Guest

Tọa đàm" Bản Chất Khoa Học Của Kinh Dịch Và Thuyết Adnh".

108 bài viết trong chủ đề này

Xin cảm ơn anh Vuivui đã cho tôi hiểu thêm về Lý thuyết Bất Định.

Tôi cũng vui mừng để thông báo với anh và quí vị quan tâm đến topic này là cuộc hội thảo "Tính khoa học của phong thủy trong kiến trúc và xây dựng" đã kết thúc thành công về căn bản. Như vậy, tôi có thể an tâm hơn trong công việc của mình, ít nhất về mặt thời gian.

Anh Vuivui thân mến.

Qua nội dung anh miêu tả thì tôi hiểu bản chất của thuyết Bất Định có thể tóm tắt trong đoạn sau:

Như thế, chỉ xét riêng bài toán này đã cho thấy tính bất khả tiên tri không mang bản chất nhân tạo, nó có tính khách quan. Nó không cho phép ta suy nghĩ rằng, khoa học kỹ thuật tiến lên thì khả năng triệt tiêu sai số là khả dĩ.

Nguyên lý bất định trong vật lý lượng tử.

Đã là bất định, đương nhiên nó phải là không tất định. Trải gần suốt một thế kỷ, đến nay, vấn đề này vẫn còn được tranh cai, bất phân thắng bại. mà lại là cuộc tranh luận giữa các nhà khoa học hàng đầu của thế giới, thì đủ hiểu, đó là vấn đề thuộc nhận thức từ thực tế khách quan, chứ không phải thuộc về nhân tạo hay khả năng nhân tạo của người con. Những người ủng hộ thuyết tất định đương nhiên có thể dễ dàng cho rằng có khả năng nguyên lý bất định sai. Nhưng với tinh thần khoa học nghiêm túc thì người ta đi tìm sự giải thích của Mâu thuận này, chứ không phải là sự phủ định theo quan niệm. Đó là bởi vì, người ta đã nhận thức rõ rằng, tính bất định là tất yếu khách quan. Sự giải thích ý nghĩa của tính bất định là do sự bất định của các phép đo - lại trở về bản chất của bài toán trên - xem ra khó thuyết phục bởi nó mang dáng dập nhân tạo, bởi vì ở đây nó không phải là tính ngẫu nhiên của phép đo, mà là do bản chất của hệ tương tác với lượng tử Photon xác định nó. Nhưng thực ra, bản chất khách quan của nó là lưỡng tính sóng - hạt của thế giới vi mô, mà sự bất định của phép đo chỉ là hệ quả trực tiếp của nó mà thôi.

Theo đó, về mặt triết học, người ta đã nhận rõ rằng, tính bất định là khách quan, là bản chất của thế giới. Xem như là tính tất định và bất định là song song tồn tại. Nhưng như thế thì thật khó hiểu, và thực tế chứng minh rằng, trong nhiều trường hợp, người ta có thể khắc phục tính bất định bằng những phương pháp định tất. Điều này có vẻ như là sự khẳng định cho sự chiến thắng của tất định tính. Nhưng hiểu như thế sẽ là nhầm lẫn, bởi đó chỉ là sự vận dụng những quy luật khác khả dĩ xác định được đối tượng quan sát mà thôi, chứ nó không thay thế bản chất của đối tượng quan sát.

Tóm gọn hơn, có thể hiểu rằng:

Tính bất định là một thực tế khách quan đã được minh chứng bằng những công thức toán và làm nên một lý thuyết trên cơ sở nhận thức thực tế khách quan được chứng minh đó.

Tuy nhiên, với những người tìm hiểu về Lý học Đông phương như chúng ta thì chúng ta cũng nhận thấy một thực tế rất khách quan khác mang tính lý thuyết đang tồn tại. Đó là khả năng tiên tri qua các phương phương pháp ứng dụng của thuyết Âm Dương Ngũ hành với những khái niệm của thuyết này phản ảnh thực tế mà tri thức nhân loại hiện đại chưa phát hiện ra - thí dụ - như khái niệm "Khí" của học thuyết này. Hoặc như chúng ta có thể thấy rất rõ - qua các phương pháp ứng dụng của thuyết ADNH - rằng: Có những hiệu ứng tương tác mang tính quy luật từ vũ trụ liên quan đến Địa cầu và nó được công thức, biểu lý trong thuyết này. Từ đó tạo ra những phương pháp tiên tri.

Như vậy - giữa hai thực tại khách quan - một thuyết Bất định của tri thức khoa học hiện nay và một của thuyết ADNH với khả năng tiên tri vượt qua tất cả mọi lý thuyết khoa học hiện đại của nó thì chúng ta hoàn toàn có cơ sở để đặt ra những vấn đề như sau:

1 - Chỉ có một lý thuyết đúng. Hoặc thuyết Bất Định đúng, hoặc thuyết ADNH đúng. Tóm lại là chúng phủ định lẫn nhau.

2 - Thuyết Bất định của khoa học hiện đại là trường hợp riêng của thuyết ADNH.

3 - Thuyết Bất định phản ánh đúng thực tại khách quan - nhưng chỉ với khả năng nhận thức hiện tại và chính khả năng nhận thức này được thể hiện bằng những công thức toán xác nhận điều đó. Hay nói cách khác: Các hiểu biết về toán học hiện tại phản ánh đúng một giai đoạn phát triển của vũ trụ và nó phản ánh đúng thực tại đó, nhưng không phải tất cả.

Điều này lịch sử nhận thức của nền văn minh đã chứng minh: Thuyết Newton đã hình thành với những công thức toán học và phản ánh đúng thực tại khách quan quan sát được. Nó đã thống trị tư duy nhân loại nhiều thế kỷ. Nhưng các lý thuyết hiện nay cho thấy nó chỉ là trường hợp riêng của thuyết tương đối...vv....

Trong ba vấn đề nêu trên, thì tôi thấy rằng: Trường hợp 3 là hệ quả của trường hợp 2. Và điều này sẽ là hợp lý khi mà thuyết Bất Định phản ảnh một thực tại khách quan - như anh đã dẫn giải - và thuyết ADNH với những hiệu quả tiên tri cũng là thực tế khách quan đã tồn tại vượt thời gian hàng thiên niên kỷ xuyên qua mọi không gian văn hóa của nhân loại.

Từ cơ sở suy nghiệm này tôi vẫn nghĩ rằng: Thuyết ADNH vẫn sẽ là một lý thuyết vượt trội và vẫn chưa thể thay đổi quan niệm của tôi cho rằng: Đó chính là lý thuyết Thống nhất mà nhân loại đang mơ ước.

Cảm ơn sự quan tâm của anh và quí vị.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Anh Thiên Sứ thân mến.

Tính bất định là một thực tế khách quan đã được minh chứng bằng những công thức toán và làm nên một lý thuyết trên cơ sở nhận thức thực tế khách quan được chứng minh đó.

Nên phát biểu như thế này anh ạ.

Tính bất định được nhìn nhận như là một thực tại khách quan và hiện đã và đang có những lý thuyết khoa học được xây dựng trên cơ sở nhận thức đó.

Chứ không thể nói nó đã được chứng minh bằng những công thức toán học được. Các lý thuyết toán học, chỉ là những công cụ biểu diễn những kết quả đó mà thôi.

Thân ái

Share this post


Link to post
Share on other sites

Anh Thiên Sứ thân mến.

Tính bất định là một thực tế khách quan đã được minh chứng bằng những công thức toán và làm nên một lý thuyết trên cơ sở nhận thức thực tế khách quan được chứng minh đó.

Nên phát biểu như thế này anh ạ.

Tính bất định được nhìn nhận như là một thực tại khách quan và hiện đã và đang có những lý thuyết khoa học được xây dựng trên cơ sở nhận thức đó.

Chứ không thể nói nó đã được chứng minh bằng những công thức toán học được. Các lý thuyết toán học, chỉ là những công cụ biểu diễn những kết quả đó mà thôi.

Thân ái

Anh Vuivui thân mến.

Vâng! Đồng ý với kết luận của anh.

Tính bất định được nhìn nhận như là một thực tại khách quan và hiện đã và đang có những lý thuyết khoa học được xây dựng trên cơ sở nhận thức đó.

