Thiên Sứ

BÀi ViẾt CỦa GiÁo SƯ TrỊnh Sinh TrÊn BÁo Lao ĐỘng

53 bài viết trong chủ đề này

Kính thưa quí vị quan tâm.

Đây là toàn bộ bài viết của ông Trịnh Sinh về Thời Hùng Vương trên website của báo Lao Động - tôi chép về để tiện tham khảo và chứng minh sai lầm của ông, cũng như của tất cả những nhà nghiên cứu cổ sử Việt có quan điểm phủ nhận truyền thống văn hóa sử Việt trải gần 5000 năm văn hiến.

http://www.laodong.com.vn/Home/Thoi-Hung-V.../132842.laodong

Tôi và giáo sư Trịnh Sinh đã có duyên gặp một lần trao đổi vế quan điểm lịch cổ Việt, tại Viện Thiết kế và Qui hoạch Đô thị và Nông thôn Việt Nam, do cầu nối của bạn tôi là giáo sư Viện trưởng Lưu Đức Hải. Chúng tôi gặp nhau ngay tại phòng làm việc của bạn tôi. Sau cuộc gặp, chúng tôi có đi uống bia và chụp ảnh kỷ niệm. Chắc cũng hơn 4 năm, tôi cũng không nhớ ảnh chụp này nằm ở đầu. Nhưng tôi hy vọng sau cuộc gặp, tôi nghĩ rằng ông ta sẽ có cái nhìn khách quan và khoa học hơn về cổ sử Việt. Tuy nhiên tôi đã thất vọng vì bài viết dưới đây của ông.

*

Thời Hùng Vương: Từ tâm thức đến lịch sử

Lao Động số 73 Ngày 03/04/2009 Cập nhật: 8:05 AM, 03/04/2009

(LĐ) - Thành tựu nghiên cứu của nhiều ngành khoa học dần dần đã làm sáng tỏ một thời đại sáng giá của dân tộc: Thời của các vua Hùng. Thời đó có thật và với những chứng tích khảo cổ học, đã cho thấy bức tranh kinh tế - xã hội thời này có khi còn văn minh hơn những gì mà truyền thuyết nói đến.

Trong vài chục năm gần đây, với những phát hiện về văn hoá Đông Sơn, các nhà khoa học mới có thể dựng nên bức tranh toàn thể về thời đại Hùng Vương dựa vào chứng cớ vật chất khai quật được trong lòng đất.

Posted Image

Rìu đồng trang trí cảnh chó săn hươu, mới phát hiện trong khu mộ Gò De (Phú Thọ).

Thời Hùng Vương là có thật chứ không chỉ trong truyền thuyết. Chính văn hoá Đông Sơn là nền tảng cho thời này, khi mà niên đại của nó cũng khá trùng hợp với những gì sử sách chép lại về thời Hùng Vương, tức vào khoảng thế kỷ 7 trước Công nguyên. Tài liệu khảo cổ cho thấy đương thời đã có sự phân hoá xã hội giàu nghèo, có sự phát triển mạnh mẽ của các loại vũ khí chứng tỏ có xung đột và chiến tranh.

Tất yếu ra đời một loại thủ lĩnh quân sự. Chính Vua Hùng và Nhà nước Văn Lang ra đời là đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội. Thêm nữa, có thể Vua Hùng cũng là thủ lĩnh luyện kim giỏi, lại quản lý được nguồn nguyên liệu mỏ đồng từ thượng nguồn sông Hồng đổ về. Vì thế, có thể ban đầu Vua Hùng đã là người chế phục được các bộ lạc bằng ảo thuật, mà ảo thuật đây có khả năng là nắm được thuật luyện đồng.

Vậy là có thể Vua Hùng chỉ là một dạng thủ lĩnh của tộc người Việt cổ, mà sử cũ phiên âm từ Cun hay Khun - chỉ thủ lĩnh của người Mường cổ hay người Thái cổ - mà thành chữ Hùng, chỉ đơn thuần với ý nghĩa là thủ lĩnh, chứ không hẳn là tên người.

Nhà nước Văn Lang của Vua Hùng là nhà nước sơ khai, cùng một dạng như nhà nước Điền Việt hay Mân Việt, Nam Việt trong khối Bách Việt ở Hoa Nam, Trung Quốc. Nhưng Nhà nước Văn Lang ra đời sớm nhất và cũng là nhà nước có đông dân số nhất. Dựa vào sự so sánh qua nhiều nguồn tài liệu có thể hình dung, dân số người Việt thời này gấp khoảng chục lần Điền Việt và gấp rưỡi Nam Việt.

Thời Hùng Vương dưới ánh sáng của các tài liệu khảo cổ học đã cho thấy một xã hội đã khá phát triển. Khảo cổ học đã chứng minh được họ đã biết cày bằng lưỡi cày đồng, gặt lúa bằng lưỡi liềm đồng trên những cánh đồng thẳng tắp cò bay của các lưu vực sông màu mỡ phù sa.

Về mặt ẩm thực, người xưa không còn ở giai đoạn "lấy bột cây mà ăn" nữa mà đã trồng lúa. Dấu vết hạt gạo đã tìm được, các vỏ trấu cũng còn vương lẫn trong đất làm khuôn đúc đồng. Họ cũng không chỉ biết trồng lúa tẻ mà cũng đã biết trồng lúa nếp. Bằng chứng là phát hiện các mảnh chõ đồ xôi trong khu mộ táng Làng Vạc. Chính sự có mặt của hạt gạo nếp cũng phù hợp với một truyền thuyết trong thời Hùng Vương là truyền thuyết bánh chưng, bánh giầy.

Về mặt phục trang, nếu như sử gia Tư Mã Thiên (sinh năm 145 trước Công nguyên) có miêu tả trong "Sử ký" của mình đoạn về cách ăn mặc của người Việt cổ là: Âu Lạc là nước trần truồng mà cũng xưng vương với đầy hàm ý miệt thị, thì trước thời Âu Lạc, khảo cổ đã cho thấy cư dân Hùng Vương đã biết dệt vải (dấu vết vải gai tìm được trong mộ), tìm được dọi xe sợi.

Họ cũng đã tạo ra được bộ váy đẹp cho người phụ nữ (tượng phụ nữ trên cán dao găm) hoặc đàn ông thì đóng khố. Về mặt ở, họ cũng đã tạo ra được những ngôi nhà sàn rộng rãi, mái cong mà hình tượng còn lưu lại trên mặt trống đồng. Họ cũng tạo ra được những chiếc thuyền đi sông, đi biển có cả lầu trên thuyền.

Điều giỏi giang nhất của người thời Hùng Vương chính lại nằm ở chỗ họ đã rất thành thạo trong việc đúc đồng. Các nhà khoa học đã rất ngạc nhiên khi biết người xưa chỉ bằng kinh nghiệm, đã biết cách pha chế đến 12 loại hợp kim để đúc, trong đó quan trọng nhất là hợp kim đồng-thiếc-chì. Họ đã đúc được những chiếc trống đồng Ngọc Lũ, Cổ Loa khá hoàn thiện, mà cho đến hiện nay, với các hiệp thợ thủ công làng nghề cũng vẫn chưa đúc thành công được những trống đồng theo đúng như xưa.

Đời sống tinh thần của người thời Hùng Vương cũng hết sức phong phú, có ngày hội mà các chiến binh cầm vũ khí nhảy múa quanh cây cột thiêng và đâm trâu, bò. Các nam thanh, nữ tú lại được trang sức đẹp với các vòng ngọc, hạt cườm thuỷ tinh, các vòng ống đeo đầy cổ tay, cánh tay và cổ chân. Những chiếc vòng này lại được gắn nhiều chiếc chuông nhỏ.

Posted Image

Tượng phụ nữ trên cán dao găm đồng Làng Vạc

Tài liệu khảo cổ học cũng cho thấy một sự tương hợp khá lý thú với truyền thuyết và thư tịch thời Hùng Vương. Đó là tương truyền Vua Hùng đóng đô ở quanh chùa Hoa Long (TP.Việt Trì), nơi hợp lưu giữa dòng sông Hồng và sông Lô, thì nay ở một nơi chỉ cách khoảng 1km đã phát hiện ra khu mộ Làng Cả có đến hàng trăm ngôi mộ, có những mộ hết sức phong phú về đồ tuỳ táng. Điều đó cho phép các nhà khảo cổ liên tưởng đến dấu tích của kinh đô Văn Lang có liên quan chặt chẽ đến khu mộ lớn nhất vùng này.

Có một điều mà chưa thư tịch và truyền thuyết nào nói đến là sự giao lưu của cư dân thời Hùng Vương khá rộng. Các bằng chứng khảo cổ - chủ yếu là các trống đồng Đông Sơn - đã cho thấy mối quan hệ "mở" của họ với cư dân Trung Quốc của vùng hồ Điền ở Vân Nam, với cư dân Quảng Đông, Quảng Tây, thậm chí cả với nhóm cư dân ở tận phía bắc của tỉnh Chiết Giang, vùng ven biển hạ lưu của sông Trường Giang.

Bằng con đường ven biển, cư dân Hùng Vương còn để lại dấu tích trống đồng khắp một vùng ven biển Malaysia, Thái Lan và nhất là vùng quần đảo Indonesia. Những đảo xa nhất về phía đông của quần đảo này cũng có trống đồng mà người Việt xưa đúc nên.

Với những phát hiện khảo cổ học ngày một nhiều trong những năm gần đây, chúng ta lại càng thấy rõ nét hơn toàn cảnh một thời Hùng Vương, bổ khuyết những gì mà thư tịch và truyền thuyết chưa nói đến hay đính chính những gì chưa chính xác mà qua lăng kính huyền ảo của truyền thuyết đã bị khúc xạ.

Khi sang làm việc trong một trường đại học bên Mỹ, một giáo sư chuyên nghiên cứu về VN, có hỏi tôi về cội nguồn sức mạnh của người Việt từ đâu và từ khi nào? Tôi đã trả lời ngay, từ thời Hùng Vương đã có một sự quần tụ nhiều tộc người trở thành dân tộc Việt.

Bản sắc văn hoá và bản lĩnh Việt cũng đã định hình từ đấy, để rồi trước phong ba bão táp của nghìn năm Bắc thuộc, vẫn không bị đồng hoá, để tiếp tục được hun đúc cao hơn trong thời kỳ độc lập tự chủ, là điều mà không phải tộc người nào cùng hoàn cảnh cũng đạt được.

PGS-TS Trịnh Sinh

Share this post


Link to post
Share on other sites

Kính thưa quí vị quan tâm.

Tôi xin được minh chứng sai lầm trong toàn bộ bài bài viết của giáo sư Trịnh Sinh và những ý của báo Lao Động liên quan đến bài viết về thời Hùng Vương - thuộc giai đoạn cổ sử Việt - theo đúng tiêu chí khoa học. Sự minh chứng này sẽ là một thí dụ nữa làm sáng tỏ chân lý: Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến.

Tôi sẽ không bỏ sót và không cắt trích - vốn là thủ đoạn biện luận - trong tranh cãi giành phần thắng. Mà tôi lần lượt trích dẫn, phân tích từng đoạn, cũng như tổng hợp toàn bộ ý, và chủ để của bài viết, không bỏ sót đoạn nào của bài viết. Theo đúng quan niệm:

Người quân tử tranh luận để cầu tìm chân lý. Kẻ tiếu nhân tranh luận để giành hơn thua.

Cảm ơn sự quan tâm của quí vị:

Kính thưa quí vị.

Trong phần chép lại bài viết trên, tôi không thể chép được cái rìu đồng là ảnh minh họa vì lý do kỹ thuật. Nhưng phần chú thích phia dưới đã nói lên nội dung của nó. Quí vị nào cần tham khảo hình này xin theo đường linh ghi ở bài trên.

Kính thưa quí vị:

Bài báo viết ngay từ đoạn giới thiệu:

Thời Hùng Vương: Từ tâm thức đến lịch sử

Lao Động số 73 Ngày 03/04/2009 Cập nhật: 8:05 AM, 03/04/2009

(LĐ) - Thành tựu nghiên cứu của nhiều ngành khoa học dần dần đã làm sáng tỏ một thời đại sáng giá của dân tộc: Thời của các vua Hùng. Thời đó có thật và với những chứng tích khảo cổ học, đã cho thấy bức tranh kinh tế - xã hội thời này có khi còn văn minh hơn những gì mà truyền thuyết nói đến.Trong vài chục năm gần đây, với những phát hiện về văn hoá Đông Sơn, các nhà khoa học mới có thể dựng nên bức tranh toàn thể về thời đại Hùng Vương dựa vào chứng cớ vật chất khai quật được trong lòng đất.

Ngay từ lời giới thiệu của ban biên tập báo Lao Động - đây là đoạn mà toàn bộ ban biên tập của báo này phải chịu trách nhiệm về nội dung -thì chúng ta sẽ thấy được sự lập lờ của lời giới thiệu này. Họ làm như phải có những "các nhà khoa học mới có thể dựng nên bức tranh toàn thể về thời đại Hùng Vương dựa vào chứng cớ vật chất khai quật được trong lòng đất".

