hoangnt

Nguồn Gốc Của Học Thuyết Âm Dương Ngũ Hành

90 bài viết trong chủ đề này

Từ lý giải khí Tiên Thiên chính là trường khí ban đầu tương tác giữa Trái đất và Không gian, trong đó Không gian nếu được xem là từng phân lớp của Tổ hợp Âm Dương Ngũ Hành hay cho toàn bộ Vũ trụ? Đây là một câu hỏi, chẳng hạn phải chăng đó là trường khí từ Hệ mặt trời, Hệ Hoàng đạo...

 

Vậy thì, chúng ta cần xem lại sự vận động của Trái đất, vì đây là trường khí Âm so với trường khí Dương Không gian ở bên trên so với vị trí gốc Trái đất.

 

Đồ hình:

Earthorbit.jpg

 

tdat.jpg

 

tien-tri-so-phan-huy-diet-cua-trai-dat-t

 

tien-tri-so-phan-huy-diet-cua-trai-dat-t

 

TrungCung.jpg

 

Như vậy, chúng ta có một kết luận cực kỳ quan trọng: đó là trường khí từ Thiên giáng xuống chính là từ Vũ trụ vô cùng vô tận, nó vận động xoáy trôn ốc chung quanh một tâm Thiên Cực - THIÊN HOÀNG ĐẠI ĐẾ. Tất nhiên, trường khí Địa là từ Trất đất tạo ra thăng lên phía trên, đây chính là hai trường khí Tiên Thiên tương tác, mà chúng ta thường gọi là Tiên Thiên Bát Quái.

 

Thiên Hoàng Đại Đế này có phải là Ngọc Hoàng Thượng Đế Hay không? hay là một vị có cấp độ cao hơn một cấp, nhận định này dùng từ nguồn tại liệu cổ nào?

 

Trường khí Thiên giáng là trường khí áp đặt "lệnh", mạnh hơn trường khí Địa thăng lên: điều này hàm nghĩa Thiên - Dương và Địa - Âm tức các trường khí Thiên (Càn, Đoài, Ly, Chấn) sẽ là Dương và ngược lại (Khôn, Cấn, Khảm, Tốn) sẽ là Âm. Và đặc biệt, Càn - Âm Thủy, Khôn - Âm Hỏa.

 

Vậy tại sao trên Tiên Thiên Bát Quái cung Khôn lại là Âm Hỏa còn cung Càn lại là Âm Thủy? Tất nhiên chúng phải tương ứng với Hậu Thiên Bát Quái về mặt thuộc tính Âm Dương Ngũ Hành!.

 

Đồng thời, Tiên Thiên Bát Quái ứng dụng vào việc gì trong khi đó chỉ thấy nói đến Dịch Phục Hy tức Dịch triển khai từ Tiên Thiên Bát Quái - có đúng không?

Share this post


Link to post
Share on other sites

Như vậy, trường khí Tiên Thiên vận động trong cột sống con người, thông qua các luân xa mà phân phối "trường khí Hậu Thiên" đi tới các cơ quan như lục phủ ngũ tạng, ý nghĩa nguyên lý "Dương tịnh Âm động" và "Dương trong Âm ngoài" vẫn còn chính xác. Điều này lại khẳng định một lần nữa mặt trời trong Hệ mặt trời sẽ tuân thủ các nguyên lý trên tức mặt trời là Dương thổ và trái đất là Dương Mộc.

 

Trong hệ thiên văn Hoàng đạo, hướng bắc được định hướng theo các chòm sao Thiên cực bắc và ngược lại là hướng nam, như vậy nó tương ứng với Tiên Thiên Bát Quái khi mà quái Càn - Âm Thủy hướng trên và quái Không - Âm Hỏa ở phía dưới, nhận định này theo tên gọi của các chòm sao thiên văn như Bắc Cực, Nam Cực, Bắc Đẩu...

 

Khi định vị hướng bắc nam trên trái đất, chúng ta dùng la bàn hiện đại hay la kinh phong thủy Đông phương, la bàn hiện đại có "kim chỉ hướng bắc làm chuẩn" trong khi đó la kinh phong thủy lại có "kim chỉ nam"  - tức khi xác định từ trường của một khu vực địa hình.

