Hà Uyên

PHƯƠNG PHÁP BẤM HUYỆT TÁC ĐỘNG CỘT SỐNG

30 bài viết trong chủ đề này

Khám chi trên và chi dưới

Mục tiêu :

1. Xác định được các mốc giải phẫu của chi trên và chi dưới.

2. Khám và đo được tầm vận động bình thường của chi. Phát hiện các dấu hiệu bệnh lý của hệ xương khớp (gãy xương, các di chứng chấn thương…)

3. Thực hiện các nghiệm pháp thường dùng.

Nguyên tắc : Khám chi trong phòng khám chuyên khoa có đầy đủ phương tiện để khám.

Khám theo trình tự: nhìn, sờ, đo chi và đo biên độ vận động của khớp.

So sánh 2 bên.

Dụng cụ cần thiết để thăm khám :

Phòng khám bệnh: rộng rãi, sạch sẽ, thoáng mát. Bệnh nhân làm các động tác, đi lại thoải mái để thầy thuốc quan sát được dễ dàng.

Một giường khám có bề mặt phẳng ( không có thành giường 4 bên). Một ghế đẩu ( ghế không có tựa )

Dụng cụ để khám: 1 thước đo bằng vải, 1 thước đo góc, 1 búa phản xạ, bút vẽ trên da, kim và tăm bông để khám cảm giác. Ngoài ra còn cần thêm các miếng ván gỗ có chiều dày từ 0,5 – 3 cm để đo nhanh chiều dài chi dưới so với bên lành.

A. CÁCH KHÁM CHI

Nhìn: là một bước quan trọng đầu tiên, rất có giá trị để gợi ý chẩn đoán bệnh. Một số bệnh lý xương – khớp chỉ cần nhìn cũng có thể chẩn đoán.

Nhìn tư thế chung của BN khi đến khám: đi thẳng gối như người đi duyệt binh là dấu hiệu bệnh dính khớp gối, đi kiểu “ vạt tép” là khả năng liệt thần kinh hông khoeo ngoài…

Quan sát da bệnh nhân: có vết thương? Có u nổi lên không? Có đổi màu so với bên lành không (Reckling haugen)? Lệch trục chi?… Ví dụ: vùng mặt trước cẳng – bàn tay có vết thương à bệnh nhân dễ có tổn thương gân gấp, lỗ dò ở các đầu xương gặp ở trẻ em à dễ do viêm xương.

Sờ:

chọn mốc và đánh dấu:

Các mốc xương thường là các mỏm, lồi củ nhô lên dưới da hoặc khe khớp sờ thấy được. Không bao giờ chọn mốc là phần mềm vì nó sẽ không chính xác khi BN thay đổi tư thế. Sau khi xác định được mốc, cần dùng bút đánh dấu.

  • Ở chi trên: mỏm cùng, củ lớn xương cánh tay, mỏm trên lồi cầu ngoài, mơở trên lồi cầu trong, mỏm khuỷu, chỏm xương quay, mỏm trâm quay, mỏm trâm trụ…
  • Ở chi dưới: gai chậu trước trên, mấu chuyển lớn, lồi cầu ngoài, khe khớp gối ngoài, lồi củ trước xương chày, chỏm xương mác, mắt cá trong, mắt cá ngoài.
Sờ tìm các dấu hiệu:

  • Có điểm đau hay không?
  • Có u, cục gì hay không: u cứng rắn ( u xương, can xương…), u mềm ( u xơ, u máu…) ?
  • Khám cảm giác: nông, sâu.
Đo chi:

Có 3 cách đo chi: đo trục chi, đo chiều dài, đo chu vi chi.

Đo trục chi:

Trục chi trên: là một đường nối từ mỏm cùng vai, đi qua giữa nếp khuỷu, đến giữa nếp gấp cổ tay (giữa ngón 3), khớp khuỷu mở ra ngoài một góc 10 độ.

Trục chi dưới: là một đường nối từ gai chậu trước trên, đi qua giữa khớp gối, đến giữa nếp gấp cổ chân ( kẽ ngón 1 và 2 ). Khớp gối mở ra ngoài một góc 10 độ.

Đo vòng chi:

Từ một mốc xương đã chọn, đo lên hoặc xuống một đoạn 10, 15, 20 cm, đánh dấu nơi này, sau đó dúng thước dây đo vòng chi nơi vừa đánh dấu so sánh bên lành.

Đo chiều dài:

Dùng thước dây đo chiều dài giữa hai mốc xương đã chọn.

Chiều dài tương đối: chiều dài đo qua một khớp.

Chiều dài tuyệt đối: chiều dài đo không qua một khớp.

Chi cần đo

chiều dài tương đối

Chiều dài tuyệt đối

Cánh tay

Từ mỏm cùng vai đến mỏm trên lồi cầu ngoài

Từ củ lớn đến mỏm trên lồi cầu ngoài.

Cẳng tay

Từ mỏm trên lồi cầu ngoài đến mỏm trâm quay

Từ mỏm khuỷu đến mỏm trâm trụ

Chi dưới

Từ gai chậu trước trên đến đỉnh mắt cá trong

Từ mấu chuyển đến đỉnh mắt cá ngoài

Cách đo và ghi biên độ vận động của khớp:

Đo và ghi biên độ vận động của khớp theo tư thế xuất phát O (Zero starting position)

Tư thế xuất phát O là “tư thế bình thường về giải phẫu” của một người đứng thẳng, hai ngón chân cái chạm vào nhau, bàn tay buông thõng dọc thân mình, lòng bàn tay úp vào trong. Ở tư thế này, tất cả các khớp trong cơ thể được xem là 0o và tính từ đây để đo cử động một khớp nào đó.

Vận động các khớp được khám theo từng cặp, thí dụ: gấp – duỗi , sấp – ngửa, xoay trong – xoay ngoài, dạng – khép , nghiêng quay – nghiêng trụ…

Cách gọi tên các cử động khớp:

  • Động tác gấp là cử động của một khớp kể từ tư thế xuất phát 0
  • Động tác duỗi là cử động của một khớp trở về tư thế xuất phát 0.
  • Động tác gấp duỗi ở cổ chân: gọi là gấp về phía gan chân và gấp về phía mu chân.
  • Duỗi quá mức là cử động theo hướng ngược lại với gấp.
  • Khép là đưa phần chi khép dần về trục cơ thể.
  • Dạng là đưa phần chi ra xa trục cơ thể. Riêng ở cổ tay thì hay dùng danh từ nghiêng phía trụ, hay nghiêng phía quay.
  • Ngửa là động tác quay lòng bàn tay, bàn chân hướng ra mặt trước của cơ thể hay hướng lên trên. Còn sấp là ngược lại, quay hướng ra mặt sau hay xuống dưới.
Thí dụ : đo tầm hoạt động gấp – duỗi khớp khuỷu được các chỉ số:

Khớp khuỷu

Gấp

Duỗi

ưỡn ra sau

Cách ghi

Bệnh cảnh 1

150 độ

0 độ

150/0

Bệnh cảnh 2

150 độ

0 độ

5 độ

150/0/5

Bệnh cảnh 3

150 độ

90 độ

150/0/0

Bệnh cảnh 4

90 độ

0 độ

90/0/0

Bệnh cảnh 5

90 độ

90 độ

90/90/0

Bệnh cảnh 1 và 2 : khớp khuỷu hoàn toàn bình thường.

Bệnh cảnh 3: khớp khuỷu gấp hết nhưng không duỗi thẳng được, chỉ 90 độ, số 0 ra sau.

Bệnh cảnh 4: khớp khuỷu duỗi hết nhưng chỉ gấp được 90 độ…

Thí dụ: dưới đây minh hoạ rõ hơn về cách ghi này:

Khám sấp ngửa cẳng tay 6 trường hợp với kết quả ghi nhận được:

Kết quả

Ý nghĩa:

1

S – N: 85 – 0 – 90

Sấp được 85 độ và ngửa được 90 độ ( biên độ vận động bình thường)

2

S – N: 90 – 60 – 0

Không ngửa được cẳng tay, cẳng tay luôn ở tư thế sấp từ 60 – 90 độ

3

S – N: 0 – 60 – 90

Không sấp được cẳng tay, cẳng tay luôn ở tư thế ngửa từ 60 – 90 độ

4

S – N: 0 – 0 – 0

Cẳng tay luôn ở tư thế trung bình, không sấp và ngửa được

5

S – N: 0 – 60 – 60

Cẳng tay luôn ở tư thế ngửa 60 độ

6

S – N: 60 – 60 – 0

Cẳng tay luôn ở tư thế sấp 60 độ

B. THĂM KHÁM VÙNG VAI VÀ CÁNH TAY:

Khớp vai là một khớp chỏm tròn, lại được hỗ trợ bởi bả vai, nên có nhiều động tác. Khi khám vận động vùng vai phải biết biên độ vận động thực của khớp vai bằng cách hãm xương bả vai lại, nếu không biên độ của vai rất lớn.

