hoangnt

Những Mắt Xích Và Giới Hạn Trong Việc Nghiên Cứu Cổ Sử Việt

204 bài viết trong chủ đề này

Rồng thời Lý trên mặt trống đồng cổ Bình Yên

 

Thanh Hóa là xứ sở của rất nhiều trống đồng cổ, trong đó có một chiếc được phát hiện ở vùng đồng bào dân tộc Mường cư trú, thuộc thôn Bình Yên, xã Cẩm Bình, huyện Cẩm Thuỷ. Hiện nay, chiếc trống này đang được lưu giữ tại Bảo tàng tỉnh Thanh Hóa. Trống được đặt tên là Trống Bình Yên. Không đẹp như trống đồng Ngọc Lũ, nhưng lại ẩn chứa nhiều thông điệp lịch sử vô cùng quý giá mà thế hệ ông, cha chúng ta từ hơn ngàn năm trước, muốn gửi gắm cho muôn đời con cháu mai sau.

 

Hoa văn hình rồng thời Lý trên mặt trống Bình Yên
news_88998news_88987image001.gif

Xứ Mường Cẩm Thuỷ, có di sản văn hoá đặc sắc là... trống Mường. Theo các nhà khoa học thì trống Mường còn gọi là trống đồng loại II theo cách phân loại của học giả người Áo - F.He-gơ, được cộng đồng người Mường sử dụng suốt từ 2.000 năm trước cho đến tận ngày nay. Trong lễ hội, trống Mường được đánh cùng cồng chiêng. Trong tang ma, trống được chôn theo các quan lang Mường, như trong mộ táng Mường Động có tên là Đống Thếch ở huyện Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình. Người Mường trong lịch sử là anh em song sinh với người Việt (tức người Kinh); hai dân tộc này vốn cùng một gốc, gọi là nhóm ngôn ngữ tộc người Việt - Mường.

Chính trống đồng của người Mường là một trong những di sản văn hóa mà người Mường kế thừa từ trống Đông Sơn, cách đây trên 2.000 năm. Trống Mường có con đường phát triển riêng, khi nghiên cứu trống Mường, chúng ta thấy có sự tác động của các triều đại phong kiến Đại Việt đến loại trống này. Từ đó có thể giúp cho việc giải mã lịch sử của người Mường, người Việt và lịch sử chung của đất nước ta. Những hoa văn hết sức hiếm hoi được trang trí trên trống Mường còn ghi lại những điều như thế, mà hoa văn trên trống Bình Yên là một ví dụ điển hình.

Trong chuyến khảo sát năm 2002, đoàn công tác chúng tôi đã về nơi đào được trống đồng trong lòng đất, tại thôn Bình Yên, xã Cẩm Bình, huyện Cẩm Thủy.

Trống Bình Yên in đậm dấu tích ngàn năm trên mặt trống, thân trống mang rất nhiều hoa văn “độc đáo” mà chỉ thời Lý mới có. Đó là các hoạ tiết hoa văn hình rồng được trang trí ở vành hoa văn thứ hai trên mặt trống, (tính từ tâm trống ra). Có tất cả 11 hình rồng nối đuôi nhau theo chiều kim đồng hồ, được tạo ra bằng cách in dập chứ không phải khắc vẽ. Đó cũng là một điều đáng lưu ý ở chiếc trống này, hoa văn không tuân theo quy luật đối xứng qua tâm trống như thường thấy. Vì thế đã tạo ra con số lẻ là 11 hình rồng. So sánh hình rồng trên trống khá giống với rồng thời Lý ở những đặc điểm nổi bật là: Rồng hình giun, có 5 khúc uốn chính. Rồng có mào, một chân trước của rồng duỗi ra và gần phía đầu, chân trước còn lại ở vị trí dưới khúc quanh thứ nhất; chân sau của rồng ở vị trí khúc quanh thứ hai, chân sau còn lại ở đoạn gần đuôi, có 3 móng và gót chân có tua. Rồng trên trống đồng Bình Yên khá giống hình tượng rồng ở bệ tượng Phật của chùa Phật Tích thời Lý ở Bắc Ninh, hay hình rồng trang trí bậc thềm đá chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh thời Lý ở Hậu Lộc, Thanh Hoá. Vì vậy, mà hình Rồng trên trống đồng cổ Bình Yên hoàn toàn khác với rồng thời Trần thường được biểu hiện 4 móng trong nhiều công trình trang trí kiến trúc.

Trống đồng Bình Yên

image002.gif

Vành hoa văn hình hoa ở vị trí thứ ba, tính từ tâm của mặt trống trở ra hoặc ở vị trí tang trống. Hoa văn có đặc điểm là những hình tròn có vành ngoài trang trí chấm dải, vành trong điền đầy hình bông hoa 5 cánh có cả nhụy. Mô típ hoa văn này giống với các dải hoa văn hình hoa nối tiếp nhau trang trí ở diềm tượng Kim Cương ở chùa Long Đội Sơn (Hà Nam) và ở một số chùa thời Lý khác. Hoa văn sóng nước thể hiện ở phần chân trống gồm hình những cột sóng nối nhau. Hoa văn này giống hoa văn các cột sóng nước ở bệ đá tượng chùa Phật Tích (Bắc Ninh), thành bậc cửa chùa Bà Tấm (Hà Nội). Với những hoa văn vừa kể trên, sau khi so sánh với hoa văn thời Lý có niên đại rõ ràng ở các chùa Phật Tích (năm 1057), chùa Long Đội Sơn (năm 1121), chùa Bà Tấm (năm 1115), các nhà khảo cổ học đã bước đầu dựng lại được bối cảnh xã hội đương thời.

Thời Lý trong khoảng niên đại thế kỷ XI, XII, trống đồng loại II vẫn được đúc ở nước ta và ảnh hưởng nhiều hoa văn của chùa chiền cùng thời. Từ đó cũng có thể định niên đại chính xác của trống Bình Yên là khoảng thế kỷ XI, XII.

Người Mường ở vùng Cẩm Thủy là chủ nhân chắc chắn của trống đồng loại II. Họ sử dụng trong cuộc sống và chôn trống trong những đám ma của quan lang. Chỉ quan lang mới đủ tiềm lực kinh tế để có được trống và đủ uy lực để sử dụng trống như một thứ “quyền trượng” lãnh đạo cộng đồng và khi chết mới được chôn theo thứ biểu tượng cho quyền lực này.

Việc trống Mường được trang trí hoa văn hình Rồng thời Lý, phải chăng chính quyền Trung ương Đại Việt thời Lý, đã có sự liên hệ mật thiết với quan Lang vùng người Mường miền núi Thanh Hóa. Trong chính sử, có nhiều đoạn chép về việc các vua Lý thường nắm các tù trưởng miền núi bằng cách gả công chúa. Qua chính sử, chúng ta đã biết được chính sách “ki mi”, tức là gả công chúa cho tù trưởng địa phương. Họ trở thành “Phò mã lang”, tức là các chàng rể vùng biên. Điều này thấy rõ nhất ở vùng biên giới thuộc các tỉnh miền núi phía Bắc, hay ở vùng biên giới thuộc huyện Quan Hoá, tỉnh Thanh Hóa thời Lê. Vùng biên giới phía Tây và phía Nam, chính sách của nhà Lý cũng khôn khéo như vậy. Chiêm Thành ở phía Nam thường xuyên quấy nhiễu, nhà Lý cũng đã nhiều lần xuất quân chinh phạt. Để cho vùng đất phía Nam và phía Tây yên ổn, triều đình nhà Lý đã phải củng cố phên giậu, bằng chính sách nêu cao vai trò tù trưởng địa phương giữ yên bờ cõi cho Đại Việt. Sách sử không còn ghi nhiều về chính sách với các tù trưởng mạn trong của nhà Lý, nhưng qua những phát hiện khảo cổ, ta còn thấy được mối liên hệ chặt chẽ giữa triều Lý và tù trưởng Mường.

Không thể là ngẫu nhiên trên chiếc trống đồng cổ Bình Yên, thuộc huyện Cẩm Thủy lại mang đậm dấu ấn hoa văn của triều Lý, đặc biệt lại là những hoa văn biểu thị quyền lực như hoa văn hình rồng. Bình thường, trong thời Lý, nếu dân gian sử dụng hoa văn rồng thì bị khép vào trọng tội, dễ dàng bị chém đầu. Ngoại trừ trang trí ở cung điện trong Hoàng thành, hay trong một số chùa được xếp vào loại “Đại danh lam”. Vậy, biểu tượng rồng được trang trí trên mặt trống Mường, phải chứng tỏ triều đình Lý cho phép mới có được, cũng chứng tỏ, triều Lý vô cùng coi trọng các Quan Lang vùng Mường thời bấy giờ. Suy cho cùng, thì đây cũng có thể là một cách “Đối nội” khôn khéo của triều đình Nhà Lý, trong việc giữ gìn cương vực và một mặt nào đó là giữ gìn khối đại đoàn kết dân tộc: Giữa người miền núi và miền xuôi, giữa cộng đồng người Mường và người Việt trên lãnh thổ Đại Việt.

Có lẽ, thời Lý có chính sách ngoại giao mềm dẻo, đối nội khôn khéo, đoàn kết được các tộc người nên đã mở mang được bờ cõi phía Nam, chủ động tiến công giặc phương Bắc với chiến công của danh tướng Lý Thường Kiệt. Chẳng thế mà suốt hàng trăm năm, cơ đồ triều Lý và đất đai Đại Việt vẫn vững như âu vàng, đúng như một đoạn chép trong Đại Việt sử ký toàn thư: “Bấy giờ thiên hạ vô sự, hoàng hậu đi chơi khắp các nơi núi sông, ý muốn xây dựng chùa tháp”. Cái năm mà hoàng hậu thỏa sức ngao du ấy là năm Ất Sửu (tức năm 1085 dương lịch). Những hoa văn đẹp, nhất là hình con rồng uốn khúc thời này thuộc loại tuyệt đỉnh về mỹ thuật nước Việt đã đọng lại trong từng thành bậc đá chùa chiền, lại còn đọng lại trong nét khắc hoa văn trang trí trên trống cổ Bình Yên thuộc xứ Mường Cẩm Thủy.

Với chính sách ràng buộc các tù trưởng, như tù trưởng người Mường ở vùng Cẩm Thủy, đã đưa Nhà nước phong kiến thời bấy giờ lên đỉnh cao, độc lập về chính trị, phục hưng về văn hóa sau ngàn năm đất nước bị đô hộ.

Hoàng Thị Chiến

 

Bí ẩn của 11 con rồng thời Lý quay cùng chiều kim đồng hồ trên mặt trống, 11 là độ số nào!

 

Trong sách Thiền Uyển tập anh cho rằng, ngay từ thời điểm năm 785 đến 804, tức hơn 200 năm trước khi Lý Công Uẩn lên ngôi vua, thiền sư Định Không đã dự cảm được việc nhà Lý xuất hiện trong lịch sử. Câu chuyện mang màu sắc huyền bí này lại gắn liền với ngôi chùa Quỳnh Lâm (tức chùa Đài hay còn gọi là chùa Lục Tổ, ở Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh) nổi tiếng đất Kinh Bắc.

 

Thời Lý, Bồ Tát Nguyễn Minh Không cho xây chùa Quỳnh Lâm ở Đông Triều, Quảng Ninh, đúc một tượng Phật Di Lạc mạ vàng, 1 trong 4 đại pháp khí của nước Việt thời Lý.

 

Tương truyền, khi tiến hành xây chùa Quỳnh Lâm, lúc mới đào đất đắp nền đã phát hiện 1 cái lư hương và 11 cái chuông đồng. Sau đó, sư sai người đem xuống sông rửa. Một cái chuông bị rơi xuống tận đáy sông. Thiền sư Định Không cho rằng đây là điềm tốt, liền nói với mọi người: "Chữ Thập, chữ Khẩu hợp thành chữ Cổ. Chữ Thủy, chữ Khứ hợp thành chữ Pháp. Chữ Thổ chỉ làng ta ở nên sư quyết định đặt tên làng mình từ Diên Uẩn thành Cổ Pháp". Sau đó, sư tụng rằng:

 

Đất trình pháp khí

Mười chuông đồng (một) tiếng

Họ Lý làm vua

Tâm ấn thành công.

 

Ba phẩm thành công: tôi dịch "Ba phẩm" tượng chữ "Tâm".

 

Mười chiếc chuông đồng là độ số kết thúc của một chu kỳ vũ trụ như đã viết, hay độ số 10 hành Thổ trung tâm Hà đồ - kết thúc một chu kỳ vận động (vận động cùng chiều kim đồng hồ), điều này có thể hiểu là cấu trúc liên hợp Hà đồ - Lạc thư, cấu trúc này chưa từng được giải thích bởi bất kỳ một cuốn sách Lý học Đông phương nào.

 

"Vạn pháp quy Tâm": cũng tương đương với luân xa tim, luân xa số 4. Để hiểu bản chất của chữ Tâm, đọc bộ sách Duy thức học.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Cận cảnh đàn tế nghìn năm dưới Nhà Quốc hội

 

Đàn tế nghìn năm phát lộ dưới Nhà Quốc hội hiện đại Trong khi xây dựng hầm tòa Nhà Quốc hội, các chuyên gia khảo cổ học phát hiện di tích tế lễ Trời - Đất của các Hoàng đế đầu thời Lý, di tích chưa từng có trên thế giới.

 

1di_tich_copy.JPG

 

Mặt bằng tổng thể di tích kiến trúc tâm linh đặc biệt thời Lý, tại hố G7-G8, chiều rộng đông tây là 19,5 m. Kiến trúc trung tâm có 2 vòng tròn đồng tâm: vòng tròn trong có đường kính 9,34 m, vòng tròn ngoài đường kính 14,5 m.

 

2_di_tich_copy.jpg

Vị trí của di tích vừa phát lộ nằm phía dưới, cạnh Nhà Quốc hội sắp khánh thành.

 

3_di_tich_copy.jpg

 

Ngay sau khi phát lộ, các nhà khảo cổ học, sử học đã có mặt để tìm hiểu, song, việc xác định tên gọi rất khó khăn bởi đây là lần đầu tiên họ được tiếp cận một di tích có hình thù đặc biệt như vậy.

 

4_di_tich_copy.jpg

 

Chi tiết chính tâm kiến trúc trung tâm.

 

5_di_tich_copy.jpg

 

Mặt bằng di tích kiến trúc tâm linh đặc biệt thời Lý, tại hố G7-G8 được minh họa bằng người đứng, tượng trưng cho các vị trí cột gỗ. Các nhà khoa học nhận định đây là kiến trúc tâm linh để tế Thượng Đế và Ngũ Đế có phối hưởng tế tự liệt tổ, liệt tông của hoàng đế nhằm khẳng định tính chính đáng của Vương triều được Trời trao Thiên mệnh, một loại kiến trúc không thể tách rời trong cấu trúc tổng thể của các vương đô cổ phương Đông.

 

6_di_tich_copy.jpg

 

Sau khi thảo luận về vị trí, kiến trúc, di vật, đối sánh với các di tích đã nghiên cứu ở Thăng Long - Hà Nội như đàn Nam Giao, đàn Xã Tắc ở Việt Nam và các nước khác, bước đầu các nhà khoa học thống nhất đề tên gọi là Di tích tế lễ Trời – Đất của Hoàng đế đầu thời Lý.

 

7_di_tich_copy.jpg

 

Chi tiết hàng cọc gỗ và dây buộc liên kết bao quanh kiến trúc trung tâm. Cận cảnh đàn tế nghìn năm dưới Nhà Quốc hội Chi tiết cấu kiện đá đặt chính giữa ở kiến trúc trung tâm. Các nhà khoa học nhận định: “Kiến trúc này có giá trị đặc biệt quan trọng trong tổng thể của di tích kiến trúc Lý đã xuất lộ ở Thăng Long”. Niên đại của di tích từ khoảng năm 1010 - 1048 và sau đó vẫn tiếp tục được sử dụng cho đến giữa thế kỷ XII.

 

8_di_tich_copy.jpg

 

Chi tiết cấu kiện gỗ trung tâm của kiến trúc phía Đông.

 

8kien_truc_phia_Dong_2_zingJPG.jpg

 

10_di_tich_copy.jpg

 

Mặt bằng kiến trúc phía Đông.

 

11_di_tich_copy.jpg

 

Theo Viện Hàn lâm KHXH, đây là di tích văn hóa tâm linh thuộc loại sớm nhất của Việt Nam, là di tích tâm linh độc đáo chỉ có ở kinh đô đầu triều Lý. Trong bối cảnh phương Đông đương thời, đây là loại di tích thể hiện tinh thần tự chủ, tự cường cao của Đại Việt thời Lý.

 

12_di_tich_copy.jpg

 

Viện Khảo cổ học đã tiến hành các biện pháp bảo vệ khẩn cấp di tích như lấp cát tạm thời bảo vệ nguyên trạng. Toàn bộ di tích đã được scan 3D, vẽ, chụp ảnh, đo đạc, ghi chép để xây dựng hồ sơ khoa học.

 

13_di_tich_copy.jpg

 

Chi tiết cấu kiện gỗ của kiến trúc và mặt bằng kiến trúc phía Tây. Trước tầm quan trọng đặc biệt của di tích, Chủ tịch Viện Hàn lâm KHXH kiến nghị phương án bảo tồn. Sau khi ghi nhận ý kiến từ các nhà khoa học, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thống nhất việc cần bảo tồn, bảo tàng nguyên trạng đối với di tích đàn tế nói riêng cũng như các di tích quan trọng khác ở khu trung tâm Hoàng thành nói chung.

 

Đàn tế thì thế giới đầy.

 

Đây không phải là đàn tế mà là đài quan trắc thiên văn, 16 trục định vị qua tâm đài quan trắc dùng để làm dấu các chòm sao quy ước trong thiên văn khi quan trắc được sự di chuyển của chúng, có lẽ đây là 16 cung độ trên thiên bàn của bộ môn ứng dụng Thái Ất.

 

Thái Ất tức là Thái Nhất, tên gọi khác của thần Bắc Cực. Trong tam thức, Thái Ất chuyên về thiên, nó nghiên cứu sự chuyển động của các tinh tú ảnh hưởng đến trái đất, đến con người. Theo một số kinh điển, Thái Ất là tôn thần của Thiên đế, ở trước sao Bắc thần, chủ sai khiến 16 thần. Sao Thái Ất chủ về dự đoán gió mưa, hạn hán lụt lội, chiến tranh đói rét, bệnh tật, xem tình hình trong nước, sao Thái Ất chủ sự hưng vong, lịch số dài ngắn của quốc gia...

 

Kiến trúc thiên đường: dàn khung quanh lỗ trung tâm định vị theo hướng bắc - nam theo kim chỉ Nam la bàn, chi tiết này hoàn toàn chính xác theo dấu chỉ Bắc - Nam trên sơ đồ đài quan trắc. Đồng thời, hai bên có hai khung định vị chính xác trục Đông - Tây.

 

Kiến trúc minh đường: thấy rõ hình Bát quái trên mặt bằng, đây cũng là nơi quan sát sự vận động của Thất tinh, sẽ cùng phối hợp xem xét với kết quả thiên văn ở Kiến trúc thiên đường.

 

Dàn tường cột gỗ chôn xung quanh bảo vệ sự cố định cho đài quan trắc, công việc này vô cùng quan trọng vì quan trắc sự di chuyển các chòm sao là rất nhỏ. Ở đây rõ ràng không khám phá được đồ tế lễ xung quanh hay dưới "đàn tế". Không chỉ vậy, các cấu trúc quan trắc thường bằng đá bởi nếu làm bằng gỗ dễ ảnh hưởng của thời tiết làm thay đổi kết cấu, tức sai vị trí chuẩn làm dấu trên đó. Chúng cũng được che chắn, bảo vệ nhưng không làm ảnh hưởng đến tầm quan sát bầu trời.

 

Việc quan trắc này vô cùng quan trọng, đặc biệt để xác định chính xác ngày Đông chí, để từ đó hiệu chỉnh lịch Âm dùng trong xã hội và tế lễ của triều đình như lễ tế xuân thu chẳng hạn.

 

Trong Kinh Thư, có nói đến sự kiện vua Nghiêu chỉ đạo quan trắc tại đài quan trắc thiên văn ở bốn phương của quốc gia, nơi biên giới giáp với các quốc gia khác, tâm định vị là kinh đô. Tuy nhiên, lại không có nói đến đài quan trắc đặt tại kinh đô như đài quan trắc thiên văn của nhà Lý.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Âm lịch dưới góc nhìn khoa học

 

Hàng ngày khi nhìn lên cuốn lịch treo tường cũng như nhiều loại lịch khác thông dụng trong công việc và cuộc sống hàng ngày của người Việt Nam, chúng ta đều thấy có hai phần dương lịch và âm lịch. Dương lịch giúp người ta lên kế hoạch làm việc, tính chu kì thời tiết, nói cách khác về cơ bản nó mang phần nhiều ý nghĩa vật chất. Trong khi đó, âm lịch lại có một ý nghĩa rất đặc biệt đối với đời sống văn hóa và tinh thần của người phương Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng. Hiểu về âm lịch như thế nào cho đầy đủ, cho đúng cả về cơ sở khoa học lẫn ý nghĩa văn hóa, là điều không nên bỏ qua.

 

Cơ sở thiên văn học của Âm lịch

 

Khác với Dương lịch được đặt ra dựa trên chu kỳ chuyển động của Trái Đất quanh Mặt Trời, Âm lịch dựa trên chu kỳ chuyển động của Mặt Trăng quanh Trái Đất.

 

Mặt Trăng chuyển động quanh Trái Đất mỗi vòng hết 27,32 ngày. Tuy vậy trên thực tế, vì bản thân Trái Đất còn có chuyển động quanh Mặt Trời nên Mặt Trăng cần thêm một chút thời gian nữa để trở về vị trí cũ trên bầu trời khi nhìn từ Trái Đất, do vậy chu kỳ mà chúng ta quan sát thực tế của Mặt Trăng là 29,53 ngày. Chu kỳ này được gọi là một "tuần trăng". Từ xa xưa người phương Đông đã nhận thấy khoảng 12 tuần trăng tương đương với một chu kỳ thời tiết. Để thuận tiện cho việc quan sát, dự đoán thời tiết phục vụ sản xuất nông nghiệp, người ta chọn một chu kỳ này là một năm, mỗi tuần trăng gọi là một tháng. Tuy vậy, cứ 3 năm thì lại bị chậm so với chu kì thời tiết khoảng 1 tháng nên cần có thêm một tháng bù vào. Những năm có tháng bù vào này được gọi là năm nhuận, chẳng hạn như năm Giáp Ngọ vừa qua là một năm nhuận.

 

Người phương Đông xưa lại đặt ra Can và Chi, hay gọi đầy đủ là Thiên Can và Địa Chi, đều có cơ sở từ quan sát thiên văn. Thời trước, người ta chưa biết rằng các ngôi sao trên bầu trời đều là các thiên thể như Mặt Trời, chỉ có riêng các hành tinh là chuyển động quanh Mặt Trời. Tuy vậy, người thời đó đã nhận thấy có năm đốm sáng không đứng im so với nền trời sao mà vị trí thay đổi mỗi ngày, họ gọi chúng là các hành tinh. Năm hành tinh này gồm: Sao Thủy, Sao Kim, Sao Hỏa, Sao Mộc và Sao Thổ, được gọi là ngũ hành  (Sao Thiên Vương và Sao Hải Vương chỉ có thể quan sát qua kính thiên văn nên người thời xưa không nhìn thấy). Khi quan sát năm hành tinh này, người phương Đông cổ nhận thấy mỗi hành tinh đều có một chu kỳ nhất định để chúng trở về vị trí cũ so với nền trời sao. Cụ thể như sau: Sao Thủy: khoảng 0,25 năm; Sao Kim: khoảng 0,6 năm; Sao Hỏa: khoảng 2 năm; Sao Mộc: khoảng 12 năm; Sao Thổ: khoảng 30 năm.

 

 

Sao Hỏa cứ hai năm lại về vị trí cũ, nên mỗi chu kỳ của nó được coi tương ứng với một hành trong ngũ hành (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ), mỗi hành hai năm như vậy nên có một năm mang tính dương và một năm mang tính âm. Tổng cộng mỗi chu kỳ như vậy là 10 năm, vậy nên người ta đặt ra 10 can tương ứng với âm và dương của mỗi hành.

 

10 can gồm: Giáp, Ất tương ứng với Mộc; Bính, Đinh tương ứng với Hỏa; Mậu, Kỷ tương ứng với Thổ; Canh, Tân tương ứng với Kim; Nhâm, Quý tương ứng với Thủy.

 

Trong khi đó Sao Mộc hết khoảng 12 năm trở về vị trí cũ. Con số 12 này cũng trùng với số tuần Trăng trung bình của một năm. Vậy nên 12 chi được đặt ra, mỗi chi gắn vào một năm theo chu kỳ này và vào một tháng trong năm. Sao Mộc có chu kỳ trùng khớp như vậy nên còn được gọi là Tuế Tinh. 12 chi gồm có: Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi.

 

img_574.jpg

 

Mỗi năm âm lịch được gọi tên bằng một can đi với một chi, ví dụ năm vừa rồi là năm Giáp Ngọ, năm tới là năm Ất Mùi. Vì bội số chung nhỏ nhất của 10 và 12 là 60 nên có thể thấy ngay rằng cứ 60 năm thì chu kỳ mới kết thúc; chẳng hạn chúng ta đón Tết Ất Mùi bây giờ thì phải đúng 60 năm sau mới lại được thấy Tết Ất Mùi.

 

Con số 60 này cũng chính là bội số chung nhỏ nhất của 2, 12 và 30 (chu kỳ của các hành tinh như nêu trên), nên 60 năm cũng chính là khoảng thời gian tương đối chính xác để tất cả 5 hành tinh quay trở lại vị trí tương đối như cũ. Chu kỳ này còn thường được gọi là Lục Thập Hoa Giáp. Ngoài ra, như chúng ta đều biết, can chi không chỉ được ứng dụng để gọi tên tháng, năm mà còn dùng cho cả tên gọi ngày, giờ.

 

Như vậy có thể thấy rằng âm lịch mà chúng ta đang sử dụng có cơ sở rất mật thiết từ các quan sát thiên văn. Dựa vào chu kỳ chuyển động của các thiên thể mà người ta đưa ra các qui ước tính thời gian, và ngược lại qua quan sát vị trí và chuyển động của các thiên thể cũng có thể phán đoán được các giá trị thời gian (Điều này được ứng dụng nhiều trong tra cứu lịch sử. Nhiều chi tiết trong lịch sử không rõ ngày tháng sau đó được làm rõ nhờ những văn bản còn lại có nhắc đến vị trí của các thiên thể trên bầu trời).

 

Khác với nhiều người vẫn nghĩ lịch chỉ đơn giản là để đếm thời gian, trên thực tế lịch cần đáp ứng được việc dự đoán chu kỳ chuyển động của các thiên thể và qua đó dự đoán được chu kỳ thời tiết, qui luật xảy ra các hiện tượng tự nhiên. Có thể thấy mặc dù đi theo một hướng khác với phương Tây ở nghiên cứu khoa học nói chung và lịch pháp nói riêng,  nhưng văn hóa phương Đông cũng thể hiện tinh hoa riêng của mình.

Điều gì hạn chế ở Âm lịch?

 

Âm lịch chúng ta đang sử dụng đã được cải biên thêm về cách tính năm nhuận cho phù hợp hơn với Dương lịch, vì thế gọi một cách chính xác thì lịch cổ truyền ngày nay chúng ta sử dụng là "Âm Dương lịch". Tuy vậy để gần gũi và dễ hiểu thì trong bài này tôi vẫn xin phép gọi ngắn gọn là "Âm lịch" như vẫn gọi từ đầu bài viết.

Như chúng ta đã thấy, Âm lịch có cơ sở khoa học rõ ràng và mang màu sắc văn hóa đặc sắc phương Đông.

 

Tuy nhiên, cũng không nên phủ nhận việc nó vẫn có hạn chế so với Dương lịch. Hạn chế cơ bản nhất là: vì trên thực tế một chu kỳ Trái Đất chuyển động quanh Mặt Trời không phải là tương đương với 12 tuần Trăng (12 tháng Âm lịch) mà dài hơn khoảng 10 ngày,  do đó dù Âm lịch được bổ sung việc tính năm nhuận nhưng sự dịch chuyển về ngày tương ứng hàng năm khiến cho ngày tháng trong Âm lịch không phản ánh chính xác chu kỳ thời tiết như Dương lịch (chu kỳ thời tiết trên Trái Đất là do Trái Đất chuyển động quanh Mặt Trời).

 

Chẳng hạn, ngày xuân phân Mặt Trời chiếu vuông góc với xích đạo của Trái Đất, trong dương lịch luôn rơi vào ngày 21 tháng 3, có chăng có năm lệch đi chỉ vài giờ. Trong Âm lịch có 24 tiết khí và có tiết xuân phân này nhưng vì sự chênh lệch chu kì nên mỗi năm xuân phân lại rơi vào ngày khác nhau (Ví dụ: năm Ất Mùi 2015, Xuân phân là ngày mùng 2 tháng 2 Âm lịch, nhưng đến năm sau là Bính Thân thì xuân phân theo Âm lịch lại là 12 tháng 2). Không chỉ xuân phân mà cả 23 tiết khí còn lại trong năm tuy là được qui ước bởi người phương Đông nhưng lại không rơi vào cùng ngày hàng năm theo Âm lịch, chỉ đúng chu kỳ theo Dương lịch.

 

Chúng ta thấy rằng để dự đoán chu kỳ thời tiết thì Âm lịch không được tiện lợi và chính xác như Dương lịch. Vậy nên trong cuộc sống hiện đại, người phương Đông nói chung và người Việt chúng ta nói riêng cần sử dụng và kết hợp thật hài hòa: Sử dụng Dương lịch không chỉ cho hành chính mà còn cho dự đoán chu kỳ thời tiết, mùa màng, hiện tượng tự nhiên; đồng thời sử dụng Âm lịch đối với những nét văn hóa truyền thống quí giá cần được gìn giữ và phát triển, đặc biệt nhất chính là Tết cổ truyền đầu năm của chúng ta.

 

Không có tháng mười một?

 

Dân gian ta thường đếm tháng Âm lịch là "Một, Chạp, Giêng, Hai, ...". Điều đó có nghĩa là tháng Một nằm trước tháng Chạp. Có ý kiến cho rằng đó là do người xưa đọc cho thuận miệng và ngắn gọn còn đúng ra là tháng mười một. Trên các cuốn lịch treo tường ngày nay người biên soạn cũng thường ghi tháng Âm lịch bằng cách đánh số từ 1 đến 12 giống như Dương lịch.

 

Tuy nhiên, nếu xem xét kỹ cả về logic lẫn lịch sử thì không phải như vậy. Chúng ta có thể để ý rằng tháng thứ mười một trong năm (được gọi là "Một" trong cách nói dân gian nêu trên) là tháng Tý, tức là tháng đầu tiên của một chu kỳ 12 chi. Thực tế trong lịch sử đã có một giai đoạn khá dài người phương Đông lấy tháng này làm tháng đầu tiên của năm. Tháng Tý là tháng khởi đầu, và thông thường ngày Đông chí hàng năm luôn rơi vào tháng này. Sau này qui ước tính điểm khởi đầu của năm thay đổi nên tháng Dần vốn là tháng thứ ba lại được chọn làm tháng đầu tiên của năm. Dù vậy nếu để ý ngay trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta thấy nhiều người am hiểu văn hóa phương Đông vẫn xem tuổi, xem ngày trong năm với mốc là ngày Đông chí. Chẳng hạn người 40 tuổi (Âm lịch) vào năm Giáp Ngọ thì thực tế đã được coi là bước sang tuổi 41 vào sau ngày Đông chí của năm Giáp Ngọ (tức ngày 22 tháng 12 năm 2014 vừa qua).

 

Như vậy, cách đếm "Một, Chạp, Giêng, Hai, ..." là chính xác. Tháng thứ mười một trong năm tính từ Tết nguyên đán gọi là tháng Một, còn tháng đầu tiên trong năm là tháng Giêng chứ không phải tháng Một như đa số hiểu nhầm ngày nay.

 

Một mùa xuân mới vừa tới, nhìn lại đôi nét về lịch cổ truyền của dân tộc, chúng ta không chỉ hiểu hơn về ý nghĩa khoa học của cuốn lịch sử dụng mỗi ngày mà thông qua đó còn hiểu một cách sâu sắc hơn về tinh hoa văn hóa và vũ trụ quan phương Đông.

 

Ánh Toàn

 

 

Chúng ta thấy rằng để dự đoán chu kỳ thời tiết thì Âm lịch không được tiện lợi và chính xác như Dương lịch:

 

Sai nặng rồi, Âm lịch là chính xác nhất bởi được tính toán và điều chỉnh cả theo chu kỳ vũ trụ 25.920 năm, nên dân gian Việt Nam có lưu truyền bài thơ:

 

Ai về nhắn họ Hy Hòa,

 Nhuận năm sao chẳng nhuận và (vài) trống canh.

 

Bởi chỉ dùng Dương lịch, nên sau mỗi 2.160 năm, điểm xuân phân lại di chuyển 360/12 độ, tức là ít nhất mỗi năm phải xác định lại điểm chuẩn này, phương Đông chọn ngày Đông chí. Đấy là lý do có hai đài thiên văn thời Lý trong bài viết trên.

 

Lịch sử thế giới đã cho thấy, có nhiều quốc gia thời cổ đại với các lễ hội mùa xuân lại rơi vào mùa đông mà không hiểu tại sao! Đấy là do họ chỉ dùng mỗi Dương lịch mà không có các điều chỉnh tế vi.

 

Chúng ta cũng nên hiểu, bốn mùa xuân-hạ-thu-đông không chỉ có nghĩa là phụ thuộc vào mỗi quá trình chuyển động của trái đất xung quanh mặt trời, đây là trạng thái Tứ Tượng quy ước trong thuyết Âm Dương Ngũ Hành, cho nên liên quan đến các tổ hợp thiên văn lớn hơn nữa. Do vậy phải điều chỉnh độ số tương ứng như ví dụ về chu kỳ vũ trụ 25.920 năm, cứ sau khoảng thời gian này trục trái đất trở về vị trí cũ và cũng phải tương hợp vị trí của nó trong hệ mặt trời với sai lệch vị trí rất tế vi, nguyên nhân do chuyển động xoắn ốc của mọi hệ thiên văn và một số dạng chuyển động quy luật khác có thể mô tả bằng toán học.

 

 

Tham khảo:

 

Tiết Đông chí, theo lịch Trung Quốc cổ đại, là tiết khí khởi đầu bằng điểm giữa của mùa đông, nó là một trong hai mươi tư tiết khí trong nông lịch. Theo định nghĩa này, điểm bắt đầu của nó trùng với điểm đông chí (tiếng Anh: Winter solstice) tại Bắc bán cầu theo quan điểm của khoa học phương Tây. Tuy nhiên, theo khoa học phương Tây thì nó là điểm bắt đầu của mùa đông tại Bắc bán cầu và tương ứng là bắt đầu mùa hè ở Nam bán cầu, thời điểm mà Mặt Trời xuống tới điểm thấp nhất về phía nam trên bầu trời để sau đó bắt đầu quay trở lại phía bắc.

 

Theo quy ước, tiết đông chí là khoảng thời gian bắt đầu từ khoảng ngày 21 hay 22 tháng 12 khi kết thúc tiết đại tuyết và kết thúc vào khoảng ngày 5 hay 6 tháng 1 trong lịch Gregory theo các múi giờ Đông Á khi tiết tiểu hàn bắt đầu.

 

Cha nội này - Gregory lấy thành quả lịch pháp của các nhà khoa học đặt theo tên mình? và "bắt thế giới" theo cái sai của Dương lịch này với mặt trời quay quanh trái đất?

Share this post


Link to post
Share on other sites

Nhà văn Paul Nguyễn Hoàng Đức tự cho mình là nhà triết học hàng đầu Châu Á, tuy nhiên hầu hết sử dụng  triết học Tây Âu nhưng không rõ triết học (Lý học: triết học về quy luật tổng thể của vũ trụ) Á Đông như về đạo Lão (Đạo Đức Kinh và các học thuật chuyên biệt), đạo Phật (thiên kinh vạn quyển), cũng như học thuyết Âm Dương Ngũ Hành với sự nổi trội là cuốn Kinh Dịch của Nho giáo và các phương pháp ứng dụng diệu kỳ khác.

 

 

Thượng Đế là ai?
Tác giả Nguyễn Hoàng Đức -  Ý hướng tính văn chương, NXB Văn hóa dân tộc.

I. VÀI LỜI CÙNG BẠN ĐỌC

 

Bạn đọc thân mến, Thượng Đế là một đề tài lớn, thậm chí lớn nhất, chính thế mà tôi muốn có đôi lời muốn chia xẻ với bạn đọc. Tất nhiên, đề tài Thượng Đế ở đây là một đề tài thần học chứ không không tôn giáo. Hiển nhiên, mỗi chúng ta đều có quyền tín ngưỡng của mình, theo tôn giáo hoặc không theo, theo tôn giáo này hay tôn giáo kia… Nhưng có một thực tế với những cây bút ở ta là, sau một thời gian nổi tiếng hay thành công như sấm gieo chớp giật, hầu hết các tác giả đều mong muốn “cơi nới” tầm vóc của mình, sao cho nó trở thành một lâu đài nguy nga hơn, nhưng dường như là bất khả. Vậy lý do chính là gì?

 

Trong tôn giáo cổ Bách Thần Ai Cập, Lưỡng Hà... không có Thượng Đế theo quan niệm sinh ra toàn thể vũ trụ hay là nguyên nhân đầu tiên của vũ trụ. Do vậy, cần nghiên cứu thêm về chúng.

 

Khi chúng ta muốn căng một chiếc dù, muốn nó tỏa rộng ra thì ta phải nâng đỉnh chóp càng lên cao thì chiếc dù càng tỏa rộng. Đỉnh chóp đó là gì? Về mặt kiến trúc và tinh thần, đó là đền thờ ở khắp mặt đất này từ Ai Cập đến Ăng Ko Vát , đến châu Âu rồi tận cùng châu Mỹ… Chính triết gia Nietzsche đã thú nhận “Đạo Tin Lành là cha đẻ của triết học Đức”. Có thể nói, tôn giáo, thần học là cha đẻ của triết học, để từ đó triết học là cha đẻ của văn học. Nước Nga là một cường quốc về văn học và nghệ thuật nhưng lại không phải cường quốc về triết học, bởi lẽ người Nga sống thuần hậu hồn nhiên ít đặt vấn đề khúc triết như người Đức, người Pháp. Nhưng văn hào Dostoievski lại trở thành nhà văn đồ sộ tiên phong bậc đệ nhất thế giơí với tiểu thuyết “Anh em nhà Ca-ra-ma-dốp” với đề tài thần học. Mà đề tài đó ông dựa vào đâu? Ông dựa vào thế mạnh truyền thống của đạo Chính thống Nga…

 

Các công trình này mang nhiều ý nghĩa, chẳng hạn thờ Phật, Tiên, Thánh, Thần... và Thượng Đế (có nhiều Thượng Đế chứ không phải "Một"), nhưng Thượng Đế này là "nhân thần" chỉ dẫn họ con đường Đạo để giải phóng chứ không phải như là một tiên đề đã nói ở trên, cẩn phải đi sâu và hiểu rõ bản chất của chúng, dựa trên học thuyết về vũ trụ và nhân sinh.

 

Tôn giáo là định mệnh của khoa học, đó là một phương ngôn nổi tiếng thế giới, bởi khoa học chỉ xuất hiện và tiến triển khi người ta muốn cầm ngọn đèn soi vào thế giới huyền bí của tôn giáo, điều này đã được cả Newton và Einstein tuyên ngôn trong sự nghiệp của mình.

 

Mọi sự vật hiện tượng trong vũ trụ đều liên quan đến nhau, vấn đề tôn giáo và khoa học cũng không ngoại lệ, đâu biết rằng các vị thánh ban đầu xây dựng tôn giáo dựa trên các nghiên cứu hoàn toàn khoa học, hãy nghiên cứu lịch sử và văn hóa Việt, rồi nhận thấy tôn giáo Việt là như thế nào đã rồi tiếp tục phân tích cũng chưa muộn.

 

Trong thực tế, khi các đoàn xuất khẩu lao động Việt Nam sang I rắc làm ăn, dân bản địa hỏi “anh theo tôn giáo nào”, nhiều người Việt thật thà nói “tôi không theo tôn giáo nào”, thế là người ta lủi không thèm quan hệ với người Việt đó nữa, bởi lẽ trong quan niệm của họ: không theo tôn giáo là kẻ vô thần, không biết sợ ai, không biết sợ cái gì, thì không thể có đạo đức được. Về sau Đại Sứ Quán Việt Nam phải dặn dò những người đến sau là “nếu được hỏi anh theo tôn giáo nào, thì cứ nói là theo Đạo Phật”…

 

Vấn đề này không liên quan, tuy nhiên tôi chỉ rõ một cách đơn giản, một trong năm tôn giáo cổ Việt là đạo Tổ Tiên, nếu không biết chuyện này thì nói chuyện tôn giáo cao siêu làm gì. Trong thờ tổ tiên có bức hoành phi "Cửu huyền thất tổ" tức tổ tiên xa đến vô cùng, trong đây có cả Thần, Tiên, Thánh, Phật, Chúa, Mẫu... vì vậy trong một gia đình ban thờ tổ tiên là hoàng tráng nhất. Tượng trưng đạo thờ tổ tiên là cái giếng Việt, giếng nước dùng chung ở trung tâm một cụm xóm, chỉ khi nó được khai thông thì nền Thánh triết mới được tuôn trào.

 

Nếu xem lại lịch sử thế giới thì tội ác do tôn giáo gây ra thì khủng khiếp nhất, một bậc Thánh nhân đã nói: "cái tưởng cho là Thiện khi đã Ác thì Ác vô cùng". Ví dụ, Hitler theo Cơ đốc giáo, chính Hitler lại tổ chức tiêu diệt người Do Thái, cội nguồn của Cơ Đốc giáo, đó là Cựu Ước, nếu không có Cựu Ước thì Cơ đốc giáo không thể thành lập được.

 

Còn những người vô thần với đóng góp to lớn của các nhà khoa học vô thần cho thế giới, điều này là không ai có thể phủ nhận, khi vô thần thì nhận định mới khách quan, không cố chấp. Mặc khác, chưa chắc người vô thần không có tôn giáo hay Đạo, nên phân biệt rõ hai khái niệm này, chẳng hạn ví dụ đạo thờ tổ tiên, thờ thần thánh có công với nước, trong nhà cũng thường có ban thờ thần ví dụ ban thờ ông Thiên ngoài trời, mâm cơm cúng trời đất đêm giao thừa và khắp nước Việt đâu cũng có đình, đền, chùa, miếu, thờ họ, kinh thành Thăng Long có điện Kính Thiên, đài Xã Tắc... Do vậy, vấn đề đặt ra ở trên với chỉ một sự kiện giản đơn về mặt môi trường văn hóa, địa lý là sơ sài và hời hợt, và nếu "có thần" mà không có đạo tổ tiên để thờ thì khác gì đánh cờ mà chưa sạch nước cản vậy.

 

Sách Bách khoa thần học có viết “không có tôn giáo nào dị đoan cả”. Tại sao? Bởi vì tôn giáo nào cũng phải có kinh sách, tức sự lập thuyết, vì thế nó không thể chỉ là thứ dị đoan “thần cây đa ma cây gạo”. Tôn giáo xét khởi nguyên còn là những trường học đầu tiên của loài người…

 

Không có cơ sở, vì lập thuyết chỉ trong chừng mực, mà phải có học thuyết, phương pháp ứng dụng, bậc thầy chứng ngộ hay đắc đạo... và quan trọng nhất là phải giải thích một cách khoa học về vũ trụ quan và nhân sinh quan đầy đủ.

 

Tại sao cho "thần cây đa, ma cây gạo" là dị đoan? Chúng ta đã nghiên cứu sâu về văn hóa và lịch sử trong dân gian chưa? Cây gạo là "biểu tượng của ông cố của Thượng Đế" đấy, cây đa là biểu tượng của... cần xem lại truyền thống tranh dân gian Hàng Trống về bức tranh Tam Đa.

 

Theo các chuyên gia, bạn đi đến bất cứ thành phố nào đều thấy có bốn tòa nhà lớn và đẹp nhất:

 

1- Tòa thị chính, để người ta quản lý điều hành thành phố

2- Trường đại học, để người ta giáo dục những công dan trí thức cho thành phố

3- Nhà hát, để người ta hưởng thụ văn hóa và văn nghệ

4- Nhà thờ, để người ta sinh hoạt và đưa tinh thần đến lý tưởng siêu việt.

 

Những cái trên chỉ mới thấy bằng mắt trong quá trình phát triển xã hội, còn cái nhà ở gia đình và nơi thờ tự trong đó thì sao? Về bản chất, Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 đã phát biểu: "có thể sống mà không cần tôn giáo". Chẳng hạn, 1.000 năm nô lệ của Việt Nam hay trong trận chiến giải phóng dân tộc trước ách nô lệ của thực dân Pháp, chỉ có con đường chết hay tự do mà thôi! đây là một ví dụ.

 

Nhà thờ đưa tinh thần đến lý tưởng siêu việt? Cái này chưa rõ ràng, lý tưởng siêu việt là gì?. Khoa học cũng đang đi tìm cái siêu việt, chẳng hạn những phần tử vật chất nhỏ nhất của vũ trụ nhưng phương pháp thí nghiệm là không thể tìm ra được, bởi họ chưa có học thuyết về bản chất vũ trụ, nhưng qua kết quả này chúng ta sẽ có những thành quả vô cùng quý báu khi nhận định về "cái được gọi là siêu việt".

 

Cực đoan, giả sử có cái gọi là "lý tưởng siêu việt" thì các tôn giáo, Đạo khác có không? Chúng ta đã dùng phương pháp đối chiếu lẫn nhau chưa?

 

Triết gia Hegel nói: “Lịch sử châu Âu là lịch sử của cuộc đối kháng giữa Nhà nước và Nhà thờ, và là lịch sử hòa giải giữa chúng”. Tại sao? Hegel minh giải: “Nhà thờ là những giá trị duy niệm, nhà nước là những giá trị duy sinh”. Cái của Nhà thờ dù có tốt đẹp bao nhiêu cũng chỉ là cầu nguyện mà không phải thực hành; cái của Nhà nước dù có hùng hục làm đến đâu cũng không phải là cái đạt đến lý tưởng duy niệm. Bởi thế hai bên phải soi chiếu cho nhau.

 

Sai, không có thực hành hay không có phương pháp, không được được xây dựng từ học thuyết về vũ trụ quan và nhân sinh quan thì giải quyết vấn đề gì khi chỉ mỗi suy nghĩ? Lý tưởng suy niệm là cái gì? Bản chất đối kháng là do "bản chất của con người khi có vai trò quan trọng" để hưởng thụ điều kiện thực tại mà thôi, cho nên đó là nguồn gốc. Lịch sử chứng minh tội ác tôn giáo như Cơ Đốc giáo là cực kỳ ghê gớm đối với các dân tộc.

 

Nếu bạn là tác giả, bạn là một thành phố, thì bạn đã có mấy ngôi nhà nguy nga trong bốn ngôi nhà đó? Chúng ta biết những tài năng của con người liên thông lẫn nhau. Chẳng hạn, người bị điếc lâu ngày sẽ câm, vì miệng liên thông với tai… Có một họa sĩ nói với tôi, anh không hiểu gì về âm nhạc lắm. Thế thì làm sao hội họa của anh có thể tiếp cận cái hiện đại, bởi lẽ một mảng rất lớn của hội họa hiện đại là mang tính nhịp điệu… Còn với nhiều cây bút của chúng ta chưa nói đến các lâu đài lớn, thậm chí vài cái lều ọp ẹp, họ cũng không có đủ… Học chưa xong cấp ba, hầu hết chưa biết ngữ pháp, chưa hiểu khái niệm mệnh đề là gì, thế rồi cứ ào ào tiến lên kiểu “hát hay không bằng hay hát”, tung tẩy viết văn, làm thơ kiểu công-nông-binh… Chính vì lý do này, mà câu hỏi làm sao chúng ta có được nhà văn chuyên nghiệp đã trở thành một thứ vấn nạn vô cùng xa hoa. Còn câu hỏi làm sao chúng ta có được thi hào hoặc văn hào thì xa xôi như một dải ngân hà…

 

Triển khai không hợp lý, mang tính cá nhân, lạc đề.

 

Bạn có muốn khắc phục lối viết văn kiểu “ăn xó mó niêu” không? Muốn khắc phục thì bạn dừng có ngại leo lên đỉnh non cao nhất của loài người, đó chính là đề tài Thượng Đế. Chính các triết gia và văn hào thế giới đã nói “Chủ nghĩa nhân văn châu Âu chủ yếu được kế thừa bởi tinh thần Ki-tô giáo”.

 

Viết sai, Ki-tô giáo giả sử bắt đầu cách đây 2.000 năm, nền tảng dựa trên kinh Cựu ước của Do Thái giáo và một số thành quả khác nữa..., trước đó thì sao? Lịch sứ nó thế nào? Mục đích theo giáo thuyết đã đạt bao nhiêu hay bao nhiêu người đạt thành quả "thiên đường" hay "cứu rỗi" theo nó?... đề tài Thượng Đế chưa chắc là cao nhất, chỉ sau khi bị chính tôn giáo "lợi dụng thương hiệu" mới ra nỗi vậy. Tội ác gây ra với các dân tộc thì khủng khiếp nhất nhưng sao lại là chủ nghĩa nhân văn? Không nhận biết được sự sai khác vô cùng lớn giữa "thực tế lịch sử" so với "ngôn từ" được trích dẫn.

 

Còn lịch sử, văn hóa, tôn giáo trước Kitô giáo xuất hiện có liên quan gì đến sự kết thừa nói trên không, giả sử nếu có sự kết thừa? Chúng ta đã nghiên cứu chưa. Xin đừng buồn, cái tinh thần kế thừa viết ở trên đã có từ 3.000 năm trước đó rồi, những vị thánh nhân xây dựng nên thì họ đã chết và thân xác họ tan thành tro bụi rồi, và cái tinh thần còn lại là chưa đầy đủ, vô cùng khiếm khuyết, nói thực chưa có học thuyết về vũ trụ quan và nhân sinh quan để giải thích mọi hiện tượng tự nhiên và xã hội cho nên thành quả của nó sau đó mới tệ hại và đầy tội ác là vậy.

 

Đứng trước một Thượng Đế toàn năng vô tận, ai ai cũng trở thành nhỏ bé (cả tôi cũng không thể mơ là một ngoại lệ), vậy những lời nói thẳng mang tính hiện thực của tôi, mong bạn đừng coi đó như cái gì phách lối. Mà chúng ta hãy nhanh chóng bỏ qua lối cào gãi đó để tìm đến đỉnh chóp cho chiếc dù trong nhận thức của chúng ta.

 

Sai, anh đang đi tìm hiểu Thượng Đế mà sao biết là toàn năng vô tận? Sao biết ai ai cũng trở thành nhỏ bé? Hãy nên nhớ mãi một câu nói vĩ đại của Phật Thích Ca Mâu Ni: "Ta là Phật đã thành, còn các con là Phật sẽ thành". Chứ không phải phân biệt giữa con Chiên và Chủ chăn đâu - tư duy của phàm phu, nội dung rất thánh triết của một Bậc Giác Ngộ.

 

- I-van có Chúa hay không có Chúa? Fê-ô-đô hỏi con mình.

- Không có Chúa! I- van đáp.

Fê-ô-đô quay sang hỏi con út của mình:

- A-li-ô-sa, có Chúa hay không có Chúa?

- Có Chúa! A-li-ô-sa đáp.

- I-van, có cái tuyệt đối không? Fê-ô-đô hỏi.

- Không có cái tuyệt đối! I-van đáp.

- Có cái tuyệt đối không? A-li-ô-sa!

- Có cái tuyệt đối!

- Cái tuyệt đối nằm ở đâu?

- Cái tuyệt đối nằm ở Chúa! A-li-ô-sa khẳng định.

- Fê-ô-đô than thở rằng: - Trời ơi! Có Chúa hay không có Chúa? Tại sao câu hỏi đó cứ ám ảnh nhân loại đến cả nghìn năm nay? Ai sẽ biết có Chúa hay không?

Có quỉ mà biết được! I-van bảo.