 

Mặt khác, sự định vị bằng la bàn được áp dụng chung cho cả bắc và nam bán cầu, theo khoa học thì đường sức của từ trường ra bắc vào nam, chúng ta hãy xem biểu đồ dưới đây, có sự khác biệt giữa tên gọi địa cực và từ cực (tham khảo trên mạng) hay là sự đảo chiều kim chỉ nam khi đặt bắc và nam bán cầu.

 

tutruong_traidat_2-1.jpg

Kim màu đỏ chỉ hướng nam - còn màu trắng chỉ hướng bắc.

 

Tiếp tục xét Hậu Thiên bát Quái, thì hướng nam trên bắc dưới, đảo ngược lại so với Tiên Thiên Bát Quái, đây là đặc tính từ trường khu vực hay đơn vị so với toàn thể trái đất, ý nghĩa này sẽ giống như mỗi một con người. Nếu xét nguyên lý Hà đồ phối Lạc thư cho mỗi con người, thì đặc trưng Hỏa bốc lên và Thủy giáng xuống chứng tỏ Hậu Thiên Bát Quái - Tương tác tới con người tương ứng với Hà đồ tức nam trên bắc dưới.

 

Vậy khi xét tính toàn thể của trái đất, chúng ta thấy bắc bán cầu có hình thế bên ngoài vỏ trái đất có núi cao nhất chiếm diện tích lớn và nam bán cầu thì ngược lại, quán xét thì tây bắc có núi cao còn đông nam có biển sâu, còn đối với con người khi đối đãi nam - nữ thì "Âm nhô cao Dương trũng thấp" - tướng nhô cao (núi) Âm thì thuộc tính Dương, tướng trũng thấp (đầm nước) Dương thì thuộc tính Âm, theo quy ước dựa trên "thuộc tính Âm Dương" thì phương bắc mang thuộc tính Dương và ngược lại, do vậy bắc phù hợp với nam giới và nam với nữ giới. Vấn đề quy ước này sẽ tương đương với hành Thủy trên Hà đồ ở phía dưới và hành Hỏa trên Hà đồ ở phía trên.

 

500px-Hado_lacthu.jpg

Hà đồ và Lạc thư với độ số quy ước phương bắc dưới và nam trên

 

Do vậy, "Thủy - Mộc là quy ước Dương" và "Kim, Hỏa là quy ước Âm" theo trạng thái Hậu Thiên - khi có vạn vật hữu tình và cây xanh trên trái đất xuất hiện.

1576_1201565993.jpg

Nội là bên trong, dương còn Ngoại là bên ngoài, âm

 

Từ đó, nảy sinh quy ước "Âm trên Dương dưới", những vấn đề phân tích trên cũng cần phải xem xét lại một lần nữa khi so sánh một lần nữa với các phương pháp cổ khi ứng dụng Hậu Thiên Bát Quái, bởi vì khi xoay đồ hình thế nào ứng dụng vẫn được là do quy ước đã hợp lý.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Trong quá trình phân tích, vấn đề quan trọng nhất nảy sinh đó chính là Kim chỉ nam dùng để định vị phương hướng bắc - nam của một khu vực nhất định, độ lệch hướng giữa góc bắc - nam theo từ tính sẽ lệch với trục quay trái đất tức bắc - nam địa lý một góc nào đó, gọi là độ lệch Từ thiên.

 

220px-Magnetic_declination.svg.png
Ví dụ về độ từ thiên có giá trị dương khi kim nam châm lệch về phía đông so với bắc địa lý.

 

La bàn hiện đại định vị theo phương bắc, còn kim chỉ Nam định vị theo phương nam vì ngày xưa cổ nhân dùng loại sắt từ luôn chỉ về phương nam. Chiếu theo thiên văn phương bắc ứng chòm Đại Hùng và phương nam ứng chòm Thập Tự thì khi dùng kim chỉ nam trong la kinh phong thủy là tương đương, chúng ta kiểm tra lại các bộ môn phong thủy như Bát Trạch là chính xác. Như vậy, bắc - nam định vị bằng mắt theo thiên văn của các chòm sao trên Hoàng đạo cũng sẽ là bắc - nam của trục quay trái đất.

