yeuphunu

Hội viên
  • Số nội dung

    1.279
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    5

Everything posted by yeuphunu

  1. Chiến hạm Việt Nam: Tarantul I Tàu phóng tên lửa lớp Tarantul I (Molniya) đã có mặt tại Việt Nam vào năm 1999. Và Việt Nam mua bản quyền đóng loại tàu này trong nước. Hiện Việt Nam có khoảng 4 chiếc Tarantul 1, và 2 chiếc Tarantul 5. Trong tương lai sẽ đóng thêm 20 chiếc Tarantul 1 nữa Tàu chiến Tarantul dùng để tác chiến tại các vùng cửa biển và ven bờ. Tàu Tarantul trang bị nhiều loại vũ khí hiện đại và các khí tài tiên tiến, có khả năng độc lập tác chiến và chiến đấu hiệp đồng trong đội hình biên đội. - Tàu tên lửa Tarantul được phát triển theo dự án số 12421 của Nga, bao gồm: Tàu chiến đấu, tàu bổ trợ và tàu tuần tra tại các vùng cửa biển, ven bờ. Tàu tên lửa Tarantul trang bị đầy đủ các thiết bị trinh sát và truyền tin, các hệ thống ra-đa trinh sát và kiểm soát xạ kích. Ra-đa có tầm bao quát toàn bộ vùng tác chiến trong tầm bắn của tên lửa, bám tín hiệu 15 mục tiêu và khoá tới 6 mục tiêu trong môi trường tác chiến điện tử. Hệ thống ra-đa kiểm soát bắn của pháo và tên lửa trên tàu có khả năng phát hiện các mục tiêu trên không, trên biển, tự động dò tìm các tín hiệu đặc trưng của mục tiêu và xử lý các tín hiệu đó chuyển thành dữ liệu tác xạ trên máy tính.* Vũ khí chính trang bị trên tàu Tarantul gồm: - Trang bị hệ thống tên lửa đối hạm với giàn phóng tên lửa U-ran phóng tên lửa hành trình Kh-35 sắp xếp thành hai hàng, mỗi hàng 8 ống phóng (16 tên lửa). Tên lửa hành trình Kh-35 dẫn bằng ra-đa chủ động giai đoạn cuối. Trên hành trình bay, tên lửa bay cách mặt nước 15 mét, ở giai đoạn cuối chúng hạ thấp độ cao và tiêu diệt mục tiêu chỉ ở độ cao từ 3 mét đến 5 mét. Tên lửa Kh-35 có cự ly tác chiến 130km, tốc độ tối đa khoảng 300 m/s, đầu nổ HE nặng 145 kg - Hoặc tên lửa hành trình đối hạm Moskit – SS-N-22 với 2 giàn phóng (tổng cộng có 4 tên lửa), tầm xa 90 – 120 km, tốc độ siêu âm. Tầm bắn tối đa 250km, tốc độ mach 3, trần bay cách mặt nước biển 20m, đầu nổ 320 kg (Loại ở Việt Nam chủ yếu trang bị loại này) - 12 tên lửa phòng không Igla-1M; - 1 pháo hạm 76mm AK-176M (với 316 viên đạn), tầm xa 15 km - Hai pháo phòng không 30mm AK-630M. Hệ thống ra-đa trên tàu có: Ra-đa trinh sát băng HF, UHF, ra-đa nhận biết mục tiêu không-biển, ra-đa điều khiển, kiểm soát xạ kích cho tên lửa. 2 hệ thống phóng mồi bẫy và mồi bẫy nhiệt PK-10 cỡ 120 mm hoặc PK – 16 dùng để chống ra-đa và hệ thống trinh sát quang học của các hệ thống vũ khí của đối phương. Đạn mồi bẫy PK-16 cỡ 82mm, tầm hoạt động từ 200 mét đến 1800 mét. Tàu tên lửa Tarantul có lượng giãn nước 550 tấn, trang bị máy chính 2 trục, động cơ tua-bin khí 32.000 sức ngựa, 3 động cơ Diesel, công suất 500kW mỗi động cơ. Tàu có tầm hoạt động 2400 hải lý, hoạt động liên tục trong thời gian 10 ngày. Toàn bộ thuỷ thủ đoàn trên tàu 44 người. Tàu còn trang bị các thiết bị điều hoà không khí, hệ thống thông gió tiên tiến nhất, bảo đảm cho tàu hoạt động trong mọi điều kiện thời tiết. Việt Nam đã mua bản quyền đóng loại tàu này trong nước. Sẽ có khoảng 20 chiếc sẽ ra đời tại Việt Nam Theo một số nguồn tin nước ngoài, 2 tàu Tarantul 5 cũng đã có mặt tại Việt Nam . Đây chính là 2 tàu đầu tiên thuộc Project 1241.8 “Thần Sấm”. Tarantul 5 có tầm hoạt động và hệ thống vũ khí tấn công hơn hẳn Tarantul 1. 2 chiếc này nằm trong hợp đồng mua 12 chiếc Taratul 5 mà VN đã ký với Nga. Số còn lại sẽ do VN tự đóng theo công nghệ được chuyển giao . Theo một số chuyên gia nước ngoài phân tích, Với 2 chiếc Gepard (sẽ về Việt Nam cuối năm 2009) và trên 20 Tarantul hải quân Việt Nam sẽ tiến tới thành lập hạm đội biển Đông với trên dưới 30 chiến hạm hiện đại. Được biết khu trục hạm Gepard dài 102m, trọng tải 1,900 tấn, tốc độ 26 knots, trang bị 8 hỏa tiễn SSN-25, có từ một tới ba đai bác 76 ly, bốn ống phóng thủy lôi và có khả năng tránh radar sẽ là một đối thủ đáng gờm cho các hạm đội các nước khác trong khu vực (theo vndefence.info )
  2. Cái lợi của 10 năm nói dối vợ Trong 10 điều cấm của vợ tôi, nghiêm trọng nhất là cấm nói dối. Thế nhưng sự thực là suốt 10 năm sống với nhau, tôi nói dối nàng liên tục. “Trên đời này em ghét nhất là dối trá. Vì thế, dù sự thật khó nhằn thế nào anh cũng phải nói với em, hễ nói dối là tình vợ chồng đứt cái phựt đừng hòng nối lại”, nàng phủ đầu ngay khi tôi cầu hôn. Tôi trịnh trọng hứa trước khi lồng nhẫn vào tay nàng. Kể từ đó, nàng yên tâm là đã trói tôi như đã buộc cổ dề vào con cún. Tôi đi họp thì báo là họp, nhậu thì khai là nhậu, không như mấy gã hư hỏng cứ than họp hành triền miên trong khi mài đũng quần trên chiếu nhậu đến ê cả mông, nhầu cả mặt. Vợ tôi đến giờ vẫn vô cùng tín nhiệm, coi tôi là lão chồng ngoan ngoãn thật thà. Vì thế nên mong các bạn giữ kín hộ những gì tôi chia sẻ hôm nay: Sự thật là tôi nói dối vợ suốt. Tôi không thể không thấy là nói dối vợ nhiều khi rất có lợi, thậm chí siêu lợi. Bao nhiêu năm nay trước mặt vợ, tôi vẫn ra vẻ một thằng chồng cù lần rỗng ví, vợ cho bao nhiêu tiền thì tiêu bấy nhiêu, vì bao nhiêu lương lậu đã nộp cho nàng cả. Thỉnh thoảng tôi còn vờ vịt là lỡ đi nhậu hết cả tiền, xin thêm ít để ăn trưa. Nàng không bao giờ biết là tôi có quỹ đen. Trong các bạn, những ai là đàn ông thì hết thảy phải đồng ý với tôi rằng, phàm đã bị vợ thu hết tiền lương, anh nào bảo không có quỹ đen thì một là hắn nói dối, hai là hắn không phải thằng tử tế với vợ. Tại sao ư? Hãy xem tôi làm được gì với cái quỹ đen của tôi. Mỗi ngày vợ cho tôi 100 nghìn (tính theo giá trị tiền đồng hiện nay nhé). Tôi ăn sáng mất 25 nghìn, ăn trưa mất 40 nghìn. Hôm nào “đi lạc” sang cái quán bên cạnh với mức ăn sáng 35 nghìn, ăn trưa 65 nghìn là hết cả tiền xăng xe. Thế nhưng đàn ông chúng ta, có anh nào không cà phê cà pháo, không rượu bia nhậu nhẹt? Lấy tiền đâu ra? Quý đen chứ đâu. Đó là tiền tôi cặm cụi làm thêm, tiền cơ quan thỉnh thoảng bổ sung quỹ lương… Nhờ nó, ngày 8/3, sinh nhật nàng…, tôi có thể tặng nàng một bó hoa thật sang, bộ đồ lót thật xịn, cái túi xách thật oách, khai giá giảm đến 70% rồi nói dối nàng (lại nói dối) rằng “đó là tiền anh nhịn ăn sáng suốt một tuần”. Vợ tôi cảm động muốn khóc, sau đó lén dúi thêm tiền vào túi chồng. Có quỹ đen, tôi ăn nhậu, tiêu xài… mà vợ chẳng hay biết gì hết. Thử tưởng tượng nếu không có quỹ, kiểu gì tôi cũng phải xin tiền nàng cho những vụ đó chứ không nhịn được. Sĩ diện của thằng đàn ông tôi chẳng màng, tôi chỉ nghĩ nếu vợ thấy phải chi đến mấy triệu đồng một tháng cho những thứ ba lăng nhăng vớ vẩn ấy thì sẽ xót xa đứt ruột, tội cho nàng biết bao. Lập quỹ đen, âu cũng là vì yêu vợ, thương vợ vậy. Thực ra tôi không chỉ nói dối vợ mỗi chuyện tiền. Cả về tình tôi cũng dối nốt. Dĩ nhiên là tôi luôn yêu nàng, nhưng tình yêu sau 10 năm lấy nhau không thể sôi nổi như thuở ban đầu, hễ thấy nhau là “tim đập chân run” được. Mỗi lần phải đi công tác xa vài ngày, tôi không thể cồn cào nhớ nàng vì ngày mải làm việc, đêm nhậu với bạn rồi ngủ tít trong khách sạn. Thế nhưng với thói lãng mạn, nàng không chấp nhận điều đó. Thế nên tôi vẫn luôn nói rằng tôi nhớ nàng phát điên lên được, rằng tôi yêu nàng không khác gì ngày xưa… (sự thật là tôi yêu nàng chẳng kém ngày xưa, nhưng chắc chắn phải khác ngày xưa). Lại còn chuyện nàng hỏi tôi về nhan sắc của nàng nữa, dĩ nhiên tôi lại phải nói dối. “Em già quá rồi phải không anh?”. “Anh xem này, em ngày càng béo”. “Anh thấy bụng em có to quá không?’. Bạn thử nghĩ xem, nàng chẳng nói câu nào sai, nhưng chẳng lẽ tôi lại gật đầu lia lịa? Tôi lập tức cao giọng mắng nàng: “To gì? Em có bụng đâu mà to?”. “Đồ ngốc. Anh cực kỳ ghét loại đàn bà chẳng có tí da thịt nào”. (Tôi nói “da thịt”, tránh đề cập đến khái niệm “mỡ”). “Em dở hơi à? Em ra ngoài đường mà xem cái bọn sinh viên mới ra trường có trẻ được bằng em không?”. Vợ tôi yên tâm ngay. Có thể nàng thấy mình chẳng xinh như tôi ca ngợi, nhưng nàng nghĩ điều quan trọng là chồng thấy mình xinh. Thế là nàng lại đủ tự tin để nhí nhảnh, nũng nịu với chồng như cũ. Và còn vô số điều khác, tôi đã nói dối nàng. Chẳng ngụy biện đâu, tôi nói dối vì thấy… có lợi đã đành, còn vì tôi yêu nàng nữa, dù tình yêu không giống như ngày xưa. Một lần nữa xin nhắc các bạn đừng mách vợ tôi để điều tôi thổ lộ hôm nay vẫn tiếp tục là bí mật với nàng. Mà nếu các bạn có mách cũng chẳng sao, bởi vợ tôi sẽ cho là các bạn nói dối nàng, hoặc nãy giờ tôi đã nói dối các bạn cho vui, vì hôm nay là Ngày Nói dối 1/4 mà. St
  3. Những thủ đoạn quân sự của Trung Quốc đối phó với các nước trong vấn đề Biển Đông Nhằm âm mưu độc chiếm Biển Đông của mình, Trung Quốc trong thời gian vừa qua không chỉnh tiến hành nhiều hoạt động kinh tế nhằm tạo dự luận và khẳng định cái gọi là “chủ quyền” trên Biển Đông, thì bên cạnh đó nước này còn phô diễn nhiều thủ đoạn quân sự khác nhau. Để có một cái nhìn tổng quan nhất giúp bạn đọc them hiểu rõ âm mưu thâm độc của Trung Quốc, VIT xin phân tích những nét cơ bản nhất về thủ đoạn quân sự của Trung Quốc nhằm vào các nước đang có cùng mục tiêu tranh chấp tại khu vực biển đầy nhạy cảm này. Hiện nay, đối với vấn đề Biển Đông, Trung Quốc luôn coi Việt Nam, Philippin, Malaixia và Indonexia là những đối thủ trực tiếp uy hiếp và cản trở chính trong âm mưu độc chiếm Biển Đông của mình. Bên cạnh đó, Trung Quốc cũng rất coi trọng và chú đến sự phát triển về hải quân, không quân, khu vực hải cảng, sân bay, căn cứ hậu cần và lực lượng tình báo của các đối tượng nói trên. Do đây là những lực lượng trực tiếp uy hiếp tới khả năng tác chiến của lực lượng vũ trang nước này. Ngoài ra, Trung Quốc cũng hết sức “lưu tâm” đến các nước có khả năng làm đối tác quân sự như cung cấp vũ khí, hậu cần, chi viện tình báo đặc biệt là những nước có tiềm lực quân sự mạnh có ảnh hưởng hoặc tác động tới kết cục cuộc chiến nếu như Trung Quốc gây chiến với các đối thủ nói trên. Do đó, giới chức quân sự nước này nhận định, phương thức tác chiến chủ yếu một khi có hoạt động quân sự nổ ra đó là bao vây các đảo, sau đó tiến hành đột kích, tập kích đánh chiếm. Nguyên nhân là do, hiện nay số đảo thuộc quần đảo Trường Sa nhiều song do diện tích nhỏ hẹp, số lượng quân đóng trên đảo có hạn, chính vì thế trong điều kiện cho phép nên sử dụng phương thức tấn công đột kích qua đó rút ngắn thời gian tác chiến trực tiếp tránh được tổn thương. Giai đoạn 1: Chuẩn bị hậu cần kỹ thuật. Giai đoạn 2: Chia binh lực làm hai hướng, một hướng có nhiệm vụ phong tỏa thu hút sức tập trung của đối phương, gây cản trở, một hướng tiến hành tập kích đánh chiếm đảo. Giai đoạn 3: Tiếp tục gia tăng áp lực, tiêu hao sinh lực chủ yếu của đối phương, qua đó ép đối phương tiếp tục triển khai hành động phản công. Giai đoạn 4: Cố thủ trên đảo, chờ viện quân đến tiếp viện bằng đường thủy hoặc không quân. Giai đoạn 5: Giai đoạn kết thúc cuộc chiến. Từng bước biến khu vực Trường Sa trở lại trạng thái bình thường. Tuy nhiên, nếu như có cuộc chiến đánh chiếm đảo tại khu vực này sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của nhiều nước như: Mỹ, Nhật, Ấn Độ, Nga và Đông Nam Á, chính vì thế giới chức quân sự nước này nhận định có nhiều khả năng một trong số quốc gia có lợi ích nói trên sẽ “phản ứng” bằng cách chi viện vũ khí, hậu cần và tình báo. Theo nhận định, chỉ có Mỹ, Nhật và Ấn Độ là có nhiều khả năng nhất chi viện bằng cách cử quân đội, chi viện đường thủy. Do có sự tham dự của nhiều quốc giai có cùng lợi ích nên có nhiều khả năng cuộc chiến này nếu nổ ra sẽ kéo dài. Đây thực sự là một đòn chí tử đối với ngành công nghiệp trong nước của Trung Quốc. Bởi hầu hết hàng hóa xuất khẩu của quốc gia này đều đi qua Biển Đông, eo Malacca để đến với các đối tác. Bên cạnh đó, sự chi viện còn “bỏ ngỏ” của các cường quốc quân sự như Mỹ, Nga, Ấn Độ…cũng đang là một trở ngại đối với âm mưu độc chiếm Trường Sa của Trung Quốc. Nếu như Trung Quốc cố tình gây chiến thì hâu quả thật khó có thể dự đoán trước. Do đó, bước đầu tiên để thực hiện âm mưu này đó chính là từng bước “hóa giải” các trở lực đến từ các nước bên ngoài. Bằng cách trực tiếp đối phó “ một đối một” với Việt Nam. Song, một trở ngại là Việt Nam luôn đặt việc giải quyết vấn đề Biển Đông bằng phương thức hòa bình, ngoại giao. Đó là một “trở lực” để Trung Quốc không thể tìm ra lý do đơn phương phát động cuộc chiến riêng giữa hai nước. Chính vì thế, thời gain qua Trung Quốc luôn tăng cường một hệ thống các kế hoạch đầy tính “khiêu khích” nhằm “dụ dỗ” Việt Nam nổ súng trước qua đó hợp thức hóa cuộc chiếm trong “mộng tưởng” của mình. Tuy nhiên, khả năng Mỹ có thể nhảy vào cuộc chiến vì lợi ích to lớn của mình tại khu vực này vẫn còn, nên phương thức hữu hiệu nhất hiện này đối với Trung Quốc vẫn là chờ đợi. Vậy câu hỏi đặt ra là: Trung Quốc sẽ phải chờ đợi bao lâu nữa để hoàn thành giấc mơ độc chiếm Biển Đông của mình? Thời điểm đó chính là khi lực lượng hải quân, không quân nước này có đủ khả năng tác chiến tầm xa và có thể thực sự đối trọng được với lực lượng hải, không quân của Mỹ và một số cường quốc quân sự khác. Theo dự đoán, thời điểm đó có thể là năm 2040 – 2050. Theo Báo mới
  4. Cái vụ cảm hứng luận quẻ, thì hiểu vấn đề nhưng không diễn đạt được. Có lẽ nhờ Huynh Thiên Đồng ra tay giải thích giúp.
