Rin86

Xã Hội Hùng Vương Thời Hai Bà Trưng

26 bài viết trong chủ đề này

Tiếng trống đồng Mê Linh

Trương Thái Du

Viết tại Đà Lạt, tháng Tư 2005

Posted ImagePosted ImagePosted Image

Đền thờ Hai Bà Trưng ở Vĩnh Phú

Tìm hiểu về cổ sử Việt Nam là một đề tài phức tạp, hấp dẫn nhưng cũng gây nhiều tranh cãi.

Chúng tôi xin giới thiệu bài viết của nhà sưu khảo độc lập Trương Thái Du quanh vấn đề tìm lại manh mối về Hai Bà Trưng.

Nội dung trong bài viết là quan điểm riêng của tác giả. Rất mong nhận được ý kiến tranh luận, phản hồi từ quý vị độc giả trong tinh thần cởi mở, tương kính và lành mạnh.

Lời phi lộ: Bài viết này tiếp tục chuỗi tìm hiểu cổ sử Việt Nam của tác giả và nằm trong hệ thống các hệ quả từ một cách tiếp cận chưa được thảo luận rộng rãi. Về cơ bản cách tiếp cận này như sau:

1. Giao Chỉ nguyên nghĩa là một khái niệm nói về vùng đất phía nam vương quốc của Đường Nghiêu – Ngu Thuấn. Giao Chỉ đầu thời Chu chính là Đan Dương (nay thuộc Hồ Bắc, Trung Quốc). Sau hàng ngàn năm nam tiến của các đoàn quân đế quốc, khái niệm Giao Chỉ cũng dịch chuyển dần về phương nam. Chỉ đến thời Đông Hán, Giao Chỉ mới biến thành địa danh cố định và xác thực trên địa đồ.

2. Nhà nước Văn Lang sơ khai của người Lạc Việt được hình thành tại Động Đình Hồ (Hồ Nam, Trung Quốc) khoảng năm Nhâm Tuất 1199 TCN. Các vua Hùng cuối cùng trong số 18 vua Hùng đã chạy giặc Sở xuống đồng bằng Tây Giang, Quảng Tây, Trung Quốc và dựng lại phiên bản nhà nước sơ khai như Văn Lang Động Đình Hồ là Văn Lang Tây Giang. “Thục Vương tử” tên Phán của nước Thục (Quí Châu – Tây bắc Quảng Tây) đã thôn tính Văn Lang Tây Giang và dựng lên nước Tây Âu Lạc. Không ít cư dân Văn Lang Động Đình Hồ tiếp tục di chuyển xuống đồng bằng sông Hồng trước và sau thời điểm 179 TCN (năm Triệu Đà thôn tính Tây Âu Lạc). Ở mảnh đất Việt Nam cổ, đoàn lưu dân này vẫn tổ chức xã hội theo mô hình Văn Lang Động Đình Hồ, song các nhóm thị tộc mẫu hệ không còn liên kết chặt chẽ với nhau tạo thành nhà nước sơ khai. Vua Hùng của họ chỉ còn là thủ lãnh tự trị từng khu vực nhỏ, tức là như tù trưởng, tộc trưởng mà thôi.

3. Địa bàn của người Lạc Việt cổ gồm Hồ Nam, Quảng Tây, Quảng Đông, Bắc Việt Nam và đảo Hải Nam. Người Lạc Việt gọi tổ quốc mình là Đất Nước, khi ký âm bằng Hán tự nó trở thành Âu Lạc. Lạc Việt chính là Nước Việt hay Việt Thường Quốc. Người Lạc Việt ủng hộ Triệu Đà lập nên nước Nam Việt có kinh đô tại Phiên Ngung cũng gọi nơi ấy là Âu Lạc. Từ đây sinh ra từ Tây Âu Lạc tương đương với Tây Âu, nghĩa là vùng đất phía tây Phiên Ngung. Chữ Tây này tồn tại cho đến hôm nay trong trong tên gọi hiện đại của vùng đất này là Quảng Tây. Do đó không tồn tại quốc gia Âu Lạc tại đồng bằng sông Hồng trước công nguyên. Sau năm 179 TCN người Lạc Việt ở Tây Âu Lạc chạy giặc Triệu Đà xuống Bắc Việt đã dung hòa và pha trộn con người cũng như lịch sử với những người anh em cùng cội rễ Lạc Việt Động Đình Hồ. Chính cội rễ ấy đã che hết những mối nối ký ức, những khoảng trống và “mưu mô” của sử sách Trung Quốc, biến cổ sử Việt Nam thành một hệ thống vừa ít tư liệu vừa phức tạp nhưng cực kỳ mâu thuẫn.

Mặc dù còn rất nhiều sai sót, nhầm lẫn và mâu thuẫn trong các bài viết đã phố biến đây đó, tác giả hy vọng cách tiếp cận cốt lõi của mình nên được các nhà sử học chuyên nghiệp tham khảo nghiêm túc. Trong khi vẫn tiếp tục chỉnh lý chiều sâu văn bản cho một tập hợp mới nhằm đi đến xuất bản chính thức, sự mở rộng phạm vi của cách tiếp cận này là cần thiết.

Mùa xuân 2005, tròn 1962 năm ngày Hai Bà Trưng bỏ mình vì nước, xin được viết bài này như nén hương lòng thành kính dâng lên Hai Bà. Mong âm linh liệt mẫu giúp đỡ con cháu Việt Nam của mình làm sống dậy tiếng trống đồng bất khuất của nền văn minh Lạc Việt, để người đời có cái nhìn khác đi với hình ảnh sáo mòn vay mượn “phất cờ khởi nghĩa” của cuộc binh biến mang tên Tự Do mà Trưng Trắc là lãnh tụ, là vị Vua Bà bất tử đầu tiên và cũng là cuối cùng của mảnh đất tiền Việt Nam.

1. Thời Hai Bà Trưng, mẫu hệ hay mẫu quyền?

Rất nhiều sử gia đã đồng tình rằng theo Thủy Kinh Chú, chồng bà Trưng Trắc tên Thi. Ông chẳng những không hề bị Tô Định sát hại, mà còn sát cánh bên phu nhân của mình trong cuộc nổi dậy năm 40. Khi Mã Viện tấn công, đuối sức, ông bà bỏ chạy vào Kim Khê, ba năm sau mới bị bắt. Chuyện tiếp theo như thế nào thì Thủy Kinh Chú bỏ lửng. Chỉ biết dân gian truyền tụng Hai Bà Trưng tuẫn tiết ở Hát giang. Có giả thuyết Hai Bà sau đó bị Mã Viện bắt và chém đầu rồi đem thủ cấp về Tàu báo công, cho nên trong đền thờ Hai Bà ở Hát Môn có tục kiêng màu đỏ. Hậu Hán Thư chép bà Trưng Trắc bị xử trảm. Ở đây tôi muốn trả lời câu hỏi: Tại sao sử gia phong kiến Việt Nam lại mượn tay Tô Định khai tử ông Thi?

Ý kiến phổ thông của đa số học giả trong thế kỷ 20 cho rằng các nhà Nho, khi viết sử phải “giết” ông Thi, vì nếu ông còn sống mà bà Trưng Trắc làm vua thì ngược lẽ… thánh hiền Khổng – Mạnh! Họ cũng thống nhất cư dân Việt cổ hình như theo chế độ mẫu hệ - bằng chứng là thuộc tướng của Hai Bà Trưng phái nữ rất nhiều, nào là Lê Chân (thánh chân công chúa), Ngọc Lâm (thánh thiên công chúa), Vũ Thục Nương (bát nàn công chúa), Thiều Hoa (đông quân tướng quân), Diệu Tiên v.v. Giải thích như thế chưa thuyết phục lắm. Theo tôi sự bịa đặt còn ẩn chứa hàm ý sâu xa khác, nó làm người ta không chú tâm đến địa điểm của cuộc nổi dậy.

Trưng Trắc và Trưng Nhị đã tập hợp lực lượng và tuyên chiến với Tô Định tại Mê Linh, với sự ủng hộ mạnh mẽ của mẹ mình là bà Man Thiện. Thành công, Trưng Trắc xưng vương và đóng đô cũng tại Mê Linh, nơi chôn nhau cắt rốn của bà. Giả sử Hai Bà Trưng không có em trai. Khi chồng chết, Trưng Trắc (lúc này đang ở bên chồng) về lại quê cùng giữ quyền thế tập với em gái, rồi “Hận người tham bạo, thù chồng chẳng quên… phất cờ khởi nghĩa”. Chuỗi luận thật tròn trịa, dễ ru ngủ người đời. Thật sự nó đã ru biết bao thế hệ người Việt ngủ ngon hằng ngàn năm.

Quả tình ông Thi chẳng bị ai ám hại. Ông là con Lạc tướng Châu Diên, rất “môn đăng hộ đối” với Trưng Trắc, chứ không phải một anh lực điền tứ cố vô thân được gia chủ nuôi và gửi gắm con gái rượu (theo quan điểm phụ hệ sau này). Không có ông bên cạnh Trưng Trắc đánh đuổi Tô Định, sẽ không ai thắc mắc khi lấy vợ ông đi ở rể hay rước dâu về. Nếu lúc ấy người Việt cổ đã theo chế độ phụ hệ, Trưng Trắc phải về nhà chồng. Và nếu hưng binh tất bà sẽ chọn Chu Diên chứ không phải Mê Linh. Do đó ta thấy vai trò của kẻ làm dâu trong một gia tộc danh giá thời ấy hơi khác thường.

Posted ImagePosted Image Vai trò của ông Thi trong cuộc binh biến và cả sau khi binh biến thành công khá mờ nhạt. Thay vào đó là hình ảnh Trưng Nhị, em gái Trưng Trắc. Đó là điều hiển nhiên, xã hội mẫu hệ cho Trưng Trắc quyền thế tập và Trưng Nhị là hàng thừa kế thứ nhất

Posted Image Trương Thái Du

Đến đây nên mạnh dạn kết luận khi phối ngẫu với Trưng Trắc, ông Thi phải theo vợ sang Mê Linh. Vai trò của ông Thi trong cuộc binh biến và cả sau khi binh biến thành công khá mờ nhạt. Thay vào đó là hình ảnh Trưng Nhị, em gái Trưng Trắc. Đó là điều hiển nhiên, xã hội mẫu hệ cho Trưng Trắc quyền thế tập và Trưng Nhị là hàng thừa kế thứ nhất, thậm chí Trưng Nhị còn có thể thừa kế cả anh rể mình nữa, điều này hoàn toàn không có gì xa lạ với nhiều bộ tộc còn chậm tiến trên thế giới ở thế kỷ 20 vừa qua. Giả thuyết này có thể lấy chuyện hôn nhân của Mỵ Châu và Trọng Thủy trước đó hơn 200 năm làm một điểm tựa. Hình ảnh truyền thuyết An Dương Vương cưỡi ngựa mang Mỵ Châu bỏ chạy khỏi Cổ Loa, cũng mơ hồ cho thấy Mỵ Châu cần được bảo vệ như một “thái tử” trong cơn nguy cấp. Có thể tham khảo thêm bộ sử “Tam Quốc Chí” của Trần Thọ (năm 233 – 297): “Ở hai huyện Mê Linh của quận Giao Chỉ và Đô Lung của quận Cửu Chân, anh chết thì em trai lấy chị dâu”.

