-
Số nội dung
1.279 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
5
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by yeuphunu
-
Tiến sĩ K giám đốc trung tam UU AA Nhà chân rùa học trên đường về nhà mà lại đi quên đường, vì bực quá lũ lẫn cả đường về. Vừa đi vừa suy nghĩ vì tức quá, mình oai thế nào mà bị gọi là nhà chân rùa học . Chợt nhớ tới người quen là là K tiến sĩ KTS Giám đốc trung tâm UU AA, nên nhà chân rùa học alo gọi nhờ giúp đỡ Vì cùng hội cùng thuyền lâu năm nên Tiến sĩ K quyết đi gặp cái cậu họa sĩ trẻ, để dạy cho bài học. Họa sĩ trẻ đang hăng say vẽ tranh để bán, thì thấy Tiến sĩ K đứng nhìn rất chăm chú và hỏi: Này cậu ở đâu đến đây vẽ tranh? Hoa sĩ trẻ : tôi ở trong nam ra đây vẽ tranh Tiến sĩ K: cậu có chứng chỉ hành nghề không ? Hoa sĩ trẻ : tôi chỉ có bằng đại học mỹ thuật thôi Tiến sĩ K: vậy là cậu đã vi phạm phap lệnh thủ đô, kinh doanh hay vẽ cũng phải có chứng chỉ hành nghề. Hoa sĩ trẻ : vậy àh, tôi cũng chưa nghe về cái pháp lệnh thủ đô Tiến sĩ K: nếu cậu năn nỉ nhở vả tôi, thì không ai đụng đến cậu, nhưng phải biết điều với tôi Hoa sĩ trẻ : Nhưng ông là ai? mà tôi phải nhờ vả Tiến sĩ K: tôi là K, tiến sĩ KTS- giám đốc trung tâm UU AA Hoa sĩ trẻ : ah, tôi biết ông rồi. Tiến sĩ K đứng ưỡng ngực: tốt lắm, nhiều người biết đến tôi Hoa sĩ trẻ : tôi vừa mua cái bằng A anh văn cho thằng con trai thi vào lớp 1 trường chuyên, bằng này do ông ký mà Hoa sĩ trẻ : Vậy ra tiến sĩ K chuyên ký bằng dỏm , tức là tiến sĩ dỏm
-
Hiz hiz, với thông tin nhạy cãm này, thì giá bán rau diếp ở HCM sẽ tăng giá 9 lần Tăng giá 3 lần với đối tượng mua sẽ là những anh chàng độc thân sắp sửa . . . :lol: Tăng giá 6 lần cho đối tượng mua là những chị độc thân, mua về tập luyện ngửa :lol: :lol: :lol:
-
Nhà Chân Rùa học Nhân mấy vụ báo chí đăng ầm ĩ về rùa hồ gươm, nên có 1 họa sĩ trẻ ở phương nam quyết định ra bắc, đến ngay Hồ Gươm ngồi vẽ rùa, với hy vọng biết đâu bán được tranh cụ rùa. Họa sĩ trẻ đang hăng say vẽ cụ rùa, thì nghe tiếng cười khẩy Một giọng nói cất lên đây uy quyền: này, bạn trẻ đã bao giờ thấy con rùa hồ gươm chưa ? Họa sĩ nhìn lên thấy một ông già và trả lời: thành thật tôi chưa thấy rùa này bao giờ. Ông già nói: Không thấy rùa bao giờ, mà dám vẽ tranh về rùa để bán àh. Họa sĩ trẻ: tôi vẽ tranh là để kiếm sống, còn ông là ai? Ông già khinh khỉnh trả lời: Ta là PGS, nhà rùa học. Họa sỉ trẻ hỏi: nhà rùa học có nghĩa là như thế nào? Ông già nhà rùa học ngước nhìn lên trời nói: Nhà rùa học có thể nói ngắn là không ai biết và hiểu rùa Hồ gươm bằng ta. Họa sĩ lại hỏi: thế ông có bao giờ thấy chân sau hay đuôi của rùa hồ gươm chưa? Nhà rua học: e hèm hèm, ta có thấy tiêu bản rùa trong đền Ngọc Sơn. Họa sĩ trẻ: Ông thì giỏi lắm cũng chỉ thất được cái đầu rùa và thêm 2 cái chân trước của rùa khi rùa nổi lên thôi. Nhà rùa học bực mình: này không được nói thế với ta, ta còn là Phó giáo sư Họa sĩ trẻ: Bằng PGS của ông thì tôi không quan tâm, nhưng với việc nhìn rùa, thì ông nên nhận là nhà chân rùa học.
-
Bài học lớn từ tiều phu Ngày xửa ngày xưa có một anh tiều phu rất khỏe đến xin việc ở chỗ của một thương gia buôn gỗ lớn. Người thương gia đã nhận anh ta. Lương anh tiều phu khá cao và điều kiện làm việc cũng tốt nên anh cảm thấy mình cần phải làm việc thật chăm chỉ để xứng đáng với những gì được trả. Ông chủ đưa cho anh chàng tiều phu một cái rìu và chỉ cho anh khu vực làm việc. Ngày đầu tiên anh chàng mang về được 18 cây gỗ. “Xin chúc mừng! Cứ thế phát huy nhé!” Người thương gia vui vẻ. Lời của ông chủ như một lời khích lệ đến chàng tiều phu, anh thậm chí còn làm việc chăm chỉ hơn vào ngày hôm sau nhưng chỉ mang về được 15 cây gỗ. Ngày thứ ba anh càng cố gắng hơn nữa nhưng cũng chỉ mang về được có 10 cây. Càng ngày anh càng mang về ít hơn. “Có lẽ mình đã bị yếu đi rồi!” Anh chàng tiều phu nghĩ. Anh đã đến chỗ ông chủ để xin lỗi và nói rằng anh không hiểu có chuyện gì đang xảy ra. Người thương gia liền hỏi: “Lần cuối cùng anh mài chiếc rìu của mình là bao giờ?” “Mài rìu ư? Tôi không có thời gian để làm việc đó vì lúc nào cũng bận rộn chặt cây…” St
-
-
Vì sao có tết Ngày xửa ngày xưa, có một bà mẹ sinh được rất nhiều con trai. Chồng bà mất sớm, những người con lớn lên, đi làm ăn ở xa hết cả. Còn lại bà mẹ cặm cụi một mình một bóng. Thi thoảng những người con cũng về thăm mẹ, mang cho bà rất nhiều quà. Nhưng chẳng khi nào họ có mặt đông đủ cùng một lúc cả. Gặp người này, bà mẹ lại chạnh nhớ đến người kia. Chưa kịp vui thì gương mặt bà đã lo âu, buồn bã, không hiểu những đứa con khác dạo này ra sao, có gầy đi vì vất vả mưa nắng hay không. Người mẹ nào cũng lo cho con mình như thế đấy, con ạ. Bà mẹ nuôi một đôi chim bồ câu làm bầu bạn. Đôi chim sớm tối bay về, gù gù vui vẻ một góc vườn khiến bà cũng vui theo một chút, nhưng nỗi nhớ nhung về những đứa con xa thì vẫn đầy ắp trên từng nếp nhăn của gương mặt bà. Một hôm, đôi vợ chồng chim bảo nhau: “Mình ơi, tôi thương bà lão quá! Trời đổi tiết xuân, ở đâu cũng có không khí hân hoan của sự sống. Chỉ có ở nhà bà lão, tôi thấy buồn ghê. Mình phải làm gì đây?” Chim chồng nghĩ ra một kế: “Phải gọi tất cả những đứa con của bà lão cùng về một lúc. Chỉ có như thế, bà mới hết buồn lo”. Chiều hôm ấy, hai vợ chồng nhà chim họp tất cả những bè bạn bồ câu trong vùng, nhờ họ bay đi tìm gọi tất cả những người con phương xa của bà lão. Sớm hôm sau, những cánh chim bồ câu bay đi rợp trời. Bồ câu dẻo dai và tinh tường, bay qua biết bao nhiêu ngọn núi, con sông, tìm được đến tất cả những người con lưu lạc của bà lão. Một buổi chiều, bà lão mở cửa ra, kinh ngạc nhìn thấy tất cả những đứa con thân thương của mình đang tập họp đông đủ trước sân. Họ mang theo cả vợ con, những cô con dâu từ nhiều miền đất khác nhau, những đứa bé đủ mọi lứa tuổi, đồng thanh gọi “Bà!”. Và điều kỳ diệu đã xảy ra. Người mẹ mỉm cười. Mọi nếp nhăn trên trán bà biến sạch đi đâu mất. Mái tóc dần đen trở lại chỉ trong một buổi chiều. Tối hôm ấy, một bữa cơm đông vui chưa từng có trong đời bà đã diễn ra với thật nhiều món ngon do các nàng dâu trổ tài nấu nướng. Không chỉ có bà lão cảm thấy hạnh phúc mà thật ra, tất cả những người con của bà đều thấy hạnh phúc. Họ nhắc lại những chuyện ngày xưa, hồi còn thơ bé, những kỷ niệm ngây thơ của những ngày xa lắc tưởng chừng không còn nhớ tới nữa. Trẻ con tròn mắt lắng nghe. Chúng nhận anh chị em với nhau, chơi đùa thỏa thích để rồi đêm về thiếp đi trong giấc ngủ ngon lành.Sáng hôm sau, bà lão đi từng giường gọi các cháu dậy, nhưng gọi được đứa này thì đứa kia lại thèm thuồng nằm xuống ngủ nướng. Nghĩ ra một kế, bà bèn đốt một tràng pháo dài thật là dài. Tiếng pháo nổ rộn ràng khiến lũ trẻ bật ngay dậy, chạy ra sân. Một ngày đẹp đẽ nhất trong năm đã bắt đầu. Và thế là, cứ đã thành lệ, những người con lấy ngày ấy mà trở về tụ họp với Mẹ, những đứa cháu về bên Bà trong bữa cơm tưng bừng cuối năm. Những đứa cháu cứ sáng ra lại hớn hở đón một ngày mới đẹp đẽ nhất trong năm, thỏa thuê nô đùa để cả năm đó nhớ mãi về nhau… Những ngày vui vẻ ấy bây giờ mình gọi là Tết, Tết Nguyên Đán! Tết sinh ra để cho mọi nhà được sum họp. Tết sinh ra để người đi xa vội vã trở về, để người ở nhà ngóng đợi giây phút gặp lại người thân sau một năm dài xa cách. Tết sinh ra để cho mọi người niềm vui đoàn tụ. Suu tầm
-
Sự tích hoa tuyết Khi bà Chúa Tuyết sinh hạ được một cô con gái, bà phải suy nghĩ rất lâu rồi mới quyết định đặt tên con gái là Xnhedinca Xnhedinca trắng trẻo, mái tóc cùng trắng, nằm trên chiếc giường trắng, phía dưới là những tấm vải đệm bằng mây trắng. Khi Xnhedinca vừa đến tuổi trưởng thành đã có mấy chàng trai đến cầu hôn. Người đến trước nhất là Mặt Trăng, nhưng Xnhedinca không ưng vì chàng có cái trán hói nhẵn thín, đêm đêm không chịu ngủ mà cứ lang thang trên bầu trời, còn ban ngày thì lại giấu mặt sau những đám mây. Người thứ hai đến xin cầu hôn là Tia Nắng, nhưng chàng cũng bị Xnhedinca từ chối. Chúa Ông giận lắm. Một hôm ông nghiêm khắc nói với con gái: - Nếu con không tự kiếm được chồng thì cha mẹ đặt đâu, con phải ngồi đấy. Chúa Ông nhắn tin cho Gió, kẻ thống lĩnh cả bầu trời xanh có đến bốn người con trai chưa đứa nào thành gia thất. Gió bèn đáp chiếc xe trang hoàng lộng lẫy cho những con tuấn mã phi cực nhanh tới ra mắt Chúa Ông. Xnhedinca được gả bán cho đứa con trai cả của Gió - đó là chàng Gió Bắc. Chúa bà lấy làm hạnh phúc chuẩn bị của hồi môn cho con gái, nào là chăn lông chim, gối bông tuyết mềm, những tấm vải trải giường bằng mây trắng, rồi hàng chuỗi hạt cườm vòng cổ bằng tuyết lấp lánh. Khi khách mời đến đông đủ, Xnhedinca hiện ra như một nàng công chúa. Bà con họ hàng rất hài lòng được đến dự ngày vui, ai cũng khen hai bạn trẻ thật xứng đôi, phải lứa. Chỉ riêng Xnhedinca là không hài lòng chút nào. Chả là đương lúc yến tiệc, chàng Gió Bắc bỗng hét toáng lên: "Nóng quá! Nóng quá!" khi chàng khẽ chạm vào cặp môi lạnh toát của mình vào cặp môi của nàng. - Con không thể yêu chàng được - Xnhedinca thở dài nói. Nàng nói nhỏ đến mức ngoài mẹ nàng ra chẳng ai có thể nghe được tiếng nàng. "Không lẽ con gái yêu của ta lại là đứa bất hạnh". Trái tim người mẹ bỗng run lên trước một sự tiên đoán đáng sợ. Đúng lúc yến tiệc đang rôm rả thì chàng rể lên tiếng bảo em trai Gió Nam chơi một bản nhạc nhảy. Gió Nam đang ngồi ở mép một đám mây bèn rút trong vạt áo ra một ống sáo và bắt đầu thổi. Giai điệu nhẹ nhàng lan toả, cuốn hút Xnhedinca vào cuộc nhảy. Nàng lả lướt, quay người, đập đập gót giày vào nhau phát ra tiếng kêu lanh canh, trong lúc đó, chàng Gió Đông, người em chồng tinh nghịch cứ vỗ tay cười. Chỉ có chàng Gió Tây là mỗi lúc một thêm thất vọng, đau khổ rồi gục đầu vào vai cha thổn thức. Gió Cha kinh ngạc hỏi: - Con trai của ta, ngày vui thế này, có sao con lại để rơi lệ? Chàng Gió Tây nức nở: - Vì sao cha lại dạm hỏi nàng Xnhedinca cho anh lớn mà không phải là cho con? Vì sao nàng lại không thể là vợ của con? Lúc này chàng Gió Nam mới ngước cặp mắt bồ câu của mình nhìn Xnhedinca và chàng đã bắt gặp cái ánh nhìn lên của nàng. Tiếng sáo nghe càng du dương hơn khi nó vang lên chỉ để dành cho một mình Xnhedinca thôi, còn Xnhedinca thì nhảy cũng chỉ để cho chàng Gió Nam. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu chàng Gió Bắc ác độc và đầy ghen tuông kia bắt được? Bà Chúa Tuyết vô cùng đau khổ. - Con gái yêu ơi, hãy biết kiềm chế trái tim mình! - Bà Chúa khẽ van nài khi Xnhedinca quay tròn gần chỗ bà. Nhưng một trái tim đang thổn thức vì tình yêu thì kiềm chế làm sao được? Chả lẽ Xnhedinca lại có thể làm được cái điều mà ngay cả những kẻ ngu ngốc lẫn những đấng anh minh đều chịu bó tay sao? Có thể vì mải nói chuyện với Chúa Ông nên Gió Bắc không hay biết gì, nếu như Gió Tây không khích bác chàng bằng một tiếng cười ác độc: - Xnhedinca của anh sắp nở hoa nhờ những cái nhìn cháy bỏng của thằng út nhà ta đấy. Nghe nói vậy, Gió Bắc đấm mạnh xuống bàn, hét lên vì tức giận, mắng Gió Nam: - Hãy cất ngay ống sao đi, nếu không ta sẽ đập vỡ đấy! Tiếng sao chỉ còn lí nhí như tiếng chim rồi câm bặt. Xnhedinca lúng túng liếc nhìn cặp mắt bồ câu của Gió Nam như muốn dò hỏi: phải chăng đó chỉ là tình yêu thoáng chốc của chàng. Nàng nhớ lại cái giây phút Gió Bắc đứng phắt dậy và gầm lên: - Xnhedinca, em đừng quên rằng em là của anh, còn mi, thằng em kia, đừng quên rằng nàng không hề là của mi! Và bây giờ, Xnhedinca, em hãy nhảy để anh đệm sáo! Gió Bắc cho các ngón tay vào mồm và huýt the thé khiến mọi người ai nấy có cảm giác bị kiến bò sau lưng. - Nhảy đi! Nhảy đi! - chàng hét Xnhedinca. Còn nàng thì đang đắm đuối trước đôi tay giơ ra chào mời của chàng Gió Nam. Nàng toan quay đi song đôi chân nàng bị băng cứng lại rồi, và chúng đã cưỡng lại ý nàng. - Hãy nhảy đi! Nàng hãy nhảy vì ta! - Gió bắc hét to đến nỗi làm chuyển cả những cột nhà bằng tuyết, nhưng Xnhedinca vẫn không hề động lòng. - A ha! - Gió Bắc cuồng lên, chàng rút cái roi ở thắt lưng ra đoạn vung lên. - Này, chú em Gió Nam của ta, giờ thì ta không còn thương tiếc mảnh vườn táo, khu vườn hồng nhà mi nữa nghe. Nội đêm nay ta sẽ tàn phá hết những khu vườn đó bằng chính hơi thở của ta, sáng mai, mi sẽ được bước lên những cành khô khốc và chỉ biết rơi những giọt lệ cay đắng mà thôi. Tình yêu đã mách bảo Xnhedinca cách cứu lấy mạng sống của người tình. Khi Gió Bắc chưa kịp gom không khí vào lồng ngực thì Xnhedinca đã thấy gương mặt của Gió Nam đen xạm đi; nàng lập tức tháo tung những chăn gối lông chim của mình ra, và thế là chỉ trong nháy mắt, những khu vườn của Gió Nam đã được phủ một lớp thảm như tuyết trắng. Những bông hồng và những trái táo không còn biết sợ hơi thở của gió lạnh nữa. Gió Bắc thất vọng, tính chuyện trả thù Xnhedinca. Chàng dùng roi quất nàng túi bụi, song nàng đã khôn khéo tránh được. Gió Bắc bèn ném roi đi và lao về phía Xnhedinca. - Thế là đám cưới đã tàn! - chàng Gió Bắc gầm lên - Ta sẽ đưa nàng về nhà và giấu nàng vào căn hầm tối tăm nhất. Hãy để cho chuột, bọ gặm nhấm thân xác nàng, hỡi người vợ bướng bỉnh của ta. Đến đây, tình yêu lại mách bảo Gió Nam cách cứu lấy trái tim, mà đối với nàng là quý giá hơn tất cả mọi thứ trên đời. Cắp nàng vào ngực, Gió Nam biết giấu Xnhedinca đi đâu bây giờ? Chàng đành phải đặt nàng dưới gốc cây hoa hồng và dặn nàng hãy chờ đợi chàng quay lại sau khi chàng chiến thắng người anh trong trận đấu cực kỳ khó khăn này. - Trước hết hãy hôn em đã, hỡi người tình duy nhất của đời em, em sẽ chờ đợi chàng, cho dù suốt cả cuộc đời. Gió Nam ôm hôn Xnhedinca một cách êm ái và hôn thật lâu cho đến khi người nàng tan ra trong vòng tay ôm của chàng, cho đến khi nàng chỉ còn là những giọt sương rơi xuống đất và tan biến đi. - Nàng ở đâu? Nàng trốn đâu rồi? - Gió bắc lao vào người em trai - Ta vừa trông thấy mi ôm hôn nàng như thế nào kia mà. - Ôi anh trai của em, hà cớ gì ta cứ thù hằn nhau mãi, - Gió Nam buồn rầu đáp - Bây giờ nàng nằm ở kia kìa, như thể giọt sương, những giọt nước mắt đã tan biến vào đất. - Ta không tin nàng và cả mi nữa - Gió Bắc nói, nghiến răng trèo trẹo - Để nàng không bao giờ còn đứng dậy được, ta sẽ dùng băng giá đè nàng xuống. Gió Nam lúc nào cũng cứ quẩn quanh bên khu vườn hồng và vườn táo của mình. Cứ vào quãng cuối Đông hoặc đầu Xuân, Xnhedinca lại thấy có chàng ở bên cạnh, nàng dùng hơi thở sưởi ấm lớp băng bề mặt rồi ngước lên nhìn sâu vào cặp mắt bồ câu của người tình. Và người đời cứ mỗi khi nhìn thấy một bông hoa trắng nhỏ xíu không hiểu sao lại mừng rơn và kể cho nhau nghe như kể về một sự kiện gì trọng đại lắm: - Thấy không, trong vườn, Hoa Tuyết đã nở! Hoa Tuyết hay Bông Tuyết ? Sưu tầm
-
Mời các ban cùng thưởng thức những bức ảnh kỳ diệu chỉ có thể xuất hiện tại Việt Nam Haha thì cũng xấu cả mà Đã vô dịch rồi, còn muôn năm nữa kìa Gởi xe xong, có nghĩa là mất xe Hiz hiz, quả thật là có bớt nỗi buồn Tên doanh nghiệp này không đụng hàng Quảng cáo mọi chỗ có thể và các bác cảnh sat giao thông thấy cũng thông cảm Chà chà bạn học sinh nào học toán thì kém, vẽ thì giỏi
-
Nóc Tháp Rùa từng có tượng Thần Tự Do? So với bức tượng nổi tiếng đặt ở New York thì tượng thần tự do ở Hà Nội có một số phận chìm nổi hơn nhiều và cái kết thúc đặc biệt của nó như một cách người Việt muốn tuyên bố với thế giới. Giờ đây, bức tượng không còn nữa và một phần đồng trong pho tượng tượng phật A Di Đà của làng Ngũ Xá ngày nay là được lấy từ tượng này. Người Mỹ nói chung và người dân New York nói riêng coi tượng thần tự do là biểu tượng đáng tự hào của họ. Đây là tác phẩm của các nhà kiến trúc, điêu khắc Pháp thế kỷ 19. Năm 1875, chính phủ Pháp đã đặt hàng kiến trúc sư Bartholdi một bức tượng để tặng cho chính phủ Mỹ nhân kỷ niệm 100 năm ngày quốc khánh Mỹ. Phải mất gần 10 năm, Bartholdi mới hoàn thành công trình tượng thần tự do khổng lồ với khối lượng 204 tấn này. Năm sau, tượng được đưa lên tàu chiến Mỹ đem về đặt ở cảng New York. Tượng Thần Tự Do trên nóc Tháp Rùa do R. Duboil chụp. Khi trao tặng tượng Thần Tự Do khổng lồ cho nước Mỹ, người Pháp có giữ lại cho mình một phiên bản nhỏ (cao 11 mét) cũng bằng đồng, đặt cạnh chiếc cầu bắc qua sông Seine. Đồng thời cũng có một phiên bản khác nhỏ hơn nữa, (chiếm tỷ lệ 1/16 của pho tượng chính, tức khoảng 2,85m). Phiên bản nhỏ nhất này đưa sang triển lãm tại Hội chợ Đấu xảo Hà Nội (nay là Cung văn hóa Hữu Nghị Việt - Xô) năm 1887. Tượng Công lý, thường được dân gian gọi là tượng Bà Đầm Xòe Khi làm pho tượng tặng cho nước Mỹ, Bartholdi đã khéo léo giải quyết vấn đề giãn nở của kim loại qua tấm váy lòe xòe của pho tượng. Người Hà Nội lúc ấy không quan tâm đến lịch sử của pho tượng mà chỉ gọi là tượng "Bà đầm xòe". Lúc đầu tượng được đặt ở vườn hoa trung tâm gần tòa công sứ (nay là vườn hoa Lý Thái Tổ). Sau đó, vào năm 1891, chính quyền thực dân Pháp ở Đông Dương muốn thay vào đó tượng Pôn Be (paul Bert) - viên cai trị đầu tiên ở Đông Dương, nên đã hạ tượng bà đầm xòe xuống. Trong lúc còn chờ xây dựng bệ đá đặt tượng Pôn Be và tìm vị trí mới đặt tượng bà Đầm Xòe, cả hai bức tượng bị hạ xuống nằm chỏng trơ trên nền cỏ. Vì sự kiện đó trẻ con Hà Nội thời đó có câu vè châm biếm: “Ông Pôn Be lấy bà đầm Xòe Trước nhà kèn ò e í e” Lúc ấy, báo chí Pháp thảo luận rất nhiều về vị trí đặt pho tượng này. Có nên đặt nó trên nóc Tháp Rùa không? Và nếu đặt thì tượng Thần Tự Do sẽ quay mặt về hướng nào? Sau nhiều cuộc tranh cãi cuối cùng chính quyền thực dân Pháp ở Hà Nội quyết định đặt tượng bà đầm xòe trên nóc tháp Rùa mà họ gọi là ngôi đền nhỏ. Bức tượng được đặt ở đó từ năm 1891 đến 1896. Mặt tượng hướng về phía đông tức là khu vực vườn hoa Lý Thái Tổ ngày nay. Dư luận lúc đó phản đối dữ dội: đứng ở vườn hoa chưa đủ cao sao mà còn đòi lên đỉnh Tháp Rùa! Pho tượng Thần Tự Do tại Vườn hoa Cửa Nam trước khi bị giật đổ Cuối cùng, "Bà Đầm xòe" được chuyển đến vườn hoa Neyret phía tây hồ Hoàn Kiếm - tức là Vườn hoa Cửa Nam gần Thư viện Quốc gia để đứng đó trong nhiều năm trong sự thờ ơ của dân chúng. Bản tin trên báo Đông Pháp ngày 2/8/1945 cho biết, pho tượng "Bà đầm xoè" bị giật đổ 9 giờ 45 phút ngày 1/8/1945 Rồi đến năm 1945, Nhật đảo chính Pháp, thị trưởng Thành Phố Hà Nội là bác sĩ Trần Văn Lai muốn xóa bỏ tàn tích xâm lược nên ông quyết định sửa đổi tên đường và giật đổ tất cả những tượng mà Pháp dựng lên ở Hà Nội như Thống chế Foch, tên buôn súng Jean Dupuis và đương nhiên Bà Đầm xòe không thoát khỏi số phận hẩm hiu. Trong cao trào yêu nước này, dân Hà Nội lại có dịp hát châm biếm rằng: Bôn-be với mụ Đầm Xòe Ta kéo chúng xuống, ta đè chúng lên ! Tượng đầm xòe vườn Neyret Với ý tưởng đúc tượng phật Adiđà lớn nhất Việt Nam, dân làng Ngũ Xã đã quyên góp mua đồng, thu nhặt lượng đồng ở bức tượng bà đầm xòe này về gom đúc thành bức tượng nặng 16 tấn, ngự trên tòa sen. Như vậy là hiện nay bức tượng nữ thần tự do đang nằm trong pho tượng phật Adiđà với gương mặt rạng ngời như cảm thông, luôn muốn cứu vớt những nỗi đau trần thế tại chùa của làng Ngũ Xã. Sự “hoá thân” âu cũng là hòa quyện của hai nền văn hoá Đông - Tây. Nguon vietnamnet
-
Sự thật chuyện hài cốt trong Tháp Rùa Tháp Rùa Hồ Gươm (Tin tuc) - Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng Tháp Rùa được một phú hộ xây để đặt hài cốt cha mẹ vì đây là mảnh đất thiêng nằm giữa Hà Nội. Tuy nhiên, nhiều học giả khác lại đưa ra những cách lí giải khác nhau về nguồn gốc của Tháp Rùa.Mấy tháng qua, có lẽ không chỉ Hà Nội mà đồng bào cả nước đều hướng về Thủ đô để theo dõi tình hình của "cụ" Rùa ở hồ Gươm. Từ sự kiện này, trên các diễn đàn mạng, công luận nhắc đến nhiều chi tiết lịch sử khác. Trong đó được chú ý nhất là giả thuyết: Tháp rùa do một người có tên là bá hộ Kim xây để an táng hài cốt cha mẹ mình? Sau khi tham vấn nhiều nhà khoa học, văn hóa và đặc biệt là nhà Hà nội học Nguyễn Vinh Phúc-người được coi là "thủ nhang" của "ngôi đền văn hóa Hà thành", PV đã quyết định tìm hiểu sự thực của câu chuyện này. Bởi nói như nhà Hà Nội học Nguyễn Vinh Phúc thì những giá trị văn hóa, tâm linh của tháp Rùa nói riêng và quần thể hồ Gươm nói chung đã trở thành một biểu trưng trong đời sống văn hóa, tâm linh của mỗi người dân Việt, nó là sự gắn kết chặt chẽ của những di tích hiện hữu và khó thay đổi dù bất kỳ lý do gì, tuy nhiên việc tìm hiểu thêm lịch sử của những di tích trong quần thể này cũng là điều nên làm. Trong hành trình đi tìm sự thật của câu chuyện với việc khảo cứu lại rất nhiều tư liệu xưa, gặp lại hậu duệ của nhân vật Bá Hộ Kim và chúng tôi nhận thấy đây có thể chỉ là một câu chuyện mang tính truyền miệng dân gian, có nhiều bằng chứng sự việc trên không có thực. Thế nhưng nó lại ảnh hưởng không ít đến một dòng họ, đặc biệt trong dòng họ đó có một người là Bí thư thành ủy đầu tiên của Hà Nội. Tháp Rùa Hồ GươmTheo tìm hiểu của PV, trong nhiều tài liệu khảo cứu của nhiều học giả nổi tiếng đều cho rằng người xây tháp Rùa Nguyễn Hữu Kim (tức bá hộ Kim, một người giàu có nổi tiếng ở Hà Nội cuối thế kỷ 19 tại Hà Nội). Tuy nhiên, có một số tài liệu lý giải sở dĩ bá hộ Kim xây dựng tháp Rùa là có một mục đích riêng - để đưa hài cốt bố mẹ vào đặt trong đó (!?). Giả thuyết này bắt đầu từ một tài liệu do nhà nghiên cứu Doãn Kế Thiện văn bản hóa và sau đó được một số tài liệu khác trích dẫn lại. Người xây tháp Rùa là ai? Theo nhà Hà Nội học Nguyễn Vinh Phúc thì: "Từ năm 1883, Paul Burde, phóng viên của Thời Báo (Temps) trong thời gian sống trong một ngôi chùa cạnh hồ Gươm (có lẽ là chùa Báo ân - vị trí ở Bưu điện Hà Nội ngày nay) đã từng tả lại như sau: "Cửa buồng chúng tôi nhìn ra cái hồ nằm duyên dáng giữa lòng Hà Nội. Ngồi ở chỗ chúng tôi mà nhìn cảnh bình minh thì thật là tuyệt vời. Bình minh long lanh một thứ ánh sáng huyền ảo mà các truyện thần tiên gọi là màu của trời, xà cừ đẹp nhất Singapore cũng như những viên ngọc đẹp nhất cũng không thể sánh nổi (...). Xa xa một hòn đảo nữa nhỏ hơn với một cái tháp ba tầng, tác phẩm của một người Hoa buôn bán bánh ngọt nào đó, với những khoang cửa hình cánh cung nhọn theo phong cách gô tích khá bất ngờ ở một chỗ như nơi đây...". Như vậy có thể thấy, từ thời điểm này, các tư liệu lịch sử bắt đầu ghi nhận sự tồn tại của tháp Rùa như một công trình kiến trúc góp vào khung cảnh tuyệt đẹp của hồ Gươm. Tuy nhiên điều đáng tiếc là những ghi chép trên của Paul Burde lại không xác định một cách chính xác lịch sử của tháp Rùa mà chỉ dừng lại ở việc tả cảnh. Tuy nhiên, theo những tài liệu lịch sử nghiên cứu về Hà Nội và hồ Gươm của những tác giả như Hoàng Đạo Thúy, Trần Huy Liệu, Trần Quốc Vượng, Nguyễn Vinh Phúc... cùng những tư liệu in bằng tiếng Pháp đều khẳng định rằng tháp Rùa được một nhân vật có tên là "Bá Hộ Kim" (một người giàu nức tiếng đất Hà Nội thời bấy giờ) hay còn gọi là Bá Kim, Thương Kim xây, chứ không phải như Paul Burde là do một "người Hoa buôn bánh ngọt nào đó". Trong cuốn "Hồ Hoàn Kiếm và đền Ngọc Sơn" tác giả Nguyễn Vinh Phúc đã dẫn ra tập sách Les pagodes de Ha Noi của G. Dumoutier in năm 1887 có đoạn viết: "Giữa hồ có một cái chùa khác. Đó là một công trình bé nhỏ, có nhiều tầng, các vòm cửa hình cánh cung nhọn, công trình này mới có khoảng chục năm nay (Dumoutier viết bài này năm 1886 - N.V.P) nó được xây dựng trên vị trí một ngôi đền nhỏ trước đó thờ thần hồ. Bên trong, trên tường sơn hai chữ Vinh - Bao (tức Vĩnh Bảo - N.VP), đó là tên của viên quan đã xây công trình này. Ông ta trước đây ba năm làm tri phủ Thường Tín, rồi về làm thương biện phủ Hoài Đức, sau dính vào một vụ chính trị nên 1886 bị cách chức và quản thúc tại Hà Nội". Một tài liệu khác là cuốn sách Le vieux Tonkin (Bắc Kỳ cổ) của CL.Bourrin gồm hai tập in vào hai năm 1935 và 1941 có viết: "Tháp Rùa chính tên là Quy Sơn Tháp, xây khoảng 1877. Theo Dumoutier thì do một viên quan tên Vinh - Bao đã đứng xây. Theo Bonnal thì người xây là Ba Ho Kiem (Các văn bản viết bằng chữ Pháp