Xin lỗi ban biên tập Báo Lao Động - khi chưa hề có khái niệm "nhà khoa học" trong tiếng Việt thì dân tộc Việt đã ghi trong chính sử - cụ thể là "Đại Việt sử ký toàn thư" về một thời đại Hùng Vương là cội nguồn dân tộc Việt. Dân tộc Việt trong truyền thống lịch sử của mình đã coi đó là điều đương nhiên và không cần phải chứng minh. Hiến pháp nước Cộng Hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam trước 1992 cũng ghi nhận trong lời nói đầu rằng:

"Dân tộc Việt Nam trải hơn 4000 năm lịch sử". Sau này - khi chỉnh sửa lại lời nói đầu - vẫn ghi: "Dân tộc Việt Nam trải mấy ngàn năm lịch sử". Còn những ai có kiến thức phổ thông về lịch sử từ những bà bán ve chai lông vịt, những kẻ bần cùng - nhưng sống trên đất Việt đều mang trong tâm thức về một dân tộc Việt lập quốc từ Thời Hùng Vương dựng nước. Chính từ tâm thức này trong truyền thống văn hóa Việt mà bài báo trên đã dùng khái niệm đó để đặt làm tựa bài báo "Thời Hùng Vương: Từ tâm thức đến lịch sử". Nếu không có tâm thức về một thời đại Hùng Vương trải gần 5000 năm văn hiến trong dân tộc Việt thì họ không có cơ sở để đặt từ này trong tựa của bài báo. Tâm thức ấy đã được dân tộc Việt trân trọng lưu truyền trong hơn 1000 năm đô hộ tàn bạo của đế quốc Hán và được thừa nhận trong chính sử khi dân tộc Việt hưng quốc.

Nhưng chính cái gọi là "Hầu hết những nhà khoa học trong nước" đã xét lại và phủ nhận tâm thức truyền thống và lịch sử Việt. Bởi vậy, thực sự - ít nhất là cá nhân tôi - không cần đến các nhà khoa học trong cái đám hầu hết đó "dựng nên bức tranh toàn thể về thời đại Hùng Vương dựa vào chứng cớ vật chất khai quật được trong lòng đất" mà nội dung của nó lại là: "Thời Hùng Vương thực chất chỉ là liên minh 15 bộ lạc" với những người dân "ở trần đóng khố". Bởi vậy, ngay từ cái tựa - mà ban biên tập báo Lao Đông đặt tên, hoặc do chính ông Trịnh Sinh đặt đã là một sự khập khiễng và mâu thuẫn. Xét về tính khách quan khoa học - Không có vấn đề "Từ Tâm thức đến lịch sử" về thời Hùng Vương về cả hình thức lẫn nội dung của câu này.

Về hình thức thì tâm thức không làm nên lịch sử đã tồn tại một cách khách quan trong quá khứ. Con người hiện tại không thể tưởng tượng ra một quá khứ lịch sử và rồi chứng minh nó tồn tại khách quan, nếu như nó không tồn tại trên thực tế. Như vậy, ngay từ cái tựa, đã cho thấy một tư duy rất chủ quan của giáo sư Trịnh Sinh hoặc của ban biên tập báo Lao Động. Đã vậy, họ còn trơ tráo viết rằng:

"Thời đó có thật và với những chứng tích khảo cổ học, đã cho thấy bức tranh kinh tế - xã hội thời này có khi còn văn minh hơn những gì mà truyền thuyết nói đến".

Tất cả dân tộc Việt Nam và cả những người nước ngoài nghiên cứu cổ sử Việt đều biết một thực tế rằng: Truyền thuyết và chính sử Việt ghi nhận: Nước Văn Lang - cội nguồn lịch sử của dân tộc Việt - có biên giới Bắc giáp Động Đình Hồ, nam giáp Hồ Tôn, tây giáp Ba Thục và Đông giáp Đông Hải, lập quốc vào năm 2879 trước CN - Năm Nhâm Tuất - năm thứ 8, vận 7, hội Ngọ - và là một quốc gia văn hiến.

Như nước Đại Việt ta thuở trước.

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.

Bình Ngô Đại cáo - một thiên cổ hùng văn từ 500 năm trước, đã xác định như vậy.

Trong khi đó, ngay bây giờ - tất cả các nhà khoa học xã hội và nhân văn của cả cái thế giới văn minh này - còn chưa định nghĩa được thế nào là khái niệm "văn hóa" - thì việc coi những gì mà cái cộng đồng khoa học trong nước phủ nhận nền văn hiến Việt "có khi còn văn minh hơn những gì mà truyền thuyết nói đến", chỉ là sự là sự ngông ngạo láo xược, nhằm bôi nhọ dân tộc Việt, khi họ cho rằng: "Thời Hùng Vương chỉ là một liên minh 15 bộ lạc" với những người dân "Ở trần đóng khố".

Điều này thể hiện ngay trong nội dung bài viết của giáo sư Trịnh Sinh.

Bởi vậy, việc cho rằng: "các nhà khoa học mới có thể dựng nên bức tranh toàn thể về thời đại Hùng Vương dựa vào chứng cớ vật chất khai quật được trong lòng đất" chỉ là sự tôn vinh trơ trẽn.

Còn tiếp.

PS: bài phân tích của Thiên Sứ còn được đăng tải trên blog:

http://360.yahoo.com/thiensulacviet

http://vn.myblog.yahoo.com/thiensulacviet

Share this post


Link to post
Share on other sites

Kính thưa quí vị.

Bây giờ chúng ta xem giáo sư Trịnh Sinh viết gì để ban biện tập báo Lao Động phải ca ngợi là:

(LĐ) - Thành tựu nghiên cứu của nhiều ngành khoa học dần dần đã làm sáng tỏ một thời đại sáng giá của dân tộc: Thời của các vua Hùng. Thời đó có thật và với những chứng tích khảo cổ học, đã cho thấy bức tranh kinh tế - xã hội thời này có khi còn văn minh hơn những gì mà truyền thuyết nói đến.

Ông Trịnh Sinh đã viết như sau:

Thời Hùng Vương là có thật chứ không chỉ trong truyền thuyết. Chính văn hoá Đông Sơn là nền tảng cho thời này, khi mà niên đại của nó cũng khá trùng hợp với những gì sử sách chép lại về thời Hùng Vương, tức vào khoảng thế kỷ 7 trước Công nguyên. Tài liệu khảo cổ cho thấy đương thời đã có sự phân hoá xã hội giàu nghèo, có sự phát triển mạnh mẽ của các loại vũ khí chứng tỏ có xung đột và chiến tranh.

Như vậy chúng ta thấy rõ ràng rằng: Giáo sư Trinh Sinh đã phủ nhận truyền thống văn hóa sử Việt từ gần 5000 năm văn hiến - 2879 BC - xuống còn "khoảng thế kỷ 7 trước Công nguyên" . Vậy chúng ta thấy thật là trơ tráo khi bài báo viết rằng: "đã cho thấy bức tranh kinh tế - xã hội thời này có khi còn văn minh hơn những gì mà truyền thuyết nói đến". Không có cơ sở nào để một nhà nước xuất hiện vào thế kỷ thứ 7 trước công nguyên với liên minh 15 bộ lạc lại văn minh hơn một nhà nước đã ra đời từ Thiên Niên Kỷ thứ III BC. Bởi vậy, những danh từ ồn ào, lừa mị như: "Thành tựu nghiên cứu", "thời đại sáng giá của dân tộc" trở nên vô nghĩa khi nội dung của nó hạ cấp lịch sử văn hiến Việt từ gần 5000 năm lịch sử , xuống còn "khoảng thế kỷ 7 trước Công nguyên".

Giáo sư Trịnh Sinh viết:

Tất yếu ra đời một loại thủ lĩnh quân sự. Chính Vua Hùng và Nhà nước Văn Lang ra đời là đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội. Thêm nữa, có thể Vua Hùng cũng là thủ lĩnh luyện kim giỏi, lại quản lý được nguồn nguyên liệu mỏ đồng từ thượng nguồn sông Hồng đổ về. Vì thế, có thể ban đầu Vua Hùng đã là người chế phục được các bộ lạc bằng ảo thuật, mà ảo thuật đây có khả năng là nắm được thuật luyện đồng.

Vậy là có thể Vua Hùng chỉ là một dạng thủ lĩnh của tộc người Việt cổ, mà sử cũ phiên âm từ Cun hay Khun - chỉ thủ lĩnh của người Mường cổ hay người Thái cổ - mà thành chữ Hùng, chỉ đơn thuần với ý nghĩa là thủ lĩnh, chứ không hẳn là tên người.

Chúng ta thấy gì trong lập luận của giáo sư Trịnh Sinh, khi ông viết: "Tất yếu ra đời một loại thủ lĩnh quân sự"? Cái tất yếu để hình thành một tổ chức xã hôi khi những mối quan hệ xã hội phát triển là cái tất yếu nói chung cho quá trình phát triển của lịch sử loài người. Nhưng cụ thể ở Thời Hùng Vương mà ông ta cho rằng: Xuất hiện ở thế kỷ thứ 7 trước Công nguyên thì không có chứng minh nào hợp lý. Chúng ta cũng thấy răng trong một đoạn rất ngắn của phần trích dẫn trến ông ta đã ba lần dùng từ "có thể" cho các luận điểm của ông . Hay nói cách khác: Đó là sự thể hiện một suy diễn không khoa học và hoàn toàn chủ quan, của một lập luận không có cơ sở vững chắc và hợp lý. Đấy là những đoạn mở đầu cho toàn bộ bài viết này.

Ông Trịnh Sinh viết:

Nhà nước Văn Lang của Vua Hùng là nhà nước sơ khai, cùng một dạng như nhà nước Điền Việt hay Mân Việt, Nam Việt trong khối Bách Việt ở Hoa Nam, Trung Quốc. Nhưng Nhà nước Văn Lang ra đời sớm nhất và cũng là nhà nước có đông dân số nhất. Dựa vào sự so sánh qua nhiều nguồn tài liệu có thể hình dung, dân số người Việt thời này gấp khoảng chục lần Điền Việt và gấp rưỡi Nam Việt.

Chúng ta thấy ông Trịnh Sinh cố gắng vẽ ra một xã hội Văn Lang hoàn toàn không như thực tế khách quan mà truyền thuyết và chính sử Việt đã ghi nhận, là:

"Dựa vào sự so sánh qua nhiều nguồn tài liệu có thể hình dung, dân số người Việt thời này gấp khoảng chục lần Điền Việt và gấp rưỡi Nam Việt".

Chúng ta biết rằng: Văn Lang sụp đổ vào thế kỷ 258 trước BC - theo chính sử. Ngay cả theo quan niệm của cái gọi là "Hầu hết những nhà khoa học trong nước" thì cũng vào năm 208 BC. Bởi vậy, hoàn toàn cho thấy sự so sánh này là khập khiễng - Khi nhà Tần sụp đổ vào 207 BC. Tức là trước rất lâu các nhà nước Mân Việt, Điền Việt mà ông Trịnh Sinh nói đến. Sự khập khiễng này chính vì sự so sánh ở thời gian lịch sử khác nhau. Điều này không khác gì so sánh dân số Hanoi hiện nay với dân số thành Đại La thời Đường để nói lên những vấn đề lịch sử liên quan ở cùng một thời điểm. Không cần ông Trịnh Sinh và những cái gọi là "Hầu hết những nhà khoa học trong nước", thì truyền thống văn hóa sử Việt đã xác định nhà nước Văn Lang, mở đầu nền văn hiến sử Việt ra đời từ 2879 BC - trước rất lâu cái mà các người này nói đến. Ở đây, ông Trịnh Sinh cũng không hề đưa ra một chứng cứ sắc sảo nào để minh chứng cho luận điểm của ông, dù chỉ là một phân tích hợp lý.

Ông Trịnh Sinh viết:

Thời Hùng Vương dưới ánh sáng của các tài liệu khảo cổ học đã cho thấy một xã hội đã khá phát triển. Khảo cổ học đã chứng minh được họ đã biết cày bằng lưỡi cày đồng, gặt lúa bằng lưỡi liềm đồng trên những cánh đồng thẳng tắp cò bay của các lưu vực sông màu mỡ phù sa.

Chúng ta bỏ qua nhưng câu có tính sao như, tô điểm câu văn của ông ta như: "trên những cánh đồng thẳng tắp cò bay của các lưu vực sông màu mỡ phù sa" - thì chúng ta thấy gì ở nhà gọi là giáo sư sử học này khi viết:

"Thời Hùng Vương dưới ánh sáng của các tài liệu khảo cổ học đã cho thấy một xã hội đã khá phát triển. Khảo cổ học đã chứng minh được họ đã biết cày bằng lưỡi cày đồng, gặt lúa bằng lưỡi liềm đồng..."

Ông ta đã xác định rằng: Thời Hùng Vương - cội nguồn lịch sử Việt trải gần 5000 năm văn hiến, chỉ là một thời đại đồ đồng. Cái thuật ngữ mà ông ta gọi là "ánh sáng của các tài liệu khảo cổ học"ấy thực chất chỉ là một sáo ngữ, không có nội dung. Trong cuộc trao đổi với ông ở Viện Quy hoạch, tôi đã đặt vấn đề: "Di vật khảo cổ có phải bằng chứng duy nhất minh chứng cho lịch sử không?". Ông đã né tránh và không trả lời. Bởi vậy, cái gọi là "ánh sáng" mà ông Trịnh Sinh nói, chỉ là một thứ sáo ngữ. Rất nhiều bằng chứng khảo cổ cho thấy đồ sắt đã xuất hiện ở Bắc Thái Lan - sát biên giới Tây Nam Văn Lang theo chính sử và ngang tây Bắc Văn Lang theo cách nhìn của cái gọi là "Hầu hết những nhà khoa học trong nước" về một nước Văn Lang chỉ ở đồng bằng Bắc Bộ. Những khảo nghiệm bằng Cacbon phóng xạ đã xác định rằng - chứ không có thể - thời đại đồ sắt đã có từ thê XV BC - theo Tư liệu Trần Ngọc Thêm và đã dẫn chứng trong "Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại" . Điều này phù hợp với truyền thuyết Thánh Gióng chống giặc Ân trong truyền thuyết của văn hiến Việt, khi niên đại của nhà Ân Thương được xác định tương đương với niên đại di vật đồ sắt được tìm thấy. Điều này cho thấy: Ngay cả việc sử dụng phương pháp khảo sát lịch sử thì lập luận của cái gọi là "Hầu hết những nhà khoa học trong nước" vốn được "cộng đồng khoa học thế giới ủng hộ", hoàn toàn vô căn cứ và khập khiễng một cách chủ quan.

Ông Trịnh Sinh viết:

Về mặt ẩm thực, người xưa không còn ở giai đoạn "lấy bột cây mà ăn" nữa mà đã trồng lúa. Dấu vết hạt gạo đã tìm được, các vỏ trấu cũng còn vương lẫn trong đất làm khuôn đúc đồng. Họ cũng không chỉ biết trồng lúa tẻ mà cũng đã biết trồng lúa nếp. Bằng chứng là phát hiện các mảnh chõ đồ xôi trong khu mộ táng Làng Vạc. Chính sự có mặt của hạt gạo nếp cũng phù hợp với một truyền thuyết trong thời Hùng Vương là truyền thuyết bánh chưng, bánh giầy.

Như vậy, ông ta lại viễn dẫn di vật khảo cổ để chứng tỏ tính khách quan về việc "Họ cũng không chỉ biết trồng lúa tẻ mà cũng đã biết trồng lúa nếp". Nhưng cái chân lý về người Việt biết trồng lúa trong lập luận của vị giáo sư này là: Ông ta đã đặt cái mà "Họ cũng không chỉ biết trồng lúa tẻ mà cũng đã biết trồng lúa nếp" trong một bối cảnh thới gian lịch sử bị chính ông và các cộng sự trong cái "hầu hết" đẩy lùi từ 2879, xuống còn vào khoảng thế kỷ thứ bẩy trước công nguyên. Tính khập khiễng trong lập luận này là: Khi ông ta nói nó phù hợp với truyền thuyết Bánh Chưng bánh dầy, thì chính thời gian lịch sử của truyền thuyết lại phủ nhận lập luận của vị giáo sư này và của tất cả cái "hầu hết" là: Truyền thuyết về bánh Chưng bánh dầy xác định niện đại lịch sử ra đời vào đầu thời Hùng Vương thứ VII, sau khi chiến thắng giặc Ân - mà niên đại vào thế kỷ XV BC. Bởi vậy, không hề có sự tương quan thời gian lịch sử nào giữa mấy cái chõ xôi mà các nhà nghiên cứu trong cái "hầu hết" đào được với truyền thuyết của nền văn hiến Việt mà đã bị chính họ phủ nhận.

Còn tiếp

Share this post


Link to post
Share on other sites

Kính thưa quí vị quan tâm.

Người viết xin được tiếp tục minh chứng sai lầm của giáo sư Trịnh Sinh trong việc phủ nhận giá trị văn hóa sử truyền thống Việt trải gần 5000 năm, đã được ghi nhận qua chính sử của nhiều triều đại chính thống trong lịch sử Việt Nam.

Giáo sư Trịnh Sinh viết:

Về mặt phục trang, nếu như sử gia Tư Mã Thiên (sinh năm 145 trước Công nguyên) có miêu tả trong "Sử ký" của mình đoạn về cách ăn mặc của người Việt cổ là: Âu Lạc là nước trần truồng mà cũng xưng vương với đầy hàm ý miệt thị, thì trước thời Âu Lạc, khảo cổ đã cho thấy cư dân Hùng Vương đã biết dệt vải (dấu vết vải gai tìm được trong mộ), tìm được dọi xe sợi.

Họ cũng đã tạo ra được bộ váy đẹp cho người phụ nữ (tượng phụ nữ trên cán dao găm) hoặc đàn ông thì đóng khố. Về mặt ở, họ cũng đã tạo ra được những ngôi nhà sàn rộng rãi, mái cong mà hình tượng còn lưu lại trên mặt trống đồng. Họ cũng tạo ra được những chiếc thuyền đi sông, đi biển có cả lầu trên thuyền.

Trong đoạn này, chúng ta thấy rất rõ rằng: Ông Trịnh Sinh đã căn cứ vào một hiện tượng duy nhất được ghi trong sử Hán là cuốn Sử Ký Tư Mã Thiên có tính miệt thị dân tộc Việt là: "Âu Lạc là nước trần truồng mà cũng xưng vương" để cho rằng việc phát hiện ra

"cư dân Hùng Vương đã biết dệt vải (dấu vết vải gai tìm được trong mộ), tìm được dọi xe sợi.

Họ cũng đã tạo ra được bộ váy đẹp cho người phụ nữ (tượng phụ nữ trên cán dao găm) hoặc đàn ông thì đóng khố"

như là một công lao đối với Việt Sử, Nhưng thực chất lại là một việc hạ cấp truyền thống văn hiến sử Việt một thời huy hoàng ở miền nam sông Dương tử của thời đại Hùng Vương, cội nguồn Việt sử.

Sử Tàu, không phải sử Việt. Không có cơ sở khoa học nào cho việc minh chứng lịch sử dân tộc này bằng sử của một dân tộc khác. Lich sử của những quốc gia có mối quan hệ lịch sử gần gũi với nhau chỉ có thể là tư liệu tham khảo. Vấn đề ghi trong sử Ký có thể được giải thích bằng một cách khác. Nếu như ông Trinh Sinh và cái "hầu hết" tìm kiếm cội nguồn dân tộc Việt qua những di vật khảo cổ và coi đó là bằng chứng duy nhất minh chứng cho lịch sử thì rõ ràng là điều phản khoa học. Lịch sử không phải chỉ có ở di vật khảo cổ.

Ông Trịnh Sinh viết:

Điều giỏi giang nhất của người thời Hùng Vương chính lại nằm ở chỗ họ đã rất thành thạo trong việc đúc đồng. Các nhà khoa học đã rất ngạc nhiên khi biết người xưa chỉ bằng kinh nghiệm, đã biết cách pha chế đến 12 loại hợp kim để đúc, trong đó quan trọng nhất là hợp kim đồng-thiếc-chì. Họ đã đúc được những chiếc trống đồng Ngọc Lũ, Cổ Loa khá hoàn thiện, mà cho đến hiện nay, với các hiệp thợ thủ công làng nghề cũng vẫn chưa đúc thành công được những trống đồng theo đúng như xưa.

Như vậy, đối với ông và cái "hầu hết" khi ca ngợi dân tộc Việt chỉ là đúc ra những cái trống đồng mà họ tìm thấy. Trong khi đó, vào thế kỷ thứ 7 BC, thì hầu hết những nền văn minh cổ đại trên thế giới đã tìm ra đồ sắt từ lâu. Những bằng chứng về di vật đồ sắt được tìm thấy ngay cạnh quốc gia Văn Lang - dù theo quan điểm lịch sử nào - có niên đại vào thế kỷ XVI BC, đã xác minh điều này. Bởi vậy, chúng ta có thể xác định rằng: Bài viết của ông Trịnh Sinh đã dùng những từ ngữ hoa mị để chuyền tải nội dung phủ nhận và hạ cấp truyền thống văn hóa sử Việt.

Còn tiếp

Share this post


Link to post
Share on other sites

Chúng ta tiếp tục phân tích những gì ông giáo sư Trinh Sinh viết trong những đoạn tiếp theo.

Giao sư Trịnh Sinh viết:

Đời sống tinh thần của người thời Hùng Vương cũng hết sức phong phú, có ngày hội mà các chiến binh cầm vũ khí nhảy múa quanh cây cột thiêng và đâm trâu, bò. Các nam thanh, nữ tú lại được trang sức đẹp với các vòng ngọc, hạt cườm thuỷ tinh, các vòng ống đeo đầy cổ tay, cánh tay và cổ chân. Những chiếc vòng này lại được gắn nhiều chiếc chuông nhỏ.

Posted Image

Tượng phụ nữ trên cán dao găm đồng Làng Vạc

Một lần nữa người viết loại bỏ những mỹ từ như: "Đời sống tinh thần...cũng hết sức phong phú";"Các nam thanh, nữ tú lại được trang sức đẹp" thì chúng ta lại thấy thật đau buồn cho một thời đại Hùng Vương theo quan niệm của giáo sư Trịnh Sinh và cái "hầu hết" - mà vua Hùng đối với họ chỉ là "một thủ lĩnh" của một "liên minh 15 bộ lạc" với những người dân "Ở trần đóng khố". Trong khi đó, sự thực khách quan của lịch sử đã xác định rằng: Chính như y phục Việt là khuôn mẫu của người Hán. Mà chính Không Tử - trong Thiên Hiến Vấn - sách Luận Ngữ phải than rằng: "Nếu không có Quản Trọng thì người Hán chúng ta mắc áo cài vạt bến trái như người Man rồi" (Xin xem thêm "Y phục Thời Hùng Vương" - ngay trong mục Cổ Văn Hóa sử").

Ông Trinh Sinh viết:

Tài liệu khảo cổ học cũng cho thấy một sự tương hợp khá lý thú với truyền thuyết và thư tịch thời Hùng Vương. Đó là tương truyền Vua Hùng đóng đô ở quanh chùa Hoa Long (TP.Việt Trì), nơi hợp lưu giữa dòng sông Hồng và sông Lô, thì nay ở một nơi chỉ cách khoảng 1km đã phát hiện ra khu mộ Làng Cả có đến hàng trăm ngôi mộ, có những mộ hết sức phong phú về đồ tuỳ táng. Điều đó cho phép các nhà khảo cổ liên tưởng đến dấu tích của kinh đô Văn Lang có liên quan chặt chẽ đến khu mộ lớn nhất vùng này.

Một lần nữa chúng ta lại thấy một sự suy luận khiên cưỡng với một mối liên hệ hoàn toàn không có cơ sở khoa học giữa truyền thuyết và thư tịch đời Hùng với những khu mộ ở Làng Cả. Truyền thuyết đời Hùng không hề ghi nhận nước Văn Lang của các vua Hùng Vương ở Việt Trì Phú Thọ. Mà là:

Nước Văn Lang : Bắc giáp Động Đình hồ, Nam giáp Hổ Tôn, Tấy giáp Ba thục, Đông giáp Đông Hải.

Còn tiếp

Share this post


Link to post
Share on other sites

Giáo sư Trịnh Sinh viết:

Có một điều mà chưa thư tịch và truyền thuyết nào nói đến là sự giao lưu của cư dân thời Hùng Vương khá rộng. Các bằng chứng khảo cổ - chủ yếu là các trống đồng Đông Sơn - đã cho thấy mối quan hệ "mở" của họ với cư dân Trung Quốc của vùng hồ Điền ở Vân Nam, với cư dân Quảng Đông, Quảng Tây, thậm chí cả với nhóm cư dân ở tận phía bắc của tỉnh Chiết Giang, vùng ven biển hạ lưu của sông Trường Giang.

Bằng con đường ven biển, cư dân Hùng Vương còn để lại dấu tích trống đồng khắp một vùng ven biển Malaysia, Thái Lan và nhất là vùng quần đảo Indonesia. Những đảo xa nhất về phía đông của quần đảo này cũng có trống đồng mà người Việt xưa đúc nên.

Với những phát hiện khảo cổ học ngày một nhiều trong những năm gần đây, chúng ta lại càng thấy rõ nét hơn toàn cảnh một thời Hùng Vương, bổ khuyết những gì mà thư tịch và truyền thuyết chưa nói đến hay đính chính những gì chưa chính xác mà qua lăng kính huyền ảo của truyền thuyết đã bị khúc xạ.

Một sự thật khách quan không thể phủ nhận là di sản văn hóa triều đại Hùng Vương - Lãnh đạo nhà nước Văn Lang của Việt tộc phổ biến khắp vùng Nam Dương Tử và nhiều nước ở Đông Nam Á. Điều này đã xác định một nền văn hóa nhất quán của cư dân vùng này, Bởi vậy một luận điểm hợp lý là sự phổ biến văn hóa đó phải do một tổ chức nhà nước thống nhất liên quan đến sự thống nhất văn hóa đó. Thấy phi lý vả không có cơ sở khoa học nào khi cho rằng : Những sản phẩm của liên minh bộ lạc lại được các quốc gia đang vào thời thịnh trị của đồ sắt phải du nhập.

Chính nhưng di sản khảo cổ này và những giá trị văn hóa phi vật thể liên quan đã xác định: Nước Văn Lang - cội nguồn lịch sử dân tộc Việt - bao trùm nam Dương tử. Điều này, chính các nhà nghiên cứu sử Trung Quốc đã thừa nhận một nền văn minh phát triển đã tồn tại ở đây và biến mất một cách bí ẩn vào thế kỷ thứ III BC, mà họ gọi là nước Ba.

Còn tiếp

Share this post


Link to post
Share on other sites

Bây giờ, chúng ta xem nốt đoạn kết của bài viết của giáo sư Trịnh Sinh - Ông viết:

Khi sang làm việc trong một trường đại học bên Mỹ, một giáo sư chuyên nghiên cứu về VN, có hỏi tôi về cội nguồn sức mạnh của người Việt từ đâu và từ khi nào? Tôi đã trả lời ngay, từ thời Hùng Vương đã có một sự quần tụ nhiều tộc người trở thành dân tộc Việt.

Kính thưa quí vị.

Tôi nghĩ rằng vị giáo sư Mỹ sẽ tái mặt khi biết rằng - với giáo sư Trinh Sinh và cái "hầu hết" quan niệm rằng: Thời Hùng Vương chỉ là một liên minh bộ lạc với những người dân "ở trần đóng khố", khi mà nước Mỹ ngày nay đã chinh phục những quốc gia hùng mạnh hơn nhiều của người da đỏ. Nếu một thủ lĩnh liên minh bộ lạc như giáo sư Trịnh Sinh quan niệm - chỉ tồn tại hơm 300 năm, vỏn vẹn ở vùng đồng bằng Bắc Bộ - một dân tộc bị đô hộ hàng Ngàn năm sau đó - mà có thể quật cường như vậy, thì chắc nước Mỹ không thể yên với nền văn minh Maya tuyệt với và tồn tại rất lâu trên chính mảnh đất này.

Tôi cũng đang ở Hoa Kỳ. Nếu các học giả Hoa Kỳ hỏi tôi câu này thì tôi sẽ nói rằng: Cội nguồn sức mạnh của dân tộc Việt chính là một nền văn hiến vượt trội, đã tạo nên niềm tự hào dân tộc của người Việt. Bởi vậy tuy bị chìm trong hàng ngàn năm bị đô hộ, tình thần tự hào dân tộc ấy đã hun đúc ý chí quật cường làm nên nhưng trang sử hào hùng của người Việt. Chính người Việt đang nắm giữ trong nền văn hiến trải gần 5000 năm lịch sử của họ một tri thức vũ trụ quan kỳ vĩ - Một lý thuyết thống nhất vũ trụ mà các nhà khoa học hàng đầu đang mơ ước. Thiên Sứ sẵn sàng chứng minh điều này ngay bây giờ trước viện Hàn Lâm khoa học Hoa Kỳ. Tôi còn sáu tháng thời hạn ở đây, nếu vì việc minh chứng sự vĩ đại của nền văn hiến Việt thì chỉ cần 1 tuần.

ông Trịnh Sinh viết:

Bản sắc văn hoá và bản lĩnh Việt cũng đã định hình từ đấy, để rồi trước phong ba bão táp của nghìn năm Bắc thuộc, vẫn không bị đồng hoá, để tiếp tục được hun đúc cao hơn trong thời kỳ độc lập tự chủ, là điều mà không phải tộc người nào cùng hoàn cảnh cũng đạt được.

Bản sắc văn hóa và lòng tự hào của dân tộc Việt từ thời Hùng Vương. triều đại lãnh đạo nước Văn Lang một thời huyền vĩ ở bờ nam sông Dương Tử, cội nguồn dân tộc Việt trải gần 5000 năm văn hiến.

Kính thưa quí vị quan tâm.

Cần phải khẳng định rằng: Quan điểm phủ nhận những giá trị văn hóa sử Việt trải gần 5000 năm của "hầu hết những nhà khoa học trong nước" như họ quảng cáo - tất nhiên chỉ trong lĩnh vực lịch sử - hoàn toàn vô giá trị và không hề có cơ sở khoa học. Nó không có một sự hợp lý tối thiểu theo tiêu chí khoa học cho một lý thuyết khoa học. Nhưng điều này lại do những người có bằng cấp giáo sư coi như là một chân lý, khiến Thiên Sứ tôi phải hoài nghi mà đặt vấn đề cho rằng: Họ dốt nát thật sự hay đây là một âm mưu chính trị với sự tác động của ngoại bang một cách có hệ thống?

Một lần nữa Thiên Sứ tôi khẳng định rằng:

Thiên Sứ tôi chỉ tham gia nghiên cứu cổ sử Việt với luận điểm minh chứng Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến trên cơ sở khoa học và xác định không hề có mục đích chính trị cho các quan điểm khác nhau về lịch sử cổ Việt.

Cảm ơn sự quan tâm của quí vị.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Cổ sử Việt, theo chính sử và truyền thống văn hóa sử Việt ghi nhận:

Người Việt lập quốc từ thời Hùng Vương với quốc hiệu Văn Lang. Biên giới Văn Lang Bắc giáp Động Đình hồ, Nam giáp Hồ Tôn, Tây giáp Ba Thục, Đông giáp Đông Hải. Nhưng trong những thập niên cuối thế kỷ trước, một số người nghiên cứu đã đưa ra luận điểm phủ nhận những gía trị văn hóa sử truyền thống Việt. Họ cho rằng: Thời Hùng Vương chỉ là một nhà nước sơ khai ; là liên minh 15 bộ lạc với lãnh thổ không vượt khỏi đồng bằng bắc bộ.....vv...và ....vv.....Họ rêu rao rằng quan điểm của họ là "khoa học", được "hầu hết những nhà khoa học trong nước" và "cộng đồng khoa học quốc tế ủng hộ".Nhưng bản chất khoa học là khách quan và số đông không phải là tiêu chí xác minh tính chân lý khoa học.

Tuy nhiên Thiên Sứ tôi nhận thấy rằng:Cái vấn đề gọi là "khoa học" này thực chất chỉ có thông tin một chiều. Thí dụ như bài viết của ông Trịnh Sinh trên báo Lao Động.

Năm ngoái, tờ Thanh Niên đưa vấn đề của giáo sư Lê Mạnh Thát, khiến dư luận ồn ào một thời gian ngắn. Hội Sử học hùng hồn tuyên bố sẽ làm một cuộc hội thảo hoàng tráng và minh chứng giáo sư Lê Mạnh Thát sai. Chúng ta thấy rằng cái số đông ồn ào và quyền lực trong học thuật tưởng nắm chắc phần thắng ấy, cuối cùng cũng im re và không hề có một cuộc hội thảo nào xuất hiện, để minh chứng một cách "pha học" cho cái "hầu hết" và "cộng đồng" đó.

Có thật sự khoa học hay không khi chỉ có đăng tải một chiều quảng cáo cho cái luận điểm phủ nhận gía trị văn hóa sử truyền thống Việt? Còn tất cả các luận điểm phản biện và bảo vệ gía trị văn hóa sử truyền thống Việt trải gần 5000 năm văn hiến thì không? Không một phương tiên truyền

thông nào đăng tải những ý kiến phản biện một cách trọn vẹn và có hệ thống. Thí dụ như của giáo sư Lê Mạnh Thát.

Bởi vậy, không thể coi luận điểm phủ nhận gía trị văn hóa sử Việt là một luận điểm khoa học và nó hoàn toàn vô giá trị khi nó mang tính áp đặt phi khoa học.

Tính áp đặt phi khoa học và thông tin một chiều đã đủ chứng tỏ rằng: Luận điểm phủ nhận truyền thống văn hóa sử Việt hoàn toàn không hề có cơ sở khoa học và vô giá trị. Cho dù được biện minh dưới bất cứ lý do nào.

Bởi vậy, luận điểm phủ nhận văn hóa sử truyền thống Việt đã tự chứng minh tính phi khoa học của nó bằng thủ đoạn và sự áp đặt thì tự nó đã minh chứng tính vô giá trị và phi khoa học của nó.

Trên thế gian này chẳng hề có thứ tư duy khoa học nào lại giẻ rách như vậy.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Kính gửi Bác Thiên Sứ,

Cháu chỉ là một người dân Việt Nam bình thường, tình cờ đọc được bài viết này của bác, cháu thật sự sửng sốt.

Là một người Việt Nam và được gọi là Giáo Sư, ông Trịnh Sinh lại có một bài viết đăng trên trang tin của một tờ báo được đông đảo người dân lựa chọn mang tính xuyên tạc và hạ thấp giá trị của nền Văn Minh Lạc Việt. Cháu nghĩ đây thực sự là một âm mưu chính trị có hệ thống và tất cả những người liên quan từ ông Trịnh Sinh cho đến những người giúp ông Trịnh Sinh đăng bài viết lên trang tin cần phải bị pháp luật trừng trị.

Cháu cũng thật sự lo lắng vì tất cả những người dân Việt Nam không phải ai cũng may mắn được đọc những phân tích, dẫn chứng của bác về nền Văn Minh Lạc Việt. Nếu không có những người như bác thì thế hệ chúng cháu và thế hệ tương lai của chúng cháu sẽ đánh mất đi niềm tự hào của chính dân tộc mình.

Nếu bác cho phép, cháu xin được copy những bài viết của bác về nền Văn Minh Lạc Việt vào Blog của cháu để giới thiệu với bạn bè.

Trân trọng cảm ơn bác.

Red Hat

Share this post


Link to post
Share on other sites

Nếu có viết về thời Hùng Vương thì nên viết: "Thời Hùng Vương - từ lịch sử đến tâm thức". Tức là lịch sử thời Hùng là không thể phủ nhận và cần phải thay đổi tâm thức cho mấy giáo sư kiểu ông Trịnh Sinh như trên.

Share this post


Link to post
Share on other sites

ĐỒ SẮT TRONG VĂN HÓA SA HUỲNH

Kính thưa quí vị quan tâm.

Quan điểm phủ nhận văn hóa sử truyền thống Việt được thông tin là một quan điểm khoa học và được "công đồng khoa học thế giới" và "hầu hết những nhà khoa học trong nước" ủng hộ, đã ngày càng chứng tỏ sự ấu trĩ đến kinh ngạc, bởi tính phi lý trong lập luận và cả ngay trong phương pháp nghiên cứu của họ - mà thường được họ nhấn mạnh là căn cứ vào di sản khảo cổ. Bài viết của giáo sư Trinh Sinh trên đây cho thấy rõ quan điểm này: Thời Hùng Vương chỉ bắt đầu vào thế kỷ thứ VII BC và là một thời đại đồ đồng - kèm với những mỹ từ không có nội dung.

Nhưng bài viết dưới đây, tổng hợp những nghiên cứu nhiều năm của các nhà nghiên cứu trong nước và quốc tế lại cho chúng ta một cái nhìn khác hẳn. Xin mời quí vị xem trước bài viết này và lưu ý những dòng mà Thiên Sứ tôi in đậm.

Tìm về dấu chân người tiền sử ở Sa Huỳnh

KIM EM-MINH THU

www.tuoitre.com.vn

Ngày 24-7, hội thảo khoa học quốc tế 100 năm phát hiện và nghiên cứu văn hóa Sa Huỳnh (1909-2009) do UBND tỉnh Quảng Ngãi phối hợp với Bộ VH-TT&DL tổ chức đã diễn ra tại Quảng Ngãi với sự tham dự của đại sứ đặc mệnh toàn quyền Pháp Herve’ Bolot cùng gần 100 nhà khoa học, nhà nghiên cứu trong và ngoài nước.

Cách đây vừa tròn 100 năm (1909), nhà khảo cổ học người Pháp M.Vinet đã phát hiện ở vùng cồn cát cạnh đầm An Khê thuộc xã Phổ Thạnh, huyện Đức Phổ - vùng ven biển Sa Huỳnh (Quảng Ngãi), một khu mộ chum với rất nhiều hiện vật giá trị. Đó là lần đầu tiên phát hiện một nền văn hóa cổ có niên đại cách nay 2.500 - 3.000 năm mà sau này gọi là văn hóa Sa Huỳnh.

Một trong ba trung tâm văn hóa hết sức quan trọng trong thời đại kim khí

“Từ khu mộ chum Sa Huỳnh, các nhà khảo cổ Pháp đã liên tục tìm thấy các dấu vết của một nền văn hóa thời tiền sử qua các đợt khai quật tìm thấy khoảng 500 mộ chum có chứa nhiều loại đồ tùy táng phân bố từ dọc các tỉnh duyên hải miền Trung, Đông Nam bộ và Tây nguyên. Trong đó Quảng Ngãi được xem như là cái nôi của văn hóa Sa Huỳnh với 26 di tích được khai quật trong số hơn 80 địa điểm được phát hiện và nghiên cứu”.

Theo PGS, TS Lương Hồng Quang, những nghiên cứu của các nhà khoa học suốt một thế kỷ qua về văn hóa Sa Huỳnh cho thấy đây là một trong ba trung tâm văn hóa hết sức quan trọng trong thời đại kim khí thuộc thời đại sắt. Với các di chỉ ở Quảng Ngãi là trung tâm, các nghiên cứu của các nhà khoa học đã xác nhận ảnh hưởng của nền văn hóa Sa Huỳnh là hết sức rộng lớn, phạm vi của nền văn hóa này về phía Bắc có thể tới địa bàn tỉnh Hà Tĩnh với địa điểm Bãi Cọi vừa được khai quật, về phía Nam là các tỉnh miền Đông Nam bộ: Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Dương...

Phó viện trưởng Viện Khảo cổ học Nguyễn Giang Hải nhận định: “Quảng Ngãi không chỉ là nơi đầu tiên phát hiện được các di tích Sa Huỳnh mà đây còn là vùng đất có các di tích được chứng minh là cội nguồn phát triển lên văn hóa Sa Huỳnh tại khu vực duyên hải miền Trung. Văn hóa Sa Huỳnh được ghi nhận là một trong ba trung tâm văn hóa quan trọng nhất trong thời đại kim khí Việt Nam”.

Theo nhiều nhà khảo cổ, căn cứ vào hiện vật văn hóa Sa Huỳnh từng được phát hiện, khai quật tại Quảng Ngãi như: mộ chum làm bằng đất nung có kèm đồ trang sức quí gồm các chuỗi hạt đá quí, khuyên tai ba chấu… tùy táng theo mộ chum, một số dụng cụ làm bằng đồng, sắt có niên đại khoảng 2.500 năm chứng tỏ cư dân Sa Huỳnh từ ngàn xưa đã có trình độ kỹ thuật cao, có giao lưu quan hệ rộng với thế giới bên ngoài.

TS sử học Đoàn Ngọc Khôi - Bảo tàng Quảng Ngãi, cho biết ngoài các địa điểm đã được khai quật trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, huyện đảo Lý Sơn cũng là một di chỉ khảo cổ quan trọng của văn hóa Sa Huỳnh.

Năm 1997, các nhà khảo cổ học đã khai quật trên diện tích khoảng 10.000m2, sau đó phát hiện tại đây mộ nồi làm bằng đất nung, dụng cụ sinh hoạt: cuốc đá, rìu đá, đồ trang sức tuỳ táng theo mộ nồi… đặc trưng văn hóa Sa Huỳnh được chế tác từ đá có niên đại 2000 - 2.500 năm. Năm 2000, các nhà khảo cổ học tiếp tục khai quật di tích Suối Chình bên dưới chân núi Thới Lới, xã An Hải, huyện Lý Sơn thì cũng phát hiện mộ nồi, một số dụng cụ sinh hoạt bằng gốm, đồ trang sức làm từ ốc biển… Sở dĩ gọi là xóm Ốc vì khai quật lên địa điểm này phát hiện nhiều vỏ ốc dưới đất do cư dân Sa Huỳnh để lại.

Đề xuất xây dựng Bảo tàng Sa Huỳnh

Là một trong ba nền văn hóa cổ của Việt Nam, văn hóa Sa Huỳnh đã in đậm dấu ấn trong đời sống cư dân cổ qua những hiện vật quý hiếm khai quật được từ các khu mộ chum nằm rải ráctrong bờ và các đảo gần bờ .

Các ý kiến tham luận tại hội thảo đã đưa ra nhiều phát hiện và nhận định mới về văn hóa Sa Huỳnh. Theo giáo sư Yamagata Mariko, khoa khảo cổ ĐH Waseda (Nhật ), hội thảo này là cơ hội để xem xét lại đồ gốm Sa Huỳnh vì đồ gốm Sa Huỳnh đóng một vai trò quan trọng trong những nghiên cứu đồ gốm thời tiền sử và trong một số nghiên cứu rải rác về đạo lý và ngôn ngữ ở Đông Nam Á.

Trong khi đó TS Judith Cameron, ĐH Quốc gia Úc, lại cho rằng: Những khai quật khảo cổ gần đây tại các di tích Sa Huỳnh ở miền Trung VN đã giúp nâng cao đáng kể tri thức của chúng ta về nền văn hóa Sa Huỳnh. Số lượng dồi dào các đồ tạo tác đẹp lạ kỳ trong các bình lọ địa táng tại các địa điểm này chứng thực rõ ràng sự giàu có của các nhóm người thời kỳ lịch sử nguyên thủy.

Với ba nhóm đề tài được đưa ra trình bày tại hội thảo, có khá nhiều ý kiến trái ngược nhau. Xung quanh vấn đề nguồn gốc của nền văn minh Sa Huỳnh và ảnh hưởng của nó đối với các quốc gia cổ trong lưu vực sông Mekong và hải đảo Đông Nam Á có những quan điểm khác nhau.

TS Nguyễn Thị Ninh, Viện Khảo cổ học VN, nhận xét : Các học giả phương Tây khi nghiên cứu các di tồn vật chất thu được từ các di tích mộ chum của văn hóa Sa Huỳnh đều đánh giá cao trình độ văn minh của cư dân nền văn hóa này. Họ cho rằng có một nền văn minh rực rỡ như vậy phải do một lớp cư dân có trình độ văn minh cao hơn đem từ bên ngoài tới.

Trong khi đó theo TS Nguyễn Thị Ninh, quan điểm của các nhà nghiên cứu VN dựa trên những bằng chứng khảo cổ được phát hiện từ gần 100 di tích văn hóa tiền Sa Huỳnh và văn hóa Sa Huỳnh đã từng bước chứng minh cho nguồn gốc bản địa của nền văn minh này. Và trên cơ sở bóc tách những yếu tố hội nhập nội sinh và sự tiếp thu có chọn lọc những yếu tố văn hóa ngoại sinh, đã tạo nên bản sắc văn hóa đặc sắc của nền văn minh Sa Huỳnh.

Để bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá Sa Huỳnh trên dải đất miền Trung , GS Petter Bellwood -Trường ĐH Quốc gia Pháp - khuyến cáo: Cần bảo vệ nghiêm ngặt các di tích văn hóa Sa Huỳnh, không để xảy ra sự đào bới sai nguyên tắc. Nếu tiến hành khai quật các di tích cần phải thông qua kênh nhà nước để vừa bảo tồn được hiện vật, vừa phát huy được giá trị nền văn hóa Sa Huỳnh.

Hiện tại, Sở VH-TT &DL Quảng Ngãi đang lập đề án khả thi trình Bộ VH-TT&DL xét duyệt xây dựng Bảo tàng Sa Huỳnh ngay trên vùng đất Sa Huỳnh, huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi - nơi 100 năm trước lần đầu tiên phát hiện khu mộ chum đặc trưng văn hoá Sa Huỳnh. Theo tiến sĩ sử học Đoàn Ngọc Khôi, bảo tàng Sa Huỳnh này sẽ là mắt xích quan trọng để kết nối, bảo tồn hiện vật văn hóa Sa Huỳnh, hình thành con đường di sản văn hóa Sa Huỳnh trên dải đất miền Trung.

KIM EM-MINH THU

Kính thưa quí vị quan tâm.

Như vậy, quí vị cũng thấy rất rõ rằng:

Niện đại văn hóa Sa Huỳnh, tương đương với cái mà các nhà nghiên cứu thuộc nhóm "hầu hết" và "cộng đồng" cho rằng thuộc thời đại Hùng Vương ở đồng bằng Bắc Bộ. Trong khi đó thì với cái nhìn phủ nhận gia trị văn hóa sử truyền thống Việt thì thời Hùng Vương chỉ là một thời đại đồ đồng.

Trong khí đó, ngoài di vật khảo cổ ở Sa Huỳnh xác định một nền văn minh thời đại sắt thì - Xin phép mượn lời giáo sư Trinh Sinh - "Tài liệu khảo cổ học cũng cho thấy một sự tương hợp khá lý thú với truyền thuyết và thư tịch thời Hùng Vương": Đó là: Nhưng di vật khảo cổ ở Đông Bắc Thái Lan , người ta cũng đã tìm được những công cụ sắt với niên đại được xác định vào khoảng 1500 năm BC (Sách: "Tia sáng mới rọi vào quá khứ bị lãng quên") , thật là "một sự tương hợp khá lý thú với truyền thuyết và thư tịch thời Hùng Vương". Vâng! Thưa quí vị. Đó chính là truyền thuyết Phù Đổng Thiên Vương khi Ngài dùng ngựa sắt, roi sắt, giáp sắt, mũ sắt đánh giặc Ân - Niên đại đúng bằng niên đại được xác định vào thời gian của di sản tìm thấy ở Đông Bắc Thái Lan. Tức là sát hoặc nằm trong biên giới Văn Lang cổ mà truyền thuyết nói tới: Bắc Giáp Động Đình Hồ, Nam giáp Hồ Tôn và Đông giáp Đông Hải.

Ngay trong các truyền thuyết Tàu cũng xác định: Từ thế kỷ V BC, kỹ thuật luyên kim của Việt Câu Tiễn rất phát triển với hai thanh kiểm Ỷ Thiên và Can Tương (Tôi không nhớ chính xác tên) - Đồ sắt của Việt Câu Tiễn có sau di vật tìm thấy ở Đông Bắc Thái Lan hơn 1000 năm. Chúng ta cũng biết rằng: Người Ai Cập cũng cũng chứng tỏ đồ sắt được sử dụng từ thế kỷ thứ XIII BC.

Và bây giờ là phát hiện đồ sắt ở Sa Huỳnh - được xác định là từ một nền văn minh cao cấp truyền vào với niện đại khoảng thế kỷ X đến V BC.

Điều này đã xác định luận điểm khẳng định trên cơ sở tiêu chí khoa học rằng:

Người Việt đã tìm ra đồ sắt sớm nhất thế giới và quốc gia đầu tiên cội nguồn lịch sử của dân tộc Việt, chính là Văn Lang có biên giới Bắc giáp Động Đình hồ, Tây giáp Ba Thục, Đông giáp Đông Hải, Nam giáp Hồ Tôn (Được xác định tương đương với địa sử của văn hóa Sa Huỳnh đã tìm thấy). Miền Bắc Việt Nam trước thể kỷ X BC chỉ là vùng đất hoang vu, đến thể kỷ VII BC, đây là nơi được lựa chọn làm điểm rút lui cuối cùng của giống nòi Lạc Việt, từ nam Dương Tử. Điều này sẽ giải thích nền văn minh cao cấp ảnh hướng tới văn hóa Sa Huỳnh.

Cảm ơn sự quan tâm của quí vị.

Share this post


Link to post
Share on other sites

ĐỒ SẮT TRONG VĂN HÓA SA HUỲNH

Kính thưa quí vị quan tâm.

Quan điểm phủ nhận văn hóa sử truyền thống Việt được thông tin là một quan điểm khoa học và được "công đồng khoa học thế giới" và "hầu hết những nhà khoa học trong nước" ủng hộ, đã ngày càng chứng tỏ sự ấu trĩ đến kinh ngạc, bởi tính phi lý trong lập luận và cả ngay trong phương pháp nghiên cứu của họ - mà thường được họ nhấn mạnh là căn cứ vào di sản khảo cổ. Bài viết của giáo sư Trinh Sinh trên đây cho thấy rõ quan điểm này: Thời Hùng Vương chỉ bắt đầu vào thế kỷ thứ VII BC và là một thời đại đồ đồng - kèm với những mỹ từ không có nội dung.

Nhưng bài viết dưới đây, tổng hợp những nghiên cứu nhiều năm của các nhà nghiên cứu trong nước và quốc tế lại cho chúng ta một cái nhìn khác hẳn. Xin mời quí vị xem trước bài viết này và lưu ý những dòng mà Thiên Sứ tôi in đậm.

Kính thưa quí vị quan tâm.

Như vậy, quí vị cũng thấy rất rõ rằng:

Niện đại văn hóa Sa Huỳnh, tương đương với cái mà các nhà nghiên cứu thuộc nhóm "hầu hết" và "cộng đồng" cho rằng thuộc thời đại Hùng Vương ở đồng bằng Bắc Bộ. Trong khi đó thì với cái nhìn phủ nhận gia trị văn hóa sử truyền thống Việt thì thời Hùng Vương chỉ là một thời đại đồ đồng.

Trong khí đó, ngoài di vật khảo cổ ở Sa Huỳnh xác định một nền văn minh thời đại sắt thì - Xin phép mượn lời giáo sư Trinh Sinh - "Tài liệu khảo cổ học cũng cho thấy một sự tương hợp khá lý thú với truyền thuyết và thư tịch thời Hùng Vương": Đó là: Nhưng di vật khảo cổ ở Đông Bắc Thái Lan , người ta cũng đã tìm được những công cụ sắt với niên đại được xác định vào khoảng 1500 năm BC (Sách: "Tia sáng mới rọi vào quá khứ bị lãng quên") , thật là "một sự tương hợp khá lý thú với truyền thuyết và thư tịch thời Hùng Vương". Vâng! Thưa quí vị. Đó chính là truyền thuyết Phù Đổng Thiên Vương khi Ngài dùng ngựa sắt, roi sắt, giáp sắt, mũ sắt đánh giặc Ân - Niên đại đúng bằng niên đại được xác định vào thời gian của di sản tìm thấy ở Đông Bắc Thái Lan. Tức là sát hoặc nằm trong biên giới Văn Lang cổ mà truyền thuyết nói tới: Bắc Giáp Động Đình Hồ, Nam giáp Hồ Tôn và Đông giáp Đông Hải.

Ngay trong các truyền thuyết Tàu cũng xác định: Từ thế kỷ V BC, kỹ thuật luyên kim của Việt Câu Tiễn rất phát triển với hai thanh kiểm Ỷ Thiên và Can Tương (Tôi không nhớ chính xác tên) - Đồ sắt của Việt Câu Tiễn có sau di vật tìm thấy ở Đông Bắc Thái Lan hơn 1000 năm. Chúng ta cũng biết rằng: Người Ai Cập cũng cũng chứng tỏ đồ sắt được sử dụng từ thế kỷ thứ XIII BC.

Và bây giờ là phát hiện đồ sắt ở Sa Huỳnh - được xác định là từ một nền văn minh cao cấp truyền vào với niện đại khoảng thế kỷ X đến V BC.

Điều này đã xác định luận điểm khẳng định trên cơ sở tiêu chí khoa học rằng:

Người Việt đã tìm ra đồ sắt sớm nhất thế giới và quốc gia đầu tiên cội nguồn lịch sử của dân tộc Việt, chính là Văn Lang có biên giới Bắc giáp Động Đình hồ, Tây giáp Ba Thục, Đông giáp Đông Hải, Nam giáp Hồ Tôn (Được xác định tương đương với địa sử của văn hóa Sa Huỳnh đã tìm thấy). Miền Bắc Việt Nam trước thể kỷ X BC chỉ là vùng đất hoang vu, đến thể kỷ VII BC, đây là nơi được lựa chọn làm điểm rút lui cuối cùng của giống nòi Lạc Việt, từ nam Dương Tử. Điều này sẽ giải thích nền văn minh cao cấp ảnh hướng tới văn hóa Sa Huỳnh.

Cảm ơn sự quan tâm của quí vị.

Thưa chú. Tại sao chú và các nhà sử học khác không tổ chức một cuộc hội thảo chằng hạn ngồi cùng nhau để phản biện quan điểm của nhau ạ? Đó là cách khoa học nhất để tìm ra kết luận chung. Như thế họ cũng được mở rộng tầm mắt.

(Về quan điểm cá nhân cháu thấy nước Văn Lang có từ thế kỷ 7 trước công nguyên là vô lý. Trong một khoảng thời gian như vậy khó mà đạt được trình độ văn minh cao như những cư dân Lạc Việt)

Share this post


Link to post
Share on other sites

Thưa chú. Tại sao chú và các nhà sử học khác không tổ chức một cuộc hội thảo chằng hạn ngồi cùng nhau để phản biện quan điểm của nhau ạ? Đó là cách khoa học nhất để tìm ra kết luận chung. Như thế họ cũng được mở rộng tầm mắt.

(Về quan điểm cá nhân cháu thấy nước Văn Lang có từ thế kỷ 7 trước công nguyên là vô lý. Trong một khoảng thời gian như vậy khó mà đạt được trình độ văn minh cao như những cư dân Lạc Việt)

Việc tổ chức một hội thảo công khai và sòng phẳng là do những cơ quan có thẩm quyền chứ không phải chú.

Tuy nhiên, chú rất mong có một cuộc hội thảo bảo đảm tính khách quan, trung thực và thẳng thắn như vậy. Cuộc hội thảo cần có cả những học giả quốc tế về một số lĩnh vực liên quan càng tốt.

Hình thức hội thảo:

Phản biện luận điểm của nhau, chưng minh luận điểm mình đúng.

Nội dung tranh luận:

Tất cả những vấn đề liên quan đến cổ sử của dân tộc Việt - Thời Hùng Vương - từ thư tịch, khảo cổ, di sản văn hóa vật thể và phi vật thể. Trong đó có lý học Đông phương - nhưng không phải là chủ yếu.

Tiêu chí xác định:

Theo tiêu chí khoa học được quốc tế công nhận cho một lý thuyết hoặc một luận điểm, phương pháp khoa học. Tiêu chí này viết lớn thành băng rôn treo trước và sau lưng hội trường - để quay mặt về phía nào cũng nhìn thấy.

Thành phần tham gia

- Phía chú: Một người và những ai có cùng quan điểm có đăng ký và được sự nhất trí của cả chú và ban tổ chức.

- Phía bên kia: Bất cứ ai muốn đăng ký tham gia và có bài tham luận. Nhưng phải từ phó giáo sư trở lên. Tiến sĩ được đăng ký phát biểu ý kiến thắc mắc. Nếu có hạn chế số người thì do vấn đề thời gian. Ban tổ chức quyết định.

Danh sách đang ký tham luận phải được công khai và thông báo cho cả hai bên. Ai không có trong danh sách phát biểu vô tổ chức, tống cổ ra ngoài.

Kính phí:

Tất cả cả những người Việt Nam quan tâm đến cội nguồn dân tộc với các tổ chức trong nước và quốc tế đóng góp. Kinh phí này chú không lấy một xu cho cá nhân. Kinh phí công khai, minh bạch rõ ràng. Phần dư thừa của kinh phí sẽ do bên chứng minh được chân lý toàn quyền sử dụng.

Thành phần tham dự:

Gồm các nhà nghiên cứu, cơ quan ban ngành liên quan trong nước và quốc tế với các tổ chức xã hội như: Mặt trận tổ quốc....vv..tham dự. Cần có yếu tố quốc tế trong hội thảo này. Đặc biệt vị giáo sư người Mỹ Taylo nào đó mà ông Trần Quốc Vương và vài vị thuộc "hầu hết" nhắc đến. Tiền vé máy bay khứ hồi cho ông này và tặng thêm 1000 dol, do chú đài thọ nếu nhận lời mời. Chính phủ Pháp có thể cứ những giáo sư đã phủ nhận cổ sử Việt và được tặng huân chương như - Lê Thành Khôi đến tham dự.

Thông tin:

Yêu cầu truyền hình trực tiếp. Lập kỷ yếu các bản tham luận, tóm tắt hoặc ghi nguyên văn nội dung chính phát biểu.

Thời gian chuẩn bị:

Bốn tháng kể từ khi công bố quyết định của cấp có thẩm quyền trong đó có xác định địa điểm, thời gian và thành phần tham dự.

Nếu có yếu tố phát sinh thì sẽ cùng bàn bạc và công khai.

Đây là ý tưởng nghiêm túc và chú chịu trách nhiệm khi công bố công khai điều này trên diễn đàn.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Kính Thầy,

VinhL xin trích lại bài đăng về khu “Da But” trên site archaeology.about.com:

Da But (Vietnam)

By K. Kris Hirst, About.com

Definition: The archaeological site called Da But is an early Neolithic cemetery and shell midden in coastal region of Thanh Hoa province of Vietnam, recently radiocarbon dated to 5085 BC. Da But was excavated in the 1930s by Étienne Patte. The subsistence method of the people living at Da But appears to be a mixed hunting, gathering, and fishing. There is some evidence for animal husbandry and paddy rice cultivation, but scholars are divided about whether Da But represents a true 'Neolithic' lifestyle. Eventually, Da But evolved into the clearly Neolithic Quynh Van culture.

Nguồn: http://archaeology.about.com/od/dterms/g/dabut.htm

Tạm dịch như sau:

Vùng khảo cổ được gọi tên Da But là một nghỉa trang thời đồ đá mới (Neolithic - Tân Thạch Khí) và võ nghêu tại khu vực ven biễn Thanh Hóa của Việt Nam, gần đây đã được định tuổi bằng radiocarbon vào khoảng 5085 BC.

Da But được khai quật trong những năm 1930 bỡi ông Étienne Patte. Phương pháp sinh sống của những người sống trong khu vực này là săn bắn, góp nhặt, và đánh cá. Có một số bằng chứng cho việc chăn nuôi thú vật, và trồng lúa, nhưng các nhà nghiên cứu không đồng nhất là Da But có được xem là đại diện cho cách sinh sống đúng theo thời đại Tân Thạch Khí không. Da But, dần dần chuyển hóa sang văn hóa đồ đá Quynh Van.

5085 BC mà đã biết chăn nuôi, trồng lúa rồi thì đến năm 2789 BC cách nhau khoảng 2296 năm không lẻ không phát triễn, tiến lên hơn mà lại thụt lùi đến nổi vẫn còn “ở trần đóng khố” nửa sau????

Đúng là mấy ông Tiến Sỉ lẩm cẩm. Nếu là Tiến Sỉ Khảo Cổ thì lo nghiên cứu về khảo cổ học đi, lại nhảy vô Sử Học nói bậy nói bạ. Nếu mấy ông muốn dùng Khảo Cổ để chứng minh Lịch Sử, thì trước tiên phải có bằng Tiến Sỉ Sử đã, học thuộc tất cả các bộ sử của Việt Nam trước, sau đó lên tiếng này nọ thì VinhL đây mới phục đấy.

Google trên mạng không thấy một ông khảo cổ học người ngoại quốc nào dám tuyên bố bạy bạ về Sử Việt Nam dựa theo các kết quả khảo cổ. Chỉ có mấy ông Tiến Sỉ Khảo Cổ Việt Nam muốn kiêm luôn chức vị Tiến Sỉ Sử (chưa lấy bằng) mà mạnh dạng tuyên bố lung tung, thật là NỰC CƯỜI!!!!!!

Share this post


Link to post
Share on other sites

Việc tổ chức một hội thảo công khai và sòng phẳng là do những cơ quan có thẩm quyền chứ không phải chú.

Tuy nhiên, chú rất mong có một cuộc hội thảo bảo đảm tính khách quan, trung thực và thẳng thắn như vậy. Cuộc hội thảo cần có cả những học giả quốc tế về một số lĩnh vực liên quan càng tốt.

Hình thức hội thảo:

Phản biện luận điểm của nhau, chưng minh luận điểm mình đúng.

Nội dung tranh luận:

Tất cả những vấn đề liên quan đến cổ sử của dân tộc Việt - Thời Hùng Vương - từ thư tịch, khảo cổ, di sản văn hóa vật thể và phi vật thể. Trong đó có lý học Đông phương - nhưng không phải là chủ yếu.

Tiêu chí xác định:

Theo tiêu chí khoa học được quốc tế công nhận cho một lý thuyết hoặc một luận điểm, phương pháp khoa học. Tiêu chí này viết lớn thành băng rôn treo trước và sau lưng hội trường - để quay mặt về phía nào cũng nhìn thấy.

Thành phần tham gia

- Phía chú: Một người và những ai có cùng quan điểm có đăng ký và được sự nhất trí của cả chú và ban tổ chức.

- Phía bên kia: Bất cứ ai muốn đăng ký tham gia và có bài tham luận. Nhưng phải từ phó giáo sư trở lên. Tiến sĩ được đăng ký phát biểu ý kiến thắc mắc. Nếu có hạn chế số người thì do vấn đề thời gian. Ban tổ chức quyết định.

Danh sách đang ký tham luận phải được công khai và thông báo cho cả hai bên. Ai không có trong danh sách phát biểu vô tổ chức, tống cổ ra ngoài.

Kính phí:

Tất cả cả những người Việt Nam quan tâm đến cội nguồn dân tộc với các tổ chức trong nước và quốc tế đóng góp. Kinh phí này chú không lấy một xu cho cá nhân. Kinh phí công khai, minh bạch rõ ràng. Phần dư thừa của kinh phí sẽ do bên chứng minh được chân lý toàn quyền sử dụng.

Thành phần tham dự:

Gồm các nhà nghiên cứu, cơ quan ban ngành liên quan trong nước và quốc tế với các tổ chức xã hội như: Mặt trận tổ quốc....vv..tham dự. Cần có yếu tố quốc tế trong hội thảo này. Đặc biệt vị giáo sư người Mỹ Taylo nào đó mà ông Trần Quốc Vương và vài vị thuộc "hầu hết" nhắc đến. Tiền vé máy bay khứ hồi cho ông này và tặng thêm 1000 dol, do chú đài thọ nếu nhận lời mời. Chính phủ Pháp có thể cứ những giáo sư đã phủ nhận cổ sử Việt và được tặng huân chương như - Lê Thành Khôi đến tham dự.

Thông tin:

Yêu cầu truyền hình trực tiếp. Lập kỷ yếu các bản tham luận, tóm tắt hoặc ghi nguyên văn nội dung chính phát biểu.

Thời gian chuẩn bị:

Bốn tháng kể từ khi công bố quyết định của cấp có thẩm quyền trong đó có xác định địa điểm, thời gian và thành phần tham dự.

Nếu có yếu tố phát sinh thì sẽ cùng bàn bạc và công khai.

Đây là ý tưởng nghiêm túc và chú chịu trách nhiệm khi công bố công khai điều này trên diễn đàn.

Cháu cũng rất mong có một hội thảo như vậy xảy ra. Nếu nó diễn ra ở Sài gòn thì cháu xin đăng ký được làm chân "điếu đóm" phục vụ hội thảo. (Tất nhiên là cháu thuộc phía chú rồi). Nếu các cơ quan văn hóa mà tài trợ cho một sự kiện như vậy thì hay biết mấy.

Cháu cũng xin phép chú là cháu mail lại nội dung này tới một vài cơ quan quản lý Nhà nước liên quan có được không ạ? Có thể nếu thiện chí thì họ sẽ tài trợ chẳng hạn.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Cháu cũng rất mong có một hội thảo như vậy xảy ra. Nếu nó diễn ra ở Sài gòn thì cháu xin đăng ký được làm chân "điếu đóm" phục vụ hội thảo. (Tất nhiên là cháu thuộc phía chú rồi). Nếu các cơ quan văn hóa mà tài trợ cho một sự kiện như vậy thì hay biết mấy.

Cháu cũng xin phép chú là cháu mail lại nội dung này tới một vài cơ quan quản lý Nhà nước liên quan có được không ạ? Có thể nếu thiện chí thì họ sẽ tài trợ chẳng hạn.

Oh, Rất tốt. Nhưng có hai v/d cần đặt ra:

1 - Nguyên nhân nào để có nội dung này.

2 - Chú sửa lại vài từ cho lịch sự một chút. Thí dụ những câu mang văn phong làng Vũ Đại, như: "Tống cổ ra ngoài...". Sửa xong chú sẽ công bố tại đây và Van Lang tự nhiên gửi đi,.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Kính Thầy,

VinhL xin trích lại bài đăng về khu “Da But” trên site archaeology.about.com:

Da But (Vietnam)

By K. Kris Hirst, About.com

Definition: The archaeological site called Da But is an early Neolithic cemetery and shell midden in coastal region of Thanh Hoa province of Vietnam, recently radiocarbon dated to 5085 BC. Da But was excavated in the 1930s by Étienne Patte. The subsistence method of the people living at Da But appears to be a mixed hunting, gathering, and fishing. There is some evidence for animal husbandry and paddy rice cultivation, but scholars are divided about whether Da But represents a true 'Neolithic' lifestyle. Eventually, Da But evolved into the clearly Neolithic Quynh Van culture.

Nguồn: http://archaeology.about.com/od/dterms/g/dabut.htm

Tạm dịch như sau:

Vùng khảo cổ được gọi tên Da But là một nghỉa trang thời đồ đá mới (Neolithic - Tân Thạch Khí) và võ nghêu tại khu vực ven biễn Thanh Hóa của Việt Nam, gần đây đã được định tuổi bằng radiocarbon vào khoảng 5085 BC.

Da But được khai quật trong những năm 1930 bỡi ông Étienne Patte. Phương pháp sinh sống của những người sống trong khu vực này là săn bắn, góp nhặt, và đánh cá. Có một số bằng chứng cho việc chăn nuôi thú vật, và trồng lúa, nhưng các nhà nghiên cứu không đồng nhất là Da But có được xem là đại diện cho cách sinh sống đúng theo thời đại Tân Thạch Khí không. Da But, dần dần chuyển hóa sang văn hóa đồ đá Quynh Van.

5085 BC mà đã biết chăn nuôi, trồng lúa rồi thì đến năm 2789 BC cách nhau khoảng 2296 năm không lẻ không phát triễn, tiến lên hơn mà lại thụt lùi đến nổi vẫn còn “ở trần đóng khố” nửa sau????

Đúng là mấy ông Tiến Sỉ lẩm cẩm. Nếu là Tiến Sỉ Khảo Cổ thì lo nghiên cứu về khảo cổ học đi, lại nhảy vô Sử Học nói bậy nói bạ. Nếu mấy ông muốn dùng Khảo Cổ để chứng minh Lịch Sử, thì trước tiên phải có bằng Tiến Sỉ Sử đã, học thuộc tất cả các bộ sử của Việt Nam trước, sau đó lên tiếng này nọ thì VinhL đây mới phục đấy.

Google trên mạng không thấy một ông khảo cổ học người ngoại quốc nào dám tuyên bố bạy bạ về Sử Việt Nam dựa theo các kết quả khảo cổ. Chỉ có mấy ông Tiến Sỉ Khảo Cổ Việt Nam muốn kiêm luôn chức vị Tiến Sỉ Sử (chưa lấy bằng) mà mạnh dạng tuyên bố lung tung, thật là NỰC CƯỜI!!!!!!

VinhL thân mến.

Bài của VinhL lọt vào trên bài cuối nên hôm nay tôi mới xem được.

Đúng là mấy ông Tiến Sỉ lẩm cẩm. Nếu là Tiến Sỉ Khảo Cổ thì lo nghiên cứu về khảo cổ học đi, lại nhảy vô Sử Học nói bậy nói bạ. Nếu mấy ông muốn dùng Khảo Cổ để chứng minh Lịch Sử, thì trước tiên phải có bằng Tiến Sỉ Sử đã, học thuộc tất cả các bộ sử của Việt Nam trước, sau đó lên tiếng này nọ thì VinhL đây mới phục đấy.

Google trên mạng không thấy một ông khảo cổ học người ngoại quốc nào dám tuyên bố bạy bạ về Sử Việt Nam dựa theo các kết quả khảo cổ. Chỉ có mấy ông Tiến Sỉ Khảo Cổ Việt Nam muốn kiêm luôn chức vị Tiến Sỉ Sử (chưa lấy bằng) mà mạnh dạng tuyên bố lung tung, thật là NỰC CƯỜI!!!!!!

Đúng thật là buồn cười. Nhưng họ cho rằng "Khảo cổ chính là bằng chứng khoa học" cho những suy luận theo bất cứ kiểu gì của họ. Tôi đã hỏi ông Trịnh Sinh: "Khảo cổ có phải là điều kiện duy nhất chứng minh cho lịch sử không?" . và câu này tôi cũng hay nhắc lại trên các diễn đàn. Tất nhiên trừ cụ Chí Phèo, tôi tin chắc rằng: Chẳng ma nào dám xác định: Khảo cổ là bằng chứng duy nhất chứng minh cho lịch sử cả, nếu không muốn mất cần câu cơm.

Tôi hay nói đùa rằng: Nếu họ can đảm xác nhận điều này thì tôi dám chắc ông cố nội nhà họ từ lúc đẻ ra đến lúc chết, không mặc quần áo. Không tin về đào mả ông cố nội lên xem. Không có bằng chứng khảo cổ. Híc! Cùn chút nữa - chỉ cụ Chí Phèo làm được - Thừa nhận ông cố nội đúng là ở truồng đến chết để gọi là....bảo vệ luận điểm.

Những phương pháp lập luận "Pha học" của họ, khiến tôi có tưởng tưởng tức cười:

Anh có thể chứng minh "hầu hết" những người đang đi ngoài đường, đồ họ dùng toàn là đồ ăn cắp, hoặc đi xin. Nếu họ vặn lại: "Tại sao nói vậy?" thì yêu cầu họ đưa hóa đơn làm chứng là hàng này họ mua. Thật vô lý đến không thể tưởng tượng nổi. Khiến Thiên Sứ tôi phải đặt v/d: Đăng sau những lập luật vô lý đến không tưởng tượng nổi này là cái gì?

Share this post


Link to post
Share on other sites

Bài viết dưới đây có quan điểm ủng hộ ông Trịnh Sinh, như vậy theo tác giả (và cả ông Trịnh Sinh), thì rốt cuộc vua Hùng cũng chỉ là một "dị nhân" nào đó kiểu "thầy mo" hay "thầy phù thủy", hì ... (hic ..). Có điều là tác giả đã tính sai con số 4000 năm rồi, từ "Niên đại mở đầu của văn hóa Đông Sơn là năm 700 trước công nguyên" tới nay làm gì được 4000 năm. ;)

Thủ lĩnh Hùng Vương - đúc trống đồng thu phục thiên hạ

Từ khi văn hóa Đông Sơn được phát hiện một cách ngẫu nhiên, bên bờ sông Mã năm 1924, đến nay cũng đã tám thập kỷ trôi qua. Trước cách mạng tháng tám năm 1945, nhiều nhà nghiên cứu người Pháp và Tây Phương đều kinh ngạc trước sự hiện diện của văn hóa đồng Đông Sơn.

Tuy nhiên họ cũng như các nhà nghiên cứu của Việt Nam thời đấy đều cho rằng chủ nhân của nền văn hóa phát triển rực rỡ ấy có nguồn gốc ngoại lai, nào là từ người Scythes, người Tokhara…ở mãi tận miền Hắc Hải xa xôi…tuy nhiên thời ấy tư liệu do khảo cổ học cung cấp chưa nhiều.

Từ đó đến nay, nghành khảo cổ nước ta đã có những thành tựu to lớn. Chúng ta có cả một khối hiện vật phong phú, đa dạng của nền văn hóa Đông Sơn: Trống đồng, thạp đồng, lưỡi cày đồng, lưỡi giáo đồng, mũi tên đồng…nghĩa là cả một thế giới văn minh đồ đồng.

Nhưng câu hỏi: Ai là chủ nhân của văn hóa Đông Sơn ? Vẫn được đặt ra.

Niên đại mở đầu của văn hóa Đông Sơn là năm 700 trước công nguyên - thời điểm bộ Văn Lang của thủ lĩnh Hùng Vương đang phát triển rất mạnh mẽ, và kết thúc ở năm 100 sau CN.

Lần theo chính sử, sách Việt lược sử có nói đến việc vào thời Chu Trang vương (TK thứ VII TCN- Trung Quốc), ở phía Nam có một dị nhân dùng ảo thuật thu phục được các bộ lạc khác, lên làm vua, xưng là Hùng Vương, đặt tên nước là Văn Lang. Như vậy là thủ lĩnh Hùng Vương của bộ Văn Lang đã có một bước tiến dài, thu phục các bộ lạc ở lưu vực sông Hồng, sông Mã, sông Lam, hợp nhất lại thành một nước, trở thành chủ nhân của một vùng đất rộng lớn: phía Bắc tới biên giới Việt Trung ngày nay, phía nam tới sông Gianh (Quảng Bình).

Vậy “ảo thuật” mà Hùng Vương sử dụng để thu phục các bộ lạc khác là gì ? Nhà nghiên cứu Trịnh Sinh cho rằng ảo thuật nghĩa là Hùng Vương tìm ra được cách pha chế chì vào đồng thau, chế tạo được trống đồng, đẩy văn minh đồng lên đỉnh cao. Ý kiến này tỏ ra có sức hấp dẫn. Hùng Vương là thủ lĩnh thế tục, kiêm thầy phù thủy, kiểu thầy mo. Ông ta có lãnh thổ rộng lớn, giàu có, có trống đồng và có sự linh thiêng của một thày phù thủy nên các bộ lạc khác ở xa như Việt Bắc, sông Lam, Quảng Bình đều thần phục.

Như vậy sự xuất hiện của một “dị nhân”, nhà nước sơ kỳ Văn Lang đã ra đời, và tương ứng với sự bắt đầu của văn hóa Đông Sơn. Điều này càng khẳng định niềm tự hào chính đáng của dân tộc ta. Nó chứng tỏ Hùng Vương với niên đại cách ta 4000 năm là hoàn toàn có thật, không phải chuyện bịa cho vui.

Nhưng quãng đường từ khi chỉ là một thủ lĩnh của một bộ tộc Thái Trắng đến trở thành Vua của một nước Văn lang, vua của người Việt cổ - Lạc Việt, trị vì một lãnh thổ rộng lớn của các vua Hùng kéo dài những 2000 năm. Đây là cả một thời kỳ lịch sử, dù rằng 18 đời vua Hùng là điều không chính xác. 2000 năm với biết bao biến động của lịch sử, chúng ta sẽ khảo cứu tiếp ở bài sau.

Phan Hòa – Biên soạn theo nghiên cứu của PGS.TS Đặng Việt Bích

(Nguồn : phongthuyankhang.com)

Share this post


Link to post
Share on other sites

Như vậy, bài viết của ông Phan Hòa theo Phó giáo sư Đăng Việt Bích, và tham khảo thên phó giáo sư Trịnh Sinh. Tàn là giáo sư không. Kinh quá!

Nội đặt vấn đề: Trống đồng là của ai rồi tự giải thích nó của người Việt nên nó vĩ đại. Hi.

Chẳng cần phải đến tầm cỡ giáo sư trở lên, chỉ cần "dể" chính ngay mấy cuốn gọi là - Cổ thư chữ Hán - từ hàng ngàn năm trước thì chính nó cũng xác nhận trống đồng là của người Việt. Và việc trống đồng là của người Việt là điều hiển nhiên chẳng cần phải là đề tài để thi lấy bằng giáo sư.

Xin lỗi. Nếu bây giờ chẳng may Thiên Sứ tôi đúng - được "cộng đồng pha học thế giới công nhận" - Lạy Chúa. Xin đừng phong cho tôi hàm giáo sư. Vâng! Thành thật mà nói: Tôi sợ thiên hạ hiểu lầm tôi đã có nhiều đề tài khoa học chứng minh theo kiểu: Chùa Một cột là của người Việt Nam xây, Tháp Rùa có niên đại từ đầu thế kỷ XX...vv....Hãy cứ gọi tôi là "Thầy". Vâng ít nhất tôi cũng đang là "thày bói". Tôi cảm thấy yên tâm với tính chinh danh của nó.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Văn Lang thân mến.

Văn Lang có đặt vấn đề cần tổ chức một cuộc hội thảo để làm rõ vấn đề và Văn Lang có khả năng chuyển một nội dung phương án hội thảo cho các cơ quan chức năng. Tôi có hứa sẽ viết một văn bản nghiêm túc về phương án hội thảo để Văn Lang gửi đi và tôi sẽ làm việc nghiêm túc về việc này với cơ quan chức năng nào đó quan tâm. Tôi nghĩ rằng họ sẽ quan tâm vì đây là vấn đề cội nguồn dân tộc xét theo cái nhìn khoa học - nếu nó thật sự khoa học và cần thiết để làm sáng tỏ cội nguồn dân tộc khi có những ý kiến trái chiều về v/d này. Đây là một phương án hội thảo công khai chứng tỏ tính trách nhiệm của tôi với những luận điểm mà tôi đã chứng minh: Việt Sử trải gần 5000 năm văn hiến một thời huy hoàng ở miến nam sông Dương Tử. Tất nhiên tôi không phải là nhà chuyên môn về các văn bản Pháp Lý nên có thể văn bản này còn thiếu sót cần bổ sung. Mọi việc đề nghị đều công khai trên diễn đàn này và lúc đó tôi sẽ mở một to píc chuyên đề.

Nếu không được quan tâm thì đây là cố gắng cuối cùng của tôi. Còn nếu được quan tâm thì tôi sẽ làm trọn trách nhiệm của mình.

PHƯƠNG ÁN TỔ CHỨC HỘI THẢO

TÌM VỀ CỘI NGUỒN VIỆT SỬ

Mục đích:

Tìm về cội nguồn Việt sử là thời Hùng Vương.

Chủ trì:

Cơ quan chức năng và có thẩm quyền.

Hình thức hội thảo:

1 - Trình bày những nghiên cứu của Nguyễn Vũ Tuấn Anh minh chứng cội nguồn Việt Sử từ thời Hùng Vương đến này trải 5000 năm văn hiến, một thời huy hoàng ở miền nam sống Dương tử.

- người trình bày duy nhất về luận điểm này là Nguyễn Vũ Tuấn Anh.

2 - Trình bày của các nhà khoa học trong nước minh chứng quan điểm cho rằng cội nguồn Việt sử thời Hùng Vương không thể tồn tại gần 5000 năm như chính sử viết và truyền thống văn hóa sử dân tộc Việt ghi nhận.

- Người trình bày gồm các nhà khoa học tiêu biểu trong và ngoài nước đại diện cho luận điểm minh chứng cội nguồn Việt sử thời Hùng Vương không thể tồn tại gần 5000 năm như chính sử viết và truyền thống văn hóa sử dân tộc Việt ghi nhận. Sô lượng của các vị tham gia theo quan điểm này hạn chế đến đâu do ban tổ chức quyết định.

3 - Trên cơ sở bài tham luận của hai quan điểm khác nhau đã trình bày sẽ tiếp tục phản biện, minh chứng bảo vệ quan điểm trên cơ sở khách quan khoa học.

- Tiêu chí xác định:

Căn cứ theo tiêu chí khoa học được cộng đồng khoa học thế giới nhất trí công nhận:

* Một giả thuyết hay một phương pháp khoa học được coi là đúng, nếu giải thích một cách hợp lý hầu hết những hiện tượng và vấn đề liên quan đến nó một cách nhất quán, hoàn chỉnh, có tính quy luật, tính khách quan và khả năng tiên tri.

* Một giả thiết hay một phương pháp luận khoa học bị coi là sai khi một mắt xích trong chuỗi luận cứ của nó bị chứng minh là sai mà không thể biện minh được.

Nội dung:

Trình bày tất cả những vấn đề liên quan đến cội nguồn cổ sử của dân tộc Việt - Thời Hùng Vương - từ thư tịch, khảo cổ, di sản văn hóa vật thể và phi vật thể. ....Trong đó có lý học Đông phương - nhưng không phải là chủ yếu - bảo vệ và minh chứng luận điểm

Thành phần tham dự:

Các bộ, ban ngành Trung ương của Đảng và chính phủ tại Hà nội và địa phương liên quan hay quan tâm. Các nhà nghiên cứu hàng đầu liên quan trong các lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn, lịch sử, văn hóa, tôn giáo, thiên văn, vật lý lý thuyết và các nhà nghiên cứu Lý học Đông phương. Nếu có điều kiện mời các tùy viên văn hóa và khoa học từ đại sứ các nước quan tâm và cơ quan văn hóa Liên Hiệp Quốc với các nhà khoa học nước ngoài quan tâm và được coi là tán thành luận điểm của hai phía.

Đề nghị mỗi bên được mời một số khách tiêu biểu và có trợ lý của mỗi bên.

Thời gian hội thảo:

Thời gian đề nghị:

Tạo điều kiện về thời gian để tất cả các tham luận của các nhà khoa học có quan điểm không thừa nhận Việt sử 5000 năm văn hiến đều được tranh biện với từng người. Và từng người có ý kiến tranh biện với Nguyễn Vũ Tuấn Anh.

Thời gian cụ thể:

Do ban tổ chức quyết định

Địa điểm hội thảo:

Tại Thủ Đô Hà Nội.

Kinh phí:

Nguồn kinh phí:

Do các cơ quan ban ngành tài trợ và vận động quyên góp.

Dự trù kinh phí: It nhất hai tỷ đồng.

Các bên tham gia không tham gia đóng góp cũng như hưởng lợi từ kinh phí này với bất cứ hình thức nào. Ngoài trừ tự nguyện đóng góp.

Thông tin:

- Phát sóng truyền hình những nội dung chủ yếu với thời lượng cần thiết, hoặc trực tiếp truyền hình sau hoặc trong khi hội thảo.

- Thông tin báo chí về kết quả hội thảo sau hội thảo.

- Quảng cáo băng rôn khẩu hiệu tại khu vục được tổ chức hội thảo.

- Giới thiệu Hội thảo trên truyền hình và báo chí trước hội thảo.

- Thơ mời.

-

Tập hợp các bài tham luận, bài viết thể hiện quan điểm và luận điểm phản biện, minh chứng trong kỷ yếu, phát hành rộng rãi.

Thời gian chuẩn bị:

Bốn đến năm tháng từ khi có quyết định, hoặc giấy phép tổ chức.

An ninh:

Đề nghị bảo vệ an ninh cho hội thảo từ cơ quan an ninh.

Người lập phương án hội thảo.

Nguyễn Vũ Tuấn Anh

A75/ 6f/ 14 Đường Bạch Đằng . P2 Quận Tân Bình T/p HCM.

***

Share this post


Link to post
Share on other sites

Thưa chú TS và các cô chú anh chị quan tâm,

Không biết VanLang liên hệ dưới hình thức nào. Chứ theo Crescent để các cơ quan chức năng biết đến những thông tin này của chú TS thì rất dễ, chỉ cần gởi một email đến các cơ quan mạng, vì hiện nay cơ quan nào cũng có trang web, đặc biệt các cơ quan lớn. Điều quan trọng là ở sự chuẩn bị của chú TS thôi. Chú đã sẵn sàng thì vấn đề còn lại là khâu tổ chức:

1. Nội dung thư phải thống nhất và phải do chú TS viết (ngoài nội dung Hội Thảo) (thời gian chú TS soạn xong thư?).

2. Hội ý và quyết định hình thức trình bày của thư (thư tay lẫn email, giấy viết thư nên có hình vẽ, logo, hay màu sắc như thế nào?..)

3. Nhóm phụ trách chuẩn bị các phong thư gởi tay và thiết kế thư để gởi email (ai?bao lâu thì xong)

4. Cần gởi đi những đâu? (Ai phụ trách tìm hiểu và liệt kê, phân loại danh sach? Khi nào phải hoan thành công việc?)

5. Cơ quan nào cần gởi thư tay, cơ quan mạng nào thì chỉ cần email?. (Ai có nguồn thông tin để hỗ trợ quyết định cho chính xác? Thời hạn có câu trả lời để bộ phận 4 và 6 tiến hành)

6. Nhóm phụ trách gởi thư đi (nhóm gởi email và nhóm gởi thư tay-nên đến tận nơi)

Tất cả các phân đoạn công việc đều có ngày hoàn thành rõ ràng

Theo Crescent nên lên kế hoạch cụ thể, rõ ràng, rồi gởi đi đồng loạt.

Việc gởi email trực tiếp sẽ phù hợp với thời đại (internet) hiện nay, và vẫn mang tính nghiêm túc (vì có tên tuổi, địa chỉ đàng hoàng) mà vấn đề thời gian được triệt để hơn, gởi đi được nhiều nơi hơn.

Nhưng như đã nói ở trên, để tăng tính thuyết phục, trung tâm nên có khâu tổ chức thật chu đáo để có ấn tượng tốt về tính bài bản, khoa học và rất có tổ chức của trung tâm. Đó cũng là một trong những yếu tố thuyết phục bước đầu.

Vài lời xây dựng và nội dung chắc chưa hoàn chỉnh. Trung tâm chắc chắn sẽ biết làm thế nào để hoàn thiện công việc này tốt nhất. Nhân lực của trung tâm thì không hề thiếu trên toàn đất nước mừ ;) .

Xin chúc mọi sự tốt đẹp.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Oh, Rất tốt. Nhưng có hai v/d cần đặt ra:

1 - Nguyên nhân nào để có nội dung này.

2 - Chú sửa lại vài từ cho lịch sự một chút. Thí dụ những câu mang văn phong làng Vũ Đại, như: "Tống cổ ra ngoài...". Sửa xong chú sẽ công bố tại đây và Van Lang tự nhiên gửi đi,.

Dạ vâng.

Cháu chỉ lấy tư cách là một người luôn quan tâm tới lịch sử văn hóa dân tộc. Tình cờ gặp một chú - một người rất am hiểu và có cách nhìn mới lạ và rất khoa học nhưng cũng rất chính xác liên quan tới thời đại Hùng Vương và trước đó. Đồng thời cháu cũng nói với họ là hiện tại ngay trong giới học giả người Việt cũng có sự chưa thống nhất về niên đại của thời kỳ này nên cháu muốn đề nghị tổ chức một hội thảo về chuyện này. Nếu cơ quan có trách nhiệm đồng ý thì cháu sẽ liên hệ với tác giả (chú Thiên Sứ) và bên kia do các cơ quan Nhà nước liên hệ.

Cháu cho rằng đây chỉ là một ý tưởng cho đến khi phía cơ quan có thẩm quyền họ có trách nhiệm giúp đỡ. Trong trường hợp họ mải đi uống bia thì sự việc sẽ chưa được tổ chức đâu.

Xin trình bày với chú như thế. Chú có gì chỉ giáo thì cứ đưa ra ạ.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Dạ vâng.

Cháu chỉ lấy tư cách là một người luôn quan tâm tới lịch sử văn hóa dân tộc. Tình cờ gặp một chú - một người rất am hiểu và có cách nhìn mới lạ và rất khoa học nhưng cũng rất chính xác liên quan tới thời đại Hùng Vương và trước đó. Đồng thời cháu cũng nói với họ là hiện tại ngay trong giới học giả người Việt cũng có sự chưa thống nhất về niên đại của thời kỳ này nên cháu muốn đề nghị tổ chức một hội thảo về chuyện này. Nếu cơ quan có trách nhiệm đồng ý thì cháu sẽ liên hệ với tác giả (chú Thiên Sứ) và bên kia do các cơ quan Nhà nước liên hệ.

Cháu cho rằng đây chỉ là một ý tưởng cho đến khi phía cơ quan có thẩm quyền họ có trách nhiệm giúp đỡ. Trong trường hợp họ mải đi uống bia thì sự việc sẽ chưa được tổ chức đâu.

Xin trình bày với chú như thế. Chú có gì chỉ giáo thì cứ đưa ra ạ.

"Người quân tử thì không trái lý".

Cái lý của chú là Việt sử 5000 năm vắn hiến. Nay Văn Lang đề nghị chú nên làm một phương án hội thảo về việc này. Chú đã làm vì sự khẳng định quan điểm của mình. Việc gửi đi là của Văn Lang. Được hay không là của cơ quan có thẩm quyền.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Thưa chú TS và các cô chú anh chị quan tâm,

Không biết VanLang liên hệ dưới hình thức nào. Chứ theo Crescent để các cơ quan chức năng biết đến những thông tin này của chú TS thì rất dễ, chỉ cần gởi một email đến các cơ quan mạng, vì hiện nay cơ quan nào cũng có trang web, đặc biệt các cơ quan lớn. Điều quan trọng là ở sự chuẩn bị của chú TS thôi. Chú đã sẵn sàng thì vấn đề còn lại là khâu tổ chức:

1. Nội dung thư phải thống nhất và phải do chú TS viết (ngoài nội dung Hội Thảo) (thời gian chú TS soạn xong thư?).

2. Hội ý và quyết định hình thức trình bày của thư (thư tay lẫn email, giấy viết thư nên có hình vẽ, logo, hay màu sắc như thế nào?..)

3. Nhóm phụ trách chuẩn bị các phong thư gởi tay và thiết kế thư để gởi email (ai?bao lâu thì xong)

4. Cần gởi đi những đâu? (Ai phụ trách tìm hiểu và liệt kê, phân loại danh sach? Khi nào phải hoan thành công việc?)

5. Cơ quan nào cần gởi thư tay, cơ quan mạng nào thì chỉ cần email?. (Ai có nguồn thông tin để hỗ trợ quyết định cho chính xác? Thời hạn có câu trả lời để bộ phận 4 và 6 tiến hành)

6. Nhóm phụ trách gởi thư đi (nhóm gởi email và nhóm gởi thư tay-nên đến tận nơi)

Tất cả các phân đoạn công việc đều có ngày hoàn thành rõ ràng

Theo Crescent nên lên kế hoạch cụ thể, rõ ràng, rồi gởi đi đồng loạt.

Việc gởi email trực tiếp sẽ phù hợp với thời đại (internet) hiện nay, và vẫn mang tính nghiêm túc (vì có tên tuổi, địa chỉ đàng hoàng) mà vấn đề thời gian được triệt để hơn, gởi đi được nhiều nơi hơn.

Nhưng như đã nói ở trên, để tăng tính thuyết phục, trung tâm nên có khâu tổ chức thật chu đáo để có ấn tượng tốt về tính bài bản, khoa học và rất có tổ chức của trung tâm. Đó cũng là một trong những yếu tố thuyết phục bước đầu.

Vài lời xây dựng và nội dung chắc chưa hoàn chỉnh. Trung tâm chắc chắn sẽ biết làm thế nào để hoàn thiện công việc này tốt nhất. Nhân lực của trung tâm thì không hề thiếu trên toàn đất nước mừ ;) .

Xin chúc mọi sự tốt đẹp.

Crescent à,

Van Lang do điều kiện công việc và địa lý nên không gửi thư tay được mà chỉ gửi bằng email thôi. Mình để tên tuổi, địa chỉ rõ ràng và chịu trách nhiệm trước những thông tin gửi đi. Nội dung thì viết tay thế nào thì email như vậy. Hi vọng là sẽ nhận được phản hồi.

Share this post


Link to post
Share on other sites