầu tiên đã được xác lập và tồn tại cho đến tận ngày nay. Những người Lemuri có tầm vóc to lớn, họ đang nhập định trong trạng thái xômachi và là nền tảng của Sambala huyền bí. Trong thời kỳ văn minh Atlantide, Quỹ gen nhân loại đã được bổ sung thêm người Atlan, còn người thuộc nền văn minh chúng ta có lẽ chỉ được bổ sung bởi chủ yếu ở giai đoạn phát triển sơ kỳ do hiệu lực của bức thông điệp cuối cùng “SoHm” đã dẫn đến thoái hoá “con mắt thứ ba” cần thiết để nhập xômachi. Như vậy, Quỹ gen nhân loại bao gồm đại diện của ba chủng tộc loài người gần đây là Lemuri, Atlan và Arian. Dường như hiện tượng xômachi là công trình sáng tạo của Thiên nhiên hoàn chỉnh tới mức cho phép gìn giữ loài người trong một thời hạn rất lâu dài. Chưa gặp một nhà hoạt động tôn giáo nào của phương Đông khi kể về xômachi lại nói đến giới hạn thời gian của nó. Có thông tin cho rằng, từ năm 2000 sẽ bắt đầu “thời kỳ hoàng kim”, con người dần dần sẽ được tiếp cận với tri thức cổ đại. Nội dung chính của tri thức cổ đại chủ yếu có liên quan đến hiểu biết về làm chủ năng lượng tâm thần. Tâm hồn con người như sản phẩm của thế giới vi tế, có những khả năng to lớn chưa được bộc lộ. Có thể tin chắc rằng, cổ nhân hiểu biết và áp dụng năng lượng tâm thần vững hơn chúng ta. Năng lượng của thế giới vi tế đó không chỉ là hiệu quả thần giao cách cảm và thôi miên, mà còn là các phương pháp chữa bệnh mới, tác động giảm lực hấp dẫn để di chuyển vật nặng, các nguyên lý mới của kỹ thuật hàng không v.v... Nhưng để làm chủ năng lượng tâm thần đòi hỏi con người phải có tâm hồn cao cả và tư tưởng trong sạch. Đó có lẽ là quy luật chủ yếu của hình thái đời sống trong thế giới vi tế. Cơ cấu của Quỹ gen nhân loại Dường như Quỹ gen nhân loại là cả một xứ sở ngầm dưới đất và dưới nước, bao gồm những người đang trong trạng thái xômachi. Theo các đạo sư, xômachi là trạng thái nhập định cao nhất khi tham thiền. Không phải ai tham thiền cũng đạt được nhập định, và cũng không phải người nào học được cách nhập định đều có thể đạt được trạng thái xômachi khi mà thể xác có thể được bảo quản nhiều năm.Cần nói rõ thêm đôi điều về trạng thái xômachi. Khi ở trạng thái xômachi thì thể xác con người bất động hoàn toàn và cứng như đá. Sự trao đổi chất trong thân thể đạt đến điểm không. Khi ai đó đạt đến trạng thái xômachi thì sẽ hiểu được rằng, con người có thể sống mà không cần thể xác. Linh hồn của người xômachi được nối với thể xác bằng “sợi chỉ bạc”. Nếu linh hồn trở lại nhập vào thể xác xômachi thì người đó tiếp tục sống một thời gian nhất định. Theo các đạo sự, việc phái hồn nhập vào thể xác xômachi để con người sống lại do Cõi kia quyết định và điều khiển. Các đạo sư cũng cho biết rằng, “linh hồn” con người là một dạng năng lượng vũ trụ và nó nằm trong một không gian tách riêng. Tuy năng lượng linh hồn ở ngoài electron và ở ngoài proton, nhưng nó có khả năng tác động lên lực hấp dẫn. Năng lượng của nhiều tâm có một sức mạnh lớn lao. Tuỳ theo tính tích cực và tiêu cực, tâm năng có thể gây ra hiệu ứng sáng tạo và xây dựng cũng như huỷ diệt và tàn phá. Người ta nói nhiều đến khả năng Quỹ gen nhân loại đang tồn tại dưới mặt đất, trong hàng động và trong kim tự tháp. Một điều kiện cần thiết đối với trạng thái xômachi là nhiệt độ xấp xỉ +4o C. Đây chính là nhiệt độ đặc trưng của các hang động, trong lòng kim tự tháp và các tầng sâu dưới nước. Nhiều khả năng là trong Quỹ gen nhân loại có đại diện của ba chủng tộc người gần đây (Lemuri, Atlan và Arian), trong đó chủng tộc người Atlan chiếm phần lớn. Những người Atlan có thể nhập xômachi khá dễ dàng vì tầm mức tâm linh của họ vẫn còn khá cao. Dường như những cuộc chiến tranh triền miên trong nội bộ người Atlan đã thúc đẩy quá trình bổ sung Quỹ gen nhân loại như một điều báo trước về thảm hoạ toàn cầu. Cũng có giả thuyết coi người Lemuri dẫn đầu và điều khiển Quỹ gen nhân loại. (Còn tiếp) Nguyễn Hiếu (Sưu tầm và giới thiệu)
  19. Suy diễn từ nguyên lý đột sinh (Gửi vào: 3/9/2008 8:55:17 PM) Từ nguyên lý đột sinh có thể đi đến ý tưởng sau đây: để nhận thức và thấu hiểu các hiện tượng bí ẩn của thế giới tâm linh (vô hình), các nhà khoa học đương đại cần phải dứt khoát từ bỏ ý tưởng già cỗi là mong muốn dựa trên các hiểu biết vật lý để giải thích mọi hiện tượng phi vật lý! NGUYÊN LÝ ĐỘT SINH VÀ THẾ GIỚI TÂM LINH Như chúng ta đã biết, nguyên lý đột sinh có quan hệ với cấu trúc vật lý, theo đó có thể xuất hiện những định luật mà nói đến cùng không thể được suy diễn từ những nguyên lý vật lý cơ bản hơn (đã biết hoặc chưa phát hiện ra). Nói cách khác, trong vật lý tồn tại những lớp định luật độc lập nhau. Điều đáng chú ý là có thể áp dụng nguyên lý “đột sinh” để xem xét một số luận điểm về thế giới tâm linh. Trước hết cần nhấn mạnh rằng, nguyên lý “đột sinh” chỉ là một khía cạnh biểu hiện của nguyên lý “độc lập”: tồn tại cái gì đó mà không thể được suy diễn từ những cái khác “cơ bản” hơn. Bây giờ chúng ta xét đến thế giới tâm linh hay thế giới phi vật lý (vô hình đối với người thường). Một trong những biểu hiện nổi bật nhất có liên quan đến thế giới tâm linh là hiện hữu sự sống sau cái chết của con người (vong linh). Từ hàng ngàn năm qua, những người nhân danh “khoa học” không thể phủ nhận được sự thật 100% đó. Lý do mà họ không thừa nhận các hiện tượng tâm linh thật là rõ ràng: từ vốn hiểu biết về thế giới vật lý không thể suy diễn được thế giới tâm linh. Xuất phát từ nhận thức như vậy, họ bác bỏ thế giới tâm linh bằng đủ mọi thứ lý lẽ ngang trái và thậm chí phản khoa học, trong khi các hiện tượng bí ẩn vẫn phô diễn trong cuộc sống thường ngày. Câu hỏi đầu tiên có thể được đặt ra xuất phát từ nguyên lý “đột sinh” là: Có tồn tại thế giới vật chất khác mà không thể được suy diễn từ thế giới vật lý của chúng ta? Những người có giác quan đặc biệt từ thời xa xưa đến nay luôn đưa ra câu trả lời khẳng định. Đến đây, lại một vấn đề khác nảy sinh: Sự tồn tại giác quan đặc biệt có thể được suy diễn từ sự tồn tại giác quan vật lý? Câu trả lời rõ ràng là “không” vì bản chất của hai dạng giác quan đó khác nhau căn bản. Một vấn đề nữa có liên quan đến cả thế giới vật lý và thế giới tâm linh được đặt ra: Ý thức từ đâu tới? Nếu ý thức trong thế giới vật lý phát sinh từ mạng nơron thần kinh trong bộ não thì ý thức trong thế giới tâm linh do đâu? Nếu giả định về ý thức trong thế giới hữu hình là đúng đắn thì cơ chế sinh ra ý thức trong thế giới vô hình không thể tương tự như vậy. Quả là bế tắc nếu tiếp tục đặt niềm tin “cơ sở” lên thế giới vật lý. Khía cạnh tiếp theo cần được bàn luận là phương pháp thực nghiệm và cách đánh giá các hiện tượng của thế giới phi vật lý. Từ trước đến nay các nhà “khoa học” thậm chí không để ý đến điều sau đây: thế giới vật lý và thế giới phi vật lý hoàn toàn khác biệt nhau về cấu trúc vật chất và thuộc tính, cho nên phương pháp thực nghiệm và cách đánh giá kết quả đối với thế giới vô hình ít khả năng giống với những gì diễn ra trong thế giới hữu hình. Ví dụ, một người được nói cho biết là vong người thân (bố, mẹ, anh hoặc em) đang nói chuyện với mình, nhưng nội dung thu được lại có nhiều điều không đúng với thực tế. Nếu người đó vội đánh giá việc gọi vong nói chung là bịp bợm thì có thể gặp sai lầm bởi các nguyên nhân sau: - vẫn xảy ra trường hợp vong bên ngoài mạo nhận; - khả năng của vong có hạn, không thể điều gì cũng biết và nhớ chính xác; - vong người thân cố ý nói sai lệch hoặc im lặng vì không có thiện chí; - tâm trí người nhập vong không tương thích v.v... Hoàn toàn có khả năng là quá trình nghiên cứu thế giới phi vật lý phức tạp hơn nhiều so với thế giới vật lý. Vậy mà từ trước đến nay, việc đầu tư nhân lực và tài chính cho lĩnh vực này quá ít ỏi, phiến diện, không liên tục, nửa công khai nửa bí mật và luôn bị quấy nhiễu bởi những người có đầu óc cực đoan. Và một khía cạnh cuối cùng không thể không đề cập tới, đó là thái độ bảo thủ, tự kiêu tự đại của những người ngộ nhận có hiểu biết “khoa học” toàn diện, bất kỳ điều gì cũng phải được quy đổi về vốn tri thức sẵn mà có thể đã quá lỗi thời. Chính Viện sĩ Erono Mundasep cũng đã từng có nhận xét về lớp người đó (trong cuốn sách “Chúng ta thoát thai từ đâu”) thành mấy loại: phản bác cái mới nhằm mục đích bảo vệ thành quả hoặc kiến thức thu nhặt được đã ăn sâu vào máu thịt của mình; đa nghi kiểu Tào Tháo, nghĩa là chỉ thừa nhận những gì có vật chứng; phản bác mang tính thương mại (lo sợ ảnh hưởng đến quyền lợi vật chất và danh tiếng của mình). Lê Huy Toàn