  5. Mời các bạn xem bài viết của ông Nguyễn Vũ Tùng - Tiến sĩ thuộc Viện nghiên cứu chiến lược Ngoại giao- Học viện Ngoại giao, để có thêm cách nhìn nhận khi phải sống chung với nước lớn. ===================================================================================== SỐNG CHUNG VỚI NƯỚC LÁNG GIỀNG LỚN HƠN: THỰC TIỄN VÀ CHÍNH SÁCH Nguyễn Vũ Tùng* Đối với nước nhỏ, quan hệ với nước lớn chung biên giới luôn là một mối quan hệ khó khăn.83 Các khó khăn này có những nguồn gốc từ (i) sự chênh lệch rõ rệt về tầm vóc - vốn là kết quả của cả một quá trình lịch sử phát triển lâu dài liên quan tới các mặt kinh tế, văn hoá, xã hội, quân sự, chính trị, ngoại giao… dẫn đến (ii) quan niệm về bản sắc nước lớn - nước nhỏ và từ đó đưa ra những đặc thù về hành vi nước lớn - nước nhỏ, theo đó nước lớn thường có tâm l. “đại quốc” và do vậy có hành vi coi thường, chèn ép “tiểu quốc”. Trong tất cả các cặp quan hệ nước lớn - nước nhỏ, có hai yếu tố song hành tạo nên sự khó khăn trong quan hệ nước lớn - nước nhỏ: Sự vượt trội về tầm vóc của một nước thường đi cùng với tâm l. và hành vi nước lớn của nước đó so với các nước khác. Nga (cũng như Liên Xô trước kia), Mỹ, Nhật, Trung Quốc luôn thường trực tâm l. mình là nước lớn và từ đó có hành vi nước lớn thể hiện qua cách xác định lợi ích và cách thức đạt tới lợi ích của mình trong mối giao tiếp với các nước khác. Bài viết này tập trung phân tích (i) vai trò của yếu tố địa l. trong mối quan hệ phức tạp này, và (ii) tìm hiểu và đánh giá một số chiến lược ứng phó của nước nhỏ đối với nước lớn láng giềng. Tác động của yếu tố địa l. Yếu tố địa l. làm tăng thêm dạng tâm l. và hành vi đại quốc - tiểu quốc. Tâm l. và hành vi nước lớn thể hiện chung trong chính sách của nước lớn và thể hiện cụ thể nhất qua chính sách và quan hệ với nước nhỏ láng giềng. Trong các trường hợp đặc thù nhất (một nước được thừa nhận là nước lớn so với một nước láng giềng có sức mạnh vật chất và tiềm lực nhỏ hơn nhiều lần), có thể thấy rằng tính chất bất cân xứng đóng vai trò quy định bản chất mối quan hệ này. Nói cách khác, sự bất cân xứng càng lớn thì tâm lý và hành vi nước lớn - nước nhỏ càng rõ rệt. Sự cận kề địa l. làm sự so sánh có “địa chỉ” hơn, thậm chí nó còn mở rộng ra để cho sự chênh lệch tuy chưa tới mức vượt trội cũng đã làm cho tâm lý và hành vi nước lớn hình thành. Trường hợp quan hệ Thái Lan - Cam-pu-chia và phần nào là Nhật Bản - Hàn Quốc cho thấy xu hướng đó. Thái Lan và Nhật Bản tuy không phải là nước lớn nhưng kề cận nhau về địa l. và đặc biệt nhạy cảm với sự chênh lệch dù là nhỏ nhất so với nước kia. Sự so sánh hơn - kém và cùng với nó là tâm lý nước lớn hơn - nước nhỏ hơn cũng theo đó hình thành.84 Chính vì thế, khung quan hệ nước lớn - nước nhỏ thoạt đầu được cho là chỉ nảy sinh giữa các nước rất lớn và rất nhỏ, nay cần được bổ sung bằng thực tế của quan hệ giữa các nước có sự chênh lệch về tiềm lực. Nói cách khác, khung phân tích rộng và thích hợp hơn sẽ là quan hệ láng giềng giữa các nước lớn hơn và nhỏ hơn. Điều này trùng hợp với nghiên cứu về tổ hợp an ninh do Barry Buzan khởi xướng. Theo Buzan, tổ hợp an ninh chính là những mối quan hệ láng giềng chặt chẽ và có thể bị can thiệp, tác động từ những nước lớn hơn ở bên ngoài do sự bất cân xứng về sức mạnh. Đáng chú ., Buzan còn cho rằng một nước vừa có thể là một nước lớn hơn trong một tổ hợp an ninh này nhưng lại là một nước nhỏ hơn trong tổ hợp an ninh khác.85 Nói cách khác, so sánh nước lớn - nhỏ chỉ có tính chất tương đối và tâm lý/ hành vi nước lớn - nước nhỏ không nhất thiết chỉ có trong cặp quan hệ giữa hai nước láng giềng cực lớn và cực nhỏ. Sự kề cận địa l., qua nhiều nghiên cứu đã cho thấy, là điều kiện tự nhiên làm tăng mức độ phức tạp của mối quan hệ bất cân xứng này. Đó là vì yếu tố địa l. tạo điều kiện dễ dàng cho hai bên giao lưu với nhau, và càng dễ giao lưu, càng phát sinh nhiều vấn đề. Các vấn đề đó có thể có nguồn gốc lịch sử. Trong tất cả các tình huống nghiên cứu, các vấn đề lịch sử thường thấy (xếp theo thứ tự quan trọng) là: (1) tranh chấp lãnh thổ; (2) khác biệt liên quan tới quá trình hình thành và phát triển đất nước, giao lưu về văn hoá, tôn giáo, ngôn ngữ giữa các nhóm dân cư; (3) lịch sử quan hệ nói chung theo đó các vấn đề lịch sử được diễn giải và các tranh chấp/ khác biệt được tiếp cận và xử l.. Đặc biệt, các vấn đề liên quan tới nhận thức và xử l. các vấn đề lịch sử có tác động lớn đến quan hệ trong hiện tại. Các vấn đề phát sinh cũng có thể có nguồn gốc từ một mối quan hệ đang phát triển. Nhiều tình huống nghiên cứu cho thấy giữa các nước láng giềng chung biên giới nổi lên một số vấn đề chính sau: (1) tranh chấp lãnh thổ chưa được giải quyết, (2) tranh chấp kinh tế, thương mại và các quyền lợi kinhtế khác, (3) các lực lượng chính trị trong nước lợi dụng vấn đề đối ngoại để tập hợp lực lượng trongcuộc đấu tranh quyền lực nội bộ, (4) bên thứ ba khai thác mâu thuẫn trong quan hệ song phương nước lớn - nước nhỏ để tranh giành ảnh hưởng thông qua các chính sách chia rẽ, lôi kéo, bao vây… Như vậy, sự cận kề địa l. cộng với yếu tố chênh lệch sức mạnh đã làm quan hệ giữa hai nước láng giềng vốn phức tạp lại có xu hướng phức tạp hơn. Tuy nhiên, bản thân yếu tố cận kề địa l. và chênh lệch sức mạnh không quyết định sự tồn tại của các phức tạp và mức độ phức tạp trong quan hệ. Chúng là các yếu tố khách quan tồn tại: địa l. là yếu tố bất biến và sự chênh lệch sức mạnh phần lớn cũng là do yếu tố địa l. mang lại khi sức mạnh được đo bằng các tiêu chí cổ điển như diện tích lãnh thổ, tài nguyên, dân số… vốn là những yếu tố đầu tiên chi phối sự vận hành của quy luật phát triển không đều giữa các nước. Hơn nữa, với các yếu tố đó, sự chênh lệch sẽ là vĩnh viễn và không thể san bằng. Như vậy, có thể cho rằng yếu tố cận kề địa l. và chênh lệch sức mạnh chỉ là điều kiện cần cho mối quan hệ phức tạp giữa hai nước láng giềng. Điều làm cho mối quan hệ phức tạp này trở thành hiện thực nằm trong yếu tố chủ quan. Các yếu tố chủ quan này phần lớn thuộc về chính sách, với các khía cạnh sau: (1) Nhận thức và tâm lý nước lớn: Như đã nêu ở trên, nhận thức về sự vượt trội trong so sánh về sức mạnh (nhất là sức mạnh cứng, và một phần là sức mạnh mềm) làm nảy sinh tinh thần nước lớn, . thức hệ hoặc thế giới quan nước lớn với bản chất là coi thường nước nhỏ. Qua một số nghiên cứu tình huống, điểm nổi bật là tinh thần nước lớn của Nga, Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản đối với các nước láng giềng của mình. Tinh thần “đại quốc” là có thật và thường trực. (2) Thái độ ứng xử nước lớn: Tinh thần nước lớn thể hiện rõ nhất qua thái độ đối xử với nước nhỏ hơn. Hiếm khi thấy các nước lớn có chính sách thực sự tôn trọng nước nhỏ và nhạy cảm về những tác động của hành vi nước mình gây ra cho nước nhỏ. Sự không tôn trọng thể hiện qua suy nghĩ và hành động, với tác động tổng thể là làm khắc sâu nhận thức về địa vị nước lớn - nước nhỏ, thường theo chiều hướng tiêu cực. Quan trọng hơn, tinh thần nước lớn thể hiện rõ nhất trong cách thức nước lớn xử lý các vấn đề tồn tại cũng như vấn đề phát sinh. Các nước lớn thường coi nhẹ quyền lợi của các nước nhỏ, thậm chí đem ra đổi chác trong ván bài nước lớn: nếu hợp tác, nước lớn hơn thường giành lợi lớn hơn; nếu xung đột, nước lớn hơn thường bắt nạt nước nhỏ hơn; và luật lệ không ràng buộc nước lớn hơn, vì nước lớn thường cho mình quyền “phá lệ”.86 (3) Tình trạng mất lòng tin trong quan hệ: Do tác động của tâm l. nước lớn và hành động của nước lớn, ở các nước nhỏ láng giềng cũng phát triển tâm l. nước nhỏ và hành vi nước nhỏ. Tương tác giữa hai dạng nhận thức và hành vi này càng làm rộng thêm khoảng cách nước lớn - nước nhỏ thậm chí khiến các nước nhỏ mất lòng tin vào nước lớn. Nhiều nghiên cứu cho thấy vì các lý do lịch sử và hiện tại, không nước nhỏ nào tin vào lòng tốt mà nước lớn dành cho mình, viện trợ bao giờ cũng có điều kiện về sự thần phục, một hành vi không nể mặt của nước nhỏ bao giờ cũng phải trả giá... Ngoài ra, sự không nhất quán giữa lời nói và việc làm của các nước lớn thường xuyên xảy ra. Để tự bảo vệ mình, các nước nhỏ áp dụng chính sách lôi kéo bên thứ ba để tăng thế mặc cả cũng như tăng cường thảo luận nội bộ để lựa chọn chính sách tối ưu với nước lớn. Điều này làm cho nước lớn cũng mất long tin vào nước nhỏ. Vòng xoáy mất lòng tin vì thế càng leo thang. Việc tổng kết các yếu tố kể trên cho thấy trách nhiệm làm giảm tình hình căng thẳng phần lớn thuộc về nước được coi là lớn hơn. Nước nhỏ có nhiều l. do để nghi ngờ động cơ và hành vi của nước lớn và do đó nước lớn phải chịu gánh nặng lớn hơn trong việc xua tan sự nghi kị của nước nhỏ.87 Xử l. mối quan hệ bất cân xứng: Chính sách của nước nhỏ (hơn) Các phân tích trên cho thấy rằng ngoài việc coi sự kề cận địa l. và sự chênh lệch tiềm lực với nước lớn là thực tế khách quan, các nước nhỏ cũng phải coi lối suy nghĩ và hành vi ứng xử của các nước lớn cũng là một thực tế phải đương đầu. Nói cách khác, quyền chủ động nằm trong tay nước lớn. Ở mức tối ưu, nước nhỏ chỉ có thể giành quyền chủ động trong thế bị động. Nhưng chừng đó cũng có thể trở thành nội dung của những “chính sách thông minh” giúp các nước nhỏ đối phó với nước lớn. Chính sách đối phó với nước lớn trong thời đại ngày nay được xây dựng trên một tiền đề quan trọng. Đó là các nước nhỏ không còn nỗi ám ảnh bị các nước lớn xâm lược, thôn tính, sát nhập. Lô-gic của chủ nghĩa Hiện thực nhấn mạnh đến tồn vong quốc gia không thích hợp với các phát triển của chính trị quốc tế liên quan đến các nước thuộc thế giới thứ Ba: các nguyên tắc cơ bản được hình thành trong quan hệ quốc tế từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai cũng như từ thập kỷ phi thực dân hoá (thập kỷ 60) đã không công nhận xâm lược và sát nhập lãnh thổ trong quan hệ giữa các quốc gia. Điều đó có nghĩa là mục tiêu sinh tồn của một nước không còn trở thành ưu tiên cao nhất. Như Migdal đã nhận xét, thực tế trong quan hệ quốc tế cho thấy số lượng quốc gia ra đời nhiều hơn số lượng quốc gia bị mất tên trên bản đồ quốc tế.88 Như vậy, thách thức từ các nước lớn chủ yếu liên quan tới việc các nước lớn o ép các nước nhỏ, bao gồm việc hạn chế không gian tự chủ hành động của các nước nhỏ và giành phần hơn trong việc theo đuổi lợi ích quốc gia (kể cả trong bối cảnh song phương và đa phương.) Tất nhiên, như đã nêu ở trên, mức độ o ép tỉ lệ thuận với sự bất cân xứng về tiềm lực và sức mạnh, vì một l. do đơn giản là nước lớn hơn có nhiều nguồn lực và công cụ để gây ảnh hưởng tới nước ít nguồn lực và công cụ hơn. Nhiều nghiên cứu tình huống đã cho thấy một số dạng chính sách các nước nhỏ sử dụng để đối phó với nước lớn và bước đầu phân tích các điều kiện để dạng chính sách đó có hiệu quả, nhất là nếu được đặt từ góc độ sức mạnh thông minh. Xuất phát điểm đầu tiên là chính sách của một nước lớn có thể khác nhau với các nước láng giềng khác nhau. Điều này cho thấy chính sách của nước lớn lệ thuộc nhiều vào chính sách của nước nhỏ (với các yếu tố giá trị địa chiến lược/ địa kinh tế đặc thù của nước nhỏ đó). Tất nhiên, chính sách của nước nhỏ cũng lệ thuộc vào lịch sử của chính sách nước lớn đối xử với nước nhỏ đó. Và quá trình tương tác chính sách này sinh ra những sự khác biệt: một nước lớn đối xử với các nước láng giềng theo các cách khác nhau. Tuy nhiên, nếu coi tinh thần trịch thượng của nước lớn và sự chênh lệch về sức mạnh của nó với nước láng giềng và sự kề cận địa l. là thực tế khách quan thì sự chủ động chính sách của nước nhỏ nhằm hạn chế điểm tiêu cực, phát huy điểm tích cực trong chính sách của nước lớn mới là điều đáng bàn. Đây chính là bản chất của một chính sách đối ngoại thông minh, dựa trên ý tưởng chủ đạo cho rằng “ngoại giao là nghệ thuật của những điều có thể”. Nói cách khác, các nước nhỏ thông minh không bao giờ chấp nhận và đổ lỗi cho “thực tế khách quan” mà luôn luôn tìm ra những giải pháp có lợi nhất trong hoàn cảnh thực tế. Quả thực, trong quan hệ quốc tế vẫn có những tình huống nước nhỏ “dắt mũi” được nước lớn. Một số nét chính liên quan tới chính sách của các nước nhỏ là: 1. Ở mức chung nhất, “phù thịnh” dường như là một chính sách được nhiều nước theo đuổi hơn khi kết quả quan sát được là một mối quan hệ tương đối ổn định và có lợi hơn cho nước nhỏ. Trong không gian hậu Xô-viết, các nước như