 

1319799902-721898.jpg

 

La kinh quy ước hướng Tý - "0 độ" và "Ngọ - 180 độ" (chỉ tham khảo quy tắc phân độ)

 

Vậy thì, phương hướng la bàn hay "Bát Quái Hậu Thiên đặt trên mặt đất" có mối quan hệ chặt chẽ đến quy luật Âm Dương Ngũ Hành, tức điểm định vị gốc tại mặt đất (gốc quy chiếu) có mối tương quan đến không gian và thời gian trong các nguyên lý chung.

 

Khi nói đến Hậu Thiên Bát Quái là nói đến biểu đồ thể hiện tương tác có quy luật từ ngoài trái đất tới "vạn vật trên trái đất cụ thể là con người - xã hội", mà chúng đang vận động theo nguyên lý "Hà đồ phối Lạc thư", các đặc trưng của mỗi con người tương ứng với Bát Trạch được xác định cụ thể qua Huyền không Phi Tinh năm: nữ phi thuận nam phi nghịch. Điều này cho thấy, có mối quan hệ rất biện chứng giữa thuộc tính nam nữ và Bát Quái (Tây Đông tứ trạch) và vị trí bất kỳ trên trái đất -> có một mắt xích ở đây: Đó là "thuộc tính của con người -Đông Tây tứ trạch" không phụ thuộc tương tác từ vũ trụ định hình nên thuộc tính "vị trí xác định trên trái đất - Bát Quái đặt tại tâm điểm một ngôi nhà nào đó, hoặc...".

 

Sau khi xác định như trên về cực bắc - nam của trái đất và ứng dụng Bát Trạch (từ trường trái đất), chúng ta sẽ thấy một cách hợp lý thì hướng bắc - đông và nam - tây sẽ giống như minh họa dưới đây là hợp lý.

 

Hậu Thiên Bát Quái phối Địa Cầu:

15dop6c.jpg

 

Sự minh họa trên sẽ có sự "mâu thuẫn" với định hướng của Hậu Thiên Bát Quái cổ văn khi "nam ở trên và bắc ở dưới", đồ hình minh họa dưới đây.

 

BatQuaiDo_1.jpg

Ghi chú: Tiên Thiên Bát Quái như đã phân tích là trường khí xoay quanh trục Thiên Hoàng Đại Đế - trục Thiên đỉnh vuông góc với mặt phẳng Hoàng đạo và trường khí Trái đất.

 

Sự mâu thuẫn này nói lên "thuộc tính khu vực trái đất" có mối quan hệ như thế nào đối các hệ thiên văn như hệ mặt trời, hệ thiên hoàng 25.920 năm... và chính con người là một tổ hợp Âm Dương Ngũ Hánh vận động theo Hà đồ - Lạc thư? Trong một sự nhấn mạnh rằng: quy ước này không phụ thuộc vào vạn vật trên trái đất mà phụ thuộc vào quy luật tương tác của các hệ thiên văn. Đặc biệt, chính nó cũng không phụ thuộc vào Huyền Không Phi Tinh như nói ở trên mà chỉ phụ thuộc vào sự định vị phương hướng Bát Quái la bàn hay kim chỉ Nam mà thôi, tức hướng gốc Thiên Cực hay Thiên Hoàng Đại Đế đã viết ở bài trước.

 

Ở đây chưa nói đến cấp độ quan trọng giữa Bát Trạch và Tử vi, bởi Tử vi tiên tri cho một đời người chứng tỏ nó vượt qua Bát Trạch hàm nghĩa vượt qua Huyền Không phi tinh về mức độ tương tác, cũng có thể hiểu là tương tác từ hệ thiên văn lớn hơn.

 

Thiên bàn Tử vi

Thienbantuvi01.jpg

 

Vậy thì, chính chúng ta phải xác định cho được quy ước Bát Quái trên trái đất hay tại một vị trí bất kỳ trên trái đất: bắc bán cầu, nam bán cầu... qua chính các tượng hình của trái đất và sự phân tích công thức Hà đồ - Lạc thư của một tổ hợp Âm Dương Ngũ Hành là chính trái đất - tức thuộc tính Âm Dương Ngũ Hành của các lớp cấu trúc trái đất.

 

Đồng thời, nên xem xét cấu trúc của sao Mộc - Âm Mộc của Hệ mặt trời và Mặt trăng là một vệ tinh của Trái đất - Âm Thủy của hệ chính là Trái đất.