  20. CÂU ĐỐ VỀ THẾ GIỚI TÂM LINH Hàng ngàn năm qua, những người thông thái nhất trên thế giới có lẽ đã bị ám ảnh bởi câu đố đơn giản và cụ thể sau đây: Giải thích như thế nào về sự tồn tại các hiện tượng tâm linh? Hàng ngàn năm qua, những người thông thái nhất trên thế giới có lẽ đã bị ám ảnh bởi câu đố đơn giản và cụ thể sau đây: Giải thích như thế nào về sự tồn tại các hiện tượng tâm linh? Theo nhiều ghi chép từ xưa đến nay, các hiện tượng tâm linh thường xuyên xuất hiện trong cuộc sống con người. Do các hiện tượng như vậy không thể được lặp lại một cách cứng nhắc theo những kịch bản khuôn mẫu, nên những người có quan niệm cực đoan dễ dàng phủ nhận chúng và quy chụp cho người đã chứng kiến hoặc có khả năng đặc biệt là bịa đặt, giả mạo, lừa gạt v.v... Thậm chí, ngay cả khi các hiện tượng tâm linh đã được xác nhận một cách không thể chối cãi thì dựa vào kho tàng hiểu biết hiện có người ta cũng không thể giải thích được vì sao có các hiện tượng bí ẩn như vậy. Chúng ta hãy thử phân tích nguyên nhân nằm ở chỗ nào và tìm chìa khoá để giải câu đố nói trên. Trước hết, chúng ta sẽ giới hạn xem xét các hiện tượng tâm linh có liên quan đến những “vong linh” - thực thể vô hình có biểu hiện trí tuệ, cảm xúc, hoạt động sống... ở mức độ như con người hoặc đặc biệt hơn. Rõ ràng, các điểm đặc trưng của những vong linh đối với con người bình thường là phi hình dạng, vô lời, không mùi... Nhưng một số người với khả năng đặc biệt hay các nhà “ngoại cảm” lại có thể nhìn thấy hình dạng, nghe được tiếng nói, nhận biết mùi... của những vong linh. Như vậy, chúng ta có thể dựa vào các nhà ngoại cảm mà thực chất họ là những bộ máy tự nhiên tinh xảo nhất để tiến hành các cuộc thực nghiệm về hiện tượng tâm linh. Và cho đến thời điểm này, dựa trên những kết quả nghiên cứu thực nghiệm của một số cơ quan, tổ chức ở Việt Nam hơn mười năm qua, có thể rút ra kết luận rằng: các hiện tượng tâm linh là có thực, một phần vô hình của con người vẫn tồn tại sau cái chết với đầy đủ giác quan, trí tuệ, cảm xúc, hoạt động sống... nhưng thuộc một bình diện vật chất khác với thế giới hữu hình của chúng ta. Vậy thì vì sao cho đến nay cộng đồng các nhà khoa học đương đại không thể giải thích được các hiện tượng tâm linh? Theo chúng tôi, chìa khoá để giải câu đố về các hiện tượng tâm linh nói riêng và thế giới tâm linh nói chung cần được tìm kiếm từ những vấn đề đặt ra sau đây: 1- Có tồn tại vật chất vô hình hay không? 2- Ý thức hay tính “biết” của con người do đâu mà có? Trong kho tàng tri thức khoa học hiện đại không có chỗ cho sự tồn tại của vật chất vô hình, còn ý thức hay tính “biết” của con người được giả định là do sự phức tạp của cấu trúc vật chất (bộ não) sinh ra. Bởi vậy, sự tồn tại các vong linh dưới nhãn quan của các nhà khoa học là phi lý hoàn toàn. Chúng tôi đã tìm thấy lời giải đáp cho hai vấn đề nêu trên trong cuốn sách “Vũ trụ và con người dưới góc độ khoa học tâm linh” của tác giả Trần Văn Đình (Tạp chí Thế Giới Mới đã giới thiệu trong số 732). Theo đó, hai điểm sau đây cần được chấp nhận như định đề : 1. Toàn bộ vật chất của vũ trụ được cấu tạo theo từng lớp, chúng thâm nhập lẫn nhau và tồn tại trong cùng một không gian như các dải sóng, trong đó chỉ có lớp vật lý là lớp hữu hình, còn những lớp khác đều vô hình đối với mắt người thường; trong số những lớp vô hình có một lớp mịn nhất chứa các hạt nguyên sơ phi cấu trúc với nhiều tính chất đặc biệt, được gọi là “lớp tâm thức”. 2. Ý thức nói riêng hay tính “biết” nói chung của con người và mọi loài sinh vật khác không phải do các cấu trúc vật chất tự sinh ra, đó là kết quả tương tác giữa các sinh vật với “lớp tâm thức”. Nói cách khác, mọi cấu trúc vật chất từ vĩ mô (như các tinh tú) cho đến vi mô (như các hạt quark) đều có biểu hiện tính “biết” ở mức độ này hay mức độ khác. Sau khi đọc đi đọc lại và nghiền ngẫm cuốn sách này nhiều lần, chúng tôi nhận thấy rằng có thể đây là chìa khoá đúng để giải câu đố đã được đưa ra ở đầu bài viết này. Vì sao vậy? Có hai lý do chủ yếu sau đây: - Việc thừa nhận có tồn tại vật chất vô hình vừa phù hợp với các cứ liệu khoa học hiện nay vừa khớp với những gì mà những người có khả năng ngoại cảm nhận biết được trong thế giới phi vật lý. Theo cuốn “Nguồn gốc” của GS TS. Trịnh Xuân Thuận (Phạm Văn Thiều và Ngô Vũ dịch, NXB Trẻ ấn hành quý 2/2006, sách dày 520 trang, giá bìa 150.000đ/cuốn), “vật chất tối” được định nghĩa là vật chất không phát ra bất kỳ thứ ánh sáng nào (dĩ nhiên là đối với mắt người thường) và chỉ bộc lộ thông qua lực hấp dẫn của nó. Điều đáng chú ý là vật chất thông thường (hữu hình) chỉ chiếm một phần rất nhỏ, chỉ đóng góp khoảng 0,5 phần trăm vào mật độ tới hạn (những từ có gạch dưới được trích từ sách). Không loại trừ khả năng là trong số “vật chất tối” có cả vật chất vô hình. Rõ ràng, thứ vật chất vô hình thô nhất mà tất cả chúng ta dễ dàng nhận biết được là không khí (nhờ chuyển động của nó). Vậy thì sự tồn tại những dạng vật chất vô hình khác tinh tế hơn không khí cũng là điều tự nhiên. - Nguồn gốc của ý thức hay tính “biết” là một trong những vấn đề hóc búa từ cổ xưa đến nay và là phần nền tảng của mọi triết học. Trong cuốn “Nguồn gốc” cũng đặt ra những câu hỏi như vậy: Ý thức của con người là gì? Đâu là bản chất của tinh thần? Đâu là nguồn gốc của tư duy? Theo Trịnh Xuân Thuận, các nhà khoa học đương đại vẫn đi theo một trong hai cách lý giải về ý thức sau đây. Cách thứ nhất: Đây là thuyết “nhị nguyên” do triết gia người Pháp là Rene Descartes đã đưa ra vào khoảng năm 1629. Theo đó, con người được ban tặng một tinh thần phi vật chất, không trải rộng trong không gian và không thể phân chia, nhưng lại có một thể xác vật chất trải rộng trong không gian và có thể phân chia; tinh thần tư duy và thể xác vật chất là tách rời nhau, nhưng cùng tồn tại. Tinh thần tiếp xúc với thể xác thông qua “tuyến tùng” trong bộ não. Cách thứ hai: Đây là quan điểm “nhất nguyên” do phần lớn các nhà thần kinh sinh học đương đại thống nhất đưa ra. Theo đó, ý thức không tách rời vật chất, nó “đột khởi xuất hiện” một cách tự nhiên từ vật chất nhờ các hoạt động thần kinh của bộ não. Nói cách khác, ý thức là sự phản ánh các quá trình vật lý, kết quả tổ chức cực kỳ phức tạp của các mạch thần kinh sinh vật. Đáng lưu ý là từ cả hai cách lý giải về sự xuất hiện ý thức trên đây đều dẫn đến một hệ quả tất yếu: không thể tồn tại vong linh của người đã chết. Từ đây chúng ta lại suy ra một hệ quả khác: Nếu các nhà khoa học đương đại không thay đổi quan điểm về nguồn gốc của ý thức nói riêng hay tính “biết” nói chung thì không thể giải thích được các hiện tượng tâm linh. Tác giả cuốn “Vũ trụ và con người dưới góc độ khoa học tâm linh” đã xem xét một ý tưởng hoàn toàn khác về nguồn gốc của ý thức. Theo đó, mọi cấu trúc vật chất, dù đơn giản hay phức tạp, dù vô hình hay hữu hình, dù to hay bé, đều có ý thức ở một mức độ nhất định. Nói khác đi, ý thức là một thuộc tính phổ quát của mọi cấu trúc vật chất, kể cả bản thân vũ trụ. Kết luận này khớp với quan điểm trong một số thuyết tôn giáo khi đưa ra khẳng định rằng, mọi vật đều có “phật tính” hay “thượng đế tính” mà thực chất là tính “biết”. Hơn nữa, ý thức như vậy không phải do các cấu trúc vật chất tự sinh ra, đó là kết quả tương tác giữa chúng với lớp vật chất phi cấu trúc (“lớp tâm thức”). Chính nhờ sự phổ quát của tính “biết” mà trong thế giới sống trên Trái Đất từ khi khai thiên lập địa đến nay đã và đang diễn ra sự tiến hoá với quy mô rộng lớn, sâu sắc, tinh tế, mạnh mẽ, lâu dài và muôn hình muôn vẻ của hàng tỷ tỷ sinh vật từ những dạng đơn bào cho đến các loài phức tạp như con người. Như vậy, chìa khoá để giải đáp các hiện tượng tâm linh đã được đưa ra. Chúng tôi cho rằng, việc thừa nhận ý tưởng này chỉ còn là vấn đề thời gian. GHI CHÚ: Cuốn sách Vũ trụ và con người dưới góc độ khoa học tâm linh đã được Tạp chí Thế Giới Mới số 732 ra ngày 30-4-2007 giới thiệu. Nhóm NC tâm linh, 8-2007 ========================================================= VẬT CHẤT HAY Ý THỨC CÓ TRƯỚC? Câu hỏi này vốn đã tồn tại từ lâu trong triết học. Nhưng chúng ta sẽ xét câu trả lời cho trường hợp tổng quát hơn: Tính “biết” có trước hay vật chất có trước? Lưu ý: “ý thức” chỉ là một dạng của tính “biết”. Theo các đại sư, tính “biết” với mức độ khác nhau hiện hữu ở tất cả các vật sống cũng như không sống, vô hình cũng như hữu hình, bé cũng như lớn. Ví dụ, nhờ tính “biết” mà các thành viên của một đàn kiến, đàn ong hay đàn mối có thể cùng tồn tại với nhau như một xã hội được tổ chức chặt chẽ; cũng nhờ tính “biết” mà hàng tỷ tỷ tế bào trong một cơ thể sống phức tạp có thể cùng hoạt động như một cộng đồng hài hoà lý tưởng. Trước khi đưa ra câu trả lời cho câu hỏi nói trên, cần mở rộng khái niệm “vật chất” cho cả hữu hình và vô hình (“vật chất tối”) mà “tính vật chất” được biểu hiện qua tác động trọng lực. Theo cuốn “Vũ trụ và con người dưới góc độ khoa học tâm linh” mà chúng tôi đã đề cập đến ở trên, toàn bộ các cấu trúc vật chất của vũ trụ đều bắt nguồn từ bình diện tâm thức (lớp vật chất phi cấu trúc vốn tồn tại khắp nơi và vĩnh hằng, vô hạn, phi không gian và phi thời gian). Như vậy, khi nói đến “vật chất” cần phân biệt hai dạng nền tảng: vật chất có cấu trúc và vật chất phi cấu trúc. Đến đây, chúng ta có thể đưa ra hai khía cạnh của câu trả lời cho câu hỏi đã được đặt ra ở đầu bài viết này: - Tính “biết” có sau vật chất phi cấu trúc; - Tính “biết” sinh ra đồng thời với sự xuất hiện vật chất có cấu trúc. Như vậy, mặc dù vấn đề nói trên đặt ra trong triết học có vẻ lớn lao