Tôi dám khẳng định chắc nịch rằng thời Hai Bà Trưng, cư dân vùng đồng bằng sông Hồng vẫn còn theo chế độ mẫu hệ nếu không muốn nói là mẫu quyền. Khái niệm mẫu hệ và mẫu quyền có khác nhau nhưng phụ hệ và phụ quyền lại gần như là một. Chế độ mẫu hệ qui định những đứa con trong một gia đình mang họ mẹ, chỉ các con gái mới được giữ quyền thừa kế. Mẫu quyền thì đi xa hơn, quyền hành gia đình và xã hội nằm tất ở nữ giới, lãnh tụ phải là nữ giới. Do đó việc tồn tại các nam thủ lĩnh trong những bộ tộc Việt cổ không hề mâu thuẫn với nội dung mẫu hệ. Nội dung mẫu hệ này xuyên suốt trong hầu hết các văn bản huyền sử Việt Nam, mặc dù nó đã bị chế độ phụ hệ nối tiếp bóp méo, biên tập khá bài bản và công phu.

Rõ nhất phải kể đến truyện Lạc Long Quân và Âu Cơ với cặp khái niệm “Mẹ - Đất (núi)” và “Cha – Nước”. Trong trật tự lời văn của Lĩnh Nam Chích Quái: “Long Quân nói: Ta là nòi rồng, đứng đầu thủy tộc, nàng là giống tiên, sống ở trên đất, tuy khí âm dương hợp lại mà sinh ra con, nhưng thủy hỏa tương khắc, giòng giống bất đồng, khó ở lâu với nhau được". Rõ ràng mẹ Âu Cơ là Dương chứ không phải Âm. Minh chứng thêm ở đây: tết Đoan Dương (ngày nóng nhất trong năm, dương khí cực thịnh) hay còn gọi là Đoan Ngọ mùng 5 tháng 5 âm lịch cũng là ngày giỗ Âu Cơ. Chế độ phụ hệ dù có bóp méo truyền thuyết theo chiều hướng nào đi nữa vẫn không thể thay ngày giỗ mẹ bằng giỗ cha. Trong câu ca dao: “Công cha như núi Thái Sơn – Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”, cặp “Mẹ - Đất (núi)” và “Cha – Nước” trong truyện Âu Cơ, Lạc Long Quân đã bị chế độ phụ hệ hoán đổi trật tự một cách rất khéo thành “Mẹ - Nước” và “Cha – Núi (đất)”. Bản thân yếu tố “Thái sơn” rặt Tàu cũng cho thấy đâu là nguyên nhân của sự thay đổi ấy. Sẽ có người phản bác lập luận của tôi: xét theo cấu tạo của bộ phận sinh dục, nếu cho rằng mẹ là dương rất không ổn. Một cách tình cờ lưỡng nghi (hào dương và hào âm) của Kinh Dịch có thể tương đương với Linga và Yoni của người Chiêm Thành. Tuy nhiên khi so sánh ngực người nam và người nữ thì rõ ràng giống cái lại chứa dương tính. Vấn đề giờ đây thu hẹp về các góc nhìn mà thôi.

2. Một cách lý giải toàn cảnh

Năm 111 TCN Lộ Bác Đức diệt Nam Việt, kết thúc gần 100 năm vương triều của họ Triệu. Tượng quận, vùng đất chưa bị xâm lăng, một tên gọi tượng trưng mang tính khái niệm theo cách của nhà Tần (nó tương đương với Giao Chỉ của nhà Chu) bắt đầu được Hán Vũ Đế mở mang. Chín quận mới liệt kê ở Hán Thư là Đạm Nhĩ, Chu Nhai, Nam Hải, Thương Ngô, Uất Lâm, Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam. Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam tiếp tục là khái niệm, thứ khái niệm nói lên tính tự cao, tự đại, lòng tham và chủ nghĩa bành trướng của nhà Hán.

Sau hàng trăm năm dừng lại và khai phá các vùng đất phương nam đã chiếm được và đặt quan trấn nhậm (tức 6 quận trong tổng số 9 quận thuộc Giao Chỉ bộ), đầu công nguyên nhà Tây Hán bắt đầu dòm ngó xuống ba quận ảo là Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam. Lần đầu tiên ta thấy xuất hiện chức danh Thái thú của quận Giao Chỉ là Tích Quang (năm 1 đến năm thứ 5 sau Công Nguyên). Người này chắc chắn chỉ là lãnh đạo một sứ bộ có qui mô nhỏ, mang danh nghĩa “thông giao” đến đất mới thăm dò, thám thính và xem xét khả năng áp đặt kềm kẹp đô hộ. Công việc của Tích Quang còn dang dở thì Trung Nguyên hỗn loạn vì Vương Mãng cướp ngôi.

Năm 23 Lưu Tú dẹp được Vương Mãng tiếm quyền nhưng Trường An đổ nát, hoang tàn trong máu lửa, ông dời đô về phía đông đến Lạc Dương lập nên nhà Hậu Hán. Để nối lại cuộc thám sát mảnh đất Việt cổ, năm 25 Nhâm Diên được cử sang Cửu Chân. Những chính sách mị dân mà Tích Quang và Nhâm Diên áp dụng khi ấy không ngờ còn lưu truyền tới tận thế kỷ 20, với vỏ bọc hình thức khá ngây thơ. Đến tận Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim gần đây vẫn còn viết: “Người ấy (Tích Quang) hết lòng lo việc khai hóa, dạy dân lấy điều lễ nghĩa, cho nên dân trong quận có nhiều người kính phục”. Và “Dân sự quận ấy (Cửu Chân) ái mộ Nhâm Diên, làm đền thờ.”

Năm 34, có lẽ do chủ quan khi nhận định tình hình sau hai cuộc thám sát, Hán triều cử sứ đoàn do Tô Định cầm đầu xuống đồng bằng sông Hồng để tiến hành thực dân hóa quận Giao Chỉ. Nhiệm vụ của tân thái thú chắc chắn là phải xây dựng bộ máy bóc lột nhằm biến quận Giao Chỉ thành miếng bánh ngon giữa bàn tiệc thực dân, chứ không thể mãi mãi là mảnh đất ảo trang trí trên bản đồ đại Hán. Có thể Tô Định đã tiến hành vài cuộc khủng bố lẻ tẻ nhân danh thiên tử Tàu và áp Hán luật vào đời sống nhân dân sở tại. Không còn những hành động khoan hòa vờ vĩnh kiểu Tích Quang, Nhâm Diên. Tự do của người bản xứ đã bị xâm hại nghiêm trọng. Trưng Trắc, vị thủ lĩnh tự trị của vùng đất kề cận nơi Tô Định đặt bản doanh chịu sức ép thực dân nhiều nhất đã đứng lên hiệu triệu các thủ lĩnh khác cùng đoàn kết đánh đuổi thù chung.

Hai Bà Trưng nổi trống đồng khởi nghĩa năm 40, dân Việt đồng tình hưởng ứng khắp nơi. Tô Định chuồn thẳng về Nam Hải (tức Quảng Châu, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc ngày nay) mà không hề có một trận chiến ra trò nào để sử sách hoặc dân gian truyền lại. Chi tiết này thêm một lần nữa xác tín bối cảnh được xây dựng ở trên là hợp lý. Qui mô đội quân chiếm đóng của Tô Định rất nhỏ, chẳng thể đánh đấm gì được.

Cuộc hành quân về Long Biên của Hai Bà Trưng nhanh chóng thành công. Điều này là tiền đề thuận lợi cho Hai Bà tập hợp được thêm nhiều lực lượng ủng hộ, tiến tới xưng vương rồi đóng đô tại Mê Linh.

Mùa xuân năm 42 Mã Viện mang theo quân thiện chiến sang quận Giao Chỉ. Bằng kinh nghiệm lọc lõi của một tên tướng phong kiến, Mã Viện kiên nhẫn đóng quân tại Lãng Bạc và nghe ngóng tình hình. Hai Bà Trưng chủ động tấn công trước và thất bại, phải rút về Mê Linh rồi Cấm Khê (chân núi Ba Vì). Mã Viện tiếp tục truy kích và tháng giêng năm 43 đã bắt được Hai Bà Trưng. Tàn quân Việt chiến đấu được vài tháng nữa mới tan rã. Dân gian Việt Nam có hai ngày giỗ Hai Bà Trưng là 6.2.43 và 8.3.43 (năm Quý Mão, âm lịch), có lẽ ngày đầu là ngày Hai Bà Trưng bị bắt và ngày sau là ngày họ bị hành hình. Ở đây xuất hiện hai khả năng: Một là Mã Viện giữ Hai Bà để dụ hàng nhằm kêu gọi nhóm nghĩa quân chưa buông vũ khí ra trình diện. Hai là Mã Viện thuyết phục Hai Bà kêu gọi nhân dân thuần phục nhà Hán và chấp nhận luật pháp Hán. Dù sao ta cũng biết chắc một điều Hai Bà Trưng đã không chịu thỏa hiệp dù phải bỏ mình.

Sự kiện Hai Bà Trưng anh dũng tấn công Mã Viện dẫn đến một liên tưởng hơi ngoài lề: Hậu Hán Thư không ghi nhận tổng quân số của Mã Viện nhưng chỉ riêng cánh tiến đánh Cửu Chân sau đó gồm hơn hai ngàn chiến thuyền và hơn hai vạn lính. Vậy ít nhất Mã Viện phải thống lĩnh lực lượng gấp rưỡi con số này cho trận đánh với Hai Bà Trưng. Cũng theo sách ấy, Mã Viện đã giết hại cả ngàn quân của Hai Bà Trưng và bắt sống hàng vạn tại Lãng Bạc. Như thế có thể đoán quân của Hai Bà Trưng cũng tròm trèm con số vài vạn, ngang ngửa với quân Mã Viện. Với lực lượng bề thế nhường ấy, nếu Cổ Loa của An Dương Vương thực sự được xây dựng tại đồng bằng sông Hồng (chứ không phải ở Quảng Tây như giả thuyết của tác giả bài này), thì tại sao Hai Bà Trưng không củng cố thành cũ để đương đầu với quân viễn chinh. Ngoài thực địa đền Cổ Loa Đông Anh chỉ cách Mê Linh trên dưới 20km đường chim bay, không hề bị sông lớn, suối rộng, núi cao, khe sâu ngăn trở, và Hai Bà Trưng có hơn 2 năm để chuẩn bị một cuộc kháng chiến dài lâu. Như vậy truyền thuyết An Dương Vương và Loa thành từng hiện hữu ở Việt Nam có thêm một nghi chứng phủ nhận.