Khám vận động

Khớp vai không hãm

Biên độ khớp vai thực

Dạng – khép

180 / 0/ 75

90/ 0/ 20

Đưa trước – sau

180/ 0/ 60

90/ 0/ 40

Xoay ngoài – trong

90/ 0/ 80

90/ 0/ 30

Chú ý tư thế khởi đầu khi khám vận động:

  • Dạng – khép, đưa trước – sau: cánh tay xuôi dọc thân mình.
  • Xoay ngoài – xoay trong: khuỷu tay gấp 90 độ, cẳng tay hướng ra trước ( hoặc để cánh tay dạng 90 độ, cẳng tay nằm ngang: xoay trong; cẳng tay đưa xuống, xoay ngoài; cẳng tay đưa lên).
Các test thường làm ở vùng vai:

  • Nghiệm pháp co cơ chủ động có sức cản giữ gây đau: xác định vùng đau và động tác gây đau.
  • Nghiệm pháp Yergason ( ngửa cẳng tay có sức cản giữ): khám gân cơ hai đầu.
  • Nghiệm pháp cánh tay rơi thỏng: khám cơ trên gai.
  • Nghiệm pháp về chênh vênh khớp vai: khám dây chằng và bao khớp vai.
C. THĂM KHÁM VÙNG KHUỶU VÀ CẲNG TAY

Liên quan các mốc xương ở khuỷu:

Liên quan 3 mốc xương:

Mỏm trên ròng rọc

Mỏm khuỷu

Mỏm trên lồi cầu

Khuỷu duỗi: 3 mốc nằm trên 1 đường nằm ngang (đường Nelaton)

Khuỷu gấp 90o: 3 mốc tạo thành tam giác cân đỉnh ở dưới ( tam giác Hueter)

(Khớp khuỷu bình thường)

Không thẳng hàng hoặc không nằm ngang.

Tam giác không cân hoặc tam giác đảo ngược.

(khớp khuỷu bệnh lý)

Khám vận động khớp khuỷu:

Khuỷu là một khớp ròng rọc nên chỉ có 2 động tác gấp và duỗi, không có động tác lắc ngang. Nếu có là khớp bệnh lý.

Sấp – ngửa là động tác của cẳng tay. Xương quay, quay quanh xương trụ theo một trục là đường nối từ mỏm quay đến mỏm trâm trụ.

Gấp – duỗi (khuỷu) : 150/0/0 (nam), 150/0/10 (nữ)

Sấp – ngửa(cánh tay): 90/ 0/ 90

D. THĂM KHÁM VÙNG CỔ TAY, BÀN TAY:

Các điểm cần chú ý khi khám:

Liên quan 2 mỏm trâm

Mỏm trâm quay thấp hơn mỏm trâm trụ 1 – 1,5 cm

Mỏm trâm quay ngang bằng hoặc cao hơn mỏm trâm trụ (gãy đầu dưới xương quay)

Vị trí xương thuyền

ở đáy hố lào ( giữa 2 gân duỗi và dạng dài ngón cái), ấn đau ít

Ấn đau chói ( gãy xương thuyền)

Vị trí xương bán nguyệt

ở phía trước cổ tay giữa gò cái và gò út

Trục các ngón tay

Khi duỗi: trục các xương bàn gặp nhau ở xương bán nguyệt.

Khi gấp: trục các ngón 2 – 5 gặp nhau ở xương thuyền.

Lệch trục khi có gãy xương hay trật khớp

Khám các vận động:

Vận động cổ tay: Gấp – duỗi: 90 – 0 – 70 , nghiêng quay – nghiêng trụ; 25 – 0 – 80 .

Vận đông khớp ngón tay:

Ngón 1:

  • Gập – duỗi khớp bàn ngón: 50 – 0 – 5
  • Gập – duỗi khớp liên đốt: 85 – 0 – 15
  • Dạng – khép khớp thang bàn: 95 – 0 – 45
Ngón 2 – 5:

  • Gấp – duỗi khớp bàn ngón: 95 – 0 – 45
  • Gập – duỗi khớp liên đốt 1: 100 – 0 – 0
  • Gập – duỗi khớp liên đốt 2: 80 – 0 – 0
Khám vận động các gân gấp:

  • Gân gấp sâu: giữ đốt 2 cho gập đốt 3
  • Gân gấp nông: giữ đốt 1 cho gập đốt 2 đồng thời phải giữ không cho gập các ngón tay lân cận.
Khám cảm giác ở lòng bàn tay ( thần kinh quay, giữa, trụ): dựa vào vùng chi phối cảm giác của các dây thần kinh.

E. THĂM KHÁM VÙNG HÁNG VÀ ĐÙI

Các điểm cần chú ý khi khám:

Quan sát

Bình thường

Bất thường

Liên quan giữa các mốc xương ( gai chậu trước trên, mấu chuyển lớn, ụ ngồi)

Đường nối 2 mào chậu khi đứng thẳng là 1 đường nằm ngang ( vuông góc với trục cột sống ở L4 – L5)

Đường nối hai gai chậu trước trên cũng nằm ngang (trong phép đo nhanh mức độ ngắn chi: ta cho bệnh nhân đứng trên các miếng ván gỗ và quan sát hai gai chậu trước trên, bề dày miếng ván là mức độ ngắn chi)

Tam giác Bryant: tam giác vuông cân

Đường Nelaton – Reser: đường thẳng

Các đường nối không nàm ngang.

Tam giác không cân và đường gấp khúc

Tam giác Scarpa ( cung đùi – cơ may – cơ khép)

Ấn không đau, hạch bẹn không to, ấn sờ chạm khối u cứng là cổ xương đùi.

Hạch bẹn to, có khối lùng nhùng (apxe), không sờ chạm cổ xương đùi (ổ khớp rỗng)

Khám vận động khớp háng: 3 cặp vận động

  • Gấp – duỗi: 130 – 0 – 10
  • Dạng – khép: 50 – 0 – 30
  • Xoay trong – xoay ngoài: 50 – 0 – 45
Chú ý các tư thế khi khám:

  • Động tác duỗi: bệnh nhân nằm nghiêng trên chân đối diện và giữ chân này trung bình.
  • Động tác khép: phải nâng đùi bên đối diện lên.
  • Động tác xoay: bệnh nhân nằm ngửa gối và háng gập 900 kéo cẳng chân ra ngoài là xoay trong, đưa cẳng chân vào trong là xoay ngoài.
Các dấu hiệu và thủ thuật (test) ở chi dưới:

Dấu hiệu Trendelenburg:

Bình thường: Đứng trụ bên chân lành, chân kia co lên bụng, nếp mông bên chân co sẽ cao hơn nếp mông bên chân đứng ( do cơ mông kéo giữ khung chậu)

Trường hợp liệt cơ mông hoặc có sự chùng cơ mông, nếp mông bên chân co sẽ xuống thấp hơn hoặc ngang bên không co.

Thủ thuật Thomas:

Nằm ngửa, cho gập tối đa khớp háng 1 bên ( 2 tay ôm gối gập vào bụng), chân còn lại vẫn duỗi thẳng 90o .

Trường hợp háng bị co rút gập nhẹ, khi nằm ngửa 2 chân vẫn duỗi bằng vì được bù trừ bằng sự lệch khung chậu ( cột sống lưng sẽ ưỡn tối đa).

Nếu cho bệnh nhân gập hết mức đùi bên lành vào bụng (để khung chậu đứng thẳng lại thì chân co rút khớp háng sẽ gập lên. Mức độ gập tuỳ mức độ co rút à Thomas (+).

Thủ thuật Obert:

Bình thường: khi nằm nghiêng 1 chân. Người khám nâng đùi bên kia lên để trong tư thế dạng (gấp gối 90o, đùi không xoay), khi buông tay ra đột ngột à đùi rơi xuống.

Trường hợp bị co rút cơ cẳng chân chân, cân đùi thì nó không rơi xuống mà vẫn ở tư thế dạng và Obert (+).

F. THĂM KHÁM VÙNG GỐI VÀ CẲNG CHÂN:

Khám khớp gối:

Vận động khớp gối: Gấp – duỗi: 150 – 0 – 0

Khớp gối là khớp ròng rọc, nên không có động tác lắc ngang, nếu có là dấu hiệu tổn thương bao khớp, dây chằng hoặc gãy xương.

Khám dấu hiệu bập bềnh xương bánh chè:

  • Bình thường trong ổ khớp có iét dịch khớp nên xương bánh chè luôn luông nằm sá vào hai lồi cầu.
  • Trường hợp ở khớp có nhiềi dịch sẽ đẩy xương bánh chè lên, khi ta dùng ngón tay đè nó xuống, nó sẽ chạm vào lồi cầu xương đùi và thả tay ra nó bập bềnh trở lại.
  • Nếu khớp có dịch tương đối ít,cần dùng các ngón tay bóp vào túi cùng để dồn dịch lại.
Tìm các dấu hiệu tổn thương dây chằng và bao khớp:

Dấu hiệu ngăn kéo:

Bệnh nhân nằm ngửa, háng gấp 45o, gối gấp 90o. Người khám ngồi lên mu chân bệnh nhân để cố định, hai tay đặt ở phía sau 1/3 trên cẳng chân kéo cẳng chân ra phía trước ( dấu hiệu ngăn kéo trước) hoặc đẩy ra phía sau ( dấu hiệu ngăn kéo sau).