và tuỳ chọn nhưng lời giải đáp ở đây đã được xác định một cách đơn giản và rõ ràng. Nhóm NC tâm linh, 9-2007 ========================================================= HÉ MỞ BÍ ẨN LƯỢNG TỬ Những thí nghiệm trong thế giới lượng tử cho thấy hai điều kỳ lạ sau đây: các photon (lượng tử ánh sáng) dường như có một thứ ý thức nào đó và hiện thực được quan sát của nó gắn liền với cách mà người thực nghiệm suy nghĩ. Hai điều bí ẩn này có thể được lý giải? Thí nghiệm thứ nhất Thí nghiệm nổi tiếng sau đây do nhà vật lý xuất sắc người Anh là Thomas Young đã thực hiện lần đầu tiên vào năm 1801(1). Trước hết chúng ta hãy hình dung những thứ được dùng để thí nghiệm: một tấm phẳng đặt thẳng đứng được chọc thủng bởi hai khe, một nguồn sáng đặt trước nó đối diện với hai khe hở và một màn chắn đặt phía sau. Khi quan sát người ta đã thấy rằng, trên màn chắn có một loạt vệt tối và sáng nằm dọc, đó chính là hiện tượng giao thoa ánh sáng. Nói cách khác, trong trường hợp này ánh sáng giống như một chất lỏng lan ra nhờ các sóng, những sóng này cũng có cùng bản chất như sóng nước. Nhưng theo Einstein, ánh sáng được cấu thành từ những hạt nhỏ, được gọi là photon (lượng tử ánh sáng). Làm thế nào mà những đống hạt xoáy lốc, tách rời nhau ấy lại có thể tạo thành những hình thù cố kết và chính xác của những dải sáng và tối nối tiếp nhau như vậy? Đó chính là một điều bí ẩn mà khoa học chưa lý giải được. Thí nghiệm thứ hai Để thấy rõ hơn, có thể tiến hành thí nghiệm nói trên thành từng giai đoạn như sau. Trước hết, tạm bịt kín một khe, khe bên trái chẳng hạn. Trong trường hợp này các photon phải đi qua khe duy nhất bên phải. Tiếp theo, cần giảm cường độ của nguồn sáng cho tới khi nó phóng ra từng photon một. Bây giờ hãy “bắn” một photon đi. Sau khi đi qua khe bên phải, photon này gặp màn chắn và để lại một điểm vết trên đó. Ta ký hiệu điểm vết này là A. Giả sử bây giờ chúng ta mở khe bên trái ra và lại “bắn” tiếp một photon theo hướng khe bên phải như trước (điểm xuất phát, hướng bay và tốc độ của photon được làm giống nhau hoàn toàn trong cả hai lần “bắn”, sự khác nhau duy nhất chỉ là trong lần thứ hai có thêm khe hở bên trái). Khi gặp màn chắn, photon để lại một điểm vết mới, được ký hiệu bởi B. Bằng quan sát thực tế cho biết rằng, hai điểm A và B không trùng nhau, tức là A khác B. Nói cách khác, sự việc xảy ra như thể ứng xử của photon thứ hai đã bị biến đổi khi mở khe hở bên trái. Điều bí ẩn ở đây là ở chỗ: làm thế nào mà photon “phát hiện” được khe bên trái đã được mở ra? Nếu chúng ta tiếp tục “bắn” các photon qua cả hai khe (không “ngắm” cụ thể vào khe nào) thì trên màn chắn dần dần sẽ hình thành một nền giao thoa ánh sáng. Ở đây lại xuất hiện một câu hỏi nữa: Làm thế nào mà mỗi photon “biết” được là nó phải đụng vào phần nào trên màn chắn để cùng với những photon bên cạnh tạo ra một dạng hình học gồm những vạch thẳng đứng kề nhau theo một trật tự chặt chẽ? Câu hỏi này đã được đặt ra vào năm 1977 bởi nhà vật lý Mỹ Henry Stapp, người bị lay động sâu sắc vì những kết quả thí nghiệm lượng tử đó. Làm thế nào mà các photon biết có hai khe? Làm thế nào mà thông tin về những gì xảy ra ở nơi khác lại được tập hợp để xác dịnh cái gì có thể xảy ra ở đây? Các kết quả thí nghiệm trên đây đã làm cho người ta có cảm giác rằng, các photon có một dạng ý thức nhất định. Điều này trùng hợp với quan điểm của Teilhard de Chardin coi mọi thứ trong vũ trụ, kể cả những hạt nhỏ bé nhất, đều là những cái mang ý thức với mức độ khác nhau. Thí nghiệm thứ ba Một điều bí ẩn khác cũng gắn liền với các hiện tượng lượng tử. Nếu trong thí nghiệm, người quan sát quyết định kiểm tra tính chất hạt của photon thì photon ấy ứng xử giống như một hạt đi qua khe hở. Trái lại, nếu người quan sát không cố gắng theo dõi quỹ đạo của mỗi photon trong thí nghiệm thì sự phân bố các photon trên màn chắn rốt cuộc lại tạo nên một hình giao thoa của các sóng. Dường như ở đây các photon biết rằng, người ta đang quan sát chúng theo suy nghĩ nào hay ý nghĩ của người quan sát ảnh hưởng trực tiếp lên các photon trong thí nghiệm. Hai điều bí ẩn trên đây đều có thể dễ dàng được giải thích nếu xuất phát từ thuyết đa chiều thực tại của vũ trụ và tác động của ý nghĩ lên vật chất dạng năng lượng. - Điều bí ẩn thứ nhất: Photon có một dạng ý thức nào đó? Đúng vậy! Theo tính chất thứ 10 của hệ quả 2 được suy ra từ Định đề về Vũ trụ (xem “Vũ trụ và con người dưới góc độ khoa học tâm linh”), mọi cấu trúc vật chất dù lớn hay bé đều tương tác hay được “nhúng” trong đại dương vật chất phi cấu trúc (bình diện tâm thức) mà kết quả là có tính “biết” - một dạng ý thức nào đó. Như vậy, không chỉ các photon mà tất cả các vi hạt khác cũng đều có biểu hiện tính “biết” ở những mức độ khác nhau tuỳ thuộc vào cấu trúc của chúng. - Điều bí ẩn thứ hai: Ý nghĩ của con người ảnh hưởng trực tiếp đến photon trong thí nghiệm? Đúng vậy! Không phải các photon biết được ý nghĩ của con người để chúng hành xử theo, mà là các ý nghĩ đã tác động trực tiếp đến “chất” ánh sáng (xem “Phiêu lưu ngoài cơ thể”). Theo nhà xuất thần Williams Buhlman, trong một số chiều thực tại năng lượng mà ông đã chứng nghiệm, các ý nghĩ dễ dàng tạo khuôn cho những “chất” năng lượng xung quanh. Vì vậy có thể cho rằng, mỗi photon ở bên ngoài thí nghiệm luôn hành xử như một “mảng sóng” (tựa chất lỏng). Nhưng khi ai đó có ý định quan sát biểu hiện “hạt” của photon trong thí nghiệm, thì chính các ý nghĩ của anh ta đóng vai trò tạo khuôn, làm cho “mảng sóng” photon đậm đặc lại thành “hạt” và người quan sát đã ghi nhận được nó. Điều tương tự đã được mô tả rất nhiều và khá chi tiết trong nhật ký của Williams Buhlman. Tương tự, sự sai khác vị trí của hai điểm vết A và B trong thí nghiệm thứ hai không phải do photon thứ hai biết khe hở bên trái đã được mở ra, mà là do ý nghĩ của người thực nghiệm nghĩ về điều đó gây nên. Chính các ý nghĩ của người quan sát đã làm lệch quỹ đạo chuyển động của photon thứ hai. Bằng những kết quả thực nghiệm xuất thần của mình, Williams Buhlman đã góp phần quan trọng trong việc xác nhận sự dúng đắn của thuyết vũ trụ đa chiều thực tại mà luận điểm nền tảng là Định đề về Vũ trụ. Chúng tôi đề nghị các nhà vật lý xa gần hãy tham khảo những gì được bàn luận ở đây để có một cái nhìn toàn diện và đúng đắn về Vũ trụ của chúng ta. Nhóm NC Khoa học Tâm linh, 1-2008 ========================================================= (1) Tư liệu được lấy từ cuốn sách “Bên ngoài khoa học” của nhiều tác giả (Lê Diên, Trịnh Nguyên Huân, Đặng Mộng Lân, Ngô Quốc Quýnh dịch, NXB Khoa học & kỹ thuật, Hà Nội - 2004).
  21. Bài thơ ngoại cảm sau đây cho biết: có 18 chi vua Hùng chứ không phải 18 “đời” Vua như lịch sử Việt đã ghi. Mỗi chi Hùng Vương gồm nhiều đời con, cháu... kế ngôi, lấy tên hiệu và tên huý của đời Vua đầu chi chung cho các Vua tiếp theo trong chi đó. Triều đại Hùng Vương kéo dài 2621 năm (từ năm 2879 TCN đến 258 TCN), gồm khoảng 100 đời Vua. Về 18 chi Hùng Vương Ôn lại cổ đại xa vời, Hàng vạn năm trước đất trời thế gian Lục địa, cây cối bạt ngàn Sông hồ, rừng núi như đan địa cầu. Nơi thấp là biển nước sâu, Mênh mông nào biết nơi đâu bến bờ. Nhiều loài động vật cổ sơ, Trên đất dưới nước, nhỏ to nhiều loài. Thế gian trong chuỗi ngày dài, Thiên nhiên, cảnh vật nguyên khai cõi Trần. Thời gian biết mấy triệu xuân, Không đường, không ruộng, không dân, không nhà. Đại dương, lục địa bao la Nhiều loài động vật cũng hòa thiên nhiên. Ngày đêm nối tiếp triền miên, Âm u, hoang vắng khắp miền Trần gian. Cầm thú các loài vô vàn, Có loài động vật khôn ngoan từng bầy. Kiếm ăn nhờ có đôi tay Hái nhặt rau bẹ, trái cây lần hồi. Ngót sáu ngàn tiết đông trôi, Đã biết dùng lửa đốt thui, nướng lùi. Không phải ăn sống nuốt tươi, Hơn loài thú vật khắp nơi phàm trần. Trí khôn được mở rộng dần, Nhưng nam nữ vẫn hôn quần, loạn luân. 1. Đức Kinh Dương Vương hiện thân Qua năm ngàn tiết mùa xuân trước ngày. Người đã tập hợp các bầy Đều là nòi Việt từ đây hợp thành. Văn Lang, bộ lạc tạo hình Mở đường dẫn tới khai sinh loài người. Một xã hội mới ra đời, Gồm nhiều dòng tộc khắp nơi hợp thành. Đều là nòi Việt đồng sinh, Dòng tộc theo mẹ, hiện tình nguyên sơ. Từng bầy, mẫu chủ bấy giờ Chính là dòng tộc cổ sơ lưu truyền. Quần hôn, vô phụ đương nhiên Mẫu sinh, mẫu dưỡng, mẫu quyền, hỗn mang. Tục truyền từ thủa Hồng Bàng Sinh ra trăm họ khắp giang sơn này. Hồng Bàng  thực nghĩa bấy nay Da vàng máu đỏ, nhiều bầy dã hoang. Hồng Bàng rõ nghĩa “đỏ-vàng” Nhiều dòng, nên gọi Hồng Bàng chung danh. Văn Lang  công xã hình thành Hai ngàn tám trăm bảy chín, rõ rành nguyên khai Trước Công nguyên đó, chẳng sai. Lộc Tục, tên húy của Ngài còn lưu Tám sáu năm được dân theo, Có nhiều dòng tộc sớm chiều đồng sinh. Buổi đầu bộ lạc hình thành, Thiên Sứ ─ Người đã giáng sinh cõi Trần. 2. Lạc Long - Sùng Lãm, Thiên nhân Di Lặc - Phật Tổ, hiện thân chính Người. Cõi Trần mù mịt khắp nơi, Đường Trần tăm tối, ai người sáng soi? Thời gian, năm tháng qua trôi Trần gian ví tựa biển khơi đêm dài. Lạc Long, Di