Như vậy, về tính chất không khác nhiều với kết luận của tôi, nhưng tính không chắc chắn của lý thuyết Bất định theo kết luận của anh mong manh hơn. Nhưng dù chắc chắn hay mong manh thì nó vẫn chỉ có thể nằm 1 trong ba vấn đề được đặt ra như tôi đã trình bày. Và vấn đề thứ nhất - sự loại suy một trong hai lý thuyết - là không xảy ra. Và cũng không thể lý thuyết ADNH là trường hợp riêng của thuyết Bất định được, bởi những suy luận hợp lý liên quan. Vấn đề còn lại chính là làm sáng tỏ bản chất thuyết ADNh - không như phần lớn các nhà khoa học hiện đại hiểu theo cổ thư chữ Hán.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Anh Vuivui thân mến.

Vâng! Đồng ý với kết luận của anh.

Tính bất định được nhìn nhận như là một thực tại khách quan và hiện đã và đang có những lý thuyết khoa học được xây dựng trên cơ sở nhận thức đó.

Như vậy, về tính chất không khác nhiều với kết luận của tôi, nhưng tính không chắc chắn của lý thuyết Bất định theo kết luận của anh mong manh hơn. Nhưng dù chắc chắn hay mong manh thì nó vẫn chỉ có thể nằm 1 trong ba vấn đề được đặt ra như tôi đã trình bày. Và vấn đề thứ nhất - sự loại suy một trong hai lý thuyết - là không xảy ra. Và cũng không thể lý thuyết ADNH là trường hợp riêng của thuyết Bất định được, bởi những suy luận hợp lý liên quan. Vấn đề còn lại chính là làm sáng tỏ bản chất thuyết ADNh - không như phần lớn các nhà khoa học hiện đại hiểu theo cổ thư chữ Hán.

hi hi ... Tôi chỉ phát biểu lại kết luận của anh theo văn phong khoa học thôi !.

Thân ái.

Share this post


Link to post
Share on other sites

hi hi ... Tôi chỉ phát biểu lại kết luận của anh theo văn phong khoa học thôi !.

Thân ái.

:blink: Cảm ơn anh Vuivui. Vấn đề được tiếp tục.....như trên.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Tính bất định được nhìn nhận như là một thực tại khách quan và hiện đã và đang có những lý thuyết khoa học được xây dựng trên cơ sở nhận thức đó.

Tôi sử dụng ngay kết luận của anh Vuivui để tiếp tục minh chứng cho vấn đề được đặt ra. Như vậy, chúng ta còn một thực tại khách quan nữa. Đó chính là khả năng dự báo chính xác với thời gian dài của các phương pháp dự báo trong Lý học Đông phương, tồn tại với thực tế chứng nghiệm hàng.....nhiều ngàn năm. Tất cả những tri thức khoa học hiện đại bắt đầu từ thế kỷ XV đến nay đều quá ngắn so với một thực tại khách quan của các phương pháp dự báo Đông phương. Vấn đề còn lại là: Những phương pháp dự báo đó có phương pháp luận của một học thuyết rất mơ hồ với những khái niệm mà khoa học hiện đại chưa hiểu bản chất của nó. Thí dụ như "Khí".

Về tính mơ hồ của Lý học Đông phương - tạm thời chúng ta giải quyết sau. Bây giờ chúng ta đặt vấn đề:

Giữa hai thực tại khách quan này: Tính bất định không thể dự báo và thực tại được dự báo chính xác với thời gian dài của phương pháp dự báo thuộc Lý học Đông phương sẽ chỉ có khả năng sau:

Một trong hai thực tại khách quan loại trừ nhau. Chỉ có một cái đúng.

Sau khi suy ngẫm kỹ tôi nhận thấy rằng: Lý thuyết Bất định không thể là trường hợp riêng của Thuyết Âm Dương Ngũ hành. Mà chỉ có thể là sự phản ánh nhận thức của một giai đoạn trong sự phát triển của văn minh nhân loại. Khi mà ngườii ta chưa thể tống hợp tất cả những yếu tố tương tác trong vũ trụ và những quy luật của nó. Với hạn chế này, con người đã xác định một thực tại Bất định bằng chính khả năng nhận thức đó bằng một cơ sở lý thuyết sai. Bài viết của anh Quangnx chứng minh điều này.

Như vậy phần còn lại là chứng minh Thuyết Âm Dương Ngũ hành đúng. Tức la 2chúnngg ta phải giải quyết về thứ hai của bài viết ma 2tôi đã trình bày:

2 - Về vần đề này có lẽ tôi chỉ cần trích dẫn nguyên văn như sau:

khoa học Đông phương không dựa trên logic suy diễn và chứng minh, mà chủ yếu dựa trên cảm nghiệm trực giác, mặc dù nó có những nguyên lý cơ bản vô cùng cô đọng đã được hình thức hoá. Vì thế, tham vọng logic hoá các khoa học cổ truyền Đông phương là đi ngược lại phương pháp tiếp cận chân lý của chính Đông phương cổ truyền. Phương pháp suy diễn logic và chứng minh của khoa học Tây phương tự bản thân nó đã không đủ để chứng minh mọi chân lý. Định lý bất toàn gợi ý rằng thế giới nhận thức của con người lớn hơn thế giới logic chứng minh rất nhiều. Chỗ hơn hẳn của con người so với tư duy logic máy móc chính là trực giác: Khả năng cảm nhận chân lý một cách trực tiếp không cần suy luận. Vậy logic hoá và toán học hoá Kinh Dịch e rằng chỉ làm giảm giá trị của Kinh Dịch, thay vì nâng nó lên một tầm cao hơn của nhận thức. Đã có một giáo sư vật lý Việt Nam thực hiện một công trình toán học hoá Kinh Dịch rất công phu(3), nhưng công trình này không để lại một ấn tượng nào đủ lớn trong cộng đồng khoa học Việt nam cũng như thế giới. Có lẽ vì nó không đủ sức thuyết phục.

Thực chất: Đây chỉ là cách nhìn nhận Lý học Đông phương qua cổ thư chữ Hán. Bản chất của Lý học Đông phương không phải là:

"khoa học Đông phương không dựa trên logic suy diễn và chứng minh, mà chủ yếu dựa trên cảm nghiệm trực giác".

Càng không thể căn cứ vào một công trình không hoàn chỉnh và không đủ tầm để kết luận về Lý học Đông phương:

"Đã có một giáo sư vật lý Việt Nam thực hiện một công trình toán học hoá Kinh Dịch rất công phu.nhưng công trình này không để lại một ấn tượng nào đủ lớn trong cộng đồng khoa học Việt nam cũng như thế giới. Có lẽ vì nó không đủ sức thuyết phục.".

Sai lầm của giáo sư Hoàng Phương chính là vẫn căn cứ vào nguyên lý trong cổ thư chữ Hán là Hậu thiên Văn Vương như là một đối chứng với tri thức khoa học để thực hiện công trình của mình. Trong tác phẩm: "Tích Hợp Đa văn hóa Đông Tây" của ông đã chứng minh đồ hình Hậu Thiên Văn Vương đúng. Và tôi đã chỉ ra sai lầm của ông trong tác phẩm "Tìm về cội nguồn Kinh Dịch".

Người ta không thể tìm ra một cái đúng từ một cái sai.

Còn tiếp.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Người ta không thể tìm ra một cái đúng từ một cái sai.

Không có cái gì gần sát cái đúng bằng cái sai-anhxtanh

Share this post


Link to post
Share on other sites

Người ta không thể tìm ra một cái đúng từ một cái sai.

Chú Thiên Sứ kính,

Cháu e rằng câu nói này ngắn gọn quá dễ gây hiểu lầm. Thông thường, việc làm một vấn đề gì đúng ngay từ đầu không phải luôn luôn đạt được. Khi mắc phải sai lầm, người ta phân tích nguyên nhân, tìm cách khắc phục, chú ý tránh lặp lại (nôm na là "rút kinh nghiệm"),... để không bị thất bại nữa. Như vậy, rõ ràng vẫn có thể tìm được cái đúng từ việc phân tích một cái sai.

Ngoài ra, trong thực tế vẫn có những trường hợp "lấy độc trị độc" - sử dụng một cái sai lớn để ức chế một cái sai khác, biến nó thành đúng, chú ạ!

Do đó, cháu nghĩ, câu này Chú cần diễn đạt rõ nghĩa hơn.

Cháu Miêu.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Chú Thiên Sứ kính,

Cháu e rằng câu nói này ngắn gọn quá dễ gây hiểu lầm. Thông thường, việc làm một vấn đề gì đúng ngay từ đầu không phải luôn luôn đạt được. Khi mắc phải sai lầm, người ta phân tích nguyên nhân, tìm cách khắc phục, chú ý tránh lặp lại (nôm na là "rút kinh nghiệm"),... để không bị thất bại nữa. Như vậy, rõ ràng vẫn có thể tìm được cái đúng từ việc phân tích một cái sai.