khi viết tên người Việt thường viết theo phiên âm latinh, không có dấu - PV). Công trình này thay cho một ngôi miếu nhỏ thờ thần hồ. Vinh - Bao và Ba Ho Kiem chỉ là một người vì Ba Ho Kiem (đúng ra là Nguyen Huu Kiem) cũng là một viên quan". Như vậy, theo các tài liệu do người Pháp ghi lại thì có thể thấy thể thấy người xây tháp Rùa là Bá Hộ Kim hay Nguyễn Hữu Kim (Nguyen Huu Kiem hay Ba Ho Kiem là do viết chệch). Cho đến thời điểm nào chưa có giả thuyết hay minh chứng nào khác về người xây dựng tháp Rùa trong hồ Gươm. Chính vì thế, trong hầu hết các tài liệu nghiên cứu đều thừa nhận nhân vật Nguyễn Hữu Kim là người đã xây tháp Rùa. “Bản kết tội” Bá Hộ Kim Tuy nhiên cho đến nay chưa có nhiều tài liệu nói cụ thể mục đích của việc ông Nguyễn Hữu Kim khi xây dựng tháp Rùa ngoài một giả thuyết do nhà nghiên cứu Doãn Kế Thiện đưa ra. Trong cuốn "Cổ tích và thắng cảnh Hà Nội" của Doãn Kế Thiện- NXB văn hóa - 1959 - tr.78 đã đề cập đến lai lịch của Tháp Rùa như sau: "Gò Rùa là nơi Chúa Trịnh dựng Tả Vọng Đình để làm nơi nghỉ mát trong mùa hè. Năm 1884 một tên tay sai của thực dân Pháp là Bá Kim hay Thương Kim, tin thuyết phong thủy nói gò này là kiểu đất "vạn đại công khanh", để được hài cốt tiền nhân vào đó, con cháu sẽ muôn đời làm quan cao chức trọng. Bá Kim thèm muốn đất ấy nhưng vì là đất công nên không dám tự tiện. Về sau (bấy giờ chùa Báo ân trên bờ hồ phía đông vẫn còn), y mượn cớ xin với nhà chùa và lấy thế thực dân và bọn Việt gian Nguyễn Hữu Độ, xin tự bỏ tiền nhà xây một ngọn tháp lên Trên Gò Rùa để làm hậu chẩm cho ngôi chùa". Nhà Hà Nội học Nguyễn Vinh PhúcSau đoạn trên, nhà nghiên cứu Doãn Kế Thiện (1891-1965) tiếp tục kể về những toan tính của Bá Kim khi: "Dùng một số tay chân làm thợ nề, dự định ngay đêm hôm khai móng, chờ đến khuya tối giời, đem hài cốt cha mẹ để sẵn trong hai quách nhỏ, ngầm chôn xuống giữa gò, rồi lấp kín, định hôm sau sẽ xây thành nền tháp cao". Tuy nhiên sau đó một điều bất ngờ đã xảy ra là: "Sáng hôm sau, y hớn hở cùng người nhà và thợ nề vừa ra tới gò, thì bỗng kêu giời và ngã ra, hai cái quách gỗ đã bị lật lên từ lúc nào, chỉ còn quách không, hai bộ hài cốt đều không thấy đâu nữa, thì ra đã bị bới lên quăng cả xuống hồ rồi!. Không thực hiện được âm mưu, nhưng đã hứa với mọi người là xây tháp, không thể bỏ được, y đành phải cắn răng tiếp tục làm cho xong việc". Câu chuyện trên được khá nhiều sách ghi chép lại với nội dung tương tự. Ngay cả sách "Lịch sử Thủ đô Hà Nội" của nhóm tác giả do nhà sử học Trần Huy Liệu đứng đầu xuất bản năm 1960 cũng chép y nguyên nội dung của câu chuyện trên. Chính việc làm đó đã khiến cho một câu chuyện mang nhiều yếu tố truyền thuyết dường như nghiễm nhiên được công nhận như một sự thực lịch sử. Và như thế "Bá Hộ Kim" người xây tháp Rùa đã phải mang theo rất nhiều những cái nhìn không được thiện cảm của lịch sử cũng như rất nhiều người dân Hà Nội nói riêng. Tuy nhiên, theo một số nhà nghiên cứu mà PV đã từng tham vấn thì ngay trong bản thân những chi tiết, lập luận trong cuốn sách của nhà nghiên cứu Doãn Kế Thiện có nhiều chỗ mâu thuẫn không rõ ràng. “Tháp Rùa đã trở thành một biểu trưng của hồ Gươm”Tháp Rùa không mang trong mình những lịch sử vẻ vang, không có giá trị kiến trúc, song nó đã trở thành một biểu trưng của hồ Gươm và hơn thế, của cả Hà Nội. Từ trên một trăm năm nay nó đã dần trở nên quen thuộc với người Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng. Thực ra mọi người cũng chẳng tính đến lịch sử và nghệ thuật kiến trúc, chỉ biết tháp Rùa là một bộ phận hữu cơ của hồ Gươm, có hồ là có tháp. Tuy nhiên đối với những người quan tâm đến lịch sử Hà Nội thì biết thêm về lai lịch và kiến trúc tháp cũng có thể là điều không thừa.(Nhà Hà Nội học Nguyễn Vinh Phúc) (Tin tuc) - Bá Hộ Kim (tức Nguyễn Hữu Kim) đã được nhiều học giả khẳng định là người xây tháp Rùa, tuy nhiên những tình tiết về mục đích xây tháp Rùa thì hiện không có nhiều tư liệu.Để làm rõ vấn đề này, trước hết PV đã tham vấn nhiều ý kiến chuyên gia để phân tích thêm về văn bản của nhà nghiên cứu Doãn Kế Thiện cũng như các giả thuyết khác. Tháp Rùa có phải là hậu chẩm của chùa Báo ân Trong cuốn "Lịch sử thủ đô Hà Nội" của nhóm tác giả do nhà sử học Trần Huy Liệu đứng đầu xuất bản năm 1960, tại trang 410 có ghi về tháp Rùa như sau: "Năm 1884, Bá Kim, một tên đại phú, tay sai của thực dân pháp chạy chọt để được sử dụng gò Rùa với mục đích là đem chôn hài cốt của bố mẹ hắn vì cho đây là nơi đất tốt theo thuật phong thủy. Để lừa bịp dư luận, hắn nói trệch ra là xây dựng ở gò một ngọn tháp để làm "gối đằng sau" (hậu chẩm) cho chùa Báo ân lúc đó chưa bị Pháp phá". Một số nhà kiến trúc đã phát hiện kiến trúc tháp Rùa có cấu trúc trùng khít với "tỷ lệ vàng" của một ngôi sao 5 cánhNhững nội dung trên về cơ bản lấy dẫn theo cuốn "Cổ tích và thắng cảnh Hà Nội" của nhà nghiên cứu Doãn Kế Thiện. Thậm chí trong sách của Doãn Kế Thiện còn ghi rõ hơn với chi tiết: "Y (Bá Hộ Kim - PV) mượn cớ xin với nhà chùa và lấy thế thực dân và bọn việt gian Nguyễn Hữu Độ, xin tự bỏ tiền nhà xây một ngọn tháp trên gò Rùa để làm hậu chẩm cho ngôi chùa (...) Khi tháp xây xong tên quan sáu thực dân Pháp ở Đồn Thủy trước lễ khánh thành ở chùa Báo ân, đã cấp bằng khen cho y (...) Tuy nhiên, mỗi khi chúng ta tới thăm hồ, đứng xa trông ngắm, ba chữ Tả Vọng Đình vẫn còn ẩn hiện như để vạch rõ tội trạng của Kim". Trong khuôn khổ bài báo này, chúng tôi không bàn luận đến vấn đề nhân thân cũng như những việc làm liên quan đến chính trị của nhân vật Bá Hộ Kim mà chỉ muốn đặt một số giả thuyết về những "kết tội" trong hai cuốn sách kể trên liên quan đến mục đích xây tháp Rùa. Trong khía cạnh này, những tình tiết mà nhà nghiên cứu Doãn Kế Thiện đưa ra còn nhiều chỗ không thực tế và thiếu logic. Theo nhà Hà Nội học Nguyễn Vinh Phúc, tháp Rùa cao 8,8m, ba tầng một đỉnh, được xây dựng trên một gò đất rộng chừng 350m2. Mặt dài quay nhìn ra hai phía Đông (chùa Báo ân cũ, Bưu điện Hà Nội ngày nay) và Tây (trụ sở báo Hà Nội mới hiện nay), mặt rộng nhìn ra hai phía Bắc và Nam. Tầng một của tháp được xây trên móng cao 0,8m, mặt dài (6,28m) trổ ra ba cửa, mặt rộng (4,54m) mở ra hai cửa, tổng cộng lại là 10 cửa. Đỉnh của các cửa được vuốt nhọn theo lối kiến trúc Gothic. Bên trong tầng này được phân ra làm ba gian, các gian thông với nhau bằng các cửa ngăn đỉnh nhọn. Như vậy tính tổng cộng tầng một có tất cả 14 cửa. Tầng hai cũng "copy" gần như y nguyên tầng một chỉ có điều được xây lùi vào một chút, nhỏ hơn với chiều dài là 4,8m và chiều rộng là 3,64m. Tầng ba thu nhỏ hơn nữa dài 2,97m rộng 1,9m và chỉ mở một cửa hình tròn ở mặt phía đông, đường kính 0,6m. Tầng đỉnh thì được thiết kế tựa như một vọng lâu, và vuông vức với mỗi bề 2m chứ không phải là hình chữ nhật như các tầng dưới, trên mặt phía đông nằm ngay bên trên cửa tròn của tầng ba có ba chữ "Quy Sơn Tháp" tức tháp núi rùa. Mái của tầng này được làm theo kiểu truyền thống với đầu đao uốn cong và rồng chầu mặt Nguyệt. Theo nhà Hà Nội học Nguyễn Vinh Phúc, khi tác giả Doãn Kế Thiện nói rằng “Bá Hộ Kim xây tháp để làm "hậu chẩm" (tức cái gối) cho chùa Báo ân có chỗ còn thiếu logic. Bởi chùa Báo ân trước đây (vị trí của Bưu điện Hà Nội ngày nay - PV) có mặt trước nhìn ra hồ Gươm và phần lưng quay về phía đê sông Hồng. Nếu xét theo nguyên tắc phong thủy, nếu muốn làm gối cho chùa thì phải đặt "cái gối" đó ở vị trí trên đê hoặc một gò nào đó ở phía Đông. Còn gò Rùa với vị trí ngay trước mặt của chùa Báo ân thì chỉ có thể làm minh đường hoặc làm án mà thôi. Xét về hình dáng thì gò Rùa hình tròn, tức hình con kim, như vậy nếu xét theo thuật phong thủy chỉ có thể là "kim tinh tác án" (sao kim làm án) chứ không thể là "hậu chẩm" được". Hơn nữa, tháp Rùa xây năm 1877, thời điểm đó khó có thể có chuyện Bá Hộ Kim "mượn thế lực của tên việt gian Nguyễn Hữu Độ" và "quan sáu Tây cắt băng khánh thành" được. Vì lúc đó Nguyễn Hữu Độ đang là Biện lý bộ Lại ở triều đình Huế (Theo Đại Nam thực lục, bản dịch tập XXXIV, tr.43 - KHXH - 1976) và thời điểm đó thực dân Pháp vẫn chưa chiếm được Hà Nội, chúng mới chỉ đặt một khu lãnh sự ở bờ sông Hồng. Đặc biệt, nếu tác giả Doãn Kế Thiện nói rằng: "Tới thăm hồ, đứng xa trông ngắm ba chữ Tả Vọng Đình vẫn ẩn hiện" thì cũng đúng là câu đó có gia giảm thêm bớt. Nhà Hà Nội học Nguyễn Vinh Phúc lý giải, những người đã từng "mắt thấy, tai nghe, tay sờ” vào tháp Rùa thì khắp bốn mặt tháp cả ngoài lẫn trong đều không có ba chữ Tả Vọng Đình. Chỉ ở mặt Đông, trên tầng đỉnh tháp có ba chữ "Quy Sơn Tháp" nhấn trên tường vôi. Tuy nhiên, nếu muốn nhìn thấy ba chữ trên bằng mắt thường ở thời điểm đó thì dù đứng ở vị trí trên bờ sát mép hồ, căng mắt ra cũng không thể nhìn thấy được. Từ những sự phân tích trên, theo nhà Hà Nội học Nguyễn Vinh Phúc, rất có thể nhà nghiên cứu Doãn Kế Thiện chỉ ghi lại những câu chuyện trong dân gian chứ không phải dựa trên những chứng cứ xác thực về chuyện Bá Hộ Kim xây tháp rùa để táng hài cốt bố mẹ mình vào đó. Tháp Rùa không phải là "tháp mộ" Để làm rõ thêm nghi án, chúng tôi đã tham vấn một số chuyên gia để xem kiến trúc của tháp Rùa có phải được xây dựng theo kiến trúc tháp mộ (giống như tháp mộ ở một số ngôi chùa như chùa Trấn Quốc - Hà Nội, chùa Bổ Đà - Bắc Giang). Vì với tiềm lực kinh tế và "thế lực" (như trong sách của nhà nghiên cứu Doãn Kế Thiện) thì Bá Hộ Kim chắc hẳn phải có sự tính toán nếu có dụng ý riêng? Theo kiến trúc sư Trịnh Văn Vương (Giám đốc công ty kiến trúc CBV, Ba Đình, Hà Nội) tháp Rùa không phải là một công trình tháp theo lối kiến trúc truyền thống mà là sự kết hợp của kiến trúc truyền thống và kiến trúc châu âu thời đó. Tại Việt Nam thời điểm đó cũng đã bắt đầu manh nha những công trình kiến trúc kết hợp giữa hai nền văn hóa Pháp - Việt, mà sau này được kiến trúc sư Emest He'brard - kiến trúc sư hàng đầu của phong cách này gọi là "kiến trúc Đông Dương". Nhà văn hóa Hoàng Đạo Thúy trong cuốn "Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội" cũng viết về kiến trúc tháp Rùa như sau: "Cái Tháp này nhìn mãi cũng quen mắt, nhưng dưới thì cổ lối gotich, trên thì nóc vụn vặt, kiến trúc không ra lối gì". Với những người có chuyên môn chỉ cần nhìn qua một chút đều có thể nhận ra điểm khác lạ trong kiến trúc của Tháp Rùa. Đó là những ô cửa ở hai tầng dưới được vuốt thành hình cánh cung nhọn theo kiểu kiến trúc nhà thờ Goothic. Nhưng bên trên thì lại được chồng lên bởi những hình thức "100% Phương Đông" với đầu đao, rồng lượn. "Có lẽ chính sự kết hợp này khiến nhiều người khó hiểu, cùng với những truyền thuyết xung quanh việc xây tháp đã dẫn đến rất nhiều tranh cãi về việc liệu tháp Rùa được xây với mục đích gì. Xây để làm mộ hay xây để làm tháp"- kiến trúc sư Trịnh Văn Vương nhận định. Nhà Hà Nội học Nguyễn Vinh Phúc cũng khẳng định, qua nghiên cứu so sánh nhiều tư liệu cũng khẳng định tháp Rùa hoàn toàn là một ngôi tháp bình thường chứ không phải là một ngôi tháp mộ. Cho đến nay ngọn tháp này đã trở thành một bộ phận hữu cơ của hồ Gươm, có hồ là có tháp. Và giá trị của tháp là giá trị về văn hóa tâm linh nhiều hơn là giá trị về kiến trúc. Trao đổi với PV, ông Hoàng Anh Thắng - Phó trưởng ban quản lý khu vực hồ Hoàn Kiếm khẳng định: Từ trước đến nay khi nạo vét và cải tạo hồ cũng chưa lần nào thấy có dấu hiệu của việc có di cốt dưới lòng hồ như trong "lịch sử thủ đô Hà Nội" ghi là: "Một bàn tay bí mật đã đào hài cốt của bố mẹ hắn vứt xuống hồ, chỉ còn trơ lại trên đó hai cái quách rỗng". Theo: 24h.com
-
Phụ nữ thật sự muốn gì??? Ngày xửa ngày xưa, đã lâu lắm rồi, có một ngôi làng của bộ tộc Adam sống trong một thung lũng. Tất cả mọi người trong bộ tộc đều lấy tên của bộ tộc để đặt trước tên của mình như một sự tôn vinh, Adam1, Adam2, và cứ thế tăng dần lên... Một ngày nọ, tù trưởng của làng, Adam1, bỗng nẩy ra ý định mình sẽ làm một chuyến phiêu lưu. Anh ta đem theo tất cả những thứ cần thiết, trao quyền tù trưởng cho người bạn thân nhất của mình là Adam2 rồi lên đường. Chuyến phiêu lưu nào cũng đến lúc kết thúc, và Adam1 giờ đây đang trên con đường trở về ngôi làng yêu quí của mình. Gần về đến làng, Adam1 chỉ còn phải đi qua một con đường nhỏ xuyên qua núi. Bỗng nhiên, một con quái vật khủng khiếp nhảy ra ngay trước mặt anh, nói với Adam1 rằng nó sẽ giết chết anh nếu không trả lời được câu đố của nó. Nó nói rằng đây là một câu đố vô cùng khó, hàng trăm hàng ngàn năm nay, những bộ óc siêu việt nhất của loài người cũng không tài nào có câu trả lời đúng, vì thế nó sẽ cho Adam1 thời gian một năm để tìm ra câu trả lời. Quá thời hạn đó nó sẽ tìm đến để giết chết Adam1 (đương nhiên là nó sẽ làm được - quái vật mà) và tiện thể tiêu diệt luôn cả làng của anh ta. Và câu hỏi đó là: “Phụ nữ thật sự muốn gì?”. Đây quả là một câu hỏi quá sức khó đối với Adam1, nhưng không còn cách nào khác, anh đành chấp thuận. Trở về, Adam1 hỏi tất cả mọi người trong làng, nhưng không ai đưa ra được câu trả lời hoàn hảo. Adam1 cũng mời tất cả các nhà thông thái của bộ tộc Adam đến để hỏi, các nhà thông thái tranh cãi với nhau rất lâu, rất lâu mà vẫn không tìm ra được câu trả lời. Cuối cùng họ khuyên Adam1 nên đến hỏi mụ phù thuỷ già sống gần đó, tuy nhiên cái giá phải trả cho mụ thường là rất đắt... Những ngày cuối cùng của thời hạn một năm cũng đã tới gần. Adam1 không còn cách nào khác là đến xin ý kiến của mụ phù thuỷ. Cô ta đồng ý sẽ đưa câu trả lời nhưng với một điều kiện. Đó là cô ta muốn lấy Adam2, vị tù trưởng rất đẹp trai, phong độ và mạnh mẽ của bộ tộc Adam, bạn thân nhất của Adam1. Adam1 thất kinh và nghĩ, nhìn mụ phù thuỷ mà xem, mụ vừa cực kì xấu xí lại vô cùng độc ác. Adam1 chưa từng bao giờ thấy một ai đáng sợ như mụ ta. Không, Adam1 sẽ không để bạn thân của mình phải chịu thiệt thòi đến như vậy. Adam1 cố thuyết phục mụ ta nhưng không, mụ không chấp nhận ai khác ngoài Adam2. Khi biết chuyện, Adam2 đã nói với Adam1 rằng sự hi sinh đó của chàng làm sao có thể so sánh được với sự sống của Adam1 và sự tồn tại của ngôi làng yêu quý. Và Adam2 quyết định hy sinh. Cuộc hôn nhân được chấp thuận và Adam1 cũng nhận được câu trả lời. Điều phụ nữ thật sự muốn đó là: “Có thể tự quyết định lấy cuộc sống của mình“. Ngay lập tức tất cả mọi người đều nhận ra rằng mụ ta vừa thốt ra một chân lý. Adam1 của họ nhất định sẽ được cứu. Quả thật con quái vật khủng khiếp nọ đã rất hài lòng với câu trả lời và giải thoát cho Adam1 khỏi cái án tử hình kia. Sau đó tất nhiên là đám cưới của mụ phù thủy và Adam2. Tưởng chừng như không có gì có thể khiến Adam1 hối hận và đau khổ hơn nữa vì đã để cho bạn mình phải hy sinh như vậy. Tuy nhiên chàng tù trưởng Adam2 của chúng ta vẫn cư xử hết sức chừng mực và lịch sự.. Đêm tân hôn, Adam2 thu hết can đảm bước vào động phòng. Nhưng, gì thế này? Trong phòng không phải là mụ phù thủy già nua xấu xí mà là một cô gái vô cùng xinh đẹp đợi chàng tự bao giờ. Nhận thấy sự ngạc nhiên trên nét mặt chàng, mụ phù thuỷ từ tốn giải thích là vì chàng rất tốt với cô lúc cô là phù thuỷ nên để thưởng cho chàng, cô sẽ trở thành một người xinh đẹp dễ mến đối với chàng trong một nửa thời gian của ngày. Vấn đề là chàng phải lựa chọn hình ảnh của nàng vào ban ngày và ban đêm. Chao ôi sao mà khó thế? Adam2 bắt đầu cân nhắc: Ban ngày nếu nàng là một cô gái xinh đẹp thì ta có thể vênh mặt, ưỡn ngực tự hào cùng nàng đi khắp nơi cùng anh em, nhưng ban đêm làm sao mà chịu cho nổi? Hay là ngược lại nhỉ, cứ để nàng ta xấu xí trước mặt mọi người đi, còn khi màn đêm buông xuống ta sẽ tận hưởng thiên đường cùng nàng công chúa kiều diễm kia? Adam2 đã nghĩ ra câu trả lời cho mình, trước khi nhìn xuống dưới, nếu bạn là 1 Adam, bạn cũng nên có câu trả lời, ai mà biết được liệu bạn có rơi vào tình huống này hay không? Adam2 đã bảo mụ phù thuỷ hãy "tự quyết định lấy số phận của mình". Tất nhiên câu trả lời này đã làm cho mụ phù thuỷ đội lốt cô nàng xinh đẹp kia hài lòng và nàng ta nói rằng nàng ta sẽ hóa thân thành một cô nương xinh đẹp suốt đời. Đó là phần thưởng cho người biết tôn trọng ý kiến của phụ nữ. Vậy bài học rút ra từ câu chuyện này là gì? Như Adam2 sau này vẫn nói đi nói lại với con cháu... Vợ bạn đẹp hay xấu điều đó không quan trọng, vì từ sâu bên trong cô ta vẫn là một mụ phù thuỷ. St
-
"Anh chả bao giờ mệt cả". Thật tội nghiệp cho trâu già ham gặm cỏ non
-
Việc gởi tiền tiết kiệm vào ngân hàng luôn căn cứ theo CMND, là cơ sở pháp lý. Cái chính là phải xác định nguồn gốc của tiền từ đâu ra. Bản thân Huệ Tịnh đã đi tu không làm ra thu nhập thì khả năng tiền này là của các Phật tử cúng, thì trả lại cho chùa. Ngược laị, gia đình của Huệ Tịnh là giàu có hoặc có thu nhập chứng minh là cho Huệ Tịnh, thì trả lại gia đình. Về mặt pháp lý nói chung, thì tiền này là của cá nhân Đỗ Thị Thiềng và phải giải quyết thừa kế theo luật. Cái chính làm sao cho tốt đời, đẹp đạo đây
-
Việc chọn ông Kiết làm linh vật thì ok rôì. Còn trường này có đạt tầm cỡ to lớn như nữ doanh nhân phát biểu hay không thì còn phải chờ xem http://diendan.lyhocdongphuong.org.vn/public/style_emoticons/default/crying.gif
-
Kịch bản kinh tế Việt Nam 2011 Tại báo cáo trình lên thường trực Chính phủ trong kỳ họp tháng 8 vừa qua, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã dựng lên một kịch bản khá sáng sủa cho tăng trưởng năm 2011 của Việt Nam, với mức tăng GDP từ 7-7,5% so với năm 2010. Tại báo cáo trình lên thường trực Chính phủ trong kỳ họp tháng 8 vừa qua, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã dựng lên một kịch bản khá sáng sủa cho tăng trưởng năm 2011 của Việt Nam, với mức tăng GDP từ 7-7,5% so với năm 2010. Ở kịch bản này, các ngành kinh tế trọng điểm đều tăng mức đóng góp vào tăng trưởng chung. Cụ thể, giá trị tăng thêm khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản dự kiến tăng 2,8-3%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 7,5-8,2%; khu vực dịch vụ tăng 8,2-8,5%, trong khi con số tương ứng của năm 2010 dự kiến là 2,6%; 7,6% và 7,5%. Hơn thế, những giả định về lạm phát bình quân năm chỉ tăng dưới 8%, tỷ giá VND/USD ở mức 20 nghìn đồng/USD cho cảm nhận khá ổn về tình hình kinh tế. Tuy nhiên, nhìn trên một số cán cân vĩ mô lớn, vẫn có những vấn đề còn đáng lưu ý. Bội chi ngân sách khoảng 5,5% GDP Liên quan đến chính sách tài khóa, Bộ Kế hoạch và Đầu tư dự kiến, tổng thu ngân sách nhà nước năm 2011 khoảng 612,1 nghìn tỷ đồng, tăng 16,7% so với ước thực hiện năm 2010 và bằng khoảng 26,7% GDP. Chỉ tiêu này tuy đã thấp hơn mức 28% GDP của năm 2010 nhưng lại chủ yếu dồn vào tăng thu nội địa (trong đó có thu từ doanh nghiệp, người thu nhập cao…), giảm thu từ dầu thô, thu viện trợ không hoàn lại và tăng thấp hơn ở thu xuất nhập khẩu. Tổng chi ngân sách nhà nước dự kiến khoảng 735 nghìn tỷ đồng, tăng 17,5% so với thực hiện năm 2010, cao hơn so với mức tăng chi ngân sách tương ứng. Nếu tính cả phần chuyển nguồn từ năm 2010 sang năm 2011, dự kiến khoảng 22 nghìn tỷ đồng, bội chi ngân sách nhà nước năm tới vào khoảng 123,4 nghìn tỷ đồng, bằng khoảng 5,5% GDP, báo cáo cho biết. Như vậy, bội chi ngân sách so với GDP năm 2011 đã giảm hơn so với mức khoảng 6% của năm 2010, tuy vẫn còn khá cao so với mục tiêu khống chế bội chi ngân sách dưới 5% của cả thời kỳ. Phần bội chi này thường được bù đắp bởi vay ODA từ các nhà tài trợ, phát hành trái phiếu… Trong bối cảnh lãi suất các khoản vay ODA đang tăng lên, cùng với gánh nặng nợ nước ngoài đã khá lớn thì bội chi ngân sách cao không có lợi. Đầu tư vượt xa tiết kiệm Theo báo cáo, tổng vốn đầu tư toàn xã hội năm 2011 vào khoảng 930 nghìn tỷ đồng, tăng 16,3% so với ước thực hiện năm 2010 và bằng khoảng 41-41,5% GDP, tương đương với chỉ tiêu này của năm 2010. Tuy nhiên, so với tiết kiệm của nền kinh tế đang giảm đi, từ mức 30,4% GDP của con số ước thực hiện năm 2010 xuống mức 27,9-27,6% GDP dự kiến kế hoạch 2011, chi đầu tư đang đè nặng lên khả năng chịu đựng của nền kinh tế. Bù đắp cho mất cân đối này, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài dự kiến sẽ tăng 15,5% trong năm 2011, tương đương với 198,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 21,4% tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội. Trong khi đó, đối tượng doanh nghiệp và người dân (người có thu nhập cao) đối mặt với khả năng phải nộp ngân sách nhiều hơn, được “áp” mức tăng đầu tư 9,5% với doanh nghiệp nhà nước, tương đương 72,4 nghìn tỷ đồng; tăng 37,9% với doanh nghiệp ngoài nhà nước và dân cư, tương đương 344 nghìn tỷ đồng. Vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước trong năm 2011 dự kiến khoảng 65 nghìn tỷ đồng, tăng tới gần 18,2% so với ước thực hiện năm 2010. Như vậy, có thể thấy tăng trưởng của nền kinh tế vẫn dựa chủ yếu vào tăng vốn. Nhập siêu khoảng 14,5 tỷ USD Với lĩnh vực thương mại quốc tế, báo cáo tỏ ra thận trọng hơn trước những diễn biến chưa mấy lạc quan của thế giới. Sau con số ước tính tăng trưởng xuất khẩu khoảng 18,2% và nhập khẩu khoảng 16,5%, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho rằng hai chỉ tiêu này trong năm 2011 sẽ chỉ quanh mức tăng 10%. Dự kiến, tổng kim ngạch xuất khẩu năm tới đạt khoảng 74,25 tỷ USD, tăng 10% so với năm 2010; kim ngạch nhập khẩu đạt khoảng 88,8 tỷ USD, tăng tương ứng 9%. Nhập siêu năm 2011 dự kiến khoảng 14,5 tỷ USD, bằng 19,6% tổng kim ngạch xuất khẩu. Như vậy, thâm hụt thương mại trong năm 2011 đã cao hơn so với ước thực hiện năm 2010. Nhập siêu duy trì ở mức cao trong bối cảnh cán cân thanh toán của Việt Nam có khả năng thâm hụt liên tiếp 2 năm 2009 và 2010, ở mức 8,8 tỷ USD và 4 tỷ USD, chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến tỷ giá VND/USD ở những thời điểm nhất định, theo sau có thể là lạm phát và tăng lãi suất ngân hàng. Cán cân thanh toán có thể thặng dư 500 triệu USD Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho rằng, cán cân vãng lai năm 2011 có khả năng thâm hụt khoảng 10,9 tỷ USD do cán cân thương mại thâm hụt khoảng 9,51 tỷ USD, dịch vụ thâm hụt 1,75 tỷ USD, thu nhập đầu tư thâm hụt 5,12 tỷ USD và chuyển tiền thặng dư 5,5 tỷ USD. Số thâm hụt này được bù đắp bởi thặng dư trong cán cân vốn 11,8 tỷ USD, dẫn tới cán cân thanh toán tổng thể có khả năng thặng dư 500 triệu USD trong năm tới, báo cáo cho biết. Tuy nhiên, một số ý kiến gần đây cho rằng, việc tính đầu tư gián tiếp vào cán cân thanh toán như hiện nay là không hợp lý do tính bất ổn định của dòng tiền này. Ngoài ra, thu nhập đầu tư tăng mức thâm hụt cũng cho thấy trách nhiệm trả nợ nặng nề hơn và có thể một phần lợi nhuận của nhà đầu tư nước ngoài không được tái đầu tư ở trong nước mà chuyển ra khỏi Việt Nam. Cân đối điện mong manh Để đạt mức tăng trưởng GDP 7-7,5%, nhu cầu về điện năm 2011 dự báo sẽ tăng khoảng 14-15%, tương đương điện thương phẩm đạt khoảng 97 tỷ KWh, điện sản xuất và nhập khẩu khoảng 110,5 tỷ KWh. Như vậy, công suất dự kiến hết năm 2010 là 10.295 MW, trong đó thủy điện là 8.158 MW; nhiệt điện 11.437 MW. Công suất dự kiến tăng thêm năm 2011 vào khoảng 4.585 MW, trong đó nhiệt điện là 1.680 MW, thủy điện 2.905 MW. Cũng trong năm 2011, Việt Nam sẽ phải tính đến khả năng nhập khẩu điện từ Trung Quốc khoảng 700 MW và Lào khoảng 250 MW để bù đắp phần thiếu hụt từ sản xuất trong nước. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong điều kiện thủy văn bình thường, ít ảnh hưởng đến các nhà máy thủy điện và nhập khẩu điện theo đúng dự kiến thì khả năng có thể đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế. Tuy nhiên, phương án tính toán cân đối điện năm 2011 là rất mong manh nếu chỉ một dự án nguồn điện chậm tiến độ, hoặc thời tiết không thuận lợi, bộ này nhận định. Theo VnEconomy ====================================================================== Bài đăng ở trên theo các nguồn từ nước ngoài, chúng ta xem nguồn tin trong nuớc nhé.
-
Nha khoa thời... chứng khoán Chứng khoán đi vào đời sống ở nơi nơi... Một ngạc nhiên thú vị khi bước vào phòng khám nha khoa thì bắt gặp ngay hai hàng thông tin chứng khoán bằng cả tiếng Việt và tiếng Anh trên cửa. Miễn phí: Thông tin chứng khoán :lol: st ======================================================================================= Đúng là đại tiện, vừa khám răng, vừa được tư vấn chứng khoán
-
Tiếp theoNốt ruồi trên mặt ĐÀN ÔNG Hình 2 cho thấy trên khuôn mặt một người đàn ông thường hiện ra khoảng 41 nốt ruồi tại những nơi sau : 1- Hại cha mẹ, 2- Thích làm quan, 3- Làm quan to, 4- Chết vì tai nạn, 5- Không hợp nghề võ, 6- Số mất của, 7- Cuộc sống đầy phiền não, 8- Đi sông biển hãy coi chừng, 9- Mọi sự hanh thông, 10- Chuyện làm ăn hay gặp thất bại. 11- Quý tướng,12- Giàu có, 13 – Có địa vị̣, 14- Không nên đi sông biển, 15- Không tốt , 16 – Tán tài, 17- Sát thê, 18- Ít con, 19- Hay tủi thân, 20- Mất cha. 21- Khổ vì vợ, 22- Mê cờ bạc nên tự hại mình, 23- Điềm con cái mất trước cha, 24- Tuyệt tự, 25- Ít con cái, 26- Xảo quyệt, 27- Thường gặp tai nạn, 28- Khi chết xa quê hương, 29- Không nên nuôi thú vật, 30- Ách giữa đàng mang vào cổ. 31- Gặp tai nạn từ sông nước, 32- Có của hoạnh tài, 33- Thông minh, lanh lẹ, 34- Thường rượu chè say sưa, 35 Gặp chuyện tốt đẹp, 36- Người hiền lành, 37- Số làm quan to (nếu ẩn dưới cằm), 38 – 39 – 40 và 41 đều tốt mọi sự (nếu nốt ruồi son, hay ẩn được hưởng phúc đức ba đời). Xem thêm: 95 nốt ruồi trên mặt đàn ông Nốt ruồi trên mặt PHỤ NỮHình 3 là khuôn mặt một phụ nữ, có 43 nốt ruồi được diễn giải như sau : 1- Số làm mệnh phụ, 2- Thường chán chồng nhưng không đi tìm của lạ, 3- Hại cha mẹ, 4- Không người phục dịch, 5- Có từ hai đời chồng, sanh con ít, 6- Hại người thân, 7, 15, 19, 27.37-Hại chồng, 8- Chết xa nhà, 9- Bị chồng phụ tình bỏ rơi, 10- Sanh khó. 11- Có tài lộc, 12- Chồng thường xa nhà, 13, 17- Vượng phu ích tử, 14- Số có “thiên la địa võng” giăng coi chừng tù tội, 16- Tay làm hàm nhai, 18- Được nhờ con, 20- Sống thọ. 21- Bị cướp giật nhiều lần, 22- Gặp nhiều việc tốt, 23- Tính lăn loàn, 24- Sanh ít con, 25- Mới sinh ra thường hay bệnh, 26- Mọi việc thất bại,28- Số sát phu, tình duyên lận đận, 29- Hiếu thảo với cha mẹ, hay giúp đỡ anh chị em, 30- Biết nhường nhịn chồng con. 31- Có tư tưởng tự tử, 32- Hay ganh tỵ với kẻ khác, 33, 41- Đề phòng tai nạn đường sông nước, 34- Có số sinh đôi, sinh ba, 35- Có hư thai, 36- Tai tiếng thị phi, 38- Đày đọa đầy tớ vì ghen tuông, 39- Gặp tai nạn tại nhà, 40- Hay bệnh hoạn, 42- Sát Phu và 43- Khôn vặt. Địa điểm các nốt ruồi mọc còn rất nhiều nơi trên thân thể, các sách cổ tướng học có ghi : - Lưu Bang (nhà tiền Hán) có đến 72 nốt ruồi đen mọc nơi đùi trái, nên từ kẻ thất học trở thành Hoàng đế nước Trung Hoa sau thời kỳ Tần Thủy Hoàng. - Tướng An Lộc Sơn thời nhà Đường, dưới lòng bàn chân đều có nốt ruồi đen. Trở thành tướng tài nhưng cũng lụy vì tình mà chết dưới chân Dương Quý Phi. - Võ Tắc Thiên hậu Chu, người phụ nữ đầu tiên của nước Trung Hoa, nắm giang sơn xã tắc trong nhiều năm dài là nhờ có 7 nốt ruồi son mọc bên sườn trái (có sách nói bên vú trái). Có một số nốt ruồi mọc nhưng trong sách tướng pháp ít không nói đến, tuy vậy các nhà tướng số vẫn đưa ra những lời giải thích : Nốt ruồi mọc ở Cao Quảng số hại cha mẹ; ở Phụ giác, Kiếp môn, Hổ giác chủ về chết trận, chết vì gươm đao, tên bay đạn lạc; ở Biên địa, Xích dương, Ngư vĩ chủ về chết đường chết chợ; ở Sơn lâm, Thanh lộ đi đường bị súc vật làm tổn hại thân thể; ở Thái dương chủ về số có chồng hay vợ chung thủy, giàu sang; ở Phu tòa, Thuê tòa chồng hay vợ chết sớm; ở Trưởng nam, trung nam và thứ nam cha mẹ khắc con trưởng, con thứ; ở Kim quỹ gặp tán gia bại sản; ở Thượng mộ mất chức quyền; ở Học đường là người thất học; ở Mạng môn chủ về hỏa tai đề phòng cháy nổ v.v… st
-
Với vị trí này thì thường gặp tai nạn cẩn thận
-
Người Lô Lô sống ở cực bắc Tổ quốc hiện nay là một trong rất ít tộc người ở Việt Nam còn diễn tấu trống đồng, với âm thanh của những chiếc trống cổ có niên đại hàng ngàn năm cùng những vũ điệu nguyên sơ huyền thoại. Đó là những báu vật, những khúc dân ca dân vũ nghi lễ mang đậm yếu tố linh thiêng, mà người Lô Lô chỉ trình diễn trong các dịp quan trọng của cư dân cộng đồng, không phải ai mong muốn cũng có được cơ hội một lần được chiêm ngưỡng. Nguyên sơ đất, người và trống Chúng tôi tìm đến Lô Lô Chải, bản nhỏ với hơn 100 nóc nhà (96 hộ dân, 492 nhân khẩu) của 5 dòng họ Vàng, Dìu, Sình, Lù, Mùng người Lô Lô Hoa quần tụ trong thung lũng Thèn Pả (xã Lũng Cú, huyện Đồng Văn, Hà Giang). Bản Lô Lô nằm giáp con sông Nho Quế có 8 km tụ thủy, cùng 8 km đường biên trên bộ, giáp với Trung Quốc. Theo khẳng định của Thiếu úy Lý Mý Dình, Trạm trưởng Trạm Biên phòng Lũng Cú và cả công an viên Vàng Dỉ Tình, ở Lô Lô Chải lâu lâu cũng có mất trộm vài con gia súc nuôi thả trong rừng, nhưng thực chất rất bình yên, chưa phát hiện có dấu hiệu của tệ nạn ma túy, người dân rất tự nguyện, tích cực cùng chính quyền tham gia phong trào tự quản đường biên. Ở vùng đất địa đầu của dải đất hình chữ S, người Lô Lô tự hào là cư dân chủ nhân sinh sống tới hơn ngàn năm nay (các sử liệu cho rằng họ đã định cư tại Đồng Văn từ thế kỷ X, trước khi Thái úy Lý Thường Kiệt cho dựng cột cờ Lũng Cú). Tôn trọng người có công khai khẩn, hiện nay ở vùng Cao Bằng, Hà Giang, Lào Cai là địa bàn cư trú lâu đời của người Lô Lô, những cư dân đến sau là người Tày, Mông vẫn còn tục lệ cúng ma Lô Lô. Thung lũng rộng rãi và duy nhất của Đồng Văn có cái tên nhiều nguồn gốc: Lũng Cú. Theo lời cô hướng dẫn viên du lịch Đặng Thị Thanh thuộc Trung tâm Văn hóa huyện Đồng Văn nói, trên đỉnh cột cờ Lũng Cú, cái tên này có nguồn gốc từ hai chữ Long Cư (nghĩa là nơi rồng ở). Rồng vốn ở đất này, khi bay về trời thì thương dân đói khổ do thiếu đất, thiếu nước, nên để lại đôi mắt là hai chiếc hồ bán nguyệt hai bên cột cờ Lũng Cú hiện nay. Sử sách lại ghi nhận một giả thiết khác, rằng sau khi đại phá quân Thanh, Hoàng đế Quang Trung cho đặt tại nơi biên ải hiểm trở này một chiếc trống lớn tại vị trí trạm biên phòng Lũng Cú bây giờ, để nhanh chóng truyền tin về kinh thành khi có giặc xâm lấn. Từ đó người ta gọi vùng đất chót cùng nơi cực Bắc này là Long Cổ (tức là trống rồng, trống của vua), sau đọc chệch ra thành Lũng Cú. Trong câu chuyện trao đổi với ông Lương Đình Nhất, Trưởng phòng Văn hóa huyện Đồng Văn, chúng tôi lại có thêm giả thuyết về địa danh này, Lũng Cú là tên người thủ lĩnh Lô Lô ngàn năm trước có công khai khẩn vùng đất. Nhưng cái tên mộc mạc "thung lũng ngô" có lẽ là hợp ý nhất, vì nơi thung lũng Thèn Pả này vốn là một vựa ngô. Và nữa, nếu cứ chiết tự chữ "Lũng" thành "Long" cho gắn với rồng, với vương quyền, thì khắp miền núi phía Bắc này, với hàng trăm địa danh có chữ Lũng như Lũng Lô, Lũng Cò, Lũng Vài, Lũng Cao, Lũng Niêm... thì sao rồng và vua có mặt ở khắp nơi vậy? Những cư dân đầu tiên của vùng đất còn truyền kể cho con cháu nghe nhiều huyền thoại khác. Rằng loài người sinh sôi nảy nở nhiều quá khiến cho loài rồng không còn chỗ ở. Rồng bèn làm phép dâng nước ngập đến trời để giết hết người. Nhưng có hai anh em nhà nọ được một vị thần báo mộng, đã chui vào đôi trống đồng nên thoát chết. Hai anh em sau này phải lấy nhau để sinh con đẻ cái cứu lấy loài người. Nhưng họ chỉ sinh ra một bọc thịt, nên người chồng đau khổ đã đem dao chặt cái bọc ra thành hàng trăm mảnh vứt đi. Kỳ lạ thay, mỗi mảnh bọc đó lại biến thành người, rồi sinh sôi đông đúc thành loài người ngày nay. Nơi thịt vướng vào gốc đào thì có họ Đào, vướng vào gốc mía mang họ Thàng (tức là mía ngọt), gốc lê mang họ Lý (Lê)... và từ đây loài người đi khắp nơi. Và cũng từ đó, người Lô Lô cất giữ trống đồng ở nơi linh thiêng nhất, chỉ khi người thân mất đi thì mới mang trống ra, đánh lên vang vọng để tiễn đưa linh hồn người đó siêu thoát lên trời, về với tổ tiên. Trống đồng cổ của người Lô Lô Chải. Gìn giữ tiếng trống truyền kỳ 24 tuổi, chàng thanh niên Vàng Dỉ Toán đã là Đội trưởng Đội văn nghệ dân gian Lô Lô. Nhiều năm nay, đội văn nghệ học hỏi từ người già các ca khúc, vũ điệu phục vụ nghi lễ cộng đồng, nghi lễ vòng đời mang đậm bản sắc văn hóa Lô Lô để diễn tấu tại thôn bản mỗi khi có dịp. Vàng Dỉ Toán cho biết: "Màn trình diễn độc đáo nhất của người Lô Lô chính là các vũ điệu trống đồng. Không rõ ngày xưa các cụ có bao nhiêu vũ điệu, nhưng chúng tôi được truyền dạy và hiện nay thường xuyên trình diễn 12 vũ điệu thôi. Gần đây, chúng tôi có tham gia các hoạt động văn hóa của Hà Giang, và những vũ điệu trống đồng của chúng tôi được hoan nghênh rất nhiều, nhưng chưa có dịp nào được về Hà Nội trình diễn". Cứ nhìn ánh mắt hấp háy và nghe giọng nói nhiệt huyết, đủ biết Vàng Dỉ Toán tự hào về vai trò của mình lắm. Ở Lô Lô Chải luôn ăm ắp lời ca tiếng hát, trẻ lên 10 đã hát dân ca lảnh lót, đã uyển chuyển với các vũ điệu. Tiêu chuẩn tuyển chọn người tham gia đội ca múa rất gắt gao: Phải là người hát hay nhất, nhảy đẹp nhất. Và quan trọng hơn nữa, người đánh trống phải là những người đàn ông chưa vợ và nếu có vợ thì vợ phải không trong thời kỳ mang thai, những người tham gia trong các vũ điệu thì trai phải còn tân và gái trinh nguyên thì mới may mắn được tham gia vào các nghi lễ cầu cúng trời đất, tổ tiên. Tiến sĩ Hoàng Sơn, Phó Viện trưởng Viện Văn hóa thông tin, là người từng được chứng kiến vũ điệu trống đồng trong một cơ duyên tình cờ gặp lễ cúng tổ tiên của người dân Lô Lô Chải. "Cúng tổ tiên là một nghi lễ quan trọng được người Lô Lô gìn giữ từ nhiều đời nay. Người Lô Lô luôn có một khu rừng cấm, được bảo vệ nghiêm ngặt để giữ nguồn nước, và là nơi để linh hồn tổ tiên cư ngụ. Họ thường tiếp xúc với tổ tiên mình bằng cách chọn lựa rồi cho một đoàn người vào rừng cấm, mình quấn rêu cỏ ngà lu ngan quanh mình, đeo mặt nạ làm từ vỏ tre hoặc mo cau. Những người khoác trên mình trang phục đó được người Lô Lô mặc định chính là tổ tiên của mình. Ngay từ sáng sớm, cả bản đã tụ tập trước cửa rừng, trang nghiêm thành kính chờ đợi tổ tiên. Từ trong rừng, đoàn người thiêng (tổ tiên) vừa múa vừa hát đi ra, rồi nhanh chóng hòa nhập vào dân bản cùng những vũ điệu hoành tráng, đẹp mắt theo tiết tấu trống đồng. Họ cùng ăn xôi, uống rượu, đánh trống đồng, múa hát, trò chuyện với nhau, xóa hết khoảng cách giữa người sống và người đã khuất. Không ai được cố tình tìm cách xem mặt người thiêng, và tổ tiên chỉ thực sự trở lại thành người thường khi buổi lễ tan, đoàn người đã trở về rừng cấm trút bỏ trang phục nghi lễ của mình" - Tiến sĩ Hoàng Sơn cho biết. Trống đồng cổ mà người Lô Lô Chải sử dụng chính là loại trống đồng Đông Sơn có niên đại hàng ngàn năm trước. Không ai trả lời được từ bao giờ người Lô Lô có trống đồng và coi trống đồng là vật thiêng trong tâm thức, vì khắp các huyền thoại và sử liệu, chưa thấy dấu hiệu nào chứng tỏ người Lô Lô có nghề đúc đồng. Anh Vàng Dỉ Gai, Trưởng bản Lô Lô Chải cho biết: "Hiện nay ở bản chỉ còn hai chiếc trống đồng cổ, là một cặp trống đực cái, do hai gia đình anh Vàng Dỉ Chánh (46 tuổi) và anh Vàng Dỉ Khuôn (48 tuổi) cất giữ. Chúng chỉ được lấy ra dùng trong dịp lễ tết hoặc tang ma. Trống nhà anh Chánh là trống đực (dương), đường kính mặt khoảng 50 cm, đã mòn vẹt hết cả chân trống rồi, nhưng hoa văn còn rõ đẹp lắm. Trống nhà anh Khuôn là trống cái (âm), to hơn, đường kính mặt khoảng 70 cm. Trước đây ở Lô Lô Chải có cả chục đôi trống như vậy, đánh lên để cả bản ca múa, nhưng thất lạc hết rồi, chỉ còn một cặp duy nhất". Lô Lô Chải nhìn từ cột cờ Lũng Cú. Hầu hết thanh niên Lô Lô Chải đều biết hát và múa với trống đồng. Vàng Dỉ Dích là 1 trong 3 người hội đủ tiêu chuẩn cầm dùi gõ nhịp và diễn tấu được tất cả những tiết tấu trống còn lại của người Lô Lô. Vàng Dỉ Dích bảo: "Khi đánh trống, hai chiếc trống đồng sẽ được treo cao lên, hướng mặt trống vào nhau. Tôi sẽ cầm chiếc dùi dài và to, là cây gỗ gọt thuôn hai đầu để đánh. Các vũ điệu sẽ được đội múa gồm từng cặp 3 nam 3 nữ, hoặc 4 nam 4 nữ... thể hiện, tùy theo quy mô của buổi lễ. Nhóm nữ gồm các chị Dìu Thị Xúi, Sình Thị Khuyên, Vàng Thị Xuyến... nhóm nam gồm Lù Dỉ Biến, Vàng Dỉ Tú, Vàng Dỉ Toán... Mỗi vũ điệu thường kéo dài 30 phút, được diễn tấu suốt ngày đêm, mỗi lần chuyển vũ điệu chỉ kịp nghỉ chừng dăm phút, đủ thời gian uống vội một đôi chén trà. Gần đây, tỉnh Hà Giang và huyện Đồng Văn có bổ sung thêm cho bản một số trống đồng mới, nhưng chúng tôi chỉ dùng trong các dịp lưu diễn, liên hoan văn hóa văn nghệ thôi, còn các nghi lễ dân gian đều dùng trống cổ". Người Lô Lô diễn tấu với một chiếc dùi to gõ vào hai mặt trống âm dương, theo tiết tấu và nhịp điệu riêng, khác hẳn tiếng trống "khua luống" của người Mường dịp lễ hội Đền Hùng, hay tiếng giàn trống đồng đại lễ của người Kinh... Điều đó càng tạo nên nét phong phú, đa dạng cho nền văn hóa Việt Nam giàu bản sắc. Với đôi trống âm dương tiếng trầm tiếng bổng, các điệu dân ca dân vũ thăng hoa trong không gian linh thiêng, người Lô Lô Chải có những thời khắc giao hòa được cùng trời đất, tổ tiên, nghe được tiếng gọi trách nhiệm phồn thực của cộng đồng chỉ có hơn 3.000 cư dân trên đất Việt. Cũng phải thôi, ngay như chiếc áo truyền thống với rất nhiều hoa văn đặc sắc cho người sống và bắt buộc cho người về với tổ tiên, không thể thiếu hoa văn hình tam giác, biểu tượng của phồn thực, sự duy trì giống nòi của dân tộc Lô Lô nguon:CAND
-
Mới đây, trên một tờ báo, doanh nhân Đào Hồng Tuyển đưa ra tuyên bố rằng: Ông đang có tổng tài sản lên tới 2 tỷ USD. Cho biết mình sở hữu 14 công ty, 34 nhà máy, ông "chúa đảo" Tuần Châu cũng cho biết bí quyết làm nên 2 tỷ USD của ông, đó là “không làm những cái mà thiên hạ đã làm”, và “làm những cái mà thiên hạ không làm, hoặc những cái mà thiên hạ nghĩ đến, nhưng không làm được”. Ông Đào Hồng Tuyển.Chưa rõ động cơ của việc công bố thông tin này, nhưng câu chuyện về tỷ phú USD của Việt Nam rõ ràng có quá nhiều điều để nói, nhất là vào thời điểm kỷ niệm 10 năm ban hành Luật Doanh nghiệp, văn bản mở đường cho sự hình thành và phát triển các doanh nghiệp tư nhân, những nền tảng ban đầu cho sự xuất hiện các tỷ phú thực sự.Về mặt chính thức, thế giới coi danh sách của tạp chí Forbes (Mỹ) là tham khảo đáng kể nhất khi đánh giá độ giàu có của các cá nhân. Cũng có những xếp hạng khác, song về độ nổi tiếng và được thừa nhận rộng khắp thì Forbes vẫn đang dẫn đầu. Vấn đề là, Forbes không đánh giá theo phát biểu cá nhân của bất kỳ ai, mà dựa vào một hệ thống tiêu chí cụ thể. Quan trọng nhất vẫn là lượng cổ phiếu mà các cá nhân nắm giữ tại các doanh nghiệp cũng như các tài sản được công khai và có đóng thuế. Bảng xếp hạng của năm 2011 chưa được Forbes công bố, nên bảng xếp hạng 2010 có thể coi là một tham khảo đáng chú ý. Theo Forbes, số lượng tỷ phú trong năm 2010 là 1.011 người với tổng tài sản của nhóm là 3,6 nghìn tỷ USD. Trong số này, khu vực châu Á - Thái Bình Dương có 234 tỷ phú tăng đáng kể so với con số 130 người của năm 2009, nhưng trong đó, tuyệt nhiên không có người Việt Nam nào. Trong nỗ lực xây dựng bức tranh chung về người giàu Việt Nam, một số tờ báo trong nước gần đây đã tích cực khảo sát và công bố danh sách người giàu hàng năm, dựa trên lượng cổ phiếu. Năm 2010, tổng cộng đã có 13 người có lượng tài sản trên 1.000 tỷ đồng; trong đó, hai ông Phạm Nhật Vượng và Đoàn Nguyên Đức sở hữu trên 10.000 tỷ đồng. Tuy nhiên, ông tài sản của ông Vượng (15.776 tỷ đồng) và ông Đức (11.879 tỷ đồng) về mặt chính thức chưa đạt đến con số 1 tỷ USD, mà theo tỷ giá hiện tại lên tới khoảng 21 ngàn tỷ đồng. Nhưng nếu đặt câu hỏi liệu Việt Nam đã có tỷ phú USD hay chưa, câu trả lời không chính thức của các doanh nhân lại là “có”. Vì nhiều lý do khác nhau, có nhiều tỷ phú vẫn đang giấu mặt với tài sản rất lớn đang “ẩn mình” trong bất động sản. Năm 2003, trong một báo cáo của mình, Ngân hàng Thế giới (WB) đánh giá rằng kinh tế ngầm đang chiếm tới 50% GDP của Việt Nam. Trong bối cảnh kinh tế ngầm chi phối và việc kê khai tài sản vẫn chỉ là hình thức, việc có những người có tài sản tỷ USD nhưng chưa xuất hiện cũng là bình thường. “Forbes ơi, mở ra…” Phát biểu của ông Tuyển đáng được coi là một sự dũng cảm trong bối cảnh thông tin về tài sản cá nhân vẫn còn “tù mù” như hiện nay. Dũng cảm là bởi, trong khi hầu hết các doanh nhân kín tiếng với tài sản của mình, ông Tuyển cho thấy sự tự tin và tự hào về thành quả kinh doanh của mình, điều mà chúng ta mới chỉ được thấy ở các tỷ phú của thế giới. Cho dù, ông có 2 tỷ USD hay không và bao giờ thì Forbes công nhận điều này là một câu hỏi khó trả lời. Nhưng sẽ tự hào thật nhiều, nếu tên tuổi của các doanh nhân Việt Nam sớm xuất hiện trên danh sách của Forbes như là minh chứng cho một nền kinh tế Việt Nam đang lớn mạnh. Mỹ đang là nền kinh tế lớn nhất thế giới và đồng thời họ cũng có tới 403/1.011 tỷ phú của thế giới. Bên cạnh Việt Nam, Thái Lan, Malaysia hay Indonesia cũng đều đã có đại diện trong danh sách của Forbes. Ngày càng có nhiều tiếng nói ủng hộ việc xây dựng hệ thống chính sách để tạo điều kiện cho việc hình thành một đội ngũ doanh nhân Việt Nam, qua đó có thể xuất hiện các tỷ phú. Tháng 10/2009, trong thông điệp của mình gửi cộng đồng doanh nghiệp, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nhấn mạnh đến việc xây dựng và phát triển một “lực lượng doanh nghiệp dân tộc”. Một nền kinh tế liệu có thể phát triển được hay không, nếu như không có những “lá cờ đầu” là các doanh nghiệp lớn mạnh, được điều hành bởi các doanh nhân giàu có? Vài năm qua, nhiều doanh nhân Việt Nam khi vào top ten người giàu trên thị trường chứng khoán đã phải tắt điện thoại sau khi các báo công bố danh sách, hoặc im lặng trước các câu hỏi của báo giới. Sẽ tốt hơn nếu môi trường kinh doanh minh bạch hơn nữa để các thành quả kinh doanh của các doanh nhân được xã hội ghi nhận là tài năng thực sự của họ, để một ngày nào đó đàng hoàng bước vào danh sách của Forbes và nói: “Xin chào, tôi là một tỷ phú và tôi đến từ Việt Nam…”. Nguồn: VNECONOMY ========================================================== Không biết trong số anh chị em của Lý học, có ai là triệu phú usd không?
-
Tỷ phú “2 đô” và huyền thoại Việt trên đất Mỹ Một thanh niên người Việt đặt chân đến Mỹ với vỏn vẹn 2 USD trong túi và rồi 15 năm sau, anh đã bán công ty riêng của mình với giá 1,8 tỷ USD. Thành công đầy ấn tượng của nhà doanh nghiệp trẻ người Việt tên là Trung Dũng đang thu hút giới truyền thông Mỹ. Anh đang trở thành một "huyền thoại" trong thế giới công nghệ cao. Những bài viết về anh xuất hiện trên các báo và tạp chí nổi tiếng như Forbes, Fortune, Financial Times, Wall Street Journal, San Francisco Chronicle... và trong cuốn sách Giấc mơ Mỹ của biên tập viên đài CBS Dan Rather. Liều thuốc ước mơ! Nhà doanh nghiệp trẻ Trung Dũng.Bước ngoặt lớn đầu tiên đến với anh 20 năm trước đây khi là một chàng trai 17 tuổi. Năm 1984, Trung Dũng rời Việt Nam sang Mỹ. Lúc bấy giờ, trong túi anh chỉ có vỏn vẹn 2 USD và vốn tiếng Anh rất ít ỏi.Lúc đầu anh và người chị của mình xin được lưu trú ở Louisiana, sau đó chuyển sang Boston. Một năm sau, anh may mắn vượt qua được kỳ thi tương đương trung học và ghi tên học hai môn Toán và Tin học ở Trường Đại học Massachusetts ở Boston. Trung Dũng tiếp tục vừa học vừa làm đủ thứ công việc, từ rửa chén bát trong nhà hàng đến kỹ thuật viên trong các phòng máy tính để nuôi sống bản thân và gia đình. Hàng tháng anh trích một phần ba khoản thu nhập từ 300 đến 400 USD để gửi về cho gia đình ở Việt Nam. Cuối cùng anh đã lấy được hai bằng đại học về toán và tin học, đồng thời hoàn tất một phần lớn chương trình cao học. Cũng trong thời gian đó, mẹ anh bị bệnh ung thư, anh phải tạm dừng việc học để đi làm cả ngày kiếm tiền lo cho mẹ. Cuối năm 1995, sau khi mẹ mất, anh từ bỏ công việc chạy thử phần mềm để theo đuổi kế hoạch: Phát triển một chương trình có thể giúp các công ty chỉ đạo, kiểm soát, quản lý công việc kinh doanh qua mạng. Do không có đủ tiền mua máy tính xách tay, anh phải gắn chiếc máy tính cá nhân cồng kềnh và màn hình 17-inches lên chiếc xe hơi Honda Civic rồi "kéo lê" nó đi từ nơi này đến nơi khác để giới thiệu phần mềm của mình. Do không có bề dày thành tích, anh chẳng thu hút được sự chú ý của các doanh nghiệp. Vốn đã ốm yếu, anh lại càng ốm hơn do bị sụt cân và trở nên xanh xao vì mất ngủ do bị giằng xé giữa sức ép phải nuôi sống gia đình và thực hiện ước mơ của mình. May mắn thay, một người bạn giới thiệu anh với Mark Pine, nguyên là Ủy viên Ban Quản trị Sybase Inc đã về hưu nhưng vẫn muốn nhảy vào ngành công nghệ kỹ thuật cao. Đó là một cơ hội mà Dũng quyết định không để vuột mất. Thành công Được sự hỗ trợ của Mark Pine, OnDisplay trở thành một trong những công ty phần mềm thành công, thu hút những khách hàng như Travelocity.com. Ý tưởng của anh đã thuyết phục được các nhà đầu tư và huy động được 35 triệu USD từ các nhà đầu tư trước khi chuyển sang cổ phần hóa. Với kiến thức về máy tính, Trung Dũng thành lập OnDisplay, chương trình giúp các doanh nghiệp lấy dữ liệu từ những vị trí khác trên mạng trong khi vẫn ở tại chỗ của mình. Khi công ty chuyển sang cổ phần hóa (năm 1999), trị giá cổ phiếu của Trung Dũng trên giấy tờ là 85 triệu USD. Năm tháng sau, công ty và thương hiệu của nó được chuyển nhượng cho Vignette với cái giá 1,8 tỷ USD. Ở khu trường sở Bishop Ranch tại San Ramon, trong tòa cao ốc cạnh trụ sở cũ của OnDisplay, Trung Dũng lại mở một công ty phần mềm mới, một công ty Fogbreak mà anh hy vọng sẽ "tỏa sáng" hơn công ty trước của mình. Với Fogbreak, anh đặt mức yêu cầu cao hơn trước. Vừa là sáng lập viên, vừa đảm nhiệm chức vụ Giám đốc điều hành, anh muốn làm cho Fogbreak phát triển thành một công ty lớn và có lợi nhuận ngang ngửa với PeopleSoft nổi tiếng của Mỹ. Khiêm tốn! Hiện nay Fogbreak vẫn đang đối mặt với những thách thức của thị trường kỹ thuật cao, đang tăng cao trong những tháng gần đây, nhưng không đến nỗi nóng bỏng như thời OnDisplay. Oracle Corp và PeopleSoft xích lại gần nhau trên thị trường phần mềm, trong khi đó các doanh nghiệp vẫn còn thận trọng khi mua những sản phẩm của một công ty mới phát triển mà họ lo rằng sẽ không còn tồn tại trong những năm tới. Nhưng Dũng không hề nhụt chí. Trụ sở chính của Fogbreak, công ty mới của Trung Dũng chẳng có chút hào nhoáng để xứng tầm với một người vừa tạo lập một gia tài kếch xù. Từng cả gan thành lập công ty trong bối cảnh kinh tế suy sụp, Trung Dũng hiểu rằng không được hoang phí trong chi tiêu. Anh thà không có thư ký và một văn phòng xa hoa lộng lẫy để tập trung tất cả cho nhu cầu của khách hàng. Những người từng gặp người tỷ phú này khi anh còn là một chàng trai tay trắng đều nhận xét rằng, anh là một người rất khiêm tốn. Anh thành công vì đã biết nắm bắt cơ hội một cách nghiêm túc. Nguồn DÂN TRÍ
-
Hôm nay sẽ bắt rùa Hồ Gươm? Cập nhật lúc 03/04/2011 10:57:28 AM (GMT+7) - 10h sáng ngày 3/4, hàng trăm người dân vẫn tập trung ven hồ để xem… thao tác bắt rùa. Từ 7h sáng, khi có thông tin hôm nay các sở, ngành của Hà Nội tái bắt rùa Hồ Gươm phục vụ chữa bệnh cho cụ, hàng trăm người dân đã tụ tập quanh khu vực bờ hồ phía đường Lê Thái Tổ để chờ đợi. Thế nhưng, thử thách với sự kiên nhẫn của người xem, lực lượng chức năng vẫn tỏ ra khá bình tĩnh trong việc triển khai các đầu mục bắt rùa Hồ Gươm. Từ trước đó, các công việc chuẩn bị cho việc lai bắt rùa Hồ Gươm đã được thực hiện. Khoảng 9h45 phút sáng, chiếc lồng sắt được dùng cho việc đưa cụ rùa vào đã được “hạ thủy”. Hai chiếc thuyền được neo với nhau có nhiệm vụ đưa chiếc lồng sắt có hình dáng bằng một chiếc mui xe tải 1,5 tấn ra ngoài hồ. Chiếc lồng này được đan bằng lưới thép mắt cáo, gia cố bằng khung sắt. Bên dưới đáy là hệ thống phao xốp để giúp lồng sắt nổi trên mặt nước. Cũng khoảng gần 10h sáng, chiếc xe chở lưới chuyên dụng đã đưa lưới tới khu vực quanh hồ. Lực lượng chức năng đã thao lưới để đưa lưới xuống hiện trường. Lưới chuyên dụng lần này được đan to, dầy hơn so với lần trước. Một nguồn tin VietNamNet cho hay, lực lượng vây bắt rùa Hồ Gươm lần này là lực lượng đặc công. Tuy nhiên, những người này mặc trang phục của Công ty KAT – đơn vị trước đó vây bắt rùa Hồ Gươm bất thành. Có 5 chiếc thuyền sẽ tham gia cuộc vây bắt ngày hôm nay. Trao đổi nhanh với ông Nguyễn Văn Khôi – lãnh đạo của KAT, ông Khôi vẫn không đưa ra quan điểm chắc chắn về thông tin sẽ bắt rùa trong ngày hôm nay. Tuy nhiên, có thông tin lại cho rằng, đây vẫn là một đợt diễn tập. Nhưng có khả năng, nếu bắt được rùa thì cơ quan chức năng vẫn sẽ tiến hành công việc của mình. Còn nếu không, đó sẽ là một cuộc diễn tập. Cho đến hơn 10h sáng, cụ rùa Hồ Gươm vẫn “lai vô ảnh, khứ vô hình”. Nhiều người chờ đợi sự xuất hiện của cụ trước khi cụ được lai dắt, tuy nhiên, cụ rùa vẫn chưa nổi. Xung quanh khu vực bờ hồ, hệ thống hàng rào chắn di động đã được để sẵn. Trong trường hợp bắt rùa, lực lượng chức năng sẽ tổ chức ngăn đường. Đến trưa, khá nhiều người dân, trong đó có nhiều phóng viên các báo, đã lục tục ra về. Một nguồn tin khác cho biết, việc bắt rùa sẽ không thực hiện trong ngày hôm nay. Thời tiết xung quanh khu vực Hồ Gươm đã có nắng ấm và khá dễ chịu.
-
Bác Liêm Trinh ví von người phụ nữ đi làm oshin để lấy ngoại tệ bù lỗ mua xăng àh Không nên ví thế cái vấn đề chính là Chính phủ phải quyết định là tăng trưởng mạnh hay bình ổn nền kinh tế. Theo tinh thần của chính phủ là phải bình ổn nền kinh tế, đây là mấu chốt và nền kinh tế sẽ tăng trưởng chậm lại. Việc tăng giá xăng hay điện đều là kịch bản đã được thông qua ở cấp cao nhất. Cái việc d/c lãnh đạo trả lời báo chí tôi cho là kém Kém ở chỗ không thể nói tăng 40% theo yêu cầu của ông Petrolimex là còn thấp, mà phải căn cứ vào mức sống của người dân Việt nam là ở mức nào để thấy là cao hay thấp.
-
Các vị lãnh đạo này trả lời điều chỉnh này còn thấp và chỉ mới đạt 40% so với các nước xung quanh. Hiz hiz sao các vị không so sánh thu nhập bình quân người dân Viet nam với người dân các nước xung quanh, xem là họ có thu nhập cao hơn dân Viêt bao nhiêu lần Trả lời kém.
-
TÁO QUÂN VIỆT NAM VÀ TÁO QUÂN TRUNG QUỐC “Thế gian một vợ một chồng, Không như vua bếp hai ông một bà”. Đây là câu ca dao của người Việt Nam nhắc lại sự tích về Táo quân. Nhưng đó là Táo Việt Nam, còn Táo Trung Quốc thì sao? Phải chăng Táo Trung Quốc cũng có cảnh chung sống hòa bình với mỗi tình tay ba tương tự như Táo Việt Nam? Ảnh: vietsciences.free.fr Hầu như mỗi người Việt chúng ta ai cũng thuộc lòng sự tích Táo Quân, còn gọi là Vua bếp hay Ông Công. Hằng năm, trong cái không khí tất bật của năm tàn tháng tận, đa số chúng ta đều không quên phong tục cổ truyền: ngày 23 tháng Chạp, cúng tiễn ông Táo về Trời. Gia đình giàu có thì tha hồ bày biện lễ vật: hoa quả, trầu rượu, xôi gà... nhân tiện cũng cúng gia tiên luôn một thể. Người miền Bắc và Trung thường cúng thêm một con cá chép sống, bởi vì cá chép có thể hóa rồng (Lý ngư hóa long) để vượt qua chín tầng trời, đưa ông Táo gặp Ngọc Hoàng Thượng Đế, tâu trình việc thiện ác của nhân gian trong suốt năm qua. Người miền Nam không cúng cá chép, thay vào đó là đốt giấy in mộc bản hình “cò bay, ngựa chạy” coi như hai con vật này cũng có thể giúp ngài bay về thượng giới. Cò bay thì đã đành, nhưng ngựa chạy thì làm sao mà lên trời được, có lẽ ở đây mang ngụ ý để cưỡi mà thôi. Gia đình nào kinh tế eo hẹp, chút hoa chút trà, ba nén nhang, một dĩa kẹo thèo lèo, giấy cò bay ngựa chạy, tưởng cũng đã đủ. Lòng tự nhủ: “Việc lễ quý ở lòng thành!” Táo quân Việt Nam Tìm lại những sách ghi chép huyền thoại Táo Quân, ta nhận ra các sách này chép nhiều chi tiết sai biệt. Theo Trần Ngọc Ninh (Huyền Thoại Học và Huyền Thoại Lí Học Việt Nam, Văn Hóa Tập San số 2-1974), công việc biên chép các huyền thoại Việt Nam bắt đầu từ thời Bắc thuộc do người Trung Quốc viết và được tiếp nối cho đến nay qua các ngòi bút người Việt, người Pháp. Các sự biên chép này còn thiếu sót, thiếu trung thực, nhiều tác giả cố ý muốn làm văn chương nên đã xen vào những ý tưởng cá nhân, thêu dệt, phẩm bình. Có tác giả còn cắt xén, sửa đổi các tình tiết sao cho phù hợp ý thức hệ, hoặc cắt bỏ những chi tiết để tránh lời phê bình là kể lại các câu chuyện có tính xúc phạm thuần phong mỹ tục. Theo ông Ninh, các tác giả cổ như Trần Thế Pháp (Lĩnh Nam Chích Quái), Lý Tế Xuyên (Việt Điện U Linh Tập) cho đến các tác giả cận và hiện đại như Nguyễn Đồng Chi (Lược Khảo Thần Thoại Việt Nam, 1956), Hoàng Trọng Miên(Việt Nam Văn Học Toàn Thư, 18-1959) hay Phạm Duy Khiêm... đều để lộ cái ý định làm văn chương thông qua huyền thoại. Táo quân Việt Nam (nguồn: Lối xưa xe ngựa tập II của Nguyễn Thị Chân Quỳnh) Do đó, sự tích Táo Quân được truyền khẩu, rồi ghi chép, như vậy nhất định đã qua mấy lần sai biệt. Nhất Thanh (Đất Lề Quê Thói, Saigon 1970, tr. 320) chép huyền thoại này như sau: “Ngày xưa có hai vợ chồng nghèo đến nỗi phải bỏ nhau. Sau, người vợ lấy được người chồng khác giàu có. Một hôm cúng, đang đốt vàng mã ngoài sân, vô tình người chồng trước vào xin ăn, vợ nhận ra, động lòng thương cảm, đem cơm gạo tiền bạc ra cho. Người chồng sau biết chuyện, người vợ bèn lao đầu vào đống vàng cháy chết thiêu. Người chồng cũ cảm kích nhảy vào lửa chết theo. Chồng sau vì thương, nên cũng nhảy vào nốt. Cả ba đều chết cháy. Ngọc Hoàng thấy ba người có nghĩa, phong làm vua bếp.” Ông Nhất Thanh trích dẫn sự tích này trong quyển Việt Nam Phong Tục của Phan Kế Bính. Trong câu chuyện trên, có nhiều chi tiết phi lý, như: giấy đốt vàng mã không thể nào đủ để tự thiêu chết, thứ hai: người chồng trước và sau lần lượt nhảy vào đống lửa để được chết chung với nàng, như vậy đống vàng mã đó phải lớn lắm ắt cỡ một giàn hỏa mới phải! Ta có thể bỏ qua sự phi lý này, bởi lẽ trong huyền thoại luôn luôn chất chứa những tình tiết phi lý (theo lối suy nghĩ của con người hiện đại), nhưng yếu tố này không quan trọng. Quan trọng hơn cả chính là những ý nghĩa biểu tượng ẩn tàng sau các tình tiết phi lý đó. Cổ tích và huyền thoại lưu truyền cả ngàn đời, sự suy luận của người ban sơ tất nhiên khác biệt với sự suy luận của chúng ta ngày nay. Tìm hiểu và ghi chép huyền thoại, ta cần phải quên hiện tại, mà phải lui về bóng tối quá khứ mịt mờ, đặt mình vào hoàn cảnh của người thiên cổ. Chỉ vì muốn chỉnh đốn lại những gì chúng ta cho rằng phi lý, chỉ vì muốn biến huyền thoại nghe có lý, phù hợp với lối nghĩ suy hiện tại, chúng ta đã làm hỏng huyền thoại. Đó là chưa xét tới tham vọng làm văn chương của nhiều tác giả. Nhất Thanh ghi chú thêm một chi tiết khác về vua bếp, nghe “hợp lý” hơn đó là đống rơm chứ không phải đống vàng bạc giấy: “... vì bất thần người chồng sau đi làm đồng trở về, người vợ dẫn chồng cũ ra núp ở đống rơm. Người chồng sau đốt cháy đống rơm để lấy tro bón ruộng. Do ngủ quên, người chồng cũ bị chết cháy trong đống rơm. Vợ cảm kích nhảy vào lửa tự thiêu. Người chồng sau thương vợ cũng nhảy vào nốt.” Hoàng Trọng Miên (sách đã dẫn, tr.77) chép một cách dài dòng và văn chương hơn về Thần Bếp, tóm lược đại khái như sau: Có hai vợ chồng tiều phu nghèo không con. Vợ thương yêu chồng, nhưng chồng hay nhậu nhẹt đánh đập vợ. Vợ buồn bỏ đi, gặp túp lều tranh của một thợ săn, xin tá túc. Sau, hai người làm vợ chồng. Người chồng cũ hối hận, bỏ đi tìm vợ. Tình cờ lạc bước túp lều tranh ấy, đương lúc người thợ săn đi vắng, chỉ có người vợ ở nhà. Người chồng cũ van xin vợ tha thứ và quay trở lại, người vợ cũng động lòng tỏ ý còn thương. Lúc đó người chồng sau về tới. Người vợ bảo chồng cũ ra trốn trong đống rơm. Người thợ săn mang về con thỏ, đem ra đống rơm thui, làm gã chồng cũ chết cháy. Người vợ đau lòng nhảy vào chết theo. Anh thợ săn tưởng mình làm điều bất nghĩa, hối hận lao vào nốt. Trời cảm động trước tình yêu tay ba này, bèn cho cả ba hóa thành vua bếp, dụm đầu thành bộ ba trong bếp lửa. Phân tích và đối chiếu các dị thoại này, gạt bỏ các chi tiết rườm rà, ta nhận ra các thoại vị (mythème: đơn vị huyền thoại): (1) Tình tay ba hai ông một bà: mang dấu vết của chế độ mẫu hệ (matriarchy). (2) Sử dụng lửa để đốt rơm lấy tro làm ruộng: mang dấu vết của nền văn minh nông nghiệp. (3) Sử dụng lửa để thui nướng thú săn: mang dấu vết của nền văn minh săn bắt và hái quả. (4) Trời: bày tỏ niềm tín ngưỡng chung của các dân tộc Á Đông. Tin tưởng vào một đấng tối cao, Ngọc Hoàng Thượng Đế, bày tỏ sự giao cảm giữa con người với thần linh. (5) Bếp lò: giải thích nguồn gốc của bếp lò, cơ cấu của bếp (có ba đỉnh để đặt nồi niêu...). Lửa và bếp lò, hai phát minh này của con người ghi dấu sự kết thúc giai đoạn con người ăn sống nuốt tươi, ăn lông và ở lỗ. Lửa mở đầu cho nền văn minh nhân loại. Xác định được các thoại vị trên, ta có thể bảo rằng huyền thoại về Táo Quân đã có kể từ lúc tổ tiên ta sống đời định cư nông nghiệp thuở còn chế độ mẫu hệ, biết sử dụng lửa trong việc nấu nướng ẩm thực và phát minh quan trọng là bếp lò. Tổ tiên ta đã trình bày một tiên đề hình học không gian mà một học sinh cấp ba ngày nay đều biết: “Ba điểm không thẳng hàng xác định một mặt phẳng”. Tiên đề này được trình bày một cách huyền thoại hóa. Tổ tiên ta đã ứng dụng nó để chế ra bếp lò. Rất có thể tổ tiên ta chưa có một hệ thống lý luận toán học, nhưng trong quá trình lao động và sinh sống, kinh nghiệm dạy cho họ biết rằng nếu dùng ba cục đá đều nhau đặt không thẳng hàng trên mặt đất họ có thể đặt vững vàng trên đó một cái nồi hay cái chảo. Sự vững vàng đó có người đem ví von với tấm lòng kiên quyết riêng tư qua câu ca dao: “Dù ai nói ngả nói nghiêng, lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân”. Cà ràng. Ảnh: vietsciences.free.fr Kiềng ba chân là một dạng bếp lò. Từ Điển Việt Nam của Lê Văn Đức giải thích: “Lò bằng vòng sắt có ba chân”. Ông Táo của người Nam bộ – những người chịu ảnh hưởng của “nền văn minh miệt vườn” (theo cách gọi của Sơn Nam) và trải cuộc đời trên sông nước – còn có một dạng độc đáo khác: cái kiềng đất, còn gọi là “cà-ràng”. Hầu như người miền Bắc và Trung không sử dụng “cà-ràng”. Căn cứ theo tên gọi, người ta phỏng đoán gốc gác của nó là Khmer. Ưu điểm của cà-ràng là có thể đặt trên ghe thuyền phục vụ việc nấu nướng an toàn, đặc biệt cho những người dân sống trên sông nước, lấy ghe thuyền làm nơi trú ẩn. Trên đây là đôi nét phân tích sơ lược về huyền thoại Táo Quân Việt Nam, thế còn Táo quân Trung Quốc thì sao? Táo quân Trung Quốc Học giả E.T.C. Werner dịch «Táo Quân» ra tiếng Anh là: “The God of the Stove”, “The God of Hearth”, “The Kitchen-god”. Còn Léon Wieger dịch ra tiếng Pháp là “Génie de l’âtre”, “Génie du fourneau alchimique”. Táo Quân là một phát minh của Đạo giáo (Taoism) Trung Quốc, nhưng cho đến nay hầu hết các gia đình người Hoa đều thờ phượng. Theo tín ngưỡng của họ, có những vị thần bảo hộ cho dân chúng, trong đó những vị quan trọng nhất là: Thần Xã Tắc (về đất đai, mùa màng), Thần Nông (về nông nghiệp), Thần Hậu Thổ (nữ thần đất), Thành Hoàng (bảo hộ dân làng), Thổ Địa (thần đất địa phương), Táo Quân (Thần Bếp), Thiên Hậu (Nữ thần phù hộ dân đi biển), Tàm Nữ (Nữ thần về dâu tằm), Thần Tam Đa tức là 3 ôngPhúc-Lộc-Thọ, Thần Môn Hộ (thần giữ cửa, nhà)... Táo quân Trung Quốc (nguồn: E.T.C. Werner, Myths & Legends of China) Người Trung Quốc cho rằng có một vị tối cao trong vũ trụ gọi là Nguyên Thủy Thiên Tôn tạo dựng muôn loài. Nguyên Thủy Thiên Tôn còn đứng cao hơn Tam Thanh tức tam vị nhất thể (Trinity) của đạo Lão (Ngọc Thanh, Thượng Thanh và Thái Thanh). Theo Werner, Táo Quân là ... “Trùm Mật Vụ” (The Chief of the Secret Police) của Nguyên Thủy Thiên Tôn, ghi chép những việc làm thiện ác của từng gia đình để rồi cuối năm báo cáo lại cho Nguyên Thủy Thiên Tôn biết. Còn Thiên Lôi là “nhân viên hành pháp” của Ngài. Thông thường quần chúng hay gán cho Nguyên Thủy Thiên Tôn là Ngọc Hoàng Thượng Đế. Truy lại huyền thoại về Táo Quân, như đã nói, Táo Quân là phát minh của Đạo giáo (Taoism). Vào đời Hán, giới phương sĩ (magician) đã truyền bá thuật trường sinh bất tử. Những phương sĩ này đã xuất hiện trước đó từ thời Tần Thủy Hoàng (người thống nhất Trung Quốc vào năm 221 tcn). Họ từ miền duyên hải Đông Bắc Trung Quốc quy tụ về dưới trướng của Vua Tần để hiến thuật trường sinh cho Vua. Nổi bật trong đám là bọn Lư Sinh, Từ Phúc. Nhưng rồi Vua Tần sớm nhận ra rằng mình đã bị đám phương sĩ lừa bịp, công việc triều chính hư hỏng, công quỹ hao tổn. Vua nổi thịnh nộ, bèn chôn sống 460 người gồm bọn phương sĩ lẫn đám nho sĩ thích dèm pha phỉ báng. Nhưng bọn Lư Sinh và TừPhúc thì đã cao bay xa chạy. Đến khi nhà Hán lên thay nhà Tần. Đám phương sĩ lại lục tục kéo tới triều đình với bổn cũ soạn lại. Đời vua Hán (Hán Vũ Đế, Hán Văn Đế, Hán Cảnh Đế) đều là những người hâm mộ Lão Tử và cái học trường sinh bất tử. Dưới triều Hán Vũ Đế (140-87 tcn) đám phương sĩ được vua biệt đãi và sủng ái. Đứng đầu là bọn Lý Thiếu Quân. Lý đề xướng quan điểm mới khác với bọn LưSinh và Từ Phúcxưa kia. Muốn được trường sinh, phải luyện đan nấu thuốc. Nghi lễ đầu tiên mà Lý đề nghị với Hán Vũ Đế là Lễ Tế Lò. Vị thần được tế là Táo Quân, vốn là sản phẩm tưởng tượng của Lý Thiếu Quân. Vậy lễ cúng ông Táo đầu tiên được tính từ thời Hán Vũ Đế. Bằng tà thuật, Lý đã làm say mê vị vua nhẹ dạ cả tin này qua phép chỉ đá hóa vàng. Nhưng rồi dần dần vua khám phá thói bịp bợm của họ Lý. Một hôm Lý viết chữ trên một tấm lụa rồi cho một con bò nuốt vào bao tử. Sau đó Lý tuyên bố với vua sẽ tìm được một lá bùa trong bụng con bò. Lá bùa được moi ra từ bụng con bò xấu số. Tuy nhiên vua còn đủ sáng suốt để nhận ra nét bút của họ Lý. Ngay lập tức, vua ban lệnh xử trảm Lý Thiếu Quân. Thế nhưng, tục thờ cúng ông Táo vẫn lưu truyền từ đời Hán cho đến nay. Từ đời Hán đến đời Tống, Táo Quân không chỉ là vị thần lò luyện đan của giới đạo sĩ. Táo Quân được phổ biến hơn và được tin tưởng như là một vị thần bảo hộ bếp núc, gia cang. Chữ Táo 灶 trong Hán ngữ có nghĩa là «bếp lò». Người ta không tìm được chứng cớ nào xác minh sự thay đổi tín ngưỡng Táo Quân từ cục bộ sang phổ thông. Có thể phỏng đoán rằng vào đời Đường, các đạo sĩ ngoài việc tạo các vị thần mới, họ còn truyền bá ảnh hưởng của các vị thần cũ của họ có tính phổ thông đại chúng hơn trong quá trình cạnh tranh với đạo Phật là một đạo rất phồn thịnh ở đời Đường (618-907). Tư liệu đầu tiên có ghi chép về Táo Quân là thi tuyển Thạch Hồ Từ của thi sĩ Phạm Thành Đại sống dưới triều vua Cao Tông (1127-1126) của nhà Tống (960-1280). Trong tập thi tuyển, Phạm có bảo mỗi gia đình dân chúng thường cúng ông Táo vào dịp cuối năm để ngài bay về trời báo cáo cho Ngọc Hoàng Thượng Đế biết việc thiện ác của gia chủ đã làm. Tuy nhiên, chẳng có thư tịch nào trưng được nguồn gốc của phong tục này. Như vậy Táo Quân có quyền năng đối với từng sinh mạng mỗi thành viên của từng gia đình, những báo cáo hằng năm của Táo Quân cho Thượng Đế biết sinh hoạt của gia chủ sẽ tác động rất lớn đến thịnh suy của gia chủ. Táo Quân lẳng lặng ghi chép rồi cuối năm lẳng lặng phúc trình cho Thượng Đế, cho nên vai trò của Táo Quân cũng không khác vai trò của “Trùm Mật Vụ” bao nhiêu! Có người lại cho rằng các báo cáo ấy được thực hiện mỗi tháng hai lần. Việc đưa tiễn ông Táo được bày thiết lễ cúng khác nhau, thông thường lễ vật là mật ong và bánh nếp. Có lẽ chất ngọt của mật và chất dính của nếp sẽ làm ngài báo cáo bằng những lời ngọt ngào hơn chăng? Theo Werner, có ít nhất là 40 truyền thuyết về nguồn gốc của Táo Quân. Truyền thuyết phổ biến nhất như sau: Có người tên là Trương Táo Vương lấy vợ tên Quách Đinh Hương, một người đức hạnh và giỏi giang. Một thời gian sau, Trương chán chê vợ, bèn dan díu với một ả kỹ nữ tên là Lý Hải Đường. Lý xúi giục Trương bỏ vợ theo ả. Đinh Hương ra đi với hai bàn tay không, rồi trở về nhà bố mẹ ruột. Trương và Lý chung sống với nhau, gia đình dần dần suy sụp, Lý quay trở lại nghề bán phấn buôn hương, Trương nghèo đói, mù lòa, bèn đi ăn xin. Tình cờ, Trương lạc bước đến nhà vợ. Đinh Hương nhận ra chồng ngày xưa, đau lòng thấy chồng mù mắt, xin ăn, bèn dọn cho chồng cũ món mì sợi mà ngày xưa chàng rất thích. Trương ăn, bỗng sững sờ, sao món ăn nầy giống món ăn ngày xưa vợ anh từng nấu. Bèn khóc. Đinh Hương gọi: “Trương Lang! Trương Lang! Mở mắt ra!”. Trương mở mắt ra, mắt sáng trở lại, nhìn thấy vợ cũ, lòng hổ thẹn bèn chạy trốn, nào ngờ chạy tọt vào bếp lò cháy chết. Đinh Hương cố sức kéo chân chồng ra, ai ngờ chân lìa ra. Kể từ đó người đời gọi dụng cụ để cào than trong bếp là “Trương Lang Túc” (chân Trương Lang.) Đinh Hương thương xót chồng và thờ tại bếp lò nơi chồng mất mạng. Tục thờ Táo Quân có lẽ từ đó. Nếu gốc gác Táo Quân đúng như truyền thuyết trên, thiết tưởng nhân vật Trương Táo Vương không đáng cho người đời thờ cúng. Nhiều tác giả Trung Quốc cho rằng Táo Quân có nhiều tên khác nhau ứng với nhiều nhân vật khác nhau. Có thể là Viêm Đế (tức Thần Nông) phát minh ra lửa, hoặc đó là Hoàng Đế (người đầu tiên xây dựng bếp lò). Danh sách này còn dài, liệt kê thêm: Trọng Lê, Ngô Hồi, Tô Cát Lợi và vợ là Vương Thị, Thần Tử Quách, Trương Đan, Nhưỡng Tử, v.v... Ngoài ra người ta còn phân biệt Táo Quân ở phương Đông mặt xám, ở phương Nam mặt đỏ, ở phương Tây mặt trắng, ở phương Bắc mặt đen, và ở trung tâm mặt vàng. Có người còn cho rằng có rất nhiều Táo Quân, ứng với từng thành viên trong gia đình. Nhiệm vụ của Táo Quân, như đã nói, là giữ gìn bảo hộ sinh mạng cho từng thành viên gia chủ cho nên Táo Quân còn được gọi là Tư Mệnh Phủ Quân. Mỗi người sẽ giàu hay nghèo, thọ hay yểu là tùy thuộc vào báo cáo của Táo Quân. Báo cáo này được đưa về trời vào ngày rằm mỗi tháng lúc nửa đêm. Hoặc vào ngày canh và ngày thân của tháng âm lịch. Có người cho rằng ngày đưa báo cáo là ngày mồng một và ngày rằm mỗi tháng. Nhưng hầu hết thường tin tưởng rằng ngày báo cáo đó rơi vào ngày 23, 24, hoặc 26 tháng Chạp. Ngày ông Táo từ trời quay trở về gia chủ là ngày 30 tháng chạp hoặc trễ hơn một chút. Lễ đưa tiễn ông Táo được gọi là lễ Tống Táo. Gia chủ đốt hình Táo cũ, đốt pháo để thêm long trọng và hoan hỉ, bánh trái trà rượu được bày thiết tỏ lòng thành. Chiều ba mươi tết, người ta làm lễ Tiếp Táo, đón vị Táo mới cho gia chủ, pháo nổ và lễ vật cũng long trọng không kém buổi Tống Táo. Đối chiếu huyền thoại Táo Việt Nam và Táo Trung Quốc, ta thấy hai dân tộc đều có chung niềm tín ngưỡng Táo Quân, coi như đây là vị thần bảo hộ cho gia đình. Các phong tục cúng bái cũng rơi vào ngày cuối năm, tức 23 tháng Chạp, với niềm hy vọng ngài sẽ báo cáo cho Ngọc Hoàng biết những điều tốt đẹp về gia chủ, nhờ đó hưởng thêm nhiều phúc thọ. Có thể nói rằng sự giao lưu văn hóa giữa hai dân tộc đã đem lại sự tương đồng về tín ngưỡng này. Tuy nhiên, phải nhìn nhận rằng các thuyết về Táo Quân Trung Quốc quá mơ hồ, người đời lại thêu dệt bịa đặt quá nhiều, nên khó chấp nhận được (trừ trường hợp của Lý Thiếu Quân). Huyền thoại Táo Quân Trung Quốc chịu ảnh hưởng của tôn giáo (Đạo giáo: Taoism) còn huyền thoại Táo Quân Việt Nam thì không. Huyền thoại Táo Quân Việt Nam là một bộ Tam, có nét độc đáo đầy bản sắc dân tộc, minh hoạ trí thông minh sáng tạo của người Việt trong lao động và sinh hoạt. Táo Trung Quốc không có một mối tình tay ba đầy thú vị như Táo Việt Nam. Nói cách khác, huyền thoại Táo Trung Quốc không giải thích được nguyên tắc của bếp lò, giỏi lắm là chỉ nhắc lại được phát minh về lửa. Táo Quân từ đời Hán là sự bịa đặt của Lý Thiếu Quân, Táo Quân theo các thuyết về sau hình như phát sinh từ thuyết nhân quả báo ứng của nhà Phật (Trương Táo Vương phụ rãy vợ hiền, sau bị mù lòa phải xin ăn, quả báo cuối cùng là bị chết cháy). Những nhận xét trên cho ta bảng đối chiếu sau đây: Táo quân Việt Nam Táo quân Trung Quốc Tương đồng * Thần bảo hộ cho gia đình, ảnh hưởng phúc thọ từng thành viên gia chủ do báo cáo hằng năm (23-Chạp) về trời. * Lễ Tống Táo (23-Chạp) – Lễ tiếp táo (30-Chạp hoặc ít ngày sau đó) * Cúng tế thành khẩn (Hoa quả, trà rượu, nhang, đốt pháo, vàng mã, xôi gà, cá chép ... Người Trung Quốc thường cúng mật ong và bánh nếp....) Lễ vật không bắt buộc, tùy gia đình. Táo Quân được thờ trong bếp mỗi gia đình. * Được dịch sang ngôn ngữ Tây phương: ANH (The God of the Stove, The God of the Hearth, The Kitchen-God) – PHÁP (Génie de l’âtre, Génie du fourneau) – ĐỨC (Herdgott). Dị biệt * Ảnh hưởng tín ngưỡng thờ TRỜI, tin tưởng người và thần linh có thể giao cảm với nhau. * Ảnh hưởng Đạo giáo (sản phẩm tưởng tượng của Lý Thiếu Quân) – Ảnh hưởng Phật giáo (luật nhân quả báo ứng đối với Trương Táo Vương.) * Có khoảng vài ba dị thoại (tức là huyền thoại ít bị cải biến) * Có trên 40 dị thoại, phổ biến nhất là Trương Táo Vương và Quách Đinh Hương. * Bộ Tam: Hai ông một bà (ngụ ý: chế độ mẫu hệ, nguyên tắc cấu tạo bếp lò) * Một người (của Đạo giáo) hoặc hai người (vợ chồng Trương-Quách) * Có từ thời rất xa xưa, phỏng định vào lúc người VN biết sống định cư nông nghiệp, theo chế độ mẫu hệ, biết sử dụng lửa nấu nướng ẩm thực. * Có từ đời Hán (206 tcn- 220cn), thoạt đầu phổ biến trong giới Luyện Đan (alchemy) trong Lễ Tế Lò. Về sau (khoảng Đường, Tống phổ biến đại chúng thành thần bảo hộ gia đình). * Giải thích nguyên tắc cấu tạo bếp lò – Nhắc lại về lửa (bắt nguồn cho nền văn minh nhân loại) – Thể hiện óc thông minh sáng tạo của tổ tiên người Việt (chế tạo bếp lò, sử dụng lửa, đời sống nông nghiệp, săn bắn). * Không giải thích nguyên tắc cấu tạo bếp lò – Nhắc lại về lửa – giải thích tên gọi của cái cào than (Trương Lang Túc) – Dấu vết ảnh hưởng của tôn giáo (Lão, Phật) * Tên gọi: ông Táo, Vua Bếp, Táo Quân, ông Công, Thần Bếp, Đông Thần (Đông Trù Tư Mệnh Táo Phủ Thần Quân), Đông Trù... * Tên gọi: Táo Quân, Táo Vương, Tư Mệnh Phủ Quân, Táo Thần, Viêm Đế, Hoàng Đế, Trọng Lê, Ngô Hồi, Tô Cát Lơi, Thần Tử Quách, Trương Đan, Nhưỡng Tử, Định Phúc Tài Thần... Lê Minh Anh ----------------- SÁCH THAM KHẢO 1- Trần Ngọc Ninh, Huyền Thoại Học và Huyền Thoại Lí Học Việt Nam, 1974. 2- Nhất Thanh, Đất Lề Quê Thói, Saigon 1970. 3- Hoàng Trọng Miên, Việt Nam V ăn Học Toàn Thư, Saigon 1973. 4- E.T.C. Werner, A Dictionary of Chinese Mythology, Shanghai 1932. 5- E.T.C. Werner, Myths & Legends of China, Shanghai 1922. 6- Léon Wieger, Histoire des Croyances religieuses et des Opinions philosophiques en Chine, 1927. ======================================================================================================= Theo ý kiến cá nhân của yeuphunu thì huyền thoại táo quân có nguồn gốc xuất xứ của người Việt. -Có truyền thuyết về tình yêu thi vị tay ba giữa 3 người -Giải thích được nguyên tắc của bếp lò.