Lặc chẳng sai Ra tay tế độ mở khai cõi đời. Đã đem đạo lý làm người Truyền dạy cho cả giống nòi từ đây. Đức nhân, lễ nghĩa dựng xây Làm cho xã hội đổi thay khác thường. Người như vầng Nhật Thái Dương, Hào quang tỏa sáng muôn phương đất trời. Người dạy sống ở trên đời Thực thà, lương thiện là nơi an lành. Thiện tâm  bản tính Trời sinh Đó là chí cốt tâm linh con người. Bính Thìn, năm đó ra đời Di Lặc, Phật Tổ giáng nơi cõi Trần. Chính là Đức Lạc Long Quân. Tháng ba mười tám ngày xuân thanh bình, Là ngày Phật Tổ giáng sinh, Đưa bầy “hoang vượn” trở thành người nay. Tính đến năm hai ngàn này: Bốn ngàn tám trăm bảy chín vòng quay đất trời. Văn Lang - Bách Việt đón Người Ba mươi ba tuổi lên ngôi trị vì. Thủ lĩnh bộ lạc tôn suy, Hùng Hiền Vương hiệu còn ghi Sử Vàng. Hiền Vương nhân đức chói chang, Dẫn dắt bộ lạc Văn Lang thời Hùng. Dạy dân lễ - nghĩa - hiếu - trung, Quan hệ nam nữ  vợ chồng kết đôi. Cùng nhau chung thuỷ suốt đời, Sinh con cũng phải dưỡng nuôi thành người. Thay đổi tập quán đương thời, Dân dã chưa rõ ngược xuôi, dữ lành. Người cùng Mẫu Mẹ Đức Sinh Âu Cơ Tiên Nữ đẹp tình phu thê. Rồng - Tiên hội ngộ duyên xe, Trăm năm vững một lời thề thuỷ chung. Sáng gương tình nghĩa vợ chồng, Toàn dân Bách Việt dốc lòng noi theo. Tiếng chuông đạo lý vang reo, Xoá được hỗn tính, bỏ điều quần hôn. Từ đây cuộc sống sinh tồn Ánh sáng đạo lý khai môn loài người. Văn Lang khắp chốn khắp nơi, Nam nữ cùng lứa kết đôi vợ chồng. Cùng nhau chung sức chung lòng, Dưỡng nuôi, giáo dục con chung gia đình. Tiếng “cha” từ đó phát sinh, Ngôn từ “chồng-vợ” nghĩa tình sắt son. Từ đó mới có “cha-con”, Người Cha trước nhất mãi còn lưu danh. Tên Người sáng chói sử xanh, Lạc Long Tổ Phụ tạo sinh giống nòi. Người dạy: Sống ở trên đời Tu tâm, dưỡng tính thành người lương dân. Sống phải có đức có nhân, Hiếu trung, hiếu thảo, chuyên cần mới nên. Cùng dòng máu Việt chớ quên, Đồng lòng, chung sức vững bền muôn thu. Chữ ‘đồng” sức mạnh có dư, Đem thắng lợi đến ngọn cờ thành công. Tình thương con cháu Lạc Hồng, Đó là cốt huyết con chung một nhà. Tình thương nòi giống chan hoà, Đồng bào dân tộc thiết tha ân tình. Trước không, giờ có gia đình Tế bào xã hội thành hình từ đây. Hiếu - trung - lễ - nghĩa cao dầy, Công ơn Cha Mẹ cao tày Thái Sơn. Cháu con phải biết nhớ ơn, Thờ Cha kính Mẹ cho tròn đạo con. Tổ Tiên vắng bóng khuất non, Khói hương tưởng niệm mãi còn đời sau. Phong tục thờ cúng khởi đầu, Trở thành tập quán thắm mầu Rồng - Tiên. Thuần phong mỹ tục lưu truyền Từ thời Cha Lạc, Mẹ Hiền Âu Cơ. Cuộc sống thủa ấy nguyên sơ, Nay đây mai đó, trông nhờ thiên nhiên. Định cư, tự sản  Người khuyên, Trồng cây lấy quả khắp miền Văn Lang. Từ đó có xóm có làng, Trồng ngô, khoai, sắn, lúa vàng, nông gia. Tạo sức sống mới đại đa, Tự túc lương thực  mọi nhà đều theo. Thôn trang vẻ đẹp yêu kiều, Gia đình đoàn tụ sớm chiều bên nhau. Trong cảnh hoang dã bấy lâu Văn Lang nay khởi sắc mầu xuân tươi. Cha dạy bộ lạc, mọi người Đốt nung quặng đá để khơi lấy đồng. Rèn đúc công cụ nghề nông, Búa, dao, rìu, cuốc, thau đồng từ đây. Thay công cụ đá trước ngày, Làm ra lương thực đủ đầy hơn xưa. Người cùng dân chúng sớm trưa Cùng làm cùng hưởng, cùng đùa cùng vui. Thôn trang, làng xóm khắp nơi Ngân vang giọng hát, tiếng cười lời ru. Mừng sao thoát cảnh âm u, Tháng năm đen tối, mịt mù đã qua. Cuộc đời nay đã nở hoa, Con người tiến vọt, vượt xa muôn loài. Con người đủ trí, đức, tài Thông minh, sáng tạo từ khai nguyên này. Ơn Cha tài trí, đức dầy Lạc Long Tổ Phụ  Người Thầy thế gian. Tạo dựng xã hội thịnh an, Công minh, bình đẳng, quân san điều hoà. Cộng sản nguyên thuỷ chính là Chủ nghĩa xã hội khai hoa cõi Trần. Công bằng thoả nguyện muôn dân, Dân sinh, dân chủ trăm phần đẹp tươi. Theo Luật Tạo Hoá vận Trời, Thuận Thiên hợp với lòng người là đây. Dầy công, Cha Mẹ dựng xây Kỷ cương, đạo lý, đủ đầy đức ân. Buổi đầu lập thế, tạo nhân Chính thể tiên tiến, vì dân đương thời. Xã hội tiến bộ trên đời, Đẩy mạnh sản xuất của người nguyên khai. Chính thể tồn tại lâu dài, Ngót ba ngàn tuổi, chẳng sai, thời Hùng. Hai ngàn sáu trăm hai mốt năm ròng, Di Lặc Phật Tổ - Lạc Long xây nền Công bằng xã hội vững bền, Lâu nhất thế giới, đẹp Thiên Sử Vàng. Đó chính là thủa Hồng Bàng, Là người Bách Việt da vàng, máu son. Muôn đời hậu thế cháu con, Luôn nhớ Gốc Tổ mãi còn là đây. Chớ đừng lầm tưởng trước ngày, Hồng Bàng thị tộc dựng xây sơn hà. Hồng Bàng đúng nghĩa chính là: Nhiều dòng đồng chủng, máu da đồng màu. Các dòng tộc Việt cùng nhau Hợp thành bộ lạc buổi đầu, chẳng sai. Đức Kinh Dương Vương nguyên khai, Tám sáu năm đã hợp loài “vượn hoang”. Lạc Long Di Lặc chuyển sang Thực sự Cha đã khai quang cõi Trần. Dẫn đường, giáo huấn muôn dân Chuyển từ kiếp “vật” thành thân con người. Văn Lang - Bách Việt ra đời, Xã hội nguyên thuỷ từ thời hoang sơ. Lạc Long  Cha dựng cơ đồ, Khai sinh nòi Việt nên thơ muôn đời. Cháu con Hồng Lạc mọi người Tổ Tông dựng nước, con thời ghi sâu. Đền Hùng đất Tổ Phong Châu, Thuộc tỉnh Phú Thọ  nhịp cầu cổ kim. Dấu tích khai quốc còn in, Tổ Tông như vẫn dõi nhìn hôm nay. Núi Hùng. đền Hạ nơi đây Âu Cơ Đức Mẹ sinh bầy trăm con. Một con kế giữ ngôi son, Số nửa theo Mẹ lên non hành trình. Đảm bảo cho sự tồn sinh, Địa bàn sản xuất thành hình là đây. Một nửa còn lại đó ngày, Miền xuôi, định hướng dựng xây sơn hà. Cùng nhau lập nghiệp theo Cha, Từ đó ta có quốc gia sinh tồn. Ứng với Bách Việt giang sơn, Rồng Tiên cất cánh bay vờn trời xanh. Núi thiêng Nghĩa Lĩnh thiên thành, Voi quỳ, hổ phục vây quanh núi Hùng. Lên cao hơn nữa  đền Trung Nơi đây Thủ lĩnh Lạc Long hội bàn. Cùng người giúp việc trị an, Dân sự, phòng vệ lo toan cộng đồng. Quản lý bộ lạc thời Hùng, Giúp việc dân sự  tước phong Lạc hầu. Bảo vệ bờ cõi, đứng đầu  Tước phong Lạc tướng trong khâu chính quyền. Đầu lĩnh cùng các quan viên Dốc lòng lo việc dân yên cộng đồng. Lo việc sản xuất, gieo trồng Phân phối hợp lý, yên lòng muôn dân. Trẻ già, trai gái có phần Nhiều no, ít đủ, quân phân hợp thời. Dân cùng Thủ lĩnh, mọi người Cùng nhau lao động, vui chơi cùng hoà. Bốn phương như thể một nhà, Người trong bộ lạc đều là anh em. Gần xa, đây đó, lạ quen Giầu lòng hữu ái tự nguyên khai này. Khởi nguồn văn hiến từ đây, Con người ý thức đủ đầy nghĩa nhân. Lạc Long  Thủ lĩnh minh quân, Danh Thiên  Di Lặc, hiện thân chính Người. Ra tay tế độ xây đời, Khai sinh Bách Việt, đất trời Văn Lang. Nguyên khai thủa đó Hồng Bàng, Người thực là Đấng khai quang cõi Trần. Cứu tinh trăm họ, muôn dân Thoát khỏi kiếp vật, thành nhân Lạc Hồng. Đền Hùng  Nguồn Cội Tổ Tông, Lạc Long, Tổ Phụ đức công cao dầy. Đỉnh cao, đền Thượng nơi đây Thủ lĩnh, Người đã cho xây bệ thờ. Rằm Giêng, đúng tháng tròn giờ Người cầu Ngọc Đế độ cho dân lành. Mùa màng, cây quả tốt xanh Bình an trăm họ, tâm thành cầu Thiên. Thủ Lĩnh bộ lạc  Hùng Hiền Tiến hành nghi lễ cầu Thiên đó ngày. Hiền Vương công lớn đức dầy, Hai trăm sáu chín năm chày tại ngôi. Thủ lĩnh khoảng độ mười đời, Ngôi Chủ truyền tiếp đến thời chi ba. 3. Hùng Lân, Thủ lĩnh chính là Năm mười tám tuổi, Người đà lên ngôi. Hiệu Hùng Quốc Vương đó thời, Hai trăm bảy mốt năm trời chuyển chi. Kinh đô đóng tại Việt Trì, Dư mười đời Chủ trị vì Văn Lang. Chi Hùng thứ tư chuyển sang, 4. Hùng Hoa Vương hiệu, tiếp trang sử tiền. Bửu Long tên huý, giữ quyền Ba trăm bốn hai năm liền dài lâu. Hơn mười đời Chủ truyền nhau, Chi năm lại kế tiếp sau Hoa Hùng. 5. Bửu Lang tên huý nối dòng, Hùng Hy Vương hiệu, Lang Công đó ngày. Trăm chín mươi chín năm dài, Ngót mười đời Chủ nguyên khai bấy giờ. Chuyển sang chi sáu giữ cờ, 6. Long Tiên Lang huý kế thừa vẻ vang. Hùng Hồn Vương, Chủ Văn Lang Bên kia Bắc quốc, Thành Thang trị vì. Tung tin tuần thú biên thùy, Tràn sang xâm chiếm thực thi bá quyền. Hùng Hồn Vương ban cáo tuyên, Cho người đi khắp các miền thôn quê. Tìm người trí, dũng mọi bề Cầm quân diệt giặc, trở về tước phong. Tới làng Phù Đổng, báo thông Vang như sấm, tiếng nhi đồng vọng ra: Nhờ người tâu với Vua Cha, Cho ngựa, roi sắt cùng là thịt, xôi. Đúng ngày tháng đó, Gióng tôi Nhận đủ binh mã, ra nơi chiến trường. Xin thề quét sạch giặc Thương, Diệt lũ Bắc tặc bạo cường bấy lâu. Binh mã đã đạt yêu cầu, Vua giao Cậu Gióng đứng đầu cầm binh. Người nhằm hướng giặc xuất chinh, Chiến trường chính  núi Vệ Linh bấy giờ. Mãnh xung, Cậu Gióng thét to Tiếng như sấm động, giặc thù khiếp kinh. Lại bị đánh bất thình lình, Ta khí giới sắt, giặc binh khí đồng. Đó là lợi thế tiến công, Tướng binh ta dốc một lòng diệt Thương. Quân ta xung trận kiên cường, Những tên sống sót, Bắc phương  chạy về. Quất giặc, roi sắt gãy lìa Sức Thần, Cậu Gióng nhổ tre quật thù. Nhật thời mười tám bấy giờ, Ba mươi sáu tiếng đồng hồ ngày nay. Diệt Thương - Ân tặc là đây, Khắp trong bộ lạc vui thay dân tình. Thánh Gióng cho ngựa tiến nhanh, Lên đỉnh núi Sóc ngắm quanh bốn bề. Bỗng cơn Thần lốc đón đi, Cả người lẫn ngựa đưa về trên Thiên. Vua Hùng được cấp báo tin, Miếu thờ cho dựng đỉnh trên núi Hùng. Trong lễ truy điệu sắc phong, Thiên Vương Phù Đổng lưu trong