 

Cũng cần chú ý, trong một năm vào mùa hè thì trái đất xa mặt trời và mùa đông trái đất gần mặt trời, đây là thách đố tại sao vậy của hiện tượng thiên văn?

 

Các tầng của Trái Đất

150px-Jordens_inre-numbers.svg.png

Mặt cắt của Trái Đất từ tâm đến thổ quyển. Độ sâu[58]
km Các lớp Mật độ
g/cm3 0–60 Thạch quyển (5)[h] — 0–35 ... Lớp vỏ (6) 2,2–2,9 35–60 ... Phần trên cùng của manti trên (4) 3,4–4,4 35–2890 Quyển manti (3)&(4) 3,4–5,6 100–700 ... Quyển mềm — 2890–5100 Lõi ngoài (2) 9,9–12,2 5100–6378 Lõi trong (1) 12,8–13,1

 

(Tầng thạch quyển quy ước chiều dày không hợp lý, nó còn phải mở rộng bao trùm cả vệ tinh Mặt trăng nữa)

 

c%E1%BA%A5u-t%E1%BA%A1o-tr%C3%A1i-%C4%91

Trái đất.

 

earth_420.jpg

Trái đất

 

400px-Moon_Schematic_Cross_Section1.png
Hình giản đồ cấu trúc bên trong Mặt Trăng
 
220px-Jupiter_interior.png
Minh họa mô hình cấu trúc bên trong của Sao Mộc, với một lõi đá phủ bởi những lớp vật chất lỏng dày của hiđrô kim loại.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Để giải quyết vấn đề quy ước Hậu Thiên Bát Quái cho một vị trí xác định trên Trái đất (thông qua la kinh phong thủy) hay ngay cả cho chính Trái đất thông qua Hậu Thiên Bát Quái phối Địa cầu (thông qua trục bắc - nam địa lý hay trục quay của trái đất), chúng ta cần tìm được mối liên hệ giữ chúng với vạn vật như thực vật, động vật và con người (Hà đồ phối Lạc thư) và đặc tính tương tự từ trường của nam châm, tức từ sự định vị phương hướng qua kim chỉ Nam.

 

24 sơn hướng của la kinh phong thủy - Trục bắc nam (Tý Ngọ) gọi là trục định vị

 

BQBatcungViet01.jpg

 

Tại một vị trí trên trái đất, khi đặt la kinh thì sẽ nhận biết được 8 hướng thông qua kim chỉ Nam tức định hướng được một trục mà trong cổ thư gọi là "trục định vị", hay an vị được Hậu Thiên Bát Quái, nhưng tại sao lại định hình như vậy?:

- Từ sự vận động của trái đất tự quay và xung quanh mặt trời (mặt trời chính Ngọ...), ...

- Từ sự nhận biết địa hình sơn thủy và các trạng thái vật chất phân bố trên mặt đất và trong lòng đất, từ hai cực và khu vực xích đạo.

- Từ sự phát triển thực vật và động vật, con người: xuân sinh, hạ trưởng, thu bế, đông tàng.

- Từ kết quả nghiên cứu từ trường của nam châm và sự vận động của nam châm sinh ra trạng thái "điện", con người cũng có trạng thái này như "người nam châm".

 

Bản đồ thế giới

 

300px-World_map.png
 

 

them-1-cao-thu-nguoi-nam-cham-d98883.jpg

"Người nam châm" đang dùng bụng hút tấm nắp capo xe có 1 thanh niên đang đứng ở trên

 
Cho nên, bất kỳ một vị trí nào trên trái đất và ngay cả trái đất đều định vị được "thuộc tính Bát Quái của vị trí" hay "8 phương hướng tương tác tới vị trí", cho nên Hậu Thiên Bát Quái phối Địa cầu là chính xác. Chỉ có một điểm chú ý , đó là độ lệch Từ thiên khi phối Địa cầu cần hiệu chỉnh so với trục quay trái đất.
 

Hậu Thiên Bát Quái phối Địa Cầu:

15dop6c.jpg

 

Mặt khác, khi nghiên cứu tới vạn vật trên trái đất, có sự khác biệt rõ rệt với "vị trí xác định trên địa cầu", nó vận động theo công thức Hà đồ phối Lạc thư, đồng thời tuân thủ quy tắc "sinh, trưởng, bế, tàng" và "mộc, hỏa bốc lên - kim, thủy giáng xuống" do vậy, công thức Hà đồ và Lạc thư phải bài trí quy ước chuẩn "hỏa trên thủy dưới".