Xin tạm che giấu cảm tính dân tộc và tinh thần quốc gia (những khái niệm không thể có ở thời Hai Bà Trưng), để đứng trên bình diện văn minh mà dè dặt nói: Kết cục cuộc chiến giữa Hai Bà Trưng và Mã Viện có thể tiên liệu trước, chế độ thị tộc mẫu hệ, hay ít ra là tàn dư của nó phải bị khuất phục trước một mô hình xã hội tân tiến hơn, để giải phóng sức sản xuất xã hội, phân công lại lao động, đưa con người và lịch sử tiến lên phía trước. Sự thật là Hai Bà Trưng đã phải đương đầu với Mã Viện, một tên tướng xâm lăng nên nguyên nhân thất bại cốt lõi của Hai Bà rất khó được chấp nhận đối với hầu hết người Việt Nam, không phân biệt trình độ nhận thức.

3. Con cháu Hai Bà Trưng ngoài đảo xa

Mùa xuân năm 43 Hai Bà Trưng bị xử trảm. Các tùy tướng của Hai Bà đem tàn quân rút chạy vào Cư Phong, thuộc Cửu Chân (Thanh Hóa). Mã Viện tiếp tục truy kích đến cuối năm 43 thì hoàn thành cuộc xâm lăng. Một bộ phận nữa phải hàng phục. Tuy nhiên có một bộ phận bất khuất không nhỏ đã lên thuyền ra khơi. Thời điểm cuối năm 43 hoàn toàn hợp lý và là chi tiết quan trọng, vì trên biển Đông bắt đầu vào đợt gió mùa Đông Bắc. Đây chính là đôi cánh tự do trời đất ban tặng cư dân Việt cổ, đẩy những con thuyền đưa họ đến eo Malacca. Cũng có khả năng nhiều người trốn chạy theo đường bộ, rồi hòa lẫn vào những bộ lạc sống dọc bờ biển trung bộ Việt Nam ngày nay. Họ đã góp phần xây dựng nên đế chế Chiêm Thành sau này.

Hiện nay có hai cộng đồng thị tộc mẫu hệ, nguồn gốc gần gũi, sống hai bên eo biển Malacca, thuộc hai quốc gia: 1. Cộng đồng thứ nhất là người Minangkabau, sống ở đảo Sumatra, Indonesia. Họ có khoảng 4 triệu người, chiếm ¼ dân số của đảo. 2. Cộng đồng thứ hai sống ở bang Negeri Sembilan, thuộc bán đảo Peninsular, Malaysia. Họ cũng là người Minangkabau. Họ vượt eo Malacca đến đây định cư khoảng từ TK 15 đến TK 16, và ngày nay sống rải rác trên một diện tích khoảng 6,645 km2, dân số hơn 722.000 (số liệu 1991). Negeri Sembilan dịch nghĩa là “Nước (số) chín”. Chữ “nước” ở đây đồng nghĩa với chữ “Nagar - nước, xứ sở” của người Chiêm Thành và chữ “Lạc – nác, nước” của người Lạc Việt xưa. Thủ phủ của Sembilan cách Kuala Lumpur khoảng 64 km.

Nền văn hóa của hai cộng đồng này mang bản sắc độc đáo và riêng biệt. Họ vẫn theo chế độ thị tộc mẫu hệ. Quyền thừa kế nằm hết ở giới nữ. Tuy nhiên trưởng tộc lại là nam giới. Lãnh thổ chung của họ chia thành những vùng tự trị có tên là Luak (Lạc?). Người đứng đầu vùng tự trị cũng là nam giới, do các trưởng thị tộc bầu lên gọi là Luak Undang. Người nữ giữ quyền thừa kế trong thị tộc gọi là Turun Cicik, các em gái bà này nằm trong hàng thừa kế thứ hai gọi là Turun Nyi (tiếng Bahasa Indonesia lần lượt đọc là t'run ch'chik và t'run nhi). Ngữ âm này, sau biết bao biến đổi qua thời gian, đọc lên vẫn thấy mơ hồ hai cái tên Trưng Trắc, Trưng Nhị [1].

Về đời sống, nam giới có trách nhiệm chính với mẹ và chị em gái của họ trong thị tộc. Nhiều nơi, nam giới chỉ ở với vợ ban đêm, ban ngày trở về với chị em gái mình và những đứa cháu. Nữ giới lập gia đình thường ở lại nhà cha mẹ họ. Những người chị đã lập gia đình luôn có mối liên hệ gần gũi với các em gái chưa lập gia đình, thậm chí họ còn ở chung với nhau. Ở Indonesia hôm nay, người Minangkabau là những nhà kinh doanh giỏi. Điều này được tạo nên một phần bởi sắc thái văn hóa Minangkabau. Nam nhi Minangkabau phải rời gia đình đi tìm tương lai. Họ buộc phải thành công. Khắp Indonesia ta gặp rất nhiều các ông chủ lớn nhỏ người Minangkalau. Họ theo đạo Hồi đã vài thế kỷ. Tuy nhiên truyền thống văn hóa và tín ngưỡng đã hòa hợp một cách đáng ngạc nhiên.

Chế độ thị tộc mẫu hệ hiện tồn tại trong những cộng đồng người Minangkabau luôn lôi cuốn các nhà nghiên cứu văn hóa, lịch sử và nhân loại học. Ngành du lịch Indonesia và Malaysia cũng khai thác triệt để tính đặc thù này để thu hút du khách. Trong rất nhiều đoạn phim quảng bá du lịch người Minangkabau đã không dưới một lần tuyên bố tổ tiên họ là người Việt và đã di cư đến Nam Dương bằng thuyền.

Kiến trúc truyền thống Minangkabau cũng khiến không ít người suy tư: “Ở Indonesia, người Minangkabau có những ngôi nhà mái cong rất đẹp, nhịp điệu bay bổng, phong phú, một mặt giống ngôi nhà sàn hình thuyền, một mặt lại giống mái cong của đình chùa Việt Nam [2]”.

Xin hãy tham khảo một giai thoại Minangkabau [3]: Ngày xưa có một mối bất hòa giữa người Minangkabau và người Java, thay vì giải quyết bất hòa đó bằng một cuộc chiến với máu đổ không cần thiết, họ thỏa thuận chọi trâu để phân định. Người Java có một con trâu khổng lồ, mạnh mẽ và hung dữ. Người Minangkabau chỉ có một con nghé con. Người Java rất tin tưởng con trâu của mình sẽ đè bẹp chú nghé kia. Vậy mà yếu đã thắng mạnh. Người Minangkabau bỏ đói con nghé nhiều ngày. Trước trận đấu họ buộc một con dao sắc vào đầu nghé. Vào trận nghé đói tưởng trâu là mẹ mình. Lập tức nó rúc vào bụng trâu để tìm vú. Con trâu kềnh càng đã bị chết vì dao đâm thủng bụng. Và người Minangkabau đã chiến thắng. Cũng theo giai thoại này Minang nghĩa là chiến thắng, kabau là trâu.

Bất kỳ người Việt nào cũng tìm thấy ở câu chuyện trên một thứ gì đó thật gần gũi với bản sắc văn hóa đồng bằng sông Hồng. Chuyện dân gian Trạng Quỳnh dùng nghé đấu Trâu của sứ Tàu với truyện trên, có lẽ là hai biến thể của một tư duy chung, một triết lẽ giản dị nhưng nhiều giá trị: Đề cao trí tuệ và lòng yêu chuộng hòa bình, hòa hợp, lấy trí thắng lực, hóa giải mâu thuẫn bằng trái tim nhân hậu. Và tôi chợt hiểu, linh vật trâu vàng cho lễ hội thể thao khu vực Đông Nam Á đầu tiên do Việt Nam tổ chức, tức Seagame 2003, đã được chọn bằng tâm thức văn hóa, lịch sử.

Phải chăng người Minangkabau ở Indonesia và Malaysia hôm nay cũng là con cháu của Hai Bà Trưng? Phải chăng cái tên mà hai ngàn năm nay người Việt tôn gọi Trưng Trắc, Trưng Nhị không phải là tên riêng mà là chức danh của hai hoặc một nhóm người phụ nữ Việt Nam bất khuất? Câu trả lời đang ở một tương lai rất gần.

4. Vua Bà và trống đồng

Xưa từ Hùng ý chỉ thủ lĩnh một vùng. Tùy Thư (thế kỷ VII), thiên Địa Lý Chí Hạ còn ghi “Người man (tức người Lạc Việt) ai giàu mạnh là người hùng”. Con vua Hùng là Quan Lang cai quản địa phận trực thuộc, qui mô chắc cũng như làng xã ngày nay. Chữ “Làng” có thể xuất phát từ chữ “Lang” trong “Quan Lang”, người Mường gần đây vẫn còn Quan Lang. Vậy có thể hiểu “Hùng” là người đứng đầu thị tộc mẫu hệ. Liên minh thị tộc mẫu hệ sẽ hình thành dạng nhà nước sơ khai như Văn Lang, và Vua Hùng hẳn là lãnh tụ của nhà nước sơ khai ấy.

Khi lưu vong đến Quảng Tây, các bộ tộc Lạc Việt cổ từ Động Đình Hồ vẫn còn gắn kết ở dạng nhà nước sơ khai kia, nó thể hiện trong truyền thuyết xung đột giữa “Thục vương tử” và Vua Hùng. Tuy vậy trước và sau thời điểm 179 TCN (năm Triệu Đà thôn tính Tây Âu Lạc của An Dương Vương) và 111 TCN (năm Lộ Bác Đức bình định Nam Việt), những nhóm người đi tiếp xuống đồng bằng sông Hồng có lẽ đã không thể bảo tồn hình thái xã hội Văn Lang cũ. Điều này khá dễ hiểu: Địa bàn mới hoang vu (dù chắc chắn tồn tại ít nhiều nhóm chủng tộc gốc Nam Á du canh du cư với kinh tế hái lượm, săn bắn), thổ nhưỡng ẩm thấp, mùa mưa ngập lụt chia cắt, dân số ít, giao thương trở ngại… Đến đầu công nguyên, ít nhất là tình hình dân số của các bộ tộc Lạc Việt ở đồng bằng sông Hồng đã được cải thiện. Để chống lại âm mưu nô thuộc của nhà Đông Hán, Hai Bà Trưng đã liên minh các thủ lĩnh vùng lại với nhau đánh đuổi Hán quan, xưng vương.

Ở xã hội Lạc Việt cổ, trống đồng là biểu hiện quyền uy của tù trưởng, tộc trưởng. Cũng Tùy Thư nói: “Khi chiến tranh thì trống đồng được đánh, người người khắp nơi nghe lời hiệu triệu tụ họp về. Dân Lạc Việt rất phục tùng người sở hữu trống” – đây phải chăng là câu trả lời dứt khoát cho hành xử của Mã Viện với quốc bảo trống đồng. Thật vậy, Mã Viện nam chinh đã phá vỡ liên minh Văn Lang vừa được Trưng Trắc tái lập nhưng buộc phải cho phép dân Việt tự trị ở đơn vị Làng. Thế là sau khi giết hại vợ chồng bà Trưng, Mã Viện vội vàng cho quân lính đi thu gom trống đồng nhằm bẽ gãy các cuộc phản kháng tiếp theo (nếu có) từ trong trứng nước. Bản chất gốc của vấn đề xem ra rất kín kẽ, còn hiện tượng Mã Viện nấu đồng đúc ngựa cảnh để chơi và dựng trụ làm cột thiên văn quan sát bầu trời, xác định vị trí khu vực vừa chiếm được trên bản đồ đế quốc Hán, chỉ là đám lá ngọn lòa xòa che mắt sự thật lịch sử.