Sử Vàng. Hồn Vương lịch sử vẻ vang, Tám mươi năm đã rõ ràng tại ngôi. Thủ lĩnh truyền kế hai đời, Ngôi Chủ lại chuyển tiếp đời Hùng sau. 7. Là chi thứ bảy nối cầu, Hùng Chiêu Vương tiếp đứng đầu Văn Lang. Quốc Lang tên huý của chàng, Tuổi tròn mười tám, trai đang sức thừa. Truyền nối được năm đời vua, Hai trăm năm chẵn đúng vừa tại ngôi. Nhiều năm trồng trọt, chăn nuôi Được mùa ngũ cốc, nơi nơi vui mừng. Dân đã biết làm bánh chưng, Bánh dầy ngày Tết, mãi cùng dân ta. Chi bảy cũng đã trải qua, Thời gian dựng nước, nay đà chuyển chi. 8. Là chi thứ tám trị vì, Vân Lang tên huý nay thì lên ngôi. Năm ba mươi chín tuổi đời, Hùng Vi Vương hiệu tại ngôi bấy giờ. Năm đời nối tiếp kế thừa, Thiếu một năm nữa thì vừa trăm niên. Đến đây chi tám hết duyên, 9. Chuyển sang chi chín giữ quyền tiếp theo. Chân Nhân Lang huý ngự triều, Bốn mươi lăm tuổi lái chèo nước non. Ba đời truyền nối cháu con, Tám mươi năm giữ ngôi son bấy giờ. 10. Chi mười tiếp giữ ngọn cờ, Hoàng Long Lang nối nghiệp xưa Hùng triều. Hùng Uy Vương hiệu tiếp theo, Ba mươi bảy tuổi sớm chiều ngự ngôi. Cháu con cả thảy ba đời, Chi mười đó chính là thời Hùng Uy. Thời vận đã tới hạn kỳ, 11. Chi thứ mười một nay thì lên thay. Chính danh Hưng Đức Lang nay, Hùng Trinh Vương hiệu ngày rày lên ngôi. Truyền kế nhau được bốn đời, Một trăm lẻ bảy năm trời trôi qua. Tới đây xã tắc sơn hà, Thay đổi niên hiệu cũng là tất nhiên. 12. Chi thứ mười hai nối liền, Hùng Vũ Vương hiệu, nguyên niên bắt đầu. Ba đời Thủ lĩnh trước sau, Tám lăm năm vững nhịp cầu Hùng xưa. 13. Chi thứ mười ba kế thừa, Tuấn Lang danh huý, tuổi vừa hai ba. Hùng Việt Vương hiệu, chính là Một trăm lẻ ngũ niên qua nắm quyền. Năm đời, Thủ lĩnh kế truyền Triều đại có hậu, có tiền xưa nay. Chi Hùng Việt Vương tới ngày Phiên hiệu đến lúc đổi thay, lẽ thường. 14. Chi thứ mười bốn khai chương, Hùng Anh Vương hiệu, tiếp đường Tổ Tiên. Viên Lang tên huý, giữ quyền Bốn đời Thủ lĩnh giữ nền Tổ Tông. Qua chín mươi chín năm ròng, Anh Vương cũng đã tới vòng chuyển luân. 15. Chi thứ mười lăm đến tuần, Hùng Triệu Vương hiệu, đầu xuân ngự trào. Cảnh Chiêu Lang huý ngôi cao, Ba mươi lăm tuổi bước vào cung son. Ba đời cả thảy Cha Con, Chín tư năm đó vẫn còn sử ghi. Việc đời đều có hạn kỳ, Cuối đời Hùng Triệu chuyển chi, lẽ thường. 16. Nay chuyển sang Hùng Tạo Vương, Là chi mười sáu, lẽ đương nhiên rồi. Đức Quân Lang huý tiếp ngôi, Thủ lĩnh bộ lạc, ba đời truyền nhau. Chín mốt năm nối nhịp cầu, Hùng Vương thời đại dài lâu vững bền. Kể từ khởi thuỷ khai nguyên, Dư hai ngàn ba trăm niên hẳn là. Mười sáu chi Hùng đã qua, 17. Chuyển chi mười bảy, đó là Hùng Nghi. Bảo Quang Lang huý trị vì, Khi mới chín tuổi đã thì lên ngôi. Hùng Nghi Vương được bốn đời, Trăm năm mươi chín niên thời trải qua. Thời đó xã tắc sơn hà, Địa phương vài chỗ thật là rối ren, Nổi lên chống lệnh cấp trên, Ý đồ cát cứ riêng quyền đó khi. Triều đình cho mở khoa thi, Tìm người tài trí, tâm vì nước, dân. Có chàng họ Lý, chí nhân Văn Lang tên gọi, tuổi gần hai lăm. Giỏi cả võ nghệ, thi văn Vua cử giữ chức Trung quân lãnh đầu. Cầm quân dẹp loạn các châu, Yên dân, yên nước, Tước hầu  Vua phong. Chàng trai vẹn cả hiếu trung, Nguyệt Cư công chúa trong Cung mến tài. Vừa đôi, phải lứa gái trai Vua cho được phép duyên hài là đây. Vua tôi, dân đã chung tay Vượt qua cả chuỗi tháng ngày khó khăn. Việc đời tuần tự thứ lân, Chi thứ mười bảy chuyển luân ngày rày. 18. Chi thứ mười tám lên thay, Hùng Duệ Vương hiệu, đến ngày lên ngôi. Khi mới mười bốn tuổi đời, Huệ Lang tên huý, chính Người ngôi Vua. Trăm năm mươi tết đúng vừa, Khoảng sáu đời đã kế thừa ngôi Vương. Tới đây như cuối chặng đường, Nguyên khai công xã thọ trường Văn Lang. Hùng Duệ Hoàng tử, nhiều chàng Đều bị yểu tử, xốn xang hậu kỳ. Còn lại hai gái, nữ nhi Tiên Dung là chị, em thì Ngọc Hoa. Tính tình hiền dịu, nết na Dung, công, ngôn, hạnh thật là mười mươi. Tiên Dung nhan sắc tuyệt vời, Một hôm, nàng đã đi chơi bằng thuyền. Gặp Chử Đồng Tử, kết duyên Người con chí hiếu, thảo hiền phúc đa. Còn nàng công chúa Ngọc Hoa, Cung đình nàng được Vua Cha quý chiều. Công hầu mai mối cũng nhiều, Duyên thiên chưa định, nàng đều chưa ưng. Nàng đã trọng dũng, hiếu, trung Vua cho mở hội võ công thi tài. Thủ lĩnh ban lệnh thi bài Tay không thắng hổ, chớ ai coi thường. Nguyễn Tuấn bước tới đấu trường, Tay không đánh hổ, bị thương bấy giờ. Trên người không vết hổ vồ, Chàng trai bước tới trước Vua vái chào. Vua khen mưu trí, tài cao Công chúa vui vẻ ưng giao duyên cùng. Lúc này giặc dã tứ tung, Nổi lên chiếm giữ mấy vùng sơn khê. Thục Phán, cháu họ cũng thì Đòi Vua nhường lại quyền uy cho mình. Đã từng gây chuyện bất bình, Vua phong Nguyễn Tuấn lãnh binh đứng đầu. Tuấn liền quỳ gối muôn tâu: Vì dân vì nước, con đâu chối từ. Cầm quân dẹp loạn, nội thù Chàng thật dũng, trí, mưu cơ hơn người. Dẹp yên phiến loạn khắp nơi, Trời quang mây tạnh cuối thời Văn Lang. Vua Cha gợi ý với chàng: Tuổi già, Cha muốn ngai vàng nhường con. Thiết tha, lời lẽ thiệt hơn: Tước hầu, con được đội ơn Cha rồi. Để hợp tình lý ở đời, Tổ Phụ để lại từ thời xa xưa. Xin Cha trao lại ngọn cờ Nội tộc Thục Phán, cơ đồ Văn Lang. Đây là thực đáy lòng vàng, Xin Cha độ lượng, kỹ càng xét soi. Vua Cha cảm động lệ rơi, Thuận ưng thành ý con người hiếu trung. Duệ Vương trao lại Long cung Thục Phán được kế bệ Rồng, còn ghi. Phán đã dựng cột đá thề, Trên đỉnh núi Tổ nguyện vì giang sơn. Đến nay cột đá vẫn còn, Ghi lại dấu tích vàng son thời Hùng. * * * * * Khai nguyên lịch sử lẫy lừng, Ngày nay con cháu Lạc Hồng tiếp theo. Đảng, Bác vĩ đại lái chèo Con thuyền cách mạng vượt nhiều gian nguy. Nay dân tộc vững bước đi, Con đường lịch sử đã ghi Sổ Vàng: Tổ Quốc to đẹp đàng hoàng, Xã hội chủ nghĩa vững vàng tiến lên. Cộng sản nguyên thuỷ khai nguyên, Xã hội chủ nghĩa đương nhiên hiện giờ. Ngày nay cộng với nguyên sơ, Hai bảy thế kỷ gần vừa đủ niên. Đó là đất nước Rồng Tiên, Công bằng xã hội đẹp thiên Sử Vàng. Hai bảy thế kỷ chói chang, Xã hội chủ nghĩa  rõ ràng chẳng sai. Năm châu bốn biển, không hai Việt Nam lịch sử đó dài quang vinh. Xã hội chủ nghĩa trường sinh, Hàng đầu thế giới đã thành vô song. Đã là con Lạc cháu Hồng, Phải hiểu lịch sử Tổ Tông dựng nền. Xã hội chủ nghĩa lưu truyền, Tổ quốc Hồng Lạc lâu bền chói chang. Dân tộc vĩ đại vinh quang, Tổ Tông để lại cả giang sơn hồng. Xứng danh đất nước Tiên Rồng, Vẻ vang con cháu Vua Hùng muôn thu. Văn Lang từ thủa xa xưa, Thật là hùng vĩ, nên thơ cõi Trần. Tổ quốc tươi đẹp muôn phần, Chính là Tiên Tổ đức nhân xây đời. Cháu con Hồng Lạc giống nòi, Phải hiểu Quốc sử từ thời Hùng xưa. Văn Lang, công xã nguyên sơ Hai sáu thế kỷ, có thừa xuân tươi. Ngót ba ngàn tuổi xây đời, Bách Việt một khối chung nôi Mẹ Hiền. Xã hội không có nhiễu phiền, Không có ganh tỵ, tranh quyền thứ ngôi. Thủ lĩnh cùng với mọi người Cùng làm cùng hưởng, đó thời Văn Lang. Không có giai cấp cao sang, Mọi người bình đẳng, ngang hàng bình dân. Cộng đồng hữu ái, hợp quần Coi nhau như thể tình thân gia đình. Bách Việt từ thủa khai sinh, Là những năm tháng bình minh rực hồng. Là nhờ công đức Cha Ông, Đó là truyền thống Tổ Tông nhân hiền. Cũng là văn hiến Rồng Tiên, Cũng là đạo lý khởi tiền Việt nhân. Dư hai ngàn sáu trăm xuân, Hùng Vương dựng nước muôn phần uy linh. Công bằng xã hội tạo hình, Rõ ràng quản lý, công minh điều hành. Người người đồng cảm chân thành, Cộng đồng chung sống nghĩa tình trước sau. Ý thức hệ thủa ban đầu, Tinh thần tập thể in sâu chữ “đồng”. Chỉ có một lợi ích chung, Đó là bản sắc Lạc Hồng khai nguyên. Khắp trong toàn quốc, mọi miền Ngược xuôi, nam bắc tâm hiền cháu con. Kiên trung một dạ sắt son, Lễ nghĩa, hiếu thảo sao tròn đức nhân. Trong nước, ngoài nước, xa gần Là dòng máu Việt, là dân Lạc Hồng. Hướng về Nguồn Cội Tổ Tông, Giang sơn Bách Việt, Cha Ông tạo hình. Phong Châu - Phú Thọ, nơi sinh Giống nòi Hồng Lạc quang vinh đời đời. Đền Hùng đó, cháu con ơi Việt Nam linh tự đời đời nhớ ghi. Hồn thiêng đất nước tụ quy, “Sơn hà Nam quốc...”  Quốc thề tối linh. Rồng Tiên nòi giống quang vinh, Gần năm ngàn tuổi tồn sinh đẹp bền. Thật là kỳ tích khai nguyên, Hùng Vương  mười tám chi truyền kế nhau. Khoảng trăm đời Chủ đứng đầu, Văn Lang bộ lạc thắm mầu vàng son. Muôn đời Hồng Lạc cháu con, Luôn luôn ghi nhớ công ơn Nhân Tiền. Nhìn lại lịch sử khai nguyên, Mẹ Cha  thật Đấng Phật Tiên tôn thờ. Trăm trứng ứng Bách Việt xưa, Khởi đầu Việt quốc, bài Thơ nghĩa tình. Thiên Việt sử đã chứng minh, Rồng Tiên duyên thắm nghĩa tình Văn Lang. Hùng Vương, lịch sử sang trang Thủ lĩnh Hùng Duệ chuyển sang Thục triều. Khai nguyên sơ lược mấy điều, Dâng Nam Phật điện đài chiêu Quốc hồn. Cũng là Ngọc điện, Quốc ơn Tâm trung, hiếu, nghĩa cháu con dâng trình... --------------------------------------------------------------------------- Nhận thông tin bằng linh cảm là ông Ma Văn Cát (19312008, quê quán tại thôn Thanh Lây, xã Thanh Minh, thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ), ghi xong lúc 22 giờ ngày 7-1-1999, tức ngày 20 tháng 11 năm Mậu Dần.