Trường hợp đứt dây chằng chéo trước sẽ thấy xương chày nhô ra phía trước và khi đứt dây chắng chéo sau thì xương chày tụt ra sau.

Nghiệm pháp Lachman:

Bệnh nhân nằm ngửa, gối gấp 200.

Người khám một tay cố định ở 1/3 dưới đùi, tay còn lại nắm lấy 1/3 trên cẳng chân, kéo ra trước hoặc đẩy ra sau để cảm nhận xương chày trượt ra phía trước hay ra phía sau so với lồi cầu đùi trong trường hợp đứt dây chằng chéo trước hay chéo sau.

Nghiệm pháp McMurray:

Bệnh nhân nằm sấp, gối gấp 90o

Một tay người khám giữ cẳng chân, tay kia đặt vào vùng gót và bàn chân vừa ấn xuống theo trục cẳng chân, vừa xoay trong hoặc xoay ngoài cẳng chân. Khi bị tổn thương sụn chêm trong hoặc ngoài thì xoay trong hoặc ngoài bệnh nhân sẽ rất đau.

Nghiệm pháp dạng – khép cẳng chân:

Nghiệm pháp dạng cẳng chân: kiểm tra dây chằng bên trong.

Bệnh nhân nằm ngửa, gối duỗi tối đa. Một tay người khám cố định chân, tay còn lại tác động 1 lực vào mặt ngoài khớp gối. Nếu dây chằng bên trong đứt, cẳng chân sẽ vẹo ra ngoài.

Nghiệm pháp khép cẳng chân: tư thế như trên. Một tay người khám cố định cổ chân, tay còn lại tác động một lực vào mặt trong khớp gối. Nếu dây chằng bên ngoài đứt thì cẳng chân sẽ vẹo vào trong.

G. KHÁM VÙNG CỔ CHÂN VÀ BÀN CHÂN

Các điểm cần chú ý khi khám:

Quan sát

Bình thường

Bất thường

Trục cẳng chân – bàn chân

Qua ngón chân thứ 2 ở phía sau qua giữa gót

Lệch trục ( gãy các mắt cá, gãy xương gót)

Vị trí 2 mắt cá

Mắt cá ngoài thấp hơn mắt cá trong 1 – 1,5 cm

Thay đổi trong gãy các mắt cá.

Share this post


Link to post
Share on other sites

DẤU HIỆU BÁO ĐỘNG CƠ THỂ

Đây là phương pháp chẩn bệnh, tương đối mới, dựa theo 1 số những tài liệu xuất bản gần đây. Phương pháp này, có quan hệ rất lớn đối với Tứ chẩn của YHCT nhưng đào sâu vào 1 số khía cạnh riêng biệt và độc đáo hơn.

Để giúp cho việc chẩn bệnh được hoàn hảo và chính xác hơn, cần biết 1 số yếu tố sau :

1.- Biết nguyên tắc báo bệnh.

2.- Biết ý nghĩa các loại dấu hiệu báo bệnh.

3.- Biết vị trí liên hệ đến vùng xuất hiện các dấu hiệu báo bệnh.

A.- NGUYÊN TẮC BÁO BỆNH

Các nhà nghiên cứu sinh học nhận thấy rằng : chung quanh cơ thể mỗi sinh vật đều có năng lượng điện. Năng lượng này có thể đo được bằng cách đặt 1 điện kế ở gần hoặc trên da. Cường độ năng lượng điện này thay đổi hàng giờ, hàng ngày (xem thêm phần 'Giờ Vượng Suy Của Các Kinh Lạc' trong chương 'Học Thuyết Kinh Lạc'). Thời gian mà 1 người cảm thấy khỏe mạnh hoặc nhọc mệt đều có thể đo được bằng cách đo năng lượng điện. (Đây là 1 phương cách chủ yếu trong việc áp dụng đo các Nguyên huyệt của các đường kinh).

Ngay từ năm 1940, Kirlian, trong khi chụp hình các sinh vật, đã tình cờ khám phá thấy năng lượng điện này và gọi nó là chất Plasma sinh học (còn gọi là hào quang). Kirlian đã chụp được ở chung quanh các sinh vật có 1 giải ánh sáng đỏ, xanh trắng và vàng. Những lá cây vừa bị bứt ra khỏi cành cũng có biểu hiện đó, nhưng để lâu thì không còn.lá của những cây khỏe mạnh thì tỏa sáng, trong khi đó, lá của những cây bị bệnh biểu hiện bằng những màu sắc khác hẳn. Một hôm, 1 người khách nhờ Kirlian chụp hình 2 chiếc lá giống hệt nhau, Kirlian cố gắng chụp suốt cả đêm nhưng vẫn không làm sao không 2 lá giống nhau được. Kirlian nghĩ rằng ông đã thất bại. Ngày hôm sau, khi đưa những tấm ảnh ông đã chụp và giải thích sự cố gắng vô vọng của ông cho người khách thì người khách lại hết sức hài lòng và giải thích rằng : sự khác nhau giữa 2 lá cây trên là do 1 chiếc lá được bứt ra ở 1 cây có bệnh và chiếc còn lại ở cây không bệnh. Tại Liên Xô, khi nghiên cứu các tấm ảnh chụp cơ thể con người, các nhà nghiên cứu tại đại học Kiep nhận thấy rằng có những chấm ánh sáng mạnh hơn ở 1 số cơ thể. Những bộ phận phát ra ánh sáng đều giống nhau ở mọi người. Khi đem so sánh các tấm ảnh với những huyệt của khoa châm cứu thì thấy 700 huyệt của khoa châm cứu hoàn toàn trùng với những điểm có ánh sáng mạnh mà Kirlian đã chụp được.

Hiện nay có 1 cách chụp ảnh bằng cách đổi nhiệt ra các màu sắc khác nhau. Những bức ảnh nhiệt đó cũng thể hiện 1 thứ hào quang chung quanh cơ thể : những bộ phận "chết" như móng tay, tóc... thể hiện ra màu đen còn các màu khác hiện ra màu xanh lục, đỏ da cam... Nếu bộ phận nào của cơ thể bị bệnh thì màu sắc thay đổi, căn cứ vào sự thay đổi màu sắc, có thể phần nào biết được tình trạng của sự rối loạn cơ thể. Ngoài những biểu hiện về nhiệt lượng, màu sắc, ngày nay, các nhà nghiên cứu còn tìm thấy nhiều sự thay đổi khác như thay đổi điện trở (Điện trở vùng huyệt bệnh xuống thấp hơn vùng khác) thay đổi trạng thái (trở nên mềm, hoặc cứng hoặc đau đớn hơn chỗ khác), hoặc xuất hiện 1 số dấu hiệu riêng biệt (tàn nhang, mụn ruồi, vết ban...) những dấu hiệu báo bệnh này đang được các nhà nghiên cứu chú ý đến và trong 1 ngày gần đây cơ chế của những lý thuyết này sẽ được loan báo 1 cách rõ ràng và hoàn hảo hơn.

Tuy nhiên, cho đến nay, những nhà nghiên cứu chỉ mới có thể cho biết rằng : các vùng ánh sáng thể hiện trong cơ thể chính là những bộ phận trong con người chúng ta biết được những thay đổi, thí dụ : thay đổi về điện trong không khí, về từ trường của trái đất, về sự xáo trộn của các bộ phận, cơ quan tương ứng vùng phát điện... Những thay đổi này nhiều khi quá nhỏ bé đến nỗi ta không cảm nhận hết tất cả những thay đổi đó, mà chỉ cảm nhận được 1 phần nào thôi. Thế nhưng, nếu ta rèn luyện và nắm được 1 số những nguyên tắc kỹ thuật, ta có thể nhận được những thông tin đó, có thể biết và cũng có thể diễn đạt được.

B.- QUY LUẬT BÁO BỆNH

Khi cơ thể có sự xáo trộn (bệnh), sự xáo trộn đó được thông tin ra ngoài cơ thể dưới nhiều hình thức khác nhau, dựa theo 1 số quy luật nhất định. Dựa vào thông tin đó, có thể tìm ra được vị trí sự rối loạn và biết cách điều chỉnh lại cho hết rối loạn.

1.- Luật cục bộ :

Thí dụ : Dây thần kinh tọa đau : xuất hiện những thống điểm tại huyệt Hoàn Khiêu hoặc dọc theo mặt ngoài chân (theo đường kinh Đởm).2.- Luật lân cận :

Thí dụ : vùng sau gáy đau : xuất hiện thống điểm (điểm đau) tại huyệt Phong Trì, Thiên Trụ hoặc quanh vùng đó.3.- Luật đối xứng : 4.- Luật phản chiếu :

Thí dụ : Bệnh ở phổi sẽ xuất hiện dấu báo bệnh ở :

- Vùng giữa má trên khuôn mặt.

- Vùng giữa xoắn tai dưới ở trong tai.

- Vùng phía dưới ngón tay giữa, trên đường đi của Tâm đạo.

C.- DẤU HIỆU BÁO BỆNH

1.- Đau

Dấu hiệu thông thường nhất là đau. Khi ấn vào vùng nào đó thấy đau, tùy theo quy luật báo bệnh và vị trí tạng phủ liên hệ, có thể biết tạng phủ, cơ quan liên hệ đến vùng đó có sự rối loạn cần điều chỉnh. Thí dụ : ấn vào huyệt Phế du thấy đau, có thể đoán là Phế (phổi) người đó có sự rối loạn (cần điều chỉnh), phổi bị bệnh cách nào đó (theo quy luật cục bộ).

- Ấn vào vùng gò má trên mặt thấy đau, có thể đoán là Tim người đó có sự rối loạn (theo quy luật phản chiếu)...

Tùy theo tính chất ĐAU, có thể đoán chính xác hơn tính chất bệnh.

Thường có thể dựa theo tiêu chuẩn sau :

a) Ấn vào đau nhiều, đau dữ dội là biểu hiện của bệnh cấp tính thuộc thực chứng.

:( Ấn vào đau ít, đau ê ẩm là biểu hiện của bệnh mãn tính thuộc hư chứng.

Đau ở đây phải hiểu là vùng hoặc huyệt chỗ ta dùng que dò ấn vào để kiểm tra thấy chỗ đó đau nhiều hơn chỗ khác.

Tại sao khi bộ phận, cơ quan bị đau hoặc rối loạn, các vùng tương ứng cũng xuất hiện dấu hiệu đau ?

YHCT cho rằng : đau là do khí huyết trong cơ thể không lưu thông được 1 cách bình thường, bị ứ trệ gây nên đau, do đó, trong sách Nội kinh có ghi : "Thông tắc bất thống, thống tắc bất thông" (Lưu thông thì không đau, đau là do không thông).

YHHĐ cho rằng : đau là do sự kích thích chất tinh thể lắng đọng ở vùng thần kinh phản xạ của bộ phận hoặc cơ quan bị đau và sự đau là sự lưu thông không hợp giữa các chất lỏng truyền từ thần kinh phản xạ ở vùng tương ứng đến bộ phận cơ quan đang bị xáo trộn.

Mỗi cơ thể là 1 sinh vật có sức sống khác biệt, do đó tính chất đau cũng biểu hiện khác nhau : có người có cảm giác đau nhiều, có người chỉ thấy hơi đau, có người lại cảm thấy đau rất ít so với các vùng khác.

Do đó tạm thời có thể đưa ra 1 số nhận xét sau :

- Khi dò (ấn) tìm huyệt (điểm) đau, cần phải tìm nhiều vùng khác nhau để tránh tình trạng khai mơ hồ của người bệnh (ấn đâu cũng thấy đau).

- Vùng (huyệt, điểm) nào càng đau nhiều, càng phản ảnh bệnh lý rõ và nặng hơn.

- Trong khi điều trị, nếu sự đau giảm dần, nghĩa là lúc đầu ấn vào rất đau, sau khi điều trị, sự đau giảm dần, có thể hiểu rằng bệnh hoặc sự xáo trộn ở các cơ quan, bộ phận tương ứng đã giảm. Ngược lại, sau khi điều trị các điểm đau vẫn còn thì phải xét lại phương pháp chẩn bệnh (có thể đã chẩn sai) hoặc cũng có thể là do kỹ thuật điều trị (châm cứu, dùng thuốc), chưa đạt yêu cầu.

Qua các điều trình bày trên, ta thấy đau là 1 phương thế tự nhiên báo cho ta biết cơ thể đang gặp sự rối loạn, trục trặc, để giúp ta tìm cách điều chỉnh lại thế quân bình cho cơ thể.2.- Thay đổi điện trở ở da

Khi cơ thể bệnh, vùng huyệt tương ứng với các bộ phận, cơ quan bệnh sẽ bị giảm điện làm cho điện trở vùng huyệt đó sẽ bị giảm xuống và sự thay đổi này được các máy dò huyệt khám phá thấy. Từ những vùng tương ứng nhất định, ta sẽ có thể suy đoán ra cơ quan, bộ phận liên hệ bệnh.

Thí dụ : Nơi người bình thường, huyệt Hợp cốc có điện trở 70-90 Ohm (W ) khi đo thấy điện trở ở huyệt này lên trên 100-200 Ohm (W ), có thể nghĩ rằng Kinh Đại trường và Đại trường của người đó bị trở ngại gì đó (vì Hiệp cốc là nguyên huyệt của kinh Đại trường).

Ngoài ra, dựa vào 1 số biểu hiện ngoài da, trên lâm sàng hay gặp các dấu hiệu sau:3.- Vết Ban

TÍNH CHẤT

VẾT BAN

VẾT MUỖI ĐỐT

Màu sắc

Đỏ hoặc hồng

Hồng

Kích thước

Nhỏ, không có lan tỏa

To và có tác dụng lan

Sức ấn

Ấn mạnh vào không giảm màu

Ấn mạnh vào có màu trắng, lợt hơn

Ý nghĩa : Khi có vết Ban xuất hiện thì đó là dấu hiệu sắp phát bệnh. Thí dụ : vùng phổi ở mặt (ở giữa má), tự nhiên có vết Ban xuất hiện, có nghĩa là phổi người người đó sẽ gặp trục trặc và sẽ xuất hiện trong vài ngày tới (có thể là ho, tức ngực, đờm...) tùy theo màu sắc (đậm hoặc lợt), có thể đoán được thời gian xảy đến :

+ Màu lợt : xuất hiện bệnh chậm, có thể vài ngày sau.

+ Màu đậm : bệnh xuất hiện đến nơi.

Dấu hiệu báo bệnh càng đậm, thời gian xuất hiện bệnh càng nhanh, (về cơ chế xin xem thêm phần "Bì Chẩn - Xem Da").4.- Tàn nhang

Đây là loại báo bệnh thường gặp trên lâm sàng nhất. Một vết tàn nhang, dù nhỏ hoặc rất nhạt đều là dấu chỉ của 1 bệnh đã và đang xảy ra. Dấu vết càng lớn, màu càng đậm thì cơ quan tạng phủ ở vùng tương ứng càng bị nặng, bệnh lâu.

Thí dụ : Tàn nhang xuất hiện ở vùng lưng, ngang huyệt Vị du, có thể chẩn đoán là bao tử người đó đã và đang bị trở ngại, xáo trộn, có bệnh cách nào đó.5.- Mụn ruồi

Mụn ruồi là 1 loại mụn mọc nổi trên da, nhìn xa xa thấy giống hình dáng con ruồi, nên đặt tên là mụn ruồi.

Nhiều người phân ra loại mụn ruồi sống (sinh) và mụn ruồi chết (tử). Tuy nhiên, trên lâm sàng, hầu như cả 2 loại này đều cùng 1 biểu thị như nhau (chỉ có khác biệt trong ngành tướng số học là thấy rõ hơn).

Mụn ruồi báo hiệu 1 tình trạng bệnh nặng, xấu.

Khi mụn ruồi xuất hiện ở vùng nào thì cơ quan, tạng phủ liên hệ đã bị bệnh 1 thời gian khá lâu rồi.Ghi chú :

a) 1 số người nêu lên yếu tố tàn tật khi gặp mụn ruồi. Cụ thề là khi có dấu hiệu báo bệnh mụn ruồi xuất hiện ở vùng tương ứng, với tay, chân ở vùng phản chiếu trên khuôn mặt (Lông mày, cằm...) thì cho là tay chân có thể bị tật, gẫy, cụt... Cần hết sức lưu ý và cẩn thận khi nêu lên yếu tố tàn tật này, vì thực tế trên lâm sàng cho thấy, có nhiều người có mụn ruồi ở các vùng trên, cho đến chết vẫn không thấy xuất hiện tật gì cả.

:rolleyes: Dấu hiệu mụn ruồi có 1 đặc điểm khác thường là hay xuất hiện theo luật đồng bộ. Giả sử : vùng lông mày trên khuôn mặt (tức là tính theo quy luật phản chiếu) có dấu hiệu mụn ruồi thì ở cánh tay cơ thể cũng xuất hiện mụn ruồi ở vùng tương ứng. Cũng có nhiều trường hợp không xảy ra theo đúng quy luật trên nhưng tỷ lệ đạt được khá cao, thường từ 80-85% xảy ra theo quy luật trên. (Đây cũng là điều cần lưu ý nghiên cứu thêm).

Ngoài ra, trên lâm sàng cũng có thể gặp loại mụn ruồi có lông, tức là loại mụn ruồi nhưng lại mọc thêm lông.

Mụn ruồi có lông thường là dấu hiệu rất xấu, biểu hiện của bệnh nặng, trầm trọng, kéo dài và khó có thể điều trị được.

Mụn ruồi có lông thường gặp ở người bị ung thư. Tùy vùng tương ứng với vị trí xuất hiện mụn ruồi có lông có thể suy đoán ra bệnh ung thư hoặc bệnh nặng ở cơ quan, tạng phủ liên hệ.6.- Vết Nám

Là 1 vùng da bị xám hoặc bầm lại.

Đây là loại dấu hiệu báo bệnh mãn tính, kéo dài lâu ngày thường gặp ở những người bị bệnh gan, thận lâu ngày.

Tuy nhiên có 1 số điểm cần lưu ý :

- Diện tích vết nám to, rộng thì bệnh lâu.

- Vết nám đậm màu thì mức độ trầm trọng, càng đậm bao nhiêu thì càng trầm trọng bấy nhiêu.

- Vết nám nhạt thì bệnh nhẹ, sắp khỏi.

Do đó, có thể dựa vào tính chất thay đổi của màu sắc mà kiểm tra diễn tiến bệnh. Thí dụ : khi bắt đầu chữa, vết nám đậm màu, sau 1 thời gian điều trị, vết nám nhạt màu dần thì có thể biết là bệnh đang trên đà tiến triển, có hy vọng phục hồi. Ngược lại, sau 1 thời gian điều trị, vết nám không thay đổi màu sắc hoặc đậm hơn... dù có những triệu chứng bệnh giảm, có thể hiểu là bệnh ở bên trong không tiến triển tốt, và bệnh đang phát triển ngầm cách nào đó.

- Vết nám lan tỏa thì bệnh có tính cách lan tỏa ra các cơ quan bên cạnh chứ không ở vào 1 cơ quan nhất định.7.- Tia máu dưới da

Có hình dạng như 1 đoạn tĩnh mạch hoặc động mạch nhỏ xuất hiện dưới da.

Tĩnh mạch dưới da có thể xuất hiện dưới nhiều hình thức rõ (nổi) hoặc chìm (khó thấy), có người chỉ cần nhìn cũng thấy, có người phải đè căng da mới thấy. Nếu xuất hiện ở vùng trán, 2 bên Thái dương, phía dưới ở mắt hoặc ở gò má, hoặc ở vùng 2 bên nhân trung và đầu mũi thường dễ nhận thấy hơn.

Tia máu dưới da thường biểu hiện bệnh mãn tính (lâu ngày) và trầm trọng, hay gặp ở những Thần kinh suy nhược.

Dấu hiệu này xuất hiện ở đâu thì nơi đó thường có sự bế tắc về bài tiết hoặc bài tiết quá độ.

Tia máu màu đỏ thường biểu hiện sự viêm nhiễm.

Tia máu màu xanh thường chỉ sự ứ trệ bài tiết.

Trên đây là 1 số những dấu hiệu báo bệnh thường hay gặp. Lẽ dĩ nhiên còn rất nhiều hình thức báo bệnh khác trên lâm sàng có thể gặp mà vì điều kiện chưa đủ để cho phép đề cập đến trong tài liệu này (Đây cũng là 1 điều rất đáng lưu ý và nghiên cứu thêm).

Tuy nhiên, cần lưu ý thêm 1 số vấn đề :

a) 1 số dấu hiệu báo bệnh có liên hệ đến yếu tố tuổi tác. Thí dụ : người ta thấy rằng mụn cơm (Nevi) có liên hệ đến chứng lão suy, vì khi người ta càng lớn tuổi thì những vết thâm nhiễm này càng không ngừng gia tăng, do đó không thể căn cứ trên sự gia tăng đó mà chẩn đoán bệnh gia tăng hoặc khó điều trị.

:rolleyes: Bình thường cơ thể ta chịu đựng được với môi trường bên ngoài để bảo tồn và phát triển cơ thể, nếu vì lý do nào đó, cơ thể bị suy kém, lập tức có 1 sự "Điều tiết" cách nào đó cho thích nghi với môi trường bên ngoài và qua sự điều tiết đó, ta có thể phát hiện ra sự rối loạn ở các cơ quan, tạng phủ liên hệ.

Như vậy, tất cả các sự thay đổi ở da (vết nám, vết ban, mụn ruồi, mụn cơm , tia máu...) đều có thể cho thấy sự rối loạn hoặc suy yếu của 1 bộ phận, cơ quan, tạng phủ bên trong, tuy nhiên, không nên sợ hãi quá đáng về sự suy yếu này, chỉ cần ghi nhớ là : những {cqan tạng phủ liên hệ cần được lưu ý săn sóc đặc biệt hơn qua các dấu hiệu đó.

ƯU KHUYẾT ĐIỂM CỦA PHƯƠNG PHÁP CHẨN BỆNH MỚI

1.- Ưu điểm

- Giúp cho việc chẩn đoán nhanh.

- Lợi hơn các phương pháp chẩn đoán khác vì không phải đòi hỏi nhiều dữ kiện, yếu tố, ở đây chỉ cần xem xét những dấu hiệu báo bệnh, nắm được nguyên tắc báo bệnh, ý nghĩa các dấu hiệu báo bệnh và vị trí vùng tương ứng là đã có thể phần nào thấy được sự rối loạn của các bộ phận trong cơ thể.2.- Khuyết điểm

a) Không cho biết rõ về sự rối loạn của cơ thể. Thí dụ : thấy vết Ban hoặc tàng nhang ở vùng má (vùng phản chiếu của Phế trên khuôn mặt), có thể biết là Phổi người đó đang bị trở ngại, bệnh, nhưng cụ thể là rối loạn làm sao ? Bệnh gì ? (Viêm nhiễm, tràn dịch, tràn khí, đờm, áp xe Phổi) thì phương pháp này không thể biết được. Nếu muốn biết rõ, cần phải áp dụng phương pháp chẩn đoán khác.

:P Vấn đề khó khăn mà các nhà nghiên cứu đang tìm cách giải quyết là :

b1. Các dấu hiệu báo bệnh xuất hiện vào thời điểm nào : trước hoặc sau đang khi có sự xào trộn trong cơ thể.

b2. Đối với các vùng phản chiếu, vùng nào mang đặc tính báo hiệu nhanh nhất và chính xác nhất. Thí dụ : khi cơ thể bệnh, dấu hiệu báo bệnh sẽ xuất hiện ở mặt (theo cách phản chiếu ở mặt) hoặc ở tai (phản chiếu ở tai) hoặc ở chân tay (phản chiếu ở tay chân)... có khi dấu hiệu báo bệnh xuất hiện ở mặt, nhưng để tai, tay, chân, đầu, lại không thấy có dấu hiệu báo bệnh hoặc đôi khi ở 1 vùng nào đó có dấu hiệu báo bệnh mà vùng khác lại không có. Như vậy vùng nào đáng được coi là thì cậy nhất để tập trung chẩn đoán vào đấy ?

b3. Có những dấu hiệu báo bệnh, khi ta nhận thấy thì sự xáo trộn cơ thể đã xảy ra rồi.

b4. Cũng có những trường hợp dấu hiệu báo bệnh tuy đã xuất hiện nhưng chưa thấy có sự rối loạn ở bộ phận tương ứng.

b5. Có 1 số trường hợp, tuy có dấu hiệu báo bệnh nhưng dễ bị hiểu lầm. Thí dụ : Nốt ruồi, có người sinh ra đã có ngay những nốt ruồi, vết bớt... khó có thể cho rằng họ đã hoặc sẽ bị bệnh liên quan đến nốt ruồi hoặc vết bớt bẩm sinh đó được : nhiều người đã thấy có những dấu hiệu bẩm sinh đó nhưng suốt đời không hề thấy bị bệnh ở vùng cơ quan, bộ phận có liên hệ đến các dấu hiệu bẩm sinh đó.

KẾT LUẬN

Đây là 1 trong số nhưng phương pháp mới, vì mới nên chưa đủ điều kiện để thỏa mãn hết mọi yêu cầu đề ra, tuy nhiên, vì sự say mê nghiên cứu, cần đào tạo sâu hơn để phát triển phương pháp này cho hợp tình hợp lý hơn.

Qua phần trình bày trên ta thấy :Tàn nhang là những vết nằm sát mặt da, sờ không thấy nổi cộm, nhỏ, mọc đơn hoặc thành từng đám lấm tấm trên da, màu đen, màu nâu đậm hoặc lợt, giống như màu của cây nhang sau khi đốt cháy để tàn (tro) lại, do đó gọi là tàn nhang (tro của cây nhang).Ban là những nốt nhỏ xuất hiện trên da, thường có màu đỏ hoặc trắng (trên lâm sàng, thường gặp nhất là loại Ban màu đỏ). Vì hình dáng và màu sắc trên, nên thường lầm lẫn với nốt muỗi cắn. Tuy nhiên có điểm khác biệt như sau :Theo các nhà nghiên cứu về sinh lý học, con người luôn mang trong cơ thể dòng điện, khi cơ thể bệnh, (có sự xáo trộn về sinh lý) điện trở trong người cũng theo đó mà thay đổi. Dựa vào đặc tính trên, với các thiết bị khoa học, các nhà kỹ thuật đã chế tạo ra các máy dò Huyệt.Khi cơ thể có sự rối loạn (bệnh), ở các vùng tương ứng thường thấy có dấu hiệu báo bệnh. Vì khuôn khổ tài liệu có hạn, chúng tôi chỉ xin giới thiệu 1 số dấu hiệu báo bệnh thường gặp trên lâm sàng thôi (muốn rõ chi tiết, xin tham khảo thêm ở các sách chuyên đề).Khi cơ thể bệnh, các dấu hiệu báo bệnh sẽ xuất hiện ở những bộ phận cơ quan hoặc vùng phản chiếu tương ứng (các vùng phản chiếu gồm : mặt, tai, đầu, mũi, lòng bàn tay, lòng bàn chân).Xuất hiện ở vùng đối xứng với vùng bệnh (phương pháp này được áp dụng trong cách châm đối xứng theo trường phái của Nhật, và được mô tả trong Thiên "Mậu Thích" của sách Nội Kinh Tố Vấn.Xuất hiện gần hoặc quanh vùng bệnh. Xuất hiện ngay tại vùng bệnh.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Bấm huyệt & châm cứu

Trong những năm gần đây, ở rất nhiều nước, phương pháp chữa bệnh bằng cách tác động lên “huyệt” nằm trên cơ thể con người và động vật đã được một sự quan tâm đặc biệt, và việc tìm hiểu cơ chế tác dụng của nó (bấm huyệt, châm cứu) trên cơ sở khoa học đã và đang gây nên những tranh luận vô cùng sôi nổi.

Qua các công trình nghiên cứu trên lâm sàng và thực nghiệm, thật khó mà nói một cách chính xác khoa học về cơ chế tác dụng của phương pháp chữa bệnh bằng châm cứu, bấm huyệt. Có rất nhiều giả thuyết về cơ chế tác dụng của châm cứu và bấm huyệt được bàn đến.

Cơ chế thể dịch: Miarbe (Pháp), Tokieda (Nhật)\

Cơ chế thay đổi trình diện sinh vật: Delafuje, Niboyet (Pháp), Patsibiskin (Liên Xô), Okamoto (Nhật).

Cơ chế thay đổi các chất trung gian hoá học đặc biệt là Histamine Maritiny (Pháp)

Cơ chế thần kinh phản xạ: Chu Liễn (Trung Quốc), Vogralic (Liên Xô), Felix Mann (Anh), Kassin (Liên Xô), J. Bossy (Pháp)

Cơ chế thần kinh phản xạ: Chu Liễn (Trung Quốc), Vogralic (Liên Xô), Felix Mann (Anh), Kassin (Liên Xô), J. Bossy (Pháp)

Cơ chế “cửa kiểm soát”: Melzach (1965)

Cơ chế thần minh thể dịch nội tiết đặc biệt là b. Endorphine (Giải thưởng Nobel về y học năm 1977): Bruce Pomeranz (Canada).

I – Y HỌC CỔ TRUYỀN DÂN TỘC

1. Sự mất thăng bằng về âm dương dẫn tới sự phát sinh ra bệnh tật và cơ chế tác dụng của châm cứu cơ bản là điều hoà âm dương.

Theo y học cổ truyền, âm dương là thuộc tính của mỗi vật trong vũ trụ. Hai mặt âm dương luôn có quan hệ đối lập (mâu thuẫn) nhưng luôn thống nhất với nhau. Âm dương trong cơ thể bao giờ cũng thăng bằng (bình hành) nương tựa vào nhau (hỗ can) để hoạt động giúp cho cơ thể luôn luôn thích ứng với hoàn cảnh xã hội, thiên nhiên.

Bệnh tật phát sinh ra là do sự mất cân bằng của âm dương. Sự mất cân bằng đó gây nên bởi các tác nhân gây bệnh bên ngoài (Tà khí của lục dâm) hoặc do thể trạng suy yếu, sức đề kháng kém (chính khí hư) hoặc do sự biến đổi bất thường về mặt tình cảm, tinh thần (nội nhân), hoặc cũng có khi do những nguyên nhân khác như thể chất của người bệnh quá kém, sự ăn uống, nghỉ ngơi, sinh hoạt không điều độ…

Trên lâm sàng, bệnh lý biểu hiện hoặc hàn hoặc nhiệt, hoặc hư hoặc thực (hư hàn thuộc về âm, thực nhiệt thuộc về dương), nhiều khi bệnh tật rất phức tạp, các dấu hiệu thuộc về hàn nhiệt rất khó phân biệt (kiêm chứng)…

Nguyên tắc điều trị chung là điều hoà (lập lại) mối cân bằng của âm dương. Cụ thể trong điều trị bằng châm cứu, muốn đánh đuổi tà khí, nâng cao chính khí (sức đề kháng của cơ thể) phải tùy thuộc vào vị trí nông sâu của bệnh, trạng thái hàn nhiệt, hư thực của người bệnh để vận dụng thích đáng dùng châm hay cứu, dùng thủ thuật hay bổ như nhiệt thì châm, hàn thì cứu, hư thì bổ, thực thì tả vv…

2. Bệnh tật phát sinh ra làm rối loạn hoạt động bình thường của hệ kinh lạc và cơ chế tác dụng của châm cứu cơ bản là điều chỉnh cơ năng hoạt động của hệ kinh lạc.

Theo y học cổ truyền, hệ kinh lạc bao gồm những đường kinh (thẳng) và những đường lạc (đường ngang) nối liền các tạng phủ ra ngoài da và tứ chi, khớp ngũ quan, và nối liền các tạng phủ, kinh lạc với nhau. Hệ thống kinh lạc chằng chịt khắp cơ thể, Thông suốt ở mọi chỗ (trên, dưới, trong , ngoài), làm cơ thể tạo thành một khối thống nhất, thích nghi được với hoàn cảnh tự nhiên và xã hội.

Trong kinh lạc có kinh khí (Thenergy of life) vận hành để điều hoà KHÍ HUYẾT làm cơ thể luôn khoẻ mạnh, chống được các tác nhân gây bệnh. Hệ kinh lạc cũng là nơi biểu hiện các trạng thái bệnh lý của cơ thể, đồng thời cũng là nơi tiếp nhận các hình thức kích thích (dùng châm, cứu, xoa bóp, ấn huyệt giác…) thông qua các “huyệt” để chữa bệnh.

Bệnh tật sinh ra do nguyên nhân bên ngoài (ngoại nhân – tà khí) hoặc nguyên nhân bên trong (chính khí hư) đưa đến sự bế tắc vận hành kinh khí trong đường kinh. Nếu có tà khí thực thì phải loại bỏ tà khí ra ngoài (dùng phương pháp tả), nếu do chính khí hư thì phải bồi bổ cho chính khí đầy đủ (dùng phương pháp bổ).

Mỗi đường kinh mang tên một tạng hoặc một phủ nhất định. Khi tạng phủ có bệnh thường có những biểu hiện thay đổi quan biểu lí với nó (Chẩn đoán dựa vào phương pháp chẩn đoán chung, kết hợp với phương pháp chẩn đoán trên kinh lạc, dò kinh lạc…). Khi bâm huyệt châm cứu, người ta tác động vào các huyệt trên các kinh mạch đó để điều chỉnh các rối loạn chức năng (bế tắc) của kinh mạch.














II – CƠ CHẾ TÁC DỤNG CỦA BAM & CHÂM THEO HỌC THUYẾT THẦN KINH - NỘI TIÊT - THỂ DỊCH 1. Một số vấn đề của hoạt động thần kinh có liên quan tới việc giải thích cơ chế tác dụng của bấm & châm .

a) Bấm & Châm là một kích thích gây ra một cung phản xạ mới: là một kích thích cơ giới, cứu là một kích thích về nhiệt gây nên kích thích tại da, cơ.

Tại nơi bấm, châm, cứu có những biến đổi, tổ chức tại nơi bam & châm bị tổn thương sẽ tiết Histamin, axetylcholin, cathecolamin… nhiệt độ ở da thay đổi, bạch cầu tập trung, phù nề tại chỗ, các phản xạ đột trục làm co giãn mạch máu…

Tất cả những kích thích trên tạo thành một kích thích chung của bâm & châm & cứu. Các luồng xung động của các kích thích được truyền vào tủy lên não, từ não xung động chuyển tới các cơ quan đáp ứng hình thành một cung phản xạ mới.

:rolleyes: Hiện tượng chiếm ưu thế Utomski

Theo nguyên lý của hiện tượng chiếm ưu thế của Utomski thì trong cùng một thời gian, ở một nơi nào đó của hệ thần kinh trung ương (vỏ não), nếu có hai luồng xung động của hai kích thích khác nhau đưa tới, kích thích nào có cường độ mạnh hơn và liên tục hơn sẽ có tác dụng kéo các xung động của kích thích kia tới nó và kìm hãm, tiến tới dập tắt kích thích kia.

Như trên đã trình bày, châm hay bâm là một kích thích gây ra một cung phản xạ mới, nếu cường độ kích thích được đầy đủ sẽ ức chế ở hưng phấn do tổn thương bệnh lí gây ra, tiến tới làm mất hoặc phá vỡ cung phản xạ bệnh lí.

Trên thực tế lâm sàng, người ta thấy hiệu quả nhanh chóng của bâm & châm (đặc biệt là dùng châm điện trong việc làm giảm cơn đau của một số bệnh cấp tính như cơn đau dạ dày, giun chui ống mật, đau các dây thần kinh ngoại biên gẫy xương, viêm khớp, đau răng …) và tác dụng làm chết cảm giác lạnh, sợ lạnh của phương pháp cứu trong điều trị cấp cứu các trường hợp trụy tim mạch vv… Tác dụng của bâm & châm có thể làm thay đổi hoặc đi tới làm mất phản xạ đau và nhiều bệnh. Khi bấm, châm, cứu để đảm bảo kết quả điều trị, để kích thích tác động lên huyệt phải đạt đến ngưỡng (seuil d’excitation) mà y học cổ truyền gọi là đắc khí và phải tăng (hoặc giảm) cường độ kích thích khi cần thiết để nâng cao thêm hiệu quả chữa bệnh mà y học cổ truyền gọi là thủ thuật bổ tả.

c) Sự phân chia tiết đoạn thần kinh và sự liên quan giữa các tạng phủ đối với các vùng cơ thể do tiết đoạn chi phối.

Thần kinh tủy sống có 31 đôi dây, mỗi đôi dây chia ra làm hai ngành trước và sau chi phối vận động và cảm giác một vùng cơ thể gọi là một tiết đoạn. Sự cấu tạo thần kinh này gọi là sự cấu tạo tiết đoạn

<!--[if !vml]--><!--[endif]-->

Ví dụ: vùng da ở các tiết đoạn ngực D5, D6, D9 và tiết đoạn cổ C2, C3, C4 tương ứng với dạ dày (hình 2)

Khi nội tạng có bệnh, người ta thấy có sự tăng cường cảm giác vùng da cùng tiết với nó như cảm giác đau, thay đổi điện sinh vật vv… Hiện tượng này xảy ra do những sợi thần kinh giao cảm bị kích thích, xung động dẫn truyền vào tủy, lan toả vào các tế bào cảm giác sừng sau tủy sống gây ra những thay đổi về cảm giác ở vùng da. Mặt khác những kích thích giao cảm làm co mạch, sự cung cấp máu ở vùng da ít đi và làm điện trở ở da giảm xuống gây ra những thay đổi về điện sinh vật.

Trên cơ sở này Zakharin (Liên Xô) và Head (Anh) đã thiết lập được một giản đồ về sự liên quan giữa vùng da và nội tạng, và đây cũng là nguyên lý chế tạo các máy đo điện trở vùng da và máy dò kinh lạc …

<!--[if !vml]--><!--[endif]-->

Bảng đối chiếu sự liên quan giữa các nội tạng và tiết đoạn thần kinh

Nội tạng
Tiết đoạn

Tim
D1-D2 (D4-D6)

Phổi
D2-D3 (D4-D6)

Thực quản
D7-D8

Dạ dày
D5-D9 (C2-C5)

Ruột
D9-D12

Trực tràng
S2-S4

Gan, Mật
D7-D9

Thận, niệu quản
D10-D12, L1-L2

Bàng quang
D11-D12, L1, S1-S4

Tiền liệt tuyến
D10-D11, L5-S1-S2-S3

Tử cung
D10-L1L2, S1-S4

Tuyến vú
D4-D5

(Trong đó C = cổ; L = thắt lưng; S = cùng)

Nếu nội tạng tổn thương, dùng châm cứu hay các phương pháp vật lý trị liệu khác tác động vào các vùng dạ dày trên cùng một tiết đoạn với nội tạng sẽ chữa được các bệnh ở nội tạng.

Share this post


Link to post
Share on other sites

(Tiếp theo) d) Nguyên lý về cơ năng sinh lý linh hoạt của hệ thần kinh của Widekski

Theo nguyên lý này, trong trường hợp thần kinh ở trạng thái yên tĩnh, một kích thích nhẹ thường hay gây ra một phản ứng hưng phấn nhẹ, kích thích mạnh thường gây ra một phản ứng hưng phấn mạnh, nhưng nếu thần kinh ở trạng thái bị hưng phấn do bệnh kích thích mạnh chẳng những không gây ra mạnh mà trái lại nó làm cho hoạt động thần kinh chuyển sang quá trình ức chế nên bớt đau.

e) Lý thuyết về đau của Melzak và Wall (cửa kiểm soát - 1965)

Trong trạng thái bình thường các cảm thụ bản thể đi vào sừng sau tủy sống, ở các lớp thứ ba, thứ tư (gồm các tế bào của các chất keo và các tế bào chuyển tiếp) làm cảm giác đau (hoặc không đau) được dẫn truyền. Tế bào như cánh cửa kiểm soát, quyết định cho cảm giác nào đi qua. Ở trạng thái bình thường luôn có những xung động, những xung động này phát huy ức chế, qua tế bào chuyển tiếp và đi lên với kích thích vừa phải. Xung động được tăng cường đến làm hưng phấn tế bào chất tạo keo làm khử cực dẫn truyền và đi lên (Hình 3).

<!--[if !vml]--><!--[endif]-->

Trên cơ sở lý thuyết cửa kiểm soát của Melzak và Wall, năm 1971, Shealy chế tạo được một máy luôn kích thích cột sau tủy sống để làm giảm đau trong các bệnh ung thư.

h) Vai trò thể dịch, nội tiết và các chất trung gian thần kinh

Từ năm 1973, nhiều thực nghiệm đã chứng minh được trong châm cứu và đỉnh cao của nó là châm tê, ngoài vai trò của thần kinh ra còn có vai trò của thể định tham gia trong quá trình làm giảm đau (trong châm cứu chữa bệnh) và nâng cao ngưỡng chịu đau (trong châm tê phẫu thuật). Có nhiều thảo luận về các chất này. Có thể là: Axetycholin, các chất Mono-min (Cathecolamin, 5 Hydroxyplamin, các chất peptit, các chất monoaxit, mocphine-like) (quan trọng là Endorphine) chất gây đau p (Subtice P) Mocphinelike - những năm 1976, Guillemin (người gốc Pháp, quốc tịch Hoa Kỳ) Chor HaoLi (người Hoa, quốc tịch Hoa Kỳ) đã phân tích được tuyến yên của lạc đà, lợn, cừu… chất mocphine-like (gồm, Endorphine và …) trong đó chất Endophine có tác dụng tương đương 200 lần mocphin (trên ống nghiệm). Cùng năm 1976, Mayer và cộng sự đã chứng minh tác dụng châm tê bị huỷ do tiêm vào động vật thực nghiệm chất Naloxone (chất đối lập với số thực nghiệm về châm tê):

Bruce Pomeranz (Trường đại học Toronto Canada); năm 1976 đã thành công trong một số thực nghiệm về châm tê:

Tiêm Naloxone vào mèo được châm tê thấy sự phóng điện của các tế bào ở lớp V sừng sau tủy sống mèo không bị ức chế nữa. Cắt bỏ tuyến yên mèo rồi châm tê, không thu được kết quả tê.

Người ta đã xác định được công thức hôạhc của chất morphine-like là những chất tiết của não chủ yếu do hậu yên tiết ra, ngoài ra còn thấy ở trên ruột và nhiều cơ quan khác. Nó là một polypeptid gồm 91 axit amin từ số 61 đến số 91 có tác dụng morphine nhiều nhất, mạnh gấp 200 lần mocphine.

Share this post


Link to post
Share on other sites

(tiếp theo)

2. Cơ chế tác dụng của bấm & châm & cứu

Bấm & châm & cứu là một kích thích gây ra một cung phản xạ mới có tác dụng ức chế và phá vỡ cung phản xạ bệnh lý có thể xuất hiện ngay tức thì sau khi bâm & châm & kim và tác động vào huyệt, điều trị nhắc đi nhắc lại nhiều lần, nhiều liệu trình mới thu được kết quả. Ngoài vai trò của thần kinh ra còn có vai trò của nội tiết, thể dịch tham gia trong việc phá vỡ cung phản xạ bệnh lý. Vogralic, Kassin (Liên Xô), Chu Liễn (và nhiều tác giả Trung Quốc), Vũ Xuân Lãng, Lê Khánh Đồng (Việt Nam), Mai Văn Nghệm, Jean-Bossy (Pháp), vv… Căn cứ vào vị trí tác dụng của nơi bâm & châm & cứu đề ra 3 loại phản ứng cơ thể, trên cơ sở này để giải thích cơ chế tác dụng và hướng dẫn phương pháp học tập và sử dụng cho dễ dàng

a) Phản ứng tại chỗ:

<!--[if !vml]--><!--[endif]-->

Châm hay bấm vào huyệt là một kích thích gây một cung phản xạ mới có tác dụng ức chế và phá vỡ cung phản xạ bệnh lý: như làm giảm cơn đau, giải phóng sự co cơ, vv…

Những phản xạ đột trục của hệ thần kinh thực vật làm ảnh hưởng đến sự vận mạch, nhiệt, sự tập trung bạch cầu, vv… làm thay đổi tính chất của tổn thương, giảm xung huyết, bớt nóng, giảm đau.

Phản ứng tại chỗ có ý nghĩa thực tiễn lâm sàng khá lớn là cơ sở của phương pháp điều trị tại chỗ hay xung quanh nơi có thương tổn mà châm cứu dùng các huyệt gọi là A thị huyệt (thống điểm, thiên ứng huyệt).

:rolleyes: Phản ứng tiết đoạn

Khi nội tạng có tổn thương bệnh lý thì có những thay đổi cảm giác vùng da ở cùng một tiết đoạn với nó, ngược lại những kích thích từ vùng da của một tiết đoạn nào đó sẽ có ảnh hưởng đến nội tạng cùng trên tiết đoạn đó (xem sơ đồ Zakhazin - Head)

Việc sử dụng các huyệt ở một vùng da để chữa bệnh của các nội tạng cùng tiết đoạn với vùng này sẽ gây ra một phản ứng tiết đoạn, gây ra các luồng xung động thần kinh hướng tâm. Những luồng này sẽ truyền nhịp vào sừng sau tủy sống rổi chuyển qua sừng trước từ đó bắt đầu cung phản xạ ly tâm, một là theo các sợi vận động trở về bộ phận cơ của tiết đoạn được châm, hai là theo các sợi thực vật đến mạch máu và đến các cơ quan, nội tạng tương ứng, làm điều hoà mọi cơ năng sinh lý như phân tiết dinh dưỡng…

Việc sử dụng phản ứng tiết đoạn có nhiều ý nghĩa thực tiễn lớn vì nó có thể giúp cho người thầy thuốc châm cứu chọn những vùng và huyệt ở một tiết đoạn thần kinh tương ứng với một cơ quan, nội tạng bị bệnh. Việc thành lập công thức châm cứu điều trị một số bệnh thuộc từng vùng được tiện lợi và dễ ứng dụng hơn. Mặt khác theo quan niệm của phản ứng tiết đoạn giúp người học và ứng dụng châm cứu hiểu và giải thích được phương pháp dùng các du huyệt (ở lưng), mô huyệt (ở ngực, bụng) và các huyệt ở xa (tay, chân) để châm cứu làm giảm đau một số bệnh thuộc nội tạng có cùng tiết đoạn thần kinh chi phối, đặc biệt là dùng các huyệt sát cột sống (Hoa Đà giáp tích) và các bối du huyệt trong châm gây tê để phẫu thuật.

c) Phản ứng toàn thân

Qua thực tế lâm sàng chữa bệnh bằng châm cứu người xưa đã đúc kết ra được rất nhiều cách dùng huyệt. Một huyệt có thể dùng để chữa nhiều bệnh, một bệnh cũng có thể dùng nhiều công thức huyệt khác nhau và cũng là một loại bệnh trên cùng một bệnh nhân, nhưng tùy theo thời gian bị bệnh (mùa xuân, hạm thu và đông) và thời gian đến điều trị (sáng, trưa, chiều, tối) mà thầy thuốc dùng các huyệt khác nhau (xem thêm tỳ ngọ lưu chú - thời châm cứu học).

Việc sử dụng các huyệt theo các cách dùng huyệt kể trên nhiều khi không nằm tại chỗ cơ quan bị bệnh và cũng có khi không nằm trên các tiết đoạn có liên quan với nơi bị bệnh. Các nhà nghiên cứu hiện đại cho rằng tác dụng điều trị của bấm & châm & cứu trong các trường hợp kể trên là thông qua tác dụng gây ra phản ứng toàn thân.

Thực chất, bất kỳ một kích thích nào đối với cơ thể cũng đều có liên quan tới hoạt động của vỏ não, nghĩa là có tính chất toàn thân. Như vậy, sự phân chia ra phản ứng cục bộ tại chỗ, phản ứng tiết đoạn chỉ có giá trị về sự liên quan cục bộ từng phần cơ thể thông qua hoạt động của tủy.

Khi nói tới phản ứng toàn thân, chúng ta cần nhắc lại nguyên lý về hiện tượng chiếm ưu thế vỏ não của Utomski, về cơ năng linh hoạt của hệ thần kinh của Wedensky, về các kích tố (hormon), và các chất trung gian hoá học thần kinh (hisamin, axetylcholin, mocphin-like…)

Điểm quan trọng của phản ứng toàn thân là tác dụng đối với hệ thần kinh trung ương và thông qua hệ này và hệ thần kinh thực vật mà ảnh hưởng đến các cơ quan nội tạng và mọi tổ chức của cơ thể.

Sau khi bấm & châm, từng luồng xung động thần kinh không ngừng được diễn truyền vào tủy sống (Dẫn truyền xung động thần kinh là do các chất axetylcho line…) từ đó dẫn truyền qua bó tủy lên hành não và lên não.

Vogralic, Kassin (và nhiều tác giả) nghiên cứu điện não đồ trong khi châm cứu thì thấy điện thế có những biến đổi lan toả, toàn diện và đối xứng toàn thân thường thấy làn sóng delta và têla chậm hơn, có nhiều ca làn sóng không đều nhịp…

Tình trạng tinh thần luôn luôn căng thẳng gây ra các rối loạn tinh thần làm cho quá trình hưng phấn và ức chế của hoạt động thần kinh cao cấp bị rối loạn. Bấm, châm, cứu có tác dụng điều chỉnh các trạng thái rối loạn đó vì sau một đợt điều trị triệu chứng lâm sàng tốt hơn và điện não đồ biến đổi.

Một điểm quan trọng nữa của phản ứng toàn thân là các biến đổi về thể dịch và nội tiết. Thường thường trong khi châm và sau một đợt điều trị bằng châm cứu, các thể dịch như sympatine, adrenaline, histamine, axetycholin, mocphine-like (đặc biệt là bEndorphine) cũng có những biến đổi, ảnh hưởng đến các hệ tuần hoàn, hô hấp, tiêu hoá, bài tiết, và sự chuyển hoá các chất.

Nhiều tác giả nghiên cứu hoạt động của tuyến yên và thượng thận sau châm thấy rõ tuyến yên tạo ra một kích tố (hormonotrope) làm tăng hoạt động của một số tuyến nội tiết như: tuyến thượng thận, tuyến giáp trạng, tuyến sinh dục… Người ta đã chứng minh được rằng: bấm hay châm làm cho bạch cầu ái toan giảm. 70-80% các trường hợp, châm làm lớp vỏ thượng thận bài tiết ra kích tố corlicosteroid cũng tương tự như tiêm vào cơ thể 20 đơn vị ACTH để kích thích tuyến thượng thận bài tiết chất này. Châm các huyệt Đại chuỳ (XIII 14) và Thuy đột (V 10) và cứu giữa các đốt sống lưng có thể làm cho tuyến giáp trạng tạm thời ngừng hút iốt…

3. Những ưu điểm và nhược điểm khi vận dụng học thuyết thần kinh - thể dịch để giải thích cơ chế tác dụng của bấm & châm & cứu:

Cơ chế tác dụng của châm cứu giải thích theo thuyết học thần kinh - thể dịch cho quá trình học tập và sử dụng dễ dàng, có thể vận dụng để giải thích được hầu hết các trường hợp bệnh lý cơ năng được chỉ định điều trị bằng phương pháp bấm, châm, cứu.

Về mặt học tập, chia các huyệt theo từng vùng tiết đoạn cơ thể, số lượng huyệt sử dụng trong điều trị chừng 80-100 huyệt thông thường (mà không cần thiết phải nhớ tất cả 365 huyệt) để điều trị các chứng bệnh thường gặp, giúp các thầy thuốc đa khoa có cơ sở cơ bản để kết hợp tốt hai nền y học – y học hiện đại và y học cổ truyền – trong điều trị bệnh.

Huyệt ở vùng ngực lưng: chữa các bệnh về tuần hoàn, hô hấp, viêm tuyến vú, tắc tia sữa, đau thần kinh liên sườn …

Huyệt vùng hạ vị - thắt lưng cùng: chữa bệnh đường tiết niệu, sinh dục

Về toàn thân cần nắm một số huyệt có tác dụng đặc hiệu, có tác dụng toàn thân để phối hợp điều trị với các huyệt từng vùng.

Cơ chế bâm, châm, cứu giải thích theo học thuyết thần kinh thể dịch chưa giải thích được những điều đã nêu trong các sách châm cứu cổ điển như hệ kinh lạc, phương pháp bổ tả… không giải thích được các quy luật vận dụng các huyệt toàn thân nhất là bệnh lý các tạng phủ, các quy luật lấy huyệt theo thời gian (châm cứu theo giờ, theo mùa…)

III - KẾT LUẬN

Vấn đề điều chỉnh cơ năng của cơ thể qua cách tác động lên huyệt – bấm huyệt và châm cứu đã có một lịch sử khá lâu đời, song để tìm ra những vấn đề cụ thể của nó trên cơ sở khoa học, có thể nói mới chỉ được bắt đầu. Nắm vững được hệ thống lí luận của y học cổ truyền kết hợp với các kiến thức của y học hiện đại, cùng với việc nghiên cứu và áp dụng một cách rộng rãi và nghiêm túc của các nhà khoa học trong nước và trên thế giới chắc chắn rằng trong tương lai không xa, cơ chế tác dụng của bấm, châm, cứu sẽ được sáng tỏ hơn.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Tạo một tài khoản hoặc đăng nhập để bình luận

Bạn phải là một thành viên để tham gia thảo luận.

Tạo một tài khoản

Đăng ký một tài khoản mới trong cộng đồng của chúng tôi. Dễ thôi!


Đăng ký tài khoản mới

Đăng nhập

Bạn đã có tài khoản? Đăng nhập tại đây.


Đăng nhập ngay