Tôi đã gặp rất nhiều người Việt Nam không tin tổ tiên họ là chủ sở hữu của trống đồng, hoặc cho rằng đề cao trống đồng như quốc bảo của dân tộc là thiếu chứng lý. Họ bảo không như người Tráng tại khu tự trị Quảng Tây Trung Quốc (tức hậu duệ những thần dân của An Dương Vương không di cư chạy giặc Triệu Đà xuống đồng bằng sông Hồng năm 179 TCN) vẫn còn sử dụng trống cho lễ hội, trống đồng ở Việt Nam chỉ đào được nơi các vỉa đất của quá khứ. Hy vọng nguyên nhân mang tên Mã Viện tôi vừa nêu, sẽ góp phần chứng minh người Việt xưa đã phải đành đoạn chôn trống gửi đến tương lai, mong con cháu mình mãi mãi trân trọng và giữ gìn nó

Cùng với việc hủy hoại trống đồng và làm tan rã hình thức nhà nước sơ khai trên mảnh đất Việt Nam cổ, Mã Viện đại diện cho nhà Đông Hán cũng chính thức khai sinh đơn vị hành chính tự trị là Làng, Xã. Do được tự trị, tinh thần độc lập và tự chủ của người Việt Nam đã luôn được nuôi dưỡng dưới các nếp nhà sau lũy tre làng. Từ “Làng Nước” sinh ra từ đây. Làng trở thành một đất nước độc lập tự chủ thu nhỏ của những người dân Việt bất khuất. Hơn 800 năm sau, tinh thần ấy lớn mạnh rồi bùng phát để đưa cả dân tộc thoát kiếp nô lệ. Khi người Việt có quốc gia rồi, thì làng xã lại trở về thế đối lập một cách tương đối với các chính sách chính trị tổng thể của chính quyền trung ương. Để dung hòa lợi ích nhà nước và làng xã, mỗi làng đã được chính quyền chọn ra một vị thần được ưa chuộng nhất để sắc phong làm Thành Hoàng. Như vậy mâu thuẫn đã được giải quyết ở một mức độ chấp nhận được: ông vua của làng là thánh linh (hoặc một con người có thật đã được thánh hóa), được ông vua của cả nước hợp thức hóa bằng một văn kiện.

5. Kết luận

Người Lạc Việt cổ bắt đầu gần một thiên niên kỷ lưu vong từ chiếc nôi Động Đình Hồ, từ châu Kinh, châu Dương bên bờ Trường Giang khi văn minh Hoa Hạ nam tiến và nước Sở được hình thành. Đến Trưng Trắc thì sức người có hạn, văn minh vật chất sơ sài trong khi sơn đã tận mà thủy thì mênh mông, đa số họ bắt buộc phải dừng lại, nhẫn nhục chấp nhận thêm tám trăm năm nô lệ nghiệt ngã.

Máu lưu vong trước nghịch cảnh chính trị của tiên tổ người Việt Nam đã hơn một lần bùng phát, già ngàn năm trở lại đây nơi hậu duệ của họ: Khi nhà Trần tiếm đoạt vương quyền, một nhánh họ Lý đã chạy qua Cao Ly. Lê – Mạc đấu đá rồi Trịnh – Nguyễn phân tranh, bao người phải bỏ xứ xuống khai phá đồng bằng sông Cửu Long trù phú. 1954 và 1975, hàng triệu sinh linh lại lên đường vào nam, hoặc ra biển tỏa khắp năm châu. Ai đó đã có lần so sánh người Việt Nam với dân Do Thái ở góc độ lưu vong, cũng chẳng khập khiễng chút nào.

Tự đặt mình vào bối cảnh năm 40 sau Công Nguyên, tôi bỗng thấy hình ảnh sáo mòn Hai Bà Trưng “phất cờ khởi nghĩa” có vẻ không hợp lý. Nên chăng hãy hình dung những hồi trống đồng liên hoàn dưới các nếp nhà sàn hiền hòa, thôn nối thôn, làng tiếp làng, thị tộc này kêu gọi thị tộc khác cùng đoàn kết trong âm vang tự do dưới sự lãnh đạo của Trưng Trắc tiến thẳng về Long Biên, quét sạch bắc quân xâm lược.

Hai Bà Trưng ra đi khép lại thuở bán khai trên đất mảnh đất tiền Việt Nam. Thời điểm này chính là hoàng hôn trước đêm dài nô lệ. Người Việt biết chấp nhận nỗi nhục thiếu tự do để học hỏi, tự hoàn thiện mình. Thỉnh thoảng một vài ngọn đuốc lại bừng sáng mang nhiều cái tên anh hùng như Triệu Thị Trinh, Mai Thúc Loan hay Phùng Hưng. Đáng kể là hơn nửa thế kỷ độc lập của Lý Nam Đế cùng các phụ triều trong giấc mơ Vạn Xuân đầy hiện thực. Đó là những bước tiến vững chắc, không thể phủ nhận của con người và đất nước thời khởi sử, làm bệ phóng cho kỷ nguyên tự chủ bắt đầu với Khúc Thừa Dụ năm 905. Tám trăm năm tròn bắc thuộc là cái giá quá đắt nhưng không hề vô nghĩa. Dân tộc Việt Nam, văn minh Việt Nam hình thành trong gian khó và thử thách đã lớn mạnh vượt bậc. Từ đó về sau phong kiến phương bắc không lần nào hoàn toàn khống chế được họ nữa. Cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 đại diện thực dân châu Âu là Pháp Lang Sa, với ưu thế hơn hẳn họ về sức mạnh vũ khí được sản xuất dưới một nền khoa học kỹ thuật tân kỳ, tổ chức xã hội tư bản tiến bộ, cũng chỉ áp đặt sự đô hộ không đồng bộ của chúng trên mảnh đất này tròm trèm 80 năm mà thôi.

Nếu không kể đến An Nam Chí Lược (1335) của một kẻ bán nước, từ quyển hiến sử đầu tiên còn lưu lại đến ngày này là Đại Việt Sử lược (1377 – 1388), sử gia Việt Nam vừa xem sách Tàu, vừa chấm bút lông vào nước lã để viết về ông Thi. Thậm chí họ còn sơ ý nhầm tên chồng bà Trưng Trắc là Thi Sách! Năm tháng qua đi, sách sử nối nhau ra đời, Bà Trưng Trắc vẫn phải làm một quả phụ bất đắc dĩ, gồng gánh thêm bao nhiêu khái niệm không cùng thời với bà. Lối tư duy suy diễn chủ quan, nô lệ sách Tàu và kinh viện, kết hợp với truyền thống tạo dựng chính sử thiên kiến và không tôn trọng sự thật một cách có hệ thống, vô hình chung đã tô son trát phấn lên bà mẹ chân đất được Thủy Kinh Chú mô tả là “vi nhân hữu đảm dũng”. Kết quả là người mẹ vĩ đại của họ chẳng đẹp hơn tí nào. Nó chỉ khiến người đời chạnh buồn cho những đứa con vụng về, xốc nổi và đồng bóng của bà.

Mảnh đất hình chữ S có tên Việt Nam ngày nay hiện hữu khoảng 200 đền thờ Hai Bà Trưng. Đó là tuyên bố rõ ràng nhất về vai trò lớn lao của Hai Bà trên non sông này. Mọi lý thuyết học thuật cổ kim đều không thể phủ nhận bản chất anh hùng và tinh thần bất khuất của Hai Bà Trưng, vị Vua Bà đầu tiên và cuối cùng của mảnh đất Việt Nam, người mẹ đáng kính của lịch sử Việt Nam, của dân tộc Việt Nam.

Chú thích

[1] Các ngữ âm dẫn theo gợi ý của Phạm Chánh Trung – Trang web viethoc.org

[2] Văn ngọc: Từ những ngôi nhà hình thuyền, www.zdfree.free.fr/diendan/articles/u125vngoc.html

[3] Dẫn theo Dien A. Rice: “Minangkabau Life and Culture”, www.haqq.com.au

Nguồn BBC

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Mặc dù còn rất nhiều sai sót, nhầm lẫn và mâu thuẫn trong các bài viết đã phố biến đây đó, tác giả hy vọng cách tiếp cận cốt lõi của mình nên được các nhà sử học chuyên nghiệp tham khảo nghiêm túc. Trong khi vẫn tiếp tục chỉnh lý chiều sâu văn bản cho một tập hợp mới nhằm đi đến xuất bản chính thức, sự mở rộng phạm vi của cách tiếp cận này là cần thiết.

Nếu tôi nhớ không nhầm thì hình như Lê Nin có nói một câu đại ý như sau:

"Nhiệt tình cách mạng cộng với dốt nát thành phá hoại"

Không chỉ ông Trương Thái Du mà có rất nhiều nhà sử học Việt Nam và ngoại quốc vô tình hay cố ý đã làm sai lệch chân lý:

Việt sử 5000 năm văn hiến.

Tôi chẳng có thời gian nhiều để phân tích từng chi tiết những sai lầm của ông Trương Thái Du. Nên chỉ có thể nêu vài hiện tượng sau đây và lập luận của ông ta:

*

2. Nhà nước Văn Lang sơ khai của người Lạc Việt được hình thành tại Động Đình Hồ (Hồ Nam, Trung Quốc) khoảng năm Nhâm Tuất 1199 TCN. Các vua Hùng cuối cùng trong số 18 vua Hùng đã chạy giặc Sở xuống đồng bằng Tây Giang, Quảng Tây, Trung Quốc và dựng lại phiên bản nhà nước sơ khai như Văn Lang Động Đình Hồ là Văn Lang Tây Giang. “Thục Vương tử” tên Phán của nước Thục (Quí Châu – Tây bắc Quảng Tây) đã thôn tính Văn Lang Tây Giang và dựng lên nước Tây Âu Lạc. Không ít cư dân Văn Lang Động Đình Hồ tiếp tục di chuyển xuống đồng bằng sông Hồng trước và sau thời điểm 179 TCN (năm Triệu Đà thôn tính Tây Âu Lạc). Ở mảnh đất Việt Nam cổ, đoàn lưu dân này vẫn tổ chức xã hội theo mô hình Văn Lang Động Đình Hồ, song các nhóm thị tộc mẫu hệ không còn liên kết chặt chẽ với nhau tạo thành nhà nước sơ khai. Vua Hùng của họ chỉ còn là thủ lãnh tự trị từng khu vực nhỏ, tức là như tù trưởng, tộc trưởng mà thôi.

- Cái chắp vá của ông này là: Thừa nhận năm Nhâm Tuất trong chính sử là mốc lập quốc của Văn lang - nhưng lại cắt đoạn sau và gán cho nó là năm Nhâm Tuất 1199 BC. Trong khi đó chính sử ghi rõ: Năm Nhâm Tuất - Năm thứ 8 vận 7 hội Ngọ (Lịch Thái Ất - tức năm 2879 BC). Trong Lý học Đông phương thì cứ 60 năm lại có một năm gọi là Nhâm Tuất, thế thì căn cứ vào đâu để ông Trương Thái Du xác quyết mốc Nhâm Tuất 1199 BC?