  22. PHÁP TU QUAN ÂM PHƯƠNG PHÁP BÍ TRUYỀN CỦA MẬT TÔNG TÂY TẠNG Tác Giả: Tangtong Gyalbo - Dịch Giả: Thích Viên Lý MỤC LỤC Lời Giới Thiệu Duyên Khởi Dẫn Tập Chương I - Những Chỉ Dẫn Tổng Quát Về Phương Pháp Thiền Định Chương II - Chính Văn Chương III - Giải Thích Chương IV - Phụ Lục LỜI GIỚI THIỆU Mỗi người trong chúng ta ít nhất cũng phải trải qua nhiều cơn khủng hoảng đau đớn trong đời mình; có những lúc mình không còn biết mình là ai và chẳng còn lý do gì để sống cho ra hồn trên cõi đời quạnh hiu này. Đó là lúc mình bắt đầu đánh mất hết tất cả những gì gọi là cao quí, cao thượng và thiêng liêng nhất trong mê hộ vô tình của kiếp người. Mấy chục triệu người Việt đang ở quê hương đều phải trải qua cộng nghiệp bi đát của thể mệnh tịch liêu và mấy triệu người Việt đang sống ở khắp thế giới phải chịu chung tất mệnh mất gốc rễ của nhân loại hiện nay. Mỗi một người trong chúng ta đều muốn sống một đời sống khác hơn. Đúng nghĩa trọn vẹn, phản ảnh toàn diện thâm tính thiêng liêng của nhân sinh, phục chiếu “thanh đài thượng” của sự bừng tỉnh sáng rực trên tuyệt đỉnh Tính Mệnh oanh liệt của trường sở hiện tính dân tộc. Từ năm trăm năm trước trở lại thuở ban đầu sáng rực của Sử Tính Việt Nam, chúng còn nhìn thấy lại Thiền tông và Mật tông đã điều động và quyết định tất cả hướng đi trầm hùng của ý thức toàn diện, của tất cả mọi sinh hoạt dân tộc. Thế rồi từ thế kỷ XV cho đến nay, thể nghiệp bi đát nào đã kéo lôi toàn thể sinh mệnh của Việt Nam đi xuống tất mệnh đen tối hiện nay? Vấn đề trầm trọng nhất của chúng ta hôm nay không phải đơn giản phục hồi lại những gì đã mất mà phải học cách trầm lặng đánh thức lại những khả tính âm thầm nào đang ẩn giấu trong Mệnh Tính của Việt Nam. Việt tính của Việt Nam đã được nuôi dưỡng cả ngàn năm trong hơi thở siêu việt của Trí Huệ Bát Nhã; trường sở thiêng liêng của Việt Nam là linh sở bí ẩn “liên tục vượt về phương nam”của Thiện Tài Đồng Tử trong Hoa Nghiêm Nhập Pháp Giới. Tổ Sư Ấn Độ Atisa, người đã truyền đạo Phật đến Tây Tạng vào lần thứ hai, cũng chính là người đã từng đến phương Nam của Đông Nam Á để học đạo trên cả chục năm, mà lúc đó, trung tâm Phật giáo hưng thịnh nhất của Đông Nam Á chính là Việt Nam. Nhiều lúc con đường trở về phục tính và thu phối lại thể tính của Việt Nam lại đưa mình đi vòng quanh nhiều lối đi bí ẩn. Ở tận nơi căn nguyên vô căn và vô nguyên thì con đường đi lên và đi xuống đều là một con đường giống nhau. Nhiều khi đi lên tận đỉnh Hy Mã Lạp Sơn của Tây Tạng thì lại chính là đi xuống giòng nước thơm ngát của sông Cửu Long ở miền Nam đất Việt. Không phải do tình cờ ngẫu nhiên mà hôm nay chúng ta được trao nhận Pháp Tu Quán Âm của Đạo Sư Tây Tạng Tangtong Gyalbo ở vào thế kỷ thứ XV; sự đồng thanh tương ứng thiêng liêng nào đã thị hiện hôm nay giữa Tây Tạng và Việt Nam, giữa núi rộng trống vắng và sông dài tịch mịch? Trong một trăm ngàn trang kinh Phật trong ấn bản Hán tạng, đâu là bờ là bến? Không còn gì may mắn diễm phúc hơn là chúng ta đang có Pháp Tu Quán Âm này, nơi đây tất cả một trăm ngàn trang Kinh Luật Luận đã được thu phối lại trọn vẹn súc tích trong một Pháp môn thực hành đơn giản, khả dĩ giúp đỡ chúng ta sống lại đươc̣ thể tính nguyên vẹn của sinh mệnh mình để đẩy lùi tất cả những điên đảo mộng tưởng tàn phá kiếp người đọa lạc. Thầy Viên Lý đã thực hiện một công đức vô lượng giữa những hoàn cảnh khó khăn nhất và đi ngược lại đời sống vong tính của sinh hoạt tâm linh hiện tại. Đang lúc hiện tượng lạm phát về Thiền và Mật đang hoàn thành khắp nới trong toàn thể thế giới, sự xuất hiện khiêm tốn của Pháp Tu Quán Âm là một biến cố trọng đại nhất và làm sụp đổ tất cả những quyển sách “thời thượng” của mọi tác giả khác tự nhận là “chuyên trị” về Thiền tông hay Mật tông. Con đường thêng thang mở ra tận đỉnh Tuyết Sơn đang nằm ở trước mặt chúng ta và đây cũng là một trong vài ba lối đi quyết định nhất để đánh thức dậy những khả tính ẩn mật phong phú của Việt Tính. Dân tộc tính, đúng nghĩa là dân tộc tính, chỉ là hậu quả tất nhiên của Việt Tính mà thể hiện cụ thể là nói Việt Nam; tiếng nói Việt Nam, Định Phận Việt Nam và Việt Tính chỉ là một, mà hiện thân cảm động nhất là mỗi một bà mẹ Việt Nam. Mỗi một bà mẹ Việt Nam là một hiện thể Quán Thế Âm Bồ Tát. Nhìn thấy được thể tính của Quán Âm là nhìn ra được Thực tính của Mẹ Việt, căn nguyên nền tảng của Tính Mệnh dân tộc. Việt Tính có nghĩa là gì, nếu không có đôi cánh chim Việt Điểu, tức là lòng Từ Bi và cái Trí Tuệ Siêu Việt của mấy ngàn năm vượt thằng vào trường sở linh hiện ở phương Nam? Phạm Công Thiện California, ngày 5 tháng 5, năm 1991 DUYÊN KHỞI Gần đây, vì quá sùng ngưỡng Đức Quán Thế Âm Bồ tát nhưng thiếu tài liệu giáo lý căn bản để tu học, nên một số người đã chạy theo những hiện tượng có tính cách ma thuật hay đúng hơn, những huyễn tướng do tự ngã đánh lừa. Thật hậu quả không thể lường được. Chính vì lý do đó, mà dù đang bận rộn với bao nhiêu phật sự, tôi vẫn cố gắng chuyển dịch Pháp Tu Quán Âm này, để, những ai có cơ duyên, có thể nhờ vào pháp tu mà đạt được một nội tâm thức giác, tự tại. Pháp Tu Quán Âm này thực sự đã được dịch xong từ năm 1990, nhưng, thay vì được phổ biến rộng rãi, nó lại nằm gọn trong ngăn tủ. Phải chăng nhân duyên thời tiết đã chưa được chín muồi? Hôm nay, nhân duyên đã hội tụ; vì lợi ích của tất cả mọi giới, pháp tu này được ấn hành. Xin hồi hướng tất cả công đức cho nhất thiết chủng trí. Xin chân thành tri ân tất cả những nhân duyên mầu nhiệm. Ước mong mọi người được đượm nhuần pháp vũ, phân biệt lẽ chánh tà. Hoa Kỳ, Mùa an cư năm Tân Mùi. Dịch giả cẩn bút. Thích Viên Lý DẪN TẬP Bằng một phương pháp hết sức đặc thù, quyển sách nhỏ này đã diễn tả sự phát triển tâm từ bi và tuệ giác siêu việt của hàng Bồ Tát. Trong Phật Giáo, có rất nhiều phương pháp như thế; nhưng, ở đây (trong sách này), chỉ đặc biệt đề cập đến một phương pháp, đó là: Quán Âm Quán Tưởng Tu Pháp. Quán Âm Quán Tưởng Tu Pháp là một Pháp chuyên quán tưởng đến một vị Bồ Tát siêu đẳng, lừng danh có tên là Quán Thế Âm và thần chú: Lục Đại Tự Minh (Om Mani Padme Hùm). Pháp tu này đã được truyền thừa bởi Đạo Sư Tangtong Gyalbo (Thang-Stong rGayl-po), vị Thánh Tăng của Phật Giáo Tây Tạng ở vào thế kỷ thứ 15. Cho đến nay, pháp môn này vẫn đang được mọi người đón nhận và hành trì một cách sâu rộng, thâm thiết. Phần lớn, trong suốt dòng lịch sử của Phật Giáo, ta thấy, có rất nhiều quốc gia ở Á Châu, đã sùng tín, thực hành pháp tu liên hệ đặ̣c biệt đến pháp tu Quán Âm và Lục Tự Minh Chú này; Vì lẽ, Quán Thế Âm Bồ Tát là vị Bồ Tát đã được toàn thể nhân gian tôn kính như là một biểu tượng tối cao của Đại Bi Tâm của Bậc Bồ Tát. Bậc Bồ Tát̉ là một bậc thệ nguyện đạt đến quả vị giác ngộ theo giáo lý của Phật, để, trên cầu Phật Đạo, dưới độ chúng sanh; và, nếu còn có một chúng sanh nào trên thế gian này mà chưa độ thì, Bồ Tát nhất định không thôi nghỉ. Quán Âm Bồ Tát là một trong những vị Bồ Tát đã thực hiện rất sớm thệ nguyện rộng lớn này; vì thế, đối với nhiều người tu hành trong Phật Giáo, Bồ Tát Quán Âm đã thường được nhận là có một quan hệ bất khả phân với sự cần Đạo Giác Ngộ, Giác Thoát. Danh xưng Quán Âm vốn tiếng Phạn: Avalokiteshvara (tiếng Sanskrit, văn tự cổ Ấn Độ, nơi mà từ đó Phật Giáo đã khởi nguyên). Avalokiteshvara có nghĩa là Bậc có oai lực xem xét và bảo hộ chúng sanh. Ngài cũng được tôn xưng là Mahakarunita (Người có Đại Bi Tâm) và Padmapani (Kẻ thủ trì hoa sen – Liên Hoa Thủ). Chúng ta có thể tìm hiểu Quán Âm Bồ Tát trong kinh “Duy Ma Cật” (Vimalakirtinirdesha Sutra) và phẩm thứ 25, Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharmapundarika Sutra). Theo “Cực Lạc Trang Nghiêm Kinh” (Sukhavativyuha Sutra), Ngài là thị giả của Phật A Di Đà (Vô Lượng Quang) và đã có một quan hệ rất rõ rệt đối với Tịnh Độ. Ngoài ra, có một bộ kinh hết sức trọng yếu, đó là kinh Karandavyuha Sutra, kinh này đã thuyết minh một cách chi tiết, rõ ràng Tâm Đại Bi và oai lực thần thông diệu dụng của Quán Âm Bồ Tát. Kinh “Lăng Nghiêm” (Shurangama Sutra), cũng đã giải thích về phương pháp Khế Chứng Vô Ngã của Quán Thế Âm. Trong “Bát Nhã Tâm Kinh” (Prajnaparamita-hrdaya Sutra) Quán Âm đã xiển minh cùng cực triết lý thâm áo về Trung Đạo Bất Nhị; và trong “Liên Hoa Võng Mật Kinh” (Padmajala Tantra) đã hàm chứa rất nhiều tư liệu nói rõ sự quan hệ giữa Quán Âm và Mật Tông Kim Cang Thừa (Vajrayana). Thệ nguyện của Quán Âm là tế độ tất cả chúng sanh, một trong những phương pháp mà Ngài đã sử dụng là quan sát nhu yếu của tình cảnh chúng sinh để tùy loại hiện thân. Vì để tuân thủ lời nguyện của Ngài nên Ngài đã phân thân thành rất nhiều chủng loại và thị hiện qua nhiều hình thái khác nhau trước mỗi một chúng sanh trong rất nhiều cảnh giới. Khi cần thiết, thậm chí Ngài có thể hóa thân làm những vật vô tình như cầu cống, phòng xá, nơi trú ẩn, nương thân. Trong truyền thống tạc tượng chạm trổ hình đồ về sự thị hiện của Bồ tát Quán Âm, chúng ta cũng thấy được những loại biến hóa như thế. Song, những hình thái bất đồng đó có thể được coi như là sự hiển thị đa dạng của Phật tánh đồng nhất mà thôi. Ở vào thời kỳ rất sớm tại Ấn Độ, hình tượng của Quán