Quỉ ư! – Fê-ô-đô thốt lên. - Quỉ ở đâu, sao ngươi không hiện ra đến một lần để nói rẳng: Có Chúa hay không?

Chà! Cả quỉ cũng không có nốt! – I-van kêu.

Trời! Fê-ô-đô thất vọng.

 

Đoạn văn trên được trích lược trong phần đầu của tác phẩm “Anh em nhà Caramadốp” nổi tiếng của F.Dostoevski (trích theo lời thoại trong phim để dễ hiểu và chú mục hơn). Nó bày tỏ nỗi ám ảnh trăn trở đến nhức nhối của con người trong kiếp sống. Một kiếp sống, ở đó Thiên Chúa luôn luôn giấu mặt! hoặc nếu không, thì kiếp sống đó cũng trần đầy những màn sương bí nhiệm giăng mắc tứ bề! hoặc giả nếu những màn sương đó cũng chẳng có ở đời, thì con người vẫn bị xoay vần đến thống khổ trong vấn nạn tra hỏi về nguồn gốc của mình. Dostoievski trở nên nổi tiếng và là người vượt lên đi tiên phong trên văn chương là do xung kích xông xáo vào lãnh địa thần học. Một lãnh địa đầy gian nan trắc trở, mà trước Dostoievski hầu như nó chỉ là mảnh đất riêng có của mấy triết gia và thần học gia. Dostoievski nói: “Đức Chúa trời đã khuây khuất tôi trọn cả đời”.

 

Tôi cho rằng không phải vậy, Dostoievski đi tìm chính ông hay ý nghĩa của cuộc đời, hay đi tìm bản chất của "sống chết" trong khi bị bệnh nan ý, từ nền tảng tôn giáo đã có ông đi tìm "vị bác sĩ" có tên "Đức Chúa Trời" nhưng ông đã thấy???

 

Vậy Thiên Chúa của Dostoievski có phải là một nhân vật chính nằm lẫn giữa hằng hà sa số những khuôn mặt các nhân vật được nhà văn tạo dụng nên? Thiên Chúa là sản phẩm của tưởng tượng? Ngài là một thực tại? Ngài là gì khác? Hay ngài chẳng là gì cả?

 

Ai trong chúng ta dám xác nhận một trong những câu hỏi trên, và ai sẽ là người phản bác nó? May mắn thay! Hay bất hạnh thay! Thiên Chúa luôn luôn vắng mặt trong cuộc cãi cọ của con người về sự có mặt của Ngài. Và sự vắng mặt của Thiên Chúa là mảnh đất dung thân bao dung vô tận, ở đó mọi người đều có thể ca lên lời xưng tụng Ngài, hoặc cũng toàn quyền lớn tiếng phản bác Ngài. Đâu là lời chung kết tối hậu về việc Ngài là Đấng có! Vậy Ngài là “kẻ” nhút nhát, lãnh cảm hay bao dung đến độ chẳng cần xía vào trò chơi của bọn trẻ làm gì? Ngài để cho những đứa bé của Ngài được tự do. Tự do sống! Tự do suy tưởng! Tự do đặt vấn nạn! và tự do giải đáp câu hỏi của mình!

 

Anh chưa biết Thiên Chúa là ai sao cho là vắng mặt hay có mặt? Giả sử rằng, trong Kinh Thánh có "lời Chúa" thì chắc 100% không?

 

Ngài có hay không khi mà chẳng bao giờ Ngài có mặt?

 

Nếu câu trên là "đúng" thì phải có mặt, nếu có toàn năng?

 

Trong câu chuyện về Thiên Chúa, một người mọi châu Phi đáp lại câu hỏi “Ông có nhìn thấy Chúa không mà tin?” của một học giả Châu Âu rằng: “Tôi tin Chúa nhưng chẳng cần nhìn thấy Ngài, giống như buổi sáng ra tôi nhìn thấy những vết chân trên sa mạc, và tôi chắc tin rằng có một con lạc đà đã đi qua đây trong đêm”. Nào, bây giờ chúng ta hãy thử nhìn những vết chân của Chúa dưới trần gian.

 

“Không một quốc gia nào phi tôn giáo, và cũng chẳng có quốc gia nào hằng tồn mà không có tôn giáo” (H. L. Mencken ‘A New Dictionary of Quotations’, - NDQ).

 

Đạo Cao Đài viết:

 

Người cứ tưởng Cao Đài tôn giáo,

Nào hay đâu Đại Đạo hoằng dương.

 

Hãy tìm hiểu Cao Đài xem sao, đạo Cao Đài cũng do Thượng Đế và các bậc thánh nhân, anh hùng nước Việt xây dựng nên.

 

Đến đây có thể rất nhiều người trong chúng ta muốn gào vào mặt tôi rằng: Này, gã kia, chúng ta muốn một Thượng Đế sống thực, chứ không phải thứ Thượng Đế bằng chữ nghĩa. Vả lại, ngươi chớ dở trò tháu cáy ngôn từ lừa bịp bọn ta! Chúng ta thừa biết rằng, tất cả những đền đài trên mặt đất này được dựng lên từ con người, chứ không phải từ dấu chân lạc đà “Thượng Đế” của ngươi. Ngươi hãy mở mắt ra!

 

Những lời phản kháng trên có lý không? Chắc hẳn là như thế, và nếu không có lý thì nó cũng tràn đầy cái không khí khả giác trân trối không thể nào cưỡng nổi. Song còn một khía cạnh khác, thị giác khả chứng nhưng không phải là tất cả, nó chỉ là tháp canh ở phía ngoài tòa lâu đài, còn cái quyết định lại là bộ tham mưu khả tri ở phía trong tòa lâu dài – mà bộ tham mưu này tự thân có chẳng nhìn thấy gì ngoài bốn bức tường bao quanh nó. Bởi vậy, khi chúng ta chối bỏ sự có mặt của Thiên Chúa là chối bỏ một Thiên Chúa khả giác hay khi một Thiên Chúa khả tri? Để tìm đến một kết luận xác đáng, chúng ta chắc hẳn phải lần theo cả hai ngả đường, giống như một viên tướng giỏi thì dụng binh ở tất cả các hướng chính diện và vu hồi. Vả lại, khi khước từ thượng Đế một cách mau lẹ, nhiều người trong chúng ta thường quan niệm rằng, đó là đường lối triệt để mong gạt bỏ thành kiến thiên vị Thượng Đế, Ông được tôn xưng, thiên vị quá nhiều rồi! Và bây giờ, tôi muốn tức khắc một lần cho tất cả phản bác Ông đi! Đấy, (có thể) hiển nhiên bạn cho là con đường rốt ráo nhất, triệt để nhất! Nhưng thưa bạn, đó cũng là con đường lầm lạc rốt ráo nhất! Tại sao vậy? Thưa bạn, Thượng Đế, Ngài làm gì có mặt để uống lấy tình cảm thiên vị của chúng ta. Bởi vậy, khi bạn bài trừ sự thiên vị, là bạn đặt sự xem xét của chúng ta vào một định kiến khác có lẽ cũng chẳng kém thiên vị là bao. Muốn đi tới chân lý, chúng ta phải đi tới bằng con đường toàn diện, muốn vậy trước hết hãy phá chấp đi!

 

2. BẤT KHẢ KHƯỚC TỪ VẤN ĐỀ THƯỢNG ĐẾ

 

“Thượng Đế, khi ta hỏi Ngài có hay không? Ta đã giả sử là Ngài có!”

 

Câu nói của một triết gia đẩy chúng ta vào một nỗi éo le khó mà vượt thoát. Và bây giờ nếu bạn muốn nhìn thấy Thiên Chúa, bạn phải tháo gỡ nỗi éo le đó bằng cách đánh giá toàn bộ những nút thắt bùng nhùng của nó. Ở cả hai đằng, bạn đều phải xem xét kỹ lưỡng mê cung éo le đó. Có phải vết chân đầu tiên của Thiên Chúa là:

 

“Chính nỗi sợ hãi khởi đầu đã du nhập thánh thần vào trần gian” (Sđ d ‘NDQ’).

 

Có đúng vậy không? Liệu chúng ta có phủ bác được nỗi sợ hãi của mình nằm thẳm sâu trong tâm can, trong kinh nghiệm, hay trong suốt dòng lịch sử đầy hoang mang chém giết để giành bạo lực? Có phải nỗi sợ hãi có mặt ở khắp nơi? Nó hóa thân thành Thượng Đế “ma gà ma xó” của người thiểu số, nó biến thành Trời của người Trung Hoa, nó đắc chính quả thành Boudha của người Ấn Độ, nó đóng đanh trên thập giá thành Jê-su của người I-xra-en, và nó tiên tri thành một Mohamed của người Trung Đông?

 

Nỗi sợ hãi có thật! Nhưng nó ở đâu? Trong tâm hồn run rẩy yếu ớt của chúng ta hay ở môi trường tự nhiên: sấm nổ, chớp lóe, cầu vồng sáng rực, bóng đêm u ám, giông tố phong ba hay hỏa diệm sơn phun lửa…? Để thỏa mãn được cật vấn này, có lẽ tốt hơn cả là chúng ta hãy trở lại cái cảm xúc của ông hoàng thuyết tương đối, thủ lĩnh tiền phong của khoa học, người mà những giọt máu thiên vị Thượng Đế đã được tẩy trừ một cách tối đa nhất, Einstein nói: “Cảm xúc đẹp nhất mà con người có thể có được là cảm xúc thần bí. Nó chính là mầm của nghệ thuật và mọi khoa học chân chính.”

 

Câu nói của Einstein không chỉ phụng hiến cho ta cái vẻ đẹp run rẩy của cảm xúc thần bí mà còn đem lại một bằng chứng rằng: nỗi sợ hãi là của chủ thể con người, nhưng nó đã rung lên tiếng tơ lòng cực kỳ nhạy cảm vi diệu với niềm xao xuyến bao la của vũ trụ, nó là phó bản, là nỗi cảm thông của vũ trụ. Và bởi vậy khi tâm hồn nhạy cảm run rẩy mặc dù có bị nỗi sợ hãi phơi áo sự nhút nhát của mình, thì nó cũng chẳng thể bị dè bỉu khinh thị. Bạn hãy nhìn cây liễu ven hồ, có phải nó đẹp vì đang run rẩy trước gió? Và có phải chính bởi cái bản thể ẽo ợt dễ lay động của mình, nó đã trở nên nhân tình khăng khít của gió trong từng gang tấc? Nó đã cảm thông với gió vẹn toàn! Đó cũng là bản tính của linh hồn! Linh hồn vô cùng nhạy cảm và vi diệu bởi vậy chỉ có nó mới thông thiên được với toàn thể vũ trụ. Và cũng chỉ có nó mới có khả năng thổi sinh khí vào giữa các vật thể và có khả năng tiên tri được cuộc sinh tồn sống còn của vật thể.

 

Linh hồn là gì? Cái đang trình bày là sự vật hiện tượng ngoại cảnh được cảm xúc bởi Ta hay đã có chủ thể và đối tượng. Linh hồn khác Thượng Đế chăng?

 

Bởi vậy nỗi sợ hãi không chỉ nằm trong thế giới thực tại, mà nó còn nằm ngay trong bản chất của linh hồn. Linh hồn không nghĩ được ra sợ hãi cũng như nước không nghĩ được ra sóng, mà chính sóng có mặt cùng một trật với nước. Sóng là một thuộc tính đồng có mặt bất khả tách dời hủy diệt của nước.

 

Linh hồn chưa rõ, làm sao sao biết nó sợ hãi! Trong chiến tranh giải phóng quốc gia, người chiến sĩ không sợ hãi cái chết, bình thường ai cũng sơ chết, vậy do linh hồn hay do chính nhận thức của anh ta.

 

Để khai triển tiếp nguồn cảm xúc của Einstein, chúng ta hãy cùng Jean-T-Desanti nhảy tiếp một bước nữa, ông nói: “Tinh thần quỉ thuật là người thầy của nhân loại, là diễn viên của lịch sử, là kẻ sáng tạo của nghệ thuật và khoa học.”

 

Chúng ta hãy xem:

 

Có môn thần học nào không nhắm đến Thượng Đế? Có môn triết học nào không tìm cách lý giải Thượng Đế? Có môn khoa học nào không cóp nhặt thêm những bằng chứng để sói lở chân móng của Thượng Đế? Có môn nghệ thuật nào thoát khỏi nỗi ám ảnh kỳ vĩ và bí nhiệm của Thượng Đế? Nhiều nhà sử học và xã hội học đã đồng thốt lên một thực tại ngộp thở rằng: “Bằng tín ngưỡng của mình, con người đã xây lên những đền thánh đẹp nhất thế giới.”

 

Sai, anh đang đi tìm Thượng Đế mà! Thực ra trong thâm sâu đó là câu hỏi Dostoievski.

 

Sai, bằng sự tôn trọng và ngưỡng vọng những bậc thầy chỉ ra con đường Đạo nhằm giải phóng con người tức đem đến hạnh phúc viên mãn đi cùng với sự thành hoại của vũ trụ.

 

Bạn có chối bỏ được những ngọn tháp sừng sững ở Ai Cập cho đến ngày nay vẫn còn nguyên vẻ huyền bí trước những ống kính tọc mạch xông xáo của khoa học? Bạn có chối bỏ được đền thánh Vatican, nơi hội tụ đông đặc trên từng viên gạch, từng centimet tín ngưỡng của các thiên tài lỗi lạc như Raphael, Michelangelo, và Leonardo da Vinci? Nhà thờ Đức Bà Paris đã trở nên bất hủ trên các trang sách của thiên tài Victor Hugo? Và còn nhiều lắm những đền thờ Hồi giáo, những chùa chiền Phật giáo, bạn có chối bỏ được không?

 

Chúng ta hãy trở lại câu hỏi rằng: liệu có phải Thượng Đế chỉ là một nhân vật làm duyên nỗi ám ảnh trong các tác phẩm của Dostoievski? Không! Thượng Đế không bao giờ là vậy. Nếu Ngài có là một nhân vật thì đó là một nhân vật của nhân loại. Và nhân vật đó sẽ thủ vai trọn tấn tuồng của lịch sử. Bạn có thể khước từ việc có mặt của Thượng Đế, nhưng bạn không thể khước từ vấn đề Thượng Đế. Đó là một thực tại! Một thực tại tràn đi khắp hành tinh bằng linh hồn tôn giáo. Franz Boas nói:

 

“Không có bộ lạc nào trên thế giới mà những hoạt động tôn giáo lại không trở thành đề tài tư tưởng”.

 

OK, không khước từ nhưng tùy vào điều kiện của cá nhân vấn đề có thể không bao hàm Thượng Đế, thậm chí cả những tổ chức nữa.

 

3. CON NGƯỜI LÀ QUỈ HAY CỖ MÁY

 

Bạn có thể chối bỏ được tư tưởng của mình không? Có chối bỏ được linh hồn của mình không? Và có chối bỏ được việc linh hồn đã tự vun xới ra hoa và thành qủa: vấn đề Thượng Đế? Đến đây liệu đã đến lúc tôi ngỗ ngược rú lên : các người không thể chối từ được linh hồn, thì các người cũng không thể chối từ được Thượng Đế, Ngài là thuộc tính tất yếu của linh hồn? Và để khải hoàn cho thứ linh hồn lồng lộng được che chở bằng cái bóng độc tôn đồ sộ của Ngài, một vị giám mục đã hò xướng: “Chúc phúc cho những khẩu trọng pháo, miễn là trong lỗ thủng do chúng phá, Phúc Âm nảy nở”.

 

Viết theo cảm xúc chủ quan, thiên vị, nhưng không chuẩn. Phát biểu của vị giám mục này chính là tư tưởng của quỷ, kẻ muốn giết hại loài người, là Satan! Mà đã có Thượng Đế thì phải có Satan chứ nhỉ? Khi viết câu này tác giả phải chăng đang cổ vũ cho Satan?

 

Nghiên cứu lịch sử, thì thấy một quá trình gây tội ác của các tôn giáo như Cơ Đốc, Hồi giáo thì vô số kể, vậy phải chăng Satan đang xui khiến? Và rõ ràng Satan có sức mạnh chẳng thua gì Thượng Đế cả, có đúng chăng?

 

Thực ra, những Satan-người đang lợi dụng sự sợ hãi, tính bầy đàn, tính cố chấp phổ biến của con người để mê hoặc là chính..., đồng thời chuyển "thương hiệu Thượng Đế" sang tay mình để thủ lợi, cho nên sẽ thấy thành quả tồi tệ lắm lắm.

 

Nào có phải đã đến lúc những tín đồ linh hồn bật sâm banh hò reo quanh những tiếng gầm của khẩu trọng pháo “Phúc Âm” đang khai hỏa tứ phía? Vâng! Họ có lý để ban thưởng cho mình. Chẳng phải khẩu trọng pháo của họ đã trùm lửa linh thánh lên I-xơ-ra-en, nó bắn qua Địa Trung Hải trùm lửa xuống châu Âu, một khẩu trọng pháo khác được đặt tên là “Thập tự chinh” đã quay ngược nòng gieo lửa xuống cả phương Đông, rồi pháo đẻ ra pháo, lửa lây lan thành lửa, và ngọn lửa thánh linh đang có cơ liếm gọn cả hành tinh.

Nhưng một bức tường đồ sộ đã hiện ra, nó hiện ra vào đúng lúc những nút chai sâm banh chưa kịp bật nổ. Nó là tâm trí: một đứa con ngỗ ngược khó bảo của tâm linh. Tâm linh, một gã làm bố lúc nào cũng khơi vơi ngất ngưởng trong cơn khát men say tín ngưỡng đến si dại thì làm sao có thể hãm được đôi chân lảo đảo của nó trước miệng vực thẳm. Và chính tâm trí đã hãm đôi chân đó lại, rồi sau đó, đến lượt mình tâm trí muốn xây cất thời đại của nó bằng một tâm thức sáng suốt đã thức tỉnh. Chúng ta thử nhìn xem, những khẩu trọng pháo Phúc Âm đã im tiếng thế nào: “Giáo hội mất giới trí thức ở thế kỷ 20 cũng như đánh mất giới thợ thuyền ở thế kỷ 19”.

 

Trong Phúc Âm có bốn vị viết về cuộc đời Chúa Jesus, hầu như giống nhau, nhiều nhất là 21 trang giấy, khối lượng lời giảng của ngài so với các Kinh Thánh khác như thế nào? Ví dụ Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa của đạo Phật có đến trên 600 quyển lận. Và đừng tưởng thần tiên Việt Nam không có Kinh Thánh, nếu in ra có thể chứa cả tủ, còn Phật, tiên, thánh, thần, chúa, mẫu... ở Việt Nam "nhiều như cát" của sông Hồng.

 

Đó là một lời thú nhận đắng cay của một tín đồ Ki-tô giáo. Và như một cơn giông tố dù có dữ dội thế nào cũng phải tan đi, luồng gió thánh linh dường như đang trở nên suy vi. Và nó càng trở nên tàn tạ hơn khi vướng phải lời tuyên cáo đanh thép của Karl Marx: “Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”.

 

Chúng ta quá biết, niềm vui dễ lây lan, nỗi buồn càng dễ lây nhiễm nỗi buồn thổn thức của nó sang những trái tim đồng cảm. Còn cơn nghiền? Nó vừa dễ lây truyền bằng cơn gây tê man dại của tinh thần vừa áp chế hệ thần kinh của thân xác bằng phép áp đặt sự truyền dẫn tiêm trích lên máu thịt. Nghĩa là mo-óc phin là độc tố gây nô lệ hóa con người. Chúng ta chối bỏ thứ độc tố đã sờ sờ ra đấy chất doping kém vẻ mã thượng và ám hại của nó. Song tôn giáo có phải là vậy không? Có một thực tại vừa tràn qua mắt chúng ta, và nó còn đọng lại đấy, đó là: cả Mỹ và Liên Xô đều bị “phơi áo” và bó tay trước những thách thức của phong trào Hồi giáo.

 

Tại sao vậy? Có phải họ đã đơn giản hóa vấn đề tôn giáo bằng một nhãn quan của các chính khách? Để hiểu thêm ý tưởng này, chúng ta thử tham chiếu ý tưởng của Jose Bergamin: “Có hai loại người! Loại uống rượu vào thì ngủ say và loại người uống rượu vào thì tỉnh táo, một loại rượu làm cho u mê, còn loại kia rượu kích thích thêm sáng suốt. Đối với một dân tộc, tôn giáo không phải là thuốc phiện nhưng có thể là rượu. Tôn giáo có thể làm cho một dân tộc ngủ li bì nhưng tôn giáo có thể thức tỉnh dân tộc khác và kích thích cho hết mê ngủ.”

 

Nhưng cách nói thuốc phiện hay rượu thiên về lối định nghĩa vấn đề theo nhãn quan chính trị. Còn ở đây chúng ta đang trả lời vấn nạn Thượng Đế bằng một nhãn quan toàn thể, và trước tiên chúng ta hãy đi theo con đường của mình bằng chiếc gậy dò đường: Hữu thể luận. Cả hai lối nói ẩn dụ trên đều gây cho chúng ta tin tưởng rằng linh hồn có đồ ăn thức uống của nó, đó là thuốc phiện và rượu.

 

Nhưng trong vấn đề Thượng Đế, linh hồn đã uống lấy cơn khát Thượng Đế, trong khi đó Thượng Đế chẳng là gì cả. Thượng Đế là một sản phẩm đeo dính trong linh hồn, và muốn phá bỏ Thượng Đế thì phải phá bỏ tự căn để chất keo dính chặt linh hồn. Giả dụ, khi chúng ta muốn phá bỏ nhà thổ để cứu vãn đức hạnh của những cô gái cơ nhỡ ở trần gian này thì chúng ta tháo dỡ nóc nhà thổ hay là triệt phá tự căn để lòng tà dục của các qúi ông mày râu nhẵn nhụi?

 

Có bao giờ nghĩ rằng tại sao thời thơ ấu không cần Thượng Đế mà mọi thứ đều tuyệt vời chăng? Hay khi đôi lứa đang yêu cũng vậy? Trong lúc này nếu có Thượng Đế hiện ra tranh bạn gái thì cũng không biết chuyện gì sẽ xảy ra? Và có thể hỏi loài chim có cần Thượng Đế chăng? Ví dụ, loài chim cốc phải chăng chúng cho rằng Thượng Đế là một con chim cốc to khủng khiếp?

 

Vậy, thưa quí ngài, chúng ta hãy tàn phá linh hồn “tà đạo” của mình đi, tức khắc Thượng Đế phải tiêu vong. Quí ngài hãy nhìn đây lưỡi kéo của Sartre đưa ra cắt lấy hình ảnh của Thượng Đế: “Thiên Chúa là một giả thuyết vô ích và chúng ta đã phải trả giá quá đắt. Chúng ta hãy loại bỏ giả thuyết ấy đi.”

 

Quí ngài thử nghĩ xem, linh hồn còn lại gì sau khi lưỡi kéo của Sartre đã lượn lờ một cách vô cùng khéo léo và tinh xảo để lược gỡ đi bóng hình của Thượng Đế xâm lấn nham nhở khắp linh hồn? Và có kỳ lạ không, giống như buồng gan bất lực của Prô-mê-tê cứ tươi rói trở lại sau khi bị mỏ con đại bàng khoét sạch, linh hồn sau khi cắt bỏ vẫn còn nguyên linh hồn. Trước linh hồn mọi lưỡi kéo đều phải bất lực. Nhưng bây giờ chưa phải lúc đi lang thang theo đôi cánh phiêu lãng của linh hồn, chúng ta hãy đi cắt ngang qua đường bay của nó để sà xuống một thực tại. Ryle nói: “Với các nhà duy tâm con người chỉ là một con quỉ trong thực tại, với các nhà duy vật thì con người là một cỗ máy trong thực tại. Con người chẳng bao giờ là một con quỉ hay một cỗ máy. Con người là nhân loại” (John Passmore ‘A Hundred Years of Philosophy’- HYP, Penguin 1968, tr.446).

 

Bạn định làm gì với câu hỏi về Thượng Đế? Chẳng có cách nào khác bạn phải tìm ra câu trả lời. Một câu trả lời theo đúng cách thức mà câu hỏi đã đưa ra. Còn ngược lại nếu bạn trả lời tra hỏi Thượng Đế bằng một cơ thể đập phá hoảng loạn hay một lưỡi kéo mong cắt tách Thượng đế khỏi linh hồn theo kiểu của Sartre thì Thượng Đế vẫn có đó. Thượng Đế làm gì có mặt để bạn cào xé khuôn mặt của Ngài! Thượng Đế làm gì có hình ảnh để bạn bôi xóa Ngài! Và trong vấn đề này, chúng ta hãy lắng nghe một cách thống thiết thực tại của lịch sử từ miệng một khối núi thần học cận đại lừng lững đầy tâm huyết, Hegel nói: “Lịch sử đương đại được lãnh trị bằng một cuộc đối kháng giữa Nhà thờ và Quốc gia. Nhà thờ đó là nội tại tính, là nhận thức chân lý tuyệt đối. Nhà nước đó là thế giới thực tiễn, lúc đầu nó xa lạ với một nhận thức chân lý một cách sâu sắc. Tất cả lịch sử châu Âu là kết quả của cuộc đối kháng giữa hai nguyên lý này và cuộc hòa giải giữa chúng” (Charles Werner ‘La Philosophie Moderne’ – PM, Payot Paris 1954, 202).

 

Làm thế nào đây? Bởi lịch sử bất khả khước từ. Vả lại một nhà thơ đã viết:

 

Tượng thờ dẫu đổ vẫn thiêng

Miếu thờ dù phá vẫn nguyên miếu thờ.

 

Đó có phải là một thực tại không? Làm sao chúng ta có thể chối bỏ được việc tâm linh có như một thực tại, và tâm linh có nơi tụ họp riêng rẽ của nó, và nếu ta có đập bỏ câu lạc bộ của nó, thì tâm linh vẫn còn đó, chúng vẫn qui tụ lại chẳng cần bất cứ vòm mái nào, và tại nơi đó chúng vẫn ngửa cổ nhìn lên ánh sáng của chúng, đó là: Thượng Đế. Cho dù một Thượng Đế có thực hay một tên gọi do chúng đặt cho ánh sáng khiến chúng cứ phải ngước đầu lên. Cũng vậy cả thôi. Và đây là nhãn quan Thượng đế hữu ích của Hoàng đế Napoleon về khía cạnh chính trị: “Một dân tộc không có tôn giáo thì chỉ có thể cai trị bằng súng”.

 

Một kết luận dựa trên những nhận định của cá nhân khác nữa rất cẩu thả, bởi vì nó liên quan đến những vấn đề trước đó chưa được giải quyết.

 

Thực ra, vẫn chưa giải quyết vấn đề nền tảng của tôn giáo cơ mà, hay lại "có thần" và "đang tìm hiểu Thượng Đế". Trong tôn giáo, có kẻ tự xưng là "Đại Diện Thiên Chúa thứ nhất" và "Đại Diện Thiên Chúa thứ hai" có hay chăng?

 

Tôi lấy một ví dụ khác, một bà mẹ và đứa con nhỏ, nếu Thượng Đế hiện ra yêu cầu bà mẹ giết chết đứa con để hiến dâng Thượng Đế rồi bà sẽ được Thượng Đế "cho lên" thiên đường để hưởng phước đời đời, vậy kết quả thế nào? Chúng ta có thể nhận định được không?

 

Trong Do Thái giáo chỉ có một Thiên Chúa, giáo thuyết Cơ Đốc giáo dựa trên Cựu Ước của Do Thái giáo vậy thì tại sao lại có Chúa Cha, Chúa Con (Jesus) và Chúa Thánh Thần? Tại sao gọi Chúa Cha mà không gọi Chúa Mẹ? Hay còn cả Chúa Mẹ mà chưa biết? Chúa Thánh Thần là ai?

 

4. KHÔNG THIÊN CHÚA LÀM SAO CÓ CÁI TIÊN THIÊN?

 

Chúng ta hãy bỏ lại đó cách nhìn Thiên Chúa của vị Hoàng đế, đối với ngài thì tôn giáo tiện cho việc sử dụng hơn là thỏa thuê cơn khát của tâm linh. Nghĩa là Thượng Đế của ngài phải bị qui ra “thóc”. Chúng ta hãy trở về một Thượng Đế duy linh - một Thượng Đế duy niệm. Có phải Ngài là một giả thuyết vô ích trong và cho linh hồn chúng ta?

 

Ngài là ai? Có phải Ngài là một thiên đường bánh vẽ được dựng lên để cám dỗ những tâm hồn nhẹ dạ và lười nhác trong cuộc trường chinh dưới thế? Ngài có phải là một hỏa ngục được đốt lên để đe dọa những tâm hồn chết nhát ươn hèn? Ngài có phải nỗi ám ảnh của bóng tối mở buồng phổi tham lam vô tận của mình uống lấy ngọn lửa tinh khiết run rẩy của những ngọn nến nơi thánh đường? Ngài có phải Đấng háo danh chuyên hù dọa những miệng lưỡi xinh xắn để chúng tru lên suốt ngày tiếng lầm rầm xưng tụng Ngài? Vâng! Ngài là ai? Ngài phải là cái gì mới khiến được tâm hồn chúng ta ám ảnh mãi khôn nguôi. Chúng ta thử chiêm ngắm một ý tưởng trong kinh Koran: “Thượng Đế chẳng cần được tán dương, với Người, Người ở trên mọi sự tán dương… Cầu nguyện là thiết yếu cho riêng tinh thần giáo dục của chúng ta, sự an ủi cũng như xác nhận”.

 

Vâng ! Thượng Đế là một hình bóng chẳng ra dáng nổi một hình bóng, vậy mà cứ khiến linh hồn chúng ta bộn rộn suốt dòng lịch sử. Quả là vô ích! Nhưng nếu không có hình bóng đó thì đâu là ngọn nguồn để linh hồn khao khát tuyệt đối của ta lê lết đến và vục miệng xuống uống? Chúng ta hội tụ nhau ở nơi thánh đường cầu nguyện để làm gì? Bạn là kẻ hành hương khốn khó, bạn có tin rằng sau khi nỉ non cầu nguyện trước tượng Chúa, đôi giầy thủng của bạn sẽ mới lên không? Bạn có tin rằng cơn đói tàn nhẫn đang xâu xé chiếc dạ dầy lép kẹp của bạn vì sợ bóng Chúa, nó trở nên dễ thương hơn? Bạn có tin rằng trước cửa nhà thờ, nơi những ngọn gió bấc đang vung vẩy chiếc roi tê buốt lên đùa nghịch vì sợ âm thanh cầu nguyện của bạn vọng đến tai Thượng Đế, chúng ngưng nghỉ trò chơi lật xới tơi tả đám áo xống mỏng manh rách rưới của bạn?

 

Không! Sẽ chẳng có gì hết! Nhưng bạn được gì, có phải ở nơi thánh đường nhân danh Chúa, bạn đã quì xuống giữa những con người đang run rẩy thèm khát tình thương và công chính. Chính ở nơi đó trái tim bạn đã hòa nhịp với tha nhân. Và bạn trở gót bước ra giữa gió cuộc đời với một tấm lòng đã nhen lên ngọn lửa ấm áp nhân ái, và một trái tim vọng tưởng miền đất công chính.

 

Không chỉ nơi này, mọi nơi khác ở đâu cũng có, đạo đức và tình yêu thương tự nhiên là một chuẩn mực xã hội, trong lớp học mẫu giáo cũng có như vậy. Cho tới nay, lịch sử đã chứng minh tội ác do tôn giáo là vô cùng khủng khiếp, tại Châu Âu có tên gọi là "thời kỳ Trung Cổ" hay "thời đại Đen Tối", và vô số tác giả đã đánh dấu hỏi rằng: nếu không có Phúc Âm phải chăng thế giới đã tốt đẹp hơn?

 

Chúng ta đã đọc lịch sử thế giới chưa? Tình thương đâu cần nhân danh, tình thương bắt đầu từ Thiên Chúa hay từ cha mẹ, thầy cô, anh em, bè bạn, họ hàng, làng xóm, anh hùng dân tộc, quê hương anh, tổ quốc anh? nếu cho là từ Thiên Chúa thì chỉ là kẻ ngụy biện.

 

Rồi phép lạ đến với bạn không phải từ tay Đấng tối cao, mà chính từ những cánh tay khẳng khiu đã từng quì xuống bên cạnh bạn trao cho bạn một tấm áo ấm, một mẩu bánh mì, và một ổ rơm ấm áp ngả lưng trong đêm trường buốt giá của cuộc đời. Và đến lượt chính bạn, bạn cũng gieo phép lạ, bạn xé một nửa tấm áo, một nửa miếng bánh mà bạn nhận được trao cho ai đó. Vậy đấy, Thượng Đế, Ngài chẳng là gì cả, nhưng là mạch vữa liên đới tình yêu giữa những con người. Kierkegaard đã nói về Thượng Đế như một nỗi éo le quá tủi hờn: “Rơi vào tay Thượng Đế sống thực là một điều khủng khiếp, nhưng còn khủng khiếp hơn nữa nếu ta rơi vào tay sự quên lãng Thượng Đế sống thực.”

 

Song Thượng Đế không cậy mình là toàn năng-toàn hảo để hiện thân thành những dòng lũ nước mắt da diết nhất. Và nếu Thượng Đế chỉ là nhịp cầu thương xót giữa các tha nhân thì Ngài cũng chỉ chú mục đến nơi cư ngụ nhức nhối nhất của da thịt trần gian: dưỡng đường và trại hủi. Nếu Thượng Đế chỉ là như vậy, Ngài sẽ bước khỏi tâm trí khát khao ánh sáng của chúng ta, bởi con người không chỉ giản lược trong ranh giới thương xót, mà con người còn phải thực hiện những sứ mệnh cao cả hơn của chân lý và công lý, đạo lý và tình yêu. Và Thượng Đế vẫn còn ở với chúng ta khi mà Ngài trở thành chốn cư ngụ bao dung tuyệt đối cho tất cả những linh hồn khao khát siêu việt.

 

Tất cả những vấn đề trước đó đã không rõ thì viết vậy phỏng có thể hiểu Thượng Đế? Chân lý là gì vậy?

 

Nhưng chúng ta là những đứa con bướng bỉnh và sáng suốt, chúng ta không muốn tủi hờn bước đi dưới quyền trượng áp chế của Ngài. Hơn nữa chúng ta là tấm gương trần gian nhức nhối ở đó dung nhan của Ngài hiện lên, và chúng ta - những kẻ thừa hưởng dòng máu cao đại, khí phách và khiêm nhường từ nơi Ngài , chúng ta cũng buộc Ngài phải sáng tạo trước mắt chúng ta. Nhưng trước hết chúng ta hãy sáng tạo ra sự sáng suốt của mình. Chúng ta hãy xem xét Ngài. Voltaire nói: “Những chân lý tôn giáo không bao giờ được thấu hiểu một cách đích đáng bởi những kẻ đã đánh mất lý trí”.

 

Chúng ta không muốn là kẻ đánh mất lý trí. Chúng ta muốn vận động quan năng để xem xét Ngài. Sartre nói: “Nếu Thiên Chúa không hiện hữu thì mọi việc ở đời cũng vẫn thế. Chúng ta sẽ nhận thấy có chừng ấy qui luật thôi: những qui luật về lương thiện, về tiến bộ, về nhân bản thuyết. Do đó chúng ta sẽ làm cho ý niệm về Thiên Chúa trở thành một ý niệm lỗi thời, tự nó âm thầm tịch diệt.”

 

Đúng không? Không có Thiên Chúa thì mọi việc ở đời vẫn vậy! Người vẫn là người! Nhà vẫn là nhà! Cây vẫn là cây! Lá cờ vẫn là lá cờ! Vâng, lá cờ vẫn là lá cờ, nhưng hãy thử ngắm xem một lá cờ đang bay phần phật, nó tự bay hay phải bay trong gió? Và gió, chính nó có tựu thành một khuôn mặt nào không? Còn cuộc đời của chúng ta vẫn vậy là nó đang đuổi hút theo cái bóng siêu hình nào đó, hay nó vẫn vậy bởi vì chẳng đuổi theo hình bóng nào cả? Tình yêu vẫn vậy, là bởi nó theo đuổi nỗi nhớ nhung dày vò khôn nguôi hay nó chỉ là hiện thân của những vòng tay tạm bợ? Dòng sông vẫn vậy, bởi vì nó đang chảy ra biển hay nó dừng lại? Chúng ta thử nghe tiếng than của Sartre sau khi đã bôi xóa đi hình ảnh của Thiên Chúa:

 

“Thiên Chúa không hiện hữu thì thật rất phiền phức, vì mọi giá trị của cõi trời khả niệm sẽ cùng ta biến đi cùng Thiên Chúa tịch diệt kia. Ta cũng không thể nào còn có những điều thiện tiên thiên nữa, vì làm gì còn có một ý thức vô hạn và hoàn hảo để nghĩ tới những điều thiện đó.”

 

Trong văn minh Đông Phương, còn có cõi cao hơn Cõi Trời nữa, được gọi là Cõi Thượng Thiên, trên Cõi Thượng Thiên còn có Cõi Tam Thanh nữa, vậy chúng ta đã nghiên cứu đầy đủ chưa? Nếu dùng triết học Châu Âu thì không bao giờ biết được Thượng Đế, mà chỉ dùng mỗi suy niệm cá nhân mà thôi, giá trị Cõi Trời hay chính là giá trị đặt ra của chính con người trong chừng mực phát triển tri thức của nhân loại theo thời gian?

 

5. MỌI NỀN VĂN MINH ĐỀU BIỂU HIỆN TÔN GIÁO

 

Để triệt để hơn, để cực đoan hơn, chúng ta hãy tạm bỏ qua những lời dài dòng trên của Sartre, mà chỉ giữ lại lời này thôi “ý thức vô hạn”. Liệu ý thức vô hạn có phải là một đại dương vô bờ bến để dòng sông ý thức của chúng ta miên viễn chảy hoài chảy mãi. Ý thức vô hạn đó có phải miền đất của Thượng Đế? Chúng ta không tránh khỏi ý thức vô hạn, chúng ta sẽ không tránh khỏi sự va đập vào vấn đề Thượng Đế. Đến đây chúng ta hãy giả sử Thượng Đế là một “cuộc chơi” tất định không tránh khỏi của ý thức. Và việc của chúng ta bây giờ là ngắm nhìn cuộc chơi đó có xứng với việc đốt hoài một ngọn nến hay không? Sách Bách khoa thần học viết: “Trước nghệ thuật và tôn giáo con người chia sẻ nỗi tri âm bất khả diễn giải. Trước cả hai thứ con người đều cố gắng phá vỡ biên ải hiện hữu của chính mình” ( Sdd ‘ENC’, A1 tr.885 ).

 

Phương ngôn trên dẫn chúng ta tới cuộc xung phá “biên ải hiện hữu”. Nó buộc chúng ta phải nhận chân một sự thật rằng: con người là một hữu hạn thể trong không gian và thời gian. Và chẳng có một nỗi khát khao nào không phá cái bờ lũy đang quây lấy nó. Bergson, một triết gia nổi danh trong lĩnh vực trực cảm đã thừa nhận: “Cuối cùng tôn giáo chứa đựng rốt ráo những biểu hiện trí năng trong huyền nhiệm, nó là bước tiếp cận với đà sáng tạo của đời sống”.

 

Chưa hợp lý, cái huyền nhiệm phải chăng là sự vĩ đại của vũ trụ, sự nhỏ bé của con người trong sự vận động không ngừng nghỉ của xã hội, sự sinh tử của nhân loại! Và có chăng sự bất tử?

 

Đạo Bà La Môn cho rằng mỗi con người có thể hòa nhập vào toàn thể vũ trụ và có phương pháp thực hành, chúng ta đã nghiên cứu thành quả này chưa?

 

Tôn giáo là thành phần của xã hội, do vậy là thành phần của một nền văn minh. Theo thuyết Âm Dương Ngũ Hành thì tôn giáo là Âm so với các hoạt động khác của xã hội là Dương, quy luật tự nhiên "Âm thuận tùng Dương" đã chứng tỏ nếu Tôn giáo nắm quyền lực thì xã hội đại loạn.

 

Thượng Đế chính là Đấng sáng thế, mà có sự sáng thế nào không mang thai trong huyền nhiệm. Song le chúng ta không vội lao vào màn đêm thăm thẳm bí nhiệm đó. Chúng ta thử theo đuổi thứ chân lý mà Descartes đã vạch ra. Chân lý! Còn gì xứng đáng hơn thế, nó là phần thưởng xứng đáng nhất với trí tuệ hiền minh. Descartes nói: “Chân lý nằm ở bên trong chúng ta, nội dung của nó nằm trong suy tư của chúng ta bởi vậy chúng ta hoàn toàn có thể hiểu nó. Trái lại tầm vóc lớn lao của Thượng Đế nằm ngoài tri thức khả tri của chúng ta. Chính vì thế chúng ta phải phán đoán rằng Ngài còn ngự ở trên chân lý, những chân lý bị đặt dưới quyền năng của Ngài. Thượng Đế là nguyên nhân tương xứng và toàn thể của vạn vật” (Sdd ‘La Philosophie moderne’, tr.82).

 

Định nghĩa Thượng Đế này là tự do cá nhân đặt ra về sự vật, hiện tượng thông qua kinh nghiệm và nhận định mà ra? Và cũng tự cho rằng Thượng Đế nằm ngoài tri thức của chúng ta? Khi mà Ngài đã và đang thông linh với chúng ta (cần kiểm chứng)? Không chỉ vậy có chân lý nằm ngoài chúng ta không?

 

Không nên phụ thuộc quá nhiều vào câu nói này nọ của một vài cá nhân mà "cảm nhận" cho rằng đó cũng là một chân lý!

 

Để đánh giá vai trò của tôn giáo, chúng ta sẽ dấn thêm một bước nữa theo gót ông hoàng của vỉa quặng giá trị vị Thượng Đế, Hegel đã lý giải một cách thật thấu đáo vai trò của “ý thức vô hạn” đối với nghệ thuật: “Trong nghệ thật tinh thần nhân loại tiêm tri cuộc khải hoàn trên chất liệu, không thực tại hóa nó mà chỉ thực thi nó trong viễn tưởng, không phải người nghệ sĩ thích hợp một cách ghê gớm với điều đó: thế giới tưởng tượng đối với nghệ sĩ dường như là thế giới thực tại duy nhất, và tác phẩm của anh chứa đựng một nhãn quan thẩm giá riêng rẽ. Xu hướng đó nhắm tới việc chất thể hóa tác phẩm nghệ thuật và tôn sùng nó như một đối vật chứa đựng giá trị nội tại, xu hướng này đặc biệt được biểu giác ở những tác phẩm tối cổ nhưng nó lại rạng sáng ở tất cả các bình diện, nó là nhịp nối liền giữa cảm hứng nghệ sĩ với tôn giáo” (F. Tolin ‘Les Grands Philosophes de l’Occident’, Payot Paris 1951, tr.226 ).

 

Nó là nhịp nối liền giữa cảm hứng nghệ sĩ với tôn giáo: chỉ là một mắt xích lý luận nhỏ bé, chúng ta đã từng nghe hàng nghìn bài thơ, hàng trăm bài hát xúc động và tự hào về Chủ Tịch Hồ Chí Minh, phải chăng nêu đối chiếu thì câu nói trên gần bằng "zero". Cũng như vậy, hầu hết các tác phẩm nghệ thuật chả liên quan gì đến tôn giáo cả, những tác phẩm hội họa của trẻ thơ sinh động, vui nhộn... đã làm cho cả những người giả cả cũng cảm thấy trẻ lại, có cần tôn giáo không, nếu cứ trích như vậy tôi cho rằng rất vụn vặt mà chẳng liên quan gì đến việc "nhận biết Thượng Đế" là???

 

Toàn bộ sản phẩm nhân loại đang dùng, ví dụ chiếc máy bay... đều là từ các nhà khoa học vô thần mà ra, đều mang tính nghệ thuật, vậy?

 

Rút cục Thượng Đế là ai? Có bao giờ bạn phóng mắt ra tận chân trời, bạn thấy gì ở đó? Không có gì cả, mà chỉ có khoảng không mênh mông cuốn hút về hư không. Nhưng chẳng bao giờ bạn ngừng khát khao được rõi mắt ra tận chân trời phóng khoáng, đó là sự thiết yếu của cái nhìn hơn là của chân trời, chân trời chẳng được gì cả, còn đôi mắt đã uống no nê và bồi bổ cho bầu trời của nó. Thượng Đế cũng vậy, ngài chẳng là gì cả nhưng là cõi miền thăm thẳm bao dung uống lấy tất cả đôi cánh của khát vọng, ở đó đôi cánh của khát vọng được thỏa thuê sải đập trong bầu trời đang tự dâng lên lồng lộng mãi mãi chẳng ngừng.

 

Nội dung này là phịa, nếu liên kết đến những đề trên chưa giải quyết.

 

Và để đặt xong hòn gạch cuối cùng của mình nơi chân móng của Thượng Đế, tôi xin dẫn ra đây một câu nói thấm thía của nhà tư tưởng S. Radhakrishnan, mà tôi cho rằng chẳng có gì hiển nhiên hơn thế: “Mỗi nền văn minh là sự biểu hiện của một tôn giáo, vì tôn giáo biểu thị niềm tin vào những giá trị tuyệt đối và một lối sống để thể hiện những giá trị đó.”

 

Chỉ là những ngôn từ, nếu đọc lịch sử nhân loại thì kết quả tồi tệ lắm. Có cái gì tuyệt đối? khi mà vạn vật trong chu kỳ sinh, thành, suy, hủy?

 

Có nền văn minh nào không tự đặt lấy cho mình một giá trị tuyệt đối để theo đuổi?

 

Lịch sử cho thấy các nền văn minh cổ đại suy tàn.

 

6. HỮU THỂ LUẬN VỀ THƯỢNG ĐẾ

 

Đến đây, coi như chúng ta đã đặt xong nền tảng cho vấn đề Thượng Đế. Nó có thể quá cồng kềnh! Xong đó là một việc làm không thể tránh khỏi, bởi lẽ Thượng Đế với cõi bao dung của Ngài sẽ vượt khỏi tầm vóc của mọi nền móng đặt cho Ngài. Và hơn nữa, chẳng có nền móng nào dù đồ sộ đến đâu có thể sánh với chỗ ngồi bé mọn nhất của Ngài. Tuy nhiên đứng trước vấn đề Thượng Đế mênh mông và siêu việt đến ngộp thở, chúng ta buộc phải có một thái độ sửa soạn một cách công phu bề thế nhất. Đó cũng là một hướng đi chính đáng, bởi như người ta thường nói, chuẩn bị tốt là đã thành công phân nửa rồi.

 

Chúng ta dễ thừa nhận với nhau một thực tại rằng: có vấn đề Thượng Đế. Và bây giờ chúng ta hãy giải quyết vấn đề đó bằng cách kiến giải để chấp nhận hay phi tang nó. Để các bạn tiện theo dõi hơn, tôi xin liệt kê ra đây các chặng đường cuộc hành trình khám phá Thượng Đế. Để giải đáp tra hỏi có Thượng Đế không, tôi sẽ lần lượt đi qua bốn giai đoạn sau:

 

1- Hữu thể luận về Thượng Đế

2- Tất yếu tâm linh và tín điều

3- Tất yếu thực tại và lý tưởng

4- Cơn khát của tâm hồn

 

1- HỮU THỂ LUẬN

 

Malebranche nói: “Thượng Đế là ánh sáng duy nhất của chúng ta”.

 

Khi tôi nói với các bạn rằng hãy học theo gương của Malebranche, hãy ngửa cổ để uống lấy ánh dương sáng láng của Thượng Đế, chắc hẳn bạn phải phẫn uất lên và và nói: Tôi không thấy thứ ánh sáng đó, vả lại anh định lừa phỉnh tôi à? Thay vì phải chứng minh có Thượng Đế, anh lại tôn vinh Ngài lên ngai vàng dấu mặt của Ngài, và anh bảo chúng tôi hãy uống lấy nguồn ánh sáng không có của Ngài. Nếu các bạn có kêu lên như vậy là hoàn toàn hợp lý, và ở địa vị các bạn tôi cũng réo lên như vậy.

 

Pascal nói: “Chúa là Đấng ẩn dấu” (Tu es verus absconditus). Hiển nhiên Chúa là Đấng dấu mặt, và chẳng lẽ chúng ta lại chịu bó tay trước việc buộc Ngài, dụ dỗ Ngài, hoặc nài nỉ van xin Ngài xuất hiện lấy một lần. Ngày nay với những ống kính viễn vọng lia quét đến tận các xó xỉnh của bầu trời, kính hiển vi có thể nhìn rõ tâm can của từng chú siêu vi trùng, rồi máy điện toán, máy điện phân, máy vi tính… và hàng trăm dụng cụ tinh xảo đã từng bắt hằng hà sa số những chất khí uẩn khuất dấu mặt trong không gian phải hiện lên, chẳng lẽ lại phải chịu hàng phục trò ú tim đùa dai của Chúa? Liệu Chúa có đang run rẩy trong góc trốn của Ngài?

 

Triết gia Hamilton nói: “Thượng Đế là phi điều kiện tính, bởi Thượng Đế là bất khả tri” (Emile Brehier ‘Histoire de la Philosophie’, France 1953, tr.62).

 

Liệu Chúa có mệt mỏi bởi chính sự im hơi lặng tiếng quá lâu của Ngài? Và liệu Ngài còn kiên trì được bao lâu nữa khi các phương tiện khoa học đang chĩa mũi dùi vào tất cả các ngóc ngách mà Ngài ẩn trốn? Hoặc giả Ngài sẽ nín tiếng và dấu mặt đến tận cùng vĩnh cửu mà chẳng hề thấy khó chịu chút nào? Sẽ như thế đấy! Bởi Ngài là bí nhiệm, là thinh lặng vô biên. Thượng Đế không bao giờ là một vật thể khiến ta có thể buộc Ngài phải xuất hiện.

 

Kant nói: “Chỉ có vật thể khả hữu tồn tại trong không gian và thời gian, và vì vậy không thể phác họa lên bất cứ nhận thức nào về Ngài.

 

Nhưng hiển nhiên con người có thể tạo ra ý nghĩa về Chúa. Tâm trí có thể hình thành một ý nghĩ như vậy bất cứ lúc nào nó muốn tìm kiếm nguyên nhân của những nguyên nhân vì nguyên tắc hợp nhất tối hậu của tất cả hữu thể và mọi suy tư.

 

Có thể tạo ra mọi ý nghĩ về Chúa, nhưng không có bất kỳ cách thức nào để chứng tỏ rằng có một Thiên Chúa.” (Sdd ‘Encyclopedia New Catholic’, A1 – tr.207).

 

Thượng Đế không hiện tồn trong không gian và thời gian thì làm sao con người có thể nhìn nhận được Ngài khi mệnh danh cái hữu hạn nhỏ bé của mình? Một cái ca có đong được nước của đại dương không? Nếu Thượng Đế là bất khả tri và khi con người không có khả năng chứng nghiệm được Thượng Đế thì tốn giấy mực để bàn về sự bất lực vu vơ ấy làm gì? Nhưng như Kant nói, chúng ta có thể tạo ra ý nghĩa về Thượng Đế. Bởi vậy con đường khách quan duy nhất đầu tiên là luận về Thượng Đế qua ngả suy tư hữu thể luận.

Chúng ta hãy khởi sự từ mình, đó là khởi điểm chắc chắn nhất mà chúng ta xác thực, như Descartes nói: “Tôi có đây tôi hiện hữu”. Và bằng mọi quan năng trong thời gian giữa trời đất chúng ta bó buộc phải thừa nhận hiện thực thứ hai: chúng ta hữu hạn, điều này hoàn toàn có thể đong đo được bằng những chuẩn mực lý thể như trọng lượng, thị lực, thính lực…

 

Con người là hữu hạn, chúng ta buộc phải thừa nhận điều này! Nhưng chúng ta hãy đặt câu hỏi: nhân danh cái gì và dựa vào đâu để nói con người là hữu hạn? Câu hỏi này sẽ dẫn chúng ta đến một câu hỏi hay một tương quan rằng: nhân danh cái vô hạn, dựa vào cái vô hạn, so với cái vô hạn, chúng ta là hữu hạn.

 

Cũng như thế, chúng ta hãy đặt một loạt câu hỏi như: kiếp sống của chúng ta có vĩnh cửu? Con người có toàn hảo? Con người có tuyệt đối? Và chúng ta sẽ rút ra một suy luận rằng: cái vô hạn, cái tuyệt đối, cái toàn hảo, cái vĩnh cửu, cái đó không thuộc con người hay chính con người. Và toàn bộ một bao dung vô lượng thể chứa đựng những cái đó là Đấng được gọi là Thượng Đế.