Ngoài ra, trong thực tế vẫn có những trường hợp "lấy độc trị độc" - sử dụng một cái sai lớn để ức chế một cái sai khác, biến nó thành đúng, chú ạ!

Do đó, cháu nghĩ, câu này Chú cần diễn đạt rõ nghĩa hơn.

Cháu Miêu.

Câu này đã quá đủ nghĩa rồi. Vì nó là một câu xác định.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Rầu quá. Mạng như mắc dịch A/H5N1. Gõ bao công phu gửi lên thì ngắt mạch.

Rầu quá. Mạng như mắc dịch A/H5N1. Gõ bao công phu gửi lên thì ngắt mạch.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Rầu quá. Mạng như mắc dịch A/H5N1. Gõ bao công phu gửi lên thì ngắt mạch.

Chậc! Loa Loa: Virus A/H5N1 biến thể lây từ động vật sang máy tính. :( Phen này chắc ông Tử Quảng giàu to. :lol:

Share this post


Link to post
Share on other sites

Một trong hai thực tại khách quan loại trừ nhau. Chỉ có một cái đúng.

Cả hai cái đều đúng cả, anh Thiên Sứ ạ !. Anh có nhớ, lưỡng tính sóng và hạt cùng tồn tại trong thế giới vi mô không ?. Sóng và Hạt vốn "phủ định" nhau đó anh !!!.

Thân ái .

Share this post


Link to post
Share on other sites

Nhưng cả sóng và hạt phải là hệ quả của một thực tại khác tạo ra nó. Có thể nói: Sóng - hạt là dẫn xuất trao đổi của nhau chứ không phủ định. Đây chính là lý do để tôi tin rằng: Không thể có hạt của Chúa.

Vậy theo anh, sóng và hạt là hệ quả của cái gì ?.

Sóng là sóng, hạt là hạt, chúng không thể là dẫn xuất trao đổi nhau được . Chính bởi sóng và hạt cùng được Thấy trong thế giới vi mô, mà các nhà vật lý cho đến nay buộc phải công nhận nó, bởi sự tồn tại các hiệu ứng lượng tử . Chứ đâu có hiểu nó như đã từng hiểu vật lý cổ điển đâu !!! Chính là do tính chất Sóng và tính chất Hạt phủ định lẫn nhau mà gây ra sự khó hiểu này đó .

Nhưng mặc kệ, cho dù các nhà vật lý thấy khó hiểu, Chúng vẫn tồn tại - vì chúng là thực tại khách quan . Và điều này không có minh chứng đến sự không tồn tại hạt của chúa .

Thân ái .

Share this post


Link to post
Share on other sites

Một trong hai thực tại khách quan loại trừ nhau. Chỉ có một cái đúng.

Cả hai cái đều đúng cả, anh Thiên Sứ ạ !. Anh có nhớ, lưỡng tính sóng và hạt cùng tồn tại trong thế giới vi mô không ?. Sóng và Hạt vốn "phủ định" nhau đó anh !!!.

Thân ái .

Vâng, Rất đồng ý với anh Vuivui là thực tại có lưỡng tính sóng hạt. Nhưng cả sóng và hạt phải là hệ quả của một thực tại khác tạo ra nó. Có thể nói: Sóng - hạt là dẫn xuất trao đổi của nhau chứ không phủ định. Đây chính là lý do để tôi tin rằng: Không thể có hạt của Chúa.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Vậy theo anh, sóng và hạt là hệ quả của cái gì ?.

Sóng là sóng, hạt là hạt, chúng không thể là dẫn xuất trao đổi nhau được . Chính bởi sóng và hạt cùng được Thấy trong thế giới vi mô, mà các nhà vật lý cho đến nay buộc phải công nhận nó, bởi sự tồn tại các hiệu ứng lượng tử . Chứ đâu có hiểu nó như đã từng hiểu vật lý cổ điển đâu !!! Chính là do tính chất Sóng và tính chất Hạt phủ định lẫn nhau mà gây ra sự khó hiểu này đó .

Nhưng mặc kệ, cho dù các nhà vật lý thấy khó hiểu, Chúng vẫn tồn tại - vì chúng là thực tại khách quan . Và điều này không có minh chứng đến sự không tồn tại hạt của chúa .

Thân ái .

Anh Vuivui thân mến.

Thực tại khách quan - tồn tại sóng /hạt - được miêu tả như "vật chất đã biến mất", xác định rằng: vật chất không thể chia nhỏ mãi. Trước sóng/ hạt là cái gì? Tính hợp lý của suy diễn cho thấy phải có một thực tại khác là tiền đề của hiện tượng Sóng/ Hạt! Các nhà khoa học cho rằng: Khả năng tồn tại "Hạt của Chúa". Nhưng tôi cho rằng: Đó chính là "Khí" trong Lý học Đông phương.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Anh Vuivui thân mến.

Thực tại khách quan - tồn tại sóng /hạt - được miêu tả như "vật chất đã biến mất", xác định rằng: vật chất không thể chia nhỏ mãi. Trước sóng/ hạt là cái gì? Tính hợp lý của suy diễn cho thấy phải có một thực tại khác là tiền đề của hiện tượng Sóng/ Hạt! Các nhà khoa học cho rằng: Khả năng tồn tại "Hạt của Chúa". Nhưng tôi cho rằng: Đó chính là "Khí" trong Lý học Đông phương.

Anh Thiên Sứ thân mến !.

Tôi chỉ gợi ý anh để sao cho anh hiểu đúng những khái niệm khoa học mà thôi .

Sóng và Hạt là hai thuộc tính của vật chất . Chúng phủ định nhau . Nhưng sóng và hạt không phải là đại biểu của vật chất . Vì thế câu hỏi trước sóng và hạt là cái gì không có ý nghĩa . Dù sóng và hạt có phủ định nhau hay không phủ định nhau, cũng không đưa tới sự chứng tỏ điều gì về sự tồn tại cái gọi là Hạt của Chúa hay không tồn tại hạt của chúa .

Còn trong Lý học đông phương, Khí không phải là hạt, cũng chẳng phải là sóng, cũng không đơn thuần là năng lượng . Bởi vậy, nếu Tây phương gọi cái gì đó có tên là Hạt của Chúa, với một ý nghĩa xác định tiên khởi về vật chất . Thì đông phương học, không thể xem như Khí là cái gì đó xác định tiên khởi của vật chất . Bởi thế, không thể xem như là thấy có sự tương đồng về cái gọi là hạt của chúa với cái mà ta gọi là Khí được .

Thân ái .

Share this post


Link to post
Share on other sites

Anh Thiên Sứ thân mến !.

Tôi chỉ gợi ý anh để sao cho anh hiểu đúng những khái niệm khoa học mà thôi .

Sóng và Hạt là hai thuộc tính của vật chất . Chúng phủ định nhau . Nhưng sóng và hạt không phải là đại biểu của vật chất . Vì thế câu hỏi trước sóng và hạt là cái gì không có ý nghĩa . Dù sóng và hạt có phủ định nhau hay không phủ định nhau, cũng không đưa tới sự chứng tỏ điều gì về sự tồn tại cái gọi là Hạt của Chúa hay không tồn tại hạt của chúa .

Còn trong Lý học đông phương, Khí không phải là hạt, cũng chẳng phải là sóng, cũng không đơn thuần là năng lượng . Bởi vậy, nếu Tây phương gọi cái gì đó có tên là Hạt của Chúa, với một ý nghĩa xác định tiên khởi về vật chất . Thì đông phương học, không thể xem như Khí là cái gì đó xác định tiên khởi của vật chất . Bởi thế, không thể xem như là thấy có sự tương đồng về cái gọi là hạt của chúa với cái mà ta gọi là Khí được .

Thân ái .

Anh Vuivui thân mến.

Tôi đâu có đặt v/d về sóng/hạt là đại biểu của vật chất đâu? Mà chỉ đồng ý là một thực tại khách quan và đặt v/d cho một thực tại khác có trước sóng / hạt và tạo ra sóng / hạt thôi. Tôi cũng đồng ý là: "Tây phương gọi cái gì đó có tên là Hạt của Chúa, với một ý nghĩa xác định tiên khởi về vật chất". Nhưng tôi xác định nó là "Khí" trong Lý học và không có "hạt" theo nghĩa một dạng tồn tại có hình thù xác định nào đó của vật chất.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Anh Vuivui thân mến.