Âm phần nhiều đã được phát hiện dưới hình thức của một vị Vương Tử đang đứng, mình mặc áo mũ vương giả. Ta thấy, cũng có nhiều pho tượng ngồi trong tư thế nghỉ ngơi thoải mái (gọi là tư thế du hý, “latitasana”); ngoài ra, còn có một tượng rất nổi tiếng có tên là Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Âm, mục đích của Thiên Thủ là đáp ứng một cách trọn vẹn sự kỳ cầu vô tận nhưng vô cùng cần thiết của tất cả chúng sanh. Quán Âm còn xuất hiện trong một hình tướng phẫn nộ như Phục Bộ Thần Mã Đầu Minh Vương (Hayagriva), lý do của sự xuất hiện này là vì đôi khi bên cạnh lòng Từ Bi đòi hỏi phải có những thế lực mãnh liệt để làm chúng sinh kính sợ. Phương pháp Thiền Định Quán Âm (hay “thiền định cho tất cả chúng sanh qua suốt cõi không gian”) được trình bày trong quyển sách nhỏ này có liên hệ đến thế ngồi của Quán Âm với một đầu và bốn tay, hình tượng này đã trở thành một hình tượng hết sức đặc thù và vô cùng trọng yếu tại Tây Tạng. Những chi tiết diễn tả về hình dạng Quán Âm với bốn tay sẽ được trình bày trong chương sau. Sau khi Phật Giáo được truyền từ Ấn Độ vào các nước Á Châu, vị thế của Quán Âm lại ngày một gia tăng rộng lớn. Nhiều ngôi chùa lớn tại Đông Nam Á đã thờ phụng Thế Tự Tại Vương (Lokeshvara), một hiện tướng khác của Quán Âm Bồ Tát như là phản hiện với thần Shiva của Ấn Độ Giáo. Tại phương Bắc, ở Nepal (Nê Bạc Nhỉ), đã từng có đến 108 hình tượng Quán Âm. Những hình tượng này rất có thể vẫn còn thấy được hiện diện trong một cổ miếu tại Kathmandu. Người Tây Tạng đã xem Quán Âm Bồ Tát (Tây Tạng tôn xưng là Chenrezig) như là một lý tưởng tối cao của Phật Giáo đồ. Rất nhiều bậc Thánh Tăng của Tây Tạng, đặc biệt là đức Dalai Lama (Đạt Lai Lạt Ma) được coi như là hóa thân của Quán Âm Bồ Tát. Tại Viễn Đông, vị thế quan trọng của Quán Âm Bồ Tát đã phổ biến một cách hết sức rộng rãi; đặc biệt, xuyên qua những nghệ thuật phẩm nổi bậc về Quán Âm trong nhiều tư thế. Tại Trung Quốc, Quán Âm cũng còn được tôn xưng là Quán Thế Âm, tại Nhật Bản thì gọi là Kwannon. Trong tất cả những quốc gia ở Á Châu, Quán Thế Âm đã được tôn sùng như Bậc Vô Úy Thí tối thượng (kẻ ban cho sự phòng hộ thoát khỏi mọi sợ hãi) và Ngài cũng được coi là Bậc Đạo Sư, nhất là được coi như Bậc truyền cảm, dẫn khởi, khai tác lòng Từ Bi giác ngộ sâu thẳm nhất. Thế thì, lấy Quán Âm làm đối tượng để quán tưởng chính là con đường tối ư căn bản và hết sức hiệu lực đối với những ai chuyên tâm tầm cầu sự khai ngộ. Trong những trang được trình bày sau đây về Pháp Tu Quán Âm, hành giả phải học hỏi cách quán tưởng Bồ Tát Quán Âm một cách trực tiếp. Trong phương pháp giảng yếu này, bao gồm một thứ kỹ thuật khả dĩ khiến hành giả đang trong thiền định có thể cảm nhận được sự gia trì che chở của Quán Âm. Đang trong khi quán tưởng, hànhgiả và cảnh giới sở nghiệm của hành giả đều được quán tưởng như được trở thành giác ngộ viên mãn. Hành giả, lúc tụng Thần Chú Lục Tự (OM MANI PADME HUM), phải đồng lúc quán tưởng rằng: tất cả hình tướng, sắc tướng, âm thanh và tư tưởng đều đã được chuyển hóa thành hình sắc, âm thanh và tư tưởng của chính Quán Thế Âm. Pháp Tu Quán Âm Quán Tưởng này (nguyên tác: “Thiền Định Quán Tưởng cho tất cả chúng sinh suốt cõi không gian”) đã do Ngài Tangtong Gyalbo, một vị đại thánh của Tây Tạng soạn ra. Ngài đã từng có rất nhiều kinh nghiệm tu chứng và đươc̣ trực tiếp nhìn thấy sự thị hiện của chính Đức Quán Thế Âm Bồ Tát. Tangtong Gyalbo đã được sinh ra tại Owa Latse vào năm 1361, thuộc vùng Tây bộ Tây Tạng. Lúc còn rất trẻ, Ngài đã say sưa thích thú, nhất là nghiên cứu, tu học giáo lỵ́ Phật Giáo, đặc biệt; những giáolý có liên hệ đến Ngài Quán Âm. Ngài đã hấp thụ một trình độ giáo lý tu chứng rất cao từ các bậc thầy lớn thuộc Kim Cang Đại Thừa của Ấn Độ và Tây Tạng đương thời; trong những bậc thầy đó có Ngài Kangapa Paljor Sherah là một bậc Đạo Sư chuyên gia hành trì về Quán Âm. Ngài cũng đã bỏ ra nhiều năm ròng rã để thủ đắc công phu tu tập thiền định và đã từng trực tiếp hấp thụ một cách bí nhiệm sự chỉ dạy và tâm thuật minh kiến truyền thọ từ chư Phật và chư Bồ Tát cũng như từ những bậc Đại Sư ở nhân gian trong quá khứ. Sau đó, Ngài đã du hóa khắp xứ Tây Tạng, Ấn Độ, Bhutan (Phủ Đơn), Trung Hoa và Mông Cổ. Bất cứ nơi nào Ngài đến, Ngài đều truyền bá Minh Chú “Án Ma Ni Bát Di Hồng” (OM MANI PADME HUM) cho rất nhiều đệ tử của Ngài. Pháp Tu Quán Âm do Tangtong Gyalbo soạn ra đã được đặt căn bản trên sự thân kiến và những kinh nghiệm tu chứng bản thân vê Đức Quán Thế Âm Bồ Tát. Ngài đã truyền trao pháp tu cho các đệ tử, và sau đó đã được tương truyền từ thế hệ này rau thế hệ khác và cho mãi đến hôm nay. Vào thế kỷ thứ 19, pháp tu này đã rất được tán dương và phục hồi bởi hai vị Hòa Thượng Tây Tạng Jamyang Kyentse Wangbo Rinpoche và Jamgon Kongtrul Rinpoche. Nhờ thế, pháp tu này đã được truyền bá và thực hành rộng rãi đến toàn thể Phật Giáo đồ trên khắp thế giới. Kỹ xảo trọng yếu mà Tangtong Gyalbo đã sử dụng để phát triển bao gồm nghi thức Đoạn Ngã (phá trừ ngã chấp, chữ Tây Tạng gọi là pháp tu GCOD – đọc là chod) và thuật Mật Tông Du Già bí truyền từ Dakini Niguma (em của Sư Tổ Mật Tông Naropa) và phương pháp quán tưởng Vô Lượng Thọ Phật (Amitayus) để làm tăng thêm tuổi thọ. Đặc biệt Tangtong Gyalbo còn được người Tây Tạng ngưỡng mộ một cách cao độ vì công trình kiến thiết cầu treo bằng sắt trên toàn cõi Tây Tạng. Sau khi phát hiện mỏ thiết đồ sộ, phong phú, Ngài đã phát minh ra phương pháp luyện thép để chế tạo một loại thép không rỉ sét. Những chiếc cầu treo được Ngài kiến tạo theo phương pháp này, cho đến nay vẫn còn được sử dụng. Tangtong Gyalbo viên tịch vào năm 1485, Ngài đã sống với một tuổi thọ rất cao (Ngài sống đến 124 tuổi), vì thế đã chứng minh một cách hùng hồn cái công hiệu của thuật tăng tuổi thọ mà Ngài đã truyền dạy. Từ những hành hoạt về Bồ Tát Hạnh vô cùng lợi ích đối với dân Tây Tạng trong cuộc sống của Ngài; vì thế, Ngài đã được tôn kính và được coi như là bậc hóa thân của Bồ Tát Quán Âm. Tangtong Gyalbo hiện vẫn tiếp tục thọ sanh (tái sanh) như một bậc thượng sư muôn đời tại Tây Tạng. Hiện thân của Ngài hiện nay là Drubtob Rinpoche, ngài đã chào đời tại Golok thuộc miền Đông bộ Tây Tạng vào đầu kỷ nguyên này. Drubtob Rinpoche đang ở Bhutan và Ngài hiện là một bậc được tôn như là đại Minh Sư thần thông viên thành (Siddha) của “Thiết Kiều hệ, Mật Tông Tây Tạng”. Toàn bộ phương pháp giảng dạy của Tangtong Gyalbo đều được hoằng dương nơi những đạo tràng của Ngài, trong đó, gồm cả pháp tu Quán Âm. Đã có rất nhiều bậc thượng sư khác cũng đã truyền thọ pháp tu này như ngài Deshung Rinpoche ở Seatle, Washington, Ngài Kalu Rinpoche ở các trung tâm truyền bá Phật Giáo của Hòa thượng trên khắp thế giới, và Ngài Lama Kunga ở Ewam Choden Center tại Berkeley, California. Nguồn: http://www.chuadieuphap.us
  23. - Theo tôi những quan điểm nhận xét như thế này không được chấp nhận hoàn toàn: + Do nóng lên toàn cầu là 1 lý do, nhưng hiện nay các nhà khoa học cũng đã chụp được lỗ thủng tầng Ozon đang dần nhỏ lại. Điều đó có nghĩa là tự nhiên tự điều chỉnh chứ không phải hoàn toàn như trước giờ vẫn nói. Theo khoa học và y học hiện đại thì con người là 1 tiểu vũ trụ, khi bi bệnh thì thuốc cũng chỉ hỗ trợ hơn 20% cho công tác chữa trị còn lại là do cơ thể tự sinh kháng thể để chống lại bệnh tật. Điển hình gần đây có nhiều phương pháp chữa bệnh mà xã hội và báo chí...mệnh danh cho cái tên "Quái dị"...nhưng hẳn chúng ta biết là bệnh tật đã khỏi hoặc thuyên giảm rõ rệt, cứ cho đó là liệu pháp tâm lý nhưng nó đã đem lại hiệu quả rõ rệt. + Các hiện tượng thiên tai năm nào cũng có nhưng bạn phải chú y chu kỳ và mức độ tàn phá của nó, những năm gần đây mức độ tăng hơn rất nhiều mà đã số báo chí đều gọi "trăm năm mới xảy ra"...theo quan điểm của bạn thì với đà này chỉ vài năm nữa tự con người đem tận thế đến cho mình.? + Hố đen, hố trắng, năng lượng tối...mà hầu hết chúng ta chưa khám phá ra đấy có phải là nguồn năng lượng, vật chất có anh hưởng rất lớn đến tự nhiên nói chung và các loài động thực vật nói riêng? + Các lời đồn về ngày tận thế từ cổ đến kim rất nhiều, nhưng chính trong nội tại của 2 từ "Tận thế" cũng đã chứng minh cho việc quá khứ chưa từng xảy ra "Tận thế" mà nó chỉ có thể là 1 đại nạn xảy ra cùng lúc trên nhiều vùng của trái đất. Vì nếu tận thế thì ai (chết hết) ghi chép lại được chuyện đó và còn lưu truyền đến ngày nay? Nếu có thì chỉ có người ngoài hành tinh đã chứng kiến ghi chép lại và truyền cho tổ tiên của chúng ta. + Lời đồn năm 2000 không đúng nhưng nó có thể đúng cho năm 2012 và 2013, lúc đó trái đất sẽ gặp đại nạn chứ không tận thế. Vì ngoài các lời tiên tri, lịch của người Maya thì đến nay Nasa cũng đã chính thức đưa ra lời cảnh báo cho các năm đó. Lời đồn năm 2000 cũng không trùng hợp cho chu kỳ 25920 năm, lúc này trái đất, hệ mặt trời năm tại tâm đĩa phẳng ngân hà, sự tác động của các hành tinh lên trái đất lúc đó có nhiều thay đổi và chúng ta là những động vật có nhận biết rõ nhất sẽ chịu những tác động đó. + Còn nhiều lý do khác tác động vào trái đất đúng vào năm 2012 và 2013...mà các năm khác không xảy ra như vậy.
  24. Con xin sám hối trước ngôi tam bảo, mười phương chư phật. Thưa tất cả quí vị. Tôi sống tại Thanh Xuân, Hà Nội đã bao năm nhưng hôm nay qua một người bạn, một con người có tấm lòng từ bi mới vào tra cứu lại và thật là xúc động, những giọt nước mắt đã rơi trước cảnh ngộ của một cụ bà mấy chục năm ròng sống trong cảnh màn trời chiếu đất. Lực bất tòng tâm. Đức phật từ bi, chốn cửa thiền từ bi xin hãy mở lòng cứu nhân độ thế dành cho cụ 1 nơi nương tựa. Xin trích nguyên văn bài báo: Quá khổ, cụ bà 80 muốn hiến xác sống Cập nhật lúc 13:23, Thứ Bảy, 16/10/2010 (GMT+7) Chồng chết, rồi con trai, chỗ dựa duy nhất chết, nhà bị lừa lấy mất, cuối cùng người đàn bà ấy bị đẩy ra sống và mưu sinh ở hè Bách hoá Thanh Xuân, Hà Nội. 25 năm nay, những người bán hàng quanh Bách hoá Thanh Xuân đã quá quen thuộc với hình ảnh nhỏ bé còm cõi của cụ Đinh Thị Hạnh bên chiếc cân sức khoẻ, gom góp từng đồng bạc lẻ sống qua ngày. Hà Nội buổi chiều thu, mưa rả rích khiến cảm giác se lạnh của heo may càng thấm thía. Nhưng bên góc hè, cụ Hạnh vẫn phong phanh chiếc áo ngắn tay, đôi mắt đục mờ dõi cái nhìn mông lung ra con đường ướt nhoè phía trước. Suốt từ chiều, chưa có người khách nào ghé cân cho cụ. Có lẽ do trời mưa, người mua sắm cũng ít đi. Ngồi mãi cũng buồn, bà lôi cơm ra ăn cho xong bữa. Hộp cơm khô khốc chỉ có vài miếng thịt, bà trệu trạo nhai và cố nuốt. Miếng cơm khô như nghẹn lại trong họng. Bà lấy bình nước sôi ra, chan vào cơm để ăn cho dễ. Bà cho biết, cơm mua hồi trưa còn lại để dành cho bữa tối. Cụ Đinh Thị Hạnh giữa “chốn mưu sinh” của mình Cụ Đinh Thị Hạnh giữa “chốn mưu sinh” của mình Người đàn bà bất hạnh Cụ Hạnh kể mình quê ở Thái Bình, cha mẹ anh em chết hết vào nạn đói năm 1945 chỉ còn mỗi mình sống sót. Từ nhỏ, bà đã phải lăn lộn kiếm sống ở hết gầm cầu Bo rồi chợ Bo Thái Bình để kiếm miếng ăn qua ngày. Rồi cụ lấy chồng, nhưng người đàn ông đó đã phụ bà, bỏ đi mất khi hai người chưa có con. Năm 1957, bà bỏ quê lên Hà Nội xin vào làm công nhân nhà máy điện Mễ Trì. Rồi bà đi bước nữa với một người đàn ông cũng là công nhân và sinh được một cậu con trai. Rồi không may, chồng mắc bệnh hiểm nghèo mất khi con trai mới tám tuổi và bà thì vẫn đang còn xuân trẻ. Cắn răng chịu đựng, bà ở vậy nuôi con. Rồi công việc Hà Nội rồi cũng mất, bà đành bỏ việc và bắt đầu cuộc sống mưu sinh làm thuê đủ mọi việc để nuôi con. Bất hạnh nối tiếp bất hạnh khi người con duy nhất của cụ bị bệnh qua đời. Trái tim người mẹ tan nát khiến nhiều lúc cụ muốn đi theo con. Cụ bảo, tên của mình là Đinh Thị Thanh nhưng do khổ quá mà cụ đổi tên thành Đinh Thị Hạnh, người đàn bà suốt đời bất hạnh. Năm tháng qua đi, làm đủ nghề nặng nhọc kiếm sống, đến lúc thấy tuổi đã cao, biết không thể tiếp tục làm thuê được nữa, cụ sắm một cái cân sức khoẻ rồi ra ngồi ở hè Bách hoá Thanh Xuân. Tính đến nay cũng đã 25 năm rồi. Thời gian đầu, sáng cụ ra hè Bách hoá ngồi, tối lại trở về căn nhà của mình sống vò võ một mình. Rồi cụ quyết định bán căn nhà đó đi để mua một căn nhà khác ở gần Bách hoá. Nhưng trớ trêu thay, nhà mua không có giấy tờ đàng hoàng mà chỉ viết sang tay nên ở được hơn một tháng thì bị chủ cũ vu oan cụ chiếm nhà và đòi kiện. Rồi công an tới đòi bà cho xem giấy giao kèo, thật thà nên cụ đưa và họ bảo cần đem về xác minh rồi cầm đi mất. Vậy là cụ mất trắng căn nhà, bị đuổi ra ngoài đường. Bắt đầu từ đó, góc hè Bách hoá Thanh Xuân trở thành chỗ sinh sống của cụ luôn. Cụ kể, những người bảo vệ ở đây rất thương cho hoàn cảnh của bà nên họ cho bà ở mà không đuổi. Chiều chiều, bà ra đằng sau Bách hoá tắm giặt nhờ. Mỗi ngày, cụ mua một hộp cơm 15.000 đồng chia ra ăn bữa trưa và bữa tối. Cụ bảo già rồi, cũng chẳng ăn được bao nhiêu, với lại mua thế để tiết kiệm. Nguyện vọng được hiến xác Ở tuổi 80, cuộc đời của cụ Hạnh như ngọn đèn trước gió. Cụ bảo bao nhiêu năm nay, thân già nằm đây chả biết chết lúc nào. Người già khó ngủ, đêm nào cụ cũng thao thức chờ sáng. Bình thường còn ngủ được một chút chứ những đêm mùa hè nóng nực như thời gian vừa rồi, cả đêm bà nằm phe phẩy quạt đến sáng. Nhưng khổ nhất vẫn là những đêm mùa đông, rét quá nên cả đêm không ngủ được. Những ngày nhiệt độ xuống quá thấp cụ mới đi thuê phòng để ngủ. Gọi là phòng chứ thực ra chỉ là cái hầm của một căn nhà, chỉ rộng 5m2. Bình thường người ta để đồ nên giá chỉ có 300.000 đồng/tháng. Trời hết rét cụ lại trả nhà ra hiên Bách hoá ngủ và họ lại lấy chỗ đó để đồ. Mỗi ngày, cụ biết mình phải có 13.000 đồng để trả tiền nhà. Ngày nào kiếm được ít quá, cụ lại ăn bánh mì chứ không dám mua một hộp cơm để có tiền trả tiền nhà. Nhưng hai năm nay, thấy bà già quá, chủ nhà không dám cho cụ thuê nữa vì sợ trời lạnh quá, cụ chết trong nhà của họ nên suốt mùa đông cụ phải ngủ ngoài hè Bách hoá, chịu cái lạnh cắt da cắt thịt. Cụ bảo nhưng có lẽ trời thương, nên mặc dù nhìn mình quắt queo lẻo khoẻo thế này nhưng cụ rất ít bị ốm, không phải nằm một chỗ nên vẫn kiếm sống được mỗi ngày. Chỉ có cái chân bị khớp thỉnh thoảng lại hành cho nhức nhối, không có tiền đi bệnh viện, đau quá không chịu nổi, cụ mới đi mua thuốc, 9.000 đồng một viên uống cũng bớt đau được vài ngày. Cụ bảo sống không nơi nương tựa nên chẳng biết khi nằm xuống ai sẽ lo ma chay cho. Thỉnh thoảng đọc báo nên cụ biết được các bệnh viện rất cần nội tạng, các trường đại học y thì cần xác cho sinh viên thực hành nên nguyện vọng của bà là muốn được hiến xác vừa không phải lo chuyện hậu sự cho mình lại vừa giúp ích được cho đời. Cụ đã từng viết đơn gửi đến bệnh viện Bạch Mai xin hiến xác nhưng không thấy bệnh viện hồi âm chấp nhận yêu cầu của cụ. Thậm chí, cụ từng thuê xe ôm đến bệnh viện với ý định lên gặp ban giám đốc để nêu nguyện vọng nhưng không gặp được. Thấy mình đã già lại không nơi nương tựa nên cụ rất sợ bệnh già kéo tới, phải nằm một chỗ không có người chăm sóc thì càng khốn khổ nên cụ còn có ý muốn sẵn sàng hiến xác sống với suy nghĩ bây giờ nội tạng còn khoẻ mạnh, chắc chắn sẽ có ích hơn. Cuộc sống bế tắc đến nỗi đã có lúc cụ mua thuốc chuột về định tự tử nhưng hoà cho con chó uống thử thì không thấy chết nên từ đó cụ không dám liều vì sợ uống vào chết không được mà lại mang bệnh, mang tật thì còn khốn khổ hơn. Suốt cuộc đời khốn khổ của mình, cụ Hạnh bảo mình chẳng có điều kiện giúp đỡ được ai thì chỉ mong chết đi, thân già này có thể giúp cho người khác sống thêm được vài năm, như thế là cụ mãn nguyện lắm rồi. Theo Hà Dịu SGTT http://megafun.vn/channel/3241/201010/Qua-...ac-song-101271/ Kính mong các nhà chùa mở lòng từ bi cứu độ chúng sinh.
  25. Chào bạn! Dạo này TĐN hơi bận lên chưa ghé qua cụ. Cách đây 2 tuần có ghé qua thăm cụ ngồi nói chuyện mươi phút thấy cụ nói sắp vào trại Dưỡng lão. Thế là cũng tốt cho cụ rồi, nhưng theo mình vào chùa thì tốt hơn, ở đó là lòng từ bi cứu độ chúng sinh chứ không phải nơi làm để hư trương thanh thế hay vì sức ép xã hội. Hơn nữa cụ bị thấp khớp và trong chùa có cả phòng đông y chữa trị. hihihi. Cụ không đồng ý thì đành chịu. Âu cũng là cái nghiệp!