 

Sai, đã là vô hạn rồi làm sao có cái tên gọi là "Đấng", bởi mọi cái khái niệm hay nhận định mà chúng ta cho là... thì tự thân nó đã thuộc về cái vô hạn rồi.

 

Tuy nhiên Thượng Đế mà chúng ta dò tìm không có tên gọi là Jesus, Boudha, hay Mohamed, mà là Đấng tuyệt đối siêu việt thể, một Thượng Đế bao trùm lên vạn vật. Chúng ta hãy suy ngẫm Thượng Đế của thánh Aquinas qua suy niệm của ông:

 

“Một đằng là hữu thể toàn hảo, tự tại, tất yếu và vô hạn, đằng kia là hữu thể bộ phận, phụ thuộc, ngẫu nhiên và giới hạn”.

 

Bạn là hữu thể bộ phận hay toàn hảo? Bạn phụ thuộc hay tự tại? Bạn ngẫu nhiên hay tất yếu? Bạn giới hạn hay vô hạn?

 

Sai, cá nhân có thể đạt trạng thái "biết được cái vô hạn", đạo Bà La Môn có các phương pháp tu tập để đặc tính cá nhân hòa vào đặc tính của cái toàn thể tức cái vô hạn, tại sao vậy?

 

7. HỮU THỂ LUẬN VỀ THƯỢNG ĐẾ II

 

Về hình thái suy luận dựa trên tương quan tất định này, Descartes đã nêu lên một chứng dụ bất hủ, ông cho rằng: Một góc tam giác tất yếu phải liên quan đến hai góc kia, và nó mật thiết đến mức, nếu không có hai góc kia thì cái góc này không được gọi tên và xem xét như là “một góc tam giác”. Bạn hãy tự lắp đặt cơ thể của mình vào một góc tam giác và bạn sẽ thấy bạn thiết yếu liên quan với những góc khác của vũ trụ ra sao. Sau khi suy tưởng ra Thượng Đế từ cái “tôi tư duy” (cogito) của mình, Descartes đã quả quyết: “Thượng Đế đối với tôi có nghĩa là một bản thể vô hạn, vĩnh cửu, bất biến và độc lập, và nhờ bản thể đó mà tôi cũng như sự vật được sinh ra.”

 

Bản thể là cái gì?

 

Chúng ta hãy lưu ý cách gọi tên Thượng Đế của Descartes “Bản thể vô hạn”, đây cũng là một nẻo khác để tìm cách chứng minh sự hiện hữu của Thượng Đế. Về điểm này có một số triết gia cho rằng mọi sự vật có thể biến dịch nhưng bản thể của nó bất dịch. Giả sử như những dòng nước luôn luôn chảy chỗ trũng, dòng nước đó có thể tràn bờ vào mùa lũ cũng có thể khô cạn vào mùa hạ, nhưng cái tính chảy chỗ trũng của nó chẳng bao giờ biến đổi. Tính của vật thể bất dịch vĩnh cửu là nhờ cái bản thể duy trì vĩnh hằng nào - nếu không có bản thể vô hạn của Thượng Đế? Bởi vậy Descartes gọi Thượng Đế như một danh xưng khác mang một bản thể vô hạn, vĩnh cửu, bất biến.

 

Thực ra Descartes dựa vào lý luận của một số nhà nghiên cứu khác trước Công nguyên mà nói, giả sử có bản thể tại sao biết nó vô hạn? Và vô hạn so với cái gì: không gian, thời gian, bản thể đặc hay rỗng, thuộc tính nó thế nào...

 

Spinoza nói: “Bản tính là vĩnh cửu và vô hạn. Có thể nói bản tính chẳng là gì khác ngoài Thiên chúa bởi lẽ Thiên Chúa là một hữu thể vô hạn tuyệt đối. Ngài mang sẵn thuộc tính mà ở đó mỗi sự vật biểu lộ yếu tính vĩnh cửu và vô hạn” (Sdd ‘La Philosophie Moderne’, tr.104).

 

Bản thể vô hạn, tuyệt đối thực sự là gì và mô tả như thế nào?

 

Từ căn cứ suy luận này, một số nhà khoa học lý thuyết còn giả định rằng: hệ mặt trời của chúng ta, với trái đất quay đều đặn quanh mặt trời 365 ngày một năm, cũng như mặt trăng thường kỳ soắn xuýt tỏ tình bên trái đất là phải do một mãnh lực âm thâm nào đó duy trì sự vận động đều đặn này. Bởi nếu không có sự duy trì đó, thì ai là người tiếp nguyên liệu cho lòng đất để nó tự xoay quanh lấy mình? Và nếu không cần ai điều khiển, thì ai bắt được vật thể không động cỡn lên lúc chạy thế này – lúc nghỉ thế kia? Không! Tất cả vũ trụ vẫn đang vận động thường hằng và điều độ. Chúng ta hãy đặt câu hỏi thật quyết liệt: tự thân vật thể - chúng có biết đến đức hạnh điều độ không?

 

Câu hỏi ai là người tiếp nguyên liệu không chuẩn? Mà là những nền tảng nào đã tạo ra những quy luật vận động như vậy.

 

Thượng Đế là ai? Ngài có phải Đấng mặc khải mà chẳng bao giờ minh nhiên? Bạn có bao giờ đi qua những phi trường hay khí tượng, ở đó người ta dùng những ống vải hình trụ buộc trên đỉnh các cây cột để đo hướng gió, gió thổi về hướng nào thì ống vải bay về hướng đó, hướng gió thay đổi thì ống vải cũng đổi chiều bay. Tại sao người ta phải làm vậy? Vì mắt con người không nhìn thấy gió, nó buộc phải nhìn qua một miếng vải chuyển động minh nhiên trong những ngọn gió mặc khải diện mạo của mình ở đầy mặt đất. Bởi tính tất yếu của một sức mạnh tiềm ẩn đằng sau hiện tượng, hai nhà triết học Leibniz và Berkeley đã cùng nhận định: “Đằng sau thế giới hiện tượng là một tinh thần vô hạn, nó vừa là cơ cấu hạ tầng vừa là Đấng sáng tạo vũ trụ” (Sdd ‘Four Philosophies’, tr.14).

 

Đấy chỉ là mới thấy và cảm nhận, rồi đặt tên mà chưa đi vào xác định nguồn gốc quy luật.

 

Chúng ta có chịu thừa nhận đằng sau hiện tượng là một sức mạnh nào đó thúc đẩy hiện tượng có mặt không? Cả Leibniz và Berkeley đều đã gọi tên Đấng chí tôn bằng cái tên “Tinh thần vô hạn”, còn Hegel đã đuổi theo Thượng Đế bằng một ý chí tuyệt đối. Tất cả lãnh vực tinh thần ấy, ngay cả tinh thần của riêng chúng ta thôi cũng trở thành miền đất bất khả khám phá. Chúng ta hãy nghe Freud, ông hoàng phân tâm học lọc lõi thú nhận: Tôi nghiên cứu ý thức, tôi phát hiện ra trước ý thức có tiền ý thức, ở đó tôi có thể hiểu đôi chút về nó; rồi trước tiền ý thức, tôi phát hiện ra cõi vô thức, tại đây tôi phải thừa nhận rằng con người mù tịt và không thể nào hiểu biết về nó.

 

Mới ở tầm mức đặt ra nhiều khái niệm, vậy tuyệt đối là gì?

 

Dẫn cõi ý thức mờ mịt của con người ra, tôi muốn đi đến một suy luận rằng: cõi ý thức hữu hạn của con người đã vậy, còn cái ý thức vô hạn của Chúa – cái ý thức bay đi khắp hành tinh này thì chúng ta làm sao hiểu được. Song khả dĩ Thượng Đế vẫn giành cho chúng ta một cách hiểu nào đó, khi một giọt nước chảy trong dòng sông, nó sẽ hân hạnh tham dự vào cuộc biến dịch của dòng sông, và nó làng màng thấu hiểu: dòng sông đó có. Còn tinh thần của bạn? Khi bạn thả cho suy tưởng bay đến tận các vì sao, thì liệu nó có gia nhập vào một tinh thần vũ trụ vô lượng và toàn hảo hay không?

 

Ý thức vô hạn của Chúa? Hoàn toàn không rõ ràng, do nhận thức cá nhân trên con đường mòn khi nói về ý thức của con người nên có ngay lập tức nảy ra khái niệm này.

 

Trong đời sống chúng ta thường gặp những câu hỏi trân trối như: anh có nhìn thấy Thượng Đế không? Câu hỏi đó nhân danh cái gì, nó nhân danh đôi mắt! Còn nghe thấy, cảm thấy, nghĩ thấy thì sao? Điện từ trường có trong không gian nhưng chúng ta có nhìn thấy nó không? Song câu hỏi có vẻ đang chọc tức tất cả những trí năng có khuynh hướng siêu việt, vì nó có vẻ tâm tầm quá. Vậy thì, thưa bạn, bạn đừng hỏi tôi có nhìn thấy Thiên Chúa không? Bởi Thiên Chúa không có diện mạo! Bạn đừng hỏi tôi có ngửi thấy Thiên Chúa không? Vì Thiên Chúa không có mùi! Bạn đừng hỏi tôi có nghe thấy Thiên Chúa không? Vì Thiên Chúa không phải là âm thanh! Bạn đừng hỏi tôi có sờ thấy Thiên Chúa không? Vì Thiên Chúa không da thịt! Bạn đừng hỏi tôi có nếm thấy Thiên Chúa không… Bạn hãy nghe câu nói sau đây của Lagneau: “Tin rằng Thượng Đế có theo nghĩa thông tục tức là xúc phạm tới Thượng Đế, là kéo Thượng Đế xuống hàng nhân vật thế gian.”

 

Viết không thực tế, vậy Thiên Chúa thông linh với một vài người có thần thông thì sao? Chẳng hạn cuốn Thượng Đế giảng chân lý. Chúng ta có biết, trong văn minh Văn Lang có tranh vẽ truyền thần về Thượng Đế không? Cũng đã có biết về nhà ngoại cảm Nguyễn Việt Tiến có khả năng vẽ lại những nhân vật quá khứ như vua Lê Lợi không, và nếu có Thượng Đế thì anh ấy có thể vẽ lại không?

 

8. TÂM LINH VÀ TÍN ĐIỀU

 

Ở phần đặt vấn đề Thượng Đế, tôi có đưa ra mối tương quan mật thiết giữa linh hồn và Thượng Đế, song để bám sát cuộc hành trình lần về cội nguồn theo đúng truyền thống của học thuật, chúng ta buộc phải xem xét tỉ mỉ tiền tương quan này, đó là : có linh hồn không? Và linh hồn là cái gì? Tôi xin bắt đầu bằng một câu trong Phúc Âm: “Nước trời không phải ở thế gian này… nhưng nước trời bắt đầu từ thế gian này”.

 

Câu nói này có nghĩa nước của Thiên Chúa ở trên trời nhưng lại cắm rễ từ thế gian này. Nghĩa là thế gian là cơ thể, là nền tảng của nước Chúa, giống như cơ thể là nơi trú ngụ của linh hồn vô biên vô lượng. Thánh Augustine nói: “Cơ thể là sự nghiệp đáng chiêm ngưỡng của Chúa, và cấu năng của nó chỉ ra rằng nó được sinh ra để làm kẻ nô bộc cho một linh hồn khả trí” ( Sdd ‘La Philosophie Moderne’, tr.36).

 

Tuy nhiên, chúng ta chưa thể chấp nhận linh hồn qua ngả Phúc Âm, bởi lẽ như những kẻ đang trải nghiệm Chúa bằng một quan năng sáng suốt, chúng ta không thể lần theo nguồn mạch mà ở đó Chúa đã án ngữ tất định. Chúng ta hãy xem Aristote bàn về linh hồn: “Linh hồn là một thực tại nền tảng của một cơ thể cấu thành tự nhiên”. Ông còn nói: “Linh hồn là một cách thức tất yếu chứa trong mọi vật thể”.

 

Tại sao linh hồn lại tất yếu ? Để trả lời câu hỏi này chúng ta hãy tham khảo ý tưởng của Platon, có lẽ theo ông thì cái nguyên lý hợp lý trong vật thể, cái khiến vật thể mãi mãi là nó, giống như một tiềm năng bên trong khiến nước cứ chảy miên viễn đời đời, đó là linh hồn. Ông nói: “Phần phi lý, giống như cơ thể chết, trong khi đó nguyên lý lại bất tử - đó là linh hồn” (Sdd ‘Encyclopedia New Catholic’, P11, tr.432).

 

Để dễ hiểu hơn cả chúng ta hãy xem xét quan niệm sau đây của Spinoza: “Linh hồn là ý tưởng của thân xác”.

 

Đó là suy niệm của các tiền bối về linh hồn. Về phần mình chúng ta cũng kinh nghiệm được rằng: con người không chỉ là thể xác. Khi con người biết suy tư và quyết định trước khi hành động, nghĩa là nó phải có một tâm trí! Và con người biết mộng mơ hay tưởng tượng, nghĩa là nó phải có một tâm hồn! Tâm trí là gì? Có phải là khả năng soi xét xuất phát từ nơi bạn! Tâm hồn là gì? Có phải là khả năng viễn du xuất phát từ tinh thần bạn! Còn khả năng mà toàn bộ tinh thần của bạn hướng về cõi siêu việt hấp thụ hoặc hút lấy nỗi sợ hãi cũng như niềm thành kính là cái gì? Đó có phải là linh hồn? Tuy nhiên mấy ngả mà tinh thần rẽ qua như tâm trí, tâm hồn, linh hồn dường như là con đường giản lược – phân rẽ của khoa phân tâm học.

 

Ở đây trong tương quan giữa hai yếu tố thiết yếu của con người chúng ta chỉ nên nhìn nhận vẹn toàn là: thân xác và linh hồn. Mặt khác linh hồn còn tất yếu như là sự nối dài, phóng rọi ra từ các cơ quan thân xác, chẳng hạn như: mắt nhìn thấy những vì sao, tai nghe thấy tiếng động từ xa tít… Theo Descartes thì linh hồn chắc chắn hơn cả thể xác bởi vì ta có thể nghi ngờ về sự có mặt của mình hơn là việc tâm thức đặt câu hỏi: Ta là ai?

 

Và tâm thức có thể nghi ngờ mọi chuyện, nhưng có việc nghi ngờ ấy là bởi có tâm thức, chứ tự thể xác không biết đặt câu hỏi mà cũng chẳng biết ngờ vực.

 

Nếu ta không chối nổi việc linh hồn có mặt như thực tại thì ta có khước từ nổi cái mảnh đất mà linh hồn cất cánh bay đến không? Sau khi minh chứng linh hồn là một thực tại tất yếu, thì Descartes đã đi đến một suy luận tất định rằng: Thượng Đế là tất yếu. Bởi lẽ bản tính của linh hồn là suy tưởng, và sự suy tưởng của nó không bay bâng quơ, mà nó nhắm đến vùng trời siêu việt – cái gọi là Thượng Đế.

 

Mới đi tới cái sự phân biệt có sự khác ý thức và vật chất,  mà chưa đi sâu hơn nữa, cái tận cùng để tạo ra những hiện tượng ấy, ý thức có phải vật chất không? Không có cơ sở nào nói về linh hồn nhắm đến vùng trời siêu việt - Cái gọi là Thượng Đế, đây chỉ là suy luận đơn thuần.

 

Có hợp lý không?

 

Khi chúng ta có đôi mắt, chúng ta sẽ nhìn cái gì? bạn có bao giờ tách được cái nhìn từ đôi mắt với hình ảnh mà chúng đang uống lấy. Và hơn cả thế cái gì chứng tỏ con mắt sáng? Cái nhìn của nó! Cái gì chứng tỏ nó đang nhìn? Vật được nhìn và hướng được nhìn! Bởi vậy đôi mắt chẳng bao giờ tách được ảnh tượng. Còn linh hồn, nó có tách khỏi cõi miền Thượng Đế lúc nào cũng tràn ngập trong lòng nó, vẫy gọi nó, và kéo nó về siêu việt? Kierkegaard khẳng định: “Nước Trời là của tâm hồn”, và ông còn diễn tả “Thượng Đế là một chủ thể, và vì vậy chỉ hiện hữu với chủ thể nội tâm” (sdd ‘Hiện tượng luận về hiện sinh’, tr.55). Theo Kierkegaard thì, chỉ có linh hồn mới được gọi là chủ thể hoặc cái qui định một vật thể có chủ thể, chứ tự vật thể không tự làm nên ông chủ cho mình. Bởi vậy, Thượng Đế là chủ thể sáng thế vũ trụ, Ngài chỉ hiện hữu với chủ thể linh hồn. còn thể xác thì làm sao mà biết được!

 

Con người là linh hồn! Chúng ta có thể giảm trừ con người của mình sang địa hạt linh hồn như vậy để nhìn nhận chủ thể linh hồn vũ trụ một cách thuần nhất hơn. Và lúc này chúng ta hãy lắng nghe cái hơi thở nhức nhối của đời sống linh hồn: “Cái ngày tốt đẹp nhất là ngày mà linh hồn thấy đói khát” (Scheler).

 

Và tất nhiên, linh hồn chỉ có thể thỏa mãn cơn khát của mình ở suối nguồn duy nhất: Thượng Đế. Thánh Augustine nói: “Con người bị kẹt giữa vị trí trung gian, nếu bạn có một linh hồn nó sẽ nằm ở giữa, bạn nhìn xuống dưới sẽ thấy cơ thể, bạn ngước nhìn lên trên sẽ thấy Thượng Đế, bạn bị cơ thể kéo xuống nhưng lại được linh hồn nâng lên” (Sdd ‘Encyclopedia New Catholic’, A1, tr.1048)

 

Con người không chỉ giản lược là cơ thể! Chúng ta lo ăn, lo uống, lo chăm chút cho thể xác, còn linh hồn thì sao, ai chăm chút cho nó? Không! Linh hồn phải có quyền sống tối cao của nó, thậm chí còn quyết tử mạnh mẽ hơn cả thân xác. Trong cuộc đời, chúng ta gặp nhiều người tìm cách cáo chung thân xác của mình khi mà tinh thần họ tuyệt vọng. Ngược lại chẳng mấy khi chúng ta nhìn thấy một người tự tử vì đói khát. Linh hồn sống còn với cơ thể đến mức mà M. Proust đã quả quyết rằng: “Tôi không thể sống được nếu tôi không tin rằng có một trật tự tối cao”.

 

Trật tự tối cao là gì? Đó có phải mệnh lệnh được phát ra từ chiếc ngai tối thượng của Đấng chí tôn xuống vương quốc siêu việt nơi mọi linh hồn đều tìm đến để phụng hiến, vui hưởng cũng như hái quả làm thức ăn cho mình. Và hơn cả thế, Kierkegaard còn cho rằng, Thượng Đế là nguồn biện chính vô tận cho cuộc hiện sinh yểu mệnh của con người. Con người nhắm đến tính vĩnh cửu của Thượng Đế để lý giải cuộc hiện sinh ngắn ngủi của nó, và cũng để thoát xác vui hưởng sau cái chết. Kierkegaard nói: “Thượng Đế là tối cực của hiện sinh, là chủ thể tối cực biện chính cho tín ngưỡng của con người.”

 

Chính nhận thức được vai trò của mình trong không gian và thời gian, nên con người mới say khát và cầu nguyện sự toàn hảo và vĩnh cửu. Đó là khát vọng tự thân, bỡi lẽ chỉ có con người mới ý thức được sự vui sống cũng như sự lo chết. Khi ý thức được sự hữu hạn của mình con người khát khao cái vô hạn không có trong kiếp người nhưng đã xuất hiện tất yếu trong ý thức khát vọng của con người. Song dù muốn hay không, con người cũng nhận biết: cái vô hạn không phải là sản phẩm do lòng tham của nó hoảng sợ nghĩ ra khi nhìn thấy nguồn mạch đời sống cạn kiệt dần, mà nó thấy, vũ trụ với không gian vô biên mở ra cùng thời gian vô tận. Không gian và thời gian là vô hạn, chúng bất khả hoại! Đó là sự thật mà con người đã khả tri được trong kiếp hiện sinh ngắn ngủi của mình.

 

Vậy liệu con người có phải là một tạo vật biết khao khát? Người ta khao khát cái gì? Liệu đây có phải là câu trả lời xác đáng: khao khát cái ở ngoài tầm tay mình. Con tim khao khát tình yêu, có phải nó sẽ tìm cách thổ lộ những lời êm ái dạt dào của nó. Còn khi linh hồn khao khát nó phải làm gì? Còn gì khác hơn, nó còn biết làm gì hơn là cầu nguyện. Bởi thế con người là tín điều của mình, tín điều bày tỏ niềm tin của nó vào sự vĩnh cửu và vô hạn, và đó cũng là vĩnh phúc đời đời không cạn cho cơn khát không ngơi nghỉ của nó. Scheler nói:

“Con người là tạo vật biết cầu nguyện”.

 

Toàn bộ nội dung về tri thức chưa thấy liên quan gì đến cầu nguyện cả.

 

Thần chết Yama trong Bà La Môn nói: "Ngay cả thần thánh còn chẳng biết linh hồn là gì". Anh đã biết gì về thần chất Yama hay thần chết Osiris trong tôn giáo Bách Thần Ai Cập chưa?

 

Chí Tôn Ca thế kỷ IV TCN của Ấn Độ viết: "nếu tìm hiểu Thượng Đế thì một cá nhân mất nhiều triệu năm mà chẳng bao giờ biết được", ở đây là hàm ý với cái hiểu thông thường của nhân loại về Thượng Đế như tác giả đã viết ở trên.

 

Chúng ta đã từng biết có một loại "Kinh Vô Ngôn" chưa?

 

Chúng ta đã từng suy nghĩ rằng: vũ trụ là tự nhiên như vậy chưa? Đạo Đức Kinh có viết: "... có cái còn có trước cả Ngọc Hoàng Thượng Đế nữa, không biết gọi là gì nên gượng gọi là Mẹ" (tôi trích sơ bộ vậy).

 

 

Nếu không có đại cơ duyên thì dù có hàng tỷ năm nữa, với phương pháp suy luận chưa tới tận cùng như trên, và không tìm được mối liên hệ giữa tự nhiên và con người trong vấn đề tương quan: những đặc tính của không gian, thời gian, sự tiến hóa của vạn vật theo Đác Uyn, vật chất và ý thức và mô tả được cái "tuyệt đối" với sự tuân thủ quy luật bao trùm (liên quan đến vũ trụ là Một" thì không đi tới đâu cả.

 

Tôi đã đọc các tác phẩm và bài viết của tác giả, phải công nhận ông là một con người rất có thực tài, tuy nhiên nên nghiên cứu sử và triết học Đông Phương, đặc biệt là nguồn cội nước Văn Lang - "Về nguồn" thì mới giải quyết được triệt để những vấn nạn nêu trên.

 

Vì sao quên lãng ông bà,

Quên cửa, quên nhà, thờ phụng người ta.

Ấy là quên cả mồ Cha,

Đi khóc đống mối, sao tha kẻ rờm.

 

Tôi không rõ các tác phẩm sau này của tác giả như thế nào, nếu lấy Thượng Đế làm trung tâm như lý luận của tác giả ở trên thì rõ ràng, với những câu hỏi và phản biện tôi đã đặt ra thì tất cả chúng bắt buộc đều sụp đổ.

 

Đặc biệt, liên hợp được tri thức Tam Giáo: Lão, Nho, Phật (theo thứ tự thời gian lịch sử), trong đó sách của các bậc giác ngộ và đã đạt các cấp độ tu chứng nữa thì mới xong (tôi chưa đạt đến những kết quả sơ khởi và đơn giản nhất), rồi bước tiếp theo là thực hành - vô cùng khó khăn.

 

Hàm ý thêm: có học thuyết về vũ trụ quan và nhân sinh quan - phương pháp ứng dụng - bậc thầy chứng ngộ hay minh sư - thực tập cá nhân, tất cả chỉ quy về cá nhân.

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Dưới đây là bài viết về những chiếc đĩa đá cổ Dropa trên mảnh đất Tây Tạng (Tibet), Tây Tạng là một bộ xa nhất của Văn Lang trên vùng tây bắc, khởi nguồn của sông Nhị (sông Hồng), Dương Tử, Cửu Long... liên kết vùng Miến Điện và Vân Nam và cách bởi nước Butan, Ấn Độ và Bangladet.

 

china-india-border-disputes1.jpg

 

Nếu chúng ta hiểu thuyết Âm Dương Ngũ Hành thì giải mã dễ lắm, tất nhiên có liên quan đến lịch sử nước Văn Lang cách đây trên 4.000 năm rồi, khoảng đầu thời Hùng Vương Thứ IV.

 

Đĩa đá cổ Dropa: Bằng chứng về người ngoài hành tinh?

 

Kể từ khi được phát hiện cho đến nay, những bí ẩn xoay quanh chiếc đĩa đá cổ Dropa vẫn chưa có lời giải đáp. Nhiều ý kiến cho rằng những chiếc đĩa này là minh chứng rõ ràng về sự tồn tại của người ngoài hành tinh.

 

Những chiếc đĩa cổ Dropa được tìm thấy vào thập niên 1940, từ chuyến khảo sát các hang động thuộc vùng rừng núi Baian - Kara - Ula, Tây Tạng của GS Tề Phúc Thái, một nhà khảo cổ đến từ ĐH Bắc Kinh. Kể từ đó cho đến nay, rất nhiều tranh cãi và nhiều lý thuyết được đưa ra để giải thích sự bí ẩn về đĩa đá, kể cả những giả thuyết có liên quan đến người ngoài hành tinh, nhưng mọi thứ vẫn nằm trong màn đen bí mật.

 

Nằm sâu trong lòng hang là hàng trăm đĩa đá. Mỗi chiếc có đường kính khoảng 21 cm và có một vòng tròn khắc sâu trong tâm đĩa, trên mặt đĩa khắc những vòng rãnh xoắn ốc kèm theo hình ảnh mặt trời, mặt trăng, các ngôi sao, mặt đất, núi, động vật. Đặc biệt những chiếc đĩa này thể hiện cả hình ảnh “người ngoài hành tinh” và “đĩa bay” của họ. Chúng có niên đại khoảng 10.000 - 12.000 năm tuổi.

 

kienthuc-dropa-02_jgvi.jpg

 

Dropa_1.jpg

 

dia_da%201_kienthuc.net.vn_amsi.jpg

Cụ thể, vào năm 1938, tiến sĩ Chi Pu Tei dẫn đầu một đoàn thám hiểm tới những hang động nối liền nhau trong dãy núi Himalaya. Họ đã phát hiện được điều kỳ lạ ở vùng rừng núi Baian - Kara - Ula, Tây Tạng. Tại đây, họ đã phát hiện ra một số hang động có dấu hiệu cho thấy nơi đây từng xuất hiện một nền văn minh cổ xưa. Nằm sâu trong lòng hang là hàng trăm đĩa đá. Mỗi chiếc có đường kính khoảng 21 cm và có một vòng tròn khắc sâu trong tâm đĩa với một đường rãnh xoắn ốc khá giống những chiếc đĩa hát cổ. Chúng có niên đại khoảng 10.000 - 12.000 năm tuổi.

 

Một số chuyên gia cho rằng, những đĩa đá đó có thể liên quan đến một bộ lạc thời cổ đại. Bộ lạc này có kích thước cơ thể khá thấp bé, có thể là những người lùn do nhóm nghiên cứu đã phát hiện một vài khu mộ cổ được bố trí ngăn nắp có chứa một số bộ xương được chôn cất có kích thước khá kỳ lạ cũng trong hang tìm thấy đĩa đá. Cụ thể, có bộ xương có kích thước khoảng 1,2m, thon nhỏ nhưng lại có hộp sọ tương đối lớn, bất cân đối so với vóc dáng cơ thể.

 

Tiếp đó, các nhà khảo cổ phát hiện trên các bức tường trong hang động có khắc những chữ tượng hình về thiên đường bao gồm: Mặt Trời, Mặt Trăng, các vì sao, Trái Đất... và giữa chúng đều có các đường nối với nhau.

Vào năm 1958, một nhà nghiên cứu tên Tsum Um Nui kết luận rằng mỗi đường rãnh trên đĩa Dropa thực sự là một loạt chữ tượng hình bé xíu theo loại mẫu và nguồn gốc chưa từng biết tới. Ông cho rằng những chữ tượng hình này là câu chuyện kể về phi thuyền của người Dropa bị rơi, và các thành viên trên phi thuyền đã bị người dân địa phương tàn sát. Những người sống sót phải cư trú ở vùng núi hẻo lánh cho đến chết vì không có cách nào để chế tạo một phi thuyền mới đưa họ quay về hành tinh của mình.

 

Chiếc đĩa đá Dropa đặc biệt nhất

Dropa_2.jpg

 

Đến năm 1965, GS Tề Phúc Thái và cộng sự đã công bố giả thuyết của mình về đĩa đá Dropa. Một lần nữa, câu chuyện về những người ngoài hành tinh xấu số được nhắc lại.

 

Sau khi những giả thuyết trên được đưa ra, các nhà khoa học Nga đã đề nghị được xem các đĩa đá Dropa và nhiều trong số đó đã được gửi tới Matxcơva để kiểm tra. Sau khi phân tích hóa học, các nhà khoa học sửng sốt bởi những tấm đĩa chứa hàm lượng lớn cobalt và các chất liệu kim loại khác.

 

Tuy nhiên, đây vẫn chỉ là những giả thuyết chưa được chứng thực bởi những chiếc đĩa đá Dropa này chưa bao giờ được công khai, thế giới chỉ biết đến chúng qua những hình ảnh mờ nhạt được chụp từ nhiều thập niên trước.

 

Phân tích:

 

- Đây là một loại đĩa tương đương với đĩa bích thời Hạ Vũ, khoảng trên 2.200 TCN. Khu vực phát hiện thuộc thường nguồn sông Dương Tử, sông Hồng, Cửu Long.

 

- Mặt trời ở giữa, tượng trưng Thái Cực, vành Âm Dương xoắn bên ngoài rất giống một biểu tượng trình bày trong cuốn Kinh Dịch (tôi không nhớ rõ lắm). 12 cánh tượng trưng 12 tháng, 12 cung Hoàng đạo...

 

- Kiểu chữ rất giống các ký tự trên đồ gốm Yangshao, Trung Quốc, thời Nghiêu, Thuấn trở về trước.

 

- Con người được tiến hóa từ các loài động vật và tương tác phức tạp khác nhau. Con người được định vị tại cung Khôn, đông nam và đối ứng qua tâm sẽ là cung Càn, tây bắc. Điều này mang ý nghĩa những con người đầu tiên xuất hiện từ một loài linh trưởng thông minh tại vùng đông nam của địa cầu tức vùng Bắc Bộ ngày này - so với vùng núi cao như Himalaya... (tôi còn nợ vấn đề này trong bài viết Những giới hạn của học thuyết Âm Dương Ngũ Hành và nay đã giải quyết xong).

 

- Bắc Bộ Việt Nam cũng gần đường xích đạo, tức cân bằng Âm Dương của địa cầu, điều này cũng chính là trung tâm năng lượng của địa cầu so với các vị trí tương ứng khác.

 

- Con tắc kè có khả năng thay đổi màu sắc biểu tượng cho sự tương tác biến hóa, phù hợp môi trường, của sự tiến hóa vạn vật... và hai con nhện 8 chân + 1 thân tròn chính là Hà đồ - Lạc thư.

 

- Vòng tròn sinh thực khí nữ nằm trong một "trường khí xoắn", trường khí này tượng trưng cho Âm, tức vạn vật hữu tình nảy sinh từ Âm hay nguyên khởi vũ trụ Thái Cực là trạng thái Âm - tiềm năng của sự sống, như một quả trứng gà. Con người trong trường khí xoắn Âm, còn cái đầu thuộc trường khí xoắn Dương, "trái đất" là Âm so với "mặt trời". Chú ý, toàn bộ động vật trong trường khí xoắn Âm. Trường khí xoắn Âm bao quanh trường khí xoắn Dương theo quy luật "Dương trong Âm ngoài".

 

- Đĩa đá này như một chiếc la bàn, định vị theo Hậu Thiên Bát Quái - Hà đồ, con người ở cung đông nam, Khôn, độ số 2 (2 con nhện cũng là tượng trưng độ số 2 - cách "chơi" hình đó mà).

 

nguoi-ngoai-hanh-tinh-6_BVCE.jpg?width=4

 

- Chứng tỏ đã có Kinh Dịch từ 2200 TCN trước rồi, do vậy sau này Thánh Khổng Tử mới san định.

 

- Trong vòng xoắn có hai con tắc kè, đầu và cuối của vòng xoắn này. Con tắc kè khởi đầu là "con đực" do phân biệt về cái đuôi không xoắn tròn, đầu ngửng lên là Dương, do vậy con người tiến hóa đầu tiên từ nhóm linh trưởng thông minh là một người đàn ông, Dương. Sau đó, là một con cái tiếp theo, do chu kỳ vận động tương tác Âm Dương rất tế vi từ một chu kỳ thiên văn "lớn", theo Thái Cực đồ thuyết của Chu Hy đó là chu kỳ vũ trụ 25.920 năm (thiên cầu theo cách gọi thiên văn hiện đại, mà thiên văn cổ Đông phương cũng gọi như vậy mới có đường Hoàng đạo): "Trời mở ra ở hội Tý, Đất mở ra ở hội Sửu, Người sinh ra ở hội Dần". Con cái ở cuối xoắn, trong sự vận động của Hậu Thiên Bát Quái - Hà đồ, tức là vẫn biến hóa nhưng không thành "con người khác" được, hay sự thoái tư tưởng. Tại sao vậy? Bởi người xây dựng nên các đĩa đá này là bậc Thánh Triết.

 

- Con cái cuối xoắn cũng thể hiện sự trở về "Thái cực" của vạn vật. Đồng thời, con người là sự tiến hóa cao nhất trong vũ trụ. Sau khi "có con người" tức vũ trụ bắt đầu đi vào giai đoạn tan rã qua từ "thoái hóa" này.

 

Ở đây, ta rút ra có sự sai khác tiên đoán về niên đại thực tế khoảng 2200 TCN thay vì là 10.000-12.000 năm như của các nhà nghiên cứu.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Do chiếc đĩa đá chứa đựng nội dung rất tuyệt vời mà chúng ta cũng có thể đặt tên nó là "Đĩa đá thần kỳ", cũng vì trên đĩa đá quy ước trường khí xoắn Âm nằm bên ngoài (xác định bởi sinh thực khí) còn trường khí xoắn Dương nằm bên trong cho nên chúng ta cần xem lại cấu trúc hệ mặt trời, đây là một tổ hợp Âm Dương Ngũ Hành so với quy ước trên đĩa đá.

 

Đĩa đá thần kỳ

lolladoff12.jpg

 

Hệ mặt trời quy ước theo Âm Dương Ngũ Hành:

 

284.jpg?t=1214189263

 

Ở đây, Trái đất - nơi có vạn vật thuộc trường khí bên trong vành đai thiên thạch, nếu chiếu theo đĩa đá nó sẽ thuộc trường khí Dương, mặt khác một cách tương đối thì mặt trời tĩnh còn các hành tinh động xung quanh nó, cho nên mặt trời là Dương, tức có thuộc tính Dương Thổ theo quy ước trung tâm của Hà đồ - Lạc thư. Do vậy, chắc chắn Trái đất sẽ có thuộc tính Dương Mộc.

 

Tuy nhiên, cũng theo đĩa đá thì vạn vật sinh sôi trong trường khí Âm so với Trái đất có thuộc tính Dương Mộc? Phải chăng đã có mâu thuẫn khi đối chiếu tới các quy ước Âm Dương Ngũ Hành của Hệ mặt trời. Ở đây, trên đĩa đá, xác định rõ mặt trời 12 cánh ở trung tâm đĩa. Đồng thời ,điểm bắt đầu của các trường khí xoắn xuất phát từ mặt trời này và kéo dài ra vành biên ngoài cùng của đĩa đá theo hướng quay thuận chiều kim đồng hồ (cùng chung điểm xuất phát tại đỉnh giữa cung Ly thuộc tính Dương Hỏa và kết thúc tại trục Tý (Ngọ) - chú ý trong bảng "Lục thập hoa giáp" với điểm bắt đầu của Thiên Can và Địa Chi - quy ước tổ hợp trong Hệ mặt trời).

 

Trục Tý - Ngọ

Copyofhinhnapchi1.jpg

 

Từ điểm xuất phát từ mặt trời, chứng tỏ mặt trời được lấy làm trung tâm tạo ra trường khí, có thể hiểu mặt trời vận động xoay tạo nên trường khí Dương, chính còn Trái đất cũng xoay và quanh quanh mặt trời, chịu tương tác từ mặt trời làm trung tâm nên nhận tương tác Âm, phụ. Do vậy, trường khí để trắng Dương ở trên chính là của mặt trời và trường khí xoắn Âm cũng là của mặt trời tương tác tới Trái đất, cho nên Thánh nhân vẽ các trường khí quay cùng chiều kim đồng hồ là vậy.

 

Như vậy, giữa quy ước Trái đất - Dương Mộc thuộc Hệ mặt trời khác hoàn toàn với quy ước đối đãi tương tác chính, phụ giữa Mặt trời và Trái đất trình bày trên đĩa đá Dropa, trong đó Trái đất được định vị là chủ thể nhận tương tác và Mặt trời là khách thể gây ra tương tác chính. Tức là, chỉ ra quy ước tương tác theo Hậu Thiên Bát Quái - Hà đồ (Lạc thư ẩn) và đấy cũng là lý do đĩa đá Dropa được định vị như một chiếc la bàn theo công thức này, con người trên đĩa đá thuộc cung Khôn, độ số 2, Âm Hỏa. Khu vực phát hiện đĩa đá ở thượng nguồn Dương Tử, là hướng tây bắc so với Bắc Việt Nam và nếu chiếu theo trục Càn - Khôn thì Bắc Việt Nam thuộc hướng Khôn (nằm cạnh biển Đông, không thể ra biển được).

 

Điều này được mở rộng ra khi xét đến toàn bộ vũ trụ, chúng ta không thể biết được Hệ mặt trời thuộc một Hệ thiên văn nào bởi vũ trụ rộng lớn đến vô cùng, tức cũng không định vị được "trung tâm" theo nghĩa như một mặt trời, mà chỉ là trường khí Âm Dương hòa quyện lẫn nhau mà thôi, nó được trình bày qua vòng tròn Âm Dương trên bức tranh dân Đông Hồ "Thiên nhất sinh Thủy" (hai con nòng nọc). Vấn đề này là cực kỳ đặc biệt, bởi vũ trụ rộng đến vô cùng vẫn thể hiện được tính Âm Dương Ngũ Hành trong mối quan hệ với các tổ hợp Âm Dương Ngũ Hành thuộc nó nhưng nó lại không thể hiện như một Tổ hợp Âm Dương Ngũ Hành mà chỉ là hai trường khí Âm Dương: Vũ trụ nhìn nhận các thành tố - dù bất kỳ tổ hợp Âm Dương Ngũ Hành nào trong nó như chỉ là thuộc tính Âm Dương. Tất nhiên, hai trường khí Âm Dương này của vũ trụ không thể xoay lung tung được mà chúng hình thành nên một cấu trúc có thể tạm hình dung như một "hình trụ vô cùng" vậy bởi khả năng có thể định hướng.

 

Thiên nhất sinh thủy

lon_an_la_ray.jpg

 

Liễm đồng Nam Việt thân hoàn toàn hình trụ

58955331.jpg

Tương tự cấu trúc Tiên Thiên Bát Quái, trường khí Thiên Địa tác dụng lên Nhân bởi khi trái đất tự quay quanh mình thì chính con Người cũng quay tương ứng, tức con Người quay quanh một trường khí vũ trụ rộng đến vô cùng - Thiên và dưới chân là trường khí Địa.

 

Tiên Thiên Bát Quái

 

228.jpg

 

Trên đĩa đá, chúng ta chú ý chỉ có một người không rõ là nam hay nữ? trong khi đó có cả cặp tắc kè và nhện rừng, hình tượng này nói lên điều gì?

Share this post


Link to post
Share on other sites

Như đã viết, người Nam chuyển hóa trước tiên (Dương trước Âm sau), rồi đến một người Nữ tại Bắc Việt Nam từ một loài linh trưởng thông minh. Tuy nhiên, cần xét lại, ở đây "Âm sau" cũng có nghĩa là người sau cũng có thể là một người nam hoặc một người nữ, tuy nhiên sự kết hợp đầy đủ vẫn là một cặp Nam Nữ. Cho nên, người được trình bày trên đĩa đá không rõ nam hay nữ nhằm nhấn mạnh sự phân tích ở đây, chủ ý của tác giả đĩa đá Dropa.

 

Cũng chú ý, dòng xoắn tương tác bắt đầu ở đỉnh cung Ly và kết thúc cuối trục Tý - Ngọ, có thể hiểu rằng tương tác xảy ra khi chuyển đổi từ linh trưởng sang vượn xảy ra khi Trái đất nhận được tương tác của thuộc tính cung Ly, Dương Hỏa.

 

Tương tác này, nếu chiếu theo Thái cực đồ thuyết thì thuộc tương tác từ vũ trụ 25.920 năm, tức là khi Mặt trời dịch chuyển qua điểm giao 1/2 cung độ tương đương 25.920 năm/ 12/ 2 = 1.080 năm của Hoàng đạo (thay đổi Âm Dương của 1 cung Trời 2.160 năm).

 

Chúng ta đã thấy trí tuệ người xưa kinh khủng thế nào chưa! Lý luận của nhà triết học Paul Nguyễn Hoàng Đức dựa trên một số câu nói của các nhà triết học Tây phương mà cũng chẳng thèm quan tâm đến thực tế và kết quả của lịch sử mà ăn thua gì, đĩa đá Dropa có cách đây đã 4.200 năm rồi.

 

Đường Hoàng đạo

images914648_12chomsao.jpg

 

Qua đó, có thể nhận thấy:

 

- Vũ trụ vô cùng "nhìn nhận" vạn vật trong nó qua "Âm Dương".

 

- Hệ thiên văn... hay Hệ mặt trời (xem như một đơn vị tổ hợp Âm Dương Ngũ Hành) nhìn nhận Trái đất qua "Âm Dương Ngũ Hành".

 

- Trái đất nhìn nhận con Người và vạn vật trên nó cũng qua "Âm Dương Ngũ Hành".

 

- Con người nhìn nhận vũ trụ và vạn vật như ngôn ngữ "Âm Dương Ngũ Hành" (với kiểu chữ Nòng Nọc) và một số khái niệm trong tôn giáo Văn Lang" như đã viết.

 

- Thánh nhân "nhìn nhận" con người phổ biến một cách "bình đẳng tính trí" và "nhân nghĩa".

 

- Con người phổ biến nhìn con người phổ biến qua "đô la".

 

Con mắt Cao Đài

ngchi.jpg

 

Viết vui vậy!

Share this post


Link to post
Share on other sites

"Đạo của Trời là Âm Dương, Đạo của Đất là cương nhu, Đạo của người là nhân nghĩa".

"Người thuận theo Đất, Đất thuận theo Trời, Trời thuận theo Tự Nhiên".

 

Hình người trên đĩa đá Dropa còn cho ta một biểu tượng nữa, đó là chữ Thiên, Thiên là nhân thần thuộc về... và khi dùng chữ Thiên này thì trục Càn Khôn được định hình theo đúng bản chất quy ước về vũ trụ quan của chúng. "Càn" là Trời, cũng liên quan đến nghĩa "làm càn", "càn quấy"... hàm ý "Càn" cũng làm càn, làm bậy như thường, Đạo Đức Kinh viết: "Trời coi nhân loại như chó rơm" (nhớ không rõ lắm), tức coi nhân loại chỉ là trạng thái Âm Dương mà thôi. Có lần, Cụ Càn nhỡ tung chân đá lộn trái banh "thiên thạch" văng vào trái đất làm tiêu béng cả một thời đại khủng long và các loài vật khổng lồ, sau cú làm bàn tuyệt hảo rồi Cụ chậc lưỡi: "Sorry nhé, thôi làm mới lại trái đất lại vậy".

 

Rõ khổ ngay cả các nhà triết học đại tài (các ông thần học cũng tự nừa mình, nừa người) cứ lằng lặc xin cụ Càn cứu rỗi linh hồn mình, Cụ bảo: tao đâu biết và cũng chẳng thấy linh hồn nào để cứu rỗi cho đâu, chỉ biết mỗi Âm Dương thôi! Nhưng coi chừng, tao đang chuẩn bị một cú đập bóng chuyền sấm sét vào trái đất nữa đấy.

 

                                 "THIÊN"

5929-300.png

Share this post


Link to post
Share on other sites

Tượng quý ít người biết

 

Quỳnh Vân- Đỗ Nguyễn
Thứ Năm, ngày 29/12/2011 - 07:09

 

Nhắc đến Trấn Vũ, người dân Hà Nội cũng như khắp nơi trong cả nước nghĩ đến đền Quán Thánh, nơi có pho tượng đồng thánh Huyền Thiên Trấn Vũ quý giá. Nhưng ít ai biết rằng, ở Ngọc Trì, Thạch Bàn, Gia Lâm, Hà Nội cũng có một pho tượng Trấn Vũ với quy mô và kiến trúc mang nhiều nét tương đồng với pho tượng ở đền Quán Thánh.

 

Đền Trấn Vũ ở Thạch Bàn

Huyền Thiên Trấn Vũ bằng đồng nặng 4 tấn

tuong-den-tran-vu-3.jpg?width=500

 

Thần Trấn Vũ có thể coi là hình ảnh giao thoa giữa hai nền văn hóa, vừa mang đậm truyền thuyết dân gian Việt Nam lại pha chút văn hóa Trung Quốc. Trong thần thoại Trung Quốc ghi lại thần Trấn Vũ được Ngọc Hoàng giao cho cai quản phương Bắc, lo việc mưa, gió, có bộ hạ theo hầu là rắn và rùa. Cũng bởi vậy, hình ảnh thần Trấn Vũ thường xuất hiện cùng biểu tượng quy, xà. Còn trong truyền thuyết của Việt Nam, thần Trấn Vũ là vị thần có công giúp An Dương Vương trừ tinh bạch kê quấy rối việc xây dựng thành Cổ Loa.

 

Những người dân trong thôn Ngọc Trì luôn coi bức tượng khổng lồ bằng đồng như một bảo vật. Dân trong làng thuộc làu câu chuyện vua Lê Thánh Tông (1460-1497) trên đường đem quân đi chinh phạt phương Nam có nghỉ chân tại Cự Linh (tên gọi xưa của vùng đất Ngọc Trì). Đêm ấy, thánh Trấn Vũ hiển linh báo mộng phù trợ nhà vua. Nhân cái tích ấy, sau khi chiến thắng, vua cho lập đền và tạc tượng thờ, gọi là Hiển linh Trấn Vũ quán. Đền được xây dựng trên thế đất linh với “quy xà hội tụ”. Trước mặt là cánh đồng rộng có gò đất như hình rùa đang phục trước đền. Ôm trọn phía sau ngôi đền là con đê sông Hồng cao uốn lượn.

 

Theo PGS.TS Trần Lâm Biền, nếu để ý, phần lớn các khu vực gần đê sông Hồng đều có đền thờ Huyền Thiên Trấn Vũ với mục đích để cầu mưa thuận gió hòa, trị thủy hoặc tiêu thủy. Như vậy, không có sự khác biệt ở hai pho tượng Trấn Vũ ở đền Quán Thanh hay ở Ngọc Trì. Chỉ khác nhau ở chức năng của vị thánh này khi được thờ ở hai nơi khác nhau. Như ở đền Quán Thánh là để trấn yêu ma, quỷ quái ở kinh toàn, canh giữ toàn bộ phương Bắc. Còn pho đặt ở Ngọc Trì lại chỉ có chức năng trị thủy, diệt thủy quái ở những khu vực thường bị nước lụt hoành hành.

 

Cùng những bức tượng đất hình thù kỳ lạ (thần khỉ Hanuman trong truyện Mahabrahta)

tuong-den-tran-vu-2.jpg?width=500

 

Khi đền mới dựng, tượng Trấn Vũ tạc bằng gỗ. Nhưng để thờ suốt 292 năm thì hư hại quá nhiều. Đến thời Lê Hiển Tông thì đã không còn khả năng phục chế. Bấy giờ, Vua Lê Hiển Tông thấy pho tượng gỗ không tương xứng so với đức thánh Huyền Thiên Trấn Vũ bèn hạ lệnh cho người khẩn trương quyên đồng của dân chúng gần xa về đúc tượng. Các nghệ nhân đúc đồng lúc bấy giờ phải mất hơn 14 năm miệt mài lao động.

 

Cứ mỗi lần đúc xong lại thấy chưa xứng với sự uy nghi bề thế của thần Trấn Vũ, lại một lần nữa đắp đồng cho tượng cao dần lên, to dần lên và ngày càng uy nghiêm, mang hùng thái của một vị tướng canh giữ cõi Bắc. Trên tấm bia “Trấn Vũ điện bi ký” dựng năm 1820 cũng ghi lại: “Năm Đinh Sửu Cảnh Hưng (1757) đúc tượng đồng. Mỗi lần chiêm ngưỡng tượng thần lại muốn to lớn hơn nên tiết đông chí năm Mậu Thân 1788) đúc lại tượng... đến tháng tám năm Nhâm Tuất (1802) thì hoàn thành”.

 

Việc đúc pho tượng này cũng tồn tại hai thuyết khác nhau. Có thuyết cho rằng, tượng được đúc vào thời Tây Sơn, có thể lúc đầu chưa dám đúc ngay vì có thời gian nhà Tây Sơn dẹp bỏ các đền, chùa và thu chuông đồng để đúc vũ khí… Chỉ đến khi nhà Tây Sơn bỏ chính sách này, thì việc đúc tượng mới được tiếp tục tiến hành. Tuy nhiên, theo PGS. TS Trần Lâm Biền qua những dấu tích nghệ thuật trên pho tượng cho thấy, nhiều khả năng tượng được đúc từ cuối thời nhà Nguyễn, khoảng thế kỷ XIX. Bởi cho đến nay chưa hề phát hiện được pho tượng thời Lê Trung Hưng nào được đúc theo lối kiến trúc, nghệ thuật như vậy. Chẳng hạn như đường lượn sóng ở nếp áo theo hình hoa văn sen lượn qua lượn lại rất mạnh, lối nghệ thuật này phổ biến ở cuối thời nhà Nguyễn chứ không hề có ở thời Lê Trung Hưng. Ngay cả tạo hình cắm râu bằng kẽm vào tượng cũng xuất hiện rất muộn. PGS.TS khẳng định, tượng này mang nhiều chi tiết ở các kiểu tượng muộn, ít khả năng có niên đại từ thời Lê như những thông tin trước đây đã từng công bố.

 

Trải qua bao mưa nắng thời gian, pho tượng vẫn phần lớn bảo toàn được nguyên dạng so với dáng vẻ ban đầu. Tuy nhiên, cũng có những chi tiết đồng đã xuất hiện dấu hiệu xuống cấp, hoen gỉ, phần đồng lộ ra từng mảng nhỏ làm mất đi vẻ hoàn hảo vốn có của bức tượng. Mấy chục năm trước, một số hộ dân trong làng đã quyên góp tiền, sơn lên pho tượng một lớp áo bào, phủ một lớp sơn lên bề mặt tượng để bảo vệ tượng. Cũng từ đấy, pho tượng mới mang dáng vẻ như ngày nay, ngoài lớp áo bào, dưới đầu gối tượng cũng được tô vẽ họa tiết hoa sen cách điệu thành hình hổ phù tạo điểm nhấn tăng sự uy dũng cho pho tượng.

 

Có một sự trùng hợp kỳ lạ là pho tượng này mang nhiều nét tương đồng với tượng Trấn Vũ ở đền Quán Thánh. Cả hai bức tượng đều được đúc trong tư thế ngồi uy nghiêm trên một bệ gạch cao, đầu để trần, mặt tròn, mắt mở to, nhìn thẳng, mày rậm, mũi to, cằm tròn, miệng khép, môi dày, có ria mép, tai to, tỏa ra dáng dấp uy nghiêm lạ lùng. Tay trái tượng để trước ngực, đang bắt quyết. Tay phải úp xuống đốc kiếm. Mũi kiếm chúc xuống chồng lên mai rùa. Pho tượng Trấn Vũ ở Ngọc Trì rộng 1,7 mét, dài 2,9 mét. Tượng cao 3,8 mét, nặng khoảng 4 tấn. Những con số gần như trùng khớp với pho tượng ở đền Quán Thánh mặc dù hai pho tượng được đúc vào hai giai đoạn khác nhau.