 

Hà đồ với thủy dưới, hỏa trên (không quan tâm đến các Quái ở trong mỗi ô)

52h.jpg

 

Qua các bài viết trước, chúng ta nhận thức Hậu Thiên hay Tiên Thiên Bát Quái là công thức tương tác tới một chủ thể đã xác định, ở đây là vị trí trên trái đất hay chính trái đất, hoặc một con người. Bởi vì nguyên do con người được lấy làm chủ thể tương tác là chính, do vậy Hậu Thiên Bát Quái khi tương tác tới con người sẽ tương ứng với Hà đồ - Lạc thư ở trên, tức thủy dưới, hỏa trên.

 

Như vậy, có hai sự khác biệt ý nghĩa đó là Hậu Thiên Bát Quái phối Địa cầu và Hậu Thiên Bát Quái phối Hà đồ (Lạc thư ẩn) -> tức là công thức Hậu Thiên bát Quái cổ là chính xác, bởi dựa trên chủ thể là con người.

 

Hậu Thiên Bát Quái cổ sau khi đổi chỗ Tốn Khôn (chuẩn)

 

121.jpg

 

Trong những tiến trình phân tích cực kỳ phức tạp và tinh vi như vậy, quan trọng nhất là cổ nhân đã nhận biết được trục định vị bắc - nam ứng thủy - hỏa là nguồn cội tương tác (Âm Dương vũ trụ).

 

Đồ hình xích đạo trái đất

Earthorbit.jpg

 

1212copy.jpg

 

phisnglu.jpg

 

Giả mã Thiên Cực - Thiên Hoàng Đại Đế:

- Dữ liệu thiên văn Đông phương.

- Dữ liệu Đạo giáo.

- Dữ liệu văn hóa, lịch sử... Việt Nam.

- Tiên Thiên Bát Quái của Phục Hy -> Tất nhiên, Hậu Thiên Bát Quái là Thần Nông.

 

Thiên Hoàng Đại Đế chính là vua Phục Hy, đặc trưng Âm Dương, có thể hiểu là tâm Thiên Hà (dải Ngân Hà của chúng ta).

 

Người rắn

180px-Anonymous-Fuxi_and_N%C3%BCwa2.jpg
Hình vẽ Nữ Oa và Phục Hy đầu người mình rắn đào được ở Tân Cương. trong đó Nữ Oa cầm com-pa ("quy" 規), Phục Hy cầm ê-ke ("củ" 矩).

 

Chiếc đỉnh trầm có con sự tử hý cầu trên nắm chiếc đỉnh, đây là biểu tượng kỵ vật của vua Thần Nông - hành Thổ trung tâm.

 

Dinh-rong-ok.jpg

 

Về phương pháp ứng dụng cổ, để hiểu ý nghĩa của Huyền Không Phi Tinh (tương tác từ ngoài Hệ mặt trời) với chu kỳ vận động của chín sao (đặc trưng thuộc tính tương tác) 9 năm phải đi từ Độn Giáp trước, cùng nguyên lý "nữ phi thuận nam phi nghịch"  - đây là do đối đãi Âm Dương của Nam Nữ và quy tắc "Mẹ Con" của vũ trụ - được áp dụng phổ biến trong Đông Y.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Rất phức tạp khi phân tích cấu trúc Hậu Thiên Bát Quái phối đối tượng nhận tương tác tức chủ thể quán xét trong các phương pháp cổ Đông phương, từ hoạch Quái gồm 8 Quái được lấy làm biểu tượng cho các đặc trưng tương tác có quy luật, cho nên chúng ta cần xem xét lại các yếu tố quan trọng khác có liên quan, đó là bộ ba khái niệm: Hình - Lý - Khí trong thuyết Âm Dương Ngũ Hành.

 

Để giải quyết vấn đề, chúng ta cần xem lại một số quy ước Âm Dương trong phong thủy cho các thành viên của một gia đình đang sống:

 

Hậu Thiên Bát Quái sau khi đổi chỗ Tốn Khôn (chuẩn)

 

121.jpg

 

Tứ Quái Dương trên Hậu Thiên Bát Quái: Khôn, Ly, Tốn, Đoài biểu tượng cho nữ giới.

Tