-
Số nội dung
1.279 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
5
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by yeuphunu
-
Ghê quá, con mèo mà thấy chuột này chạy mất dép =============================================================================================== Là vật cưng được nuôi trong nhà, nàng chuột lang Nam Mỹ tên là Caplin nặng tới gần nửa tạ, cao 0,6m tính tới vai. Mời bạn chiêm ngưỡng thân hình to lớn khác thường của Caplin. Ảnh trên Agencies. Cô chủ và nàng chuột khổng lồ Caplin. Caplin bên con gái nhỏ Neptune. Nàng chuột to khiến nhiều sợ khi nhìn thấy lần đầu. Nàng chuột được yêu chiều chăm sóc trong nhà như mèo và cún.
-
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên Nguời Việt Nam ngày nay về cơ bản theo hai đạo: Phật giáo và Thiên Chúa giáo (cùng những biến tướng của nó). Đó là hai tôn giáo lớn trên thế giới. Nhưng ngay từ trước khi tiếp nhận Phật giáo, người Việt cổ đã có những tín ngưỡng riêng của mình. Trải qua những hoàn cảnh lịch sử khắc nghiệt, tín ngưỡng ấy không phát triển thành tôn giáo được, song có một sức sống dai dẳng trong tâm linh mọi người. Có mảng nay còn rất được tôn trọng và dễ dàng nhận ra như đạo thờ Tổ tiên trong gia đình, sau mở ra với thờ Thành hoàng ở đình làng, thờ anh hùng dân tộc hay Tổ chung của cả nước ở đền. Cũng có mảng nhận ra không khó lắm, như đạo thờ Mẫu ở một số phủ và ghép vào trong hầu hết các chùa. Lại có những mảng tín ngưỡng bị tàng ẩn dưới những trò chơi trong các lễ hội mà dân làng tuân theo nghiêm ngặt, nhưng đã quên mất ý nghĩa, các nhà nghiên cứu phải dày công tìm hiểu mới "đọc" được phần nào. Người Việt cổ từ thời đại đồ đá mới đã có những cộng đồng chiếm lĩnh miền núi thuộc văn hóa Bắc Sơn và cộng đồng chiếm lĩnh miền biển thuộc văn hóa Hạ Long. Sang giai đoạn muộn hơn, các cộng đồng thuộc văn hóa Quỳnh Văn và văn hóa Bàu Trò bên cạnh việc săn thú rừng, nông nghiệp trồng lúa nước đã phát triển, nghề đàn cá ven biển cũng tương đối phát triển. Khoảng 4000 năm trước, người nguyên thủy phát hiện ra đồng trong lúc đã đẩy mỹ thuật chế tác đá lên đỉnh cao, thì họ đã tiến vào lưu vực sông Hồng chinh phục đồng bằng, đưa kinh tế trồng trọt và chăn nuôi lên vị trí hàng đầu. Các giai đoạn văn hóa Phùng Nguyên - Đồng Đậu - Gò Mun phát triển liên tục và trực tiếp đã chuẩn bị tại chỗ cho văn hóa Đông Sơn đạt tới đỉnh cao thành văn minh Đông Sơn mà các sử gia xưa gọi là nhà nước Văn Lang của các vua Hùng, rồi nối tiếp là nhà nước Âu Lạc của An Dương Vương. Chính trong quá trình phát triển trên đây, các tín ngưỡng bản địa của người Việt cổ được hình thành, lưu lại dấu vết trên một số hiện vật mà tiêu biểu là trống đồng. Sau đó trong cuộc chinh phục và mưu đồ đồng hóa văn hóa của phương Bắc, văn hóa Đông Sơn bị đập nát chỉ lưu lại được ít hiện vật và những "mảnh vụn văn hóa" thông qua hội làng và một số đền thờ nhỏ. Tiếp theo, trong cuộc tiếp xúc hòa bình với văn hóa Ấn Độ, một số vị thần bản địa được Phật hóa. Rồi khi bước vào kỷ nguyên độc lập, với tinh thần tự hào và tự tôn dân tộc, nhiều vị thần cũ được nâng cấp, thêm nhiều vị thần mới nữa được lịch sử hóa, hội làng được định hình thành lệ. Cứ thế, những lớp phù sa văn hóa mới phủ lên lớp cũ. Lắng tâm phân tích sinh hoạt ở chùa, đền, đình và lễ hội, chúng ta có thể nhận ra những tín ngưỡng bản địa của người Việt Nam Bàn Thờ Mẫu tại đền Tiên Thiên Thánh Mẫu (Vĩnh Phúc) Chùa là của làng, của vùng, nên ở chùa ngoài một số lễ hội Phật giáo thống nhất trong các chùa, còn có lễ hội theo tín ngưỡng địa phương. Lễ trọng của Phật giáo có lễ Phật đản rằm tháng Tư (ngày tháng ở đây đều theo âm lịch), lễ Phật thành Đạo rằm tháng Chạp, lễ Vu lan rằm tháng Bảy. Ở chùa còn có lễ "Tam nguyên" gồm lễ Thiên quan tích phúc vào rằm tháng Giêng, lễ Địa quan xá tội trùng với lễ Vu lan, và lễ Thủy quan giải ách vào rằm tháng Mười. Như vậy tất cả các lễ hội Phật giáo đều tiến hành vào ngày rằm âm lịch, tức là Ngày trăng tròn. Trăng tròn là "mãn nguyệt" đầy đặn, tròn trịa, trong sáng, chứa đựng một cái gì thiêng liêng, màu nhiệm, huyền bí. Các lễ hội khác ở từng chùa thường được xem là gắn với ngày kỵ của vị sư tổ tiếng tăm, nhưng thực ra đó chỉ là một cách giới thiệu thuộc lớp văn hóa muộn, lật tìm về nguồn nó chính là hội xuân cổ truyền trai gái giao duyên của dân gian. Chẳng hạn hội chùa Thầy (Hà Tây) vào mồng 7 tháng Ba, ngoa truyền là ngày kỵ nhà sư Từ Đạo Hạnh, nhưng sử cũ ghi rõ Từ Đạo Hạnh hóa thân trút xác vào mùa hạ, tháng Sáu năm Bính Thân ( 1116 ). Và ở đây, đáng ra phải trang trọng thì lại là cảnh trai gái chơi núi, chơi hang: Gái chưa chồng nhớ hang Cắc Cớ Trai chưa vợ nhớ hội chùa Thầy Chùa Hương (Hà Tây) là cả một quần thể kiến trúc và hang động, hội kéo dài cả mùa xuân, trai gái trẩy hội chính là để thỏa mãn khát vọng tuổi trẻ giữa thiên nhiên đang bừng thức sức xuân. Hội đền cũng thế, từ đền thờ anh hùng huyền thoại đến đền thờ anh hùng lịch sử đều có dáng dấp hội tín ngưỡng xa xưa. Hội đền Hùng thờ Đức Quốc Tổ, nhưng sử gia xưa đã xếp giai đoạn lịch sử Hùng Vương vào "ngoại kỷ", sự tích các vua Hùng đầy huyền tích, thì ngày hội mồng 10 tháng Ba xem là ngày hóa của Đức Quốc Tổ chỉ là ngoa truyền. Đền Hùng ở trên núi, truy về nguồn cũng chỉ là một đền thần núi. Và như thế hội ở đền Hùng cũng chỉ là một thử hội xuân của địa phương được lịch sử hóa để cố kết cả dân tộc được nâng lên từ tín ngưỡng thờ tổ tiên. Rồi hội đền Gióng (Hà Nội) mồng 9 tháng Tư kỷ niệm Đức Thánh Gióng đại thắng giặc Ân. Các diễn xướng anh hùng ca bồi dưỡng cho mọi người lòng tự hào về quá khứ với một "kỳ tích Việt Nam", nhưng lễ hội cho phép hôm đó trai gái được vào nương dâu tình tự. Đây là lúc thời tiết thất thường chuyển từ khô hạn sang mùa mưa dông, phải chăng là dịp kết thúc hội xuân, trai gái vui chơi thỏa tình, để rồi sau đấy chuyển sang nhịp lao động khẩn trương. Đến đền thờ anh hùng lịch sử như các đền thờ Hai Bà Trưng ở Đồng Nhân (Hà Nội) vào ngày mồng 6 tháng Hai, ở Hát Môn (Hà Tây) vào mồng 8 tháng Ba và ở Hạ Lôi (Vĩnh Phúc) rằm tháng Giêng coi như ngày "Thánh hóa". Còn sử cũ cho biết Hai Bà Trưng mất vào tháng Năm, mùa hè năm 43. Rõ ràng các đền thờ Hai Bà Trưng đã đưa văn hóa thờ Hai Bà vào trong nội dung và trùm lên lớp văn hóa hội chơi xuân xa xưa của địa phương. Hội đền vua Đinh và đền vua Lê (Ninh Bình) cũng mở vào ngày mồng 10 tháng Ba, và một hội ở vùng Trương Yên có nhiều núi đá với những hang động, thung lan, và sông Hoàng tạo một địa bàn cho hội chơi xuân của trai gái. Về sau phủ lên việc tưởng niệm vua Đinh và vua Lê, có các sinh hoạt hội theo sự tích lịch sử nhưng cũng ở đó đã bộc lộ sự thức tỉnh thiên nhiên để cho mưa thuận gió hòa, và rộn ràng vẫn là những cảnh trèo núi chơi hang. Mùa xuân, trẩy hội chùa Hương Trở lại lớp văn hóa Việt cổ, đi từ nguồn, nhất là khi các dân tộc Việt từ vùng núi và từ vùng biển tiến vào chinh phục đồng bằng sông Hồng, tạo nên cuộc hôn phối Âu Cơ - Lạc Long Quân tượng trưng cho hai yếu tố cơ bản là vùng cao/ vùng trũng hay Rừng/ Nước để sinh ra trăm giống người Việt (Bách Việt) mà Lạc Việt và Âu Việt lại hòa đồng thành Âu Lạc là tổ tiên trực tiếp của ngừời Việt Nam ngày nay. Người Việt chiếm lĩnh đồng bằng là những cư dân trồng cấy lúa nước, trong tư duy của họ ở vùng thềm cao đồng bằng (tập trung là Sơn Tây) tôn thờ thần Núi thành Thánh Tản Viên và vùng thềm trũng (tập trung là Bắc Ninh) tôn thờ thần Sông thành Thánh Tam Giang. Rất nhiều làng quê có đình thờ các vị thần trên làm Thành Hoàng. Làm nông nghiệp lúa nước (có kết hợp chăn nuôi gia đình), họ nhận ra Mặt Trời trong sự chuyển xoay (ảo) đã tạo ra một quyền năng vô lượng, cần được tôn thờ ở vị trí hàng đầu, mà bằng chứng là được khắc nổi ở trung tâm các mặt trống đồng, là những trò chơi với quả cầu (và những biến tướng) được tuân thủ nghiêm ngặt trong nhiều lễ hội. Họ cũng nhận ra mối quan hệ Âm - Dương tương sinh tương khắc mà cụ thể là giữa Giống Cái và Giống Đực, rồi khái quát lên là các hiện tượng thiên nhiên như Nước/Lửa/Ngày/ Đêm... đối đãi nhau hòa hợp tạo sự phát triển, xung khắc gây tai biến, do đó con người phải tranh thủ bằng nhiều hình thức mà tàn dư còn thấy ở nhiều lễ hội với các trò múa nõ nường chen, tắt đèn. Trong tiềm thức của người làm ruộng nước, người Việt cổ nghĩ về các thần Rừng, thần Nước, thần Đất, thần Lửa cũng như nhiều thần khác đều thuộc yếu tố Âm, nhân hóa thành mẹ, đồng nhất với vũ trụ, khái quát thành Đạo Mẫu với Tam Toà và Tứ Phủ mà cho đến nay còn được rất coi trọng trong các phủ và chùa. Tín ngưỡng thờ Mặt Trời được phản ánh rõ ở các trò chơi với quả cầu mà âm cổ là cù. Đánh phết, cướp cầu, vật cù, ném giỏ phổ biến ở vùng đất thuộc các tỉnh Phú Thọ, Bắc Ninh, Thanh Hóa... Quả cầu vốn là một khối tròn, to như quả bưởi, sơn son, vốn được thờ ở trong cung đình, đến ngày hội sau khi làm lễ được rước ra chơi ở sân bãi. Đánh phết tiêu biểu ở Phú Thọ với các hội Sơn Vi (l-3 tháng Giêng) hội Hiền Quang (13 tháng Giêng)... Các người chơi thuộc hai phe tranh nhau dùng gậy tre có nghéo đầu dưới để gạt và đẩy quả phết xuống lỗ ở giữa sân bãi hoặc ở hai đầu đông và tây của sân bãi. Cướp cầu phổ biến ở Phú Thọ với các hội Điêu Lương (mồng 4 tháng Giêng), hội Đông Viên (mồng 4 tháng Giêng), hội cầu đảo Thạch Trúc (khi đại hạn); ở Bắc Ninh vận hội làng Yên (14 tháng Hai), hội cầu đảo làng Diềm (khi đại hạn) và ở Thanh Hoá với hội làng Vạc (mồng 8 tháng Giêng).. mà người chơi thuộc hai phe đều dùng tay tranh cướp quả cầu đem bỏ vào lỗ cầu bên mình ở hai đầu đông hoặc tây của sân bãi. Trò ném giỏ, tung cầu ở Phú Thọ với hội Lương Lỗ (mồng 10 tháng Ba), hội Gia Dụ (12 tháng Giêng), ở Bắc Ninh với hội Đào Xá (khi đại hạn), ở Thanh Hóa với Vệ Yên (mồng 5 tháng Giêng) ở Hà Nam với hội làng Chẩy (mồng 2 tháng Giêng)… chỉ khác trò cướp cầu là lỗ cầu thay bằng giỏ treo trên cao. Các trò chơi với quả cầu đỏ được chuyển động cơ bản theo hướng đông - tây, tổ chức trên sân bãi là khu đất thường khi đưa được vào lỗ (hoặc giỏ) thì kết thúc đã gợi lại tín ngưỡng thờ. Mặt Trời cho tới khi đạt được sự hòa hợp âm - dương thì tạo sự phát triển cho muôn loài. Cũng tương tự các trò kéo co, đánh đu là sự chuyển động luân chuyển của thời gian. Trò chọi trâu gợi lại tín ngưỡng thờ Mặt Trăng, cặp sừng trâu là hình trăng khuyết. Thờ Mặt Trời, Mặt Trăng cũng như thơi gian chu chuyển là tín Ngưỡng về thiên nhiên, vũ trụ có ảnh hưởng đến nông nghiệp mà cả ngư nghiệp. Các hội đua thuyền, bơi chải phổ biến trong cả nước, tập trung ở đồng bằng Bắc Bộ vào các tháng 3-4-5 và 8-9, có nơi kéo dài gần một tháng như hội Đại Than (Bắc Ninh) từ mồng mười tháng Ba đến mồng năm tháng Tư. Nhiều cư dân trồng lúa và đánh cá ở Đông Nam Á cũng phổ biến lễ hội này. Ta thấy ở đây tín ngưỡng thờ thần Nước với sự đánh thức thủy thần và cầu những cơn dông đầu mùa cho mưa đúng lúc. Hội pháo ở Đồng Kỵ (Bắc Ninh), Bình Đà (Hà Tây) với nhiều kiểu pháo đặc sắc, nhất là pháo màn than cả dàn treo cao, đã tạo tiếng nổ vang và ánh sáng như sấm rền chớp giật, tạo cả bầu trời khói vần vũ, như mong cho mưa thuận gió hòa, là tín ngưỡng thành phong tục xuân của cư dân lúa nước. Và nổi lên là các lễ hội biểu hiện của tín ngưỡng phồn thực, như hội chen làng Nga Hoàng (Bắc Ninh) trong dịp từ mồng 6 đến rằm tháng Giêng là dịp để nam nữ giao hòa. Nhiều hội trong đêm rã hội, như hội Nga Hoàng và nhất là La Khê (Hà Tây) mồng 7 tháng Giêng có tục tắt đèn để trai gái tự do đùa nghịch. Được lễ nghi hóa và đáy thành trò múa mo như ở hội Đồng Kỵ (Bắc Ninh), Sơn Đồng (Hà Tây), Nam Cường và Lương Đài (Phú Thọ) hoặc trò cướp nõ nường ở các hội Dị Nậu, Khúc Lạc, Gia Thanh, Hà Thanh, Thanh Uyên (đều ở Phú Thọ) múa hát với bộ nõ và nường gợi hành động ân ái rồi tung cho mọi người cướp. Như vậy, chùa, đền, đình, với những sinh hoạt lễ hội trang nghiêm, chúng ta có thể bóc tách ra nhiều tầng văn hóa, để từ đấy tìm ra những tín ngưỡng của người Việt cổ còn lưu lại, cần thiết cho cư dân lúa nước như sùng bái giới tự nhiên và phồn thực. (Theo Văn hóa Việt Nam)
-
"Lên đồng" có phải là mê tín dị đoan? Chúng ta không chống tôn giáo tín ngưỡng, chúng ta chống những kẻ lợi dụng tôn giáo tín ngưỡng. Vấn đề ở đây là chúng ta phải bằng cách nào đó để hạn chế dần (chứ khó mà cấm hết được), tạo nên sự thăng bằng của xã hội. Ngăn chặn hạn chế những biểu hiện lợi dụng trong đời sống, chứ không phải là cấm bản thân hoạt động đó. LTS: Bộ VH - TT - DL đang soạn thảo Thông tư để tạo cơ sở pháp lý cho việc quản lý lễ hội. Trong những điều cấm của Dự thảo, có việc cấm tổ chức hoạt động "lên đồng". Để làm sáng tỏ vấn đề này, Tuần Việt Nam có cuộc trao đổi với Giáo sư Ngô Đức Thịnh, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu văn hóa. Đừng để người dân phản ứng tiêu cực - Là người đã nghiên cứu Đạo Mẫu nói chung và "lên đồng" nói riêng nhiều năm, GS có đồng tình với việc "cấm" này không? GS Ngô Đức Thịnh: - Vấn đề cốt lõi phải bàn trước tiên là nhận thức cho đúng về bản chất của những cái mình định cho phép, hay định cấm. Bởi nếu không hiểu sẽ có cách ứng xử không nhất quán, bình thường thì cho làm, khi có chuyện rộ lên lại cấm. Khi nghe về dự thảo thông tư này đã có người phản ứng với tôi theo kiểu "kệ luật, có cấm thì chúng tôi vẫn cứ làm". Ta cấm không đúng thì sẽ tạo ra một kẽ hở cho một lớp người lợi dụng và trục lợi. Từ những năm 1980, khi "lên đồng" còn bị cấm, tôi vào TPHCM để nghiên cứu về "lên đồng". Mình cứ lo mất công thuê máy quay phim đến ghi hình, lỡ có ai đến bắt dừng lại vì không được phép thì sao? Nhưng người dân họ bảo cứ yên tâm, họ đã lo hết rồi. Họ lo theo cách của họ, mà không nói ra thì ai cũng hiểu. Đừng để người dân phản ứng tiêu cực, coi thường pháp luật nếu luật của chúng ta chưa đầy đủ và hoàn thiện. Đã đến lúc phải bàn cho rốt ráo xem "lên đồng" có là hoạt động văn hóa không? Nhiều người vẫn quan niệm "lên đồng" là mê tín dị đoan? Giáo sư Ngô Đức Thịnh Phải quay lại định nghĩa lại thế nào là mê tín dị đoan. Nếu xem lại Pháp lệnh Tôn giáo tín ngưỡng năm 2001, sẽ thấy rất ít cụm từ này. Pháp lệnh chỉ nhấn mạnh: "Nhà nước ngăn cấm những người sử dụng những hình thức tôn giáo tín ngưỡng để mưu cầu những lợi ích bất chính, làm tổn hại đến tính mạng, sức khỏe danh dự của người khác, tới an ninh xã hội..." Tức là trước đây người ta gọi là mê tín dị đoan, nhưng giờ người ta đã không gọi như thế nữa. Bởi trong rất nhiều trường hợp, bản thân hoạt động, hiện tượng ấy không phải là mê tín dị đoan, nhưng chức năng của nó trong bối cảnh xã hội, đã bị những con người cụ thể lợi dụng nó như thế nào. Từ bàn thờ vào tới hậu cung của một một ngôi đền, ngôi chùa... là những bức tượng, những bài vị của những người biểu trưng cho cái thiện, hay những anh hùng dân tộc, đáng để chúng ta cung kính họ. Chỉ có từ phía chân bàn thờ ra tới xã hội, đó là do chúng ta đứng trước họ để mưu cầu cái gì, ước vọng cái gì, cầu xin cái gì. Đó mới là chỗ có vấn đề. Có tôn giáo tín ngưỡng nào dạy con người làm điều ác không, hay chỉ có con người lợi dụng nó để làm điều ác. Ở đây phải quay lại tư tưởng của Bác Hồ, chúng ta không chống tôn giáo tín ngưỡng, chúng ta chống những kẻ lợi dụng tôn giáo tín ngưỡng. Vấn đề ở đây là chúng ta phải bằng cách nào đó để hạn chế dần (chứ khó mà cấm hết được), tạo nên sự thăng bằng của xã hội. Ngăn chặn hạn chế những biểu hiện lợi dụng trong đời sống, chứ không phải là cấm bản thân hoạt động đó. "Lên đồng" là một hoạt động của đạo Mẫu Vậy phải hiểu về "lên đồng" thế nào cho đúng? Thế giới ứng xử ra sao với hiện tượng này? - Ở đây liên quan đến một hình thái tôn giáo thế giới là Saman giáo - hình thái nảy sinh trong xã hội bộ lạc sắp bước vào phong kiến, khi đã có sự phân hóa, khi con người đã hiểu không phải ai cũng tiếp cận được với thần linh, mà phải thông qua những người có khả năng đó, là những thầy Saman. Ở VN là những ông đồng bà đồng. Để thực hiện việc nối thông đó thì các thầy Saman phải có khả năng tự đưa mình vào trạng thái ngây ngất, trong trạng thái như vậy thì thần linh mới nhập được hồn vào họ. Khi đó họ không phải là họ, nhưng có khả năng giúp bản thân họ hoặc giúp mọi người chuyển tải những ước vọng của con người đến với thần linh. Saman giáo hiện nay có mặt trên khắp trên thế giới, điều đặc biệt là càng xã hội đô thị hóa, hiện đại hóa thì Saman càng phát triển, bởi con người phải chịu nhiều những dồn nén của xã hội. Vậy trong "lên đồng", đâu là tôn giáo tín ngưỡng, còn đâu là những biểu hiện lợi dụng? - Tôi cũng đã từng nhận nhiều câu hỏi như thế. Có những người không hiểu "lên đồng" là gì mà chỉ nghe những lời đồn đoán. Bản thân tôi bắt đầu đi sâu nghiên cứu về "lên đồng" cũng vì băn khoăn tự hỏi, tại sao nhà nước cấm nhưng không được? Tại sao dù có thời kỳ bị cho là phạm luật, người ta vẫn tìm mọi cách để thực hiện, kể cả phải chịu đi tù, chịu tịch thu tài sản? Sau đó tôi mới hiểu ra. Tôi đã đưa ra một quan điểm thế này. Có những người có căn số mà không ra "trình đồng" thì họ sẽ trở thành điên loạn. Việc họ ra "trình đồng" là cách giúp họ tái hòa nhập với cộng đồng. Đó là một nhu cầu có tính chất cơ học, rơi vào trạng thái đó họ không còn là người nữa, hành vi của họ lệch chuẩn. Kết quả nghiên cứu đã chỉ rõ, 100% những người có căn số "lên đồng" bị điên loạn, được "ra đồng" đều khỏi. Cái đó không có gì là mê tín dị đoan cả.Quan điểm của tôi, nhân tố quan trọng nhất của tôn giáo tín ngưỡng là niềm tin vào những thứ mang tính chất siêu nhiên, những cái con người không giải thích được mà đang tác động tới đời sống? Tại sao chúng ta thờ cúng tổ tiên? Vì tình cảm cũng là một khía cạnh. Nhưng vì các cụ mất đi nhưng linh hồn các cụ vẫn còn, vẫn ngày ngày tác động tới đời sống con cháu nên người ta thờ, để tạo nên nối kết thông quan giữa con người và thần linh. Thì "lên đồng" cũng là một cách để nối thông với thần linh. Đừng nhìn "lên đồng" tách biệt, bởi "lên đồng" là một hoạt động của đạo Mẫu. Một buổi lên đồng Nên dẹp "đồng đú", "đồng đua"... Liệu có phải tất cả những người đang xưng là "ông đồng, bà đồng" đều có khả năng đó? - Phải phân biệt hai loại, một loại là những người có căn số, phải "ra đồng". Tôi cũng muốn nhấn mạnh là bản thân những "ông đồng bà đồng" không muốn vậy, mà họ bị đày, nếu không "ra đồng" thì thành điên loạn, ốm đau không chữa bệnh được. Còn khi đã "ra đồng" thì họ lại rất sướng, họ thành những "vị thần, vị thánh"(!) Nhưng gần đây, có lẽ khoảng từ những năm sau đổi mới, có thêm một loại nữa là "đồng đú, đồng đua"... những người không có căn số, nhưng trong xu trào hiện nay thì họ cũng thành những "ông đồng bà đồng". "Lên đồng" là cách để họ giải tỏa, dù không phải chuyện sống chết, bệnh tật nhưng là nhu cầu giải tỏa dồn nén để có cân bằng. Ở Việt Nam cũng thấy rõ gần đây bùng phát chuyện "lên đồng", thường ở tầng lớp giàu có, hay đô thị nhiều "ông đồng bà đồng" hơn nông thôn. Đúng là trong xu hướng xã hội đang lao đi tìm kiếm những lợi ích vật chất thì cũng có nhiều người lợi dụng "lên đồng" để kiếm tiền, vì đến với Mẫu là để cầu mong sức khỏe, tài lộc, buôn bán có nhiều tiền, nên có thể cầu thăng quan tiến chức. Chính nhóm những "ông đồng bà đồng" không có căn này có chuyện biến chất, lợi dụng niềm tin của con người để thu lợi cho họ. Phải chăng con người dù thuộc tôn giáo nào đều có nhu cầu nối kết với những thế lực siêu nhiên? - Con người tìm mọi cách liên hệ với siêu nhiên là để giúp họ có được sự cân bằng. Mà muốn thông quan thì phải dùng phương tiện, phương sách, nghi lễ, những vật dụng, đồ cúng, hương khói, vàng mã... Bản chất của nó là như vậy. Vấn đề là mức độ. Bao giờ giỗ Tết bố mẹ tôi, hay ngày rằm tôi đều mua một chút vàng mã. Tôi nghĩ rằng như thế ấm lòng hơn, tôi thấy làm việc đó rất hay. Nhưng cái đáng phê phán là chuyện đốt vàng mã như đống rơm đống rác như bây giờ, chứ không phải là bản thân việc đốt vàng mã. Ở Hàn Quốc, trước đây mấy chục năm cũng cấm kut (giống "lên đồng" của ta), nhưng gần đây lại tôn vinh, bởi nhiều người đã khẳng định sẽ không thể hiểu được văn hóa Hàn Quốc nếu không hiểu Kut, ở đó chứa đựng bản sắc văn hóa của Hàn Quốc. Những "ông đồng bà đồng" được Hàn Quốc xem như những báu vật nhân văn sống. Tất nhiên, trong quá trình đến được nhận thức như bây giờ, họ đã nhấn mạnh khía cạnh di sản của kut, tiếp cận như một di sản văn hóa, chứ không nhấn mạnh khía cạnh tôn giáo tín ngưỡng. Vừa rồi, một PV của VTV1 đưa tôi xuống chùa Láng, để làm tiền cảnh cho một cuộc phỏng vấn. Họ muốn tôi đốt một nén hương mang vào cắm để họ quay. Nhưng các sư thầy sư cô ở đó nhất định không đồng ý để tôi thắp hương trong nội tự. Nghĩa là nếu chúng ta muốn và có sự phối hợp tốt, hoàn toàn có thể giữ ở mức độ rất văn hóa. Ông cha ta bao đời đã giữ được những nét văn hóa rất đẹp, nhưng chúng ta lại đang phá vỡ nó. Vẫn quay lại đời sống con người thực ở xã hội, chứ không phải chuyện tâm linh xa xôi gì cả. Nếu cả xã hội cùng đồng lòng thì sẽ làm được. Dọn dẹp để trả lại giá trị cho ngôi nhà thờ Mẫu Bản thân "lên đồng" thời gian qua có quá nhiều biến chất, khiến nhiều người nghi ngại? - Ngôi nhà thờ Mẫu có giá trị to lớn, nhưng ta đã làm vẩn đục nó, nay cùng nhau dọn dẹp để trả lại giá trị cho ngôi nhà. Trong những người đồng bóng, rất ít người hiểu biết về đạo Mẫu, đó cũng là nguyên nhân gây ra sự lệch lạc. Lẽ ra văn hóa phải là của cộng đồng, nhưng đã có một thời gian chúng ta cấm đoán khiến văn hóa dường như tuột khỏi tay những chủ nhân thật sự, khiến nhiều người nay chỉ biết thực hành một cách vô ý. Tôi sắp tổ chức một câu lạc bộ, nơi các nhà nghiên cứu và những "ông đồng, bà đồng" ngồi lại với nhau để tạo mối liên kết. Nhà nghiên cứu sẽ có môi trường để tìm hiểu thực tế, "ông đồng bà đồng" thì có cơ hội hiểu về đạo Mẫu. Khi đã hiểu thì họ sẽ điều chỉnh hành vi của họ. Rồi chính cộng đồng ấy sẽ đấu tranh với những biểu hiện lệch lạc, lợi dụng. Vậy theo GS, thông tư sẽ điều chỉnh mức độ như thế nào để giữ đúng bản chất của các hiện tượng tôn giáo tín ngưỡng mà không bị đẩy quá thành lệch lạc? Nhà nước có thể tác động đến đâu? - Nhà nước hãy nghiêm cấm những việc làm, hành động lợi dụng tôn giáo tín ngưỡng để đi ngược lại lợi ích, xâm hại sức khỏe, danh dự, tính mạng của con người, ảnh hưởng đến an ninh của cộng đồng... Luật pháp rất cần hiểu biết khoa học, và sự nhất quán, không thể cứ nay cấm, mai lại cho phép, tạo ra những kẻ hở. Theo: TuanVietNam
-
Vỡ bụng cười với khoảnh khắc thể thao Những trận đấu nảy lửa trong thể thao đôi khi cũng là nơi tiềm ẩn những tình huống gây cười khó hiểu. Các phóng viên ảnh đã lưu lại những khoảnh khắc thực sự “khó quên” này!
-
Sau tận dụng đến lợi dụng Cách thức tiến hành can thiệp quân sự vào Libya của Mỹ, Pháp và Anh cùng với một số đồng minh cho tới nay và sự tham gia chính thức của NATO cho thấy chiến dịch này đã vượt quá khuôn khổ và mức độ cho phép trong Nghị quyết 1973 của HĐBA LHQ. Liên quân trong thực chất đã đứng hẳn về phía lực lượng chống chính phủ. Mục tiêu hàng đầu của nghị quyết nói trên là bảo vệ thường dân ở Libya trong khi mục tiêu chính bộc lộ ngày càng rõ của liên quân là thay đổi chính thể ở Libya và quyền lực của ông Muammar Gaddafi. Phương Tây có nhiều lý do và lợi ích khi thay đổi hoàn toàn chính sách đối với Libya và quan hệ với ông Gaddafi. Nghị quyết của LHQ đã trở thành cơ hội để phương Tây thực hiện những suy tính địa chiến lược và bảo toàn lợi ích ở Libya và khu vực trong bối cảnh thay đổi sâu sắc về chính trị, an ninh và xã hội ở Trung Đông và Bắc Phi. Sau tận dụng sẽ đến khả năng phương Tây và NATO cùng các đồng minh khác lợi dụng chiến dịch này. Điều họ không ngờ là khả năng cầm cự của lực lượng Chính phủ Libya và tiềm lực hạn chế của phe chống chính phủ. Họ dần nhận ra rằng nếu cứ tiếp tục như vậy thì sẽ khó hoặc còn lâu mới đạt được mục tiêu. Điều họ chắc chắn đã tính đến nhưng chưa công khai là đưa quân đội vào tham chiến trên bộ. Ngay từ bây giờ càng cần cảnh báo về khả năng này vì như thế chiến sự sẽ càng leo thang, càng khó ngừng bắn và thiệt hại về người và của ở Libya sẽ ngày càng tăng. Thanh nien online
-
Cơn sóng thần ở Nhật Bản diễn ra chỉ vài ngày sau khi các thông tin lan truyền trên Internet cảnh báo rằng chuyển động của mặt trăng sẽ gây ra thủy triều cao, núi lửa phun và động đất, theo tờ Daily Mail. Có một vài dự báo nói rằng vào ngày 19.3, mặt trăng sẽ ở vào vị trí gần trái đất hơn bao giờ hết kể từ năm 1992, chỉ cách 356.577 km, và lực hấp dẫn của nó sẽ gây ra hỗn loạn trên trái đất. Các nhà thiên văn học đã bác bỏ những “lời tiên tri”, vốn tập trung vào một hiện tượng gọi là “cận điểm của mặt trăng” và cho rằng nó hoàn toàn vô lý. Quỹ đạo của mặt trăng xung quanh trái đất không phải hình tròn mà là hình elip. Khi đến vị trí cận điểm, mặt trăng sẽ sáng và to hơn. Khi vào vị trí viễn điểm, nó sẽ nhỏ và mờ hơn. Hiện tượng cận điểm của mặt trăng xảy ra một tháng một lần. Tuy nhiên, vào tuần tới hiện tượng này sẽ xảy ra trùng với trăng tròn. Sự kết hợp này chỉ xảy ra 2 hoặc 3 năm một lần và người ta gọi nó là “siêu trăng”. Mặc dù đây là một thời điểm tốt cho các nhà thiên văn chụp ảnh, các nhà khoa học khẳng định nó không hề tác động gì đến trái đất. Dẫu vậy, những người ủng hộ lý thuyết “siêu trăng” lập luận rằng những lần hiện tượng “siêu trăng” xuất hiện ở các năm 1955, 1974, 1992 và 2005 đều đi kèm cùng các thảm họa tự nhiên. Cơn sóng thần giết hại hàng trăm nghìn người ở Indonesia xảy ra chỉ 2 tuần trước đợt “siêu trăng” vào tháng 1.2005. Vào ngày lễ Giáng sinh năm 1974, cơn lốc xoáy Tracy cũng tàn phá thành phố Darwin của Úc. Chiêm tinh gia người Mỹ Richard Nolle, người nghĩ ra từ “siêu trăng” vào năm 1979, tin rằng hiện tượng cận điểm của mặt trăng có quan hệ với các thảm họa tự nhiên trên trái đất. Ông nói hiện tượng cận điểm xảy ra vào ngày 18.2 đã báo hiệu trận động đất ở New Zealand vào ngày 22.2. “Siêu trăng có lịch sử đi kèm cùng với các cơn bão mạnh, thủy triều cao và cả động đất”, Nolle nói với đài ABC trong tuần này. Thanh nien online
-
Tin đồn rùng rợn về hiện tượng siêu mặt trăng Mặt trăng đang tiến về điểm gần nhất so với Trái đất, kèm theo đó là vô số tin đồn xung quanh hiện tượng này. Mấy ngày qua trên internet tràn ngập những thông tin cảnh báo với lời tiên đoán mang bóng dáng của ngày tận thế rằng thảm họa sẽ giáng xuống Trái đất vào đúng ngày 19.3, thời điểm mặt trăng đến gần địa cầu nhất trong 19 năm qua. Đối với những người thiên về thuyết khải huyền, sự hiếm hoi trong quỹ đạo mặt trăng, khiến nó chỉ cách Trái đất 356.577 km (trung bình khoảng cách từ mặt trăng đến Trái đất khoảng 384.400 km), đồng nghĩa với thiên tai thật sự. Điều hiển nhiên là thủy triều sẽ dâng cao và hạ thấp hơn bình thường, nhưng giới khoa học hoài nghi về những lý luận như núi lửa sẽ phun mạnh và sẽ có các trận động đất với cường độ cao. Mặt trăng sắp đến điểm gần Trái đất nhất trong 19 năm qua... - Ảnh: Alamy Những lời đồn đại kỳ quái trên vốn tập trung vào một hiện tượng gọi là điểm cận địa của mặt trăng. Vệ tinh tự nhiên của Trái đất không quay xung quanh địa cầu theo quỹ đạo hình tròn mà là hình bầu dục. Khi nó đến điểm cận địa, điểm gần Trái đất nhất, mặt trăng sẽ trông sáng và to hơn trên bầu trời đêm. Khi tới điểm viễn địa, điểm xa nhất, nó mờ nhạt và có vẻ nhỏ hơn so với bình thường. Cứ mỗi một tháng hiện tượng cận địa sẽ xuất hiện một lần. Tuy nhiên, lần này thì khác. Điểm cận địa trong tuần tới sẽ trùng hợp với đêm trăng tròn, một sự kết hợp chỉ xảy ra từ 2 đến 3 năm/lần. ... được đồn đại là có liên quan đến các thảm họa như sóng thần Dù đây là một trong những cơ hội tốt để giới thiên văn có được những bức hình đẹp tuyệt của mặt trăng, các nhà khoa học cho rằng vị trí hết sức gần với Trái đất của mặt trăng như lần này chẳng gây ảnh hưởng gì cho cư dân trên hành tinh xanh, theo Daily Mail dẫn lời tiến sĩ David Harland, sử gia về vũ trụ của Anh. Tuy nhiên, lời cam đoan của ông vẫn không ngăn được những tin đồn lan tràn trên internet, mà tác giả chính là các nhà khoa học nghiệp dư với đầu óc đa nghi. Họ dẫn chứng rằng những lần mặt trăng đến gần Trái đất nhất, gọi là hiện tượng siêu mặt trăng, đã diễn ra trong các năm 1955, 1974, 1992 và 2005, khi đó thời tiết đột nhiên biến đổi khác thường. Trận động đất gây sóng thần giết chết hàng trăm ngàn người tại Indonesia xảy ra 2 tuần trước thời điểm siêu mặt trăng vào tháng 1.2005. Và vào Giáng sinh năm 1974, siêu bão Tracy càn quét Darwin (Úc). Lần này, họ cho rằng điềm báo đã xuất hiện khi núi lửa Kilauea ở Hawaii đang phun trào, và động đất mạnh 7,3 độ Richter mới xảy ra tại Nhật Bản. Dù vậy, các chuyên gia vẫn khẳng định không nên lo lắng. Báo Sydney Morning Herald dẫn lời Pete Wheeler của Trung tâm Thiên văn vô tuyến quốc tế cho biết sẽ chẳng có núi lửa hay động đất gì cả, mà nếu có chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên. Nhà thiên văn học người Úc David Reneke đồng tình với ý kiến của chuyên gia Wheeler. Ông cho hay nếu cứ suy luận theo cách của những người tung tin đồn thì bất cứ thiên tai nào cũng có thể liên hệ với những sự kiện trên trời cao, từ sự di chuyển của sao chổi, hành tinh đến mặt trời. Trong những lần vừa điểm cận địa vừa trăng tròn, bề mặt chị Hằng có thể trông to hơn gấp 14% và sáng hơn 30% so với những lần trăng rằm khác. Thanh nien online
-
Xã luận Báo Nhân Dân "Dù với bất cứ lý do nào, việc dùng sức mạnh quân sự tiến công Libya là sự xâm phạm một quốc gia độc lập, có chủ quyền. Ðây là điều không thể chấp nhận được vì tạo tiền lệ xấu trong quan hệ quốc tế".
-
Đạo cao đài là một đạo mới thành lập ở đầu thế kỷ 20 này tại Việt Nam. Triết lý của họ dựa vào các tôn giáo lớn như Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo, Lão giáo, Thiên chúa giáo, Hồi giáo và . . . nói chung là hơi ô hợp. Nền tảng mà không vững thì hay ăn to nói lớn mà.
-
Trong quá trình tìm kiếm, thực hiện các giải pháp khắc phục những hậu quả của vụ Vinashin, dần dần người ta thấy lộ ra không ít doanh nghiệp, ngân hàng, tổ chức tín dụng, do không nắm đủ thông tin hoặc do nhắm mắt đưa chân mà nay đang gặp khó khăn lớn vì làm ăn chung đụng với tập đoàn này. Một trong những doanh nghiệp lớn, mới xuất hiện trong danh sách dài dặc các nạn nhân của Vinashin, là tập đoàn tài chính - bảo hiểm Bảo Việt. Qua kiểm tra, cơ quan chức năng phát hiện, từ năm 2007-2009, tập đoàn Bảo Việt và các đơn vị thành viên của tập đoàn này đã mua 680 tỷ đồng trái phiếu doanh nghiệp của Vinashin (bao gồm cả số trái phiếu công ty TNHH quản lý quỹ Bảo Việt mua theo ủy thác của quỹ BVF1). Trong đó, trái phiếu đáo hạn trong các năm 2012, 2013 là 200 tỷ đồng; trái phiếu đáo hạn trong năm 2017 là 480 tỷ đồng. Nhưng đáng chú ý, đó lại là trái phiếu doanh nghiệp không có bảo đảm. Khi tập đoàn Bảo Việt và một số công ty con của mình mua trái phiếu của Vinashin năm 2007, đầu tư 160 tỷ đồng vào trái phiếu doanh nghiệp của Vinashin phát hành tháng 12/2008, những phòng ban chuyên môn của tập đoàn Bảo Việt và các đơn vị thành viên đã cho rằng Vinashin ngày càng phát triển, khẳng định được thương hiệu trên thị trường quốc tế (!). Việc đầu tư vào Vinashin trong tình trạng thiếu thông tin về hoạt động kinh doanh của tập đoàn này đã khiến một phần vốn liếng đáng kể của Bảo Việt và các công ty con của mình mắc kẹt cùng Vinashin. Nếu trong những năm tới, tình hình kinh doanh của Vinashin không tốt lên mà ngược lại tệ hại đi thì dễ hình dung số phận đống trái phiếu không được đảm bảo mua của Vinashin sẽ ra sao. Nhưng chưa hết, Bảo Việt còn ký 34 hợp đồng tiền gửi tại công ty Tài chính công nghiệp tàu thuỷ (VFC), thành viên của Vinashin. Có những thời điểm, người ta thấy lượng tiền gửi của Bảo Việt tại VFC vượt quá hạn mức tín dụng. Cụ thể, hạn mức tín dụng do ban đầu tư chiến lược của tập đoàn Bảo Việt đề xuất với VFC năm 2009 là 200 tỷ đồng nhưng đến cuối tháng 6.2009, số dư tiền gửi của tập đoàn Bảo Việt tại VFC đã trên 400 tỷ đồng. Với một tập đoàn tài chính lớn như Bảo Việt, việc để vượt hạn mức tín dụng thể hiện quản trị nội bộ có vấn đề và rõ ràng tiềm ẩn rủi ro lớn một khi đơn vị nhận tiền gửi gặp khó khăn trong thanh toán. Sau Bảo Việt là tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN). Tại buổi họp tháng 6/2010, lãnh đạo tổng công ty cổ phần Tài chính dầu khí (PVFC) thuộc tập đoàn này cho biết, tính đến đầu năm 2010 số tiền PVFC cho Vinashin vay bị nợ quá hạn đã lên tới 1.500 tỷ đồng. Không có tiền trả, một số dự án, cơ sở đóng tàu, khu công nghiệp... của Vinashin đã được gán cho PVN để trả nợ. Phần lớn trong số này sẽ được đối trừ để trả nợ cho PVFC. Nhưng đây có thể cũng lại là một cuộc phiêu lưu mới của PVN bởi lẽ không dễ để các cơ sở của Vinashin, nhất là các khu công nghiệp, chuyển sang cho tập đoàn này có thể hoạt động, kinh doanh trở lại có hiệu quả. Giai đoạn chuyển giao nhùng nhằng mất mấy tháng, nay vẫn chưa xong trong khi lượng vốn cho vay quá lớn chưa đối trừ được thực sự là một trái đắng đối với PVN. Tổng công ty Hàng hải Việt Nam (Vinalines) có lẽ còn cảm nhận vị đắng đó rõ hơn, bởi với Vinalines, việc phải gánh nợ cho Vinashin là không tự nguyện. Theo phát biểu công khai của lãnh đạo tổng công ty này với báo chí thì chỉ riêng bảy tháng đầu năm nay, số lãi 700 tỷ đồng do Vinalines kiếm được đã trở về con số không vì đã phải bỏ ra một số tiền tương đương để trang trải chi phí cho việc tiếp nhận và hồi sinh đống tàu bè, cơ sở cũ nát từ Vinashin chuyển qua. Không biết Vinalines sau này sẽ sử dụng các con tàu của Vinashin ra sao nhưng đã có không ít người lo ngại cho tương lai của tổng công ty này. Có một số ngân hàng, tổ chức tín dụng chắc cũng phải ngậm đắng nuốt cay bởi một số khoản họ trót cho Vinashin và các công ty thành viên của Vinashin vay trước đây nay phải khoanh, giãn nợ. Trong số các ngân hàng, đáng nói có Vietcombank. Trong số các nguyên nhân khiến ngân hàng này mới đây bị cơ quan xếp hạng tín nhiệm Fitch Ratings hạ bậc tín nhiệm (từ D xuống D/E), có việc cho Vinashin vay. Fitch Ratings đưa ra cảnh báo, Vietcombank có thể chịu tác động xấu do trong tổng nợ vay của Vinashin tại ngân hàng này chiếm tới 16%. Ngay các công ty con của Vinashin, trước đây "nhắm mắt đưa chân" gia nhập tập đoàn này nhưng không nhận được vốn góp từ công ty mẹ như đã cam kết, nay lại thêm những khó khăn mới, nên một số công ty tại Hải Phòng tuần qua đã tuyên bố xin tách khỏi tập đoàn, gỡ bỏ thương hiệu Vinashin. Qua vụ Vinashin, hẳn là nhiều tập đoàn, doanh nghiệp, tổ chức tín dụng, ngân hàng giờ đây đã rút được cho mình những bài học đắt giá. Nếu chỉ thấy bóng dáng lừng lững của một “ông lớn”, không đánh giá chính xác năng lực, tình hình tài chính, hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp đó, không cưỡng được những sức ép buộc phải góp vốn, cho vay mà lại rót tiền, đầu tư vào thì nguy cơ bị sa lầy cùng với đối tác của mình là không hề nhỏ. Nếu chỉ thấy bóng dáng lừng lững của một “ông lớn”, không đánh giá chính xác năng lực, hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp đó, không cưỡng được những sức ép buộc phải góp vốn, cho vay mà lại rót tiền, đầu tư vào thì nguy cơ bị sa lầy là không hề nhỏ
-
1. Valentine nóng hổi vừa đi qua, câu chuyện người ta định tổ chức thi hôn tập thể tại cung Việt Tiệp ở Hải Phòng vào hôm ấy đến phút cuối lại ngừng, sau đó lại có chuyện thi hôn tập thể ở một quán cà phê nào đó được đưa tin và clip trên mạng... <br style="font-family: Times New Roman; font-size: 12pt; color: rgb(51, 51, 51);">Ôi chuyện hôn hít trên xứ sở chúng ta bây giờ cứ nóng hôi hổi như thể tinh thần hôn hít đã sắp hòa tan vào thế giới phương Tây. Cũng ở đâu đó trong thế giới phương Tây có ông thợ ảnh vận động cả ngàn người cởi truồng để chụp ảnh, báo mạng đưa và trên các blog cũng đưa. Cảnh cởi truồng tụ tập hàng đoàn cả nam lẫn nữ cưỡi xe đạp để phản đối giá xăng dầu đắt đỏ cũng đầy ra ở phương Tây. Thế giới người ta cởi mở thế cơ mà. Tôi có dịp sang Pháp mấy lần, ở lại một hai tháng, dạo khắp Paris, Bordeaux, Lyon. Mỗi lần gặp bạn cũng cọ má hai lần, cũng đôi lúc gặp thanh niên hôn nhau khi gặp gỡ, nhưng chưa thấy họ quấn lấy nhau mài môi quăn queo như trên phim bao giờ. Mọi cái hôn diễn ra rất nhanh như một câu chào, người yêu nhau thì có quấn quít hơn chút, nhưng không mê mẩn dẻo như quân ta ở Bờ Hồ hay ở những lùm cây ven đường. Quân ta có lẽ học theo phim ảnh nên ở nơi công cộng hôn dính như nhựa đường, dẻo như kẹo kéo, dài hàng phút, hoặc ôm bế nhau như về quê bế em. Tôi đồ rằng đó là sự thấm nhuần phim ảnh chứ người Tây gặp nhau không hôn dai như các học trò choai xứ ta. Tôi chắc Tây nhìn nơi công cộng xứ ta hôn nhau có khi họ phải bảo nhau: Đó là cái gì nhỉ? 2. Nước chúng ta giàu tài nguyên hay có cái gì giàu nữa thì không biết, nhưng hành vi trong giao tiếp thuộc diện con nhà nghèo. Trong giao tiếp, chúng ta không mấy khi dùng chân tay, mà là chỉ chào nhau bằng lời. “Lời chào cao hơn mâm cỗ” đã thành thành ngữ. Các nhà nho gặp nhau thì vái để chào nhau. Bắt tay có lẽ là tài sản của người Pháp mang sang xứ thuộc địa và chúng ta dùng quen nó rất nhanh, giữ nó đến bây giờ. Tuy vậy chỉ có người thành phố và cán bộ cơ quan công quyền từ Trung ương đến cơ sở dùng, chứ nông dân xịn gặp nhau cũng chỉ chào bằng lời. Nghèo nhưng đối lại, ở xứ ta việc bắt chước thì nhanh hơn rất nhiều so với việc sáng tạo. Cái bắt chước ấy được núp sau từ khá khiêm nhường là học tập, tiếp thu tinh hoa nhân loại. Và đến thế kỉ 21 này, năng lực bắt chước không những được gìn giữ mà còn phát triển nhanh. Đơn cử cái bắt chước có thể coi là lố bịch đó là chuyện hôn hít tập thể, đang được mào đầu nhưng có cơ phát triển... 3. Phương Tây gặp nhau nghi lễ thì bắt tay, thân tình thì hôn má, yêu nhau thì hôn môi. Ở ta gặp nhau thì chào bằng lời, lời chào cũng theo thứ bậc tuổi tác, chào bác, chào anh, chào chú, chào em. Mở đầu câu chuyện có thể là mời trầu, và giản dị hơn là mời nước. Còn bổ sung cái bắt tay học phương Tây trở thành hành vi lịch lãm có tính phổ thông là khá phù hợp với thế giới cả Đông lẫn Tây. Lên rẻo cao, đơn cử người Mông gặp nhau sau lời chào thì mời nhau chén rượu. Khi đã uống một chén rượu với nhau thì thành người trong nhà, dễ dàng chuyện trò cởi mở. Đó là văn hóa ứng xử tạo thành bản sắc vùng miền và dân tộc. Giao tiếp phổ thông mà chúng ta hái lượm đem về không lựa chọn dễ thành trò hề. Các cụ dạy: “Giấy rách giữ lấy lề”, lề là lề lối, là lối sống của mình. Quen hái lượm về dùng trong thời này có thể vơ được nhiều thứ, nhưng phải biết phân loại, chọn lọc cái hay, đừng vơ bừa vơ bãi... TT&VH
-
Đã có khá nhiều công trình nghiên cứu của các học giả Việt Nam về Kinh Dịch, trong số đó có một công trình đặt lại vấn đề " tác quyền" của bộ Kinh này. Đó là học giả Nguyễn Thiếu Dũng, qua nhiều tìm tòi và nghiên cứu, ông đã nêu ra một số chứng lý để minh chứng rằng Kinh Dịch là sáng tạo của người Việt Nam. Với sự thận trọng cần thiết, Thanhnien Online xin giới thiệu bài viết sau đây của học giả Nguyễn Thiếu Dũng để rộng đường tham khảo. Từ hai nghìn năm trước khi chúng ta bị phong kiến phương Bắc đô hộ, tổ tiên chúng ta ở thời đại Hùng Vương đã sáng tạo Kinh Dịch và dùng học thuyết này xây dựng nền tảng cơ bản cho văn hoá Việt Nam, nhờ thế trong suốt một nghìn năm lệ thuộc Trung Hoa, chúng ta vẫn đứng vững không bị đồng hoá như các dân tộc ở Hoa Nam. Người Trung Hoa không biết từ thời điểm nào đã tiếp thu được Kinh Dịch của Việt Nam và họ cũng đã dùng Kinh Dịch để góp phần xây dựng nền tảng văn hoá của họ. Cho nên trong sinh hoạt, chúng ta có nhiều điểm giống họ, sau một nghìn năm mất chủ quyền, ta mất luôn tác quyền Kinh Dịch và những gì ta nghĩ, ta làm thấy giống Trung Hoa ta đều tự nhận mình học của Trung Hoa. Kỳ thật không phải như vậy. Người Trung Hoa rất trọng hướng Đông, khi họ tiếp khách, chủ nhà ngồi quay mặt về hướng Đông để tỏ chủ quyền. Trong thời lập quốc họ luôn luôn hướng về biển Đông, không kể Nam Kinh những Kinh đô danh tiếng của Trung Quốc đều lần lượt nối nhau tiến dần từ Tây Bắc sang Đông. Ngày nay những thành phố lớn của họ cũng đều tập trung ở bờ Đông. Thế mà trong Kinh Dịch họ phải công nhận hướng Nam là hướng văn minh, mặc dầu trong sử sách họ vẫn cho Hoa Nam là xứ man di. Mỗi khi cần bói Dịch họ đặt Kinh Dịch trên bàn thờ cho quay mặt về hướng Nam như hướng ngồi của Hoàng đế, rồi lạy bái cầu xin. Cử chỉ này cho thấy trong tiềm thức họ không quên nguồn gốc Kinh Dịch đến từ phương Nam, từ đất nước của các vua Hùng. Trong vòng 60 năm trở lại đây một số nhà nghiên cứu Việt Nam đã trực giác thấy rằng Kinh Dịch là tài sản của Việt Nam nhưng khi nói như thế họ vẫn chưa thoát khỏi sự ràng buộc của truyền thuyết nên vẫn thừa nhận Phục Hy là nhân vật sáng tạo Kinh Dịch. Cho nên không tránh được mâu thuẫn. Ngày nay chúng ta có đầy đủ chứng lý để nói ngay rằng Kinh Dịch là sản phẩm của Việt Nam, do chính tổ tiên người Việt sáng tạo, trên chính quê hương Việt Nam với nhiều bằng chứng vật thể còn lưu dấu trên đồ gốm Phùng Nguyên, đồ đồng Đông Sơn. Phục Hy, Văn Vương chưa từng làm ra Dịch. 1) Chứng lý vật thể: Kinh Dịch xuất hiện tại Việt Nam một nghìn năm trước khi có mặt tại Trung Quốc: Tại di chỉ xóm Rền, thuộc nền Văn hoá khảo cổ Phùng Nguyên, các nhà khảo cổ đã đào được một chiếc nồi bằng đất nung (11, tr 642) trên có trang trí bốn băng hoa văn, mỗi băng nầy tương đương với một hào trong quẻ Dịch, theo phép đọc Hổ thể thì đây chính là hình khắc của quẻ Lôi Thuỷ Giải. Đây có thể xem là chứng tích xưa nhất trên toàn thế giới hiện chúng ta đang có được về Kinh Dịch. Chiếc nồi báu vật vô giá này mang trên mình nó lời cầu nguyện của tổ tiên chúng ta về cảnh mưa thuận gió hòa, mong sao được sống một đời an bình không có họa thuỷ tai. Lôi Thuỷ Giải là mong được giải nạn nước quá tràn ngập (lũ lụt), hay nước quá khô cạn (hạn hán). Niên đại của Văn hoá Phùng Nguyên được Hà Văn Tấn xác định: ”Phùng Nguyên và Xóm Rền đều là các di chỉ thuộc giai đoạn giữa của văn hoá Phùng Nguyên. Hiện tại chưa có niên đại C14 cho giai đoạn này. Nhưng hiện nay chúng ta đã có một niên đại C14 của di chỉ Đồng Chỗ là di chỉ mà tôi cho là thuộc giai đoạn sớm của Văn hoá Phùng Nguyên: 3800 + 60 BP (Bln-3081) tức 1850 + 60BC (Hà Văn Tấn 1986: 181-182). Như vậy, các di chỉ Phùng Nguyên và Xóm Rền phải muộn hơn niên đại này. Nhưng Phùng Nguyên và Xóm Rền lại sớm hơn các niên đại C14 của lớp dưới di chỉ Đồng Đậu. Hiện nay lớp này có các niên đại: 3330 + 100BP (Bln-830), 3050 + 80BP (Bln-3711); 3015 + 65BP (HCMV 05/93); 3100 + 50BP (HCMV 06/93). Nếu tin vào các niên đại C14 này thì giai đoạn giữa của văn hoá Phùng Nguyên nằm vào khoảng giữa thế kỷ 17 và thế kỷ 14 trước Công Nguyên... tương đương với văn hoá Thương ở Trung Quốc, thậm chí với giai đoạn sớm của văn hoá này (1, tr 578-579). Về phía Trung Quốc, tuy theo truyền thuyết cho là Kinh Dịch do Phục Hy thời đại tối cổ Trung Quốc tạo ra nhưng trên thực tế không có chứng cứ nào để xác nhận chuyện này. Triết gia đầy uy tín của Trung Quốc Phùng Hữu Lan đã khẳng định trong Trung Quốc Triết học sử: ’’Suốt thời nhà Thương chưa có Bát Quái” (bản Hồng Kông 1950, tr 457). Chưa có Bát Quái nghĩa là chưa có Kinh Dịch. Quẻ Dịch xuất hiện sớm nhất ở Trung Quốc là trên sách Tả Truyện thời Xuân Thu-Chiến Quốc (772-221 BC). Vào thời kỳ này trên một số lớn các trống đồng Đông Sơn ở Việt Nam đã có khắc hình quẻ Lôi Thuỷ Giải bằng 6 dải băng nghĩa là đầy đủ 6 hào. Vậy là rõ ràng Kinh Dịch đã có ở Việt Nam từ thời các Vua Hùng, so với chứng cứ cụ thể của Trung Quốc Kinh Dịch đã có ở nước ta trước Trung Quốc cả nghìn năm. Chuyện này chẳng khác chi chuyện tổ tiên ta đã biết trồng lúa nước nghìn năm trước Trung Hoa mà Trần Trọng Kim vẫn viết trong Việt Nam sử lược là người Trung Hoa có công dạy dân ta làm ruộng. 2) Chứng lý ngôn ngữ học: Một số tên quẻ Dịch là tên tiếng Việt không phải tiếng Trung Quốc: Người ta thường gọi Kinh Dịch hay Kinh Diệc và cứ đinh ninh Diệc là do Dịch đọc chệch đi, kỳ thật tổ tiên ta nói Kinh Diệc và người Trung Hoa đã đọc chệch đi thành Dịch. Tiếng Trung Hoa Dịch còn có thể đọc là Diệc(Xem Khang Hy Từ Điển). Diệc là một loài chim nước, có họ với loài cò. Đây là những loài chim quen thuộc với đồng ruộng, với văn minh nông nghiệp, văn minh Văn Lang. Kinh Dịch là kết tinh của văn minh nông nghiệp, các nhà sáng tạo kinh Dịch Việt Nam lấy hình ảnh con diệc, con cò làm tiêu biểu cho hệ thống triết học của mình là hợp lý, nhưng người Trung Quốc muốn làm biến dạng cho khác đi, cho rằng chữ Dịch là hình ảnh con tích dịch - một loại thằn lằn hay biến đổi màu sắc theo thời gian chẳng thân thiết gần gũi gì với người nông dân cả. Điều này đã được ghi chú rất rõ trên trống đồng Đông Sơn về sau sẽ giải rõ. Tên tám quẻ đơn Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài đều là tiếng Việt không phải là tiếng Trung Quốc. Các học giả Trung Hoa rất lúng túng khi giải nghĩa nguồn gốc tên những quẻ này vì họ cứ cho đó là tiếng Hoa nên tìm mãi vẫn không lý giải được. Ở đây chỉ dẫn một quẻ để minh chứng. Quẻ Ly không có nguồn gốc Trung Hoa, đây chỉ là chữ ghi âm tiếng Việt, một dạng chữ Nôm loại giả tá. Kinh Dịch bản thông hành ghi là Ly, âm Bắc Kinh đọc là Lĩ, nhưng bản Bạch Thư Chu Dịch đào được ở Mã Vương Đôi thì lại ghi là La, âm Bắc Kinh đọc là lúo (đọc như lủa). Rõ ràng đây là cách ghi của hai người Trung Hoa ở hai nơi hoặc hai thời điểm nghe người Việt Nam nói là quẻ Lửa, một người bèn ghi là lĩ (Ly), một người lại ghi là lủa (La). Còn người Việt Nam viết chữ Nôm Lửa thì lại dùng chữ lã làm âm. Cả ba âm Ly, La, Lã đều là cận âm với âm lửa, dùng để ghi âm âm lửa. Như vậy quẻ Ly không phải là quẻ có nghĩa là lìa hay là dựa như người Trung Hoa nghĩ mà chính là quẻ Lửa tức là quẻ Hoả như về sau họ đã dịch đúng nghĩa của nó. 3) Chứng lý đồ tượng: Kinh Dịch Trung Hoa thiếu một hình đồ trọng yếu, trong khi hình đồ này đang được cất giấu tại Việt Nam. Chứng tỏ Việt Nam mới là nước sáng tạo Kinh Dịch. Đồ tượng và quái tượng (quẻ) là những hình tượng cơ bản cấu tạo nên Kinh Dịch. Cả hai đều có những giá trị bổ túc cho nhau để hình thành Kinh Dịch. Đọc Dịch mà chỉ chú trọng đến quẻ không chú ý đến Đồ là một thiếu sót đáng tiếc vì như thế là đã bỏ qua quá nửa phần tinh tuý của Dịch. Những ứng dụng quan trọng của Dịch đa phần đều căn cứ trên đồ, như thuyết trọng nam khinh nữ chi phối sâu đậm nhân sinh quan Trung Quốc thời kỳ phong kiến là ảnh hưởng Càn trọng Khôn khinh của Tiên Thiên Đồ, xem phong thuỷ, coi tử vi, học thuyết Độn Giáp, Thái Ất phát sinh ở Trung Hoa là do ảnh hưởng của Hậu Thiên Đồ. Y học, Võ thuật, Binh Thư Đồ trận lừng danh của Trung Quốc đều từ các Thiên Đồ mà ra. Theo thuyết Tam tài, cơ sở để xây nên toà lâu đài Kinh Dịch thì phải có ba Đồ chính là Tiên Thiên Đồ, Hậu Thiên Đồ và Trung Thiên Đồ nhưng suốt cả hai nghìn năm nay, Trung Quốc chỉ lưu hành hai Đồ Tiên Thiên và Hậu Thiên. Người Trung Hoa tuyệt nhiên không tìm ra Trung Thiên Đồ, cuối cùng họ đành bó tay, rồi thản nhiên kết luận, không cần có Trung Thiên Đồ. Đã có Tiên Thiên Đồ làm thể và Hậu Thiên Đồ làm dụng là đủ lắm rồi. Đây chính là khuyết điểm lớn nhất của Dịch học Trung Quốc mà cũng là cái may lớn nhất cho ta để từ chỗ sơ hở này ta tìm ra chứng lý quan trọng nhất, quyết định nhất để xác nhận tác quyền của Việt Nam. Trung Quốc không có Trung Thiên Đồ, một Đồ quan trọng bậc nhất dùng làm la bàn để viết nên kinh văn các lời hào, Việt Nam lại cất giữ Trung Thiên Đồ! Vậy thì ai là chủ nhân Kinh Dịch? Câu hỏi đã được trả lời, bí ẩn hai nghìn năm đã được trưng ra ánh sáng. Tác giả bài này có may mắn là đã thiết lập được Trung Thiên Đồ. Đồ này quẻ Càn ở phương Nam, quẻ Đoài ở phương Đông Nam, quẻ Tốn ở phương Đông, quẻ Khảm ở phương Đông Bắc, quẻ Ly ở phương Bắc, quẻ Cấn ở Tây Bắc, quẻ Chấn ở Tây và quẻ Khôn ở phương Tây Nam. Đây chính là Đồ thứ ba trong số ba Thiên Đồ trọng yếu của Kinh Dịch mà người Trung Hoa không tìm ra. Nếu Tiên Thiên Đồ là Thiên Đồ, Hậu Thiên Đồ là Địa Đồ thì Trung Thiên Đồ là Nhân Đồ nghĩa là Đồ nói về con người. Có một danh hoạ tài ba nào chỉ trong một hình vẽ có thể biểu đạt ba hình thái khác nhau về con người? Điều này chưa ai làm được, ngay cả máy móc tân tiến nhất, hiện đại nhất cũng không thể làm việc này. Thế mà Trung Thiên Đồ cùng một lúc có thể diễn tả ba trạng thái khác nhau đó: Trung Thiên Đồ có mục đích nói về những vấn đề liên quan đến con người cho nên hình đồ Trung Thiên có thể biểu thị ba khía cạnh khác nhau của con người về mặt sinh lý, về mặt siêu lý và về mặt đạo lý: a) Con người sinh lý: Quẻ Càn tượng cho bán cầu não phải, Quẻ Khôn tượng cho bán cầu não trái. Khi một người bị tai biến mạch máu não ở bán cầu phải thì tay chân bên trái thường bị liệt, ngược lại cũng thế. Vì Càn thuộc dương nên liên quan đến tay trái gồm hai quẻ Chấn dương và Cấn dương và vì tay trái đã dương thì chân trái lại thuộc về âm nên chân có quẻ Ly âm. Trái lại, bán cầu não trái Khôn âm sẽ ảnh hưởng đến tay phải Trạch âm và Tốn âm cùng với chân Khảm dương. Điều này tương đồng với kết quả thực nghiệm của Leokadia Podhorecka (1986), trình bày năm 1986 tại hội nghị quốc tế về Trường sinh học tại Zagrev về tính bất đối xứng phải - trái trong nhân thể (2, tr 117). Hình đồ cũng thể hiện được y lý Đông Phương cho rằng Thiên khí tả truyền: Dương khí đi từ bên phải (Càn dương) sang bên trái (Cấn, Chấn dương), Địa khí hữu truyền: Âm khí đi từ bên trái (Khôn âm) sang bên phải (Đoài, Tốn âm). Con người muốn sống cần phải thở (Càn phế, chủ khí), sau đó phải được nuôi dưỡng bằng thức ăn (Khôn, tỳ vị). Con người khoẻ mạnh khi tâm (Ly) giao hoà với thận (Khảm), nếu tâm thận bất giao sẽ sinh tật bệnh, vị y tổ Việt Nam Lê Hữu Trác đã phát triển học thuyết này để chữa bệnh rất hiệu quả. Con người siêu lý B) Con người siêu lý: Theo trãi nghiệm của các hành giả Yoga hoặc Khí công, Thiền, thì cơ thể có bảy trung tâm năng lượng tác động chi phối sự sống của con người, gọi là bảy đại huyệt hay là bảy luân xa. Trung Thiên Đồ chính là biểu đồ hệ thống bảy luân xa đó, theo thứ tự từ dưới lên: luân xa 1 là Hoả xà Kundalinê chính là quẻ Ly hoả, Luân xa 2 là Mệnh môn quan chính là quẻ Khảm (thận thuỷ), Luân xa 3 là Đơn điền Ngũ Hành Sơn chính là quẻ Cấn sơn, Luân xa 4 là Luân xa tâm gồm hai quẻ Tốn (tâm âm) và Chấn (tâm dương), luân xa 5 là trung tâm Ấn đường chính là quẻ Đoài, luân xa 6 nằm ở chân mi tóc hay huyệt Thượng tinh mà Đạo giáo thường gọi là Kim mẫu chính là quẻ Khôn (Địa mẫu), Luân xa 7 là huyệt Thiên môn Bách hội chính là quẻ Càn Thiên. c) Con người đạo lý: Trung Thiên Đồ còn biểu đạt một mẫu người đạo lý tâm linh: quẻ Sơn Tượng cho tính người tham lam muốn tích luỹ như núi (Tham), quẻ Ly Hoả tượng cho người có tính sân như lửa (Sân), quẻ Khảm Thuỷ tượng cho người có tính si như nước đổ dồn về chỗ thấp (Si), ba thói xấu đó sẽ dẫn con người đến chỗ ác tượng trưng bằng quẻ Tốn (tâm âm, nhục tâm, vọng tâm), (như thuyết Tam Độc của Phật Giáo). Nhưng nếu con người biết phát triển tâm từ bi như tình yêu của mẹ tượng bằng quẻ Khôn (Địa Mẫu - Từ Bi), khiến tâm thanh tịnh an lạc tượng bằng quẻ Đoài (Vui, Hỉ), lúc nào cũng sẵn lòng cảm thông tha thứ cho người, tượng bằng quẻ Càn (Xả) thì con người sẽ đạt được cõi phúc, tượng bằng quẻ Chấn (Tâm dương, Chân tâm, Đạo tâm), (như thuyết Tứ vô lượng tâm của Phật giáo). 4) Phát hiện Trung Thiên Đồ trong truyền thuyết Kinh Dịch có tám quẻ đơn: Càn còn gọi là Thiên có tượng là trời, là vua, là cha. Khôn còn gọi là Địa có tượng là đất, là hoàng hậu, là mẹ. Khảm còn gọi là Thuỷ có tượng là nước, là cá (ngư). Ly còn gọi là Hoả có tượng là lửa. Cấn còn gọi là Sơn có tượng là núi. Đoài còn gọi là Trạch có tượng là đầm (hồ). Chấn còn gọi là Lôi có tượng là sấm, là con trai trưởng. Tốn còn gọi là Phong có tuợng là gió, là cây (mộc). Khi tám quẻ đơn chồng lên nhau ta được 64 quẻ kép, nhưng khi tám quẻ đơn được đặt trên vòng tròn ta sẽ được ba thiên đồ căn bản: Tiên Thiên Đồ thường được người Trung Hoa gọi là Tiên Thiên Đồ Phục Hy vì cho là do Phục Hy chế ra, Hậu Thiên Đồ cũng được người Trung Hoa gọi là Hậu Thiên Đồ Văn Vương vì cho là do Văn Vương thiết lập, ở đây chúng tôi chỉ gọi là Tiên Thiên Đồ và Hậu Thiên Đồ vì đã chứng minh được Kinh Dịch do người Việt Nam sáng chế nên Phục Hy, Văn Vương chẳng can dự gì vào việc sáng tạo các thiên đồ. Dịch đồ thứ ba chính là Trung Thiên Đồ đã được tổ tiên Việt Nam cất giấu trong truyền thuyết Lạc Long Quân - Âu Cơ. Truyền thuyết Lạc Long Quân - Âu Cơ không chỉ là một huyền sử về nguồn gốc dân tộc "Con Rồng cháu Tiên", một thông điệp về tình đoàn kết, nghĩa yêu thương giữa các dân tộc anh em, đồng bào mà còn chứa đựng một thông tin về di sản tinh thần vô giá của dân tộc Việt Nam đã được tổ tiên chúng ta bí mật cất giữ trong đó: tôi muốn nói đến Kinh Dịch đứa con lưu lạc của Việt Nam đã được Trung Quốc nuôi dưỡng và đã thành danh ở đó. Nếu chúng ta kết hợp những thông tin nằm rải rác trong các truyền thuyết Lạc Long Quân - Âu Cơ, truyện Hồ tinh, Mộc tinh, Ngư tinh ta sẽ thiết lập được một Trung Thiên Đồ mà người Trung Quốc chưa hề biết đến. Theo Kinh Dịch, Lạc Long Quân thường được nhân dân gọi là Bố mỗi khi có việc cần giúp đỡ có thể ký hiệu bằng quẻ Càn có tượng là vua, là cha. Lạc Long Quân thường sống ở Thuỷ phủ ký hiệu là quẻ Khảm có tượng là nước. Lạc Long Quân diệt được Hồ tinh là con cáo chín đuôi sống hơn ngàn năm ở đầm Xác Cáo nay là Hồ Tây, sự kiện này có thể ký hiệu bằng quẻ Đoài tức quẻ Trạch có tượng là đầm. Đất Phong Châu thời Thượng cổ có cây Chiên đàn sống hàng ngàn năm, chim hạc thường đến đậu ở đấy nên nơi đó còn gọi là đất Bạch Hạc (nay thuộc tỉnh Phú Thọ), lâu ngày cây hoá thành yêu tinh dân gọi là thần xương cuồng, Kinh Dương Vương và Lạc Long Quân ra sức đánh đuổi, cứu dân thoát khỏi sự bức hại của xương cuồng. Sự kiện này có thể ký hiệu bằng quẻ Tốn còn gọi là quẻ Phong có tượng là mộc. Lạc Long Quân cũng có công diệt được ngư tinh, con yêu ngư xà ăn thịt người, chuyện này cũng thuộc quẻ Khảm ký hiệu ở trên. Truyền thuyết thường nói chung là Lạc Long Quân (quẻ Càn) diệt hồ tinh (quẻ Đoài), diệt mộc tinh (quẻ Tốn), diệt ngư tinh (quẻ Khảm) để cứu dân, từ đó ta đã có được một vế của Trung Thiên Đồ: Càn - Đoài - Tốn - Khảm. Theo truyền thuyết Lạc Long Quân nói với Âu Cơ (được tôn xưng là Quốc mẫu, là mẹ, ký hiệu là quẻ Khôn): (1, tr 30). Như thế là truyền thuyết đã xác định rất rõ tính cách tương phản giữa Lạc Long Quân và Âu Cơ. Long Quân thuộc quẻ Khảm (Thuỷ) thì Âu Cơ thuộc quẻ Ly (Hoả). Truyền thuyết kể tiếp: "Âu Cơ và năm mươi con lên ở đất Phong Châu (nay là huyện Bạch Hạc) suy phục lẫn nhau, cùng tôn người con cả lên làm vua, hiệu là Hùng Vương, lấy tên nước là Văn Lang". Lên Phong Châu là lên núi ký hiệu là quẻ Cấn có tượng là núi, tôn người con cả ký hiệu là quẻ Chấn vì Chấn có tượng người con trưởng. Ta lại có thêm vế thứ hai của Trung Thiên Đồ: Ly - Cấn - Chấn - Khôn. Đến đây ta đã khai quật được Trung Thiên Đồ từ lớp ngôn ngữ truyền thuyết, các quẻ xếp theo thứ tự Càn - Đoài - Tốn - Khảm - Ly - Cấn - Chấn - Khôn theo chiều ngược kim đồng hồ. 5) Vai trò Trung Thiên Đồ trong việc hình thành văn bản Kinh Dịch: a) Bố cục Kinh Dịch: Kinh Dịch có 64 quẻ, 30 quẻ đầu thuộc về thượng kinh, 32 quẻ sau thuộc về hạ kinh. Nhìn vào cách sắp đặt vị trí các quẻ Dịch trong bản kinh văn thông hành ta không thể không nghĩ rằng các nhà làm Dịch đã sử dụng Trung Thiên Đồ như là la bàn để phân bố các quẻ. Mở đầu kinh văn là hai quẻ Càn số 1, Khôn số 2 đúng như vị trí Càn Khôn đứng bên nhau trên Trung Thiên Đồ, cuối thượng kinh là hai quẻ Khảm số 29 và Ly số 30 đúng như vị trí Khảm Ly dưới Trung Thiên Đồ. Mở đầu hạ kinh là hai quẻ Trạch Sơn Hàm số 31 và quẻ Lôi Phong Hằng số 32 đúng như vị trí quẻ Đoài Trạch đối qua tâm với quẻ Cấn Sơn tạo thành quẻ Trạch Sơn Hàm, quẻ Chấn Lôi đối qua tâm với quẻ Tốn Phong tạo thành quẻ Lôi Phong Hằng nằm giữa Trung Thiên Đồ. Cuối hạ kinh là hai quẻ Thuỷ Hoả Ký Tế số 63 và Hoả Thuỷ Vị Tế số 64 đúng như vị trí quẻ Khảm Thuỷ giao hoán với quẻ Ly Hoả tạo thành. Khác hẳn với Tiên Thiên Đồ và Hậu Thiên Đồ các quẻ Càn Khôn Ly Khảm đứng đối nhau qua tâm, biểu hiện trạng thái phân ly, trên Trung Thiên Đồ các quẻ Càn Khôn Ly Khảm đứng gần nhau từng đôi một biểu hiện trạng thái giao hội. Ở tự nhiên mọi vật có thể đối nghịch, vừa tương phản vừa tương thành. Nhưng ở con người thì khác, con người là một chỉnh thể, một thái cực, một toàn đồ âm dương phải tương hội điều hoà, nếu một bên thiên thắng con người sẽ bất ổn, phát sinh bệnh tật. B) Đặt tên cho quẻ Dịch: Nhiều nhà chú giải Kinh Dịch Trung Quốc khi giải thích nghĩa chữ giao của hào thượng cửu quẻ Thiên Hoả Đồng nhân số 13 "Đồng nhân vu giao" thường chỉ dừng lại ở vấn đề chính trị xã hội nên hiểu giao theo một nghĩa rất hẹp, họ cho giao là vùng đất ngoại ô kinh thành nếu muốn đồng thì nên tìm người ở xa mà liên hiệp. Hiểu như vậy thì không sát nghĩa và không đúng với lập ý của người làm ra Kinh Dịch. Có lẽ vì người Trung Quốc trong tay không có la bàn Trung Thiên Đồ là đồ đã bị Tổ tiên người Việt Nam cất giấu rất kỹ không truyền ra ngoài nên không hiểu rằng giao tức là giao hội, khi hoả xà Kundalinê từ lâu cuộn mình ở đốt xương cùng có đủ điều kiện lên hợp nhất với thần Vishnou cư trú ở huyệt Thiên môn nghĩa là khi luân xa số 1 là quẻ Ly Hoả hoà nhập với luân xa số 7 là quẻ Càn Thiên là lúc con người đạt đến trạng thái toàn thức, hạnh phúc hoàn hảo nhất, con người đạt đến mức độ giao hội cùng vũ trụ, tha nhân, vì thế mới đặt tên cho quẻ này là Thiên Hoả Đồng nhân. Giao nằm ở hào thượng cửu (theo Dịch lý thuộc tài thiên), tức là ở mức độ đồng nhân cao nhất, mức độ hoà đồng siêu việt, Nếu hiểu giao như nghĩa các chữ Đông giao (ngoại ô phía đông), Nam giao (ngoại ô phía Nam) thì không phù hợp với cấu trúc quẻ Dịch, hiểu như vậy là mặc nhiên nhận giao thuộc về đất phải nằm ở hào hai, tài Địa. Cũng như quẻ Đồng Nhân, các Dịch học gia Trung Quốc cũng bị hạn chế khi hiểu quẻ Đại Hữu chỉ là sở hữu tài sản vật chất họ không ngờ rằng Đại Hữu là sở hữu tài sản tinh thần vĩ đại, quẻ này chính là ghi lại thành tựu một quá trình công phu trãi nghiệm của hành giả đã hợp nhất với vũ trụ, mà mỗi hào mô tả thành quả một chặng đường liên tục từ hạ đẳng công phu đến thượng đẳng công phu. c) Đọc lại Kinh Dịch: Nhờ có Trung Thiên Đồ ta có thể đọc lại Kinh Dịch một cách chính xác hơn, điều này nghe có vẽ nghịch lý vì ta làm sao thông thạo ngôn ngữ Trung Hoa hơn người Trung Hoa được, nhưng vì ta có Trung Thiên Đồ là la bàn tổ tiên ta dựa vào đấy để viết các lời hào nên chúng ta có cách đọc thuận lợi hơn. Ở đây tôi chỉ xin dẫn ra một thí dụ để minh chứng. Kinh Dịch có ba quẻ nói đến Tây Nam, quẻ Giải: "Lợi Tây Nam", quẻ Kiển: "Lợi Tây Nam, bất lợi Đông Bắc”, quẻ Khôn: "Tây Nam đắc bằng, Đông Bắc táng bằng”. Căn cứ vào Hậu Thiên Đồ, quẻ Khôn (đất) nằm ở hướng Tây Nam, quẻ Cấn (núi) nằm ở hướng Đông Bắc, Vương Bật, người thời Tam Quốc, trong Chu Dịch chú giải thích như sau: ”Tây Nam là đất bằng, Đông Bắc là núi non. Từ chỗ khó mà đi đến chỗ bằng, cho nên khó khăn sẽ hết, từ chỗ khó mà đi lên núi, thì sẽ cùng đường”, Khổng Dĩnh Đạt trong Chu Dịch chính nghĩa viết: ”Tây Nam thuận vị là hướng bằng phẳng dễ đi, Đông Bắc hiểm vị là chỗ trắc trở khó khăn. Đường đi lắm trắc trở, tất cả đi đến chỗ bằng dễ đi thì khó khăn sẽ hết, trái lại nếu đi vào chỗ hiểm thì càng bế tắc cùng đường. Đi ở phải hợp lý vậy”, (3, tr 846).Trương Thiện Văn trong Từ điển Chu Dịch giải thích: ”Lợi cho việc đi về đất bằng Tây Nam, không lợi cho việc đi về phía núi non đông bắc. Tây nam tượng trưng cho đất bằng, Đông bắc tượng trưng cho núi non. Đây nói ở thời kiển nạn mọi hành động đều phải tránh khó khăn hiểm trở, phải hướng về phía bằng phẳng thì mới có thể vượt qua kiển nạn,vì vậy nói lợi tây nam, bất lợi đông bắc”, (3, tr 907). Nói chung lời giải thích của đa số Dịch gia Trung Quốc đều dựa vào vị trí các quẻ trên Hậu Thiên Đồ và đều cho núi là trở ngại, nhưng giải như vậy không thể khớp với Dịch lý, quẻ Kiển tức là quẻ Thuỷ Sơn Kiển, hình tượng nước ngập núi, trận đại hồng thuỷ. Vậy núi chỉ là trở ngại thứ yếu. Sự thật đối với người cổ đại núi tuy có khổ ải hơn nơi bằng phẳng nhưng không phải là trở ngại đáng kể. Đối với người cổ đại núi là nhà, hang hốc là nhà. Núi che chở cho họ, cung cấp thực phẩm, đùm bọc nuôi dưỡng họ. Nói cho cùng với tượng quẻ như vậy, người ta không lo về núi mà nỗi lo triền miên chính là nước. Suốt thời cổ đại, nhất là ở Việt nam, chiến tranh bất tận là chiến cuộc giữa NGƯỜI với NƯỚC. Con người khơi dòng lấy đất canh tác, đẩy lùi biển để giành đất sống. Khi con người thắng biển nghĩa là khi Sơn tinh thắng Thuỷ tinh, Kiển nạn được giải. Vấn đề lật ngược, quẻ Thuỷ Sơn Kiển lật thành quẻ Sơn Thuỷ Mông, Thoán từ ca ngợi chiến công thần thánh này là Lợi Trinh (thắng lợi bền chặc). Ở Hậu Thiên Đồ cũng như ở Trung Thiên Đồ, quẻ Khôn cùng ở vị trí Tây Nam nhưng ở vị trí Đông Bắc thì quẻ của hai đồ hoàn toàn ngược nhau. Nếu Hậu Thiên Đồ là quẻ Cấn (núi) thì ở Trung Thiên Đồ lại là quẻ Khảm (nước). Ta thấy rõ muốn hiểu nghĩa lời hào của ba quẻ đó không thể dựa vào vị trí quẻ trên Hậu Thiên Đồ, vì không chính xác. Chỉ có thể dựa vào vị trí quẻ trên Trung Thiên Đồ mới làm sáng tỏ được nghĩa quẻ. Con người không ngại núi mà chỉ e sông, e biển. Câu lợi Tây Nam, bất lợi Đông Bắc không phù hợp với thực tiển Trung Quốc vì con đường sống của họ luôn dịch chuyển từ Tây Bắc sang Đông Bắc, hành trình các kinh đô của các triều đại Trung Hoa thường đi từ núi ra biển:Tây An - Trường An - Lạc Dương - Khai Phong - Bắc Kinh. Đó là hành trình ngược với lời hào ba quẻ: Giải, Khôn, Kiển. Trong khi đó lời hào ba quẻ trên lại hoàn toàn phù hợp với thực tiển Việt Nam. Đối với Việt Nam, Đông Bắc mới thực là bất lợi, đó là biển cả là cửa ngỏ cho phong kiến phương bắc xâm lược. Việt Nam chỉ có con đường sống là mở nước về phương Nam và Tây nam. Lịch sử Việt Nam đã chứng thực lời đó, đã hai lần chúng ta tiến về hướng Tây Nam, đợt đầu tiến về đồng bằng Thanh Nghệ Tĩnh, đợt sau tiến về vựa lúa châu thổ sông Cửu Long. Lời hào trên vẫn còn là lời dự báo ứng nghiệm với Việt Nam ngày nay: Tây Nam đắc bằng khi gia nhập khối Đông Nam Á, con đường Tây nam đang ở thế thuận lợi. 6/ Kết luận: Chúng ta còn nhiều chứng lý từ vật thể đến phi vật thể, từ ngôn ngữ đến văn bản, nhưng mấu chốt hơn hết để chứng minh Kinh Dịch do Tổ tiên người Việt Nam sáng tạo vẫn là vai trò của Trung Thiên Đồ. Khi một người muốn chứng minh một vật là sản phẩm do chính mình đúc ra thì ngườI đó phải trưng ra khuôn đúc, ở đây cũng vậy Trung Quốc không có Trung Thiên Đồ giống như không có khuôn đúc thì làm sao bảo rằng Trung Quốc đã sáng chế ra Kinh Dịch. Thật ra Trung Quốc chỉ có công phát huy Kinh Dịch nhờ đó Kinh Dịch mới có bộ mặt vĩ đại như ngày nay, cũng như họ đã làm rạng rỡ cho Thiền nhưng không ai có thể quên Thiền có nguồn gốc từ Phật giáo Ấn Độ. Đã đến lúc cái gì của César phải trả lại cho César. Khi chúng ta nhận ra rằng Kinh Dịch là di sản của Tổ tiên ta sáng tạo, ta sẽ hiểu được do đâu ta cũng cùng giải đất với các dân tộc vùng Hoa Nam, núi liền núi, sông liền sông mà họ bị đồng hoá còn chúng ta thì không. Kinh Dịch chính là cuốn Cổ văn hoá sử của Việt Nam mà Tổ tiên chúng ta còn lưu lại ngày nay, tuy có bị sửa đổi nhuận sắc nhiều lần nhưng những vết tích của nền văn minh thời các vua Hùng dựng nước vẫn còn đậm nét trong nhiều quẻ Dịch. Người sáng tạo Kinh Dịch đã dựa vào Trung Thiên Đồ để bố cục vị trí các quẻ đúng như bản thông hành hiện đang phổ biến. Các Dịch học gia Trung Quốc căn cứ vào vị trí các quẻ theo Hậu Thiên Đồ nên có nhiều câu trong Kinh văn bị họ giảng sai với ý nguyên tác, muốn giảng cho đúng phải dựa vào Trung Thiên Đồ, không thể làm khác được. Trung Thiên Đồ giữ một vị trí quan trọng và quyết định như vậy đã được Tổ tiên Việt Nam cất giấu rất kĩ trong truyền thuyết Lạc Long Quân Âu Cơ. Từ truyền thuyết này có thể tìm lại Trung Thiên Đồ. Trung Thiên Đồ còn được khắc ghi cẩn trọng trên Trống đồng Đông Sơn có điều kiện tác giả bài này sẽ công bố sau. Chúng tôi còn nhiều minh chứng khác để kiện toàn chứng lý cho kỳ án này. Không còn nghi ngờ gì nữa, Kinh Dịch chính là sáng tạo của Tổ tiên Việt Nam. Muốn hiểu đúng bản chất văn hoá Việt Nam không thể không khảo sát Kinh Dịch, như là sáng tạo của Việt Nam. Thanh Nien online
-
Chà chà, cũng ướt át nhỉ Ai làm 1 quẻ với nội dung khi nào Thiên Đồng có người lục khăn ngửa túi mà đúng, thì có thưởng.
-
Theo thông tin về kỹ thuật của Mobile phone (hoặc các mạng DTDĐ khác) thì các cuộc alo gọi đi và nhận cuộc gọi đều được nhà mạng lưu lại rõ ràng. Riêng với các tin nhắn đi và nhận tin nhắn thì đều được lưu cả thời gian nhắn, nhận và nội dung tin. ==> thật ra cơ quan công an đã co nội dung tin nhắn rồi Làm sao mà Tâm và Liểu thoát tội
-
Thật đáng khâm phục ý chí và tinh thần kỷ luật người Nhật.
-
Cây lô hội hay còn gọi là cây nha đam, hoặc như trong các siêu thị lớn thì lại gọi là long tu, đã xuất hiện từ rất lâu và lưu truyền trong dân gian với vô vàn các dụng tuyệt vời. Từ thời Ai Cập cổ đại, những dòng chữ tượng hình và những hình vẽ còn lưu lại trên các bức tường cho thấy cây nha đam đã được biết đến và sử dụng cách đây hơn 3000 năm. Ở Hy Lạp, Alexandra đã dùng nha đam để chữa vết thương cho binh lính của mình trong những cuộc viễn chinh. Cho đến tận ngày hôm nay, con người đã chứng minh và khẳng định được vai trò của cây Nha Đam trong cuộc sống. Ở Việt Nam, nha đam được di thực sang từ Trung Hoa. Những tác dụng thần kỳ của nha đam trong y dược - Tác dụng kháng khuẩn: Những nghiên cứu gần đây đã chứng minh gel nha đam có tính sát khuẩn và gây tê. Dùng để sát trùng, thanh nhiệt, thông tiểu. Làm êm dịu vết thương khi bị phỏng nhẹ, khi bị côn trùng châm chích hay da bị chai cứng khi bị rám nắng. Gel nha đam cũng có tác dụng làm tăng tuần hoàn, giúp máu ngoại vi lưu thông tốt. Nhũ dịch được bào chế từ nha đam dùng để chế các loại thuốc trị Eczema hay các mụn chóc lở, làm mau lên da non ở vết thương hở. Dịch tươi nha đam có tính kháng khuẩn lao (invitro). - Tác dụng xổ, nhuận tràng: Thời gian xưa, từ Hypocrate đến Hải Thượng Lãn Ông đã biết đến đặc tính nhận tràng, nhuận gan, điều kinh của nha đam. - Trị viêm loét dạ dày: Uống gel tươi của lá nha đam. Cứ vài giờ uống một muỗng canh gel tươi lúc bụng không có thức ăn sẽ làm lành vết viêm loét dạ dày nhưng tuyệt đối không được uống quá 400mg gel tươi/ngày. Tốt nhất là phải có sự hướng dẫn của bác sĩ đông y. - Trị bệnh ngoài da: Dịch nha đam tươi có tác dụng làm săn da, làm nhỏ lôc chân lông. Bôi gel tươi hàng ngày lên mặt có tác dụng ngừa nám, làm mịn da, ngừa mụn... - Phòng ngừa sỏi niệu: Các Anthraquinon sẽ kết hợp các ion Calcium trong đường tiểu thành hợp chất tan được để tống ra ngoài theo nước tiểu. Ngoài ra nha đam còn có thể trị được tiểu đường, ung thư, cao huyết áp. - Trong thực phẩm, lá nha đam dùng để ăn tươi với đường hoặc nấu chè, Có nơi còn dùng lá nha đam để nấu canh. Gel của nha đam còn được dùng làm chất đông kết của nhiều món ăn. Tác dụng trong lĩnh vực chăm sóc sắc đẹp Do những đặc tính kỳ diệu trên. Các nhà y dược học đã nghĩ đến những loại mỹ phẩm được chế tạo từ gel nha đam để tạo ra những loại kem dưỡng da, do pH của gel nha đam gần giống với pH của da cho nên chúng làm cho da tươi tắn và điều hòa được độ acid của da, làm săn da, thu nhỏ lỗ chân lông, giúp mịn da, ngừa mụn.. Hiện nay trên thị trường, nhiều hãng mỹ phẩm đã lấy ngay chính tên Aloe vera làm tên thương mại cho những loại kem chống nắng, dưỡng da, các loại dầu gội, dầu khử mùi hôi, chất có tác dụng chống mốc, xà phòng, dầu cạo râu... Không những được làm mỹ phẩm, cây Nha đam cũng đóng góp một phần đáng kể trong lĩnh vực mỹ thuật. Giữa muôn ngàn hoa khoe sắc thắm. Cây Nha đam tràn đầy sức sống, mọc sừng sững hiên ngang trông chẳng khác nào "Gươm lạc giữa rừng hoa". Rạch một đường giữa lá Nha đam tươi rồi dùng thìa nạo ở giữa lá Nha đam ra, ta sẽ có một chất gel trong suốt. Gọi là Lô hội vì lô là đen, hội là tụ lại, tức là nhựa của Nha đam khi cô đặc lại sẽ có màu đen (còn gọi là Aloès) Mặt nạ lô hội Để làm mặt nạ lô hội ta cần 100g nha đam tươi, 10g mật ong. Cách làm: Lấy lá nha đam rửa sạch, thái nhỏ, cho vào nồi. Đổ 500ml nước vào nồi đun lửa to đến khi sôi. Sau đó tiếp tục đun lửa nhỏ trong 15 phút. Chắt nước hòa với mật ong. Uống nước này kết hợp với đắp lá nha đam lên mặt. Sau 1 tháng, bạn sẽ thấy da mặt được cải thiện đáng kể. Khi dùng mặt nạ nha đam, cần chú ý rằng tùy từng loại da, không phải ai cũng có thể đắp mặt nạ nha đam và không phải đắp thường xuyên là tốt. Theo kinh nghiệp của nhiều người truyền lại thì chỉ nên đắp mặt nạ mỗi tuần 2 lần, mỗi lần 20 phút và trước khi dùng lần đầu tiên, hãy chắc chắn là da bạn không bị dị ứng với dịch của lá nha đam. Chè nha đam Đậu xanh nấu chè cùng lá nha đam, một cách thức giải nhiệt hiệu quả. Nguyên liệu: 1 lá nha đam (dùng lá dày, có lớp gel mọng); 100g đậu xanh đã đãi sạch vỏ; 150g đường; 1 ống vani. Cách làm: Lá nha đam rửa sạch, cắt thành khúc ngắn, gọt vỏ, cắt sợi, cho vào rổ trộn đều với 1 muỗng cà phê muối, xả nước thật kỹ, xóc ráo. Đậu xanh vo sạch, xóc ráo. Cho vào xoong 500 ml nước + đậu xanh nấu sôi, hớt bọt, bớt lửa, nấu trên lửa vừa đến khi đậu nở đều. Cho đường vào khuấy đều, tiếp tục nấu trên lửa vừa 10 phút. - Cho nha đam vào khuấy nhẹ tay, nấu thêm 5 phút - 7 phút nhấc xuống. Thêm vani vào khuấy đều. Múc chè nha đam vào chén dùng nóng, hoặc để nguội cho vào tủ lạnh. Để tìm mua lá nha đam, các bạn có thể tới các siêu thị lớn, điển hình như ở Metro, chắc chắc có lá này, và ở đó gọi là long tu, hồi mình mua là 8000đ/kg. Ngoài ra, các bạn có thể ra chợ Hôm hoặc đợi tới kỳ họp chợ của chợ cây trên đường Hoàng Hoa Thám, họ cũng bán cả cây. Cây này dễ trồng nên nếu có điều kiện thì mua về trồng, thỉnh thoảng bị phỏng hay bị xây xát gì thì ngắt một ít để dùng, rất tốt. Nếu vẫn chưa kiếm được thì có thể hỏi xem nhà ai trồng, tới xin 1 nhánh mang về, còn hỏi như thế nào thì... bạn đang đọc bài viết này bằng cách nào thì hỏi mọi người bằng cách đó. Chúc các bạn có thể tận dụng được tối đa tác dụng của nha đam. St
-
Bia, nói một cách tổng thể, là một loại đồ uống chứa cồn được sản xuất bằng quá trình lên men của đường lơ lửng trong môi trường lỏng và nó không được chưng cất sau khi lên men. Dung dịch đường không bị lên men gọi là hèm bia, thu được từ quá trình ngâm nước, hay "nước ủ bia", hạt ngũ cốc được ủ thành mạch nha, thông thường là lúa mạch. Các đồ uống chứa cồn được làm từ sự lên men đường có trong các nguồn không phải ngũ cốc, chẳng hạn nước hoa quả hay mật ong, nói chung không được gọi là "bia", mặc dù chúng cũng được sản xuất từ cùng một loại men bia-dựa trên các phản ứng hóa sinh học. Quá trình sản xuất bia được gọi là nấu bia. Do các thành phần sử dụng để sản xuất bia có khác biệt tùy theo từng khu vực, các đặc trưng của bia như hương vị và màu sắc cũng thay đổi rất khác nhau và do đó có khái niệm loại bia hay các sự phân loại khác. Bia là một trong các đồ uống lâu đời nhất mà loài người đã tạo ra, có niên đại ít nhất là từ thiên niên kỷ 5 TCN và đã được ghi chép lại trong các thư tịch cổ của Ai Cập cổ đại và Lưỡng Hà (Mesopotamia). Giống như phần lớn các chất chứa đường khác có thể bị lên men một cách tự nhiên, rất có thể là các đồ uống tương tự như bia đã được phát minh một cách độc lập giữa các nền văn minh trên toàn thế giới. Việc kiểm định hóa học các bình gốm cổ phát hiện ra rằng bia (tương tự như rượu vang) đã được sản xuất khoảng 7.000 năm trước ở khu vực ngày nay là Iran và là một trong số các công nghệ sinh học đã biết, trong đó các quy trình sinh học của sự lên men được áp dụng. Tại Lưỡng Hà, chứng cứ lâu đời nhất về bia được cho là bức vẽ 6.000 năm tuổi của người Sumeria miêu tả những người đang uống một thứ đồ uống bằng các cần hút bằng sậy từ thùng công cộng. Bia cũng được đề cập tới trong Thiên sử thi Gilgamesh, một bản trường ca 3.900 năm tuổi của người Sumeria để tỏ lòng tôn kính nữ thần Ninkasi, vị thần bảo trợ cho bia, nó chứa công thức làm bia cổ nhất còn sót lại và miêu tả việc sản xuất bia từ lúa mạch thông qua bánh mì. Bia đã trở thành thiết yếu đối với tất cả các nền văn minh trồng ngũ cốc ở thế giới phương Tây cổ xưa, đặc biệt là ở Ai Cập và Lưỡng Hà. Bia đã từng là quan trọng đối với người La Mã trong thời kỳ đầu, nhưng trong thời kỳ Cộng hòa La Mã thì rượu vang đã thay thế bia như là một đồ uống chứa cồn được ưa chuộng hơn. Bia trở thành đồ uống được coi là thích hợp cho những người man rợ; Tacitus đã viết một cách đầy chê bai về bia được các giống người Đức sản xuất trong thời đại của ông. Người Thracia cũng được biết là đã sử dụng bia sản xuất từ lúa mạch đen, thậm chí từ thế kỷ 5 TCN, như Hellanicos đã viết trong vở các opêra. Tên gọi cho bia của họ là brutos hay brytos. Sự bổ sung hoa bia vào bia để tạo vị đắng, bảo quản và hương vị cho bia là một phát kiến tương đối mới: trong thời Trung cổ nhiều hỗn hợp khác của các loại thảo mộc thông thường được cho vào bia chứ không phải hoa bia. Các hỗn hợp này thông thường được gọi là gruit. Hoa bia đã được trồng tại Pháp sớm nhất là vào khoảng thế kỷ 9; văn bản cổ nhất còn sót lại có ghi chép về việc sử dụng hoa bia trong bia có niên đại vào năm 1067 bởi nữ tu viện trưởng kiêm nhà văn Hildegard: "Nếu người ta định làm bia từ yến mạch, nó được chuẩn bị cùng hoa bia." Tại châu Âu, trong thời Trung cổ, bia chủ yếu được sản xuất trong gia đình. Vào thế kỷ 14 và 15, việc sản xuất bia đã dần dần chuyển từ hoạt động gia đình sang hoạt động thủ công, với các quán bia và tu viện sản xuất bia của mình hàng loạt để tiêu thụ. Trong thế kỷ 15, ở Anh thì loại bia không có hoa bia được biết đến như là ale, còn việc sử dụng hoa bia thì đồ uống đó gọi là bia. Bia có chứa hoa bia được nhập khẩu vào Anh từ Hà Lan sớm nhất là từ năm 1400 ở Winchester, và hoa bia đã được trồng trên quốc đảo này từ năm 1428. Tính phổ biến của hoa bia ban đầu là hỗn hợp — Công ty bia rượu London đã đi xa tới mức ra thông báo "không hoa bia, không thảo mộc hoặc những gì khác tương tự được cho vào bất kỳ ale hay rượu (mùi) nào sẽ được sản xuất — mà chỉ có liquor (nước), mạch nha, và men bia". Tuy nhiên, vào thế kỷ 16, ale đã được dùng để chỉ các loại bia mạnh (nồng độ cồn cao) bất kỳ, và tất cả ale và bia đều sử dụng hoa bia. Năm 1516, William IV, Công tước xứ Bavaria, đã thông qua Reinheitsgebot (Luật tinh khiết), có lẽ là quy định về thực phẩm cổ nhất còn áp dụng đến nay. Gebot quy định rằng thành phần của bia chỉ được bao gồm nước, lúa mạch hoa bia, với men bia được bổ sung sau phát kiến của Louis Pasteur vào năm 1857. Luật của người Bavaria đã được áp dụng trong cả nước Đức như là một phần của nước Đức thống nhất năm 1871 thành Đế chế Đức dưới thời Otto von Bismarck, và kể từ đó đã được cập nhật để phản ánh xu hướng hiện đại trong sản xuất bia rượu. Cho đến nay, Gebot vẫn được coi là tiêu chuẩn của độ tinh khiết cho bia, mặc dù điều này có thể gây tranh cãi. Một quầy bán bia ở Brussels, Bỉ Một vại bia lager, có màu vàng óng và bọt ở phía trên. Phần lớn các loại bia cho đến thời gian gần đây thực chất là thứ mà ngày nay gọi là ale. Bia lager đã được phát hiện ra một cách tình cờ vào thế kỷ 16 sau khi bia được lưu trữ trong các hầm lạnh một thời gian dài; kể từ đó nó đã được sản xuất nhiều hơn ale. Với sự phát minh ra động cơ hơi nước năm 1765, công nghiệp hóa sản xuất bia đã trở thành sự thật. Các cải tiến mới trong công nghệ sản xuất bia đã xuất hiện cùng với sự ra đời của nhiệt kế và tỷ trọng kế vào thế kỷ 19, đã cho phép các nhà sản xuất bia tăng tính hiệu quả và kiểm soát nồng độ cồn. Cho đến cuối thế kỷ 18, mạch nha chủ yếu được làm khô bằng lửa do đốt gỗ, than củi, trấu, và sau năm 1600 là từ than cốc. Nói chung, không có loại mạch nha nào trong số này được che chắn tốt khỏi khói sinh ra trong các lò sấy, và do đó các loại bia thời kỳ đó có thành phần hơi khói trong hương vị của chúng; các chứng cứ chỉ ra rằng các nhà sản xuất mạch nha và bia thường xuyên phải cố gắng giảm thiểu sự ám khói của bia thành phẩm. Sự phát minh ra lò nướng hình trống năm 1817 của Daniel Wheeler đã cho phép tạo ra mạch nha mạch nha nướng chín kỹ và tạo tiền đề cho sản xuất các loại bia đen (porter và stout). Sự phát minh ra vai trò của men bia trong quá trình lên men vào năm 1857 bởi Louis Pasteur đã giúp cho các nhà sản xuất bia phương pháp ngăn chặn vị chua của bia bởi các loại vi sinh vật không mong muốn. Năm 1953, Morton W Coutts, một người New Zealand đã phát triển kỹ thuật lên men liên tục. Morton lấy bằng sáng chế công nghệ của ông và nó là một cuộc cách mạng trong công nghiệp bia do nó làm giảm thời gian ủ và sản xuất bia trước đây là 4 tháng xuống còn chưa đầy 24 giờ. Công nghệ của ông vẫn được sử dụng bởi nhiều nhà sản xuất bia lớn nhất thế giới ngày nay, bao gồm cả Guinness. Ngày nay, công nghiệp bia là công việc kinh doanh khổng lồ toàn cầu, bao gồm chủ yếu là các tổ hợp được ra đời từ các nhà sản xuất nhỏ hơn. Trong khi bia chủ yếu là đồ uống chứa cồn thì một số biến thái của nó cũng tồn tại, xuất phát từ thế giới phương Tây, là các loại bia đi qua công đoạn xử lý để loại bỏ bớt cồn, sản xuất ra cái gọi là bia không cồn. Còn nữa
-
Thuật ngữ "bia" trong tiếng Việt để chỉ loại đồ uống này có lẽ có nguồn gốc từ bière trong tiếng Pháp do bia chỉ được sản xuất ở Việt Nam kể từ khi người Pháp mang thứ đồ uống này tới Việt Nam vào cuối thế kỷ 19. Trong hai thuật ngữ, "bia" và "ale", thì thuật ngữ sau là một từ cổ trong tiếng Anh. Người ta cho rằng nó xuất phát từ gốc *alu- của ngôn ngữ tiền Ấn-Âu, thông qua tiếng Đức *aluth- ( www.bartleby.com ). Từ này cũng là nguồn gốc của olut trong tiếng Phần Lan, õlu trong tiếng Estonia, øl trong tiếng Đan Mạch và alus trong tiếng Latvia. Beer hay bière, ngược lại, được cho là có nguồn gốc từ một động từ trong tiếng Latinh là bibere (để uống, www.bartleby.com ). Các nguồn thư tịch cổ của Anh phân biệt ale và beer, nhưng không định nghĩa rõ ràng cái gì gọi là beer trong thời kỳ này, mặc dù có một số ý kiến cho rằng nó dùng để gọi cái mà ngày nay người ta biết đến với tên gọi rượu táo (cider), cũng là một dạng đồ uống chứa cồn. Dạng tiếng Anh cổ của beer đã biến mất ngay sau cuộc xâm lăng Norman (thế kỷ 11) và nó chỉ trở lại trong tiếng Anh vào các thế kỷ sau đó, nhưng chỉ dùng để chỉ các đồ uống bằng mạch nha và chứa hoa bia. Đồ uống này cũng được gọi là cerveza, hoặc các dẫn xuất của từ này, tùy theo thổ ngữ của người Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, có xuất xứ từ tiếng Latinh cerevisia. Trong phần lớn ngôn ngữ các nước Tây Âu khác (và thậm chí một số nước Đông Âu) người ta cũng sử dụng các dạng từ tương tự như beer trong tiếng Anh. Từ gốc Slav phổ biến *pivo, nói một cách văn chương là "đồ uống", là từ để chỉ bia trong phần lớn các ngôn ngữ Slav, với các biến thể ngữ âm không đáng kể. Thiên sử thi Kalevala của người Phần Lan, được tập hợp lại thành dạng văn bản vào thế kỷ 19, nhưng dựa trên các bản truyền khẩu qua nhiều thế kỷ, đã dành nhiều dòng cho nguồn gốc của bia và việc sản xuất bia hơn là dành cho nguồn gốc của loài người. Bài hát khi uống bia của người Anh "Beer, Beer Beer" quy việc phát minh ra bia cho nhân vật có lẽ là viễn tưởng Charlie Mopps: A long time ago, way back in history When all there was to drink was nothin' but cups of tea, Along came a man by the name of Charlie Mopps And he invented the wonderful drink, and he made it out of hops. ... Tạm dịch: Ngày xưa, ngược dòng lịch sử Khi mọi người chẳng có gì để uống ngoài nước chè, Một người có tên gọi Charlie Mopps đã đến Và ông đã phát minh ra một loại đồ uống tuyệt vời, và ông làm ra nó từ hoa bia. ... Vị vua thần thoại Gambrinus của vùng Flanders (từ Jan Primus (John I)), đôi khi được coi là phát minh ra bia. Theo truyền thuyết của người Séc, thần Radegast, vị thần của sự phụ thuộc lẫn nhau, đã phát minh ra bia. Thành phần chính của bia là nước, lúa mạch đã mạch nha hóa, hoa bia và men bia. Các thành phần khác, chẳng hạn các chất tạo mùi vị hay các nguồn tạo đường khác được thêm vào như là các phụ gia. Các phụ gia phổ biến là ngô và lúa gạo. Các nguồn tinh bột này được ngâm ủ để chuyển hóa thành các loại đường dễ lên men và làm tăng nồng độ cồn trong bia trong khi bổ sung rất ít hương vị. Các nhà sản xuất bia lớn ở Mỹ sử dụng tương đối nhiều các phụ gia để sản xuất bia rất ít hương vị với nồng độ cồn 4-5% theo thể tích. Nước Do thành phần chính của bia là nước nên nguồn nước và các đặc trưng của nó có một ảnh hưởng rất quan trọng tới các đặc trưng của bia. Nhiều loại bia chịu ảnh hưởng hoặc thậm chí được xác định theo đặc trưng của nước trong khu vực sản xuất bia. Mặc dù ảnh hưởng của nó cũng như là tác động tương hỗ của các loại khoáng chất hòa tan trong nước được sử dụng trong sản xuất bia là khá phức tạp, nhưng theo quy tắc chung thì nước cứng là phù hợp hơn cho sản xuất các loại bia sẫm màu như bia đen, trong khi nước mềm là phù hợp hơn cho sản xuất các loại bia sáng màu, chẳng hạn như bia pilsener của Cộng hòa Séc. Mạch nha Trong số các loại mạch nha thì mạch nha từ lúa mạch được sử dụng rộng rãi nhất do nó chứa nhiều amylase, là một loại enzym tiêu hóa giúp cho việc phá vỡ tinh bột để chuyển nó thành đường. Tuy nhiên, phụ thuộc vào loại cây trồng trong từng khu vực mà các loại loại ngũ cốc được/không được mạch nha hóa khác cũng có thể sử dụng, bao gồm lúa mì, lúa gạo, yến mạch và lúa mạch đen, cũng như ít phổ biến hơn là ngô và lúa miến. Mạch nha được tạo ra từ hạt ngũ cốc bằng cách ngâm chúng vào trong nước, cho phép chúng nảy mầm và sau đó làm khô hạt đã nảy mầm trong các lò sấy. Hạt ngũ cốc đã mạch nha hóa tạo ra các enzym để chúng chuyển hóa tinh bột trong hạt thành đường có thể lên men. Thời gian và nhiệt độ sấy khác nhau được áp dụng để tạo ra các màu mạch nha khác nhau từ cùng một loại ngũ cốc. Các loại mạch nha sẫm màu hơn sẽ sản xuất ra bia sẫm màu hơn. Ngày nay, trong phần lớn các trường hợp, hai hoặc nhiều loại mạch nha được phối hợp để sản xuất bia. Hoa bia (Hublông) Hoa bia (tên khoa học Humulus) thường được sử dụng để tạo vị đắng cho bia kể từ thế kỷ 17. Hoa bia chứa một số tính chất rất phù hợp cho bia: Cung cấp vị đắng để cân bằng vị ngọt của đường mạch nha, Tạo ra hương vị từ mùi hoa cho tới mùi cam quít hay mùi thảo mộc, Hoa bia có các hiệu ứng kháng sinh giúp cho hoạt động của men bia tốt hơn trước các loại vi sinh vật không mong muốn Việc sử dụng hoa bia giúp cho việc duy trì thời gian giữ bọt lâu hơn (tạo ra bởi các chất cacbonat hóa bia). Độ đắng của bia thương phẩm được đo theo Thang đơn vị độ đắng quốc tế (IBUS). Trong khi cây hoa bia được trồng bởi nông dân trên khắp thế giới với nhiều giống khác nhau, nhưng nó chỉ được sử dụng trong sản xuất bia là chủ yếu. Men bia Men bia là các vi sinh vật có tác dụng lên men đường. Các giống men bia cụ thể được lựa chọn để sản xuất các loại bia khác nhau, nhưng có hai giống chính là men ale (Saccharomyces cerevisiae) và men lager (Saccharomyces uvarum), với nhiều giống khác nữa tùy theo loại bia nào được sản xuất. Men bia sẽ chuyển hóa đường thu được từ hạt ngũ cốc và tạo ra cồn và cacbon điôxít (CO2). Trước khi các chức năng của men bia được hiểu rõ thì mọi quá trình lên men đều sử dụng các loại men bia hoang dã. Mặc dù còn rất ít loại bia, chẳng hạn như bia lambic vẫn dựa trên phương pháp cổ này nhưng phần lớn các quá trình lên men ngày nay đều sử dụng các loại men bia được nuôi cấy và có độ tinh khiết cao. Trung bình, hàm lượng cồn trong bia là khoảng 4-6% rượu theo thể tích, mặc dù nó có thể thấp tới 2% và cao tới 14% trong một số trường hợp nào đó. Một số nhà sản xuất bia còn đưa ra loại bia chứa tới 20% cồn. Các chất làm trong Một số nhà sản xuất bia còn cho thêm một hay nhiều chất làm trong vào bia mà không bị bắt buộc phải công bố như là một thành phần của bia. Các chất làm trong phổ biến là thạch- thu được từ bong bóng cá; caragin- thu được từ tảo biển; rêu Ireland (loài tảo đỏ có tên khoa học Chondrus crispus); và giêlatin. Do các thành phần này có thể thu được từ động vật, việc sử dụng hay tiêu thụ các sản phẩm động vật liên quan cần phải có các thông số kỹ thuật cụ thể trong quá trình lọc của nhà sản xuất bia. Công nghệ sản xuất bia Mặc dù quá trình sản xuất bia là phức tạp và dao động một cách đáng kể giữa các nhà sản xuất, nhưng các công đoạn cơ bản không thể thiếu thì có thể được đơn giản hóa như dưới đây. Có thể có thêm các bước lọc bổ sung giữa các công đoạn chính. Ngâm ủ hạt: Giai đoạn đầu tiên của quá trình sản xuất bia, trong đó hạt ngũ cốc cần mạch nha hóa được ngâm trong nước ấm để kích thích nảy mầm nhằm chiết ra mạch nha. Việc ngâm ủ cần phải đủ thời gian và nhiệt độ ổn định để các enzym có khả năng chuyển hóa tinh bột thành đường có khả năng lên men. Rảy nước: Nước được lọc qua khối hạt ngâm ủ để hòa tan đường. Chất lỏng sẫm màu, chứa nhiều đường được gọi là hèm bia. Luộc: Hèm bia được luộc sôi cùng với các thành phần khác còn lại (ngoại trừ men bia), để loại bỏ bớt nước thừa và giết chết các loại vi khuẩn. Hoa bia (nguyên hay viên nhỏ) được thêm vào (hoặc sử dụng các chất chiết ra từ hoa bia). Lên men: Men bia được thêm vào (hoặc rắc vào) và hỗn hợp được để cho lên men. Sau khi quá trình lên men sơ cấp, người ta có thể cho lên men thứ cấp, điều này cho phép men bia và các chất khác hoạt động lâu hơn. Một số nhà sản xuất bia có thể bỏ qua giai đoạn lên men thứ cấp và chỉ đơn giản là lọc bỏ bã men bia. Đóng gói: Từ thời điểm này, bia chứa cồn, nhưng chưa có nhiều cacbon điôxít. Các nhà sản xuất bia có một số cách thức để tăng lượng cacbon điôxít. Cách phổ biến nhất được các nhà sản xuất lớn áp dụng là cacbonat hóa cưỡng bức, thông qua việc bổ sung trực tiếp khí CO2 vào trong thùng bia hay chai bia. Các nhà sản xuất nhỏ hoặc các nhà sản xuất có khuynh hướng cổ điển sẽ bổ sung "đường mồi" hoặc một lượng nhỏ hèm bia vừa mới lên men ("kräusen") vào đường ống dẫn cuối cùng, tạo ra sự lên men ngắn gọi là "bình ổn thùng" hay "bình ổn chai". Sau khi brewing, bia thông thường đã là sản phẩm hoàn thiện. Từ thời điểm này thì bia được đóng thành thùng, can hay chai, lon. Bia chưa được tiệt trùng theo phương pháp Pasteur chứa men bia còn sống và có thể lưu trữ giống như rượu vang để bảo quản tiếp trong các thùng bình ổn theo tuổi nhằm tiếp tục lên men và tạo ra hương vị thứ cấp. Chu kỳ bình ổn dài là phổ biến đối với các loại ale của Bỉ và các thùng bình ổn cho ale thực. Đối với các loại bia nặng thì người ta không bình ổn quá một năm hoặc lâu hơn. Các điều kiện phục vụ có ảnh hưởng lớn tới cảm nhận của người uống. Yếu tố quan trọng nhất là nhiệt độ: nhiệt độ thấp (bia lạnh) cản trở cảm nhận của lưỡi và họng, làm cho người uống không cảm nhận hết hương vị của bia. Ngược lại, bia được phục vụ quá ấm có thể có các vấn đề khác: các loại bia nặng có thể được cảm nhận là quá nhiều cồn và gắt, trong khi các loại bia nhẹ hơn có thể được cảm nhận là nhạt và không hấp dẫn. Mỗi loại bia có nhiệt độ phục vụ lý tưởng riêng, và trong khi những người uống bình thường có thể quen với "bia đá lạnh" như là các quảng cáo đại trà vẫn thường nhắc đến thì việc tìm hiểu nhiệt độ phù hợp nhất cho việc phục vụ bia có thể dẫn đến những cảm nhận tốt hơn về hương vị của từng loại bia. Bên cạnh nhiệt độ, việc lựa chọn đồ chứa bia thích hợp cũng là một yếu tố quan trọng. Trong khi những người uống bình thường có thể uống trực tiếp từ chai hay lon thì những người uống giàu kinh nghiệm luôn luôn rót bia của họ vào vại/cốc trước khi uống. Uống trực tiếp từ chai hay lon không cảm nhận hết hương vị, do mũi không thể cảm nhận hết được hương vị tỏa ra từ bia. Vì thế, cho dù từ vòi của thùng hay từ miệng chai, bia nói chung được rót vào các cốc, vại thủy tinh. Giống như rượu vang, có các loại cốc, vại thủy tinh đặc biệt dành cho từng loại bia, và thậm chí một số nhà sản xuất bia nổi tiếng còn sản xuất cả cốc vại riêng cho loại bia của mình. Trong khi bất kỳ loại cốc, vại nào đều được ưa chuộng hơn chai, những người sành bia nhất lại cho rằng hình dáng của cốc, vại có ảnh hưởng đáng kể tới sự cảm nhận hương vị và cách thức uống, tương tự như các yêu cầu của người uống đối với branđi (brandy) hay cô nhắc (cognac). Thủy tinh là vật liệu xốp, nó giữ lại dầu, mỡ ở bên trong. Khi các loại dầu mỡ này tiếp xúc với bia thì chúng làm giảm lượng bọt bia một cách đáng kể và các bọt bia này có xu hướng dính vào thành cốc chứ không dâng lên như bình thường. Cuối cùng, quá trình rót bia cũng là một phần quan trọng trong nghệ thuật thưởng thức bia. Tốc độ rót bia từ vòi hay chai, độ nghiêng của cốc và vị trí rót (ở giữa hay cạnh thành cốc) vào cốc đều có ảnh hưởng đến kết quả cuối cùng, chẳng hạn kích thước và thời gian tồn tại của bọt bia, vệt bia để lại ở đáy cốc khi uống hết, cũng như sự sủi tăm của bia khi các bọt khí cacbonic dâng lên. Các loại bia cacbonat hóa nhiều như pilsener hay weissbier của Đức có thể cần thời gian lắng xuống lâu hơn các loại bia khác trước khi đưa ra phục vụ. Một số bia đen và ale của Anh, nổi tiếng nhất là Guinness, được phục vụ từ các "vòi nitơ". Các vòi này sử dụng hỗn hợp nitơ/cacbon điôxít thay vì cacbon điôxít thông thường nhằm thu được cảm giác kem ở miệng. Các loại bia này được rót một cách thong thả theo hai công đoạn, với một khoảng lặng để bia lắng xuống. Trong cố gắng giả lập quá trình này tại nhà, Guinness đã giới thiệu lon widget năm 1991; gần đây, Guinness đã mở rộng khái niệm với hệ thống "draft in a bottle" (bia tươi trong chai). Các loại ale thực có các yêu cầu đóng gói riêng của nó: các loại bia này đặc biệt là không được lọc và không khử trùng theo phương pháp Pasteur, và chúng được phục vụ bằng các máy bán bia. Máy bán bia thực ra là một bơm tay được sử dụng để chuyển bia từ thùng ra vòi. Do thời gian giữ loại bia này ngắn nên đòi hỏi phải có sự quản lý chặt chẽ về số lượng bia tồn và chất lượng của nó. Đối với các loại bia đóng chai, người ta khuyến nghị người dùng nên rót bia chậm với góc rót nhỏ, không rót ra ồng ộc, bỏ đi các cặn men bia còn sót lại ở đáy chai (nếu có) do có một số loại bia nhất định (chủ yếu là hefeweizen) mà một số người thích cho thêm men bia vào để tăng thêm cảm giác ở miệng. Có nhiều loại bia khác nhau, mỗi loại bia được coi là thuộc về một kiểu bia cụ thể nào đó. Kiểu bia là mác dán miêu tả hương vị tổng thể và thông thường là nguồn gốc của bia, phù hợp với hệ thống đã tiến hóa qua các lần thử và các sai số qua nhiều thế kỷ. Yếu tố chính để xác định loại bia là men bia sử dụng trong quá trình lên men. Phần lớn kiểu bia thuộc về một trong hai họ lớn: ale- sử dụng lên men đỉnh, hoặc lager- sử dụng lên men đáy. Bia có đặc trưng pha trộn của cả ale và lager được gọi là bia lai. Đồ uống chứa cồn sản xuất từ việc lên men đường thu được từ các nguồn không phải là ngũ cốc nói chung không được gọi là "bia", mặc dù chúng cũng được sản xuất bằng cùng một phản ứng sinh học gốc men bia. Mật ong lên men được gọi là rượu mật ong, nước táo lên men được gọi là rượu táo, nước lê lên men được gọi là rượu lê, còn nước nho lên men được gọi là rượu vang Bia đen porter Żywiec (sản xuất ở Żywiec, Ba Lan). Chai và vại bia Achel trappist (Bỉ). Ale Ale là bất kỳ loại bia nào được sản xuất bằng lên men đỉnh, và nó thông thường được lên men ở nhiệt độ cao hơn so với bia lager (15-23°C, 60-75°F). Các men bia ale ở các nhiệt độ này tạo ra một lượng đáng kể các este, các hương liệu thứ cấp và các sản phẩm tạo mùi khác, và kết quả là bia tạo ra có mùi vị của hoa hay quả tương tự (nhưng không chỉ có thế) như táo, lê, dứa, cỏ, cỏ khô, chuối, mận hay mận khô. Các khác biệt về kiểu giữa các loại ale là nhiều hơn so với các loại lager, và nhiều loại bia ale rất khó để phân loại chúng thuộc kiểu gì. Lager Lager là loại bia được tiêu thụ nhiều nhất trên thế giới. Chúng có nguồn gốc từ vùng Trung Âu, có tên gọi này là từ lagern ("lưu trữ") trong tiếng Đức. Men bia lager là loại lên men đáy, thông thường được lên men ở nhiệt độ 7-12°C (45-55°F) ("pha lên men"), và sau đó được lên men thứ cấp lâu ở 0-4°C (30-40°F) ("pha lager hóa"). Trong giai đoạn lên men thứ cấp, lager được làm trong và chín. Các điều kiện lạnh cũng kiềm chế việc sản xuất tự nhiên các este và các phụ phẩm khác, tạo ra hương vị "khô và lạnh hơn" của bia. Các phương pháp hiện đại để sản xuất bia lager đã được Gabriel Sedlmayr trẻ và Anton Dreher khai phá. Gabriel Sedlmayr trẻ là người đã hoàn thiện bia lager màu nâu sẫm ở nhà máy bia Spaten tại Bavaria còn Anton Dreher là người bắt đầu sản xuất bia lager, có lẽ là màu đỏ hổ phách tại Wien khoảng những năm 1840-1841. Với việc kiểm soát quá trình lên men đã được hoàn thiện hơn, phần lớn các nhà sản xuất bia lager chỉ sử dụng thời gian lưu trữ lạnh ngắn, thông thường từ 1 đến 3 tuần. Phần lớn bia lager ngày nay dựa trên kiểu Pilsener, được sản xuất lần đầu tiên năm 1842 tại thành phố Plzeň, ở Cộng hòa Séc. Các loại bia lager Pilsener ngày nay có màu sáng và được cacbonat hóa nồng độ cao, với hương vị mạnh của hoa bia và nồng độ cồn 3-6% theo thể tích. Các thương hiệu bia Pilsner Urquell hay Heineken là các ví dụ điển hình về bia pilsener. Lên men tự nhiên Các loại bia này dùng men bia hoang dã chứ không phải các loại men bia được nuôi cấy. Tất cả các loại bia trước khi có việc nuôi cấy men bia trong thế kỷ 19 đã rất gần với kiểu bia này, được đặc trưng bởi các vị chua. Loại bia hỗn hợp Kiểu bia lai hay bia hỗn hợp sử dụng các nguyên liệu và công nghệ hiện đại thay vì (hoặc bổ sung cho) các khía cạnh truyền thống của sản xuất bia. Mặc dù có một số biến thái giữa các nguồn khác nhau, nhưng nói chung bia hỗn hợp có thể rơi vào các thể loại sau: Bia hoa quả và bia rau cỏ là hỗn hợp với một số loại phụ gia từ hoa quả hay rau cỏ có thể lên men trong quá trình lên men, tạo ra chất lượng hài hòa một cách rõ nét. Bia thảo mộc và bia gia vị bổ sung các chất chiết ra từ rễ, hạt, lá, hoa hay quả thảo mộc hoặc các loại cây gia vị thay vì (hoặc bổ sung cho) hoa bia. Các loại bia tồn trữ trong các thùng gỗ là các loại bia truyền thống hay thực nghiệm được lưu trữ trong các thùng gỗ hoặc được tiếp xúc với gỗ (trong dạng các mảnh nhỏ, mẩu hay hạt) trong một khoảng thời gian (gỗ sồi là phổ biến nhất). Thông thường, thùng gỗ hay các miếng gỗ đầu tiên được xử lý bằng một số loại rượu mạnh hay các đồ uống chứa cồn khác--việc sử dụng rượu bourbon, scotch và sherry là phổ biến nhất. Bia hun khói là bất kỳ loại bia nào mà mạch nha của nó đã được hun khói. Thông thường các loại bia này có mùi và hương vị của khói. Các ví dụ điển hình của kiểu bia truyền thống này là bia Rauchbiers ở Bamberg, Đức. Tuy nhiên, nhiều nhà sản xuất bia ngoài nước Đức--chủ yếu là các nhà sản xuất bia thủ công ở Mỹ--cũng bổ sung mạch nha bia hun khói vào bia đen, ale Scotland và một loạt các kiểu bia khác. Bia đặc biệt là cách gọi chung để chỉ các loại bia được sản xuất mà sử dụng các nguồn đường, hạt ngũ cốc và tinh bột có thể lên men không thông dụng. St ============================================================ Đố các bạn là nước nào trên thế giới sản xuất nhiều loại beer nhất?
-
@Tuấn Dương Với những thông tin của bạn như thế là không rõ ràng, gây hiểu nhầm Bạn cần chỉ rõ là vùng nào ? dân tộc thiểu số nào?
-
Hỡi anh em. Lại một lần nữa, cái ngày đáng sợ ấy sắp tới. Không thể thoát được nó, không thể hoãn được nó, càng không thể chạy trốn nó. Vậy chúng ta hãy đứng sát vào nhau, hãy nắm chặt tay và đối diện với nó một cách anh hùng. Thưa anh em. Có bất công không? Khi trong suốt cuộc đời vất vả, nặng nhọc đầy gian lao chúng ta không có một ngày dành cho mình. Đã từ lâu, cái thế giới mỏng manh này có ngày chống thuốc lá, ngày phòng si-đa, thậm chí có cả ngày cúm gà mà vẫn làm ngơ, không dành cho đàn ông một hôm nào cả. Vì sao thế? Và đã từ lâu, thế giới bị phụ nữ thao túng mất rồi. Từ trong nhà ra đường phố, từ công ty tới bệnh viện, phụ nữ đã tràn ngập, đã cai quản, đã ra lệnh. Chúng ta mặc gì, chúng ta ăn gì, chúng ta đi đâu, quan hệ với ai, kiếm ra tiền và cất ở chỗ nào đều bị phụ nữ kiểm soát, bắt bớ, theo dõi và tra khảo. Vậy phụ nữ là ai? Về bản chất, phụ nữ cũng là con người như chúng ta. Nghĩa là cũng thích ăn, thích uống, thích vui chơi và tụ tập đàn đúm (khoản sau cùng này thì hơn hẳn). Ta thuốc lá, chị em có thuốc lá. Ta rượu, chị em có rượu. Ta cờ bạc, chị em cũng bạc cờ, ta... vân vân, chị em cũng... vân vân và vân vân. Sở dĩ "chúng" hơn ta, làm khổ ta, hại được ta và "chúng" có những vũ khí tối tân mà chả bao giờ ta có: đấy là nước da trắng, đấy là làn môi cong, đấy là mắt bồ câu, đấy là mũi dọc dừa, là giọng nói dịu dàng và tiếng cười khanh khách như chim. Mang những dụng cụ “giết người hàng loạt” như thế, xông vào đám đàn ông ngơ ngác, tội nghiệp, thiếu đoàn kết, phụ nữ đã xây dựng nên một chế độ hà khắc, một hoàn cảnh sống thật tội nghiệp: Bao nhiêu đàn ông bị giam cầm trong các gia đình, bị ăn, ngủ, xem ti vi và cả tắm nữa theo điều lệnh. Bao nhiêu trai trẻ bị áp tải đi chơi, bị ép phải mua quà, bị dồn vào thế phải tặng hoa, tặng bánh sinh nhật hoặc phải chờ đợi đến mềm nhũn dưới trời mưa như rất nhiều bộ phim tình cảm đã tố cáo. Bằng các thủ đoạn quỷ quyệt như nhảy múa tung tăng, chớp chớp mắt (có gắn lông mi) và kêu thét lên mỗi khi thấy chuột, phụ nữ làm đội ngũ đàn ông tan tác, mất hết lý trí, không còn chút sáng suốt, quên mình, quên cả tiền bạc của mình. Bằng những mảnh vải mỏng, nhẹ, gọi là áo, bằng những miếng cắt xéo, quấn bí hiểm gọi là váy, bằng những sợi dây sặc sỡ như con giun gọi là ruy-băng, phụ nữ làm chúng ta phải đầu hàng, phải sung sướng khi bị bắt làm tù binh, thà chết (và đã chết) chứ không vượt ngục. Hậu quả chính sách hà khắc của nền cai trị chuyên chế đó là trong khi chúng ta còng lưng bên máy tính, đổ mồ hôi trong nhà xưởng thì phụ nữ ngồi chễm chệ trong tiệm gội đầu, vểnh tay làm móng hoặc ngồi gật gù quanh gánh bún riêu. Trong khi chúng ta kiệt sức vì hội thảo, vì nghe lời la mắng của sếp thì phụ nữ hào hứng lắc vòng, nằm dài trong phòng hơi nước để giảm cân. Trong khi chúng ta mất ngủ vì giá xăng dầu, giá xi măng, phụ nữ cứ vác về mà chả quan tâm tới giá tiền kem dưỡng da, kem tan mỡ và kem trị mụn. Hỡi anh em. Tưởng như vậy đã tột cùng, phụ nữ vẫn không dừng lại. Chả tham khảo ý kiến, chả cần tìm hiểu sức khỏe và tiền bạc của đàn ông, phụ nữ tung ra ngày 8/3 như một ngày tổng phản công cuối cùng, nhằm quét sạch những ước mong chống đối. Trong cái ngày dài hơn thế kỷ ấy, hàng triệu thân xác gầy gò, lóng cóng tội nghiệp của anh em chúng ta sẽ phải chúi đầu vào chậu rửa chén, rụt cổ trong giỏ thức ăn mua từ chợ, lê bước trong phòng với chổi lau nhà. Trong cái ngày kinh khiếp đó, anh em sẽ giặt tã đến mười hai giờ, bổ củi đến ba giờ, rửa tủ lạnh, khua mạng nhện, đổ rác đến đêm, những lúc giải lao thì khâu quần áo. Anh em có sống sót qua một ngày như thế không? Tôi tin là không. Nhưng nổi loạn à? Đường lối đấu tranh của chúng ta đã định hướng từ lâu là không manh động. Chạy trốn à? Chưa từng có ai chạy thoát, mà thoát là thoát đi đâu? Vậy anh em hãy chứng tỏ sức mạnh của mình bằng cách làm thật tốt những gì phải làm, khiến phụ nữ kinh ngạc, hoảng sợ choáng váng: Nếu rửa bát, anh em hãy rửa sạch đến mức ba tuần sau vẫn không cần rửa lại. Nếu lau nhà, anh em hãy lau bóng tới mức con ruồi đậu xuống không bay nữa vì mải soi gương. Nếu đi chợ, anh em hãy mặc cả ráo riết, trả giá gắt gao, mua rẻ tới độ sau ngày này, các hàng bán cá, bán gà đều phá sản. Tóm lại, hãy dùng “gậy bà đập lưng bà”. Hãy biến ngày 8/3 là ngày của chúng ta, khi đàn ông cười nói râm ran, í ới gọi nhau trong siêu thị và túm tụm ăn quà ngoài vỉa hè. Hãy làm cho phụ nữ tiếc đứt ruột và không có cơ hội nào trong giây phút ấy được sờ vào dụng cụ gia đình, được tắm mình trong không khí bếp núc hội hè. Hãy khiến các cô gái khắp nơi hiểu rằng chỉ có ý chí, sức mạnh và khả năng sáng tạo của đàn ông mới biến được một ngày thành một đời. Nếu có một lá cờ thêu chữ 8/3, tôi muốn anh em giật lấy nó, cầm nó xông lên và vẫy thật cao như ngọn đuốc rực lửa. Anh em tiến lên. Chiến thắng hay là chết! St
-
Muốn thắng được địch thì phải tìm hiểu rõ vũ khí của địch. Về nhà xem lại thì vũ khí ở nhà là nước da ngăm ngăm, môi thì cong dữ dội khi bực mình, mắt thì tròn xoe khi đi làm về muộn, giọng nói thì khỏi chê giống cảnh sát điều tra, tiếng cười thì oanh vàng khi cầm tiền lương. Tóm lại vũ khí nào cũng lợi hại hết, chắc chắn là ta không thể đánh lại địch. vậy chi bằng hữu hảo với địch, để sống qua ngày. Luôn tâm niệm rằng: "Nhất vợ, nhì bà ngoại" Nhân ngày 8-3 , ta mua hoa tặng bà ngoại
-
Có bao nhiêu cụ rùa trong Hồ Gươm? Báo chí không những thông tin về tình hình sức khỏe của cụ mà còn cho rằng dưới hồ Gươm có nhiều hơn một cụ rùa. Theo dõi Gia đình và Xã hội, tôi thấy rằng trước đây ông Nguyễn Ngọc Khôi cho rằng dưới hồ có 2 cụ rùa. Hôm 15/2, tại hội thảo khoa học quốc tế về bảo vệ cụ Rùa hồ Gươm, một bản tham luận thông báo về việc phát hiện dấu hiệu cho thấy hồ Gươm có ít nhất 2 cụ Rùa. Chúng ta đã biết từ nhiều năm nay, một số nhà khoa học (trong đó có PGS-TS Hà Đình Đức) cho rằng hồ Gươm chỉ còn sót lại một cụ Rùa. Còn nhớ cách đây 3 năm đã có một cuộc tranh luận nảy lửa giữa một nhà khoa học và một người chụp ảnh ven hồ Gươm khi người kia căn cứ vào hàng trăm bức ảnh mình chụp được để xác định rằng “hồ Gươm có tới 5 cụ Rùa”, còn nhà khoa học thì trước sau như một “hồ Gươm chỉ còn duy nhất một cụ Rùa”. Nhà giáo Lưu Đức Ngò một lần nữa tái khẳng định dưới hồ có 5 cụ rùa, để minh chứng cho điều này, ông đã giới thiệu nhiều bức ảnh khác nhau về rùa ở hồ Gươm. Là một người sống cạnh hồ Gươm, ý kiến cá nhân tôi cho rằng có nhiều hơn một cụ rùa là thiếu tính thuyết phục, bởi chỉ căn cứ vào vệt tăm và những bức hình chụp ở những thời gian khác nhau. Tai sao, có nhiều hơn 1 cụ, mà chưa bao giờ các cụ nổi cùng lúc? Mặc dù chưa có kết luận cuối cùng về việc hồ Gươm có mấy cụ Rùa. Mà nhiều hay ít đâu quan trọng bằng tình trạng sức khỏe của cụ Rùa vì vết thương trên lưng và có thể cụ Rùa còn đang bị nấm độc tấn công. Chúng ta hy vọng, cơ quan chức năng sẽ cứu sống cụ Rùa, để cụ là vật sống tâm linh của người dân Thủ đô.
-
Chuyện "cụ" rùa: Đừng "thực tế hóa" truyền thuyết Xung quanh câu chuyện rùa hồ Hoàn Kiếm đã và đang tạo nhiều luồng dư luận. Phóng viên Vietnam+ đã có cuộc phỏng vấn Tiến sĩ Vũ Thế Long- Nhà nghiên cứu của Viện Khảo cổ học Việt Nam để tìm hiểu cách nhìn của một nhà khoa học với chuyện rùa Hoàn Kiếm. - Xin ông cho biết việc "đánh đồng" rùa truyền thuyết trong lịch sử và "cụ" Rùa ở Hồ Hoàn Kiếm hiện nay có sai lệch thế nào? Tiến sĩ Vũ Thế Long: Truyền thuyết là những câu chuyện mà người ta đồn đại, đó không hẳn là một sự thật khoa học. Ta có thể tham khảo truyền thuyết để hiểu được tiền nhân gửi gắm lại điều gì cho mai sau qua cái truyền thuyết ấy. Chuyện rùa hồ Hoàn Kiếm mà truyền thuyết lưu lại xét về mặt sinh học hoàn toàn là không có thật. Đừng mơ hồ chuyện đó. - Quan niệm "cụ" rùa đang thỉnh thoảng hiện hữu ở Hồ Hoàn Kiếm là Rùa thiêng huyền thoại có thể đem đến nguy hại vì rất có thể "cụ" rùa sinh học rồi cũng có thể chết đi theo quy luật tự nhiên mà cụ rùa trong tâm thức, tình cảm của người dân thì cần sống mãi, ông có ý kiến gì về vấn đề này? Tiến sĩ Vũ Thế Long: Tâm thức dân ta là một chuyện còn sự có mặt của một con vật đang tồn tại lại là chuyện khác. Đừng lẫn lộn. Vật chất tồn tại theo quy luật của tự nhiên. Sinh vật có sinh có tử là chuyện thường tình. Có gì mà phải làm rùm beng lên. Đừng tự huyễn hoặc mình và chớ thổi to những chuyện mê tín dị đoan lên. Rùa chết thì chôn hay đem cho bảo tàng lưu giữ để mọi nhà khoa học có điều kiện nghiên cứu. Đó là chuyện bình thường. Có gì mà phải sợ? Chuyện truyền thuyết dị đoan thể hiện cái tâm thức của con người và có thể chỉ là gửi gấm của tiền nhân đến mai sau về ý chí gìn giữ độc lập dân tộc thôi. Nó chỉ có giá trị về tinh thần, hoàn toàn không có thật. - Những nghiên cứu của các nhà khoa học đã cho biết về loài rùa, theo ông, đâu là điểm nổi bật cần lưu ý về loài sống lâu đặc biệt và rất gắn với văn hóa, sử sách Việt Nam ta này? Tiến sĩ Vũ Thế Long: Đây là loài động vật hiếm quý theo tôi cần bảo tồn như mọi động vật hiếm quý khác. Làm sao cho loài này trường tồn, không bị tuyệt chủng. Cần dùng mọi biện pháp kĩ thuật để theo dõi, bảo tồn và nhân giống nếu có thể. - Lời khuyên của Tiến sĩ với những người dân đang sa vào mê tín rồi suy luận từ việc "cụ" rùa nổi lên? Tiến sĩ Vũ Thế Long: Rùa nổi lên là vì nó có nhu cầu lấy dưỡng khí hay chỉ là tập tính sinh học bình thường của nó mà thôi. Không có dính líu đến bất cứ sự kiện văn hóa xã hội nào cả. Đừng có tin vào những chuyện dị đoan. Nó nổi lên lúc nào là do nhu cầu cá nhân của nó với môi trường. Ai lợi dụng gắn chuyện rùa nổi với những ngày kỉ niệm lịch sử là kẻ bịp bợm, cơ hội. Không có chuyện đó. - Người ta từng đặt ra câu hỏi, nếu "cụ" rùa chết thì trách nhiệm thuộc về ai? Ông nghĩ sao xung quanh cách nhìn nhận này? Tiến sĩ Vũ Thế Long: Rùa già, chết là lẽ thường. Nếu có thể chăm sóc vật quý cho nó sống đến tuổi tối đa của nó thì nên làm. Gây bẩn môi trường thì không chỉ rùa và nhiều sinh vật khác cũng bị xâm lại là lỗi của các nhà quản lí môi trường. Đừng tự huyễn hoặc và tạo ra những áp lực không cần thiết. -Xin trân trọng cảm ơn ông! Nguồn:baomoi
-
Mấy thông tin kiểu này đã diễn ra quá nhiều nơi rồi. Chưa kể là mấy chuyên viên CNTT chỉnh sửa photoshop thành ảnh gì mà chả được.
-
Ngày 28-12, Sở VH,TT&DL Hà Nội đã tổ chức giao ban công tác văn hóa cơ sở năm 2010 với cán bộ phụ trách văn hóa 29 quận, huyện, thị xã. Theo đánh giá của Sở, phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa" ở thành phố Hà Nội năm 2010 có những bước phát triển đáng kể với tỷ lệ hộ gia đình văn hóa tăng 0,2%, nâng số gia đình văn hóa của thành phố lên gần 1,2 triệu hộ (bằng 82,8%); tỷ lệ làng văn hóa tăng 4,2%; đơn vị văn hóa tăng 12,8%... Việc cưới, tang, lễ hội xuất hiện ngày càng nhiều những mô hình mới tiến bộ như: Cưới bằng tiệc ngọt, tiệc trà ở Phú Xuyên, đưa di hài người chết đi hỏa táng ở Đông Anh, không dùng loa lớn trong lễ hội ở Mê Linh, Sóc Sơn, Sơn Tây. Đặc biệt, chiến dịch bóc xóa quảng cáo rao vặt, tổng vệ sinh môi trường, trang hoàng các tuyến phố xanh - sạch - đẹp đã mang lại bộ mặt đô thị mới cho Thủ đô… Để nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần cho người dân Thủ đô, năm 2011, Sở VH,TT&DL Hà Nội sẽ xây dựng các tiêu chí "Người Hà Nội thanh lịch, văn minh" và thực hiện lồng ghép với phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa" từ thành phố tới cơ sở. Tác giả: Theo Hanoimoi =============================================================== Hì hì, không biết các bác lãnh đạo Sở Văn hóa xây dựng tiêu chí gì cho nhân dân đây Trong tương lai, sau khi áp dụng, sẽ có kiểu giới thiệu là anh A nhà ở Q.Hoàn Kiếm là Người Hà Nội thanh lịch, văn minh và anh B nhà ở Q.Hai Bà Trưng là chưa đạt Người Hà Nội thanh lịch, văn minh