 

Ông Mai Hồng Binh - Trưởng tiểu ban quản lý di tích phường Thạch Bàn cho biết, nếu không sớm có kế hoạch trùng tu, tôn tạo, di vật vô giá ở đây có thể sẽ vĩnh viễn bị lãng quên theo thời gian.

 

Truyền thuyết dân gian kể lại:

 

Đức Huyền Thiên Trấn Vũ tu tiên đắc đạo, sau khi thành chính quả, Ngài bỏ lại thân xác của mình ở trần gian. Lâu ngày thân xác của Ngài thành tinh và gây rối ở nhân gian, Ngài xuống trần gian trừng phạt. Nhưng vì yêu quái chính là thân xác của Ngài, nên pháp thuật của nó rất tinh thông, gần như Ngài học được cái gì thì nó cũng học được như thế đó. Hai bên đấu thần thông bất phân thắng bại, cuối cùng Huyền Thiên Trấn Vũ cùng yêu quái thi tài viết chữ trong vòng một canh giờ xem ai viết được nhiều thì coi như thắng. Trong một canh giờ, Huyền Thiên Trấn Vũ viết được 100 chữ còn yêu quái viết được 99 chữ, yêu quái thua cuộc và bị Ngài bắt giải đi trị tội.

 

100 chữ có nghĩa là chữ Khoa đẩu với 100 dấu tròn đặc rỗng của Hà đồ - Lạc thư, cấu trúc vận động của một tổ hợp Âm Dương Ngũ Hành (cái hay ở đây là chưa có sách Lý học Đông phương nào giải thích mối quan hệ giữa Hà đồ và Lạc thư nữa). Cho dù học thuyết Âm Dương Ngũ Hành và các phương pháp ứng dụng đã được các tiền nhân nước Văn Lang cổ đại truyền bá khắp thế giới, tuy nhiên bí ẩn cuối cùng vẫn là cấu trúc độ số Hà đồ - Lạc thư. Cấu trúc số này không có bất kỳ một nền văn minh cổ nào trên thế giới biết được.

 

HaDo-LacThu.png

 

Đây chính là mật ngữ chứng minh nguồn gốc học thuyết Âm Dương ngũ Hành xuất phát từ nước Văn Lang, mặt khác chúng ta cũng đã thấy sai lệch độ số 2, 4 của cung Khôn, Tốn trên Hậu Thiên Bát Quái - Hà đồ rồi. Thực ra, vẫn có nhiều cách chứng minh dễ dàng khác nữa.

 

Như vậy, chúng ta có câu hỏi tại sao yêu quái chỉ viết được 99 chữ trên giống như chữ thứ 99 của Huyền Thiên Trấn Vũ mà "khi viết đến chữ thứ 100" thì không thể viết được? Ở đây, yêu quái là thân xác bỏ lại của Huyền Thiên Trấn Vũ!

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Bài toán dựa trên cấu trúc ma trận 3x3 của Hà đồ - Lạc thư đã được phát triển lớn hơn rồi, mục đích là chi tiết hóa những tương tác ở tầm cỡ lớn ngoài hệ mặt trời tới trái đất và con người theo ma phương 4x4, cuốn sách Sứ Mệnh Đức Di Lạc của giáo sư Nguyễn Hoàng Phương viết ra được sự trợ giúp của các Đấng vô hình là tổ tiên nước ta, nếu không hiểu tận cùng về Tiên Thiên Bát Quái, Hậu Thiên Bát Quái, Hà đồ, Lạc thư.., thì không biết gì để triển khai. Tôi lấy một ví dụ, nếu ai có thể mở được con mắt thứ 3 có thế thấy được thế giới vô hình như cũng không đồng nghĩa có thể hiểu được tương tác quy luật từ vũ trụ, chỉ là gia tăng khả năng vật lý để từ đó thay đổi quan niệm về thế giới khách quan như đang là! mà thôi.

 

Việc giáo sư Nguyễn Hoàng Phương viết cuốn sách siêu diệu ở trên còn mục đích tiên tri và chứng minh cho tương lai học thuyết Âm Dương Ngũ Hành phát xuất từ Văn Lang. Một kế hoạch lớn trong một bản tổng kế hoạch khổng lồ của tổ tông nhằm bảo vệ thành quả của dân tộc, độc bản.

 

Được sự đồng ý của tác giả, Tôi (trích từ một nickname) xin được đưa lên đây vài lời nhận xét ban đầu của một nhà nghiên cứu về tác phẩm này "Sứ Mệnh Đức Di Lạc":

 

Thầy Nguyễn Hoàng Phương

Tuhuyen 8.8.2011

 

Cách đây khoảng hai năm tôi đang lang thang đi tìm chân thuyết thì chẳng biết cơ duyên nào đã dẫn tôi đến gặp một nhà nghiên cứu lý học Đông phương. Cuộc nói chuyện quá cởi mở và thẳng thắn đến nỗi làm tôi phải kiềm chế sự khó chịu của mình. Nhưng trước khi tiễn tôi ra về thì ông ta có nói: “Tôi khích anh đấy và tôi nghĩ thế nào anh cũng đọc”.

 

Bây giờ tôi viết những dòng này trong trạng thái lan man và cảm thấy như mình mắc nợ. Nhưng tôi nợ ai? Tôi có nợ gì nhà nghiên cứu ấy không? Tôi không nợ vì khi nghe ông ta nói tôi đã tính từ chối không muốn hứa gì. Tôi có nợ thầy Phương không? Không, vì lúc sinh thời thầy tôi còn chả được gặp nói chi là được diễm phúc làm học trò hay đồng nghiệp của thầy. Tôi nợ ai? Có lẽ là tôi nợ chính lòng tôi.

 

Tiểu sử của thầy Phương đã nhiều người viết và ai quan tâm có thể đọc ở trang web của trường Đại học khoa học tự nhiên. Ở đó người ta viết về thầy là một con Người với đủ phẩm chất nhân văn cao cả, nhưng cả các đồng nghiệp đáng kính và cả các học trò tài năng của thầy không ai giám đánh giá về trước tác của thầy.

 

Thầy Phương sinh năm 1927 và mất năm 2004. Vợ thầy mất sớm và thầy chẳng có con. Có thể nói cả cuộc đời thầy hy sinh vì khoa học và nếm trải không biết bao nhiêu vinh quang và cay đắng. Sắp tới ngày Vu lan không biết có ai thắp cho thầy một nén nhang không? Bài viết này cũng xem như là một nén tâm nhang xin bái tạ trước hương hồn thầy.

 

Thầy là người đã từng tham gia kháng chiến và vì chứng tỏ được năng lực tư duy xuất chúng nên thầy đã được cử đi học. Thầy là trưởng khoa Vật lý đầu tiên của trường Đại học tổng hợp Hà nội, nay là trường Đại học khoa học tự nhiên. Năm 1961 thầy tự viết luận án “Vật chất trong không gian 6 chiều” gửi sang Liên xô và sau đó đã bảo vệ thành công tại Đại học Tổng hợp Lômônôxốp và được cấp bằng Tiến sỹ.

 

Khi tôi ôm về một chồng tài liệu khoảng hơn nghìn trang với cái đầu đề ít nhiều làm tôi sửng sốt vì trước đó tôi được giới thiệu đây là một công trình khoa học đồ sộ có thể gợi ý cho nhiều luận án . Tên công trình này là “Sứ mệnh Đức Di Lạc”. Công trình này được thầy Phương chắp bút trong những năm ngắn ngủi cuối thiên niên kỷ trước và đầu thiên niên kỷ này và viết trong trạng thái như thầy nói: thiền thâm hậu và như trời đất đọc cho thầy và thầy đã nhận được tín hiệu sắp “về” của thầy.

 

Công trình này có tính kế thừa những công trình xuất bản trước đây của thầy khi vận dụng lý thuyết toán “Tập mở” để nghiên cứu triết học phương đông và y học phương đông, văn hóa phương đông và khoa học phương tây để đề xuất chiến lược “Tích hợp đa văn hóa đông tây cho một nền giáo dục tương lai”. Những công trình này hồi đó có nhiều tiếng vang cả trong và ngoài nước, nhưng chẳng ai gọi tên công trình dài của thầy Phương mà người ta hay nói thầy Phương nghiên cứu tập mờ, thầy Phương nghiên cứu đông y, thầy Phương nghiên cứu ngoại cảm …Tôi cũng có một thời gian bập bẹ “Tập mờ” nên có thể vì thế mà trước tác sau này của thầy Phương đến được tay tôi. Mặc dù không rỗi rải gì, nhưng tôi là người tạp đọc, nên tôi đã đọc không biết bao nhiêu lần trước tác của thầy Phương. Tình cờ gần đây vào mạng gặp trang của nhà nghiên cứu lý học Đông phương viết có ý trách tôi chẳng có phản hồi gì khi đã nhận đọc. Tôi sẽ viết sau đây những điều suy nghĩ của tôi không phải để thanh minh mà vì tôi cảm thấy có sự thôi thúc nội tâm.

 

Trước hết tôi có thể nói ngay là những điều tôi đang mong muốn tìm kiếm thì hầu như không thấy. Công cụ nghiên cứu của công trình này hoàn toàn không liên quan gì đến lý thuyết tập mờ mà như cơ duyên đã đưa tôi đến trước tác của thầy Phương. Thầy Phương đã dùng những cơ sở gì cho nghiên cứu công trình này:

 

1) Khoa học phương tây:- Toán cao cấp và chủ yếu là toán chuyên biệt như lý thuyết nhóm, đại số Li, đại số quaternion (đại số không gian 4 chiều), đại số octonion (đại số không gian 8 chiều); - Vật lý lý thuyết gồm thuyết tương đối và lý thuyết hạt cơ bản, lý thuyết cấu trúc vũ trụ…

 

2) Khoa học phương đông: - kinh dịch, các học thuyết về tử vi, thái ất, độn giáp, phong thủy… - Đông y, lý thuyêt về kinh, lạc và huyệt vị, thời châm học…

 

3) Khoa học đông – tây : sinh vật học, lý thuyết mã di truyền, trường sinh học…

 

4) Tôn giáo: thầy Phương chủ yếu dựa vào đạo Phật nhưng thầy có tham khảo cả các tôn giáo khác và có dựa vào triết học cổ đại của nhiều dân tộc, đặc biệt có nhắc đến nhiều lần hình vuông kỳ diệu của người Hebreux(Do thái cổ) …

 

Để hiểu trước tác của thầy phải có những kiến thức cơ bản nêu trên thì thử hỏi một kẻ ABC như tôi trong vòng 2 năm còn phải lăn lóc với cơm áo có đủ dũng khí để đưa ra nhận xét gì không? Hơn nữa, cái tôi muốn tìm là lời giải cho tương lai gần và ngay trước mắt thì thầy hầu như không thèm để ý.

 

Công trình của thầy Phương là sự tổng kết cho những nghìn năm trước và tiên đoán và đề xuất chiến lược cho nghìn năm nay và những nghìn năm sau. Nhưng nói như thế không phải không xứng đáng để nghiên cứu và không phải không có ứng dụng cho hôm nay. Toát lên trong công trình của thầy Phương là xu thế thống nhất hòa nhập. Loài người sẽ trở về trong cái Một và đi theo con đường tìm đến chân thiện mỹ. Hàng nghìn năm trước loài người chia rẽ sâu sắc vì trong cái toàn vẹn Thiên – Địa – Nhân thì loài người chỉ cúi mặt xuống đất và xâu xé trái đất với nhau, chém giết lẫn nhau. Đã đến lúc con người phải cùng nhau ngửa mặt lên giời hướng đến cái cao cả xứng đáng với con người: hòa hợp với trời, hòa hợp với tâm linh của chính mình, hòa hợp với nôi sinh ra mình (sự sống được gieo từ vũ trụ). Theo thầy Phương thì trong bốn giai đoạn phát triển của nhân loại chiếu theo tứ tượng: thái âm, dương minh, thái dương và thiếu âm, thì loài người đang bước qua (và hy vọng thế) giai đoạn mông muội thái âm để hồn nhiên trong sáng như một nhi đồng bước vào thời kỳ dương minh. Ngay từ buổi sơ khai loài người đã không biết rằng mình cùng ra đi từ một nguồn gốc mà rồi tư duy lại chia làm hai ngả: duy lý phương tây và minh triết phương đông. Suốt bao nhiêu năm cứ tranh luận, cái nào hơn cái nào. Lịch sử cận đại với những thành tựu của khoa học công nghệ đã nâng cao vai trò của khoa học duy lý phương tây. Nhưng gần đây với những đòi hỏi cấp bách về làm rõ thế giới vật chất và tâm linh thì các nhà khoa học phương tây lại sánh vai với các nhà mình triết phương đông để giải quyết những vấn đề chung. Theo thầy Phương thì không thể nói cái nào hơn cái nào cả mà duy lý là phần cứng như xương cốt, và minh triết là phần mềm như thịt da của một cơ thể nhận thức nhân loại. Theo tôi (tôi xin mạo muội viết ra: tức nickname) đóng góp vĩ đại nhất của công trình thầy Phương là chứng minh một cách thuyết phục nguồn gốc chung của duy lý phương tây và minh triết phương đông đó là nguồn gốc số. Đằng sau sự huyền diệu và kỳ bí của minh triết phương đông là một cấu trúc số chính xác không khác gì duy lý phương tây mà thậm chí còn vượt trội. Thái cực là gì trong cấu trúc số: là cái Một là toàn bộ vũ trụ. Lưỡng nghi là gì? Là cái Âm và cái Dương thống nhất và đấu tranh trong mọi sự vật. Âm dương có thể mô tả trong số hai chiều, có thể ký hiệu vạch đứt vạch liền, có thể xem như số nhị phân 0 1 hay gần đây người Việt còn gọi là ngôn ngữ nòng nọc. Tứ tượng là gì trong cấu trúc số? Đó là số bốn chiều hay không gian bốn chiều quaternion. Bát quái là gì? Bát quái là tám chiều cực đại cần thiết của con sổ mà người ta gọi là octonion. Đó là không gian cực đại cần thiết mà con số đã từ bỏ hai tính chất cốt yếu của nó: tính giao hoán và tính kết hợp.

 

Khi đã chứng minh cơ sở số của minh triết, thầy Phương đề xuất một bước táo bạo là xây dựng các phép toán trên cơ sở đó. Thầy đã thành công:

 

1) Đề xuất phép nhân quẻ, đây là một đề xuất hết sức táo bạo vì khi thầy nhân 8 quẻ 3 hào thì thầy nhận được kết quả phép nhân như là nhân hai octonion và thầy chiếu vào 64 quẻ của kinh dịch thì tìm thấy được sự tương đồng và một số dị biệt có lẽ do kinh dịch bị tam sao thất bản;

 

2) Khi thầy chiếu vào học thuyết di truyền thì phát hiện ra vị trí tương ứng của các axit amin trong chuỗi di truyền và phát hiện ra một số axit amin mới làm cơ sở cho dự báo xuất hiện một chủng người mới;

 

3) Khi thầy chiếu vào y học cổ truyền phương đông thì làm rõ được các đường kinh, lạc và vị trí của các huyệt trên cơ thể người;

 

4) Khi thầy chiếu vào trường sinh học thì nhìn thấy được đường hara và chân nhân và vị trí các luân xa và các thể tồn tại của chúng ta;

 

5) Khi thầy chiếu vào học thuyết phong thủy thì thầy tìm thấy vị trỉ tương ứng của các cung cát, hung và tính cát hung của kích thước Lỗ Ban và thầy phát hiện ra quy luật: cát nhân cát là cát, nhưng hung nhân hung không phải là hung mà lại là cát, tại sao;

 

6) Khi thầy chiếu vào vật lý học hiện đại thì thấy rằng nhóm 2 cấu tử là cơ sở để nghiên cứu thuyết tương đối, nhóm 3 cấu tử để nghiên cứu lý thuyết hạt cỏ bản, còn nhóm 6 cấu tử thì dùng để nghiên cứu vật lý gì cao hơn chăng;Ngoài ra, khác với toán học phương tây thầy còn đề xuất con số 5 chiều tương đương với thuyết ngũ hành đông phương và thầy đưa ra khái niệm quẻ nhiều hào, kết quả của các phép nhân quẻ 2 hào, 3 hào, 4 hào, 5 hào …Thầy dự báo các quẻ nhiều hào sẽ còn có nhiều ứng dụng to lớn mà hiện nay chúng ta chưa có khả năng hình dung. Xuyên suốt công trình của mình thầy Phương dựa vào các hình vuông kỳ diệu: hình vuông sao Thổ, hình vuông sao Mộc, hình vuông Mặt trời. Các hình vuông đó có tính chất đặc biệt là các số xếp theo hàng, cột, theo đường chéo đều có tổng bằng nhau. Thấy cho đó là sự biểu hiện của chân, thiện, mỹ. Thầy chứng minh rằng nền khoa học của loài người hiện nay bao gồm cả khoa học nhân văn, khoa học tự nhiên và công nghệ chỉ mới dựa trên hình vuông sao Thổ, hình vuông kỳ diệu có kích thước nhỏ nhất. Còn những khoa học dựa trên hình vuông sao Mộc và hình vuông Mặt trời thì sẽ thế nào. Hình vuông sao Thổ tương đương với Lạc thư trong triết học cổ phương đông và một biến tướng của nó được gọi là Hà đồ. Tại sao cách đây mấy nghìn năm mà cha ông ta lại phát minh ra một điều kỳ diệu như vậy? Đây là hình vuông kỳ diệu sao Thổ. Ai đã nghiên cứu kinh dịch thì biết ngay là các số tương ứng với Bát quái Hậu thiên hay Lạc thư.

 

4-----------9-----------2
3-----------5-----------7
8-----------1-----------6

 

Thay cho kết luận: Bài viết này là bài viết đầu tiên của tôi trong lĩnh vực này, như đã nói, là để đáp ứng nhu cầu nội tâm và tôi sẽ gửi cho nhà nghiên cứu lý học đông phương như để nói rằng là tôi có đọc trước tác của thầy Phương. Đây là một công trình đồ sộ, như lời thầy Phương nói, có tầm chiến lược vô cùng to lớn và Trời Đất đã ưu ái gửi cho dân tộc chịu nhiều đau khổ và là nơi giao hòa đông tây – Việt nam, thông qua sự chắp bút của thầy. Thầy viết ra trong thời gian quá ngắn như thông điệp gửi cho thế hệ mai sau với mong muốn lớp sau có thời gian sẽ làm sáng tỏ hơn những điều thầy muốn gửi gắm và bổ sung, làm phong phú thêm nội dung những đề xuất còn để mở. Khi viết bài này tôi đã tránh không dùng những từ chuyên môn vì tôi muốn hướng đến bất cứ ai đọc được tiếng Việt. Không biết tôi có thành công không. Tôi mong những ai đọc thì đừng nghĩ gì cao siêu mà hãy suy nghĩ như lời tôi nhắn gửi.Tôi cũng mong ước có một ngày các cơ quan của nhà nước quan tâm cùng với các cơ quan và các hội phi chính phủ thành lập những nhóm nghiên cứu làm sáng tỏ, đưa ra các ứng dụng và làm phong phú thêm trước tác của thầy Phương. Tôi xin được tình nguyện tham gia, nhưng một mình tôi thì chỉ trong “cõi trăm năm” thôi, làm được gì!

 

 

PGS. Nguyễn Hoàng Phương, nhà khoa học uyên thâm, một trái tim nhân hậu
 

GS. Nguyễn Hoàng Phương từ giã chúng ta để đi vào cõi vĩnh hằng đã gần được 2 năm, nhưng để hiểu và đánh giá đúng về ông, về những công trình của ông, chắc chắn còn đòi hỏi nhiều thời gian, nhiều nghiên cứu kiểm nghiệm.

 

GS. Nguyễn Hoàng Phương sinh năm 1927. Ông từng là chiến sĩ biệt động hoạt động ở thành phố Huế. Năm 1949, được cử đi đào tạo khoa học cơ bản và sau đó tiếp tục ở lại giảng dạy ở Khu học xá (Nam Ninh, Trung Quốc). Khi tiếp quản Thủ đô, ông về dạy ở Trường Đại học Sư phạm, và vào tháng 9.1956, khi Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (nay là Trường Đại học Khoa học Tự nhiên thuộc ĐHQGHN) được thành lập, ông đã có mặt ngay từ những ngày đầu tiên với tư cách người thầy. Lúc đầu, ông được cử làm Tổ trưởng Bộ môn Vật lý của Khoa Tự nhiên và trực tiếp giảng dạy các môn Toán cao cấp và Vật lý. Sau khi Khoa Tự nhiên tách thành các khoa Toán, Lý, Hóa..., ông được cử làm Chủ nhiệm Khoa Vật lý. Bên cạnh các tên tuổi bậc thầy về vật lý như GS. Ngụy Như Kontum, ông được coi là con chim đầu đàn của ngành Vật lý Việt Nam, là thầy của hầu hết những nhà vật lý tiếng tăm. Một người thầy hào hoa, uyên bác, đầy nhiệt huyết và rất yêu thương sinh viên. Ông còn là một nhà giáo có tài năng sư phạm lỗi lạc của nước ta. Những vấn đề toán học khô khan, những lĩnh vực lắt léo của Vật lý lý thuyết, qua những lời giảng giải khúc triết của ông, chúng trở nên sống động, dễ hiểu và vô cùng dễ nhớ. Chỉ riêng những vấn đề ông đã viết ra, in rồi hoặc chưa in, với mỗi quyển trên dưới một ngàn trang, cũng đáng để cho người đời, nhất là những người đã từng biết những khó khăn khi cầm bút, phải nghiêng mình thán phục.

 

Sự ham hiểu biết và thú say mê làm việc là những tố chất ưu việt đã được ông gìn giữ cho đến những "giây phút cuối cùng của cuộc đời", theo đúng nghĩa đen của cụm từ này. Trong những năm ở số 16, Hàng Chuối, không mấy ai trong ngành toán lý chúng ta chưa được nhìn thấy ông suốt ngày miệt mài bên chiếc máy chữ cũ kỹ đặt bên cửa sổ. Những quyển sách ông đã đọc qua, không mấy trang không có bút tích của ông để lại. Ông chăm chú lắng nghe những xêmina về Toán - Lý cho dù người trình bày chỉ vào loại học trò nhỏ bé của mình. Mọi thông tin khi lọt vào đầu ông, chúng đều được xử lý, sắp xếp theo cách tư duy của ông, cho nên, mọi điều ông viết ra, dù là những điều ai ai cũng biết, nhưng chúng đều có những sắc thái rất riêng chỉ mình ông mới có.

 

Ngày 22.3, một ngày trước khi đi xa, ông còn nhờ một người học trò cũ của mình photo quyển "Lý thuyết phạm trù" của B. Michell để ông nghiền ngẫm. Ông muốn tìm trong lĩnh vực trừu tượng nhất của toán học những phương cách để ông có thể diễn đạt được các đặc tính tinh tế nhất của thế giới vật chất. Ngày hôm sau, chỉ mấy giờ trước lúc ra đi, khi nhận được chương đầu tiên, ông còn phàn nàn sao không photo ngay cho ông cả quyển.

 

Hình ảnh ông với mái tóc dài bạc trắng, với đôi mắt thông minh, với nét mặt đôn hậu hóm hỉnh, với dáng đi nhanh nhẹn không hề mang dấu vết của tuổi tác, với cách bỡn cợt với bệnh tật của chính mình... vẫn còn in đậm trong tâm trí của bạn bè, học trò và cả những người chỉ biết ông qua một lần được nghe ông nói chuyện.

 

Ông là một trong số ít người đoán trước được vận mệnh của riêng mình. Ông nói ra điều đó một cách rất hồn nhiên, ông hoạch định từng chi tiết cho lễ tang của mình. Việc ra đi được ông hiểu đơn giản như việc tìm về nhà sau một cuộc viễn du mệt mỏi.

 

Những nghiên cứu khoa học của ông có thể tạm phân làm ba lĩnh vực: Toán - Lý, Trường sinh học và Tâm linh.

 

Năm 1959, trong khi nền giáo dục đại học của chúng ta mới chập chững những bước đầu tiên, cơ sở vật chất, sách vở còn rất thiếu thốn, với cương vị coi sóc Khoa Vật lý, ông đã nỗ lực hết mình, vừa tạo điều kiện để học trò học thật tốt, vừa tự mình mày mò nghiên cứu khoa học để làm gương cho thế hệ đàn em. Ông đã lập nên nhóm nghiên cứu Vật lý lý thuyết, gồm những người tâm huyết từ các cơ sở nghiên cứu khác nhau nhưng có chung một niềm đam mê Vật lý. Nhóm này hoạt động khá đều đặn và có hiệu quả. Các thành viên trong nhóm, nhiều người đã thành danh, là những phó giáo sư, giáo sư, tiến sĩ, tiến sĩ khoa học, viện sĩ, những trụ cột vững chắc cho các tổ chức vật lý của đất nước chúng ta.

 

Cũng trong thời kỳ này, ông đã có phát kiến trong lĩnh vực nghiên cứu vật lý cơ bản. Ông đề xuất một mô hình, trong đó không thời gian vật lý được mở rộng từ 4 thành 6 chiều và nhờ các chiều phụ, ông đã có những kiến giải rất có sức thuyết phục về đặc trưng nội tại của các hạt cơ bản. Phát kiến này đã giúp ông bảo vệ thành công luận án tiến sĩ. Luận án: "Vật chất trong không gian sáu chiều" được ông viết một mình, và là luận án tiến sĩ đầu tiên về Vật lý của nước Việt Nam mới. Luận án này được ông bảo vệ thành công ở Liên Xô.

 

Ngoài giảng dạy và lãnh đạo Khoa, ông còn dành nhiều thời gian để viết sách và đã có rất nhiều sách chuyên khảo có giá trị. Quyển "Lý thuyết nhóm và ứng dụng vào Vật lý học Lượng tử", in khổ rộng với hơn 500 trang, hiện vẫn là quyển chuyên khảo đầy đủ duy nhất về lĩnh vực này ở Việt Nam. Quyển "Nhập môn Cơ học lượng tử - cơ sở và phương pháp (Tích hợp Toán - Lý - Hóa)", với gần 800 trang in khổ lớn, cũng là một quyển sách tham khảo rất có giá trị cho sinh viên các trường đại học. Ông cũng có quyển sách viết bằng ngôn ngữ phổ thông về A. Einstein, một quyển sách rất truyền cảm được độc giả đủ mọi lứa tuổi đánh giá cao và được tái bản nhiều lần, ngay cả sau khi ông đã mất.

 

Một lĩnh vực rất mới mẻ, không chỉ ở Việt Nam mà ngay cả trên thế giới, đó là lĩnh vực Trường sinh học, cũng được ông dành cho nhiều tâm huyết. Đây là lĩnh vực rất kỳ bí, còn xa lạ với các công cụ khoa học Toán - Lý đương thời. Hiện nay, khoa học vẫn đang kiên nhẫn xem xét và chỉ có trong tương lai xa mới hy vọng có lời phán quyết đúng đắn.

 

Vào những năm khó khăn của thời bao cấp, khi người bạn đời thân thiết, hiểu ông, yêu ông và tận tụy vì ông đột ngột qua đời, ông rơi vào trạng thái hẫng hụt. Các cố gắng bấu víu vào cuộc đời thường đều không mang lại cho ông sự yên lành cần thiết về cả tinh thần lẫn vật chất. Bạn bè, đồng nghiệp đã khuyên ông đi chuyên gia châu Phi, bởi vì, lúc bấy giờ, đây là giải pháp duy nhất phù hợp với khả năng hiểu biết cuộc sống đời thường của ông. Ông đã nghe, đã làm đủ mọi thủ tục cần thiết và chỉ chờ ngày xuất phát. Nhưng tiếc thay, đến phút cuối ông đột ngột thay đổi quyết định. Lý do duy nhất kéo giữ ông ở lại, đó là, muốn dùng khả năng ngoại cảm của một số người để tìm tòi tài nguyên cho đất nước.

 

Đây là những năm tháng khó khăn nhất của cuộc đời ông. Khó khăn đó không chỉ vì vật chất thiếu thốn, mà ở ngay cả lĩnh vực tinh thần. Như đã nói ở trên, tiềm năng ngoại cảm của con người luôn là một lĩnh vực bí hiểm và rất dễ lợi dụng. Sự thơ ngây của ông trong cuộc sống đời thường đã mang lại cho ông không ít những hệ lụy. Đánh giá đúng về những đóng góp của ông trong lĩnh vực này còn cần có thời gian. Nhưng một người bạn cũ tâm huyết của ông đã nhận xét, nếu trong tương lai, tiềm năng ngoại cảm con người được chứng minh là đúng đắn, vị trí của ông trong lĩnh vực này sẽ rất lớn.

 

Nếu lĩnh vực Trường sinh học tuy kỳ lạ nhưng phần nào còn có thể nhận thức được, thì lĩnh vực tâm linh, lĩnh vực mà ông say mê cho đến cuối đời, vẫn còn là bí ẩn và khó hiểu hơn nhiều. Là một người am tường đại số, ông luôn mong muốn tìm ra những quy luật chung nhất không chỉ của thế giới tự nhiên mà còn của thế giới tâm linh, tức là thế giới ý thức của con người. Một trong những di sản vĩ đại của người xưa trong lĩnh vực này là "Kinh dịch". Ông đã nhìn thấy trong "Kinh dịch" quy luật chi phối xã hội và chi phối tự nhiên, thậm chí cả quy luật sản sinh ra các chủng loại người trên hành tinh của chúng ta. Khác với những người học dịch trước đây, thường chỉ dựa vào những phán xét của người xưa để luận bàn và thêm thắt, ông đọc dịch trên cơ sở liên hệ nó với quy luật của đại số học, và do đó, ông đã làm một việc chưa từng ai dám làm trừ đức Khổng Tử, đó là sắp xếp lại "Kinh dịch". Với việc tìm cỗ máy thiên cơ trong "Kinh dịch", tức là tìm ra quy luật sắp xếp thích hợp cho từng thời kỳ của 64 quẻ, ông đã chỉ ra cách dự báo có tính xác thực hơn. Ông khẳng định rằng: "Bài toán giải mã số thứ tự các quẻ (tự quái) là một trong những bài toán hóc búa nhất, hiểm trở nhất của Dịch lý trên cả toàn cầu và toàn lịch sử loài người, mãi cho đến nay mới bắt đầu thực hiện rõ ràng, cụ thể được. Những giải mã này cho phép khôi phục lại vị trí học thuyết siêu thống nhất phổ quát nhất về nhân văn học, và hơn nữa vị trí giao lưu văn minh vũ trụ, hội nhập vũ trụ nay mai". Ông ghi chép những kết quả của mình trong một số cuốn sách: "Những cơ sở của Triết học phương Đông và Tập mờ, Đông và Tây", in bằng tiếng Anh, khổ lớn, dày 200 trang (Oriental Philosophy Fundamentals and Fuzzy Set, East and West) và cuốn "Tích hợp đa văn hóa Đông - Tây cho một chiến lược giáo dục tương lai" in khổ lớn dày tới gần 1.200 trang, với các thuật ngữ vừa cổ kính vừa huyền bí mà còn lâu mới có thể hiểu và đánh giá chính xác đúng sai. Những suy tư của ông trong những năm cuối đời được ông ghi chép thành 5 tập còn đang chờ để được xuất bản.

 

Với 77 năm trong "khí hồng trần", những điều ông thu được trong các lĩnh vực thuộc khoa học tự nhiên và xã hội là rất đáng khâm phục. Nó chứng tỏ ông có bộ óc siêu việt mà trình độ khoa học đương đại chưa thể có phán quyết đúng sai có tính thuyết phục.

 

Ngoài đời ông là một người lãng mạn, chơi ghi ta rất cừ, rất thích đàm đạo, thương người và sống rất có tình. Trong con người khoa học của ông là một trái tim nhân hậu.

 

Là một kẻ hậu sinh, tuy cùng nghề, nhưng tôi chưa bao giờ dám đánh giá đúng - sai những điều ông đã viết. Mấy dòng này xin được xem là những nén tâm hương kính dâng lên hương hồn ông, nhân ngày giỗ thứ hai của ông./.

 

Phạm Thúc Tuyền [100 Years-VietNam National University,HaNoi]

 

 

NGUYỄN HOÀNG PHƯƠNG NHÀ KHOA HỌC TÂM LINH ĐẦU TIÊN CỦA VIỆT NAM

 

Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Hoàng Phương sinh ngày 27/03/1927, mất ngày 24/03/2004, là một hiện tượng trong đời sống văn hóa nước ta. Trong kháng chiến chống Pháp, ông là đội viên Đội biệt động dân quân, sau đó là đội viên Đội Thanh niên tuyên truyền xung phong Quảng Nam - Đà Nẵng. Ông có tư chất rất dũng cảm, thông minh, và lãng mạn, mặc dù trong hoàn cảnh chiến tranh, nhưng hành trang của ông luôn đầy đủ ba thứ đó là: cây súng, cây sáo và cuốn sách Toán.

 

Năm 1949 chàng thanh niên này được Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Hành chính Liên khu V đặc cách giới thiệu đi học. Chỉ trong một năm, anh hoàn thành xong chương trình Trung học Phổ thông ba năm.

 

Từ sau năm 1954 ông dạy Đại học Sư phạm Hà Nội, và sau đó là Đại học Tổng hợp Hà Nội (nay là Đại học Khoa học Tự nhiên). Ông được đề bạt Chủ nhiệm Khoa Vật lý, là thầy của hầu hết những thế hệ nhà vật lý của Việt Nam sau này.

 

Năm 1961, một đêm thức trắng từ sáu giờ chiều đến sáu giờ sáng để ông hoàn thành bản Luận án: "Vật chất trong không gian sáu chiều", là luận án tiến sĩ đầu tiên về Vật lý của Việt Nam được bảo vệ thành công tại Đại học Lômônôxốp, Liên Xô.

 

CÁNH CHIM ĐẦU ĐÀN CỦA KHOA HỌC TÂM LINH VIỆT NAM

 

Sau những năm giảng dạy, Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Hoàng Phương dành hơn 30 năm cuộc đời cho sự nghiệp thứ hai mà có lẽ là thiên mệnh, để nghiên cứu khám phá văn hóa tâm linh của phương Đông.

 

Từ rất sớm những năm 1970, Giáo sư tham gia nghiên cứu khả năng của nhà thực hành tâm linh, ngoại cảm, chữa bệnh tâm linh Việt Nam, là cụ Nguyễn Đức Cần. Dư luận Hà Nội một thời xôn xao hiện tượng một giáo sư đại học Toán - Vật lý lại say mê nghiên cứu những vấn đề tâm linh, trình độ xã hội bấy giờ gọi là mê tín dị đoan. Ông biết rằng mình đã bước vào cuộc phiêu lưu khám phá một vấn đề còn đầy bí ẩn và huyền diệu của nhân loại, một cuộc phiêu lưu đầy mạo hiểm. Nhưng ông không dừng lại. Ông đã viết công trình đầu tiên Đông Y Học Dưới Ánh Sáng của Lý Thuyết Tập Mờ, sau đó là cuốn sách Con Người và Trường Sinh Học (Nxb Đà Nẵng, 1990. Tái bản Nxb Văn hóa Thông tin, 2003). Cuốn sách viết dưới hình thức đối thoại, giới thiệu một vấn đề mới mẻ hấp dẫn với bạn đọc Việt Nam, đó là đời sống tâm linh của con người dưới ánh sáng của khoa học.

 

Duyên may hay thiên mệnh, đã dẫn dắt Giáo sư Nguyễn Hoàng Phương tìm đến Kinh Dịch. Một khó khăn cho ông là giỏi tiếng Nga, Pháp, Anh nhưng ông không biết tiếng Hán Nôm. Nhưng không sao, có cả một nền dịch học ở Việt Nam bắt đầu từ Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Quý Đôn đến Phan Bội Châu, và nhiều nhà nghiên cứu như Ngô Tất Tố, Nguyễn Mạnh Bảo, Nguyễn Hiến Lê, Lê Văn Quán đã ra sách bằng quốc ngữ. Ông thường xuyên dự các buổi giảng Kinh Dịch của thầy Vũ Xuân Quang, một nhà Hán Nôm lỗi lạc ở Hà Nội. Giáo sư thực sự nhận ra rằng Kinh Dịch là triết học tinh hoa của văn minh phương Đông, một lý thuyết hệ thống tối ưu nhiều mặt (sinh học, y học, quy luật tâm - sinh - lý và xử thế…) cho con người trong quan hệ với thiên nhiên, với cộng đồng, và với chính mình. Sau hàng chục năm miệt mài, có sự cộng tác và ủng hộ của bạn bè, Giáo sư cho ra đời bộ sách Tích Hợp Đa Văn Hóa Đông Tây Cho Một Chiến Lược Giáo Dục Tương Lai (Nxb Giáo dục, 1995, tái bản 1996).

 

Lần đầu tiên toàn bộ Kinh Dịch được trình bày và biểu diễn bằng một cấu trúc lô-gích của khoa học phương Tây, đặc biệt việc vận dụng lý thuyết Toán Tập mờ hiện đại của phương Tây để mô tả cấu trúc triết lý của văn minh phương Đông, biểu hiện một tư duy hệ thống hóa cặn kẽ, khám phá một phương pháp tiếp cận mới đối với triết cổ phương Đông thời nay. Tám quẻ Dịch được trình bày trong bảng Đại số Tám chiều, một thuật toán cao cấp, hiện đại. Nhờ thuật toán đại số này, ông giải mã Kinh Dịch, phát hiện những sai lệch của Kinh Dịch do thất truyền qua nhiều thế kỷ, đồng thời khám phá những bài toán đa tiêu của triết học cổ đại phương Đông, phát triển và vận dụng nó trong thế kỷ mới và thiên niên kỷ mới. Qua các khám phá này ông cố gắng làm sáng tỏ Kinh Dịch là học thuyết siêu thống nhất tất cả các học thuyết nhân văn Đông Tây, một lý thuyết Thiên - Địa - Nhân, giúp chúng ta hiểu về bản thể nhân loại trong quan hệ vũ trụ, giúp con người sống hòa hợp với thiên nhiên và hòa hợp với nhau.

 

Giáo sư đặt vấn đề làm sao để mọi người hiểu được và vận dụng được Kinh Dịch. Muốn vậy, cần phải dạy Kinh Dịch trong nhà trường, như “Một chiến lược giáo dục tương lai”

.

LÃNG MẠN KHOA HỌC CỦA NHÀ NGHIÊN CỨU TÂM LINH

 

Thần tượng của Giáo sư Nguyễn Hoàng Phương là Galile và Albert Einstein. Giáo sư cũng đã viết hai cuốn sách về hai danh nhân này (Nxb Văn Hóa, 1974 - 1976). Ông đã học tập tính kiên nhẫn và kiên cường của các bậc khoa học tiền bối này. Giáo sư nhắc lại một câu nói của Albert Einstein: Cảm xúc đẹp nhất và sâu xa nhất của con người là cảm xúc trước sự huyền bí. Chính cảm xúc này đã khiến cho khoa học nẩy nở. Những ai không có cảm xúc đó, không biết ngạc nhiên mà chỉ biết sợ hãi trước thiên nhiên, thì sống cũng như chết. Nhận thấy điều huyền bí con người không sao giải thích nổi, là vì khả năng thấp kém đáng buồn của chúng ta chưa hiểu được quy luật cao siêu, rạng rỡ của thế giới vô hình. Sự nhận thức và cảm xúc đó chính là nền tảng đích thực của tôn giáo.

 

Giáo sư tâm đắc với câu nói của Albert Einstein vì chính ông đang đối diện với tâm linh huyền bí. Ông từng nói: Tư duy tôi được rèn luyện hàng chục năm trong lò khoa học Toán - Lý phương Tây, từ đó tôi đã lớn lên với một phong cách làm việc có phương pháp, chính xác, rõ ràng. Nhưng tôi lại sinh ra trên mảnh đất phương Đông. Tinh hoa Đông phương, với cách suy nghĩ uyển chuyển, mờ ảo, bí ẩn, đã thấm vào hơi thở hàng ngày của tôi. Đó là những nguồn bổ sung lẫn nhau giúp tôi định hướng và cách giải quyết vấn đề.

 

Hoàng Lạc (tổng hợp và biên tập)

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Những biểu tượng trong bài ca dao “Anh là thợ mộc Thanh Hoa”

Dòng Hùng Việt

 

Anh là thợ mộc Thanh Hoa
Làm cầu, làm quán, làm nhà… khéo thay!
Lựa cột anh dựng đòn tay
Bào trơn đóng bén nó ngay một bề.

 

Phần mở đầu bài ca dao tỏ ra đơn giản và tả thực. Một người thợ mộc Thanh Hoa khéo léo, làm được đủ mọi thứ. Phần mở đầu này không cho biết tiếp theo là nói về anh thợ mộc đang đục chạm cho công trình nào. Làm cầu, làm quán hay đang làm nhà?

 

Phần tiếp theo không phải là làm nhà mấy gian, mấy chái, mà lại chỉ dùng “bốn cửa” để định khung cảnh. Ý nghĩa biểu tượng của bài ca dao bắt đầu từ đây. Bốn cửa ở đây là bốn phương, bốn lĩnh vực của đời sống xã hội, của nhân sinh quan đương thời. Do đó bài ca dao được tiếp bởi 4 đoạn thơ lục bát, mỗi đoạn có 4 câu. Mỗi đoạn thơ nói về một lĩnh vực.

 

Bốn cửa anh chạm bốn dê
Bốn con dê đực chầu về tổ tông.
(Tôi lý giải bổ sung chi tiết này: Việt Tỉnh ở trung tâm tượng trưng cho hành thổ - tổ tông, còn tứ tượng chính là tứ dương. Theo các nhà nghiên cứu lịch sử văn hóa Trung Quốc thì chiếc đôn tứ dương được dùng để đựng rựu: đây là một lý giải sai, mà đây phải là chiếc bình cắm hoa, từ trung tâm chiếc bình là tổ tông sẽ sinh sôi nảy nở con cháu như những đóa hoa).
Bốn cửa anh chạm bồn rồng
Trên thì rồng ấp, dưới thì rồng leo.

 

Đối với người Việt thì việc đầu tiên là việc thờ cúng tổ tông. Trong bài được biểu hiện bằng hình ảnh con dê. Dê đực là loài vật được dùng để tế lễ từ thời xa xưa. Cùng với đó là hình ảnh Rồng, con thì ấp, con thì leo. Rồng là nói đến vua, đến người lãnh đạo. Đoạn thơ này như vậy dành cho tổ tiên và vua, đúng theo đạo lý của Nho giáo.

 

Đôn Tứ dương

IMG_5109-972x1024.jpg

 

Đặc biệt hình ảnh diễn tả trong đoạn thơ thứ hai trùng khớp với hình trên chiếc đôn Tứ dương, một đồ đồng đặc trưng của thời Thương. Đôn Tứ dương có từ 3.000 năm trước, dùng trong việc tế lễ thần linh. Trên chiếc đôn vuông này bốn góc là hình đầu 4 con dê lớn, sừng uốn cong, râu dài. Còn ở giữa 4 cạnh có hình đầu con vật nhỏ hơn với 2 sừng thẳng. Rất có thể đó là những con rồng con (rồng ấp). Hoa văn trên thân có hình “rồng leo” và chim phượng.

 

Chiếc đôn Tứ dương cũng cho hiểu thêm ý nghĩa của “bốn cửa” trong bài ca dao. Mỗi cửa là một hướng, một phương vị. Đôn có bố cục vuông nhưng có 8 hướng (4 dê và 4 rồng). Dê tiếng Hoa là dương, đồng âm với Dương trong Âm – Dương. Sừng dê cong vì Trời tròn (Trời là Dương). Còn 4 con rồng nhỏ là Âm. Âm thì ẩn, ém đi nên hình rồng nhỏ. Đất vuông (Đất là Âm) nên sừng rồng thẳng. Âm Dương được phối hợp thể hiện thành 8 hướng (Bát quái) trên chiếc đôn này.

 

IMG_5067-1024x682.jpg

Dê và Rồng trên đôn Tứ dương

Bốn cửa anh chạm bốn mèo
Con thì bắt chuột, con leo xà nhà.
Bốn cửa anh chạm bốn gà
Đêm thì nó gáy, ngày ra ăn vườn.

 

Đoạn ca dao tiếp theo dùng 2 con vật Mèo và Gà. Mèo bắt chuột và leo xà. Đây là thể hiện không gian trên – dưới. Gà đêm gáy, ngày đi kiếm ăn. Hình ảnh biểu tượng của thời gian ngày – đêm. Như vậy trên bốn cửa của anh thợ mộc đã thể hiện đủ không gian và thời gian.

 

Bốn cửa anh chạm bốn lươn
Con thì thắt khúc, con trườn bò ra.
Bốn cửa anh chạm bốn hoa
Trên là hoa sói, dưới là hoa sen.

 

Đoạn về Lươn và Hoa cũng mang tính biểu tượng. Sau không gian và thời gian đã khắc ra ở đoạn trên, đoạn này hẳn là nói về “nhân gian”. “Thân lươn bao quản lấm đầu”, Lươn là biểu tượng của giới bình dân. Con thắt khúc, con trườn ra. Còn Hoa là biểu tượng của tầng lớp cao hơn, “tinh hoa”, với dáng vẻ và kích cỡ khác nhau. Có hoa nhỏ như hoa sói, có hoa lớn như hoa sen. Đoạn ca dao nói đầy đủ về các loại người trong xã hội.

 

Bốn cửa anh chạm bốn đèn,
Một đèn dệt cửi, một đèn quay tơ.
Một đèn đọc sách ngâm thơ,
Một đèn anh để đợi chờ nàng đây.

 

Đoạn kết nói về Đèn. Đèn là biểu tượng của trí tuệ, của khoa học công nghệ, của lý trí. Do đó có đèn dùng để lao động sản xuất (dệt cửi, quay tơ). Có đèn để sinh hoạt văn hóa (đọc sách, ngâm thơ). Và cuối cùng là đèn để đợi chờ, tìm bạn.

 

Anh thợ mộc Thanh Hoa làm bài thơ dài dòng như vậy không phải khéo nói để “tán gái” (như căn cứ theo câu kết). Làm thợ, anh có tầm hiểu biết sâu sắc về thế giới và xã hội nên anh đã chạm khắc cả một thế giới quan, nhân sinh quan của người Việt vào trong bài ca dao.

 

 

Người thợ mộc Nam Hoa

 

Làng Nam-hoa có một người thợ mộc khéo tay tên là Chuẩn.Thưở trẻ ông lưu lạc khắp nơi vừa làm thuê vừa học nghề. Nghe ở đâu có thợ khéo là ông cố nằn nì xin học cho được, dù có phải phục dịch thế nào cũng rất vui lòng. Tuy nhiên, sau khi đi lang thang mấy chục năm trời, ông vẫn chưa gặp được thầy nào vừa ý.

 

Một hôm, ông được dự vào việc xây dựng một ngôi đình ở làng nọ. Giữa bữa ăn trưa, bỗng có một ông già đến xin ăn. Các thợ khác đều lảng tránh hoặc xua đuổi, chỉ có ông Chuẩn sớt nửa phần cơm của mình cho cụ già.

 

Đến lúc ông tiếp tục công việc thì cụ già mon men đến gần, mượn rìu và đục, thử tạc mấy nét. Ông Chuẩn bỗng hết sức kinh ngạc vì cụ già kia có một tài nghệ phi thường đến nỗi trông những con giống chạm trên gỗ cứ tưởng là con vật sống. Ông bèn sụp lạy, xin cụ già truyền cho mình cái bí quyết của nghề nghiệp.

 

Từ đó ông Chuẩn trở nên khéo tay không ai bì kịp. Không những ông chạm trổ rất tài mà ông còn làm rất nhanh chóng. Bất kỳ công việc xây dựng nào khó khăn, ông đều cáng đáng được tất cả.

 

Sau bao năm cách biệt, ông trở về quê hương. Cũng dịp ấy, làng Hoành Sơn ở gần làng ông có bỏ ra một số tiền lớn thuê thợ mua gỗ dựng một ngôi đình đồ sộ. Một toán thợ chọn trong những người giỏi nhất vùng được mời khởi công. Công việc tấp nập đã kéo dài hơn ba tháng nhưng vẫn chưa xong một góc đình. Ông Chuẩn nghe tin bèn làm ra vẻ đói khổ, tìm đến xin ăn và ngủ đêm tại đó. Sáng hôm sau, toán thợ thấy người ăn mày ấy đốt cháy mất của mình một cái kẻ chạm, liền đưa trình làng để phạt vạ. Trước mặt các chức dịch, ông Chuẩn nói:

 

- Toi làm hỏng thì tôi sẽ đền. Vậy xin làng cho tôi một miếng gỗ để tôi chạm lại cái kẻ đó. Nếu quả là xấu không dùng được thì tôi xin ở đây làm phu để đền nợ.

 

Thế rồi, chỉ một thoáng, ông Chuẩn đã hoàn thành những nét chạm trổ cực kỳ tinh xảo trên cái kẻ mới. Mọi người đều tấm tắc khen ngợi. Làng biết ông là thợ khéo, có ý mời ông trông nom việc xây dựng. Nhưng tốp thợ cũ không bằng lòng, họ chưa bao giờ nghĩ rằng có những cây bé con lại vượt lên trên những cây đại thụ được. Họ nói:

 

- Thà là chúng tôi chỉ làm một nửa đình còn hơn là để cho người khác cầm đầu chúng tôi. Vậy xin chia một nửa số gỗ để làng giao cho người khác.Và chúng tôi mong được đua tài, bên nào xong trước và khéo hơn sẽ có quyền được lĩnh tất cả số tiền công của bên kia.

 

Mặc dầu tốp thợ kia đã khởi hành trước đây ba tháng, ông Chuẩn cũng nhận lời. Ông chỉ một mình mà làm rất nhanh, khiến cho cả tốp thợ bên kia đuổi không kịp. Ông chạm rất khéo, đến nỗi đối phương ban đầu còn giấu tài, nhưng sau phải đến bắt chước kiểu mẫu của ông. Sau cùng, thấy không thể thắng nổi, tốp thợ vừa thẹn vừa tức, bỏ dở ra về. Nhờ có ông Chuẩn nên chẳng bao lâu làng đã dựng xong ngôi đình có quy mô rất hùng vĩ, điều đặc biệt là mỗi nửa đình có một kiểu chạm trổ khác nhau.

 

Từ đấy, tiếng đồn về ông thợ Chuẩn ngày một lan rộng. Người ta đua nhau rước ông về dựng nhà cửa đền đài. Tất cả những nét chạm của ông đều làm đẹp lòng bọn quyền quý.

*

Một hôm, ông đang dựng một ngôi chùa lớn ở gần cửa biển. Công việc sắp xong. Bỗng đêm nọ ông đang ngủ, có hai người lạ mặt bước vào đánh thức dậy, bảo ông:

 

-  Đức Long vương nghe tin ông tinh thông nghề mộc nên ra lệnh cho chúng tôi lên mời xuống sửa lại hoàng cung.

 

Nghe nói, ông rụng rời cả người, định tìm cách thoái thác, nhưng chúng đã nghiêm nét mặt lại:

 

- Không thể từ chối được lệnh vua đâu. Hãy thu xếp đi ngay, không được chậm trễ!

 

Ông Chuẩn đành mang cưa đục lên vai, đi theo hai người lính của Long vương. Họ bảo ông nhắm mắt lại rồi rẽ nước cho ông đi xuống. Long vương trông thấy ông thì mừng rỡ vô cùng. Vua bảo:

 

- Trẫm nghe tiếng đồn về nhà ngươi đã lâu, nay mới có dịp triệu đến. Từ lâu, trẫm đã không thích quy mô nhỏ hẹo của cái cung điện tiên đế dựng lên ngày trước. Bây giờ trẫm đã chọn được một chỗ đất tốt. Nhà ngươi hãy xây cho trẫm một cái điện thị triều sao cho thật tráng lệ. Còn trên gò Bích Lăng ngươi hãy xây một cái Cửu trùng đài thật nguy nga để bốn biển có thể chiêm ngưỡng. Xung quanh đó thì ngươi dựng lên ba cung sáu viện cho thật huy hoàng rực rỡ. Phải làm thế nào cho mỗi một nét chạm ở bất cứ chỗ nào cũng khiến cho mọi người trầm trồ khen ngợi mới được! Ngươi hãy hết sức vì trẫm, trẫm sẽ hậu tạ. Cần bao nhiêu gỗ, bao nhiêu phu, bao nhiêu vật hạng đều có đầy đủ.

 

Nghe nói, ông thợ Chuẩn vừa mừng vừa sợ. Cho đây là một dịp để trổ tài nghệ của mình nên ông dốc tâm sức ra làm việc. Ông đã xẻ biết bao nhiêu là gỗ "chò" trên dương thế chở xuống. Ông vẽ kiểu, ông đẽo gọt, ông đục chạm liên miên không nghỉ. Cứ như thế sau ba năm hì hục quên ăn, quên ngủ, quên cả vợ con trên trần, ông thợ Chuẩn đã hoàn thành đại công trình cho Long vương. Tự tay ông đã dựng lên không biết bao nhiêu cung điện, lầu gác, hành lang, cầu, cửa, thủy tạ, v.v... làm cho một chốn hoang vu trở thành mái san sát, cột giăng hàng, rực rỡ cả một vùng biển cả.

 

Sau khi đi xem khắp mọi nơi, Long vương và các triều thần vô cùng ưng ý, khen ngợi người thợ mộc hết lời. Ngày lễ lạc thành, vua sai mang ra một cái hòm rồi bảo ông thợ Chuẩn:

 

- Trẫm rất cảm ơn nhà ngươi đã giúp trẫm trong việc xây dựng lớn này. Trẫm cho nhà ngươi hòn ngọc này để thưởng công. Thế nhưng, tất cả những điều tai nghe mắt thấy ở dưới này, ngươi không được nói cho bất kỳ một ai biết.

 

Ông Chuẩn một hai xin thề, nhưng Long vương nói:

 

- Có thêm cái này thì nhà ngươi mới giữ kín miệng.

 

Đoạn vua bảo ông thợ Chuẩn há miệng ra, bỏ một cái lá rêu vào, bắt nuốt lấy, rồi vua nói tiếp:

 

- Nếu nhà ngươi tiết lộ những chuyện bí mật trong giang sơn của trẫm thì lưỡi dao vừa nuốt đó sẽ không tha thứ cái cổ của ngươi đâu!

 

Ông thợ Chuẩn chỉ còn biết vâng vâng dạ dạ. Hai tên lính ngày nọ lại được Long vương gọi đến, bảo đưa ông lên cõi trần. Nước lại rẽ ra cho người thợ mộc đi thẳng về bến sông Nam Hoa với hòm tặng vật. Khi trông thấy làng mạc quê hương, ông thợ Chuẩn tưởng như mình được sống lại. Thấy vợ con còn chít khăn tang cho mình, ông mừng mừng tủi tủi. Nhớ lại lời dặn của Long vương, ông không dám rỉ răng kể lại sự thật, đành phải bịa chuyện cho mọi người yên tâm. Lúc mở hòm, quả có ba mươi viên ngọc lấp lánh. Hai vợ chồng lần lượt bán ngọc để ăn đói. Người ta trả giá không được bao lăm. Mãi về sau gặp một thuyền buôn nước ngoài; người phú thương chủ thuyền khi cầm lấy viên ngọc thứ hai mươi của ông Chuẩn mang ra bán thì không giấu được vẻ kinh ngạc. Hắn nói:

 

- Đây là ngọc "minh châu" quý giá không thể nói hết!

 

Đoạn hắn vét tất cả tiền của mình còn lại gần một ngàn quan trao cho ông để được làm chủ viên ngọc. Từ đó, ông thợ Chuẩn trở nên giàu có. Ông bán tất cả, chỉ chừa lại hai viên làm kỷ vật. Rồi ông tậu ruộng, làm nhà cửa, cuộc đời trở nên sung túc hơn trước.

 

Khi ông thợ Chuẩn làm lễ mừng thọ tám mươi tuổi, biết mình đã đến ngày gần đất xa trời, mới cho gọi tất cả con cháu họ hàng làng mạc lại. Ông bắt đầu kể cho mọi người nghe cái ngày bị Long vương bắt đi xây cung điện như thế nào. Ông kể rất nhanh và rất tỷ mỷ những điều tai nghe mắt thấy ở dưới đó. Kể xong, bỗng nhiên ông lịm đi trên giường. Người ta thấy có một lưỡi dao nhỏ bằng lá rêu đã xuyên qua cổ ông, lòi ra ngoài. Sau khi làm đám ma ông, hai viên ngọc trong hòm cũng không cánh mà tự biến mất.[1]

 

KHẢO DỊ

 

Về đoạn đầu truyện này, người Bắc Giang có một truyện kể tương tự. Khi xây dựng đình Nội (thuộc huyện Tân Yên, Bắc Giang), thợ mộc phải làm đến mười lăm năm mới xong. Lúc đầu làng thuê phải một tốp thợ tầm thường. Một người thợ giỏi đi qua ghé chơi thấy thế, bèn giả làm ăn mày, rồi nhóm lửa hút thuốc để lửa bén cháy mất một cái kẻ chạm. Cả tốp thợ đổ ra bắt đem trình làng. Làng toan trói lại để bắt vạ. Người ấy xin chạm cái khác để thay vào. Tốp thợ không nghe, cho rằng làm thế sẽ hỏng mất giá trị của toàn bộ công trình. Sau làng cho làm thử, nếu không xong sẽ phạt vạ sau. Nhưng khi người ấy chạm xong, mọi người đều kinh ngạc vì những đường nét chạm trổi chứng tỏ là bậc thợ có tài. Cuối cùng, làng thuê người ấy thi công thay cho tốp thợ trước.[2]

 

Về đoạn kết thì tương tự với truyện Người đi câu nơi ao Trời. Sơ lược là:

 

Ở Quảng Bình có cái ao Trời rất rộng, đi một ngày không hết. Xung quanh ao vắng vẻ ít ai dám đến. Một hôm, có một người làng đến đây câu cá. Đang câu, tự nhiên thấy từ dưới nước hiện lên một đoàn quân và thuyền đi thám thính khắp nơi rồi lại biến mất. Sau đó một chốc, thấy xuất hiện nào thuyền bè, nào tướng sĩ không biết bao nhiêu mà kể, lên thao diễn trên mặt hồ làm rực rỡ ồn ào cả một vùng vắng vẻ. Người đi câu sợ quá nấp trong bụi, nhưng sau có hai viên tướng trông thấy. Họ bắt ông ra hỏi chuyện, tặng ông một cái niêu, hễ bắc lên bếp là tự khắc có cơm. Cũng như tình tiết Long vương bắt ông thợ Chuẩn nuốt lá rêu ở truyện trên, hai viên tướng ở đây cũng bắt người đi câu nuốt một cái lá, và dọa ông hễ tiết lộ là chết. Vì thế, ông chài cũng chờ đến khi bị bệnh nặng mới kể cho con cháu mình nghe câu chuyện xảy ra ở ao Trời, kể xong, lưỡi dao cũng nhảy ra cắt đứt cổ.[3]

 

Người Hà Tĩnh có truyện Đóng giường nằm cho vua Thủy tề cũng là một dị bản của truyện Người thợ mộc Nam Hoa. Ở đây cũng có một bác phó mộc lành nghề. Vua Thủy tề lúc ấy đang cần một chiếc long sàng, nghe tiếng đồn về bác phó, bèn sai sứ lên triệu xuống đóng. Bác phó cố rình xem thân hình nhà vua như thế nào để đóng cho vừa. Dịp may được lọt vào ngự tẩm, bác thấy dáng nằm trên giường là một con rắn rất lớn khoanh tròn đầu ngóc cao. Bác bèn ước lượng kích tấc đóng ngay: giường vuông vức, giữa có trụ cao cho vua kê đầu. Giường đóng xong, được vua ca ngợi hết lời.

 

Cũng như các truyện trên, để bắt bác phó giữ tuyệt mật câu chuyện, Thủy tề cũng buộc bác nuốt không phải lá rêu mà là một lưỡi gươm thu nhỏ bằng cái kim. Kết quả, bác cũng đợi đến ngày sắp xuống lỗ mới kể cho con cháu nghe mọi việc ở thủy phủ, để cuối cùng lưỡi gươm trong bụng hiện nguyên hình, đâm ra ngoài cắt đứt cổ.[4]

 

Truyện Thánh Tản Viên của ta cũng nói đến tình tiết nuốt lá thành dao như sau:

 

Sau mỗi trận kịch chiến với Thủy Tinh, ngôi nhà của Thánh Tản Viên (tức Sơn Tinh) trên đỉnh Ba Vì thường bị hư hại, buộc Thánh phải gọi thợ mộc thợ hồ quanh vùng lên sửa chữa. Những người này được đệ tử của Thánh đón ở chân núi rồi đưa lên đỉnh bằng phép thần. Khi việc sửa chữa đã xong, Thánh cho mỗi người nuốt một lá trúc đào hình giống con dao hai lưỡi dặn họ khi về nhà không được tiết lộ những điều tai nghe mắt thấy, nếu ai không tuân lời sẽ bị phạt chết ngay tức khắc. Đã từng có một người thợ mộc vì rượu say phun ra mọi chuyện, bị lá trúc đào hóa thành dao cắt đứt cổ xuyên ra ngoài.[5]

 

Ở truyện Thánh Đản (Tản Viên) của đồng bào Mường cũng có tình tiết nuốt dao tương tự nhưng đây là con dao ước mà bố Thánh Đản lấy của vua Thủy không chịu trả lại. Nhờ vậy mà nó lọt đến tay Thánh Đản:

 

Ngày xưa, bố đẻ ra Thánh Đản là bố Trượng làm nghề thầy mo. Một hôm bố Trượng đang cày ruộng và chăn vịt bỗng có người ở Thủy phủ (Mường Khú) mời xuống làm vía cho con vua Thủy bị bệnh nặng. Đến nơi ông thấy một con rắn bị lưới quấn chặt cổ bèn giả phù phép rồi lần mò gỡ lưới ra. Khi lành, con rắn mách nước cho ông xin vua Thủy một con dao ước. Vua cho nhưng buộc hết đời phải trả. Bèn lấy dao ước cắm phập vào quả chuối bảo ông nuốt. Khi trở về ông thấy trâu cày và vịt còn ở đồng ruộng đủ số và béo tốt. Từ đấy ông trở nên giàu có. Truyện đến đây kết cục khác với của ta. Cho đến ngày chết, bố Trượng vẫn không trối gì với con cả, nên hôm đưa đám, những người của Thủy phủ theo hẹn lên đòi dao ước. Thánh Đản không biết thế nào mà trả. Thấy thế vua Thủy dâng nước lên cao để lấy dao. Để tránh nước ngập, Thánh vác xác bố nhằm núi Ba Vì chạy mãi, chạy mãi cho đến đỉnh. Chỉ còn một khoảng đất bằng cái nong, nước của vua Thủy không thể dâng được nữa. Từ đó Thánh có con dao ước và trở thành Thánh Đản.[6]

 

[1] Theo Nam Hoa mộc tượng ký và lời kể của người Nghệ An.

 

[2] Theo lời kể của người Bắc Giang.

 

[3] Theo Jê-ni-bren (Génibrel), sách đã dẫn. Người Nghệ An có kể một truyện gần giống truyện trên:  Một người đi câu ở một cái hồ thanh vắng. Bên hồ có một cây dừa. Bấy giờ là giữa trưa, đang câu tự nhiên thấy có một con ễnh ương ba đầu chín đuôi nổi lên mặt nước dạo ba vòng thuận, ba vòng nghịch rồi lặn xuống. Một hồi lâu,lại thấy một chiếc thuyền rồng nổi lên, trên mui kết lá dừa, cờ cũng bằng lá dừa, trống bằng quả dừa; quan quân ngồi trên những chiếc thuyền khác cũng lần lượt nổi lên rất rộn rịp. Người đi câu ngồi xem không chán mắt và không dám lên tiếng. Đến khi ngồi lâu mỏi mệt lại khát nước, mới ho lên một tiếng thì thuyền bè, quan quân, v.v... đều biến mất cả. Một chốc, thấy con ễnh ương bị chặt làm ba khúc nổi lên mặt nước.Những lá dừa, quả dừa đều nổi lên cả. Nhìn lại cây dừa thì lá và quả đều trụi hết. Sợ quá, người ấy chạy về nhà và bị bệnh nặng (Bản khai của các sách Hữu Lập, sách Vĩnh Lại, sách Nhiêu Hợp).

[4] Do Thanh Minh sưu tầm.

 

[5] Theo Lê Hương. Truyện tích Việt Nam.

 

[6] Theo lời kể của người Mường Hòa Bình, và Trấn Tử Bạch Đình. Cõi sống và cõi chết trong quan niệm cổ truyền của người Mường, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 141 (1971).

 

CỘT CHÙA DẠM VÀ VŨ ĐIỆU SINH SÔI BẤT TỬ

 

Trong khuôn viên Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam trước đây trân trọng trưng bày phiên bản một tuyệt tác của điêu khắc thời Lý – cột trụ chùa Dạm. Chùa Dạm, tên chữ là Trần Quang Tự, mà theo các thư tịch cổ ghi lại nhân dạo chơi ở Đại Lãm Sơn năm Quang Hựu thứ I (1085) nguyên phi ỷ Lan có ý định xây dựng một danh lam ở đây. Năm 1086, triều đình nhà Lý ra lệnh xây dựng chùa, đến năm 1097 thì hoàn thành. Chùa còn có một tên gọi khác là chùa Trăm Gian vì tương truyền chùa rất uy nghi bề thế, có 100 gian. Cho đến nay, đôi rồng ấp ở cột trụ đá chùa Dạm vẫn đạt kỷ lục về vẻ đẹp tinh tế và sự hùng vỹ của nó. Trong phần nhiều di tích hiện còn thời Lý, rồng thường chỉ ba móng, nhưng ở đây, có thể vì mang tính chất của một đại danh lam liên quan đến hoàng gia nên con rồng ở đây đủ năm móng. Có lẽ phần nhiều du khách tới Bảo tàng Mỹ thuật chỉ chú ý đến phía trước, hình hai đầu rồng Lý miệng đang há ra như đớp lấy viên ngọc báu mani chói sáng, mà ít chú ý tới hiện tượng phần thân đuôi ngoắc xoắn vào nhau. Đây chính là dạng thức giao hoan rất đặc trưng của loài rắn và một số loài thủy sinh khác mà trong thuật ngữ chuyên môn gọi là giao vỹ. Theo cách nói dân gian, đồ án này thường gọi là rồng ấp hay rồng phủ.

 

Cột chùa Dạm

t10.nvc-1.jpg

 

chuadam2.gif

 

1-HoangthanhThangLong_41_resize.jpg?t=12

 

f_201405151122223495.jpg

 

t416287.jpg

 

Trong kho tàng ca dao có một lời tỏ tình của một anh thợ mộc xứ Thanh:

 

Anh làm thợ mộc Thanh Hoa
Làm cầu làm quán, làm nhà khéo tay (khó thay)
Lựa cột anh dựng đòn tay
Bào trơn đóng bén nó ngay một bề
Bốn cửa anh chạm bốn dê
Bốn con dê đực chầu về tổ tông
Bốn cửa anh chạm bốn rồng
Trên thì rồng ấp, dưới thì rồng leo
Bốn cửa anh chạm bốn mèo
Con thì bắt chuộc, con leo xà nhà
Bốn cửa anh chạm bốn gà
Đêm thì nó gáy, ngày ra ăn vườn
Bốn cửa anh chạm bốn lươn
Con thì thắt khúc, con thì trườn ra
Bốn cửa anh chạm bốn hoa
Trên là hoa sói, dưới là hoa sen
Bốn cửa anh chạm bốn đèn
Một đèn dệt cửi, một đèn quay tơ
Một đèn đọc sách ngâm thơ
Một đèn anh để đợi chờ nàng đây.

 

Hoa sói có màu sắc trắng, mùi thơm quyến rũ

hoasoi_large.jpg

 

Hình ảnh đôi rồng ấp được anh thợ mộc tài hoa nhắn gửi chút huê tình của anh thợ mộc hay là một kiểu thức xa xưa trong nghệ thuật trang trí người Việt? Trong những dạng thức đồ án từ thời Lý lưu truyền đến nay, rồng ấp chiếm số lượng ít hơn những dạng thức rồng chầu, rồng cuộn, rồng bay. Tuy vậy, đồ án rồng ấp còn được thấy trên đôi rồng đá chạm nổi trên một bệ bia Sùng Thiện Diên Linh ở chùa Long Đọi (núi Đọi Sơn thuộc xã Đọi Sơn, huyện Duy Tiên, Hà Nam) cũng được làm thời Lý (khoảng năm 1122). Cũng cách đó không xa, được làm trước đó vài năm (1117) là chùa tháp Chương Sơn, trên một bệ bia cũng có đôi giao long. Rất tiếc là đầu rồng của hai đồ án nói trên đã không còn, nhưng điểm chung nhất cho cả ba đôi rồng ấp ở chùa Dạm, chùa Đọi Sơn và chùa Chương Sơn là đuôi rồng cuốn chặt vào nhau, theo kiểu giao vỹ điển hình. Sự hiện diện của đồ án rồng ấp trong các đại danh lam thời Lý phản ánh quan niệm, những lý tưởng tôn giáo gắn bó sâu sắc với những tập tục và tín ngưỡng bản địa. Mỗi độ xuân về, những lời hát đồng dao ngộ nghĩnh thủa trước đầy ắp những ước mong như vẫn còn nguyên những giá trị nhân bản:

 

Xúc sắc xúc sẻ
Nhà nào nhà nấy, còn đèn còn lửa,
Mở cửa cho anh em chúng tôi vào.
Bước lên giường cao, thấy đôi rồng ấp
Bước xuống giường thấp, thấy đôi rồng chầu;

Bước ra đằng sau, thấy nhà ngói lợp.
Voi ông còn buộc, ngựa ông còn cầm,
Ông sống một trăm, thêm năm tuổi lẻ.
Vợ ông sinh đẻ, những con tốt lành,
Những con như tranh, những con như rối.

(Xúc sắc xúc sẻ - Đồng dao)

 

Rồng ấp theo cổ văn gọi là giao long (chữ giao đây là giao phối, giao hoan), cũng có giao long với ý nghĩa là một dạng rồng (chữ giao này chỉ một loài vật, chữ giao này viết khác). Dạng đồ án này có đặc điểm chung là đuôi xoắn bện vào nhau ở phần đuôi. Cũng được xin nhắc lại là trong cổ văn, chữ giao vỹ có nghĩa là giao phối. Hiện trong tiếng Việt hiện đại tuy ít thấy nhưng trong các tài liệu viết về hiện tượng sinh sản ở loài tôm người ta vẫn còn dùng từ này.

 

Rìu Đông Sơn

Ruu-da-dong-son.jpg

 

(Chú ý: tay phải/ trái chỉ 1 ngón, tay trái/ phải 3 ngón của 2 con giao long, tùy con Âm Dương)

 

Trở về với đồ án rồng ấp chùa Dạm, đây là điểm nhấn chính yếu của cây cột đánguyên khối cao gần 5m. Đôi rồng ấp đuôi quấn vào nhau trong tư thế giao hợp, đầu với mào lửa rất đặc trưng đang vươn cao chầu vào viên ngọc tỏa sáng. Từ những dấu vết của các lỗ mộc ta có thể hình dung đây chính là một cột trụ cho một đài thờ vẫn thường thấy ở trong nghệ thuật Phật giáo Đông Nam á. Những ban thờ đặt ngoài trời của người Việt ở miền Trung có thể là một di ảnh của dạng thức kếtcấu này. Đôi rồng ấp căng tròn phập phồng xoắn xuyết ôm trọn lấy trụ đá, thấp thoáng đan xen những hoa văn cỏ cây xum xuê tươi tốt. Cột trụ đá mọc lên từ một khối đất hình nấm được kè bằng hàng hoa văn sóng nước, núi non. Kết hợp từ ý nghĩa đồ án rồng ấp, hoa lá, núi non, sóng nước, chúng ta phỏng đoán những ước nguyện của hoàng gia triều Lý về mưa thuận gió hòa, thịnh trị no ấm.

 

Mỹ thuật Lý để lại cho chúng ta không chỉ là những kích thước đồ sộ, mà trên hết là khát vọng hòa hợp với vũ trụ, những giá trị nhân văn. Như những nhận định của các bậc tiền bối về một nền mỹ thuật phi Hoa, phi ấn, phi Đông Nam á của mỹ thuật Đại Việt, cột đá chùa Dạm khẳng định một giá trị Việt chói sáng trên cơ sở giao lưu và tiếp biến văn hóa1.

 

TRẦN HẬU YÊN THẾ

 

1. Mặc dù đồ án rồng ấp (giao long) được thấy nhiều trong mỹ thuật Tiên Tần, và thời Hán ở Trung Hoa, nhưng sự thắng thế của Nho giáo nên kể từ thời Tống về sau, mỹ thuật Trung Quốc hầu như vắng bóng đồ án này. Mặc dù Nho giáo cũng có ảnh hưởng rất lớn tới mỹ thuật Đại Việt nhưng ta vẫn thấy đôi rồng phủ nhau. Trùng tu tạo tác Thánh tượng tiền triều Lê Đại Hành hoàng đế bi ký tịnh minh làm tới năm thứ Hoằng Định thứ 12 ở đền vua Lê, Hoa Lư - Ninh Bình mà người soạn tấm văn bia này lại là tiến sỹ Nguyễn Lễ, nguyên Đặc tiến kim tử Vinh lộc đại phu, đương chức Hình bộ thượng thư kiêm Đông các Học sỹ, Quốc tử giám Tế tử, Nghĩa khê hầu trụ quốc.

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

LỊCH SỬ DÒNG HỌ TRONG LỊCH SỬ DÂN TỘC

Hà Văn Thùy

 

Nếu gia đình là tế bào của xã hội thì những dòng họ lớn là rường cột của quốc gia. Hai trăm dòng họ lớn làm nên vóc dáng nước Mỹ. Bốn họ Khổng, Tưởng, Tống, Trần là cột trụ của Trung Hoa. Việt Nam cũng có những dòng họ như Ngô gia, Nguyễn Tiên Điền, Phan Huy, Cao Xuân… làm nên văn hiến dân tộc. Nghiên cứu lịch sử dòng họ có ý nghĩa lớn trong việc phát huy truyền thống để xây dựng đất nước. Lịch sử dòng họ nằm trong lịch sử dân tộc. Vì vậy, muốn tìm hiểu lịch sử dòng họ, phải hiểu lịch sử dân tộc. Đáng tiếc, cho tới nay chúng ta chưa có một cuốn quốc sử chuẩn mực, nhiều sự kiện lịch sử chưa được đánh giá đúng nên việc nghiên cứu lịch sử dòng họ còn nhiều hạn chế. Tham luận này xin được trình bày những khám phá mới nhất về lịch sử dân tộc đề từ đó góp phần định hướng việc nghiên cứu lịch sử dòng họ Việt.

 

I.              SỰ HÌNH THÀNH DÂN TỘC VIỆT

 

Khác với quan niệm của thế kỷ XX cho rằng, con người từ Tây Tạng thâm nhập Trung Quốc sau đó lan tỏa xuống Việt Nam. Những nghiên cứu di truyền học của thế kỷ XXI khẳng định,  người Khôn ngoan Homo sapiens xuất hiện ở châu Phi rồi theo bờ biền Ấn Độ Dương di cư tới Việt Nam 70.000 năm trước. Tại Việt Nam, nói chính xác hơn, là tại thềm Biển Đông, khi đó là đồng bằng, những nhóm người di cư gồm nhiều sắc tộc khác nhau hòa huyết đồng thời hòa hợp tiếng nói sinh ra hai chủng người Indonesian và Melanesian đều thuộc loại hình Australoid. Trong đó người Indonesian chiếm đa số, giữ vai trò lãnh đạo về xã hội và ngôn ngữ. Khoảng 50.000 năm trước, từ thềm Biển Đông, tổ tiên chúng ta lên cư trú tại miền Trung và trung du Bắc Bộ. Khoảng 40000 năm trước, nhiều nhóm người từ miền Trung và Bắc Việt Nam di cư lên Quảng Đông, Phúc Kiến rồi từ đây chiếm lĩnh toàn bộ Hoa lục. Khoảng 5000 năm TCN, tại Nam Hoàng Hà, người Lạc Việt Indonesian hòa huyết với người Mông Cổ phương Bắc (North Mongoloid) sinh ra chủng người Việt mới là Mongoloid phương Nam (South Mongoloid). Do ưu thế lai và kinh tế nông nghiệp trồng kê, lúa phát triển, thức ăn dồi dào, người Mongoloid phương Nam tăng nhanh số lượng, trở thành chủ thể của văn hóa Ngưỡng Thiều. Khoảng 4000 năm TCN, trên địa bàn Đông Á, người Việt xây dựng nền văn minh nông nghiệp rực rỡ. Khoảng 3000 năm TCN, quốc gia đầu tiên của người Việt được thành lập trên lưu vực Hoàng Hà và Dương Tử, kinh đô là Lương Chử. Khoảng 2879 năm TCN, nước Xích Quỷ ra đời, do Kinh Dương Vương lãnh đạo. Thời gian này người Mông Cổ du mục ở Bắc Hoàng Hà luôn xâm phạm đất Việt bờ Nam. Năm 2698 TCN, liên quân Mông Cổ do thị tộc Hiên Viên thống lĩnh, tấn công vào Trác Lộc bờ Nam Hoàng Hà. Liên quân Việt bại trận, Lạc Long Quân dẫn đoàn thuyền đưa quân dân vùng Núi Thái - Trong Nguồn xuôi Hoàng Hà ra biển, xuống phương Nam, đổ bộ vào Rào Rum-Ngàn Hống xứ Nghệ. Là người đi xa trở về quê cũ, cùng văn hóa và tiếng nói, đoàn người của Lạc Long Quân được người bản địa đón tiếp rồi tôn Hùng Vương làm vua nước Văn Lang. Do sự bành trướng của quân xâm lược, người Việt vùng Núi Thái-Trong Nguồn tiếp tục di cư về phương Nam. Người di cư mang nguồn gen Mongoloid hòa huyết với dân bản địa Việt Nam và Đông Nam Á, thực hiện sự kiện mà sau này nhân chủng học gọi là quá trình Mongoloid hóa dân cư Đông Nam Á. Cho tới 2000 năm TCN, người Mongoloid phương Nam thay thế người Australoid, trở thành chủ thể của dân cư Đông Nam Á.

 

Chiếm vùng Nam Hoàng Hà, người Mông Cổ lập nhà nước Hoàng Đế. Tuy thắng trận nhưng do số người ít và văn hóa chưa  phát triển, người Mông Cổ học nghề nông cùng văn hóa của người Việt, thực hiện cuộc chung sống tương đối hòa bình. Theo thời gian, người Mông Cổ hòa huyết với người Việt, sinh ra người Hoa Hạ, nói tiếng Việt, học văn hóa Việt và ngày càng đậm thêm dòng máu Việt. Sau Hoàng Đế, vị vua đời thứ tư của vương quốc đã là người Việt với tên Đế Khốc và nước da đen của dân phương Nam. Sử còn ghi, bà Khương Nguyên, một người con gái thị tộc Thái làm vợ của Đế Khốc. Thái là một thị tộc người Lạc Việt định cư tại Nam Hoàng Hà. Tại Tứ Xuyên, khoảng 3000 năm TCN, người Thái thành lập vương quốc Ba Thục, sáng tạo văn minh Tam Tinh Đôi nổi tiếng. (1)

 

Những bộ lạc người Việt trên đất Nam Hoàng Hà chưa bị người Mông Cổ chiếm, tiến hành cuộc trường kỳ kháng chiến và thành lập những quốc gia riêng. Cuối đời Thương, người Dương Việt liên minh với nhà Chu chống lại nhà Thương. Vào thời Chu, nhiều tiểu quốc của người Việt hoặc độc lập hoặc làm chư hầu nhà Chu. Sau khi nhà Tần diệt lục quốc, đã đưa 1.100.000 người từ Trung Nguyên xuống đánh Lĩnh Nam, tạo ra cuộc di cư lớn của người Việt về phương Nam. Từ sau đời Hán, do loạn Ngũ Hồ (năm tộc người phương Bắc xâm chiếm Trung Quốc) và sự xâm lược của quân Mông Cổ, Mãn Thanh, nhiều triệu người Việt di cư tiếp về Nam. Trong những cuộc di cư này, có hàng ngàn người tới Việt Nam, hoặc ở lại hoặc di cư tiếp sang các hải đảo Đông Nam Á. Thời kỳ này, người Việt Nam cũng như người Việt ở Trung Quốc cùng một mã di truyền của chủng Mongoloid phương Nam.

 

Như vậy, có hai giai đoạn hình thành dân tộc Việt: giai đoạn đầu, người Lạc Việt chủng Australoid từ Việt Nam đi lên khai phá Trung Hoa. Giai đoạn sau, người Mongoloid phương Nam từ Núi Thái – Trong Nguồn trở về góp phần làm nên dân cư Việt Nam hiện đại. Do người Lạc Việt (Indonesian) có tỷ lệ máu Mongoloid cao nên khi hòa huyết với người di cư, cho ra người Mongoloid phương Nam. Còn người thiểu số Melanesian, do tỷ lệ máu Mongoloid thấp hơn nên khi hòa huyết với người Mongoloid phương Nam cho ra dạng Indonesian hiện đại của chủng Mongoloid phương Nam. Đó là người Chăm và các sắc dân Tây Nguyên. Như vậy, từ 2000 năm TCN, dân cư trên đất Việt Nam thuộc chủng duy nhất Mongoloid phương Nam.

 

    Trước đây, do chưa có khảo cứu về di truyền học nên chúng ta tưởng lầm rằng, những nhóm người từ Trung Quốc di cư xuống nước ta như người Thái, H’mông, người Hẹ…là “dị chủng”! Nay  nhờ khảo sát nguồn gen và quá trình hình thành thì đó là hậu duệ của lớp người từ Việt Nam đi lên khai phá Trung Hoa trước đây, sau này do biến động của thời cuộc mà trở về đất cũ của tổ tiên. Thực tế cho thấy, trên đất nước Việt Nam chỉ có duy nhất dân tộc Việt gồm nhiều sắc tộc khác nhau.

 

II.            SỰ HÌNH THÀNH CÁC DÒNG HỌ VIỆT NAM

 

Có thực tế lịch sử là, tuy Việt Nam là nơi phát tích của các dân tộc châu Á, công cụ đá mới, kinh tế nông nghiệp được hình thành sớm từ đây. Nhưng cho tới 4000 năm trước, đồng bằng sông Hồng chưa hình thành, Việt Nam chỉ có dải Trường Sơn như cột xương sống. Địa hình rừng núi chia cắt, không có điều kiện phát triển nông nghiệp lớn do đó không thể tập trung nhân tài vật lực sáng tạo nền văn minh lớn. Chỉ ở lưu vực Dương Tử, Hoàng Hà với đất đai rộng, trù phú, con người mới có điều kiện tập trung phát triển kinh tế, văn hóa. Từ đó đồ gốm, đồ ngọc được sản xuất nhiều và tinh xảo. Cũng nhờ kinh tế sung túc mà chữ viết hình thành. Khi chiếm vùng Nam Hoàng Hà, ban đầu là người Mông Cổ sau là người Hoa Hạ đã áp dụng chính sách dân tộc mềm dẻo, đưa tới thời Hoàng Kim trong lịch sử phương Đông với các vương triều Nghiêu, Thuấn, Vũ. Vào đời Ân, chữ tượng hình do người Việt sáng tạo từ xa xưa, nhưng chủ yếu sử dụng trong cúng tế, bùa chú được dùng trong hành chính, ghi chép sử và được nâng cấp. Tới đời Chu, văn hóa phương Bắc phát triển vượt bậc với những kinh, thư được san định, chữ viết được chuẩn hóa… Công bằng phải thừa nhận rằng, văn hóa phương Đông như một cây đại thụ mà gốc được trồng trên đất Việt nhưng hoa trái lại nảy nở ở phương Bắc. Chính sự phát triển của phương Bắc đã ảnh hưởng tới phương Nam.

 

Cũng trong hoàn cảnh như vậy, ở phương Bắc dòng họ được hình thành sớm. Sách cổ như kinh Dịch, kinh Thư nói tới Hiên Viên thị, Bào Hy thị, Thần Nông thị, Hồng Bàng thị… Điều này cho thấy, từ bầy đàn nguyên thủy, khoảng 6000 năm trước, người Việt tiến tới chế độ mẫu hệ, với dòng họ thuộc về phía mẹ. Chắc chắn là, trên đất Việt, họ theo dòng mẹ cũng đã ra đời. Từ cuộc xâm lăng của Hiên Viên năm 2698 TCN, lối sống của người du mục Mông Cổ thống trị vùng Nam Hoàng Hà. Lối sống du mục đề cao vai trò thủ lĩnh trong bộ lạc và vai trò người cha trong gia đình. Dần dần gia đình dòng mẹ chuyển sang gia đình dòng cha, chế độ phụ hệ với quyền người bố ra đời. Vào thời Chu, với hàng trăm tiểu quốc chư hầu, họ dòng cha đặc biệt phát triển. Lãnh chúa lấy tên đất làm họ. Quan chức lấy chức tước làm họ. Người bình dân lấy nghề nghiệp làm họ…Vào thời Xuân Thu, một nhánh của họ Nguyễn (với nghĩa là mềm, nhuyễn mà biểu trưng là con rắn) của bộ lạc Tần người Việt chuyển tới nước Tấn, hình thành họ Triệu và sau đó là nước Triệu. Người Việt ở Trong Nguồn (lúc này đổi thành Trung Nguyên) chuyển sang mang họ cha. Họ về đàng cha cũng lan tới các nước Việt, Ngô, Sở vùng Nam Dương Tử. Sau khi nhà Tần diệt lục quốc, đã đưa hơn triệu người Việt từ Trung Nguyên xuống Lĩnh Nam, trở thành dân Quảng Đông, Phúc Kiến, Vân Nam. Những di dân này cũng mang họ đằng cha tới Việt Nam. Thục Phán thuộc bộ lạc Thái, dòng họ Khai Minh nước Thục nhưng khi xuống Việt Nam, người Việt lấy tên đất Thục làm họ của ông, sau này thành Thục An Dương Vương.

 

Sách vở rất ít ghi chép về sự hình thành họ ở Việt Nam nhưng từ những tài liệu hiếm hoi, ta biết tới Lý Ông Trọng thời Tần, Lữ Gia thời Triệu Đà, Lý Cầm, Lý Tiến thời Hán Vũ Đế rồi họ Trưng của hai bà Trưng... Chưa có nghiên cứu nào về vấn đề này nhưng có thể chắc rằng, cho tới đầu Công lịch, xã hội Việt Nam chủ yếu vẫn là mẫu hệ. Cuộc khởi nghĩa của hai Bà Trưng cùng với việc lên ngôi của hai vua bà minh chứng cho điều này. Không chỉ vậy, hai trăm năm sau, một phụ nữ khác là Triệu Thị Trinh dẫn đầu một cuộc khởi nghĩa, trong khi người anh là Triệu Quốc Đạt chỉ có vai trò tòng thuộc. Dưới ách thống trị của triều đình phương Bắc, do yêu cầu ghi sổ bộ hành chính, thuế má, bắt lính, tạp dịch, học hành thi cử… xu hướng lấy họ dòng cha được áp đặt cho toàn xã hội, nhất là ở châu thổ sông Hồng.

 

III.           KẾT LUẬN

 

Trong quá trình lịch sử đã diễn ra hai giai đoạn hình thành tộc Việt. Ban đầu người Lạc Việt chủng Indonesian từ Việt Nam đi lên khai phá Hoa lục. Tại Nam Hoàng Hà, do tiếp xúc với người Mông Cổ, người Việt chuyển hóa di truyền thành chủng Mongoloid phương Nam. Tiếp đó, do biến động lịch sử, người Việt Mongoloid phương Nam trở về, chuyển hóa di truyền của người Việt từ Australoid sang Mongoloid phương Nam. Do tiếp xúc với văn minh du mục, vùng nam Hoàng Hà chuyển từ thị tộc mẫu hệ sang phụ hệ với cơ chế phụ quyền và họ theo dòng cha ra đời. Qua hàng nghìn năm lịch sử, người Việt từ phía Bắc liên tiếp di cư trở về đất Việt quê cũ. Người trở về mang theo những yếu tố tiến bộ của phương Bắc, trong đó có họ theo dòng cha. Người di cư mang theo họ cha trở thành những dòng họ sớm nhất trên đất Việt. Trong quá trình chung sống, cơ chế phụ quyền do người nhập cư mang tới từng bước làm chuyển hóa xã hội Việt từ mẫu quyền sang phụ quyền. Dưới sự cai trị của chính quyền phương Bắc, quá trình phụ quyền ở nước ta được đẩy mạnh cùng với họ dòng cha ngày càng chiếm ưu thế. Có thể lấy họ Ma thuộc sắc tộc Tày ở Phú Thọ làm ví dụ. Theo tài liệu được công bố (2), họ Ma xã Văn Khúc, huyện Cẩm Khê xuất hiện vào khoảng năm 259 TCN. Rất có thể là dòng họ này từ Tứ Xuyên trôi dạt xuống Việt Nam vào thời nhà Tần tiêu diệt quốc gia Ba Thục (khoảng 316 TCN).

 

Cho rằng, nhiều dòng họ “Tàu” du nhập làm nên các dòng họ Việt Nam là quan niệm sai lầm. Khi hiểu cặn kẽ lịch sử hình thành tộc Việt, ta thấy, đó đều là hậu duệ của người Việt đi lên khai phá đất Trung Hoa rồi theo từng thời kỳ lịch sử trở về đất cũ của tổ tiên. Với hiểu biết như vậy, ta mạnh dạn dũ bỏ mặc cảm từng đè nặng tâm khảm để tự hào về tổ tiên khai sáng văn minh Đông Á.
                                                           

Sài Gòn, 20. 8. 2015

 

Tài liệu tham khảo
1.    Hà Văn Thùy. Tiến trình lịch sử văn hóa Việt
http://www.amazon.com/Tien-Trinh-Lich-Vietnamese-Edition/dp/1502407043/ref=pd_sim_b_1?ie=UTF8&refRID=0166EHCRB7JE84435N41
2.    Bí ẩn dòng họ có từ thời Vua Hùng. http://vtc.vn/bi-an-dong-ho-co-tu-thoi-vua-hung.394.327891.htm


 

VIỆT THƯỜNG THỊ Ở ĐÂU?

Hà Văn Thùy

 

Hàng nghìn năm, như kẻ lạc đường trong đêm đen khát khao tìm lại gốc rễ, người Việt hướng tới Văn Lang, nhà nước đầu tiên của dân tộc. Nhưng cổ thư Trung Hoa, được coi như cội nguồn lịch sử phương Đông, không một dòng một chữ nói tới quốc gia này. Để bù đắp cho sự hụt hẫng, các nhà nho rồi học giả của chúng ta tìm tới Việt Thường thị như một cứu cánh! Mặc dù hơn 60 năm trước, có người chỉ ra là không hề có cái quốc gia ấy trên đất Việt Nam thì vô số người tới nay vẫn kiên trì tụng niệm “nhà nước Việt Thường xứ Nghệ” trong tâm lý tự sướng. Đã tới lúc trả lại sự thật cho lịch sử để người Việt hôm nay không còn phải mang cái nhục bỏ mồ cha khóc đống mối và con cháu thoát khỏi nỗi tủi bởi sự vô minh từ cha ông!

 

I.        Hai quan niệm về Việt Thường thị

 

1.      Chủ trương có nước Việt Thường miền Cửu Chân

 

Cuốn sách sớm nhất nhắc tới Việt Thường thị là Thượng Thư đại truyện được viết đầu thời Hán: “Năm Tân Mão đời Chu Thành Vương (1063 – 1026 TCN) có Việt Thường thị phía nam Giao Chỉ đến kinh đô nhà Chu giao hảo, tặng chim bạch Trĩ.” Muộn hơn là Thông chí của Trịnh Tiều thời Tống (1127-1279): “Đời Đào Đường, phương Nam có Việt Thường thị qua hai lần sứ dịch sang chầu, dâng con rùa thần; có lẽ nó được đến nghìn năm, mình nó hơn ba thước, trên lưng có văn Khoa đẩu ghi việc từ khi trời đất mới mở mang trở về sau. Vua Nghiêu sai chép lấy, gọi là quy lịch.”

 

Về vị trí nước Việt Thường, có nhiều sách giải thích khác nhau: Cựu Ðường thư thời Hậu Tấn (thế kỷ thứ X) cho rằng nước Việt Thường là ở miền quận Cửu Ðức, tức là miền từ Hà Tĩnh, Quảng Bình trở vào.

 

Sách Văn hiến thông khảo ở thời Nguyên (thế kỷ thứ XIV) lại ghi rằng nước Việt Thường xưa, tức là nước Lâm Ấp, sau là Chiêm Thành. Những tài liệu trên đã ảnh hưởng tới các nhà nho cùng học giả người Việt:
   Đại Việt sử ký toàn thư ghi: “Nước Việt ta lần đầu sang thăm nhà Chu (không rõ vào đời Hùng Vương thứ mấy), xưng là Việt Thường thị, hiến chim trĩ trắng. Chu Công nói: "Chính lệnh không ban đến thì người quân tử không coi người ta là bề tôi của mình", rồi sai làm xe chỉ nam đưa sứ giả về nước.”           

 

Khâm định Việt sử thông giám cương mục ghi cụ thể hơn:

 

“Phía Nam bộ Giao Chỉ có Việt Thường thị qua ba lần sứ dịch, sang dâng chim trĩ trắng. Chu Công nói: "Đức trạch chưa thấm khắp đến phương xa, người quân tử không nhận đồ lễ ra mắt; chính lệnh chưa ban ra tới, người quân tử không bắt người ta thần phục". Theo lời thông dịch, sứ giả muốn nói: "Ông già trong nước chúng tôi có nói: "Trời mưa không dầm gió dữ và biển không nổi sóng đã ba năm nay, ý chừng Trung Quốc có thánh nhân chăng?". Vì thế, chúng tôi sang chầu". Chu Công đem dâng lễ vật lên nhà tông miếu.  Sứ giả không thuộc đường về, Chu Công cho năm cỗ xe biền  đều làm theo lối chỉ nam. Sứ giả đi xe ấy theo ven biển nước Phù Nam và nước Lâm Ấp, vừa một năm mới về đến nước.”

 

     Do ảnh hưởng dây chuyền như vậy mà về sau càng nhiều người chủ trương Việt Thường thị là vùng Nghệ Tĩnh ngày nay.

 

2.      Phái phủ nhận nước Việt Thường ở Việt Nam

 

Hơn nửa thế kỷ trước, năm 1957, trong Lịch sử cổ đại Việt Nam (nxb Văn Hóa - Thông Tin,  2005) học giả Đào Duy Anh đưa ra ý kiến phản bác chủ trương nước Việt Thường ở Việt Nam. Ông cho rằng, đó là quốc gia của người Việt ở Nam Dương Tử: “Cái tên Việt được thịnh hành khi Câu Tiễn xưng bá, nhưng nó vốn đã có từ trước. Lần đầu tiên người ta thấy nó xuất hiện trong thư tịch xưa là ở sách Thượng thư đại truyện: "Ở phía Nam Giao có nước Việt Thường dùng nhiều lớp thông ngôn đến hiến chim trĩ trắng..." Sách Thượng thư đại truyện là của Phục Thắng (thường gọi là Phục Sinh) ở đầu thời Hán, đọc cho học trò chép thành. Nếu chúng ta xét rằng, Phục Thắng vốn là một vị bác sĩ thời Tần sống sót lại, đã từng sống trước cuộc đốt sách của nhà Tần thì chúng ta có thể tin rằng chuyện Việt Thường hiến trĩ trắng chép đó không phải là Phục Thắng bịa đặt, mà tất đã từng được đọc ở trong sách xưa. Như vậy thì trước thời Tần Hán, hẳn rằng ở Trung Hoa đã có thuyết Việt Thường hiến trĩ trắng mà cái tên Việt Thường hẳn là tên một nước xưa ở thời nhà Chu.

 

(Các sách xưa) đều chỉ chép Việt Thường là nước ở miền nam Giao Chỉ. Nhan Sư Cổ ở thời Ðường chú giải Tiền Hán thư cũng chỉ nói Việt Thường là một nước xa ở phương nam, chứ không chỉ rõ chỗ nào, mãi đến sách Cựu Ðường thư ở thời Hậu Tấn (thế kỷ thứ X) mới chỉ nước Việt Thường là ở miền quận Cửu Ðức, tức là miền từ Hà Tĩnh, Quảng Bình trở vào. Về sau, sách Văn hiến thông khảo ở thời Nguyên (thế kỷ thứ XIV) lại chú rõ thêm rằng nước Việt Thường xưa, tức là nước Lâm Ấp, sau là Chiêm Thành. Các tác giả đời sau đều theo thuyết ấy, cho đến các nhà Trung Hoa học người Tây phương như Legge và Pelliot cũng cho Việt Thường xưa là Lâm Ấp đời sau…

 

Chúng tôi tưởng rằng đối với những thuyết trên, chúng ta không cần phải biện bác nhiều lời, chỉ biết rằng các nhà đều dựa theo vị trí mà họ đặt cho Giao Chỉ để đặt vị trí của Việt Thường, thì khi vị trí của Giao Chỉ người ta đặt sai, tất vị trí của Việt Thường người ta không thể đặt đúng được.  

 

Chúng tôi cũng theo sách xưa mà đặt Việt Thường ở phía nam Giao Chỉ. Ðã ức đoán Giao Chỉ ở lưu vực sông Dương Tử thì phải tìm vị trí Việt Thường ở khoảng miền ấy thôi.

 

Ðem so sánh chữ Việt Thường viết trong các sách... Những điều sai dị ấy khiến chúng ta có thể đoán rằng chữ Việt Thường là người Hán tộc dùng chữ Hán mà phiên âm một tên địa phương. Nhà Trung Hoa học Ed. Chavannes ngờ rằng Việt Chương nơi vua Sở Hùng Cừ phong cho con út là Chấp Tỳ, có lẽ đất Việt Thường xưa, vì hai tên ấy đồng âm, nhưng không chỉ rõ vị trí Việt Chương là nơi nào. Chúng ta thấy Sử ký chép rằng đất Cú Ðàn (nay là Giang Lăng), đất Ngạc (nay là Vũ Xương) và đất Việt Chương (?) là những nơi vua Sở phong cho các con, đều là đất ở miền Sở Man, nghĩa là đất châu Kinh và châu Dương. Phân tích đoạn sách ấy ra thì chúng ta có thể đoán rằng, đất Cú Ðàn và đất Ngạc đã là thuộc đất châu Kinh (Sở) thì đất Việt Chương tất là thuộc đất châu Dương hay Dương Việt (Man). Tán thành ý kiến của Ed. Chavannes về Việt Chương với Việt Thường chúng tôi tưởng nên tìm Việt Thường ở đất châu Dương...             ” (tr. 215-217)
   Mười năm trước, kỹ sư hàng hải trẻ Trương Thái Du cũng cho rằng Việt Thường thị ở Nam Dương Tử và đưa ra cách lý giải về thuật ngữ Giao Chỉ khá thuyết phục:

 

“Giao Chỉ nguyên nghĩa là một khái niệm nói về vùng đất  phía  nam  vương  quốc  của  Đường  Nghiêu  –  Ngu Thuấn.  Giao  Chỉ  đầu  thời Chu chính  là  đất  Sở  (Hồ  Bắc, Trung Quốc). Giao Chỉ cũng còn gọi là Cơ Chỉ hoặc Cơ Sở,  nó  hàm  nghĩa  luôn  tên  nước  Sở  thời  Xuân  Thu  và Chiến Quốc. Giao Chỉ nửa cuối thời Chiến Quốc ở phía nam nước Sở. Giao Chỉ thời Tần là Tượng Quận, thời Tây Hán là Bắc Bộ Việt Nam. Chỉ đến thời Đông Hán, Giao Chỉ mới biến thành địa danh cố định và xác thực trên địa đồ, đóng khung bởi kiến thức thiên văn Tần –  Hán.” (Trương Thái Du  Một cách tiếp cận những vấn đề cổ sử Việt Nam:
  http://123doc.org/document/1905966-mot-cach-tiep-can-nhung-van-de-co-su-viet-nam-truong-thai-du-pha-n-1-pdf.htm)

 

II.       Kiến giải của chúng tôi
1
        1.. Không thể có nước Việt Thường ở miền Trung Việt Nam.

 

Thừa nhận việc Việt Thường thị cống rùa và chim trĩ cho triều đình Hoa Hạ là có thể tin được nhưng chúng tôi cho rằng, Việt Thường thị không thể ở miền Trung Việt Nam vì những lẽ sau:

 

    a,   Ở thời điểm hơn 4300 năm trước (thời Đào Đường) và 3100 năm trước (thời Chu) đồng bằng sông Hồng cũng như đồng bằng miền Trung chưa bồi tụ xong. Đất Việt Nam cơ bản chỉ là dẫy Trường Sơn với địa hình chia cắt, không thể sản xuất nông nghiệp lớn, khiến con người không thể tập trung, vì vậy dân cư Việt Nam rất ít. Phải mấy nghìn năm sau, cho tới đầu Công nguyên, cả ba quận Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam mới có hơn 900.000 người. Dân số ít cộng với địa hình rừng núi chia cắt hoàn toàn không thuận tiện cho việc hình thành nhà nước.

 

b. Giả sử nhà nước Việt Thường ở miền Trung là có thật thì cũng không thể có chuyện quan hệ ngoại giao với Trung Nguyên vì lẽ: ngoại giao chỉ có thể xẩy ra giữa hai nước lân bang, gần gũi về địa lý, có liên hệ về kinh tế, chính trị, văn hóa với sự hiểu biết, nương tựa nhau. Trong khi đó, giữa Việt Thường miền Trung Việt với Trung Nguyên quá xa về địa lý, giao thông khó khăn, lại cách trở bởi nhiều nhà nước khác nên không có mối quan hệ gì về kinh tế, chính trị. Chỉ vì “"Trời không mưa dầm gió dữ và biển không nổi sóng đã ba năm nay,” mà sang chầu, là lý do thiếu thuyết phục!

 

c. Các tài liệu nói tới địa danh Giao Chỉ thời Đào Đường (2300 năm TCN) rồi thời Chu (1063 năm TCN) phải là địa danh đã có lúc đó. Trong khi Giao Chỉ ở Việt Nam chỉ xuất hiện vào đời Hán Vũ Đế, năm 111 TCN. Điều này cho thấy: Giao Chỉ thời Đào Đường và thời Chu hoàn toàn không phải là Giao Chỉ ở Việt Nam: trên đất Việt Nam chưa có địa danh Giao Chỉ! Vì không có Giao Chỉ nên cũng chẳng làm gì có Việt Thường.

   Chỉ bằng lập luận này đã đủ bác bỏ chủ trương cho rằng Giao Chỉ - Việt Thường trong các cổ thư trên là địa danh ở Việt Nam.

 

Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục Tiền biên, càng tỏ ra hoang tưởng khi chép: “Sứ giả đi xe ấy theo ven biển nước Phù Nam và nước Lâm Ấp, vừa một năm mới về đến nước.” Phù Nam chỉ hình thành từ thế kỷ I, còn Lâm Ấp mới xuất hiện năm 192 sau Công Nguyên thì làm sao mà sứ của Việt Thường nghìn năm trước đi qua hai nước chưa ra đời này?! Khi biết rằng, Hậu Hán thư chép: “sau khi triều Chu suy yếu, nước Việt Thường đã dần dần đoạn tuyệt việc qua lại,” ta càng thấy sự thiếu chính xác của cuốn sử triều Nguyễn!

 

   Tại sao hàng trăm năm các học giả hàng đầu của chúng ta vẫn tin vào sự vô lý thô thiển như vậy?!

 

  2.   Việt Thường thị chỉ có thể ở miền Nam Dương Tử.

 

  Chúng tôi cho rằng Việt Thường thị nhiều khả năng là tiền thân của nước Việt của vua Câu Tiễn. Quá trình lịch sử diễn ra như sau:

 

Khoảng 3300 năm TCN, nhà nước Thần Nông của người Việt ra đời, với kinh đô Lương Chử vùng Thái Hồ. Năm 2879 TCN, nhà nước Xích Quỷ được thành lập trên kinh đô Lương Chử. Năm 2698 TCN, người Mông Cổ du mục xâm chiếm nam Hoàng Hà của người Việt, lập vương triều Hoàng Đế. Tại đồng bằng Trong Nguồn (nay là Trung Nguyên), người Việt tiếp tục kháng chiến và thành lập những tiểu quốc. Khảo cổ học cho thấy, khoảng 2300 năm TCN, nhà nước Xích Quỷ tan rã, kinh đô Lương Chử bị bỏ phế. Những mảnh vỡ của Xích Quỷ lập những tiểu quốc riêng của mình, trong đó có nước Việt Thường. Việt Thường (越裳)là tên được ghi trong sách cổ, với nghĩa: nước Việt mặc váy. Điều này đúng với phong tục mặc váy (quấn xà rông) của dân phương Nam, nay còn thịnh hành từ Campuchia, Lào, Thái Lan tới Miến Điện, Srilanca... Là một phần của văn hóa Lương Chử, Việt Thường rất tiến bộ: đồ đá mài, đồ gốm, đồ ngọc tinh xảo, làm chủ Âm Dương, ngũ hành, lịch Âm Dương, kinh Dịch và chữ giáp cốt. Việc Việt Thường hiến rùa mang chữ Khoa Đẩu, lịch Âm Dương cho vua Nghiêu rất có thể xảy ra.

 

   Vào đời Hạ, sử có chép, một dòng của Hạ Vũ tới Việt Thường, học lối sống của người địa phương, rồi trở thành thủ lĩnh. Qua triều Thương-Ân, Việt Thường vẫn vững vàng phía Nam Dương Tử. Khi nhà Chu đánh nhà Thương, liên minh với 800 nước, tổ chức ăn thề. Do ở xa nên Việt Thường không tham gia liên minh. Đánh thắng nhà Thương, Chu xưng bá, thống lĩnh hơn 800 chư hầu, thanh thế rất lớn. Thêm nữa, nhà Chu thi hành chính trị tốt đẹp. Trước tình hình đó, Việt Thường thấy cần giao hảo, nên cống chim trĩ trắng, vật thờ linh thiêng của mình. Như được chép trong Hậu Hán thư: “sau khi triều Chu suy yếu, nước Việt Thường đã dần dần đoạn tuyệt việc qua lại,” ta hiểu vì sao Việt Thường không còn được ghi trong sách sử. Tới thời kỳ này, do tiếp xúc nhiều với dân phía Bắc, thấy quần tiện dụng hơn nên người Việt chuyển sang mặc quần. Tên “nước Việt mặc váy” (越裳) cũng mất theo, chỉ còn lại nước Việt (越) của vua Câu Tiễn.

 

           Thời Chiến Quốc, do chiến tranh khốc liệt, người Việt ở Nam Dương Tử di tản đi nhiều nơi: Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam, Lào, Thái Lan, Miến Điện… Người Nhật có tục thờ chim trĩ trắng phải chăng là theo phong tục Việt Thường? Đúng như tra cứu mà ông Đào Duy Anh dẫn ở trên, người Việt Thường mang tích cống chim trĩ cho nhà Chu tới nơi lập nghiệp như kỷ niệm về tổ tiên mình. Điều này không lạ. Lớp di cư khỏi đồng bằng Trong Nguồn hơn 4000 năm trước, sau cuộc xâm lăng của Hoàng Đế, mang về Việt Nam câu ca: Công cha như núi Thái Sơn/ Nghĩa mẹ như nước Trong Nguồn chảy ra cùng sự tích một bọc trăm trứng để ghi nhớ cội nguồn. Lớp di cư khoảng 3500 năm trước - sau khi vua Bàn Canh chiếm đất An Dương lập nhà Ân - mang về quê cũ Việt Nam dư âm cuộc chiến tranh khốc liệt cùng người anh hùng đánh giặc được tượng hình trong cậu bé làng Dóng. Từ cuộc di tản thời Chiến Quốc, có những nhóm người Việt Thường di cư tới miền Trung Việt Nam. Theo truyền thống, họ lấy tên quê cũ đặt cho đất mới. Sau này, vào thời Hán, dựa theo tên Việt Thường sẵn có, người Hán đặt ra huyện Việt Thường. Tại Việt Nam, tiếng Việt được bảo tồn nên Việt Thường vẫn là Việt Thường. Ở Giang Nam, người Hán chiếm nhưng không còn nói được tiếng Việt nên nói trại thành Việt Chương!

 

Vậy là, ban đầu, Nam Giao chẳng phải địa danh cụ thể mà chỉ là “cái mốc di dộng” đánh dấu biên địa phương Nam của đế quốc, được chuyển dịch ngày càng xa theo đà bành trướng. Chỉ tới thời Đông Hán, khi không còn khả năng bành trướng nữa, mới được đóng xuống Bắc Bộ Việt Nam thành địa danh cố định Giao Chỉ. Học giả thời Tấn, Nguyên sinh sau đẻ muộn, không thể tìm được Việt Thường, Giao Chỉ trên đất Tàu, mà cũng chẳng biết lịch sử cái tên Giao Chỉ, bèn đoán mò, viết đại rằng “Việt Thường là Lâm Ấp”! Trong sử sách, việc đoán mò rồi viết đại của các thầy Tàu không hiếm. Do không hiểu chữ “hồ” trong kinh Thi Lang bạt kỳ hồ/ tái trí kỳ vĩ  vốn tiếng Việt là hố, hang: “Sói chui vào hang, vẫn lòi cái đuôi”, thầy đại nho Chu Hy giảng “hồ là cái yếm nơi cổ con sói khi già chùng xuống nên bước tới, nó dẵm phải yếm, bước lui thì đạp phải đuôi.” Hơn 800 năm các đại nho vẫn tin, con sói già có yếm thòng ở cổ; thì việc người ta hoang tín vào một tên đất ghi trong sách hai nghìn năm trước khi nó được đặt trên thực địa, đâu phải chuyện lạ?! Từ đây, sai lầm tiếp tục qua các nhà nho thời Nguyễn, rồi học giả Pháp cho tới ngày nay!

 

III Kết luận

 

   Sách sử cùng nhiều chứng lý khác cho thấy rằng, từ xa xưa đã có nước Việt Thường của người Việt ở phía Nam Dương Tử. Nước Việt này có kinh tế, văn hóa phát triển, có quan hệ ngoại giao với nhà Đường Ngu và nhà Chu, có thể là tiền thân của nước Việt của Việt vương Câu Tiễn. Tới thời Chiến Quốc, do áp lực của chiến tranh tàn khốc, người Việt Thường đã di tản xuống nhiều quốc gia phương Nam.

 

   Để phản bác chủ trương “Việt Thường quốc vùng Nghệ Tĩnh” chẳng đòi hỏi kiến thức cao siêu mà chỉ cần đọc nghiêm túc cổ thư rồi lập luận một cách hợp lý. Hơn 60 năm trước, học giả Đào Duy Anh đã biện giải khá thuyết phục. Nhưng không hiểu vì sao, thời gian trôi trọn một vòng hoa giáp mà không ai tỉnh ngộ nghe ông, lại cứ u mê tự giam trong cõi vô minh. Cái “Việt Thường quốc Nghệ Tĩnh” hoang tưởng đâu phải là phao cứu sinh để cố sống cố chết  níu bám? Nay nếu mất Việt Thường quốc thì đó chỉ là vật ngoài thân, có gì đáng tiếc? Trong khi ta có cả gia tài vĩ đại: đất Việt là nơi phát tích của con người và văn hóa phương Đông?!

                                                                            

Vu Lan năm 2015

 

 

Chúng ta có thể đặt câu hỏi: giao hảo giữa Văn Lang và Chu với đồ cống sứ thì phải xuất phát từ kinh đô Văn  Lang hay từ một bộ nào khác của Văn Lang? Nếu từ một bộ khác thì ẩn nghĩa câu truyện là gì?

 

Việt Thường là tên một bộ Văn Lang đã có từ Việt rồi, vậy đã trùng tên người "Việt" cho nước Văn Lang, vậy thì bộ trung tâm có kinh đô thì đã có tên Phong Châu nên không thể trước đó là Việt Thường, vậy thì...

 

Nếu kinh đô ở Chiết Giang hay Hồ Nam thì chẳng hạn, tại đó có ghi nhận Hùng Vương 18 đời và tổ tiên của các ngài hay không? Và tại Bắc Việt Nam là di dân thì có thờ tổ ví dụ như Hạ Vũ chẳng hạn...

Share this post


Link to post
Share on other sites

Bàn về quốc hiệu "Xích Quỷ"

Dòng Hùng Việt

 

Truyền thuyết Việt kể:

 

Cứ theo tục truyền thì vua Đế Minh cháu ba đời của vua Thần Nông, đi tuần thú phương Nam đến Ngũ Lĩnh (thuộc tỉnh Hồ Nam bây giờ) gặp một nàng tiên, lấy nhau đẻ ra người con tên Lộc Tục. Sau Đế Minh truyền ngôi lại cho con trưởng là Đế Nghi làm vua phương Bắc, và phong Lộc Tục làm vua phương Nam, xưng là Kinh Dương Vương, quốc hiệu là Xích Quỷ.

 

Bờ cõi nước Xích Quỷ bấy giờ phía Bắc giáp Động Đình Hồ (Hồ Nam), phía Nam giáp nước Hồ Tôn (Chiêm thành), phía Tây giáp Ba Thục (Tứ Xuyên), phía Đông giáp bể Nam Hải.

 

Kinh Dương Vương làm vua nước Xích Quỷ vào quãng năm Nhâm Tuất (2879 TCN) và lấy con gái Động Đình Quân là Long nữ đẻ ra Sùng Lãm, nối ngôi làm vua, xưng là Lạc Long Quân.

 

Như thế  Xích Quỷ được xem là quốc hiệu  đầu tiên vào thời Hồng bàng của người Việt .

 

Trong chữ Nho : Xích qủy 赤鬼 thì  赤 cũng đọc là Thích có nghĩa là màu đỏ. Từ 鬼 có nghĩa là (ma) quỷ.

Giới nghiên cứu ngày nay có người cho : 赤鬼 nguyên nghĩa ‘qủy đỏ’ cũng có thể hiểu là :

 

-         Quỷ mặc áo đỏ. Ám chỉ trang phục của người Xích quỷ có màu đỏ, trên người xăm đầy mình, nên người Hán gọi là quỷ. Về sau, người Xích quỷ goị mình là Việt.

 

-         Theo Kinh Dịch, Xích quỷ là chỉ màu đỏ ở Phương Nam (ngày nay) nắng chói chang là nơi sáng sủa văn minh ,  Xích qủy phải hiểu là vị thần phương Nam .

 

-         Bản thân người viết trước đây kiến giải Xích qủy thực ra là Xích quái nghĩa là quái màu đỏ cách gọi khác của quẻ Ly – La   nghĩa là Lửa , về mặt địa lí tượng trưng cho hướng Xích đạo nóng bức . Quái cũng là qủy nên Việt ngữ có từ kép ‘qủy – quái’ tức quỷ chỉ là qủe đọc trệch đi . Nước Xích quẻ là nước nằm ở vùng nhiệt đới cận Xích đạo , trong ngôn ngữ Dịch học cùng 1 hệ quy chiếu với Viêm bang – Hồng bang .

 

Chữ Nho xưa Qủy không có nghĩa là ma qủy , Dịch học quan niệm phía Tây mặt trời lặn  là li – lìa về số là số 4 – 9 , hồn lìa khỏi xác rồi thì phần vật chất còn trơ lại gọi là ‘qủy’, qủy cũng là 9 – cửu ngược với phía Đông con rồng quẻ Thìn , Thìn cũng là Thần , Đông – Tây là bên qủy bên thần ...

 

Truyền thuyết Việt nam đại bộ phận rút ra từ 2 tác phẩm ‘Lĩnh Nam chích quái’ và ‘Việt điện u linh’ ra đời khoảng thế kỉ 15 . Bản thân tựa sách ‘Lĩnh Nam chích quái’ chỉ ra đây là sự gom nhặt những chuyện kì quái trong dân gian miền Lĩnh Nam (không phải chỉ riêng ở Việt Nam ngày nay), ghi lại tức chuyển ‘lời’ thành ‘chữ’ nên dễ mắc sai lầm với các từ đồng âm như trong trường hợp quốc hiệu Xích qủy này ...nếu đây là cách người Tàu gọi nước ta thì chẳng cần bàn ....đất nước mà họ căm ghét ... tức mà không làm gì được thì họ miệt thị chửi bới bằng lời ...bọn qủy đỏ ...bọn qủy phía Nam ...  , ngược lại theo truyền thuyết thì đây lại là quốc hiệu do chính tổ tiên người Việt đặt thế mới kì quái ....không thể nào lại tự xưng mình là ‘qủy đỏ’ ghê gớm qúa sức như thế .

 

Tiếp tục suy nghĩ  tìm lời giải cho 2 chữ Xích qủy ...

 

Sử thuyết Hùng Việt cho khởi thủy ‘Thiên hạ’ chỉ có đất Đào – Đường hay Thường , Đất Đào hay châu Đào màu đỏ quẻ Lửa trên thực địa là miền Thanh Nghệ Tĩnh ngày nay nơi đặt kinh đô đầu tiên khi tổ tiên Việt lập quốc sau gọi là cựu đô Ngàn Hống miền Hồng lĩnh .

 

Quốc tổ đế Minh cũng là Hùng Vũ vương - Hiền lang (hay Hiển lang ?) cổ sử Trung hoa gọi là đế Hoàng màu (màu Vàng) hay Hoàng đế thăng hà ; ý nghĩa lịch sử thực sự là kết thúc thời Lập quốc ; đế Minh hay đế Hoàng truyền ngôi cho con là đế Nghi cổ sử Trung hoa gọi là đế Nghiêu hay Đường Nghiêu đế , đế Nghi – Nghiêu tên gọi khác là ông Giao Thường , từ Thường chỉ là âm đọc khác của chữ Đường- Thoòng nhưng quan trọng là tên Giao thường xác định bản tịch của đế Đường Nghiêu ...là người Giao chỉ , ‘Giao thường’ nghĩa là Nam phần Giao chỉ đối lại với ông ‘Cao Giao’ là Bắc phần Giao chỉ Xưa tức đất Đào – châu Đào (Bắc – Nam nay đã lộn ngược , xin đừng lầm với đất Nam Giao trong sách Thượng thư chỉ đất phía Nam Giao chỉ tức ngoài cõi ) , cổ sử Trung hoa chép đế Nghiêu trước khi lên ngôi đế mang tước Đường vương hay Đường hầu tức qúy tộc của đất phương  Nam (xưa).

 

Đế Nghi hay Đường Nghiêu đế đã mở đầu thời đại cổ sử dân gian Việt gọi là Nam triều vì đế Nghi bỏ kinh đô Ngàn Hống dời về miền Tam giang : Hồng Đà Lô . (Miền Tam giang nằm ở phía Nam xưa so với vùng Hồng lĩnh) , Vì điều này mà đế Nghi – Nghiêu trong tôn giáo dân gian Việt có đạo hiệu là Nam triều thánh tổ ngọc hoàng thượng đế  và trong dòng cổ sử  là Nam bang triệu tổ (triệu là biến âm của chậu - chủ , vua gọi là Bộ chủ).

 

Truyền thuyết chép đế Minh phong cho đế Nghi làm vua phương Bắc , Lộc tục làm vua phương Nam chẳng qua là sự phản kháng với việc người Tàu gọi Việt là Nam man theo nghĩa khinh miệt chứ làm gì có chuyện 1 cộng đồng , 1 đất nước có 2 vua 2 thủ lãnh ?.

 

‘Lộc tục’ lái lại là ‘Lục tộc’ chỉ tộc người ở phương 2 – 6 của Hà thư tức hướng Nam Dịch học cũng là hướng Nam của Thiên hạ xưa không phải là danh xưng của ông vua phương Nam ...

 

Lục tộc cũng là Lạc tộc chính là cư dân của nước Lạc Việt

 

Tài liệu cổ nhất viết về Lạc Việt là Giao Châu Ngoại Vực Ký (thế kỷ 4), được sách Thủy Kinh Chú (thế kỷ 6) dẫn lại như sau:

 

"Thời xưa khi Giao Chỉ chưa có quận huyện, thì đất đai có Lạc Điền, ruộng ấy là ruộng (cầy cấy) theo con nước thủy triều. Dân khai khẩn ruộng ấy mà ăn nên gọi là Lạc Dân. Có Lạc Vương, Lạc Hầu làm chủ các quận huyện. Ở huyện phần đông có Lạc Tướng. Lạc Tướng có ấn bằng đồng, (đeo) giải (vải màu) xanh. Về sau con vua Thục đem ba vạn lính đánh Lạc Vương Lạc Hầu, thu phục các Lạc Tướng. Con vua Thục nhân đó xưng là An Dương Vương"

 

Lạc điền là ruộng nước nhưng Lạc hầu Lạc tướng không phải là quan nước tướng nước mà phải hiểu là quan nước Nam tướng nước Nam , nước là dịch tượng chỉ phía Nam xưa đối phản với Lửa chỉ hướng Bắc , Nam có gốc từ Nom – nhìn người Tàu chuyển ngữ thành Quan như Quan phương , Bắc gốc từ nóng – Bức chỉ hướng Xích đạo (Nam – Bắc nay đã lộn ngược) .

 

Nước là danh từ riêng quốc hiệu 1 thời của người Việt về sau biến thành danh từ chung đồng nghĩa với quốc gia .

 

Đế Nghi hay Đường Nghiêu là người mở đầu cho Nam triều – quốc gia ‘Lạc – nước’ đô ở miền Tam giang sau giới viết sử gọi là Lạc Việt lãnh thổ là Giao chỉ mà thực địa ăn tới cả phía Nam Quảng Tây ngày nay truyền thuyết dân gian miền Lĩnh Nam đã lầm lẫn biến Lục tộc người phương Nam thành Lộc tục vua phương Nam .

 

Lộc tục lên ngôi lấy hiệu là Kinh dương vương đặt quốc hiệu là Xích qủy .

 

Sử thuyết Hùng Việt cho Kinh - Dương chỉ là kí âm Hán văn của -Kênh – Giang từ tương đương của Kênh - Lạch , Kênh – mương chỉ đường lưu chuyển của nước , đông y biến thành Kinh – Lạc là đường dẫn truyền khí huyết trong cơ thể .

 

-Hoặc là Kênh – giêng trong đó giêng là số 1 (tháng 1 cũng là tháng Giêng) chỉ phương 1 – 6 phía Nam xưa trong đồ hình Hà thư .

 

Kinh Dương vương là danh hiệu gọi vua Nam triều (có khi lầm lẫn gọi là Nam bang) . Vua Nam (xưa) triều thì quốc hiệu không  thể là Xích qủy hay quẻ Ly – lửa chỉ hướng nóng bức của Xích đạo như đã tưởng . Các tượng của Dịch học là hệ thống nhất quán như Vua miền Giao chỉ tức ‘chỗ giữa’ gọi là đế màu Vàng – Hoàng đế , Vàng là màu của trung tâm trong Ngũ sắc .

 

Xích quẻ không thể là quẻ Li- lửa thì nghĩa là gì ?.

 

Từ Lạc – nác – nước gắn liền với người Việt từ thời Nam triều là điều không còn gì nghi ngờ vì đã có bảo chứng trong tiếng Việt : Lạc – nước  cũng là quốc gia .

 

Lĩnh Nam chích quái khi lượm lặt chuyện dân gian ghi chép lại bằng chữ Nho , Lạc – nước viết là Thủy , chưa hiểu nguyên do tại sao mà người ta đã thay quốc danh ‘Thủy’ bằng từ phiên thiết Hán văn :

 

Xích qủy thiết Xủy - thủy ; Thủy chỉ là tên chữ của  Lạc - nước .

 

Nước ‘Xích qủy’ giải mã tìm ra nghĩa thực  là quốc gia ‘ NƯỚC’ tức ‘LẠC’, từ Lạc này chính là từ Lạc trong cụm ...  ‘dòng giống Lạc – Hồng’ ; lạc là nước , hồng là ngọn lửa (lửa hồng) – ngọn đuốc để soi đường .

Vua Nam triều : Kinh Dương vương đặt tên nước lả ‘Xích qủy thiết THỦY’ là 1 bộ nhất quán của các  Dịch tượng .

cua

Xích qủy – Thủy - Lạc – nước còn có thể hiểu là nguyên thủy , thoạt kì thủy được coi là quốc hiệu đầu tiên của nòi giống  Hùng - Việt sau quốc danh Hữu Hùng quốc chỉ thời kì kiến lập quốcgia  là điều hoàn toàn hợp lẽ .

 

 

Để giải thích ý nghĩa chữ "Xích Quỷ" phải dẫn dắt dữ liệu rất nhiều, ở đây nó có ý nghĩa là "Ba Vua Đỏ" hay "Ba Mặt Trời" tương ứng với "Tam Dương Khai Thái" (chữ Quỷ gồm 3 chữ Vương gộp lại), đây là "mặt trời" tượng trưng cho các chu kỳ thiên văn, chẳng hạn như "hệ mặt trời" của chúng ta. Đặc biệt, nó cũng tương đương với chữ "Sơn" hình ảnh của 3 ngọn núi (Tam  Sơn Cấm Địa mọc lên từ Địa cầu), nhằm thể hiện ý nghĩa cao quý: "Đạo cao vời Bắc Đẩu, Đức nặng tựa Thái Sơn".

 

Ba mặt trời còn mang ngụ ý: mặt trời lửa, mặt trời nước và mặt trời tâm người.

 

Chúng ta còn thấy, lá cờ Thần hay cờ Tua nguyên gốc màu đỏ ở tâm (tương sinh Ngũ Hành từ trong ra ngoài - Dương) trong các lễ hội dân gian Việt có thêu chòm sao Bắc đẩu ở trung tâm, tượng trưng cho chữ "ĐẠO" và lúc này màu đỏ chủ đạo (ngũ đức) sẽ tượng trưng cho chữ "ĐỨC".

 

Cờ Tua

co-ngu-sac-may-896.jpg

 

Ở đây, các tua của mỗi cạnh lá cờ là 7 tua, tượng trưng cho Nhị thập bát tú, theo như trên thì chòm sao Bắc Đẩu sẽ ở giữa lá cờ hình vuông này.

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Sự phát triển của Đạo giáo

Lê Anh Minh dịch

 

Khát vọng tìm kiếm các đảo có thần tiên, Sử Ký Tư Mã Thiên đã ghi chép: «Kể từ các đời vua Uy Vương 威王 (358-320 tcn), Tuyên Vương 宣王 (319-301 tcn), và Chiêu Vương 昭王 (311-279) của nước Yên 燕, nhiều người đã được chở ra biển khơi để tìm kiếm các đảo Bồng Lai 蓬萊, Phương Trượng 方丈, và Doanh Châu 瀛洲. Tương truyền, ba đảo thần tiên này ở Bột Hải 渤海.» [14]

 

Về sau, các đảo này được định vị xa hơn nữa. Sách Liệt Tử Xung Hư Chân Kinh (列子沖虛真經) đã mô tả đầy ấn tượng về các đảo này như sau: «Phía đông của Bột Hải, không rõ là xa bao nhiêu dặm, có một vùng nước lớn. Thực tế ở đó là một thung lũng không có đáy. Bởi phía dưới của thung lũng không có đáy nên thung lũng được gọi là Quy Khư 歸墟. [15] Nước từ tám phương trời và chín vùng đất, và nước sông Ngân Hà đều chảy đổ vào nơi này, thế mà nước ở đấy chẳng tăng chẳng giảm. [16] Ở nơi này có năm ngọn núi. Ngọn thứ nhất tên là Đại Dư 岱輿, ngọn thứ hai là Viên Kiều 員嶠, ngọn thứ ba là Phương Hồ 方壺, ngọn thứ tư là Doanh Châu 瀛洲, và ngọn thứ năm là Bồng Lai 蓬萊. Các núi này cao 30.000 dặm, và chu vi 30.000 dặm. Đỉnh núi là vùng bằng phẳng, có đường kính 9.000 dặm. Các núi cách nhau 70.000 dặm, là nơi dân cư ở. Những đền đài và đạo quán trên đỉnh núi thì bằng vàng và ngọc. Cầm thú ở đó có màu trắng tinh khiết. Cây cối bằng ngọc trai và san hô. Hoa trái có vị thơm ngon dễ chịu. Ai mà ăn được hoa quả ấy sẽ không già và không chết.» [17]

 

Hoang phế di tích hồ Tịnh Tâm ở Cố đô Huế

 

Hồ Tịnh Tâm phủ đầy rau muống. Chiếc cầu ra đảo Phương Trượng giữa hồ mục nát gẫy sập trông rất mất mỹ quan.

(Ảnh: Anh Tuấn/TTXVN)

 

Gần 10 năm sau khi hệ thống di tích Cố đô Huế được UNESCO công nhận là di sản thế giới (năm 1993), năm 2004, Trung tâm Bảo tồn di tích Cố đô Huế có kế hoạch đầu tư nâng cấp một số hạng mục để kịp phục vụ, khai thác trong dịp Festival Huế cùng năm.

 

KPH_BietcungTinhTam-Hue.jpg

Sơ đồ biệt cung Tịnh Tâm (Ảnh: Ngọc Bích/Khám phá Huế)

 

KPH_HoTinhTamxua-1966.jpg

Hồ Tịnh Tâm có bình diện hình chữ nhật, chu vi gần 1500m (354 trượng 6 thước). Trục chính của tổng thể kiến trúc hồ Tịnh Tâm quay mặt về hướng Nam - hướng truyền thống của kiến trúc Cung đình Huế (Ảnh: Hồ Tịnh Tâm năm 1966 nhìn từ trên cao)

 

Cùng với đó là việc xây dựng đề án tu bổ và phục hồi hồ Tịnh Tâm, lúc đó đã được Ủy ban Nhân dân tỉnh Thừa Thiên-Huế thông qua với các hạng mục chính gồm quy hoạch chống lấn chiếm, giải tỏa để tạo cảnh quan chung, sắp xếp lại nhà dân để trả lại không gian vốn có cho di tích. Tiếp theo, sẽ tiến hành nạo vét lòng hồ Tịnh Tâm, cũng như khôi phục hệ thống lưu thông giữa các hồ như đã có trong lịch sử.

 

Theo sử liệu, hồ Tịnh Tâm có bình diện hình chữ nhật, chu vi gần 1.500 m, trên hồ có ba hòn đảo Bồng Lai, Phương Trượng và Doanh Châu. Hồ Tịnh Tâm được ngăn cách với bên ngoài bằng một vòng tường gạch. Bốn mặt có bốn cửa gồm cửa Hạ Huân ở phía nam, cửa Đông Hy ở phía bắc, cửa Xuân Quang ở phía đông và cửa Thu Nguyệt ở phía tây. Xung quanh các đảo trên hồ và dọc bờ hồ đều trồng các loại liễu trúc và các thứ hoa cỏ lạ, dưới hồ trồng sen trắng.

 

KPH_tinh-ho-ha-hung-vuathieuTri.JPG

Tịnh Hồ Hạ Hứng - Bức tranh về hồ Tịnh Tâm, được đặt tại Trường Lang Tử Cấm Thành- Đại Nội Huế cùng với 19 cảnh đẹp còn lại của Cố đô.

 

Đảo Bồng Lai ở phía nam hồ Tịnh Tâm, dẫn đến đảo bằng cầu Hồng Cừ, chính giữa có điện Bồng Doanh. Điện có kiến trúc 3 gian 2 chái, mái trùng diêm, lợp ngói Hoàng lưu ly, điện xây mặt về hướng nam, có lan can gạch bao quanh, phía trước có cửa Bồng Doanh, cầu Bồng Doanh nối đảo với bờ hồ phía nam. Phía đông điện Bồng Doanh có nhà Thủy tạ Thanh Tâm, quay mặt về hướng đông.

 

Phía tây điện có lầu Trừng Luyện, quay mặt về hướng tây. Phía bắc là cửa và một cây cầu mang tên Hồng Cừ. Đảo Phương Trượng giữa có gác Nam Huân, quay mặt về hướng nam, 2 tầng, mái lợp ngói hoàng lưu ly. Phía nam có cửa Bích Tảo và cầu Bích Tảo.

 

Phía bắc đảo có lầu Tịnh Tâm, quay mặt hướng bắc. Phía đông có nhà Hạo Nhiên (năm 1848 đổi thành Thiên Nhiên), quay mặt về hướng đông. Phía tây có hiên Dưỡng Tính quay mặt về hướng tây. Giữa hai đảo có đình Tứ Đạt nằm giữa một hệ thống hành lang mái lợp ngói gồm 44 gian, chạy nối vào cầu Bích Tảo ở phía nam và cầu Hồng Cừ ở phía bắc.

 

Đảo Doanh Châu giữa hồ Tịnh Tâm có đê Kim Oanh nối liền từ bờ đông qua bờ tây. Phía đông đê có cầu Lục Liễu, 3 gian, mái lợp ngói. Phía nam đê gắn với một hành lang dài 56 gian, ở giữa là cầu Bạch Tần. Phía nam cầu có nhà tạ Thanh Tước để thuyền vua ngự.

 

Ở đoạn cuối phía tây của hành lang lại có nhà Khúc Tạ, thông với một nhà tạ khác là Khúc Tạ Hà Phong qua một hành lang nhỏ dựng trên mặt nước. Phía nam nhà tạ này là đảo Doanh Châu. Với kiểu kiến trúc cầu kỳ, tinh mỹ, hài hòa với tự nhiên, hồ Tịnh Tâm được xem là một thành tựu tiêu biểu của nghệ thuật kiến trúc cảnh quan Việt Nam thế kỷ 19.

Tuy đã có đề án khôi phục hồ nhưng từ bấy đến nay, di tích Tịnh Tâm ngày càng bị xuống cấp do không có sự tu bổ và quản lý chặt chẽ của cơ quan chức năng. Hồ nay chỉ còn là một "phế tích" được dùng làm nơi trồng sen và rau muống.

 

Do không có sự tu bổ nên di tích trên ba hòn đảo Bồng Lai, Phương Trượng và Doanh Châu đã xuống cấp một cách trầm trọng. Nhiều trụ đá di tích nằm nghiêng ngả và vỡ nát. Trên mỗi đảo, cỏ mọc tràn lan như bãi đất hoang, trở thành sân bóng của nhiều trẻ em.

Cây cầu dẫn vào đảo đã hư hỏng nặng, nhiều chỗ gãy nếu không chú ý có thể sẽ bị lọt chân xuống. Mặc dù đã có hàng rào chắn nhưng nhiều người dân vẫn vượt rào vào câu cá, xe đạp để ngổn ngang trên cầu. Khi vào trong đảo có một số giếng nước cổ bị bỏ hoang, dễ gây tai nạn cho du khách. Mặt hồ đã trở thành một đầm lầy để cho các hộ dân canh tác rau muống, nhiều cọc tre cắm xuống hồ, tạo nên cảnh khó coi, gây phản cảm cho du khách.

 

Mang danh nghĩa là hồ nhưng ở Tịnh Tâm bây giờ bùn đất nhiều hơn là nước, nhiều chỗ bị bồi lấp nặng nề. Đến đây, không ai có thể nhận ra và nghĩ rằng hồ Tịnh Tâm vốn đã từng là Ngự Uyển của vua Nguyễn./.

Quốc Việt (TTXVN/Vietnam+)

 

Có thể luận giải, Tam sơn có tiên ở mọc lên từ biển trên tương ứng an vị tại 3 phương chính đông, tây, bắc, còn phương nam không có núi, mang ý nghĩa tượng trưng nơi phương Nam mọc ra 3 hòn núi có tiên: "núi linh không phải vì cao, sông thiêng không bởi vì sâu, mà do có thần tiên đến ở".

Share this post


Link to post
Share on other sites

Đằng Vương gác ấy giờ đâu nhỉ?
Dòng Hùng Việt

 

Vương Bột, nhà thơ thời Sơ Đường vừa được ông Tập Cận Bình nhắc đến trong bài phát biểu khi so sánh với Chủ tịch Hồ Chí Minh sang Trung Quốc lên núi làm thơ. Nhưng có lẽ ông Tập còn chưa biết Vương Bột làm bài thơ để đời của mình là bài Đằng Vương các tự là ở đâu và Vương Bột là người ở đâu…

 

Bài Đằng Vương các tự được Vương Bột viết khi trên đường đi thăm cha đang làm quan ở Giao Châu. Vương Bột ghé vào dự tiệc ở gác Đằng Vương tại đất Hồng Châu. Ngày nay người ta xây gác Đằng Vương và lập tượng Vương Bột ở tỉnh Giang Tây, Trung Quốc. Nhưng nếu đọc vào bài thơ này sẽ thấy gác Đằng Vương được nói đến phải nằm ở một chỗ hoàn toàn khác…

 

Bài Đằng Vương các tự mở đầu bằng việc “kê khai vị trí” của nơi làm thơ:

Nam Xương cố quận, Hồng Đô tân phủ.
Tinh phân Dực Chẩn, địa tiếp Hành Lư.

 

Đọc mấy câu này thấy rất giống với… đoạn đầu trong các thần tích ở Việt Nam, cũng bắt đầu nêu địa danh, rồi nói tới nước ta ở về phương Nam, lấy sao Dực sao Chẩn định ranh giới. Câu “Tinh phân Dực Chẩn” đã chỉ rõ ngay rằng nơi Vương Bột làm bài thơ này là ở phương Nam, ứng với vị trí vùng đất Việt Nam ngày nay chứ không phải ở Giang Tây, Trung Quốc.

 

Vậy Nam Xương và Hồng Châu ở Việt Nam là ở đâu? Xin thưa, Nam Xương là khu vực huyện Lý Nhân (Hà Nam). Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ (người Hải Dương thời Lê Sơ) có hẳn một chuyện Người con gái Nam Xương, có chồng đi đánh giặc Chiêm, khi về hiểu nhầm vợ, gây nên oan gia rắc rối… Nam Xương là ở tỉnh Hà Nam.

 

Còn Hồng Châu vốn là tên vùng đất quanh tỉnh Hưng Yên. Ở ngay Kim Động, Hưng Yên còn có thờ vua Mây họ Phạm. Vị này được Lĩnh Nam chích quái chép trong truyện Vị thần xứ Đằng Châu, đã hiển linh thời Tiền Lê – Lý. Đằng Vương trong thơ của Vương Bột là nói tới có thể là Đằng Châu Phạm Phòng Ất ở Kim Động, Hưng Yên.

Thời Mạt Đường có Khúc Thừa Dụ là hào trưởng đất Hồng Châu đã dành quyền tự trị ở thành Thăng Long, khởi đầu nền tự chủ dân tộc. Việt sử thông giám cương mục cho biết: “Họ Khúc là một họ lớn lâu đời ở Hồng Châu”. Đền thờ ba vị họ Khúc tại quê nhà ở xã Kiến Quốc, huyện Ninh Giang, Hải Dương.

 

Cần biết rằng gác Đằng Vương là nhà lầu có gác do Lý Nguyên Anh thời nhà Đường xây không chỉ ở Giang Tây, mà còn ở một loạt các nơi khác như ở Tứ Xuyên và Sơn Đông. Rất có thể tại đất An Nam Lý Nguyên Anh đã cho xây một gác Đằng Vương ở gần khu vực thần Đằng cổ tích của Hưng Yên – Hồng Châu.

 

Truy xa hơn nữa, Hồng Châu bắt nguồn từ vùng đất Hoa Đào Trang hay phủ Hạ thời Lạc Long Quân – Bát Hải Động Đình, nay thờ ở đền Đồng Bằng (Quỳnh Phụ, Thái Bình). Theo truyền thuyết Vĩnh Công Bát Hải Động Đình xuất thế cùng mấy người anh em, là những vị quan lớn trong Công đồng Tứ phủ. Trong đó vị Quan lớn đệ Tam thờ ở đền Lảnh, nằm giữa Hưng Yên, Phú Xuyên và Hà Nam. Quan lớn đệ Ngũ thờ ở Ninh Giang gần quê Khúc Thừa Dụ. Hồng Châu như thế có thể là cả một vùng đồng bằng rộng lớn nơi sông Hồng đổ ra biển gồm Hà Nam, Hưng Yên, Hải Dương, Thái Bình, Hải Phòng.

 

image011.jpg

 

Vị trí Hồng Châu thời Đường.

 

Trong câu Địa tiếp Hành Lư của bài Đằng Vương Các tự thì Hành Lư có thể là hành Hỏa trong Ngũ hành, chỉ phương Nam (Lư = Lô = Lửa = La). Đây không phải núi Hành, núi Lư vì câu này đối ứng với câu trên Tinh phân Dực Chẩn. Ở trên dùng sao để định phạm vi thì ở dưới phải dùng những dịch tượng chỉ phạm vi lớn, chứ không thể dùng địa danh một hai ngọn núi.

 

Hai câu thơ tiếp theo của bài Đằng Vương Các tự:

Khâm tam giang nhi đới ngũ hồ, khống Man Kinh nhi dẫn Âu Việt
Vật hoa thiên bảo, long quang xạ Ngưu Đẩu chi khư.

Bản dịch của Trần Trọng San:

 

Như cổ áo của ba sông, vòng đai của năm hồ; khuất phục đất Man Kinh, tiếp dẫn miền Âu Việt.
Vẻ rực rỡ của vật chính là đồ quý báu của trời; ánh sáng vằn rồng chiếu lên khu vực sao Đẩu sao Ngưu.
Vùng “ba sông năm hồ” là ở đâu?

 

Câu đối ở đền Hùng, Hy Cương, Phú Thọ:

Quang nhạc hiệp linh, cố cung thành tụy miếu, Tam Giang khâm đái thượng triều tôn.
Dịch:
Núi tỏa linh thiêng, cung cũ lập miếu đền, một dải Tam Giang hướng về nguồn.

 

Tam Giang là nơi ba con sông Đà, sông Lô và sông Thao hội tụ tại Việt Trì. Hay tỉnh Vĩnh Phúc xưa gọi là phủ Tam Đái. Đây là khu vực đất tổ Hùng Vương.

 

Câu “Khuất phục đất Man Kinh, tiếp dẫn miền Âu Việt” thì quá rõ. Man Kinh là vùng đất người Kinh hay người Lạc Việt. Âu Việt là vùng phía Tây Bắc Việt. Man Kinh và Âu Việt hợp lại chính là nước Âu Lạc thời cổ. Nơi “tiếp dẫn miền Âu Việt” thì không thể nào lại ở tận Giang Tây, Trung Quốc được.

 

Phạm Sư Mạnh thế kỷ 14 có bài thơ Tuần thị châu Chân Đăng:

Thiên khai địa tịch lộ Tam Giang
Kỳ tuyệt tư du ngã vị tằng
Kiểu ngoại Bách Man hoàn Cổ Lũy
Quốc Tây cự trấn tráng Chân Đăng.
Dịch:
Đất yên trời mở lộ Tam Giang
Tuyệt vời cảnh đẹp chưa từng ngang
Kiểu ngoài Bách Man về Cổ Lũy
Quốc Tây chống cự tráng Chân Đăng.

 

Bài thơ này có đủ cả vùng Tam Giang và Bách Man (Man Kinh – Âu Việt) như trong thơ Vương Bột.

 

Sang câu “long quang xạ Ngưu Đẩu chi khư”. Thành ngữ “khí xạ Ngưu Đẩu” được dùng như trong câu thơ của Phạm Ngũ Lão thời Trần: “Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu“. Ngưu Đẩu là những chòm sao của phương Bắc. “Xạ Ngưu Đẩu” chỉ ra rằng Vương Bột đang ở miền Nam, đối nghịch lên với phương Bắc.

Đến câu thơ:
Đài hoàng chẩm Di Hạ chi giao, tân chủ tận đông nam chi mỹ.
Bản dịch của Trần Trọng San:
Đài, hào nằm gối lên giao giới vùng Di, Hạ; khách, chủ đều là những vẻ đẹp miền đông, nam.
Bàn đến vùng Di Hạ thì phải khảo cứu câu đối ở đình Chèm thờ Lý Ông Trọng:
Thiên thùy nguyên tinh, Di Hạ lẫm hùng uy, đồng tượng thanh cao Tần Bắc trấn
Địa lưu cố trạch, âm dương đồng hiển tướng, kim chương trù điệp Việt Nam phong.
Dịch:
Trời rủ khí nguyên, Di Hạ sợ hùng oai, tượng đồng thanh cao trấn Tần Bắc
Đất lưu nền cũ, âm dương cùng hiện tướng, sách vàng dày chất cõi Việt Nam.

 

Đất Di Hạ là nơi Lý Ông Trọng trấn giữ. Di Hạ thiết Dạ, là vùng đất Dạ Lang của người Ai Lao Di. Đây là khu vực phía Tây Bắc của Việt Nam (Vân Nam, vùng Tây Bắc). Câu thơ của Vương Bột ý nói đài gác nằm giao giới với vùng Tây Bắc, còn khách và chủ thì ở vùng Đông Nam. Vùng Đông Nam chính là đất Hồng Châu ở hạ lưu sông Hồng. Giang Tây của Trung Quốc làm gì có chỗ nào giáp với Di Hạ, và cũng không nằm ở phía Đông Nam.

 

Tới câu thơ:
Gia quân tác tể, lộ xuất danh khu
Đồng tử hà tri, cung phùng thắng tiễn.
Bản dịch của Trần Trọng San:
Nhân gia quân làm quan tể tại Giao Châu, tôi đi thăm miền nổi tiếng đó
Kẻ đồng tử này đâu biết có việc chi, hân hạnh gặp buổi tiệc linh đình.

 

Vương Bột đi thăm cha làm quan ở Giao Châu và đến chơi đất Hồng Châu ở Hà Nam là hoàn toàn hợp lý. Còn đi Giao Châu mà lại rẽ vào Giang Tây thì đúng là phải có phép “Trùng cửu” mượn gió giời mới có thể đến được. Có thể thư tịch cổ đã lầm lẫn giữa Giang Tây là đất Tĩnh Hải thời Đường với tỉnh Giang Tây ngày nay. Tên gọi Giang Tây còn lưu lại trên những viên gạch Giang Tây quân của thời Đường bên dưới Hoàng thành Thăng Long, thành Hoa Lư hay thành nhà Hồ, và cả trên đất Thái Thụy, Thái Bình.

 

Những đoạn thơ tả cảnh tả tình tiếp theo trong bài Đằng Vương Các tự không chứa đựng thông tin về địa danh nên xin không bàn. Câu thơ “đắc” nhất “Ráng chiều với cò lẻ cùng bay” nghe giống cảnh vùng miền quê đồng bằng Bắc Bộ có cò bay trên ruộng lúa hơn là ở tận Giang Tây.

 

Chỉ bàn thêm hai câu:
Vô lộ thỉnh anh, đẳng Chung Quân chi nhược quán
Hữu hoài đầu bút, mộ Tông Xác chi trường phong.
Bản dịch của Trần Trọng San:
Không có đường xin dải dây dài, như tuổi niên thiếu của Chung Quân
Nhưng có hoài bão vứt cây bút, yêu mến cơn gió dài của Tông Xác.

 

Tướng Chung Quân thời Hán xin dây đòi trói vua Nam Việt, tức là vua Triệu nước Nam Việt từ Triệu Đà. Ở đây nói tới thời Hiếu Vũ Đế cử Lộ Bác Đức đánh nước Nam Việt.

 

Còn vị Tông Xác thì không xa lạ gì với người Việt vì đây là là phó tướng của Đàn Hòa Chi đánh Lâm Ấp thời Tiền Tống. Vị này lúc đánh Lâm Ấp về không hiểu bị ma ám hay sao mà lại chỉ lấy mỗi một chiếc áo và một cái lược về… làm kỷ niệm.

 

Vương Bột không tự nhiên nhắc tới 2 nhân vật Hán Chung Quân và Tông Xác như những tấm gương để noi theo. Vì đây là 2 người liên quan đến lịch sử khu vực phía Nam, nước Nam. Vương Bột có thể cũng là người Nam. Với tuổi trẻ khi làm bài Đằng Vương Các tự mà lại thông thạo lịch sử địa lý vùng phương Nam như vậy thì khả năng Vương Bột là người ở vùng này, chứ không phải ở nơi khác đến.

 

Vương Bột quê ở Long Môn. Long Môn không phải ở tận Sơn Tây, Trung Quốc, quá xa về phía Bắc để cha Vương Bột đi làm quan ở Giao Châu. Người Sơn Tây nói tiếng Trung… ngọng như tiếng Quan thoại ngày nay, làm sao làm được thơ Đường?

 

Long Môn có thể là khu vực sông Đà đổ vào sông Hồng, theo truyền thuyết là nơi Sơn Tinh phá núi khơi thông dòng trị thủy. Vương Bột quê ở miền núi Tản sông Đà thì cha làm quan ở Giao Châu và thông thạo địa hình vùng Tam Giang là hoàn toàn hợp lý. Từ nơi đó đi về Hưng Yên – Hà Nam xuôi theo sông Hồng thì mất 2 ngày là đúng. Đằng Vương Các ở Lý Nhân hoàn toàn có lý.

 

Cuối cùng, cái chết của Vương Bột ngoài biển, thi thể dạt vào Hội Thống ở Nghi Xuân, Nghi Lộc, Nghệ An, được người dân nơi đây lập đền thờ, cả cha và con, càng chứng tỏ Vương Bột là người Việt, ở đất Việt và chết cũng về đất Việt.

 

Câu đối ở nơi thờ Vương Bột và cha là Vương Phúc Cơ tại Nghệ An:
Long Môn văn phái ba lưu viễn
Ngư Hải hương yên tuế nguyệt trường.
Dịch:
Long Môn văn phái sóng xa đến,
Ngư Hải khói hương năm tháng còn.

 

image012.jpg

 

Di tượng Vương Bột ở xã Nghi Xuân, Nghệ An (Theo Tạp chí Văn hóa Nghệ An).

 

Văn Nhân xin thêm ý nhỏ...

 

...Tinh phân Dực Chẩn, địa tiếp Hành Lư...

Hành Lư rất có thể là ‘chữ tác đánh chữ tộ’ của Hồng Lô tức sông Hồng và sông Lô , là 2 trong 3 con sông Hồng Đà Lô mà hình thể tạo ra 3 giải lụa trong ....Khâm tam giang nhi đới ngũ hồ  hoặc Tam giang khâm đái thượng triều tôn .

 

Nhiều tư liệu của Trung quốc  đã viết sông Lô thành ra Lư giang .

 

Trong văn hóa Việt hình thể uốn lượn của con sông được ví như con rồng , Long môn  chỉ nghĩa là cửa sông nhưng trong thư tịch cổ được dùng như 1 địa danh , Long môn ở Giao chỉ là nơi Tam giang đổ nước  vào cái đầm lớn mà sau thành ra đồng bằng Bắc bộ ngày nay . Đấy là miền đất thiêng nơi vua Đại Vũ bạt cả 1 phần quả núi tên là ‘Long môn sơn’ để khơi thông dòng nước hoàn tất việc trị thủy như đã chép trong sách thượng thư.

Đường vương , vương đất Đường chủ của Đằng vương các chỉ có thể là vương ở 1 trong 2 nơi :

 

-Đất Đường thời quốc gia sơ khai tức tính từ Hoàng đế lập quốc cho đến Đại Vũ là miền Tam giang , lúc này Đồng bằng Bắc bộ còn là cái đầm nước lớn gọi là ‘giồng’ sau bị chữ nghĩa hoá thành ra đầm Vân – mộng (vân mồng thiết vồng – giồng) , đầm Vân mộng thông với Động đình hồ chính là vịnh Bắc Việt ngày nay .

 

-Đất Đường thời Tam đại là miền Giang tây ngày nay .Đằng – Đường – Thường chỉ có nghĩa là phương Nam xưa theo Dịch học (Ngược với hện nay) , Sử Hùng Việt cho  Trường giang là ranh giới cực nam (xưa) thời nhà Thương vì thế đất ven sông này gọi là đất Đường . Miền này sau gọi là giang Nam , giang Nam cùng với lĩnh Nam tạo thành Hoa Nam , chính vì thế Mông cổ gọi cư dân nơi này là người Nam , phân biệt với người Bắc (nay) Trường giang là người Hán

 

 

Đằng Vương các tự

Nam Xương cố quận, Hồng Đô tân phủ.
Tinh phân Dực Chẩn, địa tiếp Hành Lư.
Khâm tam giang nhi đới ngũ hồ, khống Man Kinh nhi dẫn Âu Việt.
Vật hoa thiên bảo, long quang xạ Ngưu Đẩu chi khư;
Nhân kiệt địa linh, Từ Trĩ hạ Trần Phồn chi tháp.
Hùng châu vụ liệt, tuấn thái tinh trì,
Đài hoàng chẩm Di Hạ chi giao, tân chủ tận đông nam chi mỹ.
Đô đốc Diêm công chi nhã vọng, khể kích dao lâm;
Vũ Văn tân châu chi ý phạm, xiêm duy tạm trú.
Thập tuần hưu hạ, thắng hữu như vân;
Thiên lý phùng nghinh, cao bằng mãn toạ.
Đằng giao khởi phụng, Mạnh học sĩ chi từ tông;
Tử điện thanh sương, Vương tướng quân chi võ khố.
Gia quân tác tể, lộ xuất danh khu;
Đồng tử hà tri, cung phùng thắng tiễn.

Thời duy cửu nguyệt, tự thuộc tam thu.
Lạo thuỷ tận nhi hàn đàm thanh, yên quang ngưng nhi mộ sơn tử.
Nghiễm tham phi ư thượng lộ, phỏng phong cảnh vu sùng a.
Lâm đế tử chi Trường Châu, đắc tiên nhân chi cựu quán.
Tằng đài tủng thuý, thượng xuất trùng tiêu;
Phi các lưu đan, hạ lâm vô địa.
Hạc đinh phù chử, cùng đảo tự chi oanh hồi;
Quế điện lan cung, liệt cương loan chi thể thế.
Phi tú thát, phủ điêu manh,
Sơn nguyên khoáng kỳ doanh thị, xuyên trạch hu kỳ hãi chúc.
Lư diêm phác địa, chung minh đỉnh thực chi gia;
Khả hạm mê tân, thanh tước hoàng long chi trục.
Hồng tiêu vũ tễ, thái triệt vân cù.
Lạc hà dữ cô vụ tề phi, thu thuỷ cộng trường thiên nhất sắc.
Ngư chu xướng vãn, hưởng cùng Bành Lễ chi tân;
Nhạn trận kinh hàn, thanh đoạn Hành Dương chi phố.

Dao khâm phủ sướng, dật hứng thuyên phi.
Sảng lại phát nhi thanh phong sinh, tiêm ca ngưng nhi bạch vân át.
Kỳ Viên lục trúc, khí lăng Bành Trạch chi tôn;
Nghiệp thuỷ châu hoa, quang chiếu Lâm Xuyên chi bút.
Tứ mỹ cụ, nhị nan tinh.
Cùng thê miện vu trung thiên, cực ngu du ư hạ nhật.
Thiên cao địa huýnh, giác vũ trụ chi vô cùng;
Hứng tận bi lai, thức doanh hư chi hữu số.
Vọng Trường An vu nhật hạ, chỉ Ngô Hội ư vân gian.
Địa thế cực nhi nam minh thâm, thiên trụ cao nhi bắc thần viễn.
Quan san nan việt, thuỳ bi thất lộ chi nhân ?
Bình thuỷ tương phùng, tận thị tha hương chi khách.
Hoài đế hôn nhi bất kiến, phụng Tuyên thất dĩ hà niên ?

Ta hồ!
Thời vận bất tế, mệnh đồ đa suyễn.
Phùng Đường dị lão, Lý Quảng nan phong.
Khuất Giả Nghị vu Trường Sa, phi vô thánh chủ;
Thoán Lương Hồng vu Hải Khúc, khởi phạp minh thời.
Sở lại quân tử an bần, đạt nhân tri mệnh.
Lão đương ích tráng, ninh tri bạch thủ chi tâm ?
Cùng thả ích kiên, bất truỵ thanh vân chi chí.
Chước Tham tuyền nhi giác sảng, xử hạc triệt dĩ do hoan.
Bắc hải tuy xa, phù dao khả tiếp;
Đông ngung dĩ thệ, tang du phi vãn.
Mạnh Thường cao khiết, không hoài báo quốc chi tâm;
Nguyễn Tịch xướng cuồng, khởi hiệu cùng đồ chi khốc!

Bột tam xích vi mệnh, nhất giới thư sinh.
Vô lộ thỉnh anh, đẳng Chung Quân chi nhược quán;
Hữu hoài đầu bút, mộ Tông Xác chi trường phong.
Xả trâm hốt ư bách linh, phụng thần hôn ư vạn lý.
Phi Tạ gia chi bảo thụ, tiếp Mạnh thị chi phương lân.
Tha nhật xu đình, thao bồi Lý đối;
Kim thần phủng duệ, hỉ thác Long môn.
Dương Ý bất phùng, phủ Lăng vân nhi tự tích;
Chung Kỳ ký ngộ, tấu lưu thuỷ dĩ hà tàm ?

Ô hô!
Thắng địa bất thường, thịnh diên nan tái.
Lan Đình dĩ hĩ, Tử Trạch khâu khư.
Lâm biệt tặng ngôn, hạnh thừa ân ư vĩ tiễn;
Đăng cao tác phú, thị sở vọng ư quần công.
Cảm kiệt bỉ thành, cung sơ đoản dẫn.
Nhất ngôn quân phú, tứ vận câu thành.
Thỉnh sái Phan giang, các khuynh lục hải vân nhĩ.

Đằng Vương cao các lâm giang chử,
Bội ngọc minh loan bãi ca vũ.
Hoạ đống triêu phi Nam Phố vân,
Châu liêm mộ quyển Tây Sơn vũ.
Nhàn vân đàm ảnh nhật du du,
Vật hoán tinh di kỷ độ thu.
Các trung đế tử kim hà tại ?
Hạm ngoại trường giang không tự lưu.

 

Con vua Đường Cao Tổ là Nguyên Anh được phong là Đằng Vương, xây cất gác này khi nhận chức thứ sử tại Hồng Châu. Năm Hàm Thuần thứ hai, thứ sử Hồng Châu là Diêm Bá Tự mở đại yến ở đây, sai con rể là Ngô Tử Chương chuẩn bị trước một bài tự để mang ra khoe với tân khách. Trong bữa tiệc, họ Diêm sai đem giấy bút ra mời khách làm văn, nhưng không ai dám nhận. Duy có Vương Bột không từ chối. Họ Diêm sai người ngó bài của Vương Bột. Khi được nghe đến câu “Lạc hà dữ cô vụ tề phi” thì thán phục, khen là thiên tài, bèn thỉnh cầu Vương Bột tiếp tục hoàn thành bài tự.

 

(Đây là) quận cũ Nam Xương; phủ mới Hồng Đô.
Sao chia ngôi Dực, ngôi Chẩn; đất nối núi Hành, núi Lư.
Như cổ áo của ba sông, vòng đai của năm hồ;
khuất phục đất Man Kinh, tiếp dẫn miền Âu Việt.
Vẻ rực rỡ của vật chính là đồ quý báu của trời; ánh sáng vằn rồng chiếu lên khu vực sao Đẩu sao Ngưu.
Bậc hào kiệt nơi người do khí linh tú của đất mà có; nhà cao sĩ Từ Trĩ hạ chiếc giường treo của Trần Phồn.
Chốn hùng châu như sương mù giải giăng; nguời anh tuấn như ngôi sao rong ruổi.
Đài, hào nằm gối lên giao giới vùng Di, Hạ; khách, chủ đều là những vẻ đẹp miền đông, nam.
Tiếng tăm tốt của đô đốc Diêm Bá Tự cùng với những khải kích đi đến miền xa.
Quan thái thú Vũ Văn Quân, là mô phạm của châu mới, tạm dừng xe tại chốn này.
Mười tuần nhàn rỗi, bạn tốt như mây.
Ngàn dặm đón chào, bạn hiền đầy chỗ.
Giao long vượt cao, phụng hoàng nổi dậy, đó là tài hoa của Mạnh học sĩ, ông tổ của từ chương.
Tia chớp tía, hạt sương trong, đó là tiết tháo của Vương tướng quân, nhà cai quản võ khố.
Nhân gia quân làm quan tể tại Giao Châu, tôi đi thăm miền nổi tiếng đó.
Kẻ đồng tử này đâu biết có việc chi, hân hạnh gặp buổi tiệc linh đình.

Lúc này đương là tháng chín, thuộc về ba thu.
Nước rãnh cạn, đầm lạch trong; ánh khói đọng, núi chiều tia.
Trông ngựa xe trên đường cái; hỏi phong cảnh nơi gò cao.
Đến miền Trường Châu của đế tử; tìm được quán cũ của người tiên.
Núi non cao biếc, nhô khỏi lớp mây; bóng gác bay, màu son chày, dưới không sát đất.
Bến hạc, bãi phù quanh co đến tận đảo cồn; điện quế, cung lan bày ra cái thể thế của núi non.
Mở rộng cửa tô; cúi xem cột chạm.
Đồng núi trông rộng khắp; sông đầm nhìn hãi kinh.
Cửa ngõ giăng mặt đất, đó là những nhà rung chuông, bày vạc.
Thuyền bè chật bến sông, trục vẽ chim sẻ xanh, rồng vàng.
Cầu vồng tan, cơn mưa tạnh; vẻ rực sáng, suốt đường mây.
Ráng chiều rơi xuống, cùng cái cò đơn chiếc đều bay; làn nước sông thu với bầu trời kéo dài một sắc.
Thuyền câu hát ban chiều, tiếng vang đến bến Bành Lễ.
Bầy nhạn kinh giá rét, tiếng kêu dứt bờ Hành Dương.

Khúc ngâm xa xôi sảng khoái; hứng thú phiêu dật bay nhanh.
Tiếng vui phát sinh, gió mát nổi dậy; ca nhẹ lắng chìm, mây trắng lưu lại.
Tre lục vườn Kỳ, khí lan chén rượu Bành Trạch.
Sắc đỏ sông Nghiệp, ánh soi ngọn bút Lâm Xuyên.
Sẵn bốn điều hay; đủ hai bậc tốt.
Ngắm trông khắp cả khoảng trời; vui chơi hết ngày nhàn rỗi.
Trời cao, đất xa, biết vũ trụ rộng vô cùng.
Hứng hết, buồn về, hiểu đầy vơi là có số.
Trông Trường An dưới mặt trời; trỏ Ngô Hội trong khoảng mây.
Thế đất tận cùng, biển Nam sâu thẳm; cột trời cao ngất, sao Bắc xa xôi.
Quan san khó vượt, nào ai sót thương người lạc lối ?
Bèo nước gặp nhau, hết thảy đều là khách tha hương.
Tưởng nhớ chốn cửa vua, không trông thấy được; phụng chiếu nơi Tuyên Thất, chẳng biết năm nào.

Than ôi!
Thời vận chẳng bình thường; đường đời nhiều ngang trái.
Phùng Đường dễ thành già cả; Lý Quảng khó được phong hầu.
Giả Nghị bị khuất nơi Trường Sa, chẳng phải không vua hiền thánh.
Lương Hồng phái náu miền Hải Khúc, đâu có thiếu thời quang minh.
Nhờ được: người quân tử vui cảnh nghèo; bậc đạt nhân biết rõ mệnh.
Tuổi già càng phải mạnh hơn, nên hiểu lòng ông đầu bạc.
Lúc cùng hãy nên thêm vững, không rớt chí đường mây xanh.
Uống nước suối Tham, lòng vẫn sáng; ở nơi cùng khổ, bụng còn vui.
Biển bắc tuy xa xôi, nhưng cưỡi gió có thể đi tới.
Đã để trôi qua lúc mặt trời mọc ở phương đông, nhưng khi bóng lặn khóm tang du, phải đâu đã muộn.
Mạnh Thường thanh cao, vẫn mang tấm lòng báo quốc.
Nguyễn Tịch rồ dại, há bắt chước tiếng khóc đường cùng.

Bột này là đứa nhỏ cao ba thước, một gã học trò.
Không có đường xin dải dây dài, như tuổi niên thiếu của Chung Quân.
Nhưng có hoài bão vứt cây bút, yêu mến cơn gió dài của Tông Xác.
Bỏ rơi trâm hốt ở trăm năm; theo việc thần hôn ngoài vạn dặm.
Tuy không phải là cây báu nhà họ Tạ; nhưng được ở gần hàng xóm tốt của họ Mạnh.
Ngày sau, tôi sẽ rảo bước trước sân, lạm phụ thêm lời đối đáp của ông Lý.
Sớm nay, nâng tay áo, vui mừng được gửi gắm họ tên tại cổng rồng.
Không còn được gặp Dương Ý, nên đọc thiên lăng vân mà tự tiếc.
Nhưng đã gặp Chung Kỳ, thì tấu khúc lưu thuỷ có hổ thẹn gì.

Than ôi!
Chốn danh thắng chẳng thường tồn tại; bữa tiệc lớn khó gặp hai lần.
Lan Đình còn đâu nữa, Tử Trạch thành gò hoang.
Hân hạnh được thừa ân Diêm công trong bữa tiệc vĩ đại này, tôi viết lời tặng khi lâm biệt.
Còn như lên cao làm phú, đó là việc mong mỏi nơi các ông.
Xin dốc lòng thành quê kệch; cung kính làm bài tự ngắn.
Trước ngỏ một lời, sau bày tình ý; đồng thời bốn vận đều xong.
Mời rảy nước sông Phan, cùng làm cho nghiêng mây trong đất liền lẫn mây ngoài biển vậy.

Bên sông, đây gác Đằng Vương.
Múa ca đã tắt, ngọc vàng nào ai ?
Cột rồng Nam Phố mây bay.
Rèm châu mưa cuốn ngàn Tây, sớm chiều.
In đầm, mây vẩn vơ trôi.
Tang thương vật đổi, sao dời mấy thâu.
Đằng vương trong gác giờ đâu ?
Trường Giang nước vẫn chảy mau mé ngoài.

 

Nguồn: Hán văn - Trần Trọng San

Share this post


Link to post
Share on other sites

Do có liên quan tôi trích lại các bài viết bên mục Ý nghĩa của biểu tượng thần thánh Linga - Yoni, nhằm có cái nhìn liên tục.

 

Để giả quyết các vấn đề đã nêu ví dụ Hậu Thiên Bát Quái và Tiên Thiên Bát Quái, cũng cần quay trở lại cấu trúc của hệ mặt trời.

 

Hệ mặt trời theo thiên văn hiện đại

solar-system_500.jpg

 

Hệ mặt trời theo quy ước Âm Dương Ngũ Hành

284.jpg

 

Thông số của các hành tinh

 

12.jpg

 

Căn cứ vào sao Kim ở vành đai trong hệ mặt trời có thuộc tính quy ước là dương kim, do vậy tồn tại sao Diêm Vương thuộc tính quy ước âm kim, vấn đề này cũng giống như địa cầu - dương mộc và sao Mộc - âm mộc vậy. Cho nên, chắn chắn phải tồn tại trên thực tế sao Diêm Vương nhằm đảm bảo tính đầy đủ của một hệ Âm Dương Ngũ Hành - tức Hệ mặt trời sẽ có 10 hành tinh. Từ đó, chúng ta rút ra một số vấn đề:

 

- Nguyên lý: "Dương trong Âm ngoài". "Dương tịnh Âm động": Mặt trời là tịnh tương đối so với các hành tinh quay chung quanh nó. "Âm thuận tùng Dương".

- Mặt trời: dương thổ.

- Địa cầu: dương mộc, chu kỳ 1 năm quanh chung quanh mặt trời - dương thổ (nhấn mạnh ở đây: chỉ có hành dương mộc mới sinh ra sự sống). Mặt trăng là một vệ tinh riêng của Địa cầu, ảnh hưởng tới quy luật lên xuống của thủy triều, chu kỳ sinh sản...

- Sao Mộc (Thái Tuế): âm mộc, chu kỳ 12 năm. Bộ đôi sao Mộc và Địa cầu hành mộc có chu kỳ chung 12 năm, tạo nên cấu trúc Địa chi, kết hợp quy tắc "sinh - vượng - mộ" (chú ý dựa trên sự tương tác theo Hậu Thiên Bát Quái) của vạn vật hữu tình.

- Tương tự, sự kết hợp giữa Mặt trời - dương thổ và sao Thổ - âm thổ tạo nên cấu trúc độ số 5, 10 của hành thổ trung tâm Hà đồ. Điều này không có nghĩa là Mặt trời - độ số 5 và sao Thổ - độ số 10, mà ở đây thể hiện bản chất tương sinh của thuộc tính sự vật, hiện tượng và tính quy luật các con số tương ứng được khám phá ra. Đây là vấn đề mà khi nhìn vào Hà đồ hành thổ trung tâm độ số 5, 10 dễ "nhầm" cho rằng Mặt trời là hành thổ nhưng không phân ra âm/ dương. Như ở trên, Mặt trời có thuộc tính quy ước là dương thổ.

- Vành đai hành tinh bên trong: Dương.

- Vành đai hành tinh bên ngoài: Âm.

- Vành đai thiên thạch: vùng đệm phân cách Âm Dương (hiệu chỉnh và tự cân bằng cho Âm / Dương).

- Bội số chung chu kỳ cho Vành đai hành tinh bên trong, dương và Vành đai hành tinh ngoài gồm sao Mộc, Thổ: 60 năm - Lục thập hoa giáp: tích hợp giữa Thiên can (Lý tương sinh của Hệ mặt trời) và Địa chi (Lý tương tác theo dòng tương sinh mang tính quy luật tới Địa cầu và sao Mộc, trong đó Địa cầu có vạn vật hữu tình được lấy làm chủ thể nhận tương tác đó, thậm chí ngay cả một bộ phận hoặc cả Địa cầu cũng được lấy làm chủ thể).

- Nguyên lý: "Dương trước Âm sau".

- nguyên lý: "sinh - vượng - mộ" được xem xét đối với vạn vật hữu tình.

- Lịch pháp: Âm lịch và Dương lịch.

 

Tuế sai

trai-dat-tuong-lai2.jpg

 

Năm mặt trời (khởi đầu mùa xuân phải tuân theo Âm lịch tức xác định điểm Đông Chí)

traidat.png

 

Chu kỳ mặt trăng

h1%20compress.jpg

 

Góc nghiêng quỹ đạo mặt trăng

tilt.jpg

 

 

Đây là những kết luận để có thể hiểu sâu hơn về các quy ước, khái niệm liên quan như Hà đồ, Lạc thư, Lục thập hoa giáp, Thiên can, Địa chi, Ngũ vận lục khí... chẳng hạn, có quý vị hỏi: Hà đồ và Lạc thư là cái gì? Đây là một câu hỏi đã quá xưa cũ nhưng cực khó đấy!

 

HaDo-LacThu1.png

 

 

274_zps0af6f030.jpg


Qua nhận định phối hợp giữa thiên văn Đông phương và những khám phá về hệ mặt trời của thiên văn hiện đại đã cho chúng ta thấy có sự chính xác về mặt số lượng hành tinh, đó là 10 hành tinh. Đối với mặt trời, theo Lý học Đông phương, được phân loại Âm Dương Ngũ Hành với thuộc tính quy ước "dương thổ", điều này cho thấy tính tự thân của thành phần trung tâm cũng phải phân ra Âm/ Dương.

 

Sự đầy đủ cấu trúc hành tinh Âm Dương Ngũ Hành ở đây cho chúng ta thấy rõ về 1 tổ hợp Âm Dương Ngũ Hành, tổ hợp này sẽ vận động theo công thức Hà đồ - Lạc thư. Tôi muốn nhấn mạnh ở đây là công thức Hà đồ đã được bàn từ cổ chí kim, ngay trên các diễn đàn liên quan đến Lý học cũng thường xuyên đề cập, tuy nhiên thực sự là vẫn chưa rõ bản chất của nó là gì!

 

Hà đồ thể hiện lý tương sinh của quy luật tổng thể sau khi đổi Tốn Khôn

69h.jpg

 

 

Lạc thư thể hiện lý tương khắc nhằm điều chỉnh các mối tương quan với Hà đồ

ma-phuong-lac-thu1.jpg.png

 

 

Một cách tương ứng về bản chất, thì bất kỳ một hành tinh nào trong hệ mặt trời cũng sẽ vận động theo Hà đồ - Lạc thư, chúng ta lấy đối tượng chủ thể là trái đất.

 

Hà đồ của địa cầu (nếu xét chưa được phối hợp với Hậu Thiên Bát Quái)

15dop6c.jpg

 

 

Đến đây thì chúng ta đã hiểu rõ cấu trúc Hà đồ - Lạc thư rồi. Tuy nhiên, khi chúng ta định vị trên trái đất, tức chọn trái đất là chủ thể nhận tương tác, thì sẽ xảy ra những nhận định: Trái đất (Hà đồ - Lạc thư)/con đang vận động trong một hệ mặt trời (Hà đồ - Lạc thư)/mẹ sẽ nhận những chủng loại tương tác có quy luật từ hệ mặt trời - khách thể. Đồng thời, cũng có nhận định chi tiết hơn về sự sinh trưởng của các loài thực vật (được lấy làm biểu tượng Cây Đời Sống chứ không phải con người hay động vật nào đó) trải qua bốn mùa xuân, hạ, thu, đông.

 

Đối với hệ mặt trời là khách thể đang vận động theo công thức Hà đồ - Lạc thư mẹ, thì quy luật tương sinh này bao trùm, tức quy luật của Thiên Can như chúng ta thấy.

 

Dòng khí tương tác Thiên Can vận động

ly_dich_JMDM.jpg

 

Đối với trái đất là chủ thể đang vận động theo công thức Hà đồ - Lạc thư con, trên nó có thực vật sinh sống, trải qua chu kỳ bắt buộc của Hà đồ con trong một năm trái đất quay quanh mặt trời, nhưng dòng vận động chịu tương tác theo quy luật xuân - hạ - thu - đông tức mộc - hỏa - kim - thủy. Cùng với các dữ kiện khác như: sao Mộc vận động chu kỳ 12 năm, trái đất chu kỳ 1 năm, mặt trăng quay xung quanh trái đất 12 vòng... mà các nhà Lý học cổ xưa khám phá ra Địa Chi (với sự chú ý dặc biệt về sự sống trên trái đất - dương mộc có cây xanh, chu kỳ 1 năm và sao Mộc - âm mộc, chu kỳ 12 năm, không có thực vật).

 

Dòng khí tương tác Địa Chi vận động

Thienbantuvi01.jpg

 

 

Địa Chi chính là quy luật tương tác tới trái đất quay quanh Mặt trời trong sự phối hợp đầy đủ Âm Dương giữa Trái đất (1 năm) - dương mộc và sao Mộc (12 năm) - âm mộc (với sự nhận biết thông qua chu kỳ Mặt trăng, cũng là một điểm tham chiếu). Điểm hay ở đây là chu kỳ sinh - vượng - mộ và 4 cung hành thổ chuyển tiếp từ các hành khác nhau trong quá trình tương sinh của quy luật tương tác, ở đây quy luật này chính là Hậu Thiên Bát Quái và chỉ với chủ thể là trái đất, cây xanh, động vật, con người mà thôi.

 

Hậu Thiên Bát Quái sau khi điều chỉnh Tốn Khôn

HauthienlLacViet01.jpg

 

 

Không chỉ vậy, Địa chi ngoài nhận thức về vạn vật như cây xanh, mà còn chính là tương tác tới trái đất theo Hậu Thiên Bát Quái. Hậu Thiên Bát Quái này khi xét trong hệ mặt trời thì là từ toàn hệ mặt trời đi tới chủ thể Trái đất, và khi xét trong hệ thiên văn lớn hơn cũng vẫn là chính nó, tuy nhiên sẽ có những công thức khác nữa như Huyền không phi tinh chẳng hạn, tất nhiên Huyền không phi tinh sẽ vận động tuân thủ quy luật Hà đồ.

 

Hậu Thiên Bát Quái phối Địa cầu

15dop6c.jpg

 

 

La kinh sau khi chỉnh Tốn Khôn

BCungViet07.jpg

 

 

Huyền không phi tinh phối Hà đồ (dùng tên gọi phối công thức)

phi-tinh-05.jpg

 

 

Sau khi nhận xét tổng quát như vậy, chúng ta quay trở lại Bảng lục thập hoa giáp. Địa cầu chủ thể nhận tương tác theo quy luật Địa Chi với sự quay quanh mặt trời chu kỳ một năm và nhận tương tác từ toàn thể hệ mặt trời theo quy luật khách thể Thiên Can, ở đây Thiên Can là quy luật chính và quy tắc sinh - vượng - mộ của một hành nào đó đã được nhận biết. Đồng thời, giữa khách thể hệ mặt trời (Thiên Can) và chủ thể Nhân trên trái đất luôn tạo nên 5 trạng thái tương quan lẫn nhau: sinh, khắc, hòa, bị sinh, bị khắc.

 

Mặt khác, điểm bắt đầu liên kết khởi thủy giữa 5 trạng thái trên là từ "mốc" Giáp Tý cũng đã khám phá (sẽ phân tích sau) để từ đó có Bảng lục thập hoa giáp (30 năm Dương, 30 Âm).

 

LacthuHG05.jpg

 

 

256h.jpg

 

 

"Vận khí" ở đây là "trường khí được tạo ra" trên trái đất tại thời điểm "giao" giữa Thiên Can và Địa Chi, tức khi một con người, động vật, thực vật được sinh ra trong thời điểm này sẽ nhận "thuộc tính" riêng dựa trên Thiên Can làm chủ (hệ mặt trời là mẹ của trái đất). Điều này có thể hiểu như sau:

- Hệ mặt trời: khách thể mẹ.

- Trái đất: chủ thể con, nhưng trái đất tại một thời điểm trên nó có "con người..." được sinh ra, tức "Con người" đã trở thành chủ thể và lúc này, Hệ mặt trời và trái đất là khách thể liên hợp. Ý nghĩa này mang mật mã rõ ràng về Thiên - Địa - Nhân hợp nhất.

 

Từ đó, chúng ta sẽ thấy: Thiên Can (Gốc) -> Địa chi (Cành) -> Lục thập hoa giáp (Hoa của cây) và động vật, Nhân (động vật, con người) là Quả đậu ra từ Hoa.

 

Tuy nhiên, khi chúng ta quan sát một công thức đặc biệt khác là bộ môn Huyền không phi tinh ở trên, nó tuân thủ chiều phi tinh trên Hà đồ (nghịch hoặc thuận) nhưng không tuân thủy công thức tương tác Hậu Thiên Bát Quái - Hà đồ, tại sao vậy? Bởi đây là quy luật ở một hệ thiên văn khác, nhưng nó vẫn phải tuân thủy quy luật tương sinh như của Thiên Can với chủ thể nhận tương tác vẫn là Trái đất.

 

Qua bảng Lục thập hoa giáp, khi xét đến Bát Trạch phong thủy về các hướng hợp với cá nhân, thì chỉ có hai loại người Âm/ Dương phù hợp với 8 hướng của Hậu Thiên Bát Quái, vấn đề này ở đây sẽ được hiểu như thế nào? Bản chất chính là trái đất tự quay quanh mình nó tạo ra từ trường trái đất, đây phải chăng chính là nguyên nhân! Điều này cho thấy, cần xem xét phương pháp phong thủy mang tính lý thuyết thống nhất cao là Bát Trạch và Huyền Không phi tinh, rồi mới đến Loan Đầu và Dương trạch.

 

Menhcungbattrach.jpg

 

 

La kinh chỉnh Tốn Khôn

3231_zps2af9b052.jpg

 

 

Cũng như hệ mặt trời, trái đất vận động theo quy luật Hà đồ - Lạc thư, thì quy luật dòng trường khí vận động theo Thiên Can vẫn đang phát huy và ảnh hưởng toàn diện đến quy luật vận động của trái đất, và ngay cả con người sinh sống trên nó, chưa kể Hệ mặt trời đang vận động dựa trên công thức Hà đồ - Lạc thư, vì vậy phải chăng ta có sự phối hợp:

 

Thiên Can phối Hà đồ (được phối Hậu Thiên Bát Quái để nhận thức thêm về tổ hợp tương tác tại một thời điểm lên cùng một sự vật, hiện tượng)

112h.jpg

 

 

Ở đây, chúng ta chưa xét về mặt quy ước Độ Số!

 

Qua đó, có thể thấy các công thức ở trên mô phỏng những tổ hợp tương tác từ các khách thể tới các chủ thể đã chọn:

 

- Hệ mặt trời tự quay quay chính nó, cấu trúc trường khí vận động trong nó theo công thức Hà đồ - Lạc thư. Dòng khí vận động theo lý tương sinh của Hà đồ là Thiên Can.

- Trái đất tự quay quanh mình nó, tạo nên từ trường và trường khí vận động trong nó vẫn chính là công thức ở trên Hà đồ - Lạc thư. Trường khí vận động tương tác mà trái đất nhận được theo Địa Chi (sự phát triển của Hậu Thiên Bát Quái).

- Động thực vật, con người trên Trái đất chịu tương tác theo quy luật phối hợp giữa Thiên Can (sinh) -> Địa Chi (sinh) -> Vạn vật với thuộc tính tuân thủ Lục thập hoa giáp. Vạn vật vẫn tuân thủ công thức Hà đồ - Lạc thư và nhận quy luật tương tác của dòng khí vận động theo Địa Chi tức Hậu Thiên Bát Quái, để từ đó chúng ta thấy công thức Hậu Thiên Bát Quái phối Hà đồ.

- Riêng cho trái đất ở trạng thái tự quay quanh mình nó tạo ra từ trường, thì mỗi cá nhân ngay khi sinh ra có thuộc tính trong bảng Lục thập hoa giáp sẽ tương ứng Tây hoặc Đông tứ trạch của bộ môn Bát Trạch nữa.

- Không chỉ vậy, còn phải xem xét tiếp công thức Thiên Can phối Hà đồ là như thế nào? Và như đã biết, trong Lục thập hoa giáp thì Thiên Can quyết định thuộc tính của mỗi Con Người khi sinh ra, điều này chỉ rõ sự tất nhiên và hợp lý của Thiên Can có quan hệ như thế nào với Hà đồ - Lạc thư! Để từ đó, nhận thức được bộ môn Độn Giáp và khái niệm "Hóa Khí".

- Riêng đối với Huyền không phi tinh, rõ ràng ở đây chúng ta không thấy công thức Hậu Thiên Bát Quái mà chỉ thấy quy luật dòng trường khí vận động thông qua Cửu Cung tức Hà đồ một cách liên tục 9x9 trường hợp thay đổi, mỗi trường hợp dịch chuyển cho 1 năm. Quy tắc 9x9 cho mỗi năm này đã chứng tỏ có những quy luật tương tác khác nằm ngoài hệ mặt trời tới trái đất theo công thức Huyền không phi tinh.

- Chúng ta chưa nói đến bộ môn Thái Ất hay Tử Vi (với thiên bàn lập trên quy luật tương tác dựa trên công thức Địa Chi phát triển từ Hậu Thiên Bát Quái). Thái Ất với quy luật tương tác chu kỳ 3 năm vào 1 cung, nhưng không vào trung cung, đã chứng tỏ một quy luật tương tác khác nữa từ hệ thiên văn ngoài hệ mặt trời, nhưng lại theo công thức Hậu Thiên Bát Quái 8 cung, sau 24 năm lặp lại.

- Chúng ta vẫn chưa nói đến Tiên Thiên Bát Quái. Từ đó, quy tắc lập 64 quẻ của Kinh Dịch là dựa trên Tiên Thiên Bát Quái hay Hậu Thiên Bát Quái?

 

Ghi chú:

- Qua đó, chúng ta thấy rất rõ rằng: tại một thời điểm trên trái đất, với chủ thể là Con Người nhận được một số tổ hợp tương tác, đặc trưng nhất là theo 1 năm bởi vì bộ môn Huyền không phi tinh, chưa kể bộ môn Thái Ất, rất là phức tạp chứ không đơn giản. Điều kiện kiên quyết chính là phải thấy được công thức Hà đồ - Lạc thư hàm nghĩa gì!

- Con người: có thuộc tính từ Lục thập hoa giáp. Toàn bộ Con Người trong dòng vận động của công thức Hà đồ - Lạc thư dưới quy luật điều khiển của Thiên Can. Con Người đang nhận tượng tác theo quy luật của Thiên Can và Địa Chi trong Hệ mặt trời, đồng thời cũng nhận các quy luật tương tác lớn khác ngoài Hệ mặt trời như Huyền không phi tinh, Thái Ất, Tử Vi...

- Chúng ta cần thiết phải giải phóng được nguyên lý của Bát Trạch áp dụng cho mỗi Con người ngay tại thời điểm sinh ra. La kinh (la bàn và kim chỉ Nam) chính là dùng để định vị phương hướng và cấu trúc phẳng Hà đồ - Lạc thư.

- Rồi từ đó nhận thức được khái niệm quan trọng "Hóa khí, hóa vật, hóa sinh...", có nghĩa rằng trường khí Thiên (tùy hệ thiên văn) áp đặt lên Con Người - đang ở một trạng thái có thuộc tính nào đấy sẽ bị "Hóa" bắt buộc. Và từ đó, khi triển khai Phong thủy để dùng các phương pháp, chẳng hạn trấn yểm để "Hóa" thành kết quả nào đấy vậy. Ta có thể lấy ví dụ, 1 người tuổi Kỷ Sửu, trong năm Giáp sẽ có tương tác hành Mộc - Giáp tới thuộc tính cá nhân sinh năm Kỷ Sửu -> sẽ có những thay đổi tùy nghi tương ứng...

- Khi nhận thức được Hậu Thiên Bát Quái, Hà đồ - Lạc thư và Con người, động vật, thực vật thì sẽ nhận định tại sao Hậu Thiên Bát Quái với Ly trên Khảm dưới và Tiên Thiên ngược lại, trong sự phối hợp xem xét tổng thể các mối quan hệ giữa các hệ thiên văn khác nhau.

- "Hà đồ - Lạc thư" là một tổ hợp không tách rời, gọi chung là "đồ thư Hà Lạc" = "đồ thư Kinh Lạc" cho thấy kinh mạch muộn nhất đã có từ thời Hạ Vũ, nếu nghiên cứu Đông y thì cấu trúc liên hợp này rất rõ ràng (sách Hoàng Đế nội kinh tố vấn, Hoàng Đế nội kinh linh khu...).

 

Vấn đề nảy sinh:

- 12 cung Hoàng Đạo của thiên văn Tây Phương thực chất chưa hiểu ở 4 cung Mộ - hành Thổ, do vậy không thể là gốc gác từ đấy được.

- Các phân tích ở trên chưa nói đến nếu chúng ta chọn một chủ thể khác trái đất, ví dụ là sao Hỏa chẳng hạn để phân tích, với điều kiện không có sự sống.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Về mặt tổng thể, chúng ta phải hiểu rõ quy ước về trái đất trong Lý học Đông phương, không khác gì hơn chính là về sự định vị trên trái đất bằng La kinh (kim chỉ Nam), để từ đó định vị được phương vị của Hà đồ - Lạc thư.

 

Dựa vào kim la bàn, ta hoàn toàn xác định Trái Đất như một nam châm khổng lồ có từ cực Nam nằm ở địa cực Bắc và từ cực Bắc nằm ở địa cực Nam. Thực tế, từ cực và địa cực không trùng nhau. Trục quay của Trái Đất và trục của "nam châm khổng lồ" hợp với nhau một góc 11 độ.

 

tutruong_traidat_2-1.jpgtutruong_traidat_3.jpg

 

tutruong_traidat_1-2.jpg3_8522_6632913183225312500.JPG

 

Trục từ trường và trục quay Trái đất xung quanh ngôi sao Thiên cực bắc (nay là sao Bắc Cực của chòm Tiểu Hùng) tạo một góc 11 độ ở đây là do Trái đất tự quay quanh trục và quanh xung quang Mặt trời là đường Xích đạo. Có một chú ý ở đây, đường sức "ra Bắc vào Nam".

 

Khoa học viết:

Khác với một thỏi nam châm, từ trường Trái Đất thay đổi theo thời gian, do sự thay đổi trong chuyển động của hợp kim sắt nóng chảy ở lõi ngoài của Trái Đất. Trái Đất cũng như các hành tinh khác trong Hệ Mặt Trời, ngay cả Mặt Trời và các ngôi sao khác cũng vậy, tất cả tạo ra từ trường thông qua chất lỏng dẫn điện cao.

 

Từ trường của Trái Đất bắt nguồn từ bên trong lõi của nó. Đây là khu vực có chứa hợp kim sắt với bán kính lên đến khoảng 3400 km. Lõi của Trái Đất gồm 2 lớp: lõi rắn ở bên trong (bán kính 1220 km) và lõi lỏng ở bên ngoài. Sự di chuyển của chất lỏng lõi ngoài được thúc đẩy bởi dòng nhiệt đi từ lõi bên trong, khoảng 6000 K, đến ranh giới giữa lõi bên ngoài và lớp phủ.

 

Cau_tao_lop_vo_trai_dat1.jpg      11074844-td4.jpg

 

20140218092351-140218bai7a10.jpg

 

Phân mảnh kinh tuyến và vĩ tuyến Trái đất, Việt Nam ở kinh độ khoảng 105 - 108 (kinh, vĩ là các khái niệm trong Lý học có từ thời cổ đại rồi)

world_map_screenshotcopy_zps70be3c14.png

 

Lý luận ở đây là mặt phẳng Kinh tuyến chuẩn dựa trên nguyên tắc gì để được chọn làm mặt trục "0".

 

Kinh độ là các đường tròn chạy xung quanh Trái Đất và phải đi qua Bắc Cực và Nam Cực. Tổng cộng, có 360 đường kinh tuyến, một đường cho một độ. Chúng bao gồm từ -180 đến 180 độ, trong đó 0 độ là đường chạy qua Greenwich, Anh. Đường -180 và 180 có thể thấy ở Thái Bình Dương tại một địa điểm nổi tiếng được biết đến như Đường đổi ngày quốc tế.

 

Do vậy, việc định vị Hà đồ - Lạc thư vẫn tuân thủ hoàn toàn theo phương hướng trên La kinh tức định vị trục từ trường Trái đất theo kim chỉ Nam của la bàn. Thời cổ đại, văn hóa Việt xem con rùa như là một biểu tượng của chiếc chiếc la bàn do loài rùa dùng cảm ứng từ trường địa cầu để di trú và sinh sản.

 

La bàn "rùa" trên biển cả mênh mông

seaturtle.jpg

 

Thủy triều ảnh hưởng bởi Mặt trăng

mat-trang2-size-357x219-znd.jpg

 

Rất độc đáo, chiếc trống đồng Đông Sơn trên đảo Borneo ở Sabah - thuộc Malaysia, với bề mặt trống nhô ra hai phía tượng trưng cho thủy triều trên mặt trái đất, đây là chiếc trống đồng được "thửa" riêng cho hòn đảo to lớn này và là chiếc trống duy nhất có hình bề mặt như vậy trên thế giới. Trống Sabah có tên gọi chính là "trống thủy triều" hay "Trống Trăng". Đây chính là chiếc trống đồng gốc gác của tên gọi Trống Trăng sau này của vùng biển đảo Indonnesia.

 

Trống Trăng Sabah (Thật linh dị và độc đáo)

20140824_24-big.jpg

 

 

Mô hình ánh sáng và tương tác từ Mặt trời

141.jpg

 

 

 

vutru242435474.jpg?width=500

 

Các điểm định vị mùa theo Dương lịch ở đồ hình trên là không chính xác, phải tuân thủ theo Âm lịch.

 

ngandaicuatietkhi.jpg

 

Hiện tượng tiến động (tuế sai) của trục Trái đất sau 25.920 năm trở lại vị trí ban đầu.

 

mt1.jpg

 

trai-dat-tuong-lai.jpg   trai-dat-tuong-lai2.jpg

 

Ngoài hiện tượng tiến động của trục trái đất, chúng ta nên nhớ Trái đất di chuyển quay quanh Mặt trời không phải trên đường Xích đạo dạng Elip trơn, mà là một đường dạng hình "Sin" gọi là hiện tượng Chương động.

 

Hiện tượng chương động

volgyesi13057.jpg

 

Đây là những đặc trưng toán học trong Lý học Đông phương đối với các bài toán tương tác tới Trái đất.

 

Ghi chú:

 

- Khi một con người sinh ra thì đã thuộc vào người mệnh Đông tứ trạch hoặc Tây tứ trạch rồi!: Hệ mặt trời -> Trái đất -> Sinh ra một Nhân tại một thời điểm nào đó của Lục thập hoa giáp. Đây là bài toán của bộ môn phong thủy Bát Trạch.

- Riêng Con người, có một đặc điểm là đầu đội trời chân đạp đất, đầu nhận Thiên khí giáng xuống, chân hay đốt xương sống cuối nhận Địa khí thăng lên.

- Mỗi con người cũng là một tổ hợp của Hà đồ - Lạc thư. Khi ở một căn nhà nào đó (ngôi gia), tức đã xác định được phương vị của ngôi gia tại nơi đó thông qua La kinh, đây là định vị "khu vực quy ước" theo La kinh nhằm xác định chính xác cấu trúc Hà đồ - Lạc thư đặc trưng tại nơi đó, tức định hình được trạng thái "phương vị ứng với từ trường Trái đất" tại đó vậy.

- Người chủ gia đình với đặc trưng của thuộc tính Đông hoặc Tây tứ trạch thì phải hợp một ngôi gia có phương vị bát Trạch tương ứng, nhằm hòa hợp với địa từ trường trái đất tại ngôi nhà đó.

- Việc chia kinh độ và vĩ độ ngày xưa, được lấy Kinh tuyến gốc "0" đi qua tâm của kinh đô (kinh độ) Văn Lang, Bạch Long thành, gọi là "Giao Chỉ" - tức nơi giao của kinh tuyến và vĩ tuyến, mặc dù vĩ tuyến gốc không đi qua Bắc Việt Nam (đảo Borneo thuộc Indonesia và Malaysia là các bộ thuộc Văn Lang). Nội hàm rất sâu xa, Giao Chỉ trên địa cầu cũng tương ứng vị trí thiên văn của chòm sao Đại Hùng - trung tâm của Nhị thập bát tú trên bầu trời phương bắc.

 

Trong chiếu dời đô ra Thăng Long, vua Lý Thái Tổ cho rằng: Nơi đây là trung tâm của trời đất, được thế rồng bay hổ ngồi, đúng điểm kết tụ bốn phương Đông, Tây, Nam, Bắc.

 

Phương pháp luận nào để có Đông - Tây tứ trạch vậy?

Chúng ta cũng lưu ý: trong Lạc thư hoa giáp thì Giáp Tý khởi đầu là từ hành Kim, thuộc trạng thái Vận Khí khắc Thiên Can, nguyên tắc nào lại như vậy, đây là một câu hỏi chưa có lời giải đáp thuyết phục.

 

- Thiên (Thiên Can) -> Địa (Địa Chi) -> Nhân (Lục thập hoa giáp)

 

 Thiên -> Nhân: Vận khí khắc Thiên Can - Vận khí sinh Thiên Can - Vận khí hòa Thiên Can - Thiên Can sinh Vận khí - Thiên Can khắc Vận khí.

 

Địa -> Nhân? trong mối tương quan như thế nào khi mà Thiên Can điều động Hà đồ - Lạc thư của Nhân đó (Vận khí)!

 

TÍNH CHẤT 8 CUNG GIỮA VIỆT VÀ HÁN
1 - Vấn đề.
Đồ hình dưới đây được một Phong thủy gia Đài Loan công bố vào khoảng những năm 60 của thế kỷ 20. Trên đồ hình này - căn cứ theo Lạc Thư phối Hậu Thiên Văn Vương - quan niệm rằng:
Cung Khảm - chính Bắc = Sự Nghiệp.
Cung Cấn - Đông Bắc = Tri Thức.
Cung Chấn - Chính Đông = Sức Khỏe.
Cung Tốn - Đông Nam = Hôn Nhân.
Cung Ly - Chính Nam = Danh tiếng - Địa vị.
Cung Khôn - Tây Nam = Phú Quý.
Cung Đoài - Chính Tây = Con cái.
Cung Càn - Tây Bắc = Quí Nhân.

 

Phương pháp ứng dụng của đồ hình này nhanh chóng được phổ biến và được các phong thủy gia ứng dụng và quả là có tác dụng ở mức độ nào đó. Lưu ý rằng trên đồ hình này, những phương vị thuộc Tây trạch màu đỏ và Đông trạch màu vàng - theo cổ thư chữ Hán.

 

ĐỒ HÌNH TƯƠNG QUAN BẢN MỆNH VÀ BÁT QUÁI
Theo bản văn chữ Hán

batquaimenhcungzz.jpg

 

 

 

Nhưng cũng với tính chất đó, theo sự nghiên cứu của tôi sau khi đổi chỗ Tốn Khôn và phối Hà Đồ ứng dụng trong trường hợp này, chúng ta sẽ có một đồ hình như dưới đây và lưu ý là Tây Tứ trạch hiển thị màu vàng và Đông Tứ trạch màu đỏ:

ĐỒ HÌNH TƯƠNG QUAN BẢN MỆNH VÀ BÁT QUÁI
Theo Phong Thủy Lạc Việt.

8CUNG.jpg

 

Chúng ta có thể có nhận xét:

- Một người Đông hoặc Tây tứ trạch (Âm Dương) chỉ có 4 cung hợp, 4 cung còn lại bị khuyết dành cho đối tác vợ hoặc chồng. Đã viết rồi, lại quên, hình như theo Huyền Không phi tinh để xác định? Tại một thời điểm ra đời, Cá nhân thuộc một trong Lục thập hoa giáp, tuy nhiên ngay trong năm đó thì Trái đất được bao phủ bởi trường khí của Huyền không phi tinh - đây là một trường khí lớn di chuyển theo quy luật của Hà đồ. Lúc này Cá nhân vừa sinh ra sẽ chịu tương tác Cửu khí trên Hà đồ của chính họ, Do vậy 9 trường khí hay 8 trường khí Bát Quái của Huyền không phi tinh sẽ ứng với Bát trạch của bản mệnh cá nhân này để tạo ra cấu trúc khắc/ sinh/ hòa/ bị sinh/ bị khắc của Âm Dương Ngũ Hành.

Như vậy, chắn chắn dựa trên năm sinh hàng loạt cá nhân liên tục để tìm ra phương pháp tính Đông Tây tứ trạch, và chắn chắn là Huyền không phi tinh ở cấp độ lớn.

Con người Nam và Nữ sinh cùng ngày, tháng, năm chẳng hạn, làm ví dụ.

- Giống như "Ngũ vận lục khí" nếu có người con trai đầu mang mệnh "kim" là chính vị OK? Cho nên, các vua chúa truyền ngôi cho con trưởng. Con trưởng chịu trách nhiệm cúng tế tổ tiên trong văn hóa Việt.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Do từ trường trái đất lệch 11 độ 3 so với trục quay của trái đất hướng về sao Bắc cực, cho nên chúng ta cần xem lại công thức Hà đồ - Lạc thư. Đối với trái đất, hướng từ trường này chính là định vị trục bắc - nam từ tính của trái đất, đây chính là Hà đồ - Lạc thư của trái đất.

 

103808230_836192_erde_als_magnet.gif

 

Tuy nhiên, khi xem xét đồ hình Hậu Thiên bát Quái - Hà đồ phối địa cầu dưới đây, chúng ta sẽ thấy quan hệ mặt phẳng Hoàng đạo và phương từ trường bắc - nam. Nếu căn cứ góc lệch trục quay trái đất so với trục vuông góc mặt phẳng Hoàng đạo 23 độ 5 và độ lệch giữa trục từ trường trái đất với trục quay trái đất 11 độ 3, thì góc lệch còn lại giữa trục từ trường trái đất và trục vuông góc Hoàng đạo (Sửu Mùi) là (23.5 - 11.3) = 12.2 độ. Nhưng trục bắc - nam trên đồ hình là 23.5 độ, chính là độ lệch giữa trục quay trái đất và Hoàng đạo, cần xem xét.

 

Hậu Thiên bát Quái - Hà đồ phối địa cầu

 

hdhtdc.jpg

 

Xem xét tiếp La kinh định vị 24 sơn hướng, trục Tý - Ngọ định vị hướng bắc - nam (trong Tiên Thiên Bát Quái gọi là trục Định Vị) thì có mối quan hệ với Hà đồ phối địa cầu như thế nào! la kinh dùng định vị bắc - nam cho một vị trí nào đó trên Trái đất mà thôi, tùy vị trí và có độ lệch lẫn nhau gọi là Từ thiên.

 

3231_zps2af9b052.jpg

 

bai-giang-trac-dia-dai-cuong-bk-38-638.j

 

Nếu chúng ta quan sát La kinh, trục Tý - Ngọ là trục bắc - nam từ tính thì cách trình bày phải có độ lệch tương ứng với mặt phẳng Hoàng đạo, nếu trình bày có mặt phẳng Hoàng đạo. Tuy nhiên, chúng ta thấy Bát Quái trên La kinh với trục Tý - Ngọ vuông góc với Hoàng đạo: vì vậy, cách trình bày La kinh này hàm nghĩa Hà đồ - Lạc thư này không phải của Trái đất mà là của chính Mặt trời trung tâm. Vậy thì, Hà đồ - Lạc thư đang diễn họa của Mặt trời???. Ở đây, nếu Hậu Thiên Bát Quái - Hà đồ phối Địa cầu phải chăng có xuất hiện bốn cung hành thổ là Sửu - Mùi, Thìn - Tuất?

 

Mặt khác, tại sao người xưa lại đặt quái Ly trên Khảm dưới trên Hậu Thiên Bát Quái, đảo ngược lại so với Tiên Thiên Bát Quái? Vấn đề này cần xét chủ thể Con người trên trái đất.

 

Trước tiên, xét chiếc kim chỉ Nam quy ước khi đặt bất kỳ trên mặt địa cầu.

 

device-2013-09-02-213559.png

 

Do trái đất là một nam châm vĩnh cửu định vị hướng bắc - nam từ như đã viết, cho nên chiếc kim chỉ Nam sẽ phải đảo ngược hướng, tức nó định hướng nam - bắc. Điều này chỉ ra hướng Bắc của Trái đất là hướng Nam của kim la bàn, do vậy kim la bàn có màu đỏ khi chỉ hướng Bắc địa cầu. Chính vì vậy, quy ước này được dùng trình bày trên bản đồ cổ đại Văn Lang và các nước Ả Rập, Ấn Độ...

 

tuongtac_nc-nc.JPG

 

Con người chân đạp đất đầu đội trời nhưng cũng có vai trò như một nam châm, mặt khác như đã nói về Hà đồ - Lạc thư ở trên của mặt trời, từ đó cũng thấy công thức này cũng hoàn toàn là của Con người. Khi đó, Hậu Thiên Bát Quái là quy luật tương tác tới tương ứng với công thức của Hà đồ là Ly trên Khảm dưới dùng cho Con Người.

 

Hậu Thiên Bát Quái chưa đổi Tốn Khôn

 

clip_image0011.jpg

 

Nếu chúng ta nhận thức Hậu Thiên Bát Quái phối Hà đồ dùng cho con người thì rõ ràng, khác với Mặt trời bởi la bàn hay con người là "nam châm" khác so với trái "đất nam châm" so với "mặt trời nam châm", điều này khẳng định lại công thức Hà đồ với Ly trên Khảm dưới là công thức của "Con người" trên trái đất???.

 

Ở đây, chúng ta chú ý mặc dù gọi kim chỉ Nam nhưng trên thực địa vẫn gọi là hướng Bắc, do vậy khi áp dụng vào các môn phong thủy vẫn không có gì thay đổi, cho dù xoay Hậu thiên Bát Quái - Hà đồ kiểu gì kết quả chỉ là một, chỉ khác mỗi cái tên "chỉ Nam". Ngầm hiểu trục Tý - Ngọ hướng về chòm sao Bắc đẩu và thiên văn là thuộc phương Nam.

 

Như vậy, để thuận tiện và chính xác với trục từ tính địa cầu, chỉ cần xoay Hậu Thiên Bát Quái với quái Khảm trên Ly dưới là chuẩn xác trong các bộ môn phong thủy. Còn ngược lại thì phải quan sát dữ liệu của Đông y về cấu trúc Âm Dương Ngũ Hành và Hà đồ - Lạc thư tiếp!

 

Từ các vấn đề trên, có thể hiểu là khi không cần dùng la bàn, tức khi xét tương tác có quy luật tới 1 Con người thì tuân theo Hậu Thiên Bát Quái đặt Ly trên Khảm dưới (đầu - chân). Đấy cũng là lý do có phương pháp tu luyện "Chiết Khảm điền Ly" cho mỗi con người!

 

LADung-2-Lykham.gif

Share this post


Link to post
Share on other sites

TIÊN THIÊN BÁT QUÁI (vấn đề cực kỳ nan giải)

 

Nội dung đồ hình ký hiệu Tiên Thiên và Hậu Thiên bát quái (Trích từ: Tìm về cội nguồn Kinh Dịch, NVTA)

 

Với định nghĩa như trên, thì Tứ tượng chỉ là hình thức vận động của Ngũ hành trong sự chi phối của Âm dương. Điều này giải thích vì sao tượng của Ngũ hành nằm trong bánh chưng – thuộc Âm. Hiên tượng phát sinh này bắt đầu từ hành Thủy; như cổ thư đã ghi lại – được các nhà lý học thời Tống phát hiện công bố “Thiên nhất sinh Thủy, Địa lục thành chi …”. Do ảnh hưởng của Dương đã hình thành Âm – Ngũ hành và Dương – Ngũ hành.

Do đó, với câu “Tứ tượng sinh Bát quái” thì Bát quái chính là đồ hình ký hiệu cho sự vận động, tương tác của Ngũ hành (Sự tương quan giữa Quái vị và Ngũ hành đã được trình bày ở phần trên trong đồ hình Hà đồ và Hậu thiên Bát quái nguyên thủy). Đến đây một vấn đề được đặt ra là: Ngũ hành gồm 5 dạng tồn tại mà Bát quái lại chỉ thể hiện có 4 hành phân Âm dương là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa? Vấn đề này xin được lý giải như sau:

 

Thuyết Âm dương Ngũ hành quan niệm: hành Thổ là nơi qui tàng của 4 Hành còn lại. Khi sự vận động đến hành Thổ thì mọi sự lại bắt đầu. Như vậy, trong sự vận động của Ngũ hành thì chu kỳ kết thúc sẽ là dạng tồn tại của hành Thổ (Phải chăng hành Thổ trong dạng cấu tạo nguyên thủy có thể tìm thấy trong lỗ đen của vũ trụ?). Do đó, chỉ cần thể hiện sự vận động của 4 hành khí còn lại và phân Âm dương qua ký hiệu Bát quái, chu kỳ kết thúc ở Khôn (Thổ).

 

Sách “Tam mệnh thông hội” nói: “Ngũ hành không nói đến Thổ mà tứ hành đều thành Thổ cục. Vạn vật đều tàng trong đất”. (*)

 

* Chú thích: Dự đoán theo Tứ trụ, sách đã dẫn

Trên cơ sở phân tích những mâu thuẫn về khoảng cách xuất hiện vô lý giữa Tiên thiên và Hậu thiên đã trình bày ở phần II. Người viết xin được trình bày một giả thuyết và minh chứng về sự xuất hiện đồng thời của Bát quái Tiên thiên và Hậu thiên như sau:

 

Thuyết quái - Tiết 3 viết:
Thiên địa định vị, sơn trạch thông khí, chấn phong tương bạc thủy hỏa bất tương xạ, bát quái tương thố.
Số vãng giả thuận, tri lai giả nghịch, thị cố Dịch nghịch số dã.

Khi Âm dương đã phân biệt (thiên địa định vị) , sự vận động nguyên thủy của Ngũ hành chính là trạng thái khởi nguyên hỗn mang của vũ trụ. Hình ảnh hỗn mang này được khoa Thiên văn học hiện đại mô tả, trùng khớp với đồ hình ký hiệu của Tiên thiên Bát quái như sau:

 

Đồ hình minh họa
sự hình thành vũ trụ qua Tiên Thiến Bát quái

228.jpg

 

Hình elip ở giữa được vẽ lại từ cuốn Vũ trụ phòng thí nghiệm thiên nhiên vĩ đại (Nguyễn Quang Riệu – Nxb Giáo Dục 1995) miêu tả “phông vũ trụ” do nhóm thiên văn COBE thực hiện, tái tạo lại sự hình thành vũ trụ giai đoạn đầu.

 

Sự kết hợp với đồ hình Tiên thiên Bát quái cho chúng ta một hình ảnh trong truyền thuyết “Bà Nữ Oa vá trời” là: “Khí nhẹ và trong bay lên thành trời, khí nặng và đục tụ xuống thành đất”. Trong đồ hình Tiên thiên Bát quái trên đây: chúng ta thấy rằng: toàn bộ những quái có số hào Dương nhiều hơn đều ở phía trên, mà ở phần cao nhất là quẻ Càn (Càn tượng trời, trong kinh văn của kinh Dịch chưa bao giờ coi Càn là Thuần dương); những quái có số hào Âm nhiều hơn đều ở phía dưới, mà ở phần thấp nhất là quái Khôn (tượng đất). Trục Càn Khôn là trục thẳng đứng. Trên cơ sở này, chúng ta có thể hiểu sự “tụ xuống thành đất” chính là sự tụ lại hình thành các thiên thể (Trong vũ trụ không có sự phân biệt ở trên, ở dưới).

 

Nội dung của đồ hình Tiên thiên không chỉ cho thấy một hình ảnh tĩnh trong sự hình thành vũ trụ mà còn là sự vận động tiếp theo của nó: “Khí nhẹ và trong bay lên thành trời, khí nặng và đục tụ xuống thành đất”; thứ tự của các quái dù tính thuận hay nghịch đều cho thấy sự chuyển hóa từ Âm sang Dương và ngược lại. Đồ hình Tiên thiên còn cho thấy tính cân bằng động của các quái cùng tính chất đối xứng qua trục Càn Khôn (theo quan niệm về đặc tính Ngũ hành của Bát quái nguyên thủy, đã chứng minh ở trên).

 

Chấn (Dương Mộc)  Cấn (Âm Mộc).
Đoài (Dương Kim)   Tốn (Âm Kim)

 

Khi vũ trụ đã hình thành, thì sự vận động của trái đất trong ảnh hưởng của những sự tương tác từ vũ trụ – mà sự tương tác gần gũi là do vị trí và sự vận động của trái đất trong Thái dương hệ – chính là cơ sở để hình thành Bát quái Hậu thiên. Điều này giải thích vì sao Bát quái Hậu thiên đã lý giải tất cả mọi hiện tượng liên quan đến thiên nhiên và cuộc sống trên trái đất; trong đó có con người. Khoa học hiện đại đã chứng tỏ rằng: chính độ nghiêng của trái đất (23o5’) là nguyên nhân của hình thành 4 mùa. Trong đó theo thuyết Âm dương Ngũ hành thì: mùa Xuân thuộc Mộc, mùa Hạ thuộc Hỏa, mùa Thu thuộc Kim, mùa Đông thuộc Thủy, tuần hoàn theo lý tương sinh của Ngũ hành. Chúng ta sẽ thấy sự trùng khớp hoàn toàn giữa độ nghiêng của trục trái đất và sự vận động của 4 mùa và cấu trúc đồ hình Hậu thiên nguyên thủy với Hà đồ dưới đây:

 

Tất cả những sự trùng khớp của đồ hình Tiên thiên với hình trạng vận động hỗn mang đầu tiên của vũ trụ và đồ hình Hậu thiên Bát quái với sự vận động của trái đất trong sự tương tác của vũ trụ, đã lý giải đồ hình Tiên thiên và Hậu thiên phải xuất hiện đồng thời. Bởi vì, chỉ khi có con người trên trái đất mới có sự tìm hiểu vũ trụ. Từ sự tìm hiểu này đã dẫn tới một học thuyết vũ trụ quan cổ đại là thuyết Âm dương Ngũ hành và Bát quái chỉ là đồ hình ký hiệu thể hiện cho nội dung của học thuyết này.

 

Đồ hình minh họa
sự hình thành Hậu Thiên bát quái

230.jpg

 

Luận điểm về nội dung đồ hình Tiên thiên và Hậu thiên tiếp tục  lý giải những vấn đề sau đây:

 

@ Sự liên quan chặt chẽ giữa hệ thống ký hiệu 64 quẻ Tiên thiên Bát quái với những nội dung của hệ thống ký hiệu 64 quẻ Hậu thiên Bát quái; sự liên hệ này được chứng tỏ bằng phương pháp dự đoán mà ông Thiệu Khang Tiết công bố vào thời Tống. Phủ nhận luận điểm cho rằng có những hệ thống ký hiệu Dịch ngoài Tiên thiên và Hậu thiên như: Liên Sơn Dịch, Qui tàng Dịch, Trung Dịch… Cho dù có thể tìm thấy những bản văn cổ ghi nhận những hiện tượng này thì cũng chỉ là những sản phẩm hoặc do hiểu sai, hoặc do ngụy tạo, khi kinh Dịch đã mất đi hệ thống lý thuyết căn bản của nó.

 

@ Sự lý giải trên cũng chứng tỏ rằng Kinh Phòng, Mạnh Hỷ (*) hoàn toàn không phải là người đề xướng thuyết Quái khí, dùng “Quái” của Chu Dịch phối ghép với khí hậu 4 mùa. Họ chỉ công bố một di sản văn hóa đã có từ trước đó của một nền văn minh bị tàn phá. Người ta không thể phát minh ra một cái mà – cho đến tận ngày hôm nay – người ta vẫn không hiểu gì về nó. Tính phát hiện và công bố càng được chứng tỏ, khi hầu như những yếu tố căn bản của học thuyết Âm dương Ngũ hành chỉ được coi là “phát minh” vào đời Tống, như: Hà đồ, Lạc thư, đồ hình ký hiệu và hệ thống 64 quẻ Tiên thiên…

 

Chúng ta nên quan sát mặt trời và hành tinh không có sự sống.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Trước khi nói về hoạch quái - quy tắc xây dựng cấu trúc Quái của Tiên Thiên Bát Quái, cần phải quay trở lại tranh dân gian Việt Nam để nhận biết lại ý đồ của người xưa. Bộ tranh ngũ Hổ tượng trưng cho Hà đồ và Lạc thư, trên đó hổ vàng - hành thổ đè lên hộp ấn có chữ "Pháp đại uy nỗ" - Uy lực của pháp lớn hay Uy lực quy luật bao trùm.

 

Hà đồ (bên trái từ trong nhìn ra) - Lạc thư

Tranh dân gian Hàng Trống, Hà Nội, Việt Nam

20150402_155523.jpg

 

Trên tranh có 5 thanh kiếm và 5 cờ lệnh, mang ý nghĩa vòng vận động quy luật áp đặt tương sinh của Hà đồ, ở đây chúng ta không thấy trình bày Hậu Thiên Bát Quái. Như đã phân tích, công thức Hà đồ - Lạc thư chính là công thức mô tả quy luật vận động Âm Dương Ngũ Hành của hệ mặt trời, trái đất, con người... hay bất kỳ một sự vật, hiện tượng nào trong vũ trụ, cho nên nó mới gọi là quy luật bao trùm.

 

Hà đồ - Lạc thư được diễn họa dưới một hình thức khác (vòng lửa vũ trụ của thần sáng tạo Shiva)

thx-1371696666_500x0.jpg

 

Qua cấu trúc Âm Dương Ngũ Hành của Hệ mặt trời, chúng ta cũng nhận thấy Hà đồ (Dương) là lý tương sinh ở bên trong, còn Lạc thư (Âm) là lý tương khắc bên ngoài.

 

Cấu trúc Âm Dương Ngũ Hành của Hệ mặt trời

284.jpg

 

Ở đây không có Hậu Thiên Bát Quái, bởi vì nó mô tả một quy luật tương tác đặc trưng tới một chủ thể trái đất hoặc con người... Ví dụ, quy luật của Huyền không phi tinh là dòng vận động của trường khí trên công thức Hà đồ chứ không liên quan đến Hậu Thiên Bát Quái. Cho nên Hậu Thiên Bát Quái phối Hà đồ không thể nói là công thức bao trùm được.

 

Hậu Thiên Bát Quái phối Hà đồ

 

274_zps0af6f030.jpg

 

Còn đối với công thức Hậu Thiên Bát Quái - Hà đồ phối Địa cầu, vì trục từ trường trái đất lệch 11.3 độ so với trục quay trái đất cho nên trục Sửu - Mùi khả năng chưa chắc là vuông góc hoàn toàn với mặt phẳng Hoàng đạo như trình bày dưới đây.

 

Hậu Thiên Bát Quái - Hà đồ phối Địa cầu

164h.jpg

 

Dưới đây là biểu tượng của đường Hoàng đạo.

ecliptic.gifimage001.jpg

 

precession.gif

 

Earthorbit.jpg

 

Mặt phẳng hoàng đạo là mặt phẳng hình học chứa quỹ đạo Kepler chuyển động củaTrái Đất quanh Mặt Trời.

Đa số các hành tinh trong hệ Mặt Trời đều có quỹ đạo nằm gần mặt phẳng này. Lý do là chúng đều được hình thành cùng Mặt Trời từ một đĩa bụi Mặt Trời dẹt quay tròn trong một mặt phẳng gần trùng với mặt phẳng hoàng đạo.

 

Ecliptic_path.jpg

 

22120074-20130507150012-631782.jpg

 

Mặt phẳng hoàng đạo là mặt phẳng hình học chứa quỹ đạo Kepler chuyển động của Trái Đất quanh Mặt Trời.

Đa số các hành tinh trong hệ Mặt Trời đều có quỹ đạo nằm gần mặt phẳng này. Lý do là chúng đều được hình thành cùng Mặt Trời từ một đĩa bụi Mặt Trời dẹt quay tròn trong một mặt phẳng gần trùng với mặt phẳng hoàng đạo.

 

Nhìn từ Trái Đất, mặt phẳng này cắt thiên cầu tạo nên vòng tròn lớn, chứa các vị trí của Mặt Trời, so với nền sao, trong một năm. Chính vì vậy nên mặt phẳng này có tên hoàng đạo (đường đi của Mặt Trời). Vì một năm có khoảng 365,25 ngày (cụ thể là 365 ngày, 5 giờ, 48 phút, 16giây), nên mỗi ngày Mặt Trời di chuyển trên hoàng đạo khoảng 1°, theo chiều từ tây sang đông, ngược với chiều quay đông-tây của bầu trời trong 1 ngày.

 

Vấn đề thiên văn cổ Đông phương là ở đường Xích Đạo Trời của Thiên Cầu, đường di chuyển của mặt trời trên Thiên Cầu. tức hệ mặt trời quay xung quanh 12 cung Hoàng Đạo với chu kỳ 25.920 năm (Nhị thập bát tú và chòm sao Bắc Đẩu ở giữa). Trục thẳng đứng của Thiên cầu gọi là Trục Vũ trụ (Vũ trụ thu nhỏ là Thiên Cầu). Trục này cũng chính là trục Định vị trong Tiên Thiên Bát Quái vậy. Như vậy, Hà đồ cũng là công thức trình diễn sự vận động của Âm Dương Ngũ Hành của Thiên Cầu?

 

Trên đồ hình, Trái đất vận động trên đường Elip màu tím - Xích đạo trời với chu kỳ 25.920 năm và quay trục Vũ trụ thu nhỏ Thiên Cầu (PP'), cần kiểm tra lại chặt chẽ? Trục quay trái đất nghiêng một góc 23.5 so với trục vuông góc mặt phẳng Hoàng đạo.

 

Độ nghiêng trục Mặt trời so với trục vuông góc mặt phẳng Hoàng đạo rất nhỏ, < 2 độ -> điều này chứng tỏ Hệ mặt trời đang quay quanh trục vuông góc Hoàng đạo!

 

Độ nghiêng trục tự quay

Earth_obliquity_range.jpg

 

Chu kỳ Milankovitch là tên gọi cho hiệu ứng tổ hợp của các thay đổi trong chuyển động của Trái Đất lên khí hậu của nó. Độ lệch tâm, độ nghiêng trục và tuế sai của quỹ đạo Trái Đất biến đổi theo một số mô hình, tạo ra các chu kỳ 100.000 năm của thời kỳ băng hà trong sự đóng băng thuộc kỷ Đệ tứ thuộc vài triệu năm gần đây. Trục tự quay của Trái Đất hoàn thành một chu kỳ tuế sai trong khoảng 26.000 năm. Cùng thời gian đó, quỹ đạo elíp cũng tự quay (chậm hơn), dẫn đến chu kỳ 22.000 năm của các điểm phân. Ngoài ra độ nghiêng của trục Trái Đất tương đối so với Mặt Trời cũng dao động trong khoảng 21,5 đến 24,5 ° và hoàn thành một chu kỳ sau 41.000 năm. Hiện nay, trục Trái Đất nghiêng khoảng 23,5 ° so với đường trực giao của mặt phẳng quỹ đạo.

 

Chúng ta cần biết, khi đặt la bàn gần xích đạo thì nó sẽ chỉ gần đúng trục từ trường trái đất bắc - nam. Tại hòn đảo lớn Borneo thuộc Malaysia và INdonesia, nó nằm ngay trên đường Xích đạo trái đất, nơi đây có chiếc trống đồng Sabah tượng trưng cho thủy triều lớn nhất, trống Sabah tượng trưng cho Mặt trăng, thủy triều, gọi là Trống Trăng, chắc chắn rằng: "Quả Trống" này được "thửa" riêng cho hòn đảo Borneo. Mặt trời tâm trống có 12 cánh chính là 12 tháng trong một năm, và cũng thật rõ ràng, khi chế tạo trống người ta đã biết về la bàn khi định hướng trên hòn đảo này rồi.

 

Trống Trăng Sabah

Vùng Sabah, đảo Borneo, trực thuộc Malaysia

20140824_24-big.jpg

(Trống biểu tượng cho Lý, chuông cho Pháp môn áp dụng)

 

tgmt1.jpg

 

Thời vua Nghiêu Thuấn, Trung Quốc (khoảng 2350 TCN), con rùa cũng được xem như là một chiếc la bàn, cổ vật rùa ngọc khai quật được ở Liêu Ninh còn cho thấy cấu trúc Hà đồ, Hà đồ - Lạc thư.

 

Rùa ngọc Hà đồ - Lạc thư

Chinese_Jade9720w.jpg

 

 

Từ đó, chúng ta rút ra ý nghĩa:

- Học thuyết Âm Dương Ngũ Hành được diễn họa qua công thức bao trùm của sự vật, hiện tượng là Hà đồ (Lạc thư ẩn). Riêng đối Vũ Trụ chứ không phải sự vật, hiện tượng trong Vũ Trụ thì là công thức gì??? Do Vũ Trụ vô cùng, vô tận nên nó nhận thức Vạn Vật trong nó chỉ qua Âm Dương chứ không phải Âm Dương Ngũ Hành, do vậy cần phải nghiên cứu tới Tiên Thiên Bát Quái.

- "Dương sinh, Âm khắc", "Dương sinh Âm dưỡng", Dương là động lực làm cho sự vật, hiện tượng chuyển đổi, thay cũ đổi mới. Đặc biệt, từ nguyên lý "Dương tịnh Âm động" lại thấy có vẻ "nghịch" với ý nghĩa Dương là động lực làm cho sự vật, hiện tượng thay cũ đổi mới, nhưng đây chỉ là sự so sánh, đối đãi tương đối giữa trạng thái tịnh, động mà thôi.

- Liên quan đến Huyền không phi tinh, đấy là bộ môn có hệ quả từ hiện tượng thiên văn lớn Chương Động mà ra, từ xưa cha ông đã biết hiện tượng này cùng với hiện tượng Tiến Động (Tuế Sai 25.920 năm) rồi.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Tìm về cội nguồn kinh Dịch - Phần I - 2

 

Hệ thống ký hiệu của kinh Dịch

 

Hệ thống ký hiệu của kinh Dịch được truyền cho tới nay gồm hai hệ thống chính là:
1) Hệ thống Hy Dịch tức kinh Dịch của Phục Hy có nguồn gốc từ đồ hình Tiên thiên Bát quái.
2) Hệ thống Chu Dịch, có nguồn gốc từ đồ hình Hậu thiên Bát quái.

Đồ hình ký hiệu của hai hệ thống ký hiệu này như sau:

 

Tiên thiên Bát quái và ký hiệu 64 quẻ Hy Dịch

Đồ hình Tiên thiên Bát quái và hệ thống Hy Dịch được coi của do vua Phục Hy (nhưng chỉ phát hiện và lưu truyền từ đời Tống), bắt đầu bằng hai ký hiệu căn bản sau đây:

 

vl-vd.jpg

 

Từ hai ký hiệu này, cũng theo cổ thư chữ Hán thì vua Phục Hy đã vạch ra 8 quái gọi là Tiên thiên Bát quái, mỗi quái gồm 3 vạch (liền hoặc đứt ) có một trình tự phát triển từ dưới lên, được trình bày theo đồ hình sau đây trong Chu Dịch và dự đoán học (sách đã dẫn, trang 15).

 

batquaiphuchy.jpg

 

 

Đồ hình kết cấu trình tự Bát quái trên đây được phổ biến trong các sách kinh Dịch nói chung.

 

Đồ hình Tiên Thiên bát quái của vua Phục Hy

 

bq.jpg

 

Tám quái này lần lượt có tên gọi là: 1-Càn, 2-Đoài, 3-Ly, 4- Chấn, 5-Tốn, 6-Khảm, 7-Cấn, 8-Khôn, được sắp xếp theo đồ hình có thứ tự như trên.

Cổ thư chữ Hán cho rằng: vua Phục Hy đã dựa theo Hà đồ phát hiện trên sông Hoàng Hà để sắp xếp Tiên thiên Bát quái, như đã trình bày ở trên.

 

 

Chúng ta tham khảo một số nhận định khác nữa về Tiên Thiên Bát Quái và truyền thuyết Bà Nữ Oa:

 

Thuyết Quái viết:

 

102.jpg     bqtthien.jpg?t=1211943501

 

 

Thái cực đồ thuyết của Thiệu Khang Tiết:

thaicucdo_9371.gif

 

Chu Đôn Di:

hinhthaicuc.jpg?t=1211942954

 

Công thức theo Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ:

tienthien8quai.jpg  tokhieu.gif

 

Vòng dịch Âm Dương:

image002.jpg   KG_53A.jpg

 

Tiên Thiên Bát Quái phối Hậu Thiên Bát Quái:

69.jpg

 

Hoạch quái có liên quan đến Thái cực và Tịnh Động:

 

PhucHi8quaittd.jpg

 

image027.jpg

 

Chiết Khải điền Ly trong mối tương quan Hậu Thiên Bát Quái -> Tiên Thiên Bát Quái:

 

Bat%20quai.jpg

 

Cao Đài:

 

Hinh1.jpg

 

 

Tôi ghi chú các vấn đề:

- Quan sát cáu trúc "Dương trong Âm ngoài", "Dương trước Âm sau", quan sát Mặt trời và hành tinh không có sự sống hoặc trái đất khi chưa có sự sống.

- "Vạch" tạo "Quái" là biểu tượng quy ước cho đối tượng "thực" hay trình bày một hiện thực khách quan và chủ quan nào đó.

- Nhận thức sau Thái cực với vụ nổ Bigbang hay nhát rìu của ông Bàn Cổ do hiện tượng "vi động". Vị trí không gian của "vi động" này là bất kỳ và không thể xác định được trong một Vũ Trụ vô cùng, vô tận. Vụ nổ Biabang này tạo ra bởi phân cực Âm Dương của chính bản thân Vũ Trụ khi đạt "trạng thái tới hạn như thế nào đó" sau "vi động" kích hoạt và ?, rồi sau đó vận động xoay (nghiên cứu lại hoa văn mặt trống đồng).

- Khi phân biệt Âm Dương thì trạng thái Vũ Trụ Vận Động không còn như trạng thái của Thái cực - tức Vũ Trụ Nguyên Thủy được nữa.

- Nhận thức mối tương quan giữa "Quái" của Hậu Thiên Bát Quái và "Quái" của Tiên Thiên Bát Quái. Nhận thức về trạng thái Trái đất quay quanh trục và quanh trên Xích đạo xung quanh Mặt trời, Hệ Mặt Trời vận động... nằm trong mối tương quan của cái "Vũ Trụ Vận Động". Diễn tiến của trạng thái tụ khí của một thiên thể: "khi nhẹ thành trời, khí nặng đục tụ xuống thành đất".

- Ứng dụng Phục Hy Dịch - Tiên Thiên Bát Quái hay Chu Dịch - Hậu Thiên Bát Quái?

- Vũ Trụ vô cùng, vô tận và vận động theo quy luật của Âm Dương (một Âm một Dương gọi là Đạo), Đạo ở đây còn có nghĩa bao hàm trạng thái vô cùng, vô tận vậy!.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Về mặt thiên văn, cần phân biệt được mặt phẳng Hoàng đạo và "trục quay nghiêng một góc so với trục vuông góc của mặt phẳng Hoàng đạo" của các hành tinh trong Hệ mặt trời là rất quan trọng. Dưới đây là Bảng tóm tắt các thông số thiên văn của Hệ mặt trời:

 

Bảng tóm tắt các thông số thiên văn của các hành tinh trong Hệ mặt trời:

12.jpg

 

Mặt phẳng Hoàng đạo là mặt phẳng trùng vào quỹ tích của Trái đất di chuyển xung quanh Mặt trời, hình Elip.

 

Ở đây, độ nghiêng của trục quay Mặt trời so với trục vuông góc mặt phẳng Hoàng đạo < 7.0 độ nếu so với trục quay của sao Kim cổ (tức sao Thủy hiện đại), điều đó chứng tỏ rằng: Mặt trời hay Hệ mặt trời đang quay quay một trục gần trùng với trục vuông góc mặt phẳng Hoàng đạo, tức gần trục với trục Vũ trụ thu nhỏ quy ước - gọi là Thiên Cầu. Điều này có thể hình dung trục bắc - nam địa lý của Mặt trời gần trùng vào trục từ trường bắc - nam của chính nó.

 

Để từ đó, định hình được công thức Hà đồ - Lạc thư cho Mặt trời hay cả Hệ mặt trời, ở đồ hình dưới đây chúng ta chỉ cần xoay ký hiệu N - S về trùng trục Sửu - Mùi là trở thành cấu trúc Hà đồ của Mặt trời hay chính Hệ mặt trời (thay tên Địa cầu bằng tên Mặt trời)

 

164h.jpg

 

Và đấy chính là lý do người xưa bài trí Nhị thập bát tú hay 12 cung Hoàng đạo xung quanh chòm sao Bắc Đẩu (kiểm tra chòm Thiên Long) chứ không phải Bắc Cực trong chòm Tiểu Hùng, nó lệch với chòm Tiểu Hùng một khoảng cách nhìn bằng mặt thường. Điều này có nghĩa chòm sao Bắc Đẩu được xem là trung tâm của bầu trời phương Bắc, nằm trên trục Vũ trụ bắc - nam của Thiên cầu.

 

Thiên văn Đông phương

TuViVien2.jpg

 

 

image003.gif

 

Trên bản đồ thiên văn cổ Ai Cập, chòm sao Bắc Đẩu là hình chiếc đùi con bò (mành xanh da trời nhạt) và xung quanh nó là 12 chòm sao tượng trưng 12 cung Hoàng đạo. Thực ra, 12 chòm sao này bài trí xung quanh chòm sao Thiên cực bắc Thiên Long mới là chính trong thời cổ đại, do vậy chòm sao này gần trung tâm Hoàng đạo hơn chòm Bắc Đẩu.

 

Chòm sao Thiên Long tượng trưng cho con tê giác cái, đang mang thai. Thiên Long là chòm sao Thiên cực bắc tượng trưng cho một "Người Phụ Nữ".

 

Thiên văn Ai Cập

Denderah36Decans.gif

 

egyptcroc.jpg

 

02.jpg

 

Thiên văn hiện đại

Thang+6+A+copy.png

 

Vị trí tương đối của các chòm sao trên vòng Hoàng đạo và Bắc Đẩu, Tiểu Hùng, các chòm Thiên cực bắc.

 

lubyprec.jpg

 

Đây là toàn cảnh cái nhìn thiên văn trước khi phân tích Bát Quái.

Share this post


Link to post
Share on other sites

BÍ ẨN CỦA BÁT QUÁI

 

Như đã biết, 64 quẻ Dịch dựa trên sự thành lập của Bát Quái. Cố giáo sư Nguyễn Hoàng Phương đã viết: "Dịch là bài toán hiểm trở nhất" tức cách thành lập nội dung của quẻ Dịch. Tuy nhiên, có 2 loại Dịch là Tiên Thiên Dịch - Phục Hy Dịch và Hậu Thiên Dịch - Chu Dịch, trong đó cái Quái của Tiên Thiên Bát Quái cũng là của Hậu Thiên Bát Quái, nhưng khác phương vị... Do vậy, khi tìm hiểu Tiên Thiên Bát Quái thì không thể không quay lại Hậu Thiên Bát Quái. Kinh Dịch tạo ra bởi các bậc Thánh nhân, nội dung là Thánh triết.

 

Bát Quái Tiên Thiên theo một vị trong Cao Đài (tham khảo: "Trước cửa Không rồi mối Đạo thông")

dlcd-056.png

 

dlcd-062.gifdlcd-063.gif   dlcd-079.gifdlcd-076.png

 

Thái cực sinh Lưỡng nghi, Lưỡng nghi sinh Tứ Tượng, Tứ tượng biến hóa vô cùng

dlcdq2008.png

 

VUTRU.jpgHOANHDO.jpg

 

Hậu Thiên Bát Quái

 

Hậu Thiên Bát Quái là quy luật tương tác từ Mặt trời (trong mối tương quan với các hành tinh) tới Địa cầu và vạn vật sinh sống trên đó trong quá trình vận động trong cùng một Hệ quy chiếu (một tổ hợp Âm Dương Ngũ Hành). Cách dễ hiểu nhất đấy chính là quy luật xuân, hạ, thu, đông trên Địa cầu. Địa cầu lúc này như một "Điểm" chịu tương tác có quy luật từ "Mặt trời to lớn" phát ra. Trong khi đó, Địa cầu với từ tường của mình, định hình nên quy luật vận động Hà đồ - Lạc thư, để từ đó chúng ta có công thức Hậu Thiên Bát Quái phối "Hà đồ của Địa Cầu".

 

Tương tác từ Mặt trời (mặt) tới Địa cầu (điểm)

vutru242435474.jpg?width=500

 

Bốn mùa trên Địa cầu

11_28_2014_10_36_41_AM_Trai%20dat%20quan

 

Riêng đối với Dương lịch, cách trình bày trên so với Âm lịch là không tương đương, do hiện tượng tuế sai 25.920 năm, cho nên ngày xưa cần xác định ngày Đông Chí theo Âm lịch để xây dựng lịch hàng năm, với điều chỉnh "canh khắc" theo hiện tượng tuế sai. Lịch sử tôn giáo phương Tây và một số nước phương Đông thì ngày 25 tháng 12 hàng năm là ngày giáng sinh của thần Mặt Trời Vạn Thắng.

 

Ai về nhắn họ Hy Hòa

Nhuận năm sao chẳng nhuận và (vài) trống canh.

 

"Hậu Thiên Bát Quái" phối "Hà đồ của Địa cầu"

164h.jpg

 

Cũng do nhận thức quy luật của thực vật (Cây Đời Sống) trên Địa cầu tuân thủ rõ ràng quy luật tương tác của Hậu Thiên Bát Quái: xuân, hạ, thu, đông, do vậy người xưa đã xây dựng được công thức Địa chi tương ứng, ở đây cũng tuân thủ nguyên lý sinh - vượng - mộ và mộ -> là hành Thổ đặc trưng (Sửu - Mùi, Thìn - Tuất), hành Thổ này có mục đích chuyển tiếp từ hành này sang hành khác.

 

Địa Chi (phát triển từ Hậu Thiên Bát Quái và quy luật sinh sống của thực vật: xuân sinh, hạ trưởng, thu liễm, đông tàng)

dh2.jpg

 

LIEMTANG.jpg

 

Ở đây, điểm chuyển tiếp là điểm đầu của các cung Sửu, Mùi, Thìn, Tuất. Vấn đề này dựa trên vùng tương tác trên mặt Địa cầu từ ánh sáng mặt trời. Địa cầu tự thân vận động quay quanh trục hướng về điểm Cực bắc tạo một góc 23.5 độ so với trục vuông góc mặt phẳng Hoàng đạo, đồng thời cũng di chuyển trên quỹ đạo xung quanh Mặt trời trên mặt phẳng Hoàng đạo. Tuy nhiên, từ trường bắc - nam của Địa cầu lại lệch so với trục quay Địa cầu 12.3 độ, do vậy trục từ trường chỉ còn lệch so với trục vuông góc Hoàng đạo 11.2 độ. Qua hình ảnh Nhật Nguyệt đồng tranh chúng ta sẽ nhận ra bốn điểm chuyển tiếp đầu của hành Thổ chính là trục ngang Hoàng đạo (điểm đầu cung Thìn - Tuất) và trục đứng vuông góc mặt phẳng Hoàng đạo (điểm đầu cung Sửu - Mùi).

 

 

Truchoangdao.jpg

Đối với La kinh, do định phương vị từ trường để xác định tương tác theo Hậu Thiên Bát Quái tới vị trí trên mặt Địa cầu, cho nên chỉ dùng Bát Quái chứ không phải phân chi tiết theo Địa chi. Địa chi là khi áp dụng cho cây xanh, động vật, con người thôi, cần có vùng đệm hành Thổ, chống "Shock", sau này thiên bàn Tử vi dùng từ Địa chi, ngay cả trong Đông y cũng vậy.

 

La kinh phong thủy

lakinhlacthu.jpg?t=1215056983

 

 

Từ trường nam châm bên cạnh la bàn có kim chỉ Nam

khaosatB_nc_thang_1.jpg

 

Độ lệch trục từ trường Địa cầu so trục quay Địa cầu (trục địa lý)

3_8522_6632913183225312500.JPG

 

 

Nhật nguyệt đồng tranh qua trục vuông góc với mặt phẳng Hoàng đạo

167h.jpg

 

Đối với đường Bạch đạo - quỹ đạo của Mặt trăng, thì có độ lệch so với mặt phẳng Hoàng đạo khoảng 5.0 độ.

 

Hoàng Đạo (năm) - Quỹ đạo Mặt trời: Đạo là Rồng tức Rồng Vàng.

Bạch Đạo (tháng) - Quỹ đạo Mặt trăng: Rồng Trắng. Kinh đô Bạch Long tại bộ Phong Châu của nước Văn Lang.

Xích Đạo (ngày) - Quỹ đạo Địa cầu: Rồng Đỏ.

Thần Đạo, Nhân Đạo (giờ) - Quỹ đạo của Con Người: Rồng Đen.

 

Từ đó, khi chúng ta phối hợp Hậu Thiên Bát Quái với Hà đồ - Lạc thư của Địa cầu và công trình trên mặt Địa cầu thì phải đặt phương Bắc lên trên, còn đối với Hậu Thiên Bát Quái với Hà đồ của cây xanh, động vật, con người thì phải đảo ngược lại tức phương Nam ở trên (đây là công thức áp dụng từ trước tới nay) dựa trên La kinh phong thủy như đã viết ở các bài trên.

 

La kinh phong thủy 24 sơn hướng và Bát Trạch

BCungViet07.jpg

 

Các trục quy ước tên gọi

Trục Khảm - Ly gọi là trục Định Vị (từ trường), trục Chấn - Đoài gọi là trục Sinh - Tử.

BQQuymonViet02.jpg

 

Mặt khác, chúng ta cũng đã biết Địa cầu di chuyển trên quỹ đạo xung quanh Mặt trời không phải là một đường liên tục, mà là một đường dích dắc như hình Sin, thực trạng này là hiện tượng Chương Động trong thiên văn, ngoài thực trạng trục Trái đất quay một góc nhỏ sau 25.920 năm (tuế sai) lại trở về vị trí cũ, đây là hiện tượng Tiến Động. Do hiện tượng Tiến Động mà thời xưa, có lúc quốc gia này lễ hội mùa xuân lại rơi vào mùa hè, lễ hội mùa thu lại rơi vào mùa đông mà không biết tại sao. Từ hiện tượng này, mà người xưa xác định được quy luật tương tác Huyền không phi tinh trên Hà đồ của Địa cầu.

 

Hiện tượng Chương Động

volgyesi13057.jpg

 

Theo Huyền không phi tinh: quy tắc nam phi nghịch, nữ phi thuận để xác định Cung phi của cá nhân. Tuy nhiên, khi dùng Huyền không phi tinh cho Công trình trên Địa cầu hay chính là cho Địa cầu thì phi tinh thuận hay nghịch? Trường khí Huyền không phi tinh này bao trùm Hệ mặt trời, thì Mặt trời là Dương còn Địa cầu là Âm, do vậy khi quán xét tương tác này cho một "ngôi gia" hay đánh giá một châu lục trong một năm thì dùng quy tắc Phi Thuận. Chúng ta cần nghiên cứu chuyên sâu hơn về vấn đề này, tất nhiên Phi tinh trên công thức Hà đồ chứ không phải Lạc thư.

 

Cũng từ quy luật của Huyền không phi tinh theo năm mà người xưa xác định được Cung Phi mỗi cá nhân, từ đó xác định được sự tương ứng của bộ môn từ trường Địa cầu - Bát Trạch. Cung Phi theo Huyền không phi tinh là quy luật lớn ngoài Hệ mặt trời, vượt ra khỏi thuộc tính theo bảng Lục thập hoa giáp quy ước tương tác trong Hệ mặt trời trên Địa cầu theo các nguyên tắc: "ngũ vận lục khí", "sinh - vượng - mộ", "khởi mốc Giáp Tý hành Kim - Vận khí khắc Thiên can trong quy tắc chủ thể nhận tương tác từ khách thể: "khắc - sinh - hòa - bị sinh - bị khắc".

 

Chu kỳ Vận khí (mệnh người) theo Lục thập hoa giáp (đổi Tốn Khôn)

LacthuHG05.jpg

 

 

 

Gia đình cũng là một đơn vị quy ước nhận tương tác theo công thức Hậu Thiên Bát Quái. Chú ý, Hậu Thiên Bát Quái là công thức tính tương tác từ Mặt trời, và ngay cả những tác tác có quy luật lớn khác, nhưng vì quá lớn nên không tính vì Hệ mặt trời hay Địa cầu đã nằm ngay trong một "Hành" trong thời gian dài rồi (gọi là bị "nhúng", chẳng hạn Hệ mặt trời trước 2013 bị "nhúng" trong trường khí của cung Song Ngư).

 

Quy ước 8 thành viên của một gia đình này "giống" hoạch quái của Tiên Thiên Bát Quái nhưng quy ước theo Hậu Thiên Bát Quái, hoặc theo Huyền không phi tinh như định hình cung phi của một con người để quan xét theo Bát Trạch căn nhà, do vậy cần phản quán xét kỹ ý nghĩa hơn nữa.

 

265.jpg

 

ĐẾN ĐÂY THÌ Ý NGHĨA CỦA CÔNG THỨC HẬU THIÊN BÁT QUÁI ĐÃ RÕ, TUY NHIÊN CHÚNG TA CHƯA BÀN ĐẾN "HOẠCH QUÁI" (tùy theo hệ quy chiếu thiên văn lớn dần trong quy ước Chủ thể và Khách thể để cùng có quy luật Hậu Thiên Bát Quái nữa, "Đồng thanh tương ứng, đồng Khí lương cầu").

 

BÍ ẨN CỦA 4 HÀNH MỘ SỬU, MÙI, THÌN, TUẤT TRÊN 12 CUNG ĐỊA CHI CHỨNG TỎ 12 CUNG HOÀNG ĐẠO THIÊN VĂN TÂY PHƯƠNG BỊ "KHÓA" HAY "BÍ" Ở ĐIỂM NÀY.

 

KHI ĐÃ RÕ, THÌ CÁCH VẬN DỤNG NGÔN TỪ RẤT CHÍNH XÁC ĐỐI VỚI SỰ PHỐI HỢP QUÁN XÉT CÁC TỔ HỢP TƯƠNG TÁC TRONG HOẶC NGOÀI HỆ QUY CHIẾU, CHỦ THỂ VÀ KHÁCH THỂ...

 

- Từ đó, chúng ta nhận định Vũ Trụ Vô Cùng có từ trường không??? Đây là câu hỏi tối quan trọng! Nếu có, nó sẽ bắt buộc mọi thứ trong nó tuân thủ từ trường nay!

- Vũ Trụ đã quay hết một vòng của chính nó? Hay đạt cực đỉnh 1/2 vòng rồi tan rã.

- Sự phân biệt, đối đãi Âm Dương (Dương)/ Ngũ Hành (Âm) luôn phải có quy ước về chủ thể và khách thể, thuộc hệ quy chiếu tương tác nào chẳng hạn Hệ mặt trời đối với chủ thể con người, hệ quy chiếu sinh lý nội tại của con người đối với chính "con người đó"...

- Thể phách (khi sống và sau khi chết) mô phỏng Con người vẫn tuân theo Hà đồ của Con người đó.

- Hệ quy chiếu có thể là Vũ trụ toàn thể.

Share this post


Link to post
Share on other sites

TIÊN THIÊN BÁT QUÁI

 

Mô phỏng và quy ước sự vật, hiện tượng

 

Thuyết quái trong Kinh Dịch viết:

 

Thiên địa định vị, sơn trạch thông khí, chấn phong tương bạc, thủy hỏa bất tương xạ, Bát quái tương thố.
Số vãng giả thuận, tri lai giả nghịch, thị cố Dịch nghịch số dã.
Trời đất định ngôi, núi đầm thông khí, sấm gió kích động nhau, nước lửa chẳng diệt nhau, tám quẻ giao nhau.
Đếm cái đi vào quá khứ tùy theo chiều thuận, biết cái sẽ đến tùy theo chiều nghịch, cho nên Kinh Dịch đếm ngược vậy.

 

Trên cơ sở đoạn kinh văn đã dẫn (xuất hiện vào đời Hán, hoặc trước đó), một số nhà nghiên cứu cho rằng: Những nhà Lý học đời Tống (ngót 1000 năm sau thời Hán), đã căn cứ vào đó để vạch ra Tiên thiên Bát quái và kết hợp độ số như sau:

 

102.jpg

 

Mô phỏng các hiện tượng tự nhiên trên Địa cầu tương ứng với Bát Quái Tiên Thiên, chúng nằm trong mối quan hệ rất tự nhiên phối hợp lẫn nhau ở trên không và dưới đất, ý nghĩa này hàm ý không chịu tác động của "hiện tượng có tư duy" tức động vật, con người. Do vậy, khả năng trình bày tình trạng Địa cầu trong Hệ mặt trời khi chưa xuất hiện động thực vật và con người.

 

"Trời Đất định vị": Khả năng mang ý nghĩa Vũ Trụ vô biên đã định vị.

 

Nội dụng ngụ ý chỉ có sự tự nhiên vận động của sự vật, hiện tượng (trạng thái Khí), chưa có "tương khắc". Hàm ý chưa định hỉnh nên Ngũ Hành mặc dù Quái được tượng trưng bằng sự vật, hiện tượng trên Địa cầu. Cũng có thể nhận định đã có Mặt trời, Địa cầu... nhưng chưa hình thành nên Hệ mặt trời theo nghĩa cấu trúc đầy đủ của Âm Dương Ngũ Hành.

 

Bát Quái Hậu Thiên thể hiện quy luật tương tác vậy Bát Quái Tiên Thiên cũng có ý nghĩa như vậy?

 

Khả năng tích tụ của thiên thể, đến ngưỡng không thể tích thêm được nữa, xảy ra tình trạng đối nghịch lại lực tương tác hay "trọng lượng" hay "quán tính", do vậy phải xuất hiện Ngũ Hành với hành Thổ trung tâm để cân bằng mọi tương tác.

 

Hệ mặt trời

he-mat-troi%20%282%29.jpg

 

Cũng nên xem xét thêm chu kỳ: "Vòng tuần hoàn nước".

 

Quy trình hoạch quái gốc

 

Đồ hình Tiên thiên Bát quái và hệ thống Hy Dịch được coi của do vua Phục Hy (nhưng chỉ phát hiện và lưu truyền từ đời Tống), bắt đầu bằng hai ký hiệu căn bản sau đây:

 

vl-vd.jpg

 

Từ hai ký hiệu này, cũng theo cổ thư chữ Hán thì vua Phục Hy đã vạch ra 8 quái gọi là Tiên thiên Bát quái, mỗi quái gồm 3 vạch (liền hoặc đứt ) có một trình tự phát triển từ dưới lên, được trình bày theo đồ hình sau đây trong Chu Dịch và dự đoán học (sách đã dẫn, trang 15).

 

batquaiphuchy.jpg

 

Đồ hình kết cấu trình tự Bát quái trên đây được phổ biến trong các sách kinh Dịch nói chung.

 

Đồ hình Tiên Thiên Bát Quái của vua Phục Hy

    bq.jpg

 

Tám quái này lần lượt có tên gọi là: 1-Càn, 2-Đoài, 3-Ly, 4- Chấn, 5-Tốn, 6-Khảm, 7-Cấn, 8-Khôn, được sắp xếp theo đồ hình có thứ tự như trên.

 

Truyền thuyết và huyền thoại liên quan

 

Truyện Nữ Oa vá trời:

 

191.jpgthườ

 

Qua đồ hình trên nhận thấy rằng nửa phần trên của hình Tiên thiên Bát quái: số hào Dương trội hơn hào Âm, mà cao nhất là quẻ Càn và thấp nhất là quẻ Khôn.

 

Trong dòng tranh dân gian Đông Hồ, biểu tượng Âm Dương được diễn họa trong một vòng tròn, gọi là Lưỡng Nghi, tuy nhiên trên đồ hình của Thái cực đồ thuyết của Thiệu Khang Tiết lại trình diễn 3 lớp Âm Dương.

 

Thái cực đồ thuyết và Âm Dương đồ trên tranh Đông Hồ

  NinhHoaDotCom-GsNHQuang-HVDLS-DichTienDeVanHoaTruyenThong_Khoahoc_4_image021.gif

 

londan7.jpg

 

Trên đồ hình Thái cực đồ thuyết, Âm Dương đồ chia làm 3 lớp Âm Dương đối ứng nhau, tương tự hoạch quái của Tiên Thiên Bát Quái. Trục phân chia của mỗi lớp thẳng đứng.

 

Con lợn nọc (Dương) tượng trưng cung Khảm, độ số 1, hành thủy trên Hậu Thiên Bát Quái nhưng quán xét riêng một bức tranh liên hệ Âm Dương đồ thì đó là cấu trúc: "Thái cực sinh Lưỡng Nghi". Thái cực là Dương khi so sánh với Lưỡng Nghi: "Dương trước Âm sau", có thể hiểu Thái cực - 1, Âm Dương - 2.

 

Phân tích các cấc vấn đề liên quan các giai đoạn Vũ Trụ

 

Qua đấy, chắn chắn rằng: Vạch liền và đứt là biểu tượng cho trạng thái Âm Dương của Vũ Trụ, tức trạng thái sau Thái Cực (Thái Cực là trạng thái cân bằng tuyệt đối của Bản Thể trong một không gian vô cùng, hoàn toàn tối đen, chí tịnh, một cách dễ hiểu là mênh mông như một biển nước vô cùng vô tận ở mọi phương, cấu trúc không gian đơn vị quy ước có 6 phương, lục hợp, gồm 4 phương và trên dưới, trong hình tượng của khối lập phương), do hiện tượng "vi động" bất kỳ vị trí của đơn vị "Bản Thể" ở một vị trí không gian nào đó, để từ đó gây nên trạng thái phân cực của Vũ Trụ và gây nên hiện tượng Bigbang, truyền thuyết Bàn Cổ khai thiên lập địa có nói về vụ nổ kinh khủng này. Sau đó, Vũ Trụ vận động xoay tròn nhằm đảm bảo cho sự liên kết, tương tác lẫn nhau là thích hợp nhất. Đây chính là tình trạng Lưỡng Nghi tượng trưng bằng hai vạch liền và đứt.

 

Liên kết tinh thể nước trong không gian

2012-08-12_113116.png

 

Minh họa Bigbang

3-6581-1429778951.jpg

 

Về mặt quy ước, những quy tắc "Dương trước Âm sau", "Dương tịnh Âm động", "Dương trong Âm ngoài", "Dương trên Âm dưới", "Âm thuận tùng Dương" được sử dụng là do khám phá từ tự nhiên của vạn vật mà ra. Chẳng hạn, về mặt tiềm năng thì quả trứng của con gà mái là một biểu tượng cho "Dương trong Âm ngoài", Vũ Trụ nguyên thủy chứa đựng tiềm năng sẽ sinh sôi vạn vật như một quả trứng.

 

Trứng gà sau khi "nuộc"

meo-tri-mun-cuc-hay-tu-trung-ga-luoc.jpg

 

Chúng ta chú ý ở trình trạng ban đầu "vi động", khi nó xảy ra thì tình trạng mất cân bằng cho toàn thể Vũ Trụ và có sự khác nhau "tương đối" của Mọi Bản Thể khi so với Bản Thể tại vị trí "vi động", đấy chính là nguyên nhân của những sự thăng giáng Âm Dương (động năng khác nhau nhưng liên kết và hòa hợp trong một chỉnh thể thống nhất). Khi đó, Âm Dương phân biệt và chúng tương tác lẫn nhau theo dạng vận động xoay tròn, tất nhiên từ quan sát thì Bản Thể tích tụ lại thành nhóm khác nhau, do vậy nên dùng từ "Khí tụ thành hình" cho thuận tiện, hay thường gọi tụ khí.

 

Bắc cực của Mặt Trăng                         Nam cực của Mặt Trăng

NinhHoaDotCom-GsNHQuang-HVDLS-18D.jpg

 

Lúc này, "Bản Thể động nhất" sẽ tích tụ bên ngoài cùng trong mỗi nhóm tổ hợp trong các chu trình vận động tương tác Âm Dương của toàn thể Vũ Trụ theo dạng xoay tròn cùng một hướng, với tổng động năng ban đầu của Vũ Trụ là vô cùng tại thời điểm ngay sau sự kiện Bigbang.

 

Hình tượng vận động xoay tròn của Vũ Trụ trên mặt trống đồng (mặt trời tâm trống mang tính tượng trưng)

1529755472_6fc4f1bb3c_o.jpg

 

Ngân hà vận động xoay tròn trong không gian

daitaihoa-01.jpg

 

Milky_Way_Arms-wiki.png

 

Sau một khoảng thời không rõ, Vũ Trụ vận động xoay tròn và định vị ổn định (chúng ta chưa chắc chắn Vũ Trụ chỉ vận động 1 vòng hay vô số vòng quay, qua quan sát các thiên hà càng lớn chu kỳ tự quay càng lớn), tạm gọi là trục Thiên Địa. Nếu chúng ta xem Vũ Trụ là một hệ quy chiếu, thì trong nó, cấu trúc vạn vật đã không còn ở trạng thái giống như "Bản Thể" nguyên khởi do sự tích tụ, có cái nhìn thấy bằng mắt như thiên thể, có cái không thấy được... có những cái vô cùng nhỏ, và khi so sánh, đối đãi lẫn nhau trong hệ quy chiếu toàn Vũ Trụ này chỉ là hai mặt Âm Dương? Tại sao vậy!.

 

Đồ hình minh họa sự hình thành vũ trụ qua Tiên Thiến Bát quái

228.jpg

 

Trong cái cõi bao la đó, đã hình thành nên Hệ mặt trời và các hành tinh trong nó, chúng ta cần xem xét khoảng thời gian chưa xuất hiện động thực vật và con người hoặc chưa định hình nên Ngũ Hành. Trước đó, chúng ta cần xem xét lại quy trình hoạch quái.

 

Một hệ quả tất yếu, khi Âm Dương vận động và định vị, thì bước tiếp theo Ngũ Hành xuất hiện thì chắn chắn trục định vị đó đã hoàn toàn rõ ràng, vấn đề này rất quan trọng về mặt thiên văn, địa lý và mọi thứ khác.

 

Xem xét quy trình hoạch quái

 

Tham khảo đồ hình.

 

Bát Quái Tiên Thiên

Cao Đài Đại Đạo

lgqck1d.jpg

Share this post


Link to post
Share on other sites

QUY TRÌNH HOẠCH QUÁI

 

Tham khảo sơ đồ hoạch quái dưới đây, dựa trên quy tắc: "Dương trước Âm sau", "Dương dưới Âm trên", rồi mới "Vạch dương nhiều - Vạch dương ít". Sự biến đổi sự vật, hiện tượng thông qua biểu tượng Quái mà do vậy phải bắt đầu từng bước từ "Hào dưới lên Hào trên".

 

Sơ đồ hoạch quái của Bát Quái Phục Hy

"batquaiphuchy.jpg

 

Nhận thức được trục Định Vị của thiên thể "Trái đất" khi chưa hình thành nên Ngũ Hành, định hình nên cấu trúc phân bố Bát Quái Tiên Thiên. Điều này có thể hiểu là Trái đất gần sát tới ngưỡng "cực đại tụ khí" hay Trái đất không thể tích tụ gì thêm từ Vũ Trụ nữa, mà chỉ đang vận động "rất" tự nhiên.

 

Trục Định Vị của trạng thái Lưỡng Nghi (tiềng năng của sự hình thành Tứ Tượng)

228.jpg

 

Khi tới điểm giới hạn này, ngay lập tức thiên thể Trái đất phải hình thành nên trạng thái Ngũ Hành để cân bằng tương tác, vấn đề này có thể hiểu là do tình trạng cô đặc không thể tích tụ vật chất nữa, trạng thái trọng lực, quán tính, từ tính đã "cản trở" sự vận động tự nhiên -> Bắt buộc hình thành Ngũ Hành.

 

Ngũ hành sinh khắc

cung-menh-ngu-hanh.jpg

 

Tính đối ứng của các Quái, tính Dương Âm của các Quái đều cân bằng, trên dưới qua trục Định Vị trong trạng thái vận động xoay tròn.

 

Trục quay của Mặt trời so với mặt phẳng Hoàng đạo, hay so với trục quay của mặt phẳng Ngân hà (song song)

page1_1.jpg

 

Khi xuất hiện Ngũ Hành, tương ứng Hệ mặt trời hoàn thành cấu trúc Âm Dương Ngũ Hành, lúc này sự định hình nên sự cân bằng trạng thái của các hành tinh với từ trường của chúng là tự nhiên. Hệ mặt trời tự thân nó cũng sẽ tạo một sự cân bằng với mọi hệ thiên văn trong Vũ Trụ, tất nhiên trục Định Vị ban đầu cũng sẽ có đôi chút thay đổi một góc độ (cực bé, không đáng kể, tiệm cận '0") để ứng với trạng thái Ngũ Hành. Do vậy, quy luật tương tác của Hậu Thiên Bát Quái tới Địa cầu cũng hình thành.

 

Quỹ đạo các hành tinh trong Hệ mặt trời cũng đồng thời xảy ra tương ứng

image001.jpg

 

Trục Địa cầu "ngay lập tức dịch chuyển" sau trạng thái xuất hiện Ngũ Hành

230.jpg

 

- Do trạng thái tới hạn đó, khả năng Hệ mặt trời có Địa cầu đang ở "rìa" Vũ Trụ vô biên này? Không thể như vậy, bởi động năng ban đầu của các vị trí Bản thể trong không gian vô cùng là khác nhau, do vậy Địa cẫu vẫn có khả năng nằm "bên trong" Vũ Trụ, do vô biên nên không thể xác định với một hệ quy chiếu bất kỳ.

 

- Như vậy, Bát Quái Tiên Thiên nên hiểu cũng chính là sự vận động của thiên thể trước trạng thái tới hạn như đã mô tả ở trên (Trạng thái Khí Âm đang tụ/ thiên thểKhí Dương/ vận động trong không gian quanh thiên thể tương tác lẫn nhau và đang chứa đựng tiềm năng hình thành nên cấu trúc Ngũ Hành).

 

- Những dấu hiệu chỉ ra sự tới hạn, đó là xuất hiện nước, hành thủy và là mầm mống của sự sống đơn giản nhất, thực vật - hành mộc, mang đặc tính phát triển theo chu kỳ sinh - thành - suy - hủy. Như vậy, chỉ dấu cơ bản chính là Địa cầu có nước.

 

- Sự khác biệt phương vị của các Quái trên Bát Quái Tiên Thiên và Bát Quái Hậu Thiên có thể hiểu như thế nào? Tất nhiên thiên thể có khả năng nghịch đảo trục quay hay không? Không, đây là quá trình tích tụ.

 

- Đã có sự giới hạn tích tụ khí, đồng thời mối quan hệ thống nhất của vũ trụ là liên tục, vậy khả năng Vũ Trụ đã vận động tới hạn tức đã bắt đầu phân rã khi hành mộc xuất hiện trên địa cầu. Chữ "Thái Âm" trong Tứ Tượng có lẽ cũng mang ý nghĩa này.

 

- Mối quan hệ Âm Dương Ngũ Hành với một hệ nào đó trong Vũ Trụ là như thế nào?

 

Mặt trăng hành gì? Mối tương quan với Địa cầu và Hệ mặt trời?

Share this post


Link to post
Share on other sites