Tôi đâu có đặt v/d về sóng/hạt là đại biểu của vật chất đâu? Mà chỉ đồng ý là một thực tại khách quan và đặt v/d cho một thực tại khác có trước sóng / hạt và tạo ra sóng / hạt thôi. Tôi cũng đồng ý là: "Tây phương gọi cái gì đó có tên là Hạt của Chúa, với một ý nghĩa xác định tiên khởi về vật chất". Nhưng tôi xác định nó là "Khí" trong Lý học và không có "hạt" theo nghĩa một dạng tồn tại có hình thù xác định nào đó của vật chất.

Anh Thiên Sứ ơi !.

Người ta nói : Vật chất biến hóa, chứ không ai nói, "thực tại khách quan biến hóa" !!!.

Thân ái .

Share this post


Link to post
Share on other sites

Anh Thiên Sứ ơi !.

Người ta nói : Vật chất biến hóa, chứ không ai nói, "thực tại khách quan biến hóa" !!!.

Thân ái .

Ngược lại tôi lại cho rằng biến hóa - chuyển đổi chính là một thực tại khách quan đấy chứ!

Thân mến.

Share this post


Link to post
Share on other sites

LÝ HỌC ĐÔNG PHƯƠNG - TRI THỨC KHOA HỌC HOÀN CHỈNH VÀ NHẤT QUÁN.

Cội nguồn Lý học Đông phương.

Một thực tại khách quan không thể phủ nhận chính là những phương pháp dự báo tiên tri Đông phương - hệ quả phương pháp luận của thuyết ADNH - đã trải hàng thiên niên kỷ. Những phương pháp tiên tri này hoàn toàn có tính quy luật, tính nhất quán, tính hệ thống và khả năng dự báo. Hay nói cách khác: Nó hoàn toàn phù hợp với tiêu chí khoa học cho một phương pháp và một lý thuyết khoa học.

Nhưng do một hệ thống nguyên lý lý thuyết đã thất truyền và những thực tại khách quan mà người xưa nhận thức được mà khoa học hiện đại chưa biết đến, đã làm cho phương pháp tiên tri Đông phương trở nên huyền bí, khó hiểu. Nhưng nếu chỉ thuần túy do thất truyền thì trải hàng ngàn năm cố gắng của con người và phối hợp với tri thức khoa học hiện đại, người ta cũng có thể phục chế được lại toàn bộ hệ thống lý thuyết đó. Nhưng thực tế đã không diễn ra như vậy. Thuyết Âm Dương Ngũ hành và Kinh Dịch - tiên đề của tất cả các phương pháp ứng dụng học thuật đông phương cổ vẫn sừng sững thách đó tri thức của nhân loại hiên đại. Bởi vậy, không có gì ngạc nhiên khi hầu hết những tri thức khoa học hiện đại đã có nhận xét sai lầm về bản chất Lý học Đông phương như nhà nghiên cứu Phạm Việt Hưng như sau:

khoa học Đông phương không dựa trên logic suy diễn và chứng minh, mà chủ yếu dựa trên cảm nghiệm trực giác, mặc dù nó có những nguyên lý cơ bản vô cùng cô đọng đã được hình thức hoá. Vì thế, tham vọng logic hoá các khoa học cổ truyền Đông phương là đi ngược lại phương pháp tiếp cận chân lý của chính Đông phương cổ truyền. Phương pháp suy diễn logic và chứng minh của khoa học Tây phương tự bản thân nó đã không đủ để chứng minh mọi chân lý. Định lý bất toàn gợi ý rằng thế giới nhận thức của con người lớn hơn thế giới logic chứng minh rất nhiều. Chỗ hơn hẳn của con người so với tư duy logic máy móc chính là trực giác: Khả năng cảm nhận chân lý một cách trực tiếp không cần suy luận. Vậy logic hoá và toán học hoá Kinh Dịch e rằng chỉ làm giảm giá trị của Kinh Dịch, thay vì nâng nó lên một tầm cao hơn của nhận thức. Đã có một giáo sư vật lý Việt Nam thực hiện một công trình toán học hoá Kinh Dịch rất công phu(3), nhưng công trình này không để lại một ấn tượng nào đủ lớn trong cộng đồng khoa học Việt nam cũng như thế giới. Có lẽ vì nó không đủ sức thuyết phục.

Nhận xét này hoàn toán đúng nếu như chúng ta chỉ nhìn nhận Lý học Đông phương qua cổ thư chữ Hán từ hàng ngàn cuốn sách và cũng từ hàng ngàn năm nay. Một khối lượng kiến thức đồ sộ khiến con người không dễ gì vượt qua được. Nhưng bản chất của vấn đề và nội dung đích thực của Lý học Đông phương lại không như cổ thư chữ Hán miêu tả.

Người ta không thể tìm ra một cái đúng từ một cái sai.

Đây cũng chính là nguyên nhân của sự bế tắc khi con người đã cố gắng tìm về bản chất đích thực của Lý Học Đông phương. Những cái sai căn bản khi miêu tả về Lý học Đông phương từ cổ thư chữ Hán là:

1 - Lịch sử xuất xứ của thuyết Âm Dương Ngũ hành.

2 - Sự sai lệch và mâu thuẫn trong nội dung văn bản.

3 - Hệ quả là Không có khả năng làm sáng tỏ một thực tại khách quan mà nó phản ánh.

Tôi đã chứng minh điều này và viết lại ở đây:

-*-

I - LỊCH SỬ THUYẾT ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH TRONG CỔ THƯ CHỮ HÁN.

I – 1: Những vấn đề của thuyết Âm Dương Ngũ hành và Kinh Dịch.

Từ trước đến nay, có thể nói rằng tuyệt đại đa số những ai biết về Kinh Dịch đều mặc nhiên coi kinh Dịch và tất cả những phương pháp ứng dụng liên quan đến thuyết Âm Dương Ngũ hành là của nền văn minh Hoa Hạ cổ với hàng ngàn đầu sách bằng bản văn chữ Hán nói về nó trong hàng thiên niên kỷ. Những bản văn chữ Hán cổ liên quan đến Kinh Dịch và thuyết Âm Dương Ngũ hành xác định rõ tác giả, thời gian xuất hiện trong lịch sử văn minh Hoa Hạ. Những gía trị từ hiệu quả của những phương pháp ứng dụng liên quan đến Kinh Dịch và thuyết Âm Dương Ngũ hành như: Đông Y, Phong thủy, Tử Vi, Bốc Dịch….vv….với khả năng tiên tri, đã biện minh cho tác giả và xuất xứ của nó.

Tuy nhiên, khi có sự giao lưu giữa nền văn hóa Đông Tây thì người ta đã nhận thấy sự bí ẩn và tính mơ hồ của những gía trị liên quan đến thuyết Âm Dương Ngũ hành và Kinh Dịch. Đó cũng chính là cơ sở cho nhận xét về một nền văn hóa Đông phương huyền bí. Đã có một thời gian dài, các học giả Tây phương cho rằng Lý học Đông phương mang màu sắc tôn giáo và mê tín dị đoan. Nhưng những thập kỷ gần đây, những tri thức khoa học Tây phương đang chiếm ưu thế trong tri thức nhân loại hiện đại bắt đầu quan tâm đến nền văn hóa cổ Đông phương và nhận ra tính minh triết và đặt vấn đề về tính khoa học của nó. Cơ quan văn hóa Liên Hiệp Quốc đã 4 lần tổ chức đại hội thảo về Kinh Dịch ở Bắc Kinh để tìm hiểu về Kinh Dịch, nhưng vẫn không có một kết luận cuối cùng về nó. Những bí ẩn của Kinh Dịch hay nói rộng hơn của Lý học Đông phương mà cốt lõi là thuyết Âm Dương Ngũ hành vẫn không được khai thông. Những học giả Trung Quốc hiện đại trong những năm gần đây, đã dấy lên một phòng trào phủ nhận những gía trị của Đông Y và Phong thủy vì cho rằng nó mơ hồ, không có cơ ở khoa học, nên đã không thể phát triền từ hàng ngàn năm nay. Kinh Dịch và nói rộng hơn là thuyết Âm Dương Ngũ hành vẫn sừng sững thách đố tri thức của nhân loại bằng sự mơ hồ của những khái niệm và hiệu quả trên thực tế từ hàng thiên niên kỷ.

Phải chăng: Người ta đã không thể tìm ra một cái đúng từ một cái sai.

Bất cứ cái gì xuất hiện trên thế gian đều phải có hoàn cảnh ra đời của nó. Một học thuyết thì phải có lịch sử ra đời theo thuận tự hợp lý với nội dung của nó. Thuyết Âm Dương Ngũ hành không thể từ trên trời rơi xuống, nên nó cũng không thể ngoại lệ. Chưa hết, Một học thuyết được coi là hoàn chỉnh, dù chưa biết đúng hay sai thì cũng không thể tự mâu thuẫn ngay trong cấu trúc nội dung của nó. Và nếu là một học thuyết khoa học thì nó pjhải mô tả được thực tế khách quan và giải thích một cách hợp lý những thực tại liên quan đến nó với khả năng dự báo.

Trên cơ sở này, xin mời bạn đọc cùng xem lại những vấn đề được nêu ra ở trên để minh xác cội nguồn Kinh Dịch và thuyết Âm Dương Ngũ hành.

I - 2: Những mâu thuẫn bất hợp lý trong lịch sử Kinh Dịch và thuyết Âm Dương Ngũ hành từ cổ thư chữ Hán.

Tất cả những ai tìm hiểu về Kinh Dịch, nếu chịu khó suy ngẫm một chút đều nhận thấy ngay tính bất hợp lý và mâu thuẫn trong lịch sử Kinh Dịch và thuyết Âm Dương Ngũ hành qua cổ thư chữ Hán. Điểm lại thời gian xuất hiện của Kinh Dịch và thuyết Âm Dương Ngũ hành qua các bản văn chữ Hán, chúng ta dễ dàng nhận thấy ngay sự vô lý trong thời gian lịch sử của nó. Những sự kiện này, cổ thư chữ Hán miêu tả như sau:

- Cách đây 6000 năm, Vua Phục Hy thấy con Long Mã hiện lên trên sông Hoàng hà, trên mình có những xoáy bèn nghĩ ra Hà Đồ. Căn cứ trên Hà Đồ làm ra Tiên Thiên bát quái. Nhưng, những điều này chỉ được lịch sử ghi nhận sự kiện va 2không có văn bản nào cho biết rõ ký hiệu Tiên Thiên bát quái và Hà Đồ có cấu trúc như thế nào. Những đồ hình này chỉ thực sự xuất hiện vào đời Tống sau đó 5000 năm.

- Sau đó 1000 năm – Tức 5000 năm cách ngày nay –

Hoàng Đế là một vị vua được coi là khai sáng nên dân tộc Hán cùng các đại thần của ngài làm nên cuốn: Hoàng Đế nội kinh tố vấn.

- Sau 1000 năm nữa tiếp theo – Tức 4000 năm cách ngày nay – Vua Đại Vũ cũng vốn là một vị vua huyền thoại, đi trị thủy trên sông Lạc gặp một con rùa Thần có những chấm trên đầu, chân, mai bèn nghĩ ra Lạc Thư và viết Hồng Phạm cửu trù. Trong Hồng Phạm cửu trù khái niệm Ngũ hành xuất hiện.. Hồng phạm cửu trù được nhắc tới trong thiên Vũ Cống của kinh Thư. Nhưng đồ hình Lạc thư như thế nào cũng không rõ và cũng chỉ được công bố vào đời Tống, tức là hơn 3000 năm sau khi cổ thư nhắc tới sự kiện này.

- Tiếp theo 1000 năm nữa – Tức 3000 năm cách ngày nay – Vua Văn Vương bị giam trong ngục Dữu Lý 7 năm, dựa vào Lạc Thư, sắp xếp lại Tiên Thiên Bát quái thành Hậu Thiên Văn Vương và cấu trúc nên 64 quẻ Hậu Thiên. Ngài cùng con trai là Chu Công Đán viết Soán Từ, Hào từ cho 64 quẻ Chu Dịch. Đồ hình Hậu Thiên Bát quái Văn Vương, cũng chỉ được công bố vào đời Tống sau đó 2000 năm.

- Tiếp theo 500 năm sau – Tức 2500 năm cách ngày nay – Khổng Tử lúc về già, viết thập Dực, Hệ từ thương, Hạ truyện và thuyết quái truyện - hoàn thành bộ Chu Dịch truyền đến ngày nay. Trong trước tác của Khổng tử nói tới Âm Dương, Thái cực và lưỡng nghi.

- 200 năm tiếp theo – Tức khoảng 2300 năm cách ngày nay - Xuất hiện phái Âm Dương gia được coi là phát triền thuyết Ngũ hành. Dấu ấn của Ngũ hành còn thấy trong sách Lã Thị Xuân thu, được coi là của Lã Bất Vi, tể tường đời Tần.

Các nhà nghiên cứu hiện đại cho rằng thuyết Âm Duơng và Ngũ hành hòa nhập vào đời Hán.

Posted Image

- 1000 năm sau Công Nguyên xuất hiện các đồ hình - Hà Đồ, Lạc Thư, Hậu thiên, Tiên thiên bát quái - do các đạo gia như Thiệu Khang Tiết, Trần Đoàn Lão Tổ công bố và họ vẫn thừa nhận tác giả những đồ hình này thuộc về Phục Hy, Đại Vũ và Chu Văn Vương như trên. Trần Đoàn Lão tổ còn được coi là tác giả của môn Tử Vi , Thiệu Khang Tiết còn được coi là tác giả của Mai Hoa Dịch số.

Trong suốt hơn 2000 năm, việc nghiên cứu, tìm hiểu Kinh Dịch và thuyết Âm Dương Ngũ hành được các nhà nghiên cứu Hán nho - tiềm hiểu từ đó đến nay - bắt đầu từ: Mao Diên Thọ, Kinh Phòng, Mạnh Hỷ - Đời Hán...vv..mỗi đời đều để lại những triết gia nổi tiếng về thuyết Âm Dương Ngũ hành và Kinh Dịch. Nhiều thành tựu nhất là đời Tống nổi tiếng với Chu Hy với thuyết Vô cực và được nhiều người ủng hộ cho đến ngày nay.

Riêng cuốn Hoàng đế Nội Kinh tố vấn - được các nhà nghiên cứu cho là xuất hiện từ thế kỷ thứ II BC đến thế kỷ I AC – nhưng có nội dung bản văn miêu tả Hoàng Đế đối thoại với Kỳ Bá và Quỉ Du khu từ 5000 năm cách ngày nay và hoàn toàn dùng phương pháp luận của thuyết Âm Dương Ngũ hành - được coi là phương pháp luận căn bản của Đông Y thì không thể đặt vào bất kỳ thời kỳ lịch sử nào trong văn minh Trung Hoa. Bởi vì với nội dung này, nó xác minh rằng: Thuyết Âm Dương Ngũ hành phải xuất hiện trước khi phương pháp luận của nó được ứng dụng trong nội dung của nó. Mặc nhiên cuốn “Hoàng đế nội kinh tố vấn” đã phủ nhận toàn bộ lịch sử phát triển của thuyết Âm Dương Ngũ hành miêu tả trong cổ thư chữ Hán. Khi mà những khái niệm của thuyết Âm Dương Ngũ hành có trong Hoàng Đế nội kinh có trước cả những tác gỉa phát minh ra nó là Đại Vũ, Khổng Tử và cả phái Âm Dương gia.

1 – 3: Kết luận:

Bất cứ một lý thuyết nào cũng phải được hình thành từ nhận thức trực quan sinh động đến tư duy trừu tương và tổng hợp thành một lý thuyết. Tất nhiên nó phải có một nền tảng tri thức xã hội hình thành nên lý thuyết đó với những khái niệm được phổ biến trong nền văn minh tạo ra nó. Nhưng hàng ngàn năm tiếp theo đã trôi qua, Chính nền văn minh Họa Hạ cũng không lý giải được những khái niệm của một lý thuyết mà được coi là của họ .

Những mâu thuẫn trong thuận tự thời gian hình thành thuyết Âm Dương Ngũ hành và Kinh Dịch trong cổ thư chữ Hán đã xác định nền văn minh Hoa Hạ không phải cội nguồn của Kinh Dịch và thuyết Âm Dương Ngũ hành. Muốn lịch sử thuyết Âm Dương Ngũ hành và Kinh Dịch thuộc về văn minh Hoa Hạ thì phải viết lại toàn bộ xuất xứ theo thuận tự nói trên, mà chính bản văn chữ Hán ghi nhận. Nhưng như vậy thì tức là tự phủ nhận toàn bộ lịch sử hình thành Thuyết âm Dương Ngũ hành và Kinh Dịch từ cổ thư chữ Hán.

II – NỘI DUNG THUYẾT ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH VÀ KINH DỊCH TRONG BẢN VĂN CHỮ HÁN. Một học thuyết phải có một nội dung hợp lý với chính nó, cho dù chỉ là một sự hợp lý hình thức với những giả qui luật.

Như vậy chỉ với tính mâu thuẫn trong lịch sử hình thành Kinh Dịch và thuyết Âm Dương Ngũ hành trong cổ thư chữ Hán, cũng đủ chứng tỏ nền văn minh Họa Hạ không thể là chủ nhân của Kinh Dịch và thuyết Âm Dương Ngũ hành. Khi những thuận tự xuất hiện trong lịch sử thời gian của nó hoàn toàn bất hợp lý theo kiểu:

"Sinh con rồi mới sinh cha.

Sinh cháu giữ nhà rồi mới sinh ông".

Tuy nhiên, vấn đề không chỉ dừng ở đây. Một bằng chứng sinh động nữa không kém phần quan trong và xác minh một cách rõ nét nhất rằng:

Nền văn minh Hoa Hạ không thể là chủ nhân của thuyết Âm Dương Ngũ hành và Kinh Dịch chính là nội dung của nó.

Mâu thuẫn trong nội dung của thuyết Âm Dương Ngũ hành trong cổ thư chữ Hán thể hiện ở những vấn đề quan yếu sau đây:

II – 1: Nền tảng tri thức phổ biến trong văn hóa Hán

và thuyết Âm Dương Ngũ hành với Kinh Dịch.

Trên thực tế, một học thuyết xuất hiện phải trên cơ sở nền tảng tri thức phổ biến của xã hội đó để có thể tiếp tục những khái niệm của nó. Nhưng trong thuyết Âm Dương Ngũ hành và Kinh Dịch lưu truyền trong cổ thư chữ Hán lại không thỏa mãn điều kiện này.

Ngay bây giờ, chính Thiệu Vĩ Hoa - được coi là truyền nhân đời thứ 20 của Thiệu Khang Tiết - một danh gia đời Tống công bố Mai Hoa Dịch số - cũng không biết căn cứ vào đâu để có bảng Lục Thập Hoa giáp. Ông ta đã thừa nhận điều này trong các tác phẩm của mình. Đồng thời xác định rằng: Đã nhiều thế kỷ, những nhà nghiên cứu Trung Hoa cũng không thể hiểu được vì sao có bảng Lục thập hoa giáp.

Thật là vô lý hết sức, khi mà cả một nền văn minh tự coi là cội nguồn của thuyết Âm Dương Ngũ hành mà lại không thể biết được tổ tiên của họ căn cứ vào đâu để có chính những sản phẩm ứng dụng truyền lại. Điều này tự thân nó xác định rằng: Xã hội Trung Hoa cổ không phải là nền tảng tri thức để hình thành nên học thuyết Âm Dương Ngũ hành và Kinh Dịch. Đấy cũng chỉ là một thí dụ. Còn rất nhiều những khái niệm mơ hồ và mâu thuẫn ngay trong nội dung của học thuyết này mà chính những nhà nghiên cứu Hoa Hạ hiện đại cũng không giải thích được. Phong trào phủ nhận Đông Y và phong thủy vốn được coi là có xuất xứ Hoa hạ của chính các học giả Trung Quốc hiện đại chứng đỏ điều này.

II – 2: Mâu thuẫn từ nguyên lý căn để

của học thuyết Âm Dương Ngũ hành và Kinh Dịch từ cổ thư chữ Hán.

2 - 1: Hà Đồ và Tiên thiên Bát quái.

Đồ hình dưới đây miêu tả cửu cung Hà Đồ phối với Tiên Thiên Bát quái, được cho là của vua Phục Hi phát hiện trên lưng con Long Mã hiện lên trên sông Hoàng Hà và nghĩ ra Tiên Thiên Bát quái phối với Hà Đồ.

Đồ hình liên hệ Hà đồ và Tiên Thiên bát quái

Posted Image

Quán xét đồ hình này – Theo tính chất quái vị lưu truyền qua cổ thư chữ Hán. Cụ thể là cuốn Mai Hoa Dịch , do Thiệu Khang Tiết công bố vào đời Tống – chúng ta nhận thấy:

* Càn (Trời / Kim) nằm ở độ số 7 Dương Hỏa/ Chính Nam trên Hà đồ. Như vậy Hỏa vị khắc Kim quái.

* Đoài (Kim) thì nằm ở độ số 2 là Âm Hỏa/ Đông Nam trên Hà đồ. Như vậy, trường hợp này: Hỏa vị khắc Kim quái.

* Ly (Hỏa) nằm ở độ số 3 Dương Mộc/ Chính Đông của Hà đồ. Như vậy, trường hợp này: Mộc vị sinh Hỏa quái.

* Chấn (Mộc) nằm ở độ số 8 Âm Mộc/ Đông Bắc của Hà đồ. Như vậy, trường hợp này: Mộc vị hòa Mộc quái.

* Khôn (Thổ) nằm ở độ số 1 Dương Thủy/ Chính Bắc của Hà đồ. Như vậy, Thổ quái khắc Thủy vị.

* Cấn (Thổ/ Núi) nằm ở độ số 6 Âm Thủy/ Tây Bắc của Hà đồ. Trường hợp này: Thổ quái khắc Thủy vị.

* Khảm (Thủy) nằm ở độ số 9 Dương Kim/ Chính Tây của Hà đồ. Trường hợp này Kim vị sinh Thủy quái.

* Tốn (Gió / Mộc) nằm ở độ số 4 Âm Kim/ Tây Nam của Hà đồ. Trường hợp này, Kim vị khắc Mộc quái.

Quán xét hiện tượng trên, chúng ta cũng nhận thấy ngay rằng:

Không hề có sự tương thích nào giữa hành của quái theo cổ thư chữ Hán với hành của phương vị trên Hà đồ.

Có người dẫn sách khác cho rằng vị trí sắp xếp trên Càn - nằm ở phương Nam là không chính xác mà Càn nằm ở vị trí chính Bắc, Khôn nằm ở vị trí chính Nam trên Hà đồ. Tương quan các vị trí của các quái trong Bát quái Tiên thiên không thay đổi.

Chúng tôi đã sắp xếp theo vị trí được đặt ra ở trên và thể hiện dưới đồ hình sau đây.

Đồ hình liên hệ Hà đồ và Tiên Thiên bát quái II

Posted Image

Quán xét đồ hình này – Theo tính chất quái vị lưu truyền qua cổ thư chữ Hán. Cụ thể là cuốn Mai Hoa Dịch , do Thiệu Khang Tiết công bố vào đời Tống.

* Càn (Trời / Kim) nằm ở độ số 1 Dương Thủy / Chính Bắc,

* Đoài (Kim) thì nằm ở độ số 6 là Âm Thủy/ Tây Bắc trên Hà đồ.

Như vậy, trường hợp này: Kim quái sinh Thủy vị

* Ly (Hỏa) nằm ở độ số 9 Dương Kim / Chính Tây của Hà đồ.

Như vậy, trường hợp này: Hỏa quái khắc Kim vị.

* Chấn (Mộc) nằm ở độ số 4 Âm Kim / Tây Nam của Hà đồ.

Như vậy, trường hợp này: Kim vị khắc Mộc quái.

* Khôn (Thổ) nằm ở độ số 7 Dương Hỏa / Chính Nam của Hà đồ.

* Cấn (Thổ/ Núi) nằm ở độ số 2 Âm Hỏa / Đông Nam của Hà

đồ.

Trường hợp này: Hỏa vị sinh Thổ quái.

* Khảm (Thủy) nằm ở độ số 3 Dương Mộc / Chính Đông của Hà đồ.

Trường hợp này Thủy quái sinh Mộc vị.

* Tốn (Gió / Mộc) nằm ở độ số 8 Âm Mộc/ Đông Bắc của Hà đồ. Trường hợp này, Mộc quái tương hòa Mộc vị.

Quán xét hiện tượng trên, chúng ta cũng nhận thấy ngay rằng:

Không hề có sự tương thích nào giữa hành của quái theo cổ thư chữ Hán với hành của phương vị trên Hà đồ đã được thay đổi như trên. Trên thực tế, với tương quan của đồ hình Tiên thiên bát quái thì dù bạn đọc có xoay như thế nào cũng không thể nào tìm được sự tương thích giữa quái vị và phương vị trên cơ sở Ngũ hành của Hà đồ và Ngũ hành của bát quái.

Để tiếp tục tìm sự bí ẩn qua câu hỏi này, chúng ta tiếp tục quán xét sự tương thích theo cổ thư chữ Hán là: “Hậu thiên bát quái bản Lạc thư dã” (Đồ hình Hậu thiên bát quái xuất phát từ với Lạc thư Chu Hy). Xin quí vị quan tâm xem hình dưới đây:

Đồ hình Cửu cung Lạc thư

Posted Image

Posted Image

Hậu thiên bát quái Văn Vương liên hệ Lạc thư

Posted Image

Như vậy, với ngay cả Hậu thiên bát quái vốn là một cơ sở của những phương pháp ứng dụng bao trùm trên mọi lĩnh vực cũng không hề có sự tương thích với Lạc thư.

Đây chính là nguyên nhân để học giả uyên bác Nguyễn Hiến Lê cho rằng:

Nhất là so sánh những hình đó với hình Bát quái thì dù giàu trí tưởng tượng tới mấy cũng không thể bảo rằng Bát quái phỏng theo hai đồ hình đó được”.

(Kinh Dịch - Đạo của người quân tử)

Chính vì tính bất hợp lý của sự liên hệ ngay từ nguyên lý căn để của thuyết Âm Dương Ngũ hành là “Tiên thiên Bát quái phối Hà đồ” và “Hậu thiên Bát quái với Lạc thư” – được lưu truyền trong cổ thư chữ Hán từ hàng ngàn năm nay – đồng thời với sự xuất hiện muộn màng đến mức phi lý của những đồ hình này trong lịch sử văn minh Hán so với chính bản văn chữ Hán về sự xuất hiện của nó, đã cho thấy những mâu thuẫn rất căn bản ngay trong nội dung cua 3thuyết Âm Dương Ngũ hành theo cổ thư chữ Hán. Đồng thời đó cũng chính la 2nguyên nhân để có những kết luận sai lầm cho rằng:

1) Âm Dương trong Kinh Dịch không liên quan gì đến Ngũ hành.

2) Âm Dương Ngũ hành là của người Việt và Bát quái là của người Hán. Hai học thuyết này hoà nhập vào thời Hán.

Những sai lầm của luận điểm này vì những nhà nghiên cứu đã không xuất phát từ một tiêu chí và phương pháp luận khoa học. Họ chỉ nhìn thấy một cách trực quan từ những nội dung trong bản văn chữ Hán và không biết rằng cổ thư chữ Hán Không phải là những căn bản hoàn chỉnh về thuyết Âm Dương Ngũ hành.

Chính từ những sai lầm từ nguyên lý căn để ngay trong nội dung của nó, khiến cho dù có sự cố gắng trải hơn 2000 năm, người Hán và cả thế giới này vẫn không thể tìm ra những bí ẩn của nền văn minh Đông Phương.

Người ta không thể tìm ra một cái đúng từ một cái sai.

III – NỘI DUNG THUYẾT ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH TRONG BẢN VĂN CHỮ HÁN

KHÔNG CÓ KHẢ NĂNG PHẢN ÁNH THỨC TẠI KHÁCH QUAN.

Một học thuyết ra đời phải xuất phát từ một thực tại khách quan trong quá trình tiến hóa và phát triển của nhận thức - Từ trực quạn sinh động đến nhận thức thực tại và cuối cùng là hình thành tư duy trừu tượng khái quát thực tại và sự tổng hợp những nhận thức đó tiến đến hình thành một học thuyết giải thích các hiện tượng nhận thức được. Dù đó là học thuyết gì, nhân danh tôn giáo, tâm linh, sự sai lầm hay đúng đăn, đúng một phần hay toàn bộ thì nó vẫn phải có một hiện thực để phản ánh mà con người nhận thức được. Thí dụ như cách giải thích theo tôn giáo cho các học thuyết tôn giáo: Giải thích từ sự hình thành vũ trụ - do ý muốn của Thượng Đế, cho đến sự vận động của các thiên hà, đến mọi hiện tượng ...đều do ý muốn của Thượng đế. Thuyết tôn giáo này giải thích thực tại khách quan mà con người nhận thức được. Thuyết tôn giáo này có tính hệ thống, tính nhất quán và nó giải thích một cách hợp lý trên cơ sở phương pháp luận của nó. Nhưng nó không mang tính khoa học vì thiếu tính quy luật, tính khách quan và khả năng tiên tri. Chẳng ai đoán được Thương Đế muốn cái gì và ý muốn của Thượng Đế thì không tuân thu theo quy luật nào.

Nhưng, trong các bản văn chữ Hán liên quan đến thuyết Âm Dương Ngũ hành thì chúng ta không thể lý giải được chúng phản ánh một thực tại nào làm nên khả năng tiên tri của Dịch và các bộ môn tiên tri. Những khái niệm rất mù mờ: Quẻ Càn vừa là trời, vừa là cha, vừa là con ốc, vừa là con ba ba....vv....Hoặc oái oăm hơn - Trong Phong Thủy thì Khôn lại tượng cho người đàn ông chứ không phải đàn bà, mẹ...vv...như trong Dịch học. Vậy bản chất của chúng là gì? Hoặc Cấn là núi, Đoài là đầm ..không lẽ trước khi vũ trụ hình thành đã có núi, có đầm? Đây cũng là thắc mắc của các nhà nghiên cứu Dịch ở miền Nam trước 1975.

Hay nói chính xác hơn, người ta không thể hiểu được vì sao lại có mối liên hệ với các thực tại trên với nội dung các quẻ được miêu tả trong các bản văn chữ Hán.

Nhưng khả năng tiên tri trong các phương pháp dự báo với phương pháp luận của thuyết Âm Dương Ngũ hành thì cực kỳ huyền vĩ. Có thể nói rằng: Không có một lý thuyết khoa học hiện đại nhất được vinh danh trong thời đại hiện nay có thể tạo ra những phương pháp tiên tri như vậy.

Tuy nhiên, có thể nói rằng:

Mặc dù trong các bản văn chữ Hán, thiếu hẳn tính hợp lý cho việc giải thích các vấn đề liên quan, thiếu tính nhất quán, tính hoàn chỉnh, nhưng đầy đủ tính quy luật, tính khách quan và khả năng tiên tri, thể hiện trong các phương pháp ứng dụng.

Hay nói cách khác: Đây chính là hệ quả và những yếu tố phù hợp với tiêu chí khoa học cho một học thuyết khoa học.

Cả thế giới đã chú ý đến Kinh Dịch và thuyết Âm Dương Ngũ hành. Cơ quan văn hóa Liên Hiệp Quốc đã bốn lần tổ chức những cuộc hội thảo với qui mô hoàng tráng tại Bắc kinh - Thủ đô của nền văn minh Hoa Hạ - nơi được cả thế giới cho rằng là cội nguồn của nền văn minh Đông phương, nhưng họ đã không thu được kết quả nào từ những cuộc hội thảo hoàng tráng ấy.

Người ta không thể lần ra manh mối những thực tại nào được phản ánh trong các khái niệm liên quan từ các bản văn chữ Hán liên quan đến Kinh Dịch và thuyết Âm Dương Ngũ hành.

Người ta không thể tìm ra một cái đúng từ một cái sai.

IV – KẾT LUẬN

Như vậy, xét trên ba tiêu chí cho một lý thuyết khoa học là: Tính lịch sử, tính nhất quán và hợp lý trong nội dung, tính phản ánh thực tại khách quan đều không thể thỏa mãn cho việc Thuyết Âm Dương Ngũ hành và Kinh Dịch có cội nguồn từ văn minh Hán. Cho đến ngày nay, toàn bộ những di sản của thuyết Âm Dương Ngũ hành có nguồn gốc từ cổ thư chữ Hán vẫn dậm chân tại chỗ và không hề phát triển. Ngay tại Trung Quốc, nơi được coi là cội nguồn Lý học Đông phương thì chính các học giả Trung Quốc cũng lên tiếng đòi dep bỏ Đông y, coi Phong thủy chỉ là sự bịp bợm. Sự bế tắc cả hàng ngàn năm trong bản văn chữ Hán liên quan đến Kinh Dịch và thuyếtt Âm Dương Ngũ hành là một minh chứng xác đáng tính mơ hồ và không có đủ khả năng phản ánh một thực tại khách quan trong các bản văn chữ Hán. Nên nó đã bị phủ nhận bởi chính người Trung Quốc và ngay cả những học giả uyên bác, cũng cho rằng: Lý học Đông phương chỉ truyền lại bởi trực giác và kinh nghiệm.

Cội nguồn thuyết Âm Dương Ngũ hành và Kinh Dịch không thuộc về nền văn minh Hoa Hạ thì nó từ đâu tới?

Trong lịch sử văn minh Đông phương, ngay bên cạnh nền văn minh Hoa Hạ từ hơn 2000 năm trước, đã tồn tại một nền văn minh huyền vĩ với danh xứng văn hiến. Đó là quốc gia Văn Lang dưới triều đại của các vua Hùng có biên giới Bắc giáp Động Đình hồ; Nam giáp Hồ Tôn, Tây giáp Ba thục và Đông giáp Đông Hải. Việc mình chứng cộio nguồn của thuyết Âm Dương Ngũ hành và Kinh Dịch thuộc về nền văn hiến Việt cũng chính là một minh chứng sắc sảo:

Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến và biên giới Văn Lang một thời huyền vĩ ở bờ Nam sông Dương tử:

Danh xưng văn hiến của dân tộc Việt chính bởi căn cứ vào một học thuyết xuyên suốt giải thích từ sự hình thành vũ trụ, cho đến mọi vấn đề liên quan đến con người, từ những thiên hà khổng lồ đến các hạt vật chất nhỏ nhất.

Bạn đọc có thể coi như đây là một giả thuyết và sẽ được tiếp tục minh chứng ở các bài viết tiếp theo.

------------------*------------------

Như vậy, việc các nhà khoa học hiện đại nhận xét về Lý học Đông phương mang màu sắc huyền bí và nặng về trực giác tâm linh ...vv....chỉ đúng với điều kiện nó được miêu tả như trong cổ thư chữ Hán. Bản chất của Lý học Đông phương không như cổ thư chữ Hán miêu tả sau khi nền văn minh lạc Việt bị sụp đổ ở miến Nam sông Dương tử từ hơn 2000 năm trước.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Câu này đã quá đủ nghĩa rồi. Vì nó là một câu xác định.

Chú Thiên Sứ kính,

- Cháu vẫn thấy câu "Người ta không thể tìm ra một cái đúng từ một cái sai" không phải là đủ nghĩa, mà là quá rộng nghĩa. Vì thế cháu mới có những ví dụ như thế. Tất nhiên, khi Chú phát biểu câu này, thì nó đã bao gồm những hiểu biết, nhìn nhận của Chú trong đó. Tuy nhiên, ở khía cạnh người đọc câu này, Chú thấy đấy, người ta vẫn có thể hiểu như ví dụ mà cháu đã nêu. Tất nhiên, cháu vẫn phần nào hiểu được ý Chú muốn diễn đạt điều gì...

- Nếu cháu nói ở góc độ hẹp hơn: "Người ta không thể tìm lại những gì đã đúng trong quá khứ từ những cái sai trong hiện tại của nó". Vậy có được không ạ? Mong Chú cho vài lời bình luận về các tình huống ví dụ cháu nêu ở bài trước và của câu nói này. Điều đó sẽ giúp cháu hiểu rõ hơn vấn đề.

Trân trọng.

P/S: Cháu đang thực hiện theo "Luôn lắng nghe, học hỏi điều hay". Vì vậy, rất mong Chú có đôi lời chia sẻ.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Chú Thiên Sứ kính,

- Cháu vẫn thấy câu "Người ta không thể tìm ra một cái đúng từ một cái sai" không phải là đủ nghĩa, mà là quá rộng nghĩa. Vì thế cháu mới có những ví dụ như thế. Tất nhiên, khi Chú phát biểu câu này, thì nó đã bao gồm những hiểu biết, nhìn nhận của Chú trong đó. Tuy nhiên, ở khía cạnh người đọc câu này, Chú thấy đấy, người ta vẫn có thể hiểu như ví dụ mà cháu đã nêu. Tất nhiên, cháu vẫn phần nào hiểu được ý Chú muốn diễn đạt điều gì...

- Nếu cháu nói ở góc độ hẹp hơn: "Người ta không thể tìm lại những gì đã đúng trong quá khứ từ những cái sai trong hiện tại của nó". Vậy có được không ạ? Mong Chú cho vài lời bình luận về các tình huống ví dụ cháu nêu ở bài trước và của câu nói này. Điều đó sẽ giúp cháu hiểu rõ hơn vấn đề.

Trân trọng.

P/S: Cháu đang thực hiện theo "Luôn lắng nghe, học hỏi điều hay". Vì vậy, rất mong Chú có đôi lời chia sẻ.

Đây không phải chủ đề chính của bài viết. Chú đã xác định như vậy trong tất cả mọi hoàn cảnh. Không có ngoại lệ. Mieumập có thể mở một topic khác để bình luận. Thí dụ trong mục Giao Lưu Tâm sự chẳng hạn.Chủ đề chính của bài viết này là:

- Văn minh Hán không phải là chủ nhân của thuyếtt Âm Dương Ngũ hành, mà là văn minh Việt. Những luận cứ minh chứng đúng hay sai. Hôm nay Miêu mập phát hiện ra một câu cần giải thích, ngày mai có người cho rằng ngắt câu không rõ nghĩa, ngày kia thì phát hiện ra câu này cần viết lại....

Cũng may mà nó lá tiếng Việt, nếu dịch sang tiếng Anh thì có những câu chưa sát nghĩa....Đấy không phải là phản biện học thuật.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Ngược lại tôi lại cho rằng biến hóa - chuyển đổi chính là một thực tại khách quan đấy chứ!

Thân mến.

Vâng !. Biến hóa, chuyển biến là một thực tại khách quan, chứ không phải thực tại khách quan biến hóa, chuyển đổi anh ạ !!.

Thân mến!.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Chú Thiên Sứ kính,

Cháu e rằng câu nói này ngắn gọn quá dễ gây hiểu lầm. Thông thường, việc làm một vấn đề gì đúng ngay từ đầu không phải luôn luôn đạt được. Khi mắc phải sai lầm, người ta phân tích nguyên nhân, tìm cách khắc phục, chú ý tránh lặp lại (nôm na là "rút kinh nghiệm"),... để không bị thất bại nữa. Như vậy, rõ ràng vẫn có thể tìm được cái đúng từ việc phân tích một cái sai.

Ngoài ra, trong thực tế vẫn có những trường hợp "lấy độc trị độc" - sử dụng một cái sai lớn để ức chế một cái sai khác, biến nó thành đúng, chú ạ!

Do đó, cháu nghĩ, câu này Chú cần diễn đạt rõ nghĩa hơn.

Cháu Miêu.

Có lẽ Miêu mập suy diễn quá đà về một câu nói. Rằng: "người ta không thể tìm ra một cái đúng từ một cái sai" . Thật vậy, những ví dụ mà miêu mập đưa ra là một quá trình hành động. Đó là một tập hợp các hành vi, chứ không phải là một dây chuỗi của các bước logic, hay biện chứng khoa học. Một tập hợp các hành vi, cho dù đó là tập hợp các hành vi khoa học, cũng không buộc được tất cả các hành vi đó phải nằm trong một tập hợp các bước logic, thậm chí là suy diễn logic. Mà câu nói này của anh thiên sứ là một mệnh đề logic. Chứ nó không phải là nội dung của một tập hợp các hành vi. Chẳng hạn, anh dựa trên một tiền đề sai, thì không bao giờ có thể rút ra những hệ quả từ tiền đề đó lại là đúng, mà không mâu thuẫn với chính tiên đề đó cả. Điều này không có nghĩa là nhân loại không tìm thấy cái đúng.

-Nền kinh tế thị trường với những luật vận hành kinh tế tư bản là đúng với bản chất của mọi xã hội. Là nền tảng cho mọi sự phát triển kinh tế, để có thể tạo ra một mô hình xã hội phát triển văn minh có công bằng xã hội.

-Nền tảng của một xã hội văn minh, công bằng là một xã hội Dân Chủ.

Những chân lý này đúng tuyệt đối, nhưng rõ ràng là người ta "nhận ra" từ cái Sai, chứ không phải là "tìm ra, hay thu được" từ một cái Sai.

Cần phải hiểu đúng trong cái gọi là biện chứng khoa học. Chứ không phải là biện chứng của thầy cãi, hay biện chứng văn chương.

Thân ái.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Vâng !. Biến hóa, chuyển biến là một thực tại khách quan, chứ không phải thực tại khách quan biến hóa, chuyển đổi anh ạ !!.

Thân mến!.

Anh Vuivui thân mến.

Sao tôi tìm mãi chẳng thấy tôi viết câu nào như anh nói cả? - "thực tại khách quan biến hóa, chuyển đổi".

Tôi nói thật đấy. Tôi tìm không thấy chứ không phải đã viết rồi dùng chức năng sửa bài đâu.

Share this post


Link to post
Share on other sites