*Đoạn:

“Thục Vương tử” tên Phán của nước Thục (Quí Châu – Tây bắc Quảng Tây) đã thôn tính Văn Lang Tây Giang và dựng lên nước Tây Âu Lạc.

Đây là nhận xét và luận điểm của ông Đào Duy Anh, đã bị Thiên Sứ phân tích là sai từ hơn 10 năm trước và đến nay chính nhiều nhà sử học trong nước cũng đã quên lập luận này từ lâu.

* Ông Trương Thái Du viết:

song các nhóm thị tộc mẫu hệ không còn liên kết chặt chẽ với nhau tạo thành nhà nước sơ khai. Vua Hùng của họ chỉ còn là thủ lãnh tự trị từng khu vực nhỏ, tức là như tù trưởng, tộc trưởng mà thôi.

Đây chính là sự theo đuôi đám "hầu hết" và "công đồng" phủ nhận gia trị văn hóa sử truyền thống trải gần 5000 năm của dân tộc Việt.

Thực tế những phát hiện khảo cổ, những thập niên gần đây và sự minh chứng của Thiên Sứ Nguyễn Vũ Tuấn Anh đã bác bỏ luận điệu này.

Thảo nào BBC alo lên. Từ trước đến nay BBC chưa bao giờ đăng một bài nào có nội dung minh chứng giá trị văn hiến Việt trải gần 5000 năm lịch sử. Và không chỉ BBC.

Còn tiếp

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

cháu xin phép được đăng lại bài của bác Thiên Sứ vào mục trả lời trên BBC

Share this post


Link to post
Share on other sites

cháu xin phép được đăng lại bài của bác Thiên Sứ vào mục trả lời trên BBC

Khoan đã Rin86 ah. Nếu đăng trên BBC thì để bác viết lại.

Cáu tiết thật!

Làm như lại rộ lên phong trào viết bài bôi nhọ 5000 năm văn hiến Việt từ đầu năm đến nay vậy. Làm quái gì có cái khoa học chỉ đăng một chiều thế?!

Để mùng 4 tốt ngày bác viết lại bài phê phán Trương Thái Du. Phân tích cẩn thận. Xong nhờ Rin86 gửi đi.

Rồi nó lại lờ đi cho mà xem. Nhưng bác quen rồi.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Ông Trương Thái Du viết :

"Ở xã hội Lạc Việt cổ, trống đồng là biểu hiện quyền uy của tù trưởng, tộc trưởng. Cũng Tùy Thư nói: “Khi chiến tranh thì trống đồng được đánh, người người khắp nơi nghe lời hiệu triệu tụ họp về. Dân Lạc Việt rất phục tùng người sở hữu trống” – đây phải chăng là câu trả lời dứt khoát cho hành xử của Mã Viện với quốc bảo trống đồng. Thật vậy, Mã Viện nam chinh đã phá vỡ liên minh Văn Lang vừa được Trưng Trắc tái lập nhưng buộc phải cho phép dân Việt tự trị ở đơn vị Làng. Thế là sau khi giết hại vợ chồng bà Trưng, Mã Viện vội vàng cho quân lính đi thu gom trống đồng nhằm bẽ gãy các cuộc phản kháng tiếp theo (nếu có) từ trong trứng nước. Bản chất gốc của vấn đề xem ra rất kín kẽ, còn hiện tượng Mã Viện nấu đồng đúc ngựa cảnh để chơi và dựng trụ làm cột thiên văn quan sát bầu trời, xác định vị trí khu vực vừa chiếm được trên bản đồ đế quốc Hán, chỉ là đám lá ngọn lòa xòa che mắt sự thật lịch sử."

Thú thục tôi không hiểu cơ cấu não bộ suy nghĩ của ông T.T. Du. Ông cũng chẳng hiểu tí gì về Mã Viện đúc Trụ đồng và khắc vào đó như một lời nguyền xấu cho dân Giao Chỉ. Cột Đồng được chôn tại "Phân Mao", ông có biết "Phân Mao" là gì không? Vì sao Mã Viện không chôn nơi khác mà lại chôn nơi đây.

Phân Mao là ranh giới nơi đó cây cỏ mọc tự nhiên chia ra làm hai, bên hướng về Bắc bên kia hướng về Nam. Với tài năng cầm quân cáo già của Mã Viện thừa hiểu Thiên vận của nước Nam. Một lần nứa vị anh hùng dân tộc Lý Thường Kiệt nhắc lại " Nam Quốc Sơn Hà Nam Đế Cư, Tiệt Nhiên Định Phận Tại Thiên Thư" , "Phân Mao" chính là "Thiên Thư". Mã Viện hy vọng thời gian dài lâu khoảng bằng Trụ đồng gãy thì "Thiên Thư" sẽ thay đổi.

Vật đổi sao dời "Thiên Thư" hay "Phân Mao" có thay đổi không? quả thật khó mà xác định được, vì ranh giới ấy đã cách biên giới hiện tại khá xa qua nhiều cuộc chính biến chống Hán hóa dân tộc Việt. Khí số thịnh suy, độ dài ấy chúng ta mất đi bao nhiêu thì lại được bù đắp lại bấy nhiêu.

Ngày xưa Khổng Minh chinh Nam bẩy lần bắt bẩy lần tha Mạnh Hoạch vì ông ta cũng thừa hiểu người phương Nam chỉ phục Đức chứ không phục tài bạo tàn.

Ông Du cố nặn Lịch Sử theo ý mình!

Thật buồn thay

Share this post


Link to post
Share on other sites

Chuyện của Trương Thái Du từ năm 2005, có phần đã cũ rồi. Bản thân ông Trương cũng lâu không thấy tranh luận gì nữa, có lẽ là đã tự rút lui ý kiến của mình. Đây cũng là một cách nhìn, một ý muốn tìm lại cổ sử Việt Nam, nhưng không đúng, không thành. Có lẽ chẳng nên tranh luận thêm về ý tưởng này.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Chuyện của Trương Thái Du từ năm 2005, có phần đã cũ rồi. Bản thân ông Trương cũng lâu không thấy tranh luận gì nữa, có lẽ là đã tự rút lui ý kiến của mình. Đây cũng là một cách nhìn, một ý muốn tìm lại cổ sử Việt Nam, nhưng không đúng, không thành. Có lẽ chẳng nên tranh luận thêm về ý tưởng này.

Anh Minh Xuân nhầm rồi và coi nhẹ vấn đề này quá!

Cho dù bài viết này cách đây 1000 năm vẫn phải phê phán.

Tại sao vậy?

Bởi vì cái ý tưởng ngu xuẩn, phản khoa học, nhìn nhận một cách hèn hạ văn hóa truyền thống dân tộc đó; vẫn được tung hê lên báo chí và phương tiện thông tin đại chúng. Đã vậy lại là BBC - một hãng truyền thông quốc tế.

Anh có biết cái ý tưởng "Thời Hùng Vương là liên minh 15 bộ lạc" nó vừa phản khoa học , vừa nguy hiểm cho tương lai cả dân tộc Việt Nam như thế nào không?

Đấy chính là tiền đề của sự mất nước.

Bởi vì: Theo thông lệ lịch sử thì "Lịch sử của một dân tộc chỉ được công nhận khi dân tộc đó lập quốc". Bởi vậy, với "liên minh 15 bộ lạc" thì không phải là lập quốc theo tiêu chí lịch sử. Không có lập quốc thì không có xâm lược, không có cướp nước. Và như vậy sẽ không có Bắc thuộc. Mà lúc ấy sẽ chỉ có sự di dân và hòa nhập văn hóa. Không có Bắc thuộc thì việc giành lại độc lập hay Việt Nam hưng quốc vào thế kỷ X, sẽ thành hiện tượng ly khai khỏi đế chế Hán. Vậy thì đất nước này nguồn gốc thuộc về ai? Tàu hả?

Đấy là cái ngu xuẩn và cực kỳ nguy hiểm của cái đám dốt nát trong "hầu hết" và "cộng đồng". Nếu họ thực sự khoa học thì công khai đối thoại với một mình Thiên Sứ. Còn nếu vì chính trị thì hoặc là Thiên Sứ rút lui, hoặc là để Thiên Sứ đối thoại trực tiếp với thế lực chính trị quốc tế đứng đằng sau trò chơi này.

Ngày còn ở tuvilyso.com (Bây giờ là tuviluso.net), Thiên Sứ tôi đã viết:

Trong cuộc tranh luận đi tìm chân lý cho Việt sử 5000 năm văn hiến, Thiên Sứ chỉ nhân danh khoa học, nhưng chấp nhận đối phương dùng bất cứ phương pháp luận nào để phản biện Thiên Sứ, kể cả nhân danh Thượng Đế.

Hay nói cách khác: Họ có quyền lựa chọn vũ khí, còn Thiên Sứ thì chỉ có một thứ vũ khí là nhân danh khoa học..

Nếu có thế lực chính trị quốc tế đứng đằng sau sự phủ nhận gía trị văn hóa dân tộc Việt - Thì đây là lời cảnh báo của Thiên Sứ - nhân danh người báo trước sóng thần ở Indo và tất cả tai họa của cả cái thế giới này từ 2004 đến nay - trong đó có cả khủng hoảng kinh tế thế giới 2008 - rằng:

Tất cả các thế lực chính trị quốc tế hãy chấm dứt ngay lập tức cái trò chơi phủ nhận nền văn hiến sử truyền thống trải gần 5000 năm văn hiến Việt. Nếu không, các người sẽ phải chịu tai họa rất thảm khốc là sự hủy diệt của cả một dân tộc của các người - tất nhiên không phải dân tộc Việt.

Trong khi chờ đợi đụng xe, uống nhầm thuốc chuột, mắc bệnh lạ như ung thư ....để chết và gặp cụ Phạm Huy Thông - người bị thằng cháu gọi bằng cậu đâm chết trước khi ứng cử viện trường Khảo cổ học - Thiên Sứ tôi tiếp tục viết những gì có thể minh chứng cho chân lý :

Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến.

Nhưng:

Trạng chết chúa cũng thăng hà.

Dưa gang đỏ đít thì cà đỏ trôn*

------------

* Chú thích: Chúa ở đây là âm mưu giành ngôi bá chủ thế giới.

PS: Quí vị quan tâm đến Việt sử thân mến.

Thiên Sứ tôi sẽ dùng thêm một nick nữa là Thần Chết để đối thoại về chân lý với những âm mưu quốc tế phủ nhận giá trị văn hóa sử truyền thống Việt. Khi nào nick này chính thức hoạt động, Thiên Sứ tôi sẽ thông báo trên blog

http://vn.myblog.yahoo.com/thiensulacviet

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

PHẢN BIỆN TRƯƠNG THÁI DU.

Kính gửi hãng truyền thông quốc tế BBC.
Nhờ Rin86 chuyển giúp.

Thưa quí hãng thông tấn quốc tế BBC.

Tôi đã xem bài viết của ông Trương Thái Du - nhà nghiên cứu sử Việt nghiệp dư của Việt Nam - trên BBC tiếng Việt. Tôi nhận thấy rằng:
Bài viết này không hề có cơ sở hợp lý tối thiểu trong việc nhìn nhận về cổ sử cội nguồn dân tộc Việt: Lịch sử thời Hùng Vương. Bởi vậy, tôi viết bài này minh chứng rằng: Những luận điểm của ông Trương Thái Du - và có thể nói - của hầu hết những người có quan điểm tương tự phủ nhận truyền thống văn hóa sử Việt trải gần 5000 năm văn hiến (2879 BC - đến nay) - đều sai. Tôi hy vọng rằng hãng thông tấn BBC sẽ đăng tải bài viết này của tôi và sẽ không thông tin một chiều một quan điểm lịch sử duy nhất phủ nhận giá trị văn hóa truyền thống Việt.
Xin trân trọng cảm ơn.
Dưới đây là nội dung bài viết:

-------------------------

TRƯƠNG THÁI DU VÀ LUẬN ĐIỂM LỊCH SỬ.

Ông Trương Thái Du có nhiều bài viết về cội nguồn lịch sử Việt, nhưng đều thể hiện sự phủ nhận giá trị văn hóa truyền thống Việt trải gần 5000 năm văn hiến. Điển hình là bài viết trên BBC ghi ngày viết là: "Viết tại Đà Lạt tháng Tư 2005".
Vì là một bài nghiên cứu theo khoa học và phải tuân thủ tiêu chí khoa học là:
- Một giả thiết khoa học chỉ được coi là đúng, nếu nó giải thích một cách hợp lý hầu hết các vấn đề liên quan đến nó một cách nhất quán, hoàn chỉnh, có tính quy luật, tính khách quan và khả năng tiên tri.
- Một giả thuyết khoa học bị coi là sai, nếu người ta chỉ cần chỉ ra một mắt xích sai trong chuỗi mắt xích trong hệ luận của nó, mà nó không tự biện minh được.
Trên cơ sở tiêu chí khoa học, tôi nhận thấy giả thuyết nhân danh khoa học của tất cả những nhà nghiên cứu trong nước và quốc tế - trong đó có ông Trương Thái Du có quan điểm phủ nhận giá trị văn hóa sử truyền thống Việt trải gần 5000 năm văn hiến với bài đăng trên BBC - đều không thỏa mãn tiêu chí khoa học trên.
Bài viết này có ba luận điểm căn bản được nêu lên như sau:

1. Giao Chỉ nguyên nghĩa là một khái niệm nói về vùng đất phía nam vương quốc của Đường Nghiêu – Ngu Thuấn. Giao Chỉ đầu thời Chu chính là Đan Dương (nay thuộc Hồ Bắc, Trung Quốc). Sau hàng ngàn năm nam tiến của các đoàn quân đế quốc, khái niệm Giao Chỉ cũng dịch chuyển dần về phương nam. Chỉ đến thời Đông Hán, Giao Chỉ mới biến thành địa danh cố định và xác thực trên địa đồ.

2. Nhà nước Văn Lang sơ khai của người Lạc Việt được hình thành tại Động Đình Hồ (Hồ Nam, Trung Quốc) khoảng năm Nhâm Tuất 1199 TCN. Các vua Hùng cuối cùng trong số 18 vua Hùng đã chạy giặc Sở xuống đồng bằng Tây Giang, Quảng Tây, Trung Quốc và dựng lại phiên bản nhà nước sơ khai như Văn Lang Động Đình Hồ là Văn Lang Tây Giang. “Thục Vương tử” tên Phán của nước Thục (Quí Châu – Tây bắc Quảng Tây) đã thôn tính Văn Lang Tây Giang và dựng lên nước Tây Âu Lạc. Không ít cư dân Văn Lang Động Đình Hồ tiếp tục di chuyển xuống đồng bằng sông Hồng trước và sau thời điểm 179 TCN (năm Triệu Đà thôn tính Tây Âu Lạc). Ở mảnh đất Việt Nam cổ, đoàn lưu dân này vẫn tổ chức xã hội theo mô hình Văn Lang Động Đình Hồ, song các nhóm thị tộc mẫu hệ không còn liên kết chặt chẽ với nhau tạo thành nhà nước sơ khai. Vua Hùng của họ chỉ còn là thủ lãnh tự trị từng khu vực nhỏ, tức là như tù trưởng, tộc trưởng mà thôi.

3. Địa bàn của người Lạc Việt cổ gồm Hồ Nam, Quảng Tây, Quảng Đông, Bắc Việt Nam và đảo Hải Nam. Người Lạc Việt gọi tổ quốc mình là Đất Nước, khi ký âm bằng Hán tự nó trở thành Âu Lạc. Lạc Việt chính là Nước Việt hay Việt Thường Quốc. Người Lạc Việt ủng hộ Triệu Đà lập nên nước Nam Việt có kinh đô tại Phiên Ngung cũng gọi nơi ấy là Âu Lạc. Từ đây sinh ra từ Tây Âu Lạc tương đương với Tây Âu, nghĩa là vùng đất phía tây Phiên Ngung. Chữ Tây này tồn tại cho đến hôm nay trong trong tên gọi hiện đại của vùng đất này là Quảng Tây. Do đó không tồn tại quốc gia Âu Lạc tại đồng bằng sông Hồng trước công nguyên. Sau năm 179 TCN người Lạc Việt ở Tây Âu Lạc chạy giặc Triệu Đà xuống Bắc Việt đã dung hòa và pha trộn con người cũng như lịch sử với những người anh em cùng cội rễ Lạc Việt Động Đình Hồ. Chính cội rễ ấy đã che hết những mối nối ký ức, những khoảng trống và “mưu mô” của sử sách Trung Quốc, biến cổ sử Việt Nam thành một hệ thống vừa ít tư liệu vừa phức tạp nhưng cực kỳ mâu thuẫn.

Về luận điểm thứ nhất, chỉ nói tới sự thay đổi địa danh, không liên quan trực tiếp đến nội dung cội nguồn Việt sử, nên người viết bài này không thực sự quan tâm.
Nhưng luận điểm thứ hai cho thấy sự không hợp lý qua sự thể hiện những đoạn sau đây:
*

Nhà nước Văn Lang sơ khai của người Lạc Việt được hình thành tại Động Đình Hồ (Hồ Nam, Trung Quốc) khoảng năm Nhâm Tuất 1199 TCN.

Chúng ta đều biết rằng: Vào thời điểm 1199 BC, Trên giải đất Nam Hoàng Hà và Bắc Dương Tử đã hình thành một quốc gia hùng mạnh - cuối nhà Hạ, đầu thời Chu. Lịch sử trước đó hàng ngàn năm của quốc gia này đã ghi nhận những trận chiến của các dân tộc tranh giành sự sống nơi đây. Điều này lịch sử Trung Quốc cũng ghi nhận trên cơ sở truyền thuyết và huyền thoại được lưu truyền. Nếu quí vị độc giả cho rằng: Truyền thuyết và huyền thoại không phải cơ sở đủ tư cách là một cứ liệu xác đáng minh chứng cho lịch sử thì tôi đồng ý. Việc dẫn chứng này chỉ là một thực tế tồn tại của truyền thuyết và huyền thoại nói đến một hiện tượng lịch sử. Truyền thuyết này đã nhắc đến thời Hoàng Đế cách đây - ước tính trên 5000 năm - được ghi nhận trong các cổ thư như là một cuộc chiến tàn bạo nhất trong cổ sử nhân loại "Máu chảy trôi chày". Kết thúc cuộc chiến là Xuy Vưu bị thất trận ở Trác Lộc. Từ cuộc chiến truyền thuyết này - ước tính hơn 5000 năm cách ngày nay đến thời điểm của ông Trương Thái Du nói đến trong bài viết là 2000 năm đã trôi qua.
Cũng theo truyền thuyết về Hoàng Đế - Xuy Vưu thì sau khi chiến thằng: Hoàng Đế đã dừng ngựa ở bờ Bắc sông Dương Tử và nói rằng - có nhiều cách hiểu khác nhau về câu nói này của người được coi là khai sáng ra nước Trung Hoa của dân tộc Hán - có thể hiểu như sau:
- Phương Nam không thể đánh.
- Phương Nam không nên đánh.
- Phương Nam rất khó đánh.
Nhưng dù hiểu theo cách nào thì cũng thừa nhận một lực lượng đủ mạnh của những dân tộc sống sống ở bờ Nam sông Dương Tử, khiến người lãnh tụ chiếm cứ cả một vùng đất rộng lớn trải dài từ Nam Hoàng Hà đến Bắc Dương tử phải dừng vó ngựa ở đây. Nhắc đến truyền thuyết Hoàng đế - Xuy Vưu Tôi không coi đây là những bằng chứng lịch sử biện minh cho luận cứ của tôi. Mà chỉ là thể hiện một thực tế tồn tại trong lịch sử phổ biến của Trung Hoa nói về một hiện tượng có trước thời điểm 1199 của ông Trương Thái Du, tương đương với cuối Hạ, đầu thời Chu trong lịch sử Trung Hoa. Những bằng chứng khảo cổ gần đây khai quật ở vùng đất cư trú của dân tộc Hán cổ, đã cho thấy một nền văn minh phát triển về Thiên Văn, kiến trúc và các di sản văn hóa khác. Điều này cho thấy vào thiên niên kỷ II BC, những dân tộc ở Bắc Dương Tử đã tập hợp thành một quốc gia hùng mạnh. Vậy thì không có cơ sở nào để xác định một nhà nước sơ khai với những thủ lĩnh cầm đầu những cái gọi là "liên minh bộ lạc", tồn tại sát nách ngay một quốc gia hùng mạnh của dân tộc Hán, lại không bị lấn chiếm, xâm lược, hoặc chịu ảnh hưởng về chính trị, văn hóa. Điều này chỉ có thể giải thích rằng: Ở bờ Nam Dương Tử đã tồn tại một quốc gia hùng mạnh, có nền văn minh phát triển và đủ sức đương đầu với nhà nước Hạ, Chu của dân tộc Hán ở Bắc Dương tử. Những bằng chứng lịch sử tiếp theo thời gian trong 5000 năm đó - kể từ thời Hoàng đế - Xuy Vưu - đã xác minh điều này:
Sử ký Tư Mã Thiên đã xác định rằng: "Nam Dương Tử là nơi Bách Việt ở". Luận ngữ của Khồng Tử - thế kỷ V/ VI BC - cũng viết:
"Nếu không có Quản Trọng (Tể tướng nước Tề thời Xuân Thu - Hán Sử) thì dân tộc Hán ngày nay đã cài vạt áo bên trái như người Man rồi".
Dấu ấn áo cài vạt bên trái của Lạc Việt ở Nam Dương Tử còn được nhắc tới trong An Nam Chí Lược (Sách viết thế kỷ XIII AC) qua lời Tô Đông Pha và thực tế còn tồn tại đến ngày nay trong các dân tộc ít người ở Bắc Việt Nam và các di sản văn hóa phi vật thể còn lại trong văn hóa truyền thống Việt. Chính những nhà nghiên cứu lịch sử Trung Hoa cũng phải công nhận một quốc gia hùng mạnh tồn tại ở bờ Nam Dương tử, mà họ gọi là nước Ba. Còn rất nhiều bằng chứng vật thể và phi vật thể khác xác định rằng:
Nam Dương tử đã tồn tại một quốc gia hùng mạnh của người Việt. Cội nguồn của niềm tự hào chính đáng về lịch sử trải gần 5000 năm văn hiến của dân tộc Việt Nam hiện nay.
Nhưng giới hạn của bài viết này chỉ để minh chứng rằng ông Trương Thái Du đã sai - chứ không phải nhằm mục đích minh chứng cho Việt sử. Bởi vậy người viết chỉ nêu vài vấn đề, để chứng tỏ những mắt xích bất hợp lý mà tác giả không biện minh được theo tiêu chí khoa học.
Ý thứ hai của phần 2 của ông Trương Thái Du nêu lên trong bài viết là:

“Thục Vương tử” tên Phán của nước Thục (Quí Châu – Tây bắc Quảng Tây) đã thôn tính Văn Lang Tây Giang và dựng lên nước Tây Âu Lạc.

Đoạn này thực ra ông Trương Thái Du không phải là người đầu tiên nêu quan điểm này. Mà đó là của ông Đào Duy Anh nêu lên và minh chứng qua cuốn "Đất nước Việt Nam qua các đời" và người viết - Nguyễn Vũ Tuấn Anh đã chỉ ra những sai lầm trong luận cứ của ông Đào Duy Anh trong cuốn "Thời Hùng Vương và bí ẩn Lục Thập Hoa giáp" - Nxb Thanh niên 1999. Nxb Đại Học Quốc gia tái bản 2002. Cho đến nay, chẳng ai còn thừa nhận luận điểm của ông Đào Duy Anh.
Riêng phần 3 trong luận điểm chính của ông Trương Thái Du viết đã tự mâu thuẫn với chính mình. Người viết xin trích lại nguyên văn sau đây:

3. Địa bàn của người Lạc Việt cổ gồm Hồ Nam, Quảng Tây, Quảng Đông, Bắc Việt Nam và đảo Hải Nam. Người Lạc Việt gọi tổ quốc mình là Đất Nước, khi ký âm bằng Hán tự nó trở thành Âu Lạc. Lạc Việt chính là Nước Việt hay Việt Thường Quốc. Người Lạc Việt ủng hộ Triệu Đà lập nên nước Nam Việt có kinh đô tại Phiên Ngung cũng gọi nơi ấy là Âu Lạc. Từ đây sinh ra từ Tây Âu Lạc tương đương với Tây Âu, nghĩa là vùng đất phía tây Phiên Ngung. Chữ Tây này tồn tại cho đến hôm nay trong trong tên gọi hiện đại của vùng đất này là Quảng Tây. Do đó không tồn tại quốc gia Âu Lạc tại đồng bằng sông Hồng trước công nguyên. Sau năm 179 TCN người Lạc Việt ở Tây Âu Lạc chạy giặc Triệu Đà xuống Bắc Việt đã dung hòa và pha trộn con người cũng như lịch sử với những người anh em cùng cội rễ Lạc Việt Động Đình Hồ. Chính cội rễ ấy đã che hết những mối nối ký ức, những khoảng trống và “mưu mô” của sử sách Trung Quốc, biến cổ sử Việt Nam thành một hệ thống vừa ít tư liệu vừa phức tạp nhưng cực kỳ mâu thuẫn.


Với đoan văn trên của phần 3 và phần 2, có thể so sánh hai câu sau:
Phần 2 viết:"Nhà nước Văn Lang sơ khai của người Lạc Việt được hình thành tại Động Đình Hồ", thì ngay câu đầu phần 3 lại viết: "Địa bàn của người Lạc Việt cổ gồm Hồ Nam, Quảng Tây, Quảng Đông, Bắc Việt Nam và đảo Hải Nam", như vậy nó đã bị thu hẹp đáng kể so với phần I và so với truyền thống văn hóa sử Việt được chính sử ghi nhận - kể cà Sử Ký của Tư Mã Thiên: "Nam Dương Tử là nơi Bách Việt ở". Ông Trương Thái Du viết: "Lạc Việt chính là Nước Việt hay Việt Thường Quốc" vậy thì nước Văn Lang là quốc hiệu như thế nào so với "Nước Việt hay Việt thường quốc" cũng chính do ông ta nều ra?
Trong phần này, ông Trương Thái Du đã không minh chứng và không giải thích mối liên hệ của Triệu Đà với Việt sử khi nước Nam Việt của Triệu Đà với quốc hiệu Nam Việt và mối liên quan với quốc hiệu Âu Lạc mà ông Trường Thái Du gán cho Nam việt , để thêm vào một quốc hiệu không hề có trong cổ sử là Tây Âu Lạc. Ngoài ra còn mâu thuẫn sau trong chính lời văn của ông, xin so sánh hai đoạn trong cùng một bài viết, thậm chí cùng một đoạn văn như sau: "Người Lạc Việt ủng hộ Triệu Đà lập nên nước Nam Việt có kinh đô tại Phiên Ngung, cũng gọi nơi ấy là Âu Lạc" và câu :"Sau năm 179 TCN người Lạc Việt ở Tây Âu Lạc chạy giặc Triệu Đà xuống Bắc Việt đã dung hòa và pha trộn con người cũng như lịch sử với những người anh em cùng cội rễ Lạc Việt Động Đình Hồ". Về điều này, ông Trương Thái du cần giải thích rõ hơn về thái độ của người Lạc Việt với Nam Việt mà ông gọi thêm là Âu Lạc và lại phải chạy giắc Âu Lạc Triệu Đà.
Một luận điểm nữa của ông Trương Thái Du trong bài viết trên, tôi muốn phản biện là điều mà ông ta xác định như sau:

Tôi dám khẳng định chắc nịch rằng thời Hai Bà Trưng, cư dân vùng đồng bằng sông Hồng vẫn còn theo chế độ mẫu hệ nếu không muốn nói là mẫu quyền.

Như vậy ông ta đã tự mâu thuẫn, khi thời Hai Bà Trưng trong Việt sử (40 - 43 AC) là sự tiếp tục của lịch sử dân tộc Việt từ Động Đình Hồ mà chính ông ta nói tới hàng ngàn năm trước (Theo quan điểm của ông là 1199 BC). Bởi vậy, khi ông ta đã thừa nhận Hùng Vương - theo quan điểm của ông ta là thủ lĩnh bộ lạc - thì không lẽ sau đó hàng ngàn năm lại trở lại cái mà ông cam đoan là "chế độ mẫu hệ"? Khi những người có kiến thức phổ thông về lịch sử cũng biết rằng: Sự tồn tại khái niệm "mẫu hệ", chỉ là một thời kỳ tiến hóa trong lịch sử nhân loại. Nếu chỉ căn cứ vào người lãnh đạo quốc gia là nữ để xác định một thể thức xã hội là mẫu hệ hoắc mẫu quyền thì sẽ giải thích thế nào về thể thức xã hội với hiện tượng nữ anh hùng Gianda của Pháp quốc chống lại người Anh ở thế kỷ XII và sự tồn tại của Nữ Hoàng Anh ngay thời hiên đại?
Ở đây tôi cũng xin lưu ý rằng: Cuộc khởi nghĩa của Việt tộc thời Hai Bà trưng có ảnh hưởng rộng khắp phần nam Dương Tử. Có thể thấy dấu ấn đền thờ Hai Bà Trưng ở khắp vùng này và ngay trong câu nói của Tô Đông Pha trong "An Nam chí lược" - Đại ý:
"Nếu không có Tuân Tức Hầu (Tức Mã Viện) thì quân dân chín quận Giang Nam cài vạt áo bên trái cả"
Nếu dân Việt dưới thời Hai Bà Trưng chỉ là một giai đoạn sơ khai trong qua trình tiến hóa của nhân loại thì tôi nghĩ đế chế Hán hùng mạnh không cần phải dùng đến tổng tư lệnh quân đội Hán và huy động toàn bộ quân lực xuống tận miền Bắc Việt Nam làm gì.
Những dấu ấn còn lại không phải mục đích chứng minh của bài này - được nêu ở trên - cho thấy qui mô của cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng là toàn bộ địa bàn Việt tộc ở Nam dương Tử.
Để kết thúc bài phản biện ông Trương Thái Du, người viết cũng xin nói theo cách nói của ông ta , nhắm xác định quan điểm của mình về cội nguồn Việt sử:

Tôi dám khẳng định chắc nịch rằng:
Cội nguồn Việt sử tính từ thời Hùng Vương trải gần 5000 năm văn hiến và chính là nguồn gốc của nền văn minh Đông Phương cổ đại, một thời huyền bí trong tri thức của nhân loại hiện đại.

Sự khẳng định của tôi đã được minh chứng và tôi chịu trách nhiệm biện minh với những ý kiến phản bác.
Xin cảm ơn quí vị đã quan tâm.

Nguyễn Vũ Tuấn Anh



1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Rin86 thân mến.

Bác đã viết xong bài phản biện Trương Thái Du đăng trên BBC , viết Tháng 4 năm 2005 tại Đà Lạt. Bác nhờ Rin86 gửi bài này lên BBC giúp bác.

Bác không hy vọng họ sẽ đăng. Nhưng "Thà đốt một que diêm , còn hơn ngồi nguyền rủa bóng tối".

Cảm ơn Rin86.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Cháu đã gửi bài viết của bác vào mục trả lời của BBC. Chúng ta cần phải hành động vì bài viết của ông Trương Thái Du vẫn được dùng làm liên kết ngoài cho từ điển Wikipedia cho đến tận hôm nay. Bốn năm trôi qua đã có rất nhiều lượt người đọc bài viết này. Chỉ cần gõ cụm từ Hai Bà Trung là sẽ dẫn đến trang Wikepedia tiếng Việt và cuối trang đó là đường dẫn đến bài viết của ông Trương Thái Du. Cháu đã dẫn link tới blog của bác trên wikipedia để mọi người khi tham khảo từ điển bách khoa này có thể đọc

http://vi.wikipedia.org/wiki/Hai_B%C3%A0_Tr%C6%B0ng

Share this post


Link to post
Share on other sites

Cháu đã gửi bài viết của bác vào mục trả lời của BBC. Chúng ta cần phải hành động vì bài viết của ông Trương Thái Du vẫn được dùng làm liên kết ngoài cho từ điển Wikipedia cho đến tận hôm nay. Bốn năm trôi qua đã có rất nhiều lượt người đọc bài viết này. Chỉ cần gõ cụm từ Hai Bà Trung là sẽ dẫn đến trang Wikepedia tiếng Việt và cuối trang đó là đường dẫn đến bài viết của ông Trương Thái Du. Cháu đã dẫn link tới blog của bác trên wikipedia để mọi người khi tham khảo từ điển bách khoa này có thể đọc

http://vi.wikipedia.org/wiki/Hai_B%C3%A0_Tr%C6%B0ng

Cảm ơn Rin86.

Nhưng "chúng ta phải hành động" sao giống phim hành động Hoa Kỳ quá! Hi :rolleyes: .

Nhờ Rin86 để ý xem BBC có đăng bài viết lên không? Nếu họ không đăng thì coi như bác cháu mình bị họ xúm vào bắt nạt rồi. Hic.

Share this post


Link to post
Share on other sites

không ngờ link cháu dẫn lên từ điển wikipedia cũng bị dỡ xuống, có lẽ tại link đó dẫn vào blog cá nhân nên họ không chấp nhận.

Share this post


Link to post
Share on other sites

không ngờ link cháu dẫn lên từ điển wikipedia cũng bị dỡ xuống, có lẽ tại link đó dẫn vào blog cá nhân nên họ không chấp nhận.

Hãy cứ coi như là vậy. Nhưng Rin86 cho bác hỏi: Cái bài viết của nhà ông Trương Thái Du, BBC đăng hồi nào vậy? Nếu mới đăng đây mà BBC không đăng bài của bác thì bác sẽ xác định rõ hơn vấn đề về động cơ thực của sự phủ nhận truyền thống văn hiến Việt 5000 năm từ những nguồn nào?!

Share this post


Link to post
Share on other sites

Bài viết của ông Trương Thái Du đăng tháng 4 năm 2005 và đã được dùng làm liên kết ngoài cho Wikipedia 4 năm nay bâc ạ.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Bài viết của ông Trương Thái Du đăng tháng 4 năm 2005 và đã được dùng làm liên kết ngoài cho Wikipedia 4 năm nay bâc ạ.

Cảm ơn Rin86.

Bác hiểu rồi!

Thôi được rồi! Bác biết mình sẽ phải làm gì!

Một lần nữa cảm ơn Rin86.

Share this post


Link to post
Share on other sites

không ngờ link cháu dẫn lên từ điển wikipedia cũng bị dỡ xuống, có lẽ tại link đó dẫn vào blog cá nhân nên họ không chấp nhận.

Vậy thì Rin86 liên kết vào link Bài Phản Biện của diễn đàn?

Không biết có được hok?

Share this post


Link to post
Share on other sites

Rin86 thân mến.

Rin86 giúp bác sau một tuần không thấy BBC đăng bài phản biển thì sẽ gửi tiếp một bài nữa của bác (sẽ viết sau) đến BBC.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Rất may là cháu lại một lần nữa đưa đường link đến trang blog của bác vào mục liên kết ngoài trên từ điển bách khoa Wilipedia, và lần này nó đã không bị dỡ xuống, không biết vì lý do gì, có lẽ là họ quên. Cháu hy vọng họ sẽ không dỡ xuống nữa. Còn việc gửi ý kiến đến BBC cháu sợ là họ sẽ lờ đi hẳn vì BBC là hãng thông tấn quốc tế, họ rất cứng rắn.

Mới đây cháu tìm thấy blog của Doremon được cho vào mục bài lưu trên trang an Việt nổi tiếng nên cháu nghĩ việc cần phải làm là thúc đẩy trang blog của bác thành một blog nổi tiếng. Cháu nghĩ bác nên để cho người ta comment tranh luận thoải mái thì trang blog sẽ nổi tiếng hơn, còn họ nói gì thì kệ họ (cho đỡ stress). Cháu nghe nói có thể spam với giá 500 ngàn nhưng chưa biết spam ở đâu...

Share this post


Link to post
Share on other sites

Rất may là cháu lại một lần nữa đưa đường link đến trang blog của bác vào mục liên kết ngoài trên từ điển bách khoa Wilipedia, và lần này nó đã không bị dỡ xuống, không biết vì lý do gì, có lẽ là họ quên. Cháu hy vọng họ sẽ không dỡ xuống nữa. Còn việc gửi ý kiến đến BBC cháu sợ là họ sẽ lờ đi hẳn vì BBC là hãng thông tấn quốc tế, họ rất cứng rắn.

Mới đây cháu tìm thấy blog của Doremon được cho vào mục bài lưu trên trang an Việt nổi tiếng nên cháu nghĩ việc cần phải làm là thúc đẩy trang blog của bác thành một blog nổi tiếng. Cháu nghĩ bác nên để cho người ta comment tranh luận thoải mái thì trang blog sẽ nổi tiếng hơn, còn họ nói gì thì kệ họ (cho đỡ stress). Cháu nghe nói có thể spam với giá 500 ngàn nhưng chưa biết spam ở đâu...

Bác nghĩ đây là vấn đề học thuật - nội dung đã công khai đưa lên đây, mọi người đều rõ - nên nếu BBC tỏ ra cứng rắn mà nhất định không đăng bài của bác, trong khi chính BBC yêu cầu những bài phản biện thì nó sẽ chứng tỏ rằng BBC tự xác định hãng này có một thái độ chính trị rất rõ ràng, cái khách quan mà họ tạo ra chỉ là những thủ đoạn chính trị. Bởi vì, ông Trương Thái Du có quyền bảo vệ luận điểm của mình và phản biện lại trên tinh thần khoa học mà. BBC đã tạo ra cho họ một hào quang từ lâu. Bác nghĩ họ có khả năng đăng bài của bác. Nếu không đăng họ sẽ mất uy tín. Hơn nữa BBC có quyền biên tập mà.

Bác không cho ai commen cả. Bởi vì bác quá nhiều việc, không có thời gian để xem commen của họ dù là khen hay chê.

Hay là Rin86 gửi bài không ghi địa chỉ, số Dt...đại khái thế nên họ không đăng.Nếu có thiếu sót thì thử gửi lại giúp bác một lần nữa xem.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Đây là bài của anh Nguyễn Thiếu Dũng đăng trên An Việt nói về BBC.

Kính anh Thành và các anh

Hoan nghênh sáng kiến của anh,tôi không hiểu tại sao BBC lại có thái độ kỳ thị với những bài viết về chủ quyền văn hoá VIệt Nam,nếu họ có cao kiến hơn thì họ nên đưa ra để tranh luận thay vì ngăn chận thông tin.Còn như họ thấy Trung Hoa có lý hơn họ nên đề nghị các học giả Trung Hoa phản biện,chúng ta sẳn sàng hồi đáp.Anh nói rất đúng,ảnh hưởng của BBC rất rộng,chúng ta cần họ có một chút tình với Tổ Tiên để những hồi trống ngũ liên của anh được vang xa.

Thân mến

Nguyễn Thiếu Dũng

Bài của bác có nội dung khác hẳn.

- Bác trả lời đúng nội dung là phản biện bài viết của Trương Thái Du theo yêu cầu của BBC. Chứ không phải bác viết một bài minh chứng chung chung về Việt sử 5000 năm để đối lâp. Bác đã viết rất nghiêm túc, chứ không phải giọng văn trao đổi trên diễn đàn và blog.

Cảm ơn Rin86 đưa đường link của bác vào Wikipedia.

Bác đã xóa hai bài viết mới trên blog của bác, để ai vào xem thì thấy ngay bài phản biện Trương Thái Du.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Bác không cần phải xóa bài viết mới đâu ạ vì cháu tách riêng bài phản biện ông Trương Thái Du ra mà, nên dù viết bao nhiêu bài mới thì thông qua link đó vẫn vào được bài phản biện ông Trương Thái Du thôi. Lúc gửi cho BBC cháu đã ghi rõ địa chỉ, nếu thấy bài của mình hợp ý họ thì họ sẽ đăng thôi. Nếu họ không đăng thì ta sẽ gửi liên tục để khủng bố, mỗi ngày gửi một bản cho đến khi nào mệt thì thôi :unsure: ít nhất cũng cho họ thấy quyết tâm của ta.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Bác không cần phải xóa bài viết mới đâu ạ vì cháu tách riêng bài phản biện ông Trương Thái Du ra mà, nên dù viết bao nhiêu bài mới thì thông qua link đó vẫn vào được bài phản biện ông Trương Thái Du thôi. Lúc gửi cho BBC cháu đã ghi rõ địa chỉ, nếu thấy bài của mình hợp ý họ thì họ sẽ đăng thôi. Nếu họ không đăng thì ta sẽ gửi liên tục để khủng bố, mỗi ngày gửi một bản cho đến khi nào mệt thì thôi :unsure: ít nhất cũng cho họ thấy quyết tâm của ta.

Không cần phải "khủng bố" vậy đâu. Chỉ cần gửi đúng thủ tục cùng lắm là hai lần, không qua ba lần. Miễn làm sao chứng tỏ rằng họ đã nhận được. Còn họ không đăng thì thôi. Trang web của chúng ta tuy không thể so sánh với họ, nhưng không phải trang vô danh, tiểu tốt đến mức họ không có hậu quả gì , nếu thông tin một chiều. Bác đủ khả năng để khiến họ phải cảm thấy sai lầm, nếu không khách quan.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Kính thưa Sư Phụ và Rin thân mến,

Hồi LD còn đi học, có một vị GS kể chuyện về việc làm Luận Văn Tiến Sỹ. Để lấy được nó NCS phải đăng một bài báo lên tạp chí trong hoặc ngoài nước, nếu là tạp chí nước ngoài thì Cái Bằng Tiến Sỹ có giá trị hơn. Nhưng kể từ khi gửi đến khi đăng phải mất ít nhất từ 2 đên 3 năm. Chắc điều này Sư Phụ đã biết. Vì vậy LD nghĩ nhà mình cũng nên từ từ, chắc chắn BBC thấy hợp lý sẽ đăng.

kính Sư Phụ.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Kính thưa Sư Phụ và Rin thân mến,

Hồi LD còn đi học, có một vị GS kể chuyện về việc làm Luận Văn Tiến Sỹ. Để lấy được nó NCS phải đăng một bài báo lên tạp chí trong hoặc ngoài nước, nếu là tạp chí nước ngoài thì Cái Bằng Tiến Sỹ có giá trị hơn. Nhưng kể từ khi gửi đến khi đăng phải mất ít nhất từ 2 đên 3 năm. Chắc điều này Sư Phụ đã biết. Vì vậy LD nghĩ nhà mình cũng nên từ từ, chắc chắn BBC thấy hợp lý sẽ đăng.

kính Sư Phụ.

Vấn đề này không phải là lấy bằng tiến sĩ. Tôi lấy bằng tiến sĩ đơn giản hơn nhiều. Mà đây là ý kiến phản biện do chính BBC yêu cầu, nó có thể đúng và có thể sai. Nó không phải là một luận văn khoa học cần thẩm định nên phải chờ thời gian. Mà do khả năng biện minh của tác giả Trương Thái Du. BBC không thể không đăng - ngoại trừ vì lý do thiên vị với mưu đồ chính trị nên chỉ đăng một chiều.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Vấn đề này không phải là lấy bằng tiến sĩ. Tôi lấy bằng tiến sĩ đơn giản hơn nhiều. Mà đây là ý kiến phản biện do chính BBC yêu cầu, nó có thể đúng và có thể sai. Nó không phải là một luận văn khoa học cần thẩm định nên phải chờ thời gian. Mà do khả năng biện minh của tác giả Trương Thái Du. BBC không thể không đăng - ngoại trừ vì lý do thiên vị với mưu đồ chính trị nên chỉ đăng một chiều.

Dạ thưa Sư Phụ,

Như vậy thì LD hiểu rồi ạ.

Cám ơn Sư Phụ.

Share this post


Link to post
Share on other sites