Bê-la-rút, Ka-dắc-xtan áp dụng chính sách này và kết quả là đã nhận được trợ giúp nhiều mặt của Nga, nhất là về kinh tế, an ninh và sự tôn trọng ở một mức độ nào đó. Nhưng một số vấn đề cốt lõi trong quan hệ nước lớn - nước nhỏ vẫn còn nguyên. Đó là tinh thần nước lớn của Nga, và theo đó là tính chất bất bình đẳng trong quan hệ song phương, dù đã giảm đi so nước này lại áp dụng chính sách phù thịnh (thân Nga hơn các nước khác). Tuy nhiên, có thể thấy rằng thái độ ôn hòa của Nga đối với các nước này trong hiện tại và quá khứ kết hợp với nhiều yếu tố khác như: Chính trị tương đối tập trung ở các nước Bê-la-rút và Ka-dắc-xtan - điều đưa tới sự nhất trí trong nội bộ các nước này về chính sách thân hữu với Nga và chấp nhận ở một mức độ nào đó ảnh hưởng của Nga trong nội trị của mình; Vị trí địa chiến lược của các nước này quan trọng đối với Nga hơn là các nước lớn khác - điều đưa tới sự dính líu ở mức vừa phải của nhân tố nước lớn thứ ba… đã làm cho quan hệ giữa Nga và các nước này khá hữu nghị, dù vẫn còn các yếu tố phức tạp của quan hệ nước lớn - nước nhỏ. Như vậy, có thể cho rằng các nước chủ trương hữu hảo với Nga đã có chính sách tương đối phù hợp và hiệu quả trong việc giảm thiểu sự bất lợi trong mối quan hệ bất cân xứng với nước láng giềng lớn là Nga. Thậm chí, trong trường hợp của Bê-la-rút, Nga còn áp dụng chế độ bao cấp/ưu đãi về mặt năng lượng như thời Liên Xô cũ. Nhưng xét cho cùng, thái độ ôn hòa của Nga với các nước này dường như là sự “đền đáp” cho những nước quan tâm đến lợi ích của Nga. Cụ thể hơn, trong ba lợi ích an ninh, phát triển và ảnh hưởng trong chính sách đối ngoại của bất cứ quốc gia nào,89 lợi ích ảnh hưởng dường như nổi trội hơn đối với các nước lớn. Nga không lo bị tấn công và các nước láng giềng cũng lệ thuộc nhiều vào nền kinh tế Nga. Nhưng nếu “tự ái nước lớn” của Nga bị đe dọa (nhất là khi các nước láng giềng thuộc không gian hậu Xô viết tỏ ra độc lập hơn, bắt tay với các nước lớn khác, và có các hành động phủ nhận lịch sử để qua đó phủ nhận vai trò của Nga) thì Nga sẽ có hành động cứng rắn. Đây là một biểu hiện của tinh thần nước lớn, có lẽ ngày càng không thích hợp với tình hình và xu thế quan hệ quốc tế hiện nay. Nhưng chọc giận Nga, làm cho tự ái nước lớn của Nga bị tổn thương cũng không phải là một chính sách thông minh và thực tế cho thấy các nước như Bê-la-rút và Ka-dắc-xtan đã không đi theo hướng này. Độc lập, đa phương đa dạng hóa, nhưng coi Nga “nhỉnh” hơn so với các nước khác đã góp phần quan trọng trong việc giải tỏa quan hệ với Nga. Thêm vào đó, trên cơ sở chứng minh được ưu tiên trong quan hệ với Nga, ngoài khả năng tăng cường quan hệ hợp tác, việc đấu tranh chống các biểu hiện nước lớn cũng như tranh thủ thu thêm lợi ích từ quan hệ với Nga sẽ trở nên dễ dàng hơn. Tóm lại, chính sách theo hướng phù thịnh tỏ ra tương đối có hiệu quả trong hai trường hợp của Bê-la-rút và Ka-dắc-xtan. 2. Về thực chất, chính sách trung lập cũng mang nhiều nét tương đồng với sự lựa chọn “phù thịnh”. Trường hợp của Phần Lan tương đối điển hình. Về nguyên tắc, Phần Lan chủ trương trung lập nhưng trên thực tiễn, nước này áp dụng chính sách thiên về Nga một cách khá tinh tế mà bản chất của chính sách đó là xây dựng được lòng tin của lãnh đạo Nga về một nước Phần Lan - tuy có chế độ chính trị và kinh tế khác với Nga - nhưng trân trọng và ưu tiên quan hệ với Nga cũng như có các kênh để truyền tín hiệu đó và hành động chứng tỏ cách tiếp cận đó.90 Một mặt, Phần Lan tích cực tăng cường quan hệ với các nước phương Tây để bớt lệ thuộc vào Nga. Mặt khác, chính Nga cũng không phản đối Phần Lan tăng cường quan hệ với phương Tây khi hiểu rằng Nga vẫn là ưu tiên trong quan hệ đối ngoại của Phần Lan. Vị thế của Phần Lan trong chính sách của Liên Xô từ sau năm 1945 và nhất là sau chiến tranh Lạnh có thể nói là tối ưu. 3. Chính sách đối đầu dường như là sự lựa chọn ít hiệu quả nhất. Có nhiều l. do để các nước nhỏ chọn lựa sự đối đầu. Tuy nhiên, sự lựa chọn đối đầu dường như có mối liên hệ với mâu thuẫn nội bộ của nước nhỏ láng giềng. Trường hợp của Gru-di-a và U-crai-na cho thấy khá rõ điều này. Các thế lực tranh giành quyền lực chính trị bên trong từng nước đã sử dụng Nga như là một mối đe dọa để kích động tinh thần dân tộc, dùng tinh thần dân tộc làm ngọn cờ tập hợp lực lượng trong cuộc đấu đá nội bộ. Lô-gic phổ biến của hiện tượng này là dùng nguy cơ bên ngoài để ổn định bên trong.91 Cứ mỗi khi lực lượng thân Nga có ảnh hưởng trội hơn, quan hệ của Nga với U-crai-na và Gru-di-a trở nên ổn định và hợp tác hơn, theo đó các tranh chấp, mâu thuẫn song phương có thể có hướng giải quyết, các vấn đề gay cấn có thể tháo ngòi nổ. Nhưng cứ mỗi khi đấu tranh nội bộ ở hai nước này tăng lên, quan hệ với Nga lại trở nên khó khăn, căng thẳng, thậm chí xung đột. Sự lựa chọn đối đầu của nước nhỏ còn có thể được hình thành khi nước lớn - vì những l. do nhất định - có chính sách cực đoan, uy hiếp và đe dọa nhằm khuất phục nước nhỏ láng giềng. Trường hợp của Cuba cho thấy Mỹ có thái độ xấu với Cuba kể từ khi cuộc cách mạng Cuba thắng lợi năm 1959 hoàn toàn do sự cay cú của tầng lớp lãnh đạo cao cấp của Mỹ thuộc cả hai đảng trước sự hình thành của một nhà nước Mác-xít ngay tại sân sau của Mỹ. Sự cay cú này bị mất đi phần lớn yếu tố . thức hệ sau khi chiến tranh Lạnh kết thúc, nhưng sở dĩ không mất hẳn là vì sự ngạo mạn nước lớn của Mỹ đối với Cuba vẫn còn. Ngoài ra, chính sách của Mỹ còn bị tác động bởi nhóm lợi ích hình thành trong số những người Cuba lưu vong chống chính quyền ở La Havana - đủ mạnh để ngăn chính quyền Mỹ có bước đi theo hướng hòa giải với Cuba. Quan hệ Mỹ - Cuba vì thế vẫn chưa có bước tiến về chất. Các bước cải thiện quan hệ có thể diễn ra khi Mỹ có chính sách ôn hòa hơn, bớt đi liều lượng can thiệp, lật đổ trong cách tiếp cận mặc dù âm mưu thay đổi chế độ vẫn được theo đuổi - điều chính quyền Obama dường như đang áp dụng. Trong trường hợp này sự lựa chọn đối đầu và các nỗ lực đẩy mạnh quan hệ với các nước khác để cân bằng mối đe dọa từ phía nước lớn theo mô h.nh “cân bằng” là tương đối dễ hiểu. Yếu tố khác biệt về . thức hệ và sự tập trung quyền lực trong nước nhỏ (cụ thể là không có sự thách thức đáng kể với lực lượng chính trị cầm quyền và theo đó là những tranh cãi về lựa chọn chính sách) càng làm cho sự đối đầu thêm sâu sắc, kể cả sau khi chiến tranh Lạnh chấm dứt. Tuy nhiên, nếu nhìn vào kết quả, các nước nhỏ phần lớn bị thiệt hại khi lâm vào cuộc xung đột trực tiếp với nước lớn láng giềng. Mức độ thiệt hại này thể hiện trên nhiều mặt. Trước hết, nước lớn bị đẩy tới vị thế khó có thể thỏa hiệp, vì lo sợ rằng bất cứ sự thỏa hiệp nào cũng là dấu hiệu của sự nhượng bộ cũng như thế yếu so với nước thứ ba. Vì thế, cách tiếp cận giải quyết tranh chấp thường theo hướng xung đột, quan hệ thường theo hướng căng thẳng trên nhiều mặt và nước lớn không thiếu cách để gây sức ép. Về mặt chính trị, nước lớn luôn tìm cách ủng hộ phái thân mình ở nước nhỏ láng giềng và nếu phái chống mình nắm quyền, nước lớn sẽ tìm cách để gạt bỏ phái đó. Ngoài ra, nước lớn còn kích động chủ nghĩa ly khai trong nội bộ nước nhỏ, xoáy sâu vào các mâu thuẫn sắc tộc, tôn giáo trong lòng nước nhỏ để làm suy yếu nước nhỏ hơn nữa. Do đó, chính sách nước lớn phần lớn có dấu hiệu can thiệp công việc nội bộ - điều làm cho tinh thần chống nước lớn có cơ hội phát triển mạnh hơn cũng như củng cố vị trí của phái chống, cô lập phái thân nước lớn. Về mặt kinh tế, nước lớn tìm cách bao vây, cấm vận và tận dụng thế lệ thuộc của nước nhỏ về mặt kinh tế để gây sức ép kinh tế, qua đó tạo sức ép chính trị. Nói cách khác, nếu có thể tách bạch vòng luẩn quẩn có tính nhân quả của mối quan hệ thù địch nước lớn - nước nhỏ thì có thể cho rằng chính sách không khôn khéo của nước nhỏ cũng gây phức tạp thêm tình hình nhất là khi nước lớn không thiếu cách gây khó dễ cho nước nhỏ láng giềng. Trên thực tế, do nước nhỏ ít có cơ hội sửa sai chính sách hơn so với nước lớn, mức độ rủi ro đối với nước nhỏ là cao hơn, vì thế nhu cầu “chính sách thông minh” rõ ràng cao hơn. Thay lời kết luận Tóm lại, việc áp dụng chính sách “phù thịnh” (ở các mức độ khác nhau) là một sự lựa chọn chính sách phổ biến hơn so với chính sách đối đầu (tức cân bằng lực lượng) với nước lớn láng giềng. Tuy nhiên, phù thịnh không có nghĩa là nước nhỏ bỏ hoặc coi nhẹ các nguyên tắc chủ yếu trong quan hệ với nước lớn. Cụ thể nước nhỏ vẫn phải giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ trong quan hệ với nước lớn. Đây là yếu tố “bất biến” trong quan hệ với nước lớn. Chừng nào nước lớn không chấp nhận nguyên tắc này, nước nhỏ phải kiên quyết đấu tranh. Đây không chỉ là vấn đề chiến lược mà còn là vấn đề có tính chiến thuật trong quan hệ với nước lớn: càng giữ được độc lập, giá trị của nước nhỏ sẽ càng cao trong quan hệ với nước lớn. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu chiến lược này, các nước nhỏ sẽ phải có những bước triển khai chính sách theo những phương châm đặc thù, thể hiện đúng so sánh lực lượng chênh lệch với nước lớn. Một nền ngoại giao hòa hiếu với nước lớn là điều cần có đầu tiên. Như đã phân tích ở trên, nếu chính sách “phù thịnh” (ở các mức độ khác nhau nhưng đều có đặc điểm là hòa bình chung sống, tôn trọng vị thế, ưu tiên lợi ích và đẩy mạnh quan hệ hợp tác với nước lớn láng giềng) là sự lựa chọn chính sách thì một nền ngoại giao hòa hiếu với nước lớn đó sẽ đóng một vai trò quan trọng. Ở mức cực đoan, hòa hiếu thậm chí phải được hiểu là sự nhún nhường, kể cả nhịn nhục và chấp nhận một số thỏa hiệp miễn là không vi phạm đến mục tiêu căn bản của chính sách đối ngoại. Mức độ phải chịu “nín nhịn” có thể được giảm đi thông qua các giải pháp sau: (i) Về song phương, tăng cường xây dựng lòng tin và thỏa thuận quy tắc ứng xử, đồng thời tăng cường quan hệ các mặt để tạo thế đan xen lợi ích, nhất là kinh tế (ii) Mở rộng quan hệ với các nước thứ ba để tạo thêm thế và lực cho nước nhỏ trong quan hệ với nước lớn, và (iii) Tham gia các cơ chế đa phương để tạo thêm ràng buộc hành vi và trách nhiệm của nước lớn đối với nước nhỏ. Bản chất của chiến lược này là xây dựng sự lệ thuộc lẫn nhau, đan xen lợi ích một cách rất linh hoạt. Đặc điểm của quan hệ quốc tế hiện nay cho thấy có điều kiện để chiến lược này được triển khai. Các đặc điểm đó bao gồm: sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học công nghệ; toàn cầu hóa và sự lệ thuộc lẫn nhau; sự nổi lên của các vấn đề toàn cầu; quá trình dân chủ hóa quan hệ quốc tế tiếp tục phát triển và chi phối mạnh mẽ cục diện quốc tế... Ngoài ra, các nước lớn tuy cạnh tranh gay gắt với nhau cũng đồng thời tìm kiếm sự thỏa hiệp, đẩy mạnh hợp tác làm cho nhu cầu tìm kiếm đồng minh từ các nước nhỏ không còn trở nên bức thiết như trong thời kỳ chiến tranh Lạnh. Hơn nữa, khi toàn cầu hóa phát triển, các nước đều có thể tận dụng lợi thế so sánh của mình để phát triển: nước nhỏ, kể cả nghèo nàn và lạc hậu, cũng có thể có cơ hội hội nhập vào nền kinh tế thế giới, tham gia phân công lao động quốc tế.92 Kết quả tổng thể của tình trạng này là vai trò và vị trí của các nước nhỏ tăng lên trong chính sách của các nước lớn, đa phương được ưa chuộng hơn đơn phương, và các nước nhỏ có nhiều điều kiện hơn để giữ vững độc lập chính trị và phát triển kinh tế. Trong hoàn cảnh đó thuận lợi đó, nước nhỏ có thể bớt đi liều lượng “nhịn nhục”. Nếu bản chất của chính sách Câu Tiễn là “biến đại sự thành tiểu sự” thì trong tình huống này, nước nhỏ - với sự hỗ trợ của các thể chế/ tổ chức quốc tế và sự ủng hộ của các nước khác - cũng có thể “biến tiểu sự thành đại sự” để dùng sức mạnh bên ngoài đấu tranh với nước lớn láng giềng (giới hạn ở trong phạm vi không làm mất mặt nước lớn). Tất nhiên, điều này càng chứng minh rằng những mặt thuận lợi mà điều kiện khách quan đưa lại phải được phát huy bằng những tư duy và chính sách có tính chủ quan. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng một số nước đã có chính sách hiệu quả hơn, tận dụng hoàn cảnh bên ngoài thuận lợi để đương đầu với nước lớn láng giềng. Nói cách khác, mức độ “thông minh” trong chính sách khác nhau sẽ đưa tới kết quả chính sách khác nhau, do tuy có chung các điều kiện khách quan, các nước nhỏ không có một khuôn mẫu hoặc công thức chính sách chung để đương đầu với nước lớn láng giềng trong các hoàn cảnh cụ thể.
  6. Tranh chấp Biển Đông: Liệu Trung Quốc có giải quyết bằng vũ lực? Bài viết “Trung Quốc sử dụng vũ lực giải quyết vấn đề Biển Đông, nước nào là đối tượng đầu tiên?” trên mạng “Quân sự Thiên Thiên” của Trung Quốc phân tích về sự lựa chọn đối thủ trong trường hợp Trung Quốc quyết định dùng vũ lực đánh chiếm quần đảo Trường Sa. Tại Biển Đông, để đạt được mục đích chung sống hoà bình, Chính phủ Trung Quốc đã ký với các quốc gia Đông Nam Á văn kiện “Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông” vào ngày 4/11/2002. “Tuyên bố” nhấn mạnh thông qua đàm phán, hiệp thương hữu nghị, lấy phương phức hoà bình giải quyết những tranh chấp liên quan tại Biển Đông, trước khi giải quyết tranh chấp, các bên cam kết giữ kiềm chế, không áp dụng các hành động khiến tranh chấp trở nên phức tạp và mở rộng. Văn kiện này có ý nghĩa tích cực quan trọng trong việc bảo vệ lợi ích chủ quyền của Trung Quốc, duy trì hoà bình, ổn định tại khu vực Biển Đông, tăng cường lòng tin giữa Trung Quốc và ASEAN. Việt Nam có những biểu hiện nào khi xâm chiếm các đảo ở Biển Đông? Việt Nam chiếm giữ 29 đảo trên quần đảo Trường Sa, là nước chiếm nhiều đảo nhất. Để chiếm giữ hữu hiệu các đảo này, Việt Nam đã áp dụng sách lược nói ít làm nhiều. Nhằm tránh xảy ra xung đột với Trung Quốc, Việt Nam xâm chiếm một cách lặng lẽ, sau khi tạo sự thật đã rồi mới tuyên bố có chủ quyền đối với các đảo này. Nhưng Việt Nam cũng ngại đụng chạm tới “giới hạn cuối cùng” của Trung Quốc, sợ một lần nữa vấp phải cuộc tấn công đến từ quân đội Trung Quốc, Việt Nam bắt đầu học bài “hỗ trợ từ nước ngoài” nhằm đạt được mục đích “lấy yếu thắng mạnh”. Tháng 7/2008, Việt Nam ký hiệp định thăm dò dầu khí với một công ty nước ngoài. Theo “Báo Hoa Nam buổi sáng” (Hồng Công) khi đó đưa tin, Việt Nam và tập đoàn Exxon Mobil (Mỹ) đạt được một hiệp định về hợp tác thăm dò dầu khí, trong đó địa điểm thăm dò lại nằm trong khu vực lãnh hải tranh chấp Trung-Việt trên Biển Đông. Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Lưu Kiến Siêu ngày 22/7/2008 tuyên bố, Chính phủ Trung Quốc cho rằng hành động này là hành vi xâm phạm chủ quyền Trung Quốc của Chính phủ Việt Nam, bày tỏ sự phản đối mạnh mẽ đồng thời đưa ra giao thiệp nghiêm khắc; hơn nữa, yêu cầu tập đoàn Exxon Mobil chấm dứt thực hiện hiệp định này. Tuy nhiên, Exxon Mobil lại cho rằng Việt Nam có chủ quyền đối với các khu vực thăm dò tương ứng. Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Dũng trong khi trả lời phóng viên “Báo Hoa Nam buổi sáng” của Hồng Công, đã nói: Hiệp định ký kết với Exxon Mobil thuộc chủ quyền quốc gia Việt Nam, nước khác không có quyền can thiệp. Đây không phải là lần đầu tiên Việt Nam không thương lượng với Trung Quốc, tự thăm dò tài nguyên dầu khí trong khu vực biển tranh chấp, Việt Nam đã phân chia hàng trăm khu vực thăm dò, khai thác dầu khí trên vùng biển thuộc quần đảo Trường Sa để mời thầu trên toàn cầu. Trong những năm gần đây, các tập đoàn dầu khí của Mỹ, Nga, Pháp, Anh, Đức đều ký với Việt Nam một loạt hợp đồng thăm dò, khai thác dầu khí tại Biển Đông, Việt Nam đã nhuộm màu sắc quốc tế cho vấn đề tranh chấp Biển Đông. Tháng 4/2007, Việt Nam khởi động kế hoạch phát triển mỏ khí và đường ống dẫn khí thiên nhiên trong vùng biển tranh chấp Trường Sa với tập đoàn dầu mỏ BP của Anh, gặp sự phản đối kiên quyết của Chính phủ Trung Quốc, buộc BP phải thay đổi kế hoạch. Vì gác tranh chấp, Trung Quốc vẫn chưa khai thác nổi một thùng dầu tại khu vực tranh chấp. Trong khi đó, tính đến nay Việt Nam đã khai thác gần 100 triệu tấn dầu thô, 1,5 tỷ m3 khí từ các giềng dầu ở khu vực Trường Sa, thu lợi hơn 25 tỷ USD. Sản lượng dầu mỏ khai thác hàng năm tại Biển Đông đạt từ 50 - 60 triệu tấn, trong đó sản lượng dầu mỏ tại khu vực tranh chấp Trung-Việt đạt khoảng 8 triệu tấn, chiếm tỷ trọng tương đối trong tổng sản lượng khai thác dầu mỏ hàng năm của Việt Nam là 30 triệu tấn. Để chiếm đóng vĩnh viễn các đảo, Việt Nam không ngại tổ chức cái gọi là diễn tập quân sự liên hợp với Mỹ nhằm vào Trung Quốc, với lại hai nước Trung-Việt vẫn đang trong quá trình đàm phán, thái độ bắt đầu thay đổi. Hành động này gặp phải sự phản đối của Trung Quốc, gây ra tình trạng căng thẳng hơn nữa trong quan hệ hai nước. Trung Quốc nên chăng tấn công quân sự đối với Việt Nam ? Nếu quân đội Trung Quốc giải quyết tranh chấp Biển Đông bằng vũ lực, phải tiến hành điều tra dân ý về vấn đề “đánh ai trước”, chắc chắn trên 80% dân chúng Trung Quốc đều hô to một tên - Việt Nam. Dựa vào thực lực quân sự của Trung Quốc hiện nay có thể khẳng định rằng, nếu hải quân hai nước Trung-Việt xảy ra chiến tranh tại quần đảo Hoàng Sa hoặc quần đảo Trường Sa, quân đội Việt Nam chỉ có thể chống đỡ, không có sức đánh trả, cuối cùng phải chịu thất bại, quân đội Trung Quốc khẳng định sẽ giành chiến thắng gọn gàng, triệt để. Với thực lực quốc gia và thực lực quân đội hiện nay của Việt Nam căn bản không chịu nổi một trận đánh của Trung Quốc. Mặc dù, tác giả bài viết này nhất trí với đánh giá của đa số người dân Trung Quốc, nhưng mặt khác tác giả cũng tán thành với một bộ phận có quan điểm nhìn xa trông rộng, không chủ trương tiến đánh Việt Nam ngay lập tức, vậy vì sao? Tác giả bài viết cho rằng trong một thời gian dài kiên trì theo dõi các chương trình quân sự trên truyền hình và trên các phương tiện truyền thông khác, lắng nghe các chuyên gia quân sự đánh giá về tình hình Biển Đông và trong các cuốn sách chuyên đề cũng như các bài bình luận trên mạng của các chuyên gia quân sự, cũng đọc thấy nhiều bài viết và ý kiến về chủ trương không tiến đánh Việt Nam trước, tác giả có cùng một quan điểm với chủ trương này: Trung Quốc giải quyết vấn đề tranh chấp Biển Đông, mục tiêu tiến đánh đầu tiên không nên là Việt Nam, và không chủ trương lập tức khai chiến với Việt Nam, một khi Trung Quốc khai chiến với Việt Nam sẽ tạo ra nhiều hậu quả, trong đó có 4 điểm vô cùng bất lợi cho Trung Quốc: Một là, hiện nay Việt Nam có thể nói đang trong hoàn cảnh hết sức khó khăn, từ sau Chiến tranh Lạnh, Việt Nam bắt đầu mất dần ký ức chiến tranh, mặc dù trong những năm gần đây họ giơ cành ô liu với người Mỹ, nhưng lịch sử thảm khốc của cuộc Chiến tranh Việt Nam và hình thái ý thức của Đảng Cộng sản Việt Nam, khiến Mỹ băn khoăn lo lắng, huống hồ người Mỹ cũng biết rất rõ, người Việt Nam chẳng qua là muốn hàng không mẫu hạm của Mỹ đến để kiềm chế và hù dọa Trung Quốc mà thôi. Nếu Trung Quốc đánh Việt Nam, người Việt Nam sẽ kêu gọi sự bảo vệ của Mỹ, Nhật Bản, cung cấp căn cứ quân sự cho Mỹ, Nhật, như vậy tuyệt đối không phải là một tin tốt cho Trung Quốc, Trung Quốc sẽ mất đi “vùng đệm hòa hoãn” phía Nam trong sự đối kháng với Mỹ. Cục diện này là ước nguyện của người Mỹ mấy chục năm qua, cũng là mục đích mà người Mỹ phải sử dụng biện pháp chiến tranh trong mười mấy năm mà chưa đạt được, và một khi xuất hiện cục diện này, dưới sự “giúp sức” của Trung Quốc, chắc chắn người Mỹ sẽ thực hiện được mục tiêu này. Nếu quân đội Mỹ có thể quay trở lại cảng Cam Ranh, có thể khẳng định cuộc sống của Trung Quốc sẽ không còn tốt đẹp. Hai là, chiếm giữ các đảo của Trung Quốc tại Trường Sa còn có các nước Philíppin, Malaixia, Inđônêxia, Brunây, nếu các nước này nhận được sự ủng hộ và xúi giục từ Mỹ, sẽ liên hợp với Việt Nam tiến hành chiến tranh chống lại Trung Quốc, cục diện này rất có khả năng xảy ra, vậy Trung Quốc phải làm sao? Toàn bộ khu vực Biển Đông sẽ trở thành chiến trường, hoàn toàn có thể khiến toàn bộ các nước Đông Nam Á thoái thác triệt để cho Mỹ, thảm họa chiến tranh sẽ tiếp nối, đồng minh của Trung Quốc tại khu vực này sẽ ngày càng ít, thậm chí bị cô lập hoàn toàn, hình tượng nước lớn có trách nhiệm của khu vực được Trung Quốc xây dựng từ năm 1999 đến nay bị sụp đổ hoàn toàn, nếu nhân cơ hội này Đài Loan đi theo hướng độc lập, Nhật Bản chiếm đóng tại đảo Điếu Ngư, Nam Tây Tạng lại có vấn đề, Trung Quốc thật sự xuất hiện cục diện “bốn bề gặp họa”, phiền phức không để đâu cho hết. Ba là, các đảo Việt Nam chiếm giữ tại Biển Đông phân bố rải rác và trong phạm vi rộng, đại bộ phận đều nằm ở cực Nam của Biển Đông, đánh chiếm các đảo trên với Việt Nam như thế nào, mặc dù nói một tấc lãnh thổ cũng không thể nhường, nhưng đối với Trung Quốc, một số đảo thuộc khu vực Trường Sa thực sự quá xa, xa đến mức nếu dựa vào biện pháp kỹ thuật hiện nay, cho dù khai thác, phát triển thì lợi ích thu được so với cái giá phải bỏ ra để bảo vệ cũng không thể so sánh được, ngược lại, những đảo này rất gần với phía Nam Việt Nam, huống hồ sau khi đánh chiếm những đảo này, hải quân Trung Quốc không thể dùng cả một hạm đội tác chiến bố trí lâu dài tại cực Nam của Biển Đông, vì vậy đánh chiếm các đảo này sẽ rất khó phòng thủ, rất có thể xuất hiện cục diện mất rồi lại được, được rồi lại mất, nếu xuất hiện cục diện này, hao người tốn của là chuyện không phải bàn, Việt Nam sẽ làm tiêu hao một lượng lớn sức chiến đấu của hải quân Trung Quốc, trong khi đó hải quân Mỹ cũng sẽ nhân cơ hội này gây ra những phiền phức cho hải quân Trung Quốc. Bốn là, Trung Quốc tiến đánh Việt Nam trước, chắc chắn sẽ gặp sự phản đối kiên quyết từ nước láng giềng phương Bắc - đó là Nga, vì sau khi Liên Xô tan rã, Nga kế thừa và phát triển quan hệ đồng minh hữu nghị với Việt Nam, hiện nay Nga là nguồn cung cấp trang bị vũ khí quân sự và hoả lực lớn nhất của Việt Nam, ngược lại, người Nga nhập khoảng 30% hàng nông sản, thực phẩm từ Việt Nam, một khi Trung-Việt xảy ra chiến tranh, chắc chắn sẽ ảnh hưởng tới quan hệ đối tác mật thiết Trung-Nga mà hai nước mới thiết lập, tình hình quốc tế hiện nay đòi hỏi hai nước Trung-Nga phải đoàn kết mật thiết, cùng nhau đối phó với nguy cơ quân sự ngày càng nghiêm trọng, nếu Nga cũng gia nhập vào tập toàn tuyên truyền về thuyết “mối đe dọa từ Trung Quốc”, như vậy Trung Quốc sẽ ở vào địa vị quốc tế hết sức khó xử, Nga cũng sẽ đối xử thù địch với Trung Quốc, Trung Quốc thật sự bị Mỹ bao vây toàn diện. Trong khi đó, kinh tế của Trung Quốc cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng, đây là bất lợi lớn nhất. Căn cứ vào 4 nguyên nhân trên, Trung Quốc tiến đánh Việt Nam đầu tiên để giải quyết vấn đề Biển Đông là sự lựa chọn không sáng suốt, nếu tiến đánh Việt Nam đầu tiên, các nước tranh chấp khác dưới sự xúi giục và ủng hộ của Mỹ, khẳng định sẽ không khoanh tay đứng nhìn, nhưng nếu Trung Quốc tiến đánh Philíppin đầu tiên hoặc nước khác, tác giả có đầy đủ lý do chứng minh rằng, cho dù Mỹ gây chia rẽ như thế nào, Việt Nam đều sẽ không dám tham gia, trong vấn đề Biển Đông, hai nước Trung-Việt dường như có một dạng hiểu ngầm là: “anh không đánh tôi, tôi không tham gia” và “tôi không đánh anh, anh không tham gia”, năm ngoái Trung Quốc và Philíppin xảy ra xung đột xung quanh vấn đề đảo Hoàng Nham, biểu hiện giữa Trung Quốc và Việt Nam đã cho thấy tồn tại sự hiểu ngầm đó. Mặc dù, chiến tranh là tàn khốc, là không nhân đạo, nhưng có lúc cũng là điều phải làm và cũng là biện pháp hiệu quả nhất. Những vấn đề đang đặt ra cho Chính phủ và quân đội Trung Quốc là: Đánh ai trước? Khi nào đánh? Sau khi thu hồi các đảo bị chiếm đóng tại Biển Đông nên củng cố và bảo vệ như thế nào? Căn cứ vào tình hình Biển Đông hiện nay, tác giả đưa ra cách nhìn sau: 1. Nước nào quan hệ tốt nhất với Mỹ? 2. Nước nào hô hào chống Trung Quốc mạnh nhất? 3. Nước nào quy hoạch các đảo chiếm đóng của Trung Quốc vào bản đồ nước mình đầu tiên? 4. Nước nào chiếm các đảo của Trung Quốc có cự ly gần với Trung Quốc đại lục nhất? Nếu quốc gia nào đồng thời phù hợp với 4 điều kiện kể trên, thì đó chính là đối tượng mà quân đội Trung Quốc cần tiến đánh đầu tiên, căn cứ vào tình hình Biển Đông hiện nay thì quốc gia đó chính là Philíppin. Philíppin chiếm giữ 10 đảo. Philíppin là nước có lực lượng hải quân yếu nhất trong số các nước tranh chấp tại Biển Đông. Để chiếm giữ hữu hiệu các đảo, Philíppin đã áp dụng một số biện pháp cầu cứu sự ủng hộ và bảo vệ từ bên ngoài. Tháng 4/1992, Philíppin khởi xướng “Hiệp ước thân thiện và hợp tác ASEAN”, Hiệp ước này yêu cầu giải quyết hoà bình tranh chấp Biển Đông. Hai năm sau, Philíppin ký hợp đồng với một công ty của Mỹ, tiến hành cái gọi là hoạt động thăm dò và nghiên cứu địa chất ở khu vực tranh chấp phía Tây quần đảo Palawan , hành vi của Philíppin dẫn đến sự phẫn nộ của Trung Quốc. Được coi là một phản ứng, Trung Quốc đã dựng cột mốc trên đảo đá ngầm Mỹ Tế (Việt Nam gọi là Vành Khăn, Philíppin gọi là Panganiban) thuộc quần đảo Trường Sa, xây dựng nhà dân và nhà tránh bão dân dụng cho ngư dân. Philíppin cho rằng đảo Mỹ Tế thuộc Philíppin, vì vậy, đã tiến hành phá hoại có chủ ý, đồng thời bắt giữ các ngư dân Trung Quốc đang hoạt động tại vùng nước cách phía Tây quần đảo Palawan 80 km. Đây là tranh chấp đảo Mỹ Tế giữa Trung Quốc và Philíppin. Sau này, do cảnh cáo nghiêm khắc từ phía Chính phủ Trung Quốc, Philíppin đã phải thả toàn bộ ngư dân Trung Quốc. Được biết, Philíppin làm như vậy tất cả đều do cuộc bầu cử trong nước sắp diễn ra, khi người phát ngôn Bộ Ngoại giao Philíppin đề cập đến vấn đề này, đã viện dẫn Hiệp ước phòng thủ chung mà Philíppin ký với Mỹ, trong Hiệp nước này nói, một khi Philíppin bị tấn công, Philíppin sẽ tiến hành thảo luận song phương với Mỹ, có lẽ do nguyên nhân của Hiệp ước này mà Ngoại trưởng Mỹ đã nhắc nhở Ngoại trưởng Trung Quốc: Mỹ có nghĩa vụ với Philíppin theo Hiệp ước. Phải chăng Mỹ nhúng tay vào vấn đề tranh chấp Biển Đông? Mỹ nhúng tay vào tranh chấp Biển Đông là điều hoàn toàn khẳng định, đây là một trong những bước đi chiến lược “quay trở lại châu Á, xưng bá châu Á” của Mỹ, mục đích là kiềm chế Trung Quốc tăng tốc trỗi dậy trên phạm vi toàn cầu, để củng cố địa vị bá chủ của mình trên phạm vi toàn cầu, chính vì vậy việc tích cực nhúng tay vào vấn đề tranh chấp Biển Đông sẽ không có gì làm lạ, Trung Quốc cũng đã quen với bất cứ phiền phức nào đều có “bạn đồng hành” là Mỹ, cho dù là nhận được sự giúp đỡ của Mỹ, chẳng nhẽ người Mỹ triển khai hàng triệu quân và mười mấy chiếc hàng không mẫu hạm đến Biển Đông để giúp một nước nhỏ không quan trọng hay sao? Mỹ thực hiện chiến lược kiềm chế Trung Quốc, hoàn toàn không có nghĩa là chiến lược chiến tranh, thủ đoạn là “trò chơi bên miệng hố chiến tranh” chứ không phải “trò chơi chiến tranh”, không vì một hòn đảo nhỏ mà Mỹ khai chiến với Trung Quốc. Người Mỹ nhiều nhất cũng chỉ đem hàng không mẫu hạm đến uy hiếp Trung Quốc, viện trợ một chút vũ khí và ủng hộ về mặt nhân đạo. Người Mỹ liên hợp triển khai đối kháng quân sự nhằm vào Trung Quốc, là lấy đá đập vào chân mình. Ngay cả Mỹ thật sự xuất quân can dự, liệu Trung Quốc có từ bỏ vũ lực thu hồi chủ quyền các đảo tại Biển Đông? Đáp án là phủ định. Trung Quốc không phải là Ápganixtan, Irắc hay Libi, Trung Quốc ngày nay không yếu hèn như vậy, Trung Quốc tuyệt đối không tỏ ra yếu kém trước bất cứ quốc gia nào tại Biển Đông, có sự can thiệp của người Mỹ càng khiến Trung Quốc kiên định hơn vào quyết tâm và ý chí chiến đấu nhằm thâu tóm Biển Đông. Nếu “Trung-Mỹ tất phải có một cuộc chiến”, trước khi Chính phủ và quân đội Trung Quốc sử dụng vũ lực thu hồi các đảo tại Biển Đông, nên làm tốt mọi sự chuẩn bị để có thể quyết chiến với Mỹ tại Biển Đông. Theo báo mạng Quân sự Thiên Thiên, Trung Quốc, ngày 15 tháng 5 ========================================================== Các bạn xem tham khảo ý kiến của tác giả trung Quốc Chúng cũng có âm mưu rõ ràng
  7. @Pham Hung Trên diễn đàn cũng có bài học về Lạc Việt Độn Toán và Câu lạc bộ Lac Việt Độn toán dành cho các thành viên yêu thích lac việt Độn Toán rồi. Ngoài ra, thì thường xuyên tham dự buổi nói chuyện chuyên đề Lạc việt Độn toán của Trung tâm do Huynh Thiên Đồng tổ chức, thì bạn sẽ hiểu hơn và sẽ nâng cao tay nghề mà. Ths
  8. Ngô Bảo Châu nhận danh hiệu giáo sư xuất sắc Ngô Bảo Châu là một trong 6 giáo sư của Đại học Chicago (Mỹ) vừa nhận được danh hiệu giáo sư xuất sắc, theo bản tin của trường đại học này. Bản tin Đại học Chicago dành lượng lớn bài viết về Giáo sư Ngô Bảo Châu, người vừa đạt giải Fields toán học danh giá chứng minh bổ đề cơ bản trong "chương trình Langlands". Khi chương trình Langlands được giải quyết, loài người sẽ gần như có được một cái nhìn thống nhất cho nhiều ngành của toán học hiện đại như số học, đại số và giải tích. Khi công trình của Ngô Bảo Châu - bao gồm gần 200 trang - được xác nhận là đúng, giới toán học khắp thế giới đã thở phào nhẹ nhõm. Tại các trường đại học ở Mỹ, danh hiệu "Distinguished service professorships" (giáo sư xuất sắc) chỉ được trao cho số ít giáo sư của đại học. Năm giáo sư khác của đại học Chicago cũng đạt danh hiệu giáo sư xuất sắc thuộc các lĩnh vực: hóa học, vật lý, triết học. Tháng 9 năm ngoái, Giáo sư Ngô Bảo Châu về giảng dạy tại khoa toán, trường đại học Chicago. Ngô Bảo Châu sinh năm 1972, từng học khối phổ thông chuyên toán của Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội và đoạt giải huy chương vàng Olympic toán quốc tế năm 1988 và 1989. Ông nhận được học vị tiến sĩ tại ĐH Paris-Sud năm 1997. Năm 2004 Ngô Bảo Châu nhận giải thưởng nghiên cứu hàng năm của Viện Toán học Clay, Mỹ dành cho những người đạt thành tựu xuất sắc nhất trong năm nhờ giải quyết một trường hợp đặc biệt của “chương trình Langlands”. Mỗi năm chỉ có một hoặc hai người được trao giải và Ngô Bảo Châu là người Việt Nam đầu tiên nhận giải thưởng này. Sau khi nhận giải thưởng Clay, ông được Viện nghiên cứu khoa học cao cấp Princeton của Mỹ mời sang làm việc. Viện này là nơi quy tụ nhiều nhà toán học và nhà vật lý hàng đầu thế giới, trong đó nhiều người từng đoạt giải Nobel và giải Fields. Ngô Bảo Châu còn nhận được giải thưởng của Viện Nghiên cứu Toán học Oberwolfach dành cho các nhà toán học trẻ châu Âu vào năm 2007 và giải thưởng của Viện Hàn lâm Pháp vào năm 2008. Ngày 19/8/2010, Giáo sư Ngô Bảo Châu đã nhận Giải thưởng Fields do Liên đoàn Toán học thế giới trao tặng. Đây là lần đầu tiên giải thưởng này được trao cho một người Việt Nam.
  9. Thủy Hử góc nhìn mới Ngày xưa còn bé, các bộ truyện tàu như : thuỷ hử, tam quốc, Tây Du Kí .. đều được tớ đọc một cách vô cùng chăm chú, và chắc hẳn, trong số các bạn, có những người cũng có những ươc mơ là có một ngày được làm những nhân vật anh hùng hảo hán như trong đó Nhưng lớn lên một chút, với sự phát triển của xã hội loài người, con người không chỉ đơn thuần có tình yêu nam nữ nữa, mà bây giờ có cả tình yêu nam - nam và nữ - nữ Tự dưng nhớ lại những câu chuyện đã đọc,chợt nhận ra một điều là , Thuỷ Hử truyện là bộ tiểu thuyết không chỉ nói về khởi nghĩa của những người nông dân, mà còn là bộ tiểu thuyết đầu tiên nói về cuộc khởi nghiã của những người đồng tính Này nhé,hãy thử kiểm tra xem các nhân vật trong thuỷ hử, ngoại trừ những nhân vật có vợ con đếm trên đầu ngón tay như : Lâm Xung,Từ Ninh. Thái viên tử Trương Thanh, Vương Anh... thì đại đa số các nhân vật của Thuỷ Hử đều không có tí rung động nào với nữ sắc, tất nhiên ngoại trừ anh Dương Chí vì anh ý xí trai quá Đơn cử rất đơn giản , ban đầu là sự xuất hiện của Tiều Cái và ba anh em họ NGuyễn cùng với Ngô Dụng, các bố này, ngày ngày tụ tập rượu chè, có lúc đóng cửa hú hí với nhau cả tháng giời, mà chả thấy ai nói gì đến việc vợ con cả, đến lúc bần cùng, thì tụ tập nhau đi cướp , sau bị truy nã thì hô hào nhau lên Lương Sơn Bạc.Mà lúc bị Vương Luân tách mỗi thằng một phòng thì không chịu, lại còn làm loạn lên đòi ở cùng nhau một phòng mới chịu im . Truyện có nói đến nhân vật Sài Tiến, ông này , nếu mà như trong chuyện viết ý, thì là người hảo hán ,thấy tù nhân đi qua thì tiếp đãi tử tế, nhưng mà suy rộng ra, thì bố này là loại GAY nặng, tức là biết các tù nhân đều đa phần là hảo hán, hàng khủng ,nên là thấy anh nào hàng họ ngon lành là đem về nuôi ,đơn cử ví dụ điển hình là anh Lâm XUng, và anh Võ Tòng.Nhưng về cơ bản, anh Lâm XUng anh ý có vợ rồi nên ứ thèm ở đâu,một đêm đi luôn, còn anh Tòng thì ăn dầm nằm dề cả tháng. Nhân đấy, nói tiếp chuyện anh Tòng, anh này cao to lực lưỡng là thế ,cơ mà khi bị Phan KIm liên mê hoặc ve vãn là thế,cũng chả thấy tặc lưỡi chép miệng gì. Cứ coi như là đấy là quan hệ chị dâu em chồng đ, giữ lễ tiêt là đúng,nhưng mà sao bản thân anh ý, lúc ở nhà Trương đô Giám, được tặng cả con hàng ngon vãi ra mà chả thấy ý kiến ý cò gì, chỉ nhận làm em gái.Ấy thế mà lại đem lòng yêu thằng bị bệnh gan Kim nhãn bưu Thi Ân, nó nhờ đi đánh hộ thằng Tưởng Môn thần là hối hả đi ngay, không cần biết hay dở dọc ngang gì. mà có gì to tát đâu, chỉ vì một quán rươụ .. thế mới tài. mà sau này anh này chắc hận đời quá, hoặc giả gặp Lỗ Trí Thâm anh ý đem lòng yêu mêns thế nào nên mới mặc đồ hành già vào cùng Lỗ Trí Thâm kết thành đôi GAY: HOÀ THƯỢNG_HÀNH GIẢ .... lãng mạn hơn tí là chuyện của anh Giang đen ( Tống Giang ), anh này có biệt hiệu là cập thời vũ( mưa đến kịp thời). Bố này thấy tình cảnh Diên Bà tích đáng thương nên bỏ tiền ra giúp.. ok cái này là hảo hán, cơ mà thế quái nào khi mà đến cảnh ăn nằm cả Diên Bà tích thì lại ứ thèm,lại hoảng sợ chồm dậy bỏ đi ???( nghi vấn về giới tính), vội vàng thế nào rơi cả mật thư...rồi lúc nhớ ra, quay lại. Nếu như người đàn ông bình thường thì cứ chiều theo ý Bà Tích cho xong, đẳng này anh Giang đen chả ý kiến ý cò gì xọc luôn BÀ TÍCH phát, mà dụng cụ xọc là gì ??? DAO !Bà Tích viên tịch=> tàn một đời hoa Đấy là anh Giang đen ,đại đầu lĩnh Lương Sơn Bạc nhá, xong đến anh Nghĩa ,anh này trên danh nghĩa là có vợ con đàng hoàng, nhưng mà có thể nói nôm na anh này là BISEXUAL, tức là ngừơi lưỡng giới, anh này anh ý si mê YẾN THANH hơi bị nặng, đi đâu hai thằng cũng kè kè nhau,đâm ra bà vợ mới lũng cú, mới cặp kè với thằng LÝ CỐ cướp hết gia sản. Yến Thanh và Lư Tuấn Nghĩa cũng lại nhờ các anh em( tình nhân ) về giết Lý Cố và bà vợ rồi cặp đôi này cũng tếch lên Lương Sơn Bạc hú hí với nhau. Yến Thanh thì khỏi nói rồi,cái lúc mà được đệ nhân danh kĩ LÝ SƯ SƯ bảo cởi áo ra mà cũng có làm gì đâu, sau này chỉ nhận chị em => chán bố này lắm Rồi lại tiếp đến là nhân vật Bệnh Quan Sách Dương Hùng vàBiểu mệnh tam lang Thạch Tú. Đồng chí Dương Hùng này hình như gan cũng có vấn đề như thằng Thi Ân, một thằng thì vàng mặt, một thằng vàng mắt, chả hiếu thế quái nào nữa . Cơ mà bố này cũng có quả vợ xinh như mộng , cơ mà thế quái nào ông ý lại chả them gần gũi với vợ tí nào, đâm ra để vợ lăng nhăng với thằng hoà thượng. Sauk hi Dương Hùng gặp và yêu Thạch Tú, được Thạch Tú cho biết là vợ mình lăng nhăng vs Hoà Thượng thì cũng xách dụng cụ về xọc vợ,mà dụng cụ ở đây vẫn là dao . Vợ Dương Hùng trước khi chết có nói câu này : “tao lấy mày ba năm, mà éo bằng ba đêm tao ở cả sư huynh…” Đấy, theo lịch sử thì các nhân vật hảo hán đều lên Lương Sơn vì hoàn cảnh éo le khác nhau, nhưng tựu trung, họ đều vì tình yêu đồng giới của mình không được thời ấy chấp nhận mà thôi . Đâm ra ,ngoài những nhân vật có gia đình được đưa lên Lương Sơn, thì xét về bản chất, Lương Sơn Bạc có thể coi là MỘT THIÊN ĐỪƠNG của NHỮNG NGƯỜI ĐỒNG TÍNH. Từ những cặp đôi ban đầu lên Lương Sơn với nhau,sau khi tụ đủ 108 bác , nhất là khi anh CÁI viên tịch ,anh Giang đen lên thay thì có thể coi đây là thời kì phát triển đại thịnh của THIÊN ĐƯỜNG ĐỒNG TÍNH. Các anh này yêu nhau một cách công khai tập thể, mà rất chung thuỷ hở một tí là đòi chết thay nhau, hở một tí có thằng nào lỡ mồm xúc phạm cái là các bố ý thi nhau đòi chém đòi giết. Hễ có ông nào bị bắt cái là cả lũ hè nhau đi cứu, chả cần biết hay dở là gì chả cần biết phải trái …. Tóm lại, trên đây chỉ là một số ví dụ điển hình về sự thật của các anh hung hảo hán trong Thuỷ Hử ,và như các bạn đã thấy, ĐỒNG TÍNH là một tình trạng đã phát triển rất lâu trong cộng dồng chứ không phải bây giờ mới có. ====================================================================== Hề hề, các bạn người hán đã có đồng tính từ cái thời đó àh và có lẽ bây giờ thì phát triển nhiều lắm nhỉ
  10. Sau khi xem xong trận đấu, thì nỗi buồn và niềm vui, xen lẫn Buồn vi là fan của MU thua trận, buồn vì thức đêm để nhận 1 kết qua thua. Vui là đã mạnh dạn đưa ra kết qua và đúng là tỉ số (Chiêu cảm ứng quẻ này là Thiên Đồng hướng dẫn) Hy vọng tất cả anh em cùng có dịp luận quẻ và chiêm nghiệm tính hiệu quả của Lạc Việt Độn toán.
  11. Gà trống & gà mái Trong 1 nông trại có nuôi gà trống và gà mái Ngày nọ, con gà trống đuổi theo gà mái để đạp mái. Tình huống xảy ra như sau: Tập 1: Con gà mái vừa chạy và suy nghĩ: "không biết mình chạy có quá nhanh không nhỉ ? éc éc chạy chậm lại tí " Tập 2: Con gà trống vừa chạy vừa suy nghĩ : "Hiz, đuổi kịp thì đạp mái 1 cái, còn không thì ông chạy tập thể dục ấy mà" Tập 3: Con gà trống sau khi đạp mái xong, nhảy xuống vỗ cánh, gáy ó ò o và nói : "Đời chỉ thế thôi"
  12. Bạch tuộc Iker chọn M.U vô địch Champions League Chỉ vài ngày trước khi diễn ra trận chung kết trên sân Wembley, nhân viên hải dương thánh phố biển Malaga đã cho chú bạch tuộc Iker nhập cuộc dự đoán. Vẫn giống như cách thức thường dùng, hai hộp dán logo của MU và Barca có đựng thức ăn yêu thích của Iker được thả vào trong bể. Hai hộp đựng thức ăn có dán logo của MU - Barca được thả vào trong bể để "thầy" Iker có thể "hành nghề" Lượn lờ chán chê, cuối cùng "nhà tiên tri" này đã chọn Quỷ Đỏ sẽ đánh bại Barca để đăng quang ngôi vô địch. Chẳng biết điều này có trở thành sự thật hay không, nhưng dự đoán này như một động lực khiến cầu thủ MU vững tâm hơn trước khi lâm trận. Các fan của đội bóng chủ sân Old Trafford tỏ ra khá hả hê với lời "phán" này. Chú bạch tuộc nặng 16kg đến từ Thái Bình Dương bắt đầu nổi lên như cồn sau khi "phán" đúng kết quả hai trận El Clasico. Trong trận lượt về tại La Liga, Iker chọn kết quả hòa và thực tế trận đấu kết thúc với tỉ số 1 -1. Thừa thắng xông lên, bạch tuộc Iker lại tiếp tục "lâm trận" dự đoán kết quả Cup nhà Vua, sau một hồi đắn đo, "ông thầy" đã "chấm" Real Madrid. Và trận chung kết này đã kết thúc đúng như dự đoán của "thánh" Iker, "Kền kền trắng" đã vô địch nhờ pha lập công duy nhất của C.Ronaldo. Bạch tuộc Iker từng chọn Real vào chung kết Champions League Tuy nhiên, "nhà tiên tri" Iker lại bị "mất điểm" khi dự đoán sai kết quả trận đấu bán kết Champions League giữa Real và Barcelona. Chú bạch tuộc này đã chọn đội bóng Hoàng Gia, nhưng thực tế Barca mới là đội đi vào chung kết. Đắn đo "suy nghĩ" Và cuối cùng Iker đã chọn MU vô địch châu Âu
  13. Giường này êm phải biết! dành cho vợ chồng mới cưới nhé Mập - ốm biết ngay! mấy ông hay uống beer mua về dùng ngay Cuộc sống hoàn hảo và khép kín. Quá tiện lợi - all in one Cho vợ chồng mình khỏi xích mích! Phân chia rõ ràng nè Bé muốn làm người lớn luôn cơ. Nhìn lớn ghê
  14. Theo thông báo chính thức thì MU mặc áo trắng vậy mọi người co thêm thông tin để dự đoán rồi
  15. Chủ đề hay đó yeuphu nu cũng cảm ứng làm 1 quẻ xem như thế nào Nôi dung câu hỏi là: tỉ số giữa MU-BC là bao nhiêu? cảm ứng lúc 5:40 lấy quẻ ra là sinh-tốc hỉ vậy kết quả MU-BC là 1-3 Cầu trời kết quả sai Vì yêu thích MU
  16. Trời ui, lúc đầu mới xem Học viên cảm xạ học đi trên than nóng 500 độ C, rất ngưỡng mộ Sau khi tìm hiểu ra, thì ngưỡng mộ hơn nữa, ngưỡng mộ vì tính chất lập lờ, làm người xem tin sái cổ
  17. Muốn tìm hiểu phụ nữ: xem ở đây
  18. Qúa giỏi ngoại ngữ Tôi có người bạn học chuyên ngành Anh văn, vì cuộc sống thiếu thốn nên vừa học phải vừa đi làm thêm. May mắn anh ta được chọn vào một chân hướng dẫn viên du lịch. Một hôm dẫn đoàn khách du lịch người Mỹ tham quan thành phố. Khi đi ngang qua nghĩa trang thành phố thì bất ngờ một ông Tây chỉ vào nghĩa trang hỏi anh ta : - What is it ? (Cái gì đây?) Thú thật trong kho từ vựng của anh ta không có một tí gì về vấn đề này cả, sau một thoáng lúng túng anh ta trả lời rằng : -Vietnamese and American ... pằng...pằng...pằng....DIE Ông Tây trợn tròn và cười to khi hiểu ra vấn đề. Còn anh hướng dẫn viên chưa kịp hoàn hồn thì đoàn du lịch đi ngang qua nhà hộ sinh thành phố, một bà đầm buộc miệng hỏi : - What is it ? (Cái gì đây?) Anh ta tự nghĩ "Cái này cũng bó tay luôn", nhưng nhờ bản tính láu cá anh ta bình tĩnh trả lời : - Man and Woman ... pằng...pằng...pằng.... OE...OE...OE. Bà đầm khen nức nở: good. Đi tiếp đến ngã tư Nguyễn Đình Chiểu - Cách mạng Tháng tám gặp bức tượng của Sư Thích Quảng Đức. Ông tây lại hỏi: What's happen? Anh ta lại bối rối biết nói sao đây và tự trả lời: He he. . . castrol up . . . burn and DIE Ông tây hiểu ngay: ah He kill himself
  19. Đức vua Quang Trung dù xuất thân từ thần phần nào, nhưng khi đã làm ông Vua của thời phong kiến, thì đêu có suy nghĩ cơ bản giống nhau: như nhiều vợ (dù là con của ai), đất đai phải mở rộng bờ cõi, bình hùng tướng mạnh, phải đánh các nước kế bên, . . . Nên việc Vua Quang Trung đánh nhà Thanh và đề nghị cưới công chúa Thanh là điều hoàn toàn có thật. Ước gì Vua Quang Trung sống lâu lâu khỏang 100 tuổi, sau khi cưới công chúa thanh triều và lấy được 2 tỉnh quảng đông , quảng tây và vua Càn Long già yếu thấy con rể là thông minh , có khả năng nhất nên đã nhường ngôi cho Quang trung lãnh đạo Thanh triều. Hiz bây giờ mấy tỉnh bắc kinh, thượng hải, . . . ngày 22/5/2011 là đi bỏ phiếu bầu cử đó.
  20. Công nghệ cao Sau khi trải qua 81 kiếp nạn, thày trò đường tăng cũng đến đc đất phật để thỉnh kinh. Anh em hồ hởi gặp như Lai. - Như Lai: các chú có mang theo USB ko đấy ? - Đường Tăng: sặc.. - Như Lai: thế anh truyền kinh cho các chú bằng gì bây giờ? - Ngộ Không nhanh trí : anh bắn bluetooth vào di động cho em. - Ngộ Không lắc mạnh tay con di động IPhone 4 hiện ngay bluetooth enable. - Như Lai ăn chơi không kém rút con Netbook từ túi quần hiệu sony vaio P kích thước 16x9 ra, chỉ trong vài giây, việc truyền kinh đã xong và Như Lai bay đi làm việc khác. - Đường Tăng lẩm bẩm: biết thế ở nhà search Google download cho nhanh
  21. Tìm hiểu ý nghĩa những hình vẽ trên mặt trống đồng Ngọc Lũ ( Việt Nam Văn Minh Sử - Lê Văn Siêu ) Lời nói đầu : Theo sự phân loại của Hê-gơ, và bản tổng kê của các nhà khảo cổ tại miền Bắc, trong sách Thời Đại Đồng Thau, những trống đồng loại 1 phát hiện ở Việt Nam khoảng trên 70 chiếc. Số lượng tìm thấy đã hơn bất cứ một miền nào khác. Mặc dầu tướng Mã Viện đời Đông Hán khi qua đánh Giao Chỉ, đã tịch thu không biết bao nhiêu trống nữa, để đúc con ngựa kiểu mà chơi, và đúc cái cột đồng khắc chữ “Đồng Trụ chiết Giao Chỉ diệt“. Những trống loại 1 đã thấy khá nhiều tại Thanh Hoá để có thể đoán chắc rằng Thanh Hoá là nơi sản xuất và những trống cùng loại thấy ở các nơi khác (Hà Đông, Hà Nam, Hà Nội, Hải Phòng, Hoà Bình, Cao Bằng, Lào Cai, Sơn Tây, Bắc Ninh, Hải Dương, Nam Định, Nghệ An) là những trống được kịp thời giấu đi. Đó là những trống có thể đoán được là của các tù trưởng đã thuê lò Thanh Hoá đúc. Đó là những vật biểu tượng quyền uy của tù trưởng. The Dong Son bronze drums Trong những di vật quý giá này , trống thuộc loại vừa kể, thuộc loại đẹp nhất, vẫn là trống tìm thấy năm 1902 ở Ngọc Lũ ( tỉnh Hà Nam ) hiện để tại viện bảo tàng lịch sử ở Hà Nội. Các nhà khảo cổ có tinh thần khoa học mới, khi nghiên cứu về những di vật ấy chắc sẽ hứa hẹn nhiều khám phá về kỹ thuật, niên đại, tương quan tạo tác, tương quan sản xuất, xã hội, cả về trình độ tiến hoá mỹ thuật của dân tộc. Chúng tôi nghiên cứu lịch sử, không bị ước thức bởi những mô thức, nên tự thấy được rộng tay đóng góp một phần tìm tòi thuộc về nội dung những hình vẽ. Tất nhiên không thiếu gì nhà khoa học mới mỉm cười cho là tưởng tượng, nhưng tìm hiểu ý nghĩa của một hình vẽ củ không có lời chú giải của tác giả bên cạnh, mà chẳng dùng tưởng tượng thì dùng cái gì ? Người ta đã tưởng tượng đây là bộ lạc thờ thần mặt trời, mặt trăng, hay thờ chim vật tổ. Nhưng có tinh thần khoa học nào cấm người khác không được có tưởng tượng khác, nhất là khi tưởng tượng này có thể hữu lý, dễ đúng hơn ? Huống chi chúng tôi có ở đây khá đủ những căn cứ của nền cổ học phương Đông mà dường như nhiều nhà khoa học mới vì lẽ nào đó không để ý tới khiến sự nhìn vào di sản văn hoá cũ ở Đông phương, mà thuần bắng con mắt Tây phương, thì có thể sẽ quên những khía cạnh quan trọng ở nột dung chăng ? Chính vì ngại chuyện ấy mà chúng tôi có bản viết này, riêng đề cập tới hình vẽ trên mặt trống đồng Ngọc Lũ, ước mong cho rằng nó sẽ là chìa khoá để mở nhiều những kho tàng khác có thể có trên những mặt trống khác. Chúng tôi không nói tới hình vẽ ở tang trống vì nó có giá trị trang trí nhiều hơn là thực tiễn. Trống đồng Ngọc Lũ Kể từ ngày cái trống này được moi ra khỏi chổ chôn giấu đến nay, những hình vẽ trên mặt trồng vẫn là một thách đố đối với các nhà khảo cổ học, cũng như với nhân dân Việt Nam muốn tìm hiểu nó định nói cái gì ? Chúng tôi rất kính phục và cảm ơn các nhà khảo cổ Tây phương nhất là ở trường Viễn Đông Bác Cổ Pháp, để rất nhiều năm tháng và tâm tư cùng đem những sử học, mày mò, khảo sát, suy luận và giả thiết. Các vị ấy đã viết nên cả những bộ sách lớn khiến trống đồng trở thành một vật nổi tiếng trên Thế Giới. Nhờ các vị mà rất đông những nhà học giả của nước chúng tôi khi đề cập đến di sản văn hoá này cũng đã khiến được cho quần chúng bình dân biết đại khái rằng ngày xưa các bộ lạc của tổ tiên mình thờ vật tổ là con chinh tên là Lạc, thờ thần mặt trời ( vì hình vẽ ở trung tâm mặt trời loé ra nhiều tia sáng),lại có những hình người đội mũ cánh chim, mặc áo xòe ra như lông cánh chim, rồi có cả mắt chim ở đầu mũi thuyền, đầu mũi tên, trên mái chèo, bánh lái thuyền, … Nhiều vị xác quyết rằng bộ lạc cổ xưa này sau đó di cư đến các hải đảo Thái Bình Dương, nên có liên hệ bà con với bộ lạc Dayak ở Bornéo, còn có hình thuyền giống như trên trống dùng vào dịp tang lễ. Nhiều vị khác còn thêm tại miền Bắc có bộ lạc hay hoá trang cái đầu thành đầu chim trong lễ nghi cúng kiếng theo điệu trống đồng. Trống vốn không biết nói, cũng không biết thế nào mà dám cãi. Thôi thà tuỳ người ta nhớ được một tiền tích nào ở đâu thì sẵn ghép cho nó những nội dung khác nhau. Ra sao nó cũng phải chịu. Chúng tôi chỉ trộm nghĩ rằng, trống đồng xưa chỉ tù trưởng mới được phép có, nó như một ấn ngọc tỷ, biểu tượng uy quyền của vị Hoàng Đế, người ta chả nên lầm mà hiểu nó như một sản phẩm công nghệ để trao đổi trong phiên chợ, và hiểu những hình vẽ là để cho vui mắt người mua dùng. Việc cần là tìm cái ý tiên khởi của người xưa gởi gắm vào hình vẽ và nếu có thể được thì tìm hiểu xem hình vẽ đó để làm gì ? Tạm coi là hình mặt trời ở giữa mặt trống, nhưng sao lại 14 tia sáng mà không hơn, không kém ? Sao lại chỉ có 18 con chim ? Sao lại có 6 con gà, 10 con hươu ? Rồi 8 con gà 10 con hươu nữa ? Nếu làm cho đẹp sao không làm đều nhau ? Có lẽ chăng đây là cái trống của người tù trưởng quản lãnh 14 vị tù trưởng nhỏ khác mà tiếng trống đánh lên thì 14 nơi kia đều phải nghe ? Hoặc đây là một đám rước và người ta hoá trang chăng ? Nhưng đâu là đầu, đâu là cuối đám rước ? Và sao lại có người giã gạo ? Người ngồi nhà sàn ? Tài ba và nhiệm vụ của tù trưởng Một tù trưởng hẳn phải có nhiều đám dân đến hỏi những việc thuộc đời sống hằng ngày của họ. Ông phải có hiểu biết gì hơn họ và chỉ bảo họ ra sao ? Chẳng hạn, có đám hỏi đêm nay có thể đi săn được không ? Liệu có trăng không ? Trăng lên vào chặp tối hay gần sáng ? Ngày mai nước có lên không ? Có thể cho thuyền ra khơi đánh cá được không ? Mùa này nên ở nhà hay đi hái trái ? Đã nên giả gạo để ủ làm rượu dùng vào ngày lễ nào đó chưa ? …… Ông tù trưởng phải có nhiệm vụ biết ngày giờ, sáng tối, trăng tròn trăng khuyết, tiết trời nóng lạnh, mưa gió, con nước, tình hình muôn thú, cũng như những dịp lễ lạt phải chuẩn bị trước. Sự tích lũy kinh nghiệm của nhiều đời tù trưởng đã phải được ghi lại, cũng như phải có gì để mà ghi lại, để mà làm việc và hướng dẫn quần chúng. (còn nữa)
  22. (Tiếp theo) Sửa soạn hội hè : Người ta phải sửa soạn từ trước ngày Đông chí, bằng cách giã gạo để ủ lên men làm rượu, hoặc để làm bánh, nấu xôi. Hình hai người giã chày đứng trong một cái cối ở trước hai nhà đông chí và hạ chí nói về việc ấy. Nhưng cảnh giã gạo bên hạ chí có vẻ thong thả, người đàn ông chếch một chân đạp vào chân cối. file:///C:/DOCUME%7E1/ANHTAM%7E1/LOCALS%7E1/Temp/msohtml1/01/clip_image002.jpg Còn bên đông chí thì vội vã hơn, ngưởi đàn ông đứng cả hai chân trên mặt đất và người đàn bà tóc xoã tay cầm chày giơ cao hơn. file:///C:/DOCUME%7E1/ANHTAM%7E1/LOCALS%7E1/Temp/msohtml1/01/clip_image004.jpg Hình người và gà cạnh đó cũng khác nhau. Sau xuân phân, người cầm gậy quay mặt lại có vẻ là chăn dắt nuôi gà. Sau thu phân, người kiễng chân, không có gậy, có vẻ là nhảy để bắt gà. Đó là những việc phải làm để sửa soạn cho ngày lễ. Xuân phân thu phân : Trên cùng một đường kính vạch ngang hơi chếch lên đường Đông chí Hạ chí, là đường Xuân phân Thu phân, ta thấy 2 kiến tạo giống nhau, mái hình khum mui thuyền, gác trên hai trụ đứng cũng khum lại, trên đầu gọt tròn đều nhau, với hai vòng trang trí tròn, còn phiá chân cột có sàn bắt ngang, để hở ở dưới hai tảng kê hai bên với một vật gì như để chồng ở giữa. Bên trong khung hình khum ấy, khoảng trống được vạch chia làm 3 phần, bên Xuân phân thì ở giữa hình chữ nhật vẽ một người đứng nghiêng, quay mặt theo hướng chung, tay cầm cuống một trái gì như trái bầu tròn. Hai phần tả hữu, một bên vẽ bảy vòng tròn, một bên vẽ tám, tất cả đều có một chấm ở giữa. file:///C:/DOCUME%7E1/ANHTAM%7E1/LOCALS%7E1/Temp/msohtml1/01/clip_image001.jpg Nếu vòng tròn ấy là hình trái cây thì kiến tạo miếu thờ vị thần phù trợ cho cây cối sinh nhiều trái. Còn bên Thu phân thì vẽ hình người dang chân và dang tay lên trời, hai bên không có vòng tròn mà có 4,5 vết như lá tụng. Người vẽ tỏ ra rất hiện thực vậy. file:///C:/DOCUME%7E1/ANHTAM%7E1/LOCALS%7E1/Temp/msohtml1/01/clip_image002.jpg Các vị Nguyệt thần : Theo điểm khởi đầu năm nhân sự, ta thấy ban đầu có một vị thần nhỏ bé hơn cả, không có mũ, để dùng ghi tháng nhuận, rồi đến 6 vị để ghi sáu tháng đầu năm, đối diện với bên kia vòng tròn có 6 vị nữa để ghi sáu tháng cuối năm. Vị nhỏ bé để ghi tháng nhuận, cánh cụp xuống, đầu không mũ, người nghiêng, tay cầm phách dang ngang theo tư thế ca vũ. Còn 12 vị đều là chim thần, không phải người hoá trang thành chim. Người ta nhìn vội nên cho rằng người đội mũ lông cánh chim. Đó là một bên cánh mọc từ lưng ra, bị đầu che một đoạn, còn một bên cánh mọc từ ngực ra xoè xuống đất. Bởi nếu là đội mũ, thì có vị quay mặt đi, có vị quay mặt lại, sao mặt quay lại mà mũ lại không quay lại ? Lông đuôi thì xoè về phía chân trước. Hai tay và hai chân thì ráp vào hai bên mình như người. Chim thần khàc người và khác chim thường ở chổ ấy. Việc dùng một con chim thần tiêu biểu cho một tháng chứng tỏ người xưa quan niệm thời gian qua mau. Nhưng khác với người phương Tây thần thánh hoá và nhân cách hoá thời gian thành hình một ông cụ có cánh, tay cầm lưỡi hái tượng trưng quyền lực huỷ hoại, không những thời gian chẳng giúp gì cho người mà còn thù nghịch với người nữa. Ở đây chim thần từng tháng đem những hướng dẫn đến cho người trong cuộc sống. Thời gian có cộng tác với người, là bạn là thầy của người. Trừ vị thần dùng cho tháng nhuận ( xen kẻ vào bất cứ tháng nào trong năm ) đúng là có dáng điệu người ca vũ mềm mại và vui tươi, chân bước theo hướng tiến chung, hai tay cầm cái gì như phách để gõ nhịp cho bước chân, còn 12 vị thần khác thì mỗi vị cầm một đồ vật khác nhau để nói lên cái ý khuyên bảo người đời tháng ấy thì nên làm một việc nào với đồ dùng đó : Tháng giêng : Đồ vật ở tháng giêng to lắm, thần phải ôm bằng hai tay đưa ra phái trước mặt, trong có vẻ như con cá. Có lẽ là tháng nên đi bắt cá. Về điểm này ta thấy tệ xưa có ghi rằng : Loài gấu chưa tế thú ( vào mùa thu ) thì không được chăn lưới ở cánh đồng , loài rái chưa tế cá ( vào mùa đông ) thì không được thả lưới vét xuống nước. Nay đã sang tháng giêng, vậy có thể đi bắt cá được. Tháng hai : Đồ vật ở tháng hai là cây gậy thẳng, thần cầm bàn tay trái đưa ngang ra trước mặt, đầu trân của gậy uốn ra ngoài, đầu dưới uốn vào phái bụng. Tay phải của thần đưa về phía sau lưng cầm một trạc gậy trút xuống. Chân và mặt đưa ra theo hướng tiến chung. Có thể là con dao đi rừng để chặt những cành kho củi mục, việc nên làm vào tháng hai. Tháng ba : Thần bước đi theo hướng tiếng chung nhưng mặt quay lại nhìn tay phải cầm trạc cây trúc xuống, tay trái cầm một cây gậy hơi cong với đầu to ở trên, đầu nhỏ ở dưới. Có vẻ thần khuyên người nên làm việc gì ngay trên mặt đất sau bước chân cảu mình, giao hạt giống chăng ? Tháng tư : Thần có dáng điệu như vị ở tháng ba nhưng mình nghiêng hẳn về phía sau, đầu và mỏ cũng cuối thấp hơn, với mặt mở tròn to hơn. Nếu không có điệu cánh và chân bước theo hướng chung thì có thể kể là thần đi ngược chiều được. Tay trái thần cũng cầm gậy thẳng nhưng ngắn hơn, tay phải cầm gậy trạc cây với gốc độ đẹp hơn. Có vẻ thần khuyên người săn sóc việc bắt sâu bọ. Tháng năm : Mắt thần nhìn theo hướng tiến chung, thân hình ở tư thế đi bình thường, tay trái cầm gậy ngắn nhất, tay phải cầm trạc cây với một bên cụt hơn. Có vẻ như thần khuyên nghỉ tay. Tháng sáu : Cũng vậy, có vẻ như tháng này và hai tháng nữa không thể làm việc đồng án được. file:///C:/DOCUME%7E1/ANHTAM%7E1/LOCALS%7E1/Temp/msohtml1/01/clip_image002.jpg Tháng bảy : Thần quay mặt nhìn theo hướng chung, cầm trong tay vật gì như muỗng múc canh, có dấu tròn biểu tượng mắt chim ở ngoài, tay phải cầm cái gì như cái lồng bắt chim. Cả hai tày đều đưa về phái trước mặt. Có vẻ là tháng nên đi bắt chim. Vị này có thêm một đặt điểm : ở sau gáy nơi đầu cánh có một hình tam giác, giữa vẽ một hình tròn, chưa rõ ý nghĩa gì. Tháng tám : Thần thổi loa ở miệng, loa dính với một vật tròn tia ra ba vạch lên trời, ba vạch xuống đất. Đó có vẻ là tiếng gọi vào rừng săn thú. Tháng tám trăng sáng nhất là tháng thích hợp nhất cho việc ấy. Tháng chín : Thần cầm dao đi rừng như tháng hai nhưng đầu trên lại khoằm vào trước mặt, đầu dưới lại uốn khoằm ra, mặt và chân quay về hướng tiến chung. Có vẻ là vật để hái trái, má tháng này là tháng có nhiều trái cây chín. Tháng mười : Thần vẫn cầm dao ấy ở tay trái như vậy nhưng mặt nhìn xuống đất sau bước chân với chạc cây hạ thấp xuống gần mặt đất. Có vẻ như thần muốn nói về việc gặt lúa. Tháng mười một : Thần cầm gậy ngắn với trạc cây ngắn ở tư thế nghỉ ngơi và theo dáng đi bình thường ( như tháng năm, tháng sáu đã nói ). Có vẻ là tháng xong việc đồng án thì nghỉ ngơi. Tháng chạp : Thần cầm vật gì giống như hình cái bàn chải đánh răng, dài bằng cả một bên cánh, dưới đầu cán có hình mũi tên chĩa nghiêng xuống mặt đất phía trước mặt. Ấy là hình tượng sự chít một lông cánh thời gian, để nói việc hết năm. file:///C:/DOCUME%7E1/ANHTAM%7E1/LOCALS%7E1/Temp/msohtml1/01/clip_image002.jpg Những đặc tính của mỗi năm trong chu kỳ : Chúng ta thấy mỗi con chim thời gian giống nhau bay ở vòng ngoài ( theo chu kỳ 18 năm đã nói ) đều có một con chim nhỏ ở dưới mỏ dài của nó, mà chim ấy thì không con nào giống con nào cả. Cần phải là người đi rừng nhiều, trông hình vẽ mới tin chắc được rằng lịch 12 con giáp của Trung Hoa đã ít tuổi hơn lịch 18 con chim này nhiều lắm. Bởi lịch này cho thấy người ta mới định cư còn ở thời kỳ chưa nuối được con lợn, con trâu, con mèo, chưa biết được con dê con ngựa là gì nữa. Kết luận : Mặt trống đồng Ngọc Lũ quả đúng là một quyển lịch được sắp xếp và vẽ một cách thông minh. Trừ một vài chi tiết chưa hiểu rõ như đã nói, những nét chính của hình vẽ đã khiến ta chân thành khâm phục rằng: Với mức độ hiểu biết và tiến hoá của đời nay cũng chưa chắc có người bố trí nổi một bản ghi thời gian tài tình như thế. Hết
  23. (Tiếp theo) file:///C:/DOCUME%7E1/ANHTAM%7E1/LOCALS%7E1/Temp/msohtml1/01/clip_image001.jpg Nhà học giả Nga Immanuel Velikovsky khi dẫn điều ấy trong sách “Tinh Cầu va chạm” ( Modes en collision ) còn nhắc thêm nhiều cổ tự Ai Cập khắc trên lá giấy papyrus nói về sự lộn ngược của Trái Đất hồi 2 thiên niên kỷ trước Tây lịch, không thể cho là mơ hồ được những lời như : Harakhte ( mặt trời chiều ) mọc ở phương Tây. Ông lại dẫn thêm những chữ khắc trong các kim tự tháp : “Mặt Trời đã thôi ở phương Tây và bắt đầu chói sáng ở phương Đông”. Sau khi có hiện tượng đảo ngược phương hướng ấy, thì danh từ phương Tây và mặt trời mọc đã không còn đồng nghĩa với nhau nữa, mà người đời đã phải nói thêm để xác định : l’Quest, qui est à l’Occident (phương Tây là ở về phương Tây). Theo luận cứ của tác giả thì đó là kết quả của hiện tượng lộn ngược trục xoay của Trái Đất. Chúng tôi chưa dám tin là đúng như vậy, bởi vì đúng như vậy thì kể từ ngày đổi phương hướng Đông Tây ấy, mà chữ khắc trong kim tự tháp ghi nhận, và đây mặt trống vẽ ra khi chưa đổi phương hướng, người ta tất phải chiếu theo để ước định rằng quan niệm và chiêm nghiệm này có tuổi thọ xưa hơn quan niệm và chiêm nghiệm ghi trong kim tự tháp. Quan sát mặt trăng và thuỷ triều : Tù trưởng cần biết đích xác thuỷ triều lên xuống để chỉ dẩn dân chúng làm ruộng hay ra khơi. Cho nên ông cần ngồi đồng hướng mới nghiên cứu được mặt trăng và con nước. Kinh nghiệm không sai dạy từ xưa đã cho biết rằng : · Mặt trăng đến phương Mão Dậu thì thuỷ triều dâng lên ở phía Đông, Tây. Mặt trăng đến phương Tí Ngọ thì thuỷ triều dâng lên ở phía Bắc, Nam . · Từ mồng một đến ngày rằm, con nước thường chậm một đêm. Từ ngày rằm đến ngày mồng một, con nước thường chậm một ngày. Trước và sau ngày mồng một và ngày rằm, mặt trăng đi mau hơn, cho nên 3 ngày trước cuối tháng thì con nước thượng thế lớn hơn. · Ba ngày sau ngày mồng một, con nước đương thế to tát. Trong ngày rằm con nước cũng như thế. Trong thời trăng lưỡi liềm, mặt trăng đi hơi chậm, cho nên con nước lên xuống hơi kém. · Trong một tháng, con nước lên mạnh sau ngày mồng một và ngày rằm. · Trong một năm, con nước lên mạnh vào giữa mùa xuân và mùa thu. · Con nước ban ngày trong mùa hạ thì to ……… Đó là những chiêm nghiệm của người ở hải khẩu vùng sông Mã, người ở Phong Châu trong đất liền sợ không có chiêm nghiệm ấy. file:///C:/DOCUME%7E1/ANHTAM%7E1/LOCALS%7E1/Temp/msohtml1/01/clip_image002.jpg Con chim thời gian : Trên mặt trống ở vòng ngoài cùng, kể như vòm không gian, ta thấy vẽ những con chim mỏ dài cánh lớn đang bay. Không phải là chim vật tổ, mà đó là biểu tượng của một năm qua, do người ta quan sát thấy con chim ấy bay vút ngang trời vào mùa này năm ngoái, thì năm nay cũng mùa này, cỡ ngày này lại thấy nó bay. Chu kù 18 con chim : Tức là đã có chu kỳ 18 năm. Sở dĩ chỉ có 18 không hơn không kém số ấy là vì người ta dựa theo thang biểu 9 năm trước để tính ngày nguyệt sóc 9 năm sau. file:///C:/DOCUME%7E1/ANHTAM%7E1/LOCALS%7E1/Temp/msohtml1/01/clip_image001.jpg Sách Vân Đài loaị ngữ của Lê Quý Đôn có chép định thứ tính lịch như sau : Ngày mồng một của mỗi tháng vốn từ xưa đã có phép tắc. Quy định ngày ấy của 9 năm trước đem dùng lại để quy định ngày ấy của 9 năm sau. Gặp ngày ấy của tháng đủ ở 9 năm trước thì đếm liên tục từ can cũ của ngày ấy đến can thứ năm, từ chi cũ của ngày ấy đến chi thứ chín ( theo số lẻ, để định can chi cho ngày ấy tháng ấy của chín năm sau ). Gặp ngày ấy của tháng thiếu ở 9 năm trước cũng đếm như thế, nhưng dùng can thứ 4, chi thứ 8 ( theo số chẵn để định can chi cho ngày ấy tháng ấy ở chín năm sau ). Gặp năm thứ 36 = 6x6 = 18x2 của chu kỳ thì nên lưu ý suy tính cho kỹ. Phải tính xem trong vòng 36 năm ấy có bao nhiêu số lẻ thuộc về tiết Hàn lộ. Rồi ông lấy thành quả ấy để quy định ngày Lập Xuân của năm mới này. Nếu tính toán theo căn bản đó thì không sai lầm. Bốn mươi bảy năm về trước có nhuận vào tháng nào thì nay phải gia thêm 2 tháng để tính tháng nhuận. Giảm tăng như thế thì không sai vào đâu được. Tất cả các phép tính trên đây có thể có bàn tay mà tính ra được. Ví dụ : Giả như năm Mậu Tý, tháng giêng là tháng thiếu, ngày mồng một là ngày Ất Dậu, can ất đến can thứ tư là Mậu, chi Dậu đến chi thứ tám là Thìn. 9 năm sau là năm Bính Thân, tháng giêng ngày mồng một là ngày Mậu Thìn. Giả như năm Mậu Tý, tháng hai là tháng đủ, ngày mồng một là ngày Giáp Dần. Can giáp đến can thứ năm là can Mậu, chi dần đến chi thứ chín là chi Tuất, 9 năm sau là năm Bính Thân, tháng 2 ngày mồng một là ngày Mậu Tuất. Cũng trong Vân Đài loại ngữ của Lê Quý Đôn còn có bí quyết tính ngày mồng một và ngày rằm như sau : Mồng một tháng giêng của 9 năm trước là ngày Thìn. Ngày rằm tháng hai của 9 năm sau cũng là ngày Thìn. Mồng một thàng hai của 9 năm trước là ngày Thìn. Ngày rằm tháng hai của 9 năm sau cũng là ngày Thìn. Chúng ta chưa biết rõ người Giao Chỉ khi quan niệm lịch với chu kỳ 18 năm đã gọi tên tháng như thế nào, và đã những số can chi gọi bằng những tên nào khác để tính ngày ra sao. Nhưng hẳn đã phải có thì đời sau mới noi theo bí quyết cũ mà làm những bài thơ đặt công thức cho người làm lịch. Cả những kết quả chiêm nghiệm về khí tiết, tháng nhuận., ngày Lập Xuân,… hẵn cũng đã phải có để người đời sau chỉ tuân theo thôi. Sáu con gà và tám con gà : Sách “Đại Nam Nhất Thống Chí” đã dẫn lời sách Hoàn Vũ ký mà cho biết rằng : ở Ái Châu về huyện Di Phong có giống gà gọi là Trào Kê, khi tới kỳ nước triều lên thì gáy để báo tin. Sách ấy cũng có nói tới một giống gà khác ở mạng thượng du là Cẩm Kê, lông có nhiều sắc xanh đỏ trắng xen lẫn như nền gấm. Trên mặt trống, có thể chắc được là người ta vẽ hình con Trào Kê, một đặc sản địa phương có linh tính hữu ích cho cuộc sống, lại có liên hệ tới công dụng của trống về sự quan sát thuỷ triều. file:///C:/DOCUME%7E1/ANHTAM%7E1/LOCALS%7E1/Temp/msohtml1/01/clip_image001.jpg Nhưng tại sao lại vẽ sáu con gà sau ngày mồng một và ngày rằm. Trong khi theo kình nghiệm chỉ 3 ngày trước và 3 ngày sau những ngày ấy thì con nước mới ở thế lớn hơn ? Và tại sao lại vẽ tám con gà bên kia vòng tròn, sau và trước 10 con hươu ? Phải chăng để nói về 6 đêm đầu tháng và 8 đêm cuối tháng không trăng, không nên tổ chức đi săn đêm? Mười con hươu lại 10 con hươu : Hươu vẽ ở đây là hươu sao, có đốm lông trên mình, và vẽ thành từng cặp : đực đi trước, cái đi sau, tất cả đều có sừng. Đó là con vật có tên là lộc, hay ở núi cao, tiết Hạ Chí rụng sừng ( khác hẳn với nai, chỉ con đực có sừng và hay ở hốc núi nên tiết Đông Chí rụng sừng). file:///C:/DOCUME%7E1/ANHTAM%7E1/LOCALS%7E1/Temp/msohtml1/01/clip_image001.jpg Theo tục truyền thì hươu thuộc loài tiên thú, 60 năm ắt có ngọc quỳnh, ở gốc sừng có dấu tích lấm chấm sắc tím. Do đó cổ ngữ nói con hươu có ngọc nên sứng vằn, con cá có châu nên vảy tím. Đặc biệt hơn là hươu trắng, người xưa coi hươu trắng xuất hiện là một điềm may. Cho nên hễ bắt được nó thì người ta dâng về cho vua và sẽ được thưởng. Theo tài liệu của sách sử và địa lý cũ, chỉ Thanh Hoá có nhiều loài này. Vùng phía Bắc từ Ninh Bình trở ra thì hiếm dần. Vùng phái Nam cũng vậy. Từ đèo Hải Vân trở vào thì không thấy nữa, chỉ có nai thôi. Điều đáng nói ở đây là người ta vốn biết tánh con hươu hay dâm, một con cái thường giao cấu với vài con đực. Vậy mà trên mặt trống người ta vẽ cặp nào cặp ấy, không lộn xộn, con đực đi trước, con cái đi sau. Người ta muốn sắp xếp đời sống vợ chồng của chúng nó vào khuôn khổ luân lý ? Hoặc đó là dấu hiệu để nói lên cuộc sống định cư, chấm dứt thời kỳ thị tộc mẫu hệ ? Riêng việc vì sao vẽ 10 con hươu, theo ý chúng tôi phỏng đoán có lẽ con số 10 chỉ là con số toàn vẹn, để nói rằng nhiều lắm, đầy đủ lắm, mà người đi săn đêm sẽ gặp vào đêm trăng sáng ? Vòng sinh hoạt của người : Vòng này quan trọng hơn, tiết rằng việc nghiên cứu của chúng tôi bị hạn chế, vì ngại rằng người vẽ có thể đã theo định kiến cũ về người lên đồng, ca múa cầu thần linh, không lưu ý đến những ý nghĩa tượng trưng của các hình vẽ, khiến có thể đã bỏ sót những chi tiết có ích chăng ? Tiết đông chí : Ta gặp trên đường bán kính từ trung tâm bông hoa kéo ra, hình vẽ cái nhà sàn, có hai vợ chồng con chim trên nóc mái, và trong nhà có ba người đang nằm vừa ngồi nhỏm dậy. Góc phải của nhà sàn ở mặt đất có cái gì như cái cối đặt nằm nghiêng. Góc trái có đứa nhỏ gõ vào cái gì như cái trống con, có vẻ để báo thức. file:///C:/DOCUME%7E1/ANHTAM%7E1/LOCALS%7E1/Temp/msohtml1/01/clip_image001.jpg Ta hiểu rằng trải qua một mùa đông, các loài vật đông miên ngủ vùi đến ngày đông chí mới tỉnh dậy, mầm mộng của các loài hoa lá trên cành cũng đến ngày ấy mới “ngồi dậy”. Cả đến cái cối nằm ngủ mãi có lẽ cũng sắp được dựng dậy để làm việc. Tiết hạ chí : Đối điểm của Đông chí bên kia vòng tròn, trên cùng đường kính là tiết hạ chí. Ta gặp những cái nhà sàn ấy. Nhưng trên nóc mái chỉ có một con chim trống. Vợ nó đâu ? Vợ nó đương ở nhà ấp trứng. Do đó mùa hè phải đóng bè làm phúc, không được phá phách các tổ chim, bắt được chim còn phải phóng sinh nó đi, để nó về nuôi vợ con nó. Thương biết là bao nhiêu, truyền thống ấy còn mãi đến thế hệ chúng ta ! file:///C:/DOCUME%7E1/ANHTAM%7E1/LOCALS%7E1/Temp/msohtml1/01/clip_image002.jpg Trong nhà sàn ta thấy hai đứa nhỏ đối mặt nhau, tóc buông sau gáy, ngồi co dầu gối đặt hai bàn chân lên nhau và đưa hai bàn tay lên cao để úp vào nhau cho rơi cái gì như hai viên sỏi. Đúng là hai đứa trẻ đang vui chơi, Cha mẹ chúng đâu ? Cha mẹ chúng đi làm việc ngoài đồng áng. Tháng tư đi tậu trâu bò. Để ta sắm sửa làm mùa tháng năm. Câu ca dao này về sau mới có. Nhưng thời dụng biểu của nhà nông trong hoàn cảnh địa lý, khí hậu, và điều kiện đất nước, để làm mùa, thì đã có ngay từ hồi đầu định cư. Hình vẽ đã nói lên thực rõ. Bên dưới nhà sàn, góc phải, có cái cối đặt ngang và bên trái có một đứa trẻ ngửa mặt, tóc xoã sau lưng, đưa tay kéo một trục tròn có vẻ xoay được một trục đứng. Hình vẽ có nghĩa xoay và nặn đồ gốm chăng ? Còn cối đặt nằm nghiêng có nghĩa là bận việc đồng áng, nghỉ giã gạo chăng ? Hội hè, gõ trống : Tiếp theo nhà sàn nói về Đông chí và Hạ chí, đều có cảnh gõ trống và đều có 4 cái đặt úp trên bệ của nó trong 4 cái hố. Bệ là một chân đội một mặt tròn, như hình cái nấm, để trống úp đúng vào vành mặt ấy. Mặt ấy chắc là bằng gỗ, hẵng phải khoan thủng nhiều lỗ thì khi gõ, tiếng trống mới có lối thoát ra và vang đi xa. Nếu đúng như dự đoán thì tuỳ theo mặt tròn có nhiều hay ít lỗ, và lỗ lớn hay nhỏ của 4 cái khác nhau, mà âm thanh của cả 4 cái khi cùng gõ lên đã có thể trở thành một bản hòa tấu. file:///C:/DOCUME%7E1/ANHTAM%7E1/LOCALS%7E1/Temp/msohtml1/01/clip_image001.jpg file:///C:/DOCUME%7E1/ANHTAM%7E1/LOCALS%7E1/Temp/msohtml1/01/clip_image002.jpg Theo hình vẽ thì trống đặt bên dưới nhà sàn, trong hố, không trông thấy. Người ngồi trên sàn gõ vào mặt trống. Như vậy trống để gõ đã không cùng loại với trống biểu tượng quyền uy của tù trưởng như trống Ngọc Lũ này. Bên cạnh nhà Hạ chí, cả bốn người gõ trống đều ngồi quay mặt theo hướng chung, riêng bên cạnh nhà Đông chí lại có một người đứng và quay lưng lại hướng chung ấy và một người ngồi đưa bàn chân để cho dùi trống không gõ xuống. Đó là hai điệu nhạc khác nhau của 2 dịp hội hè lớn khác nhau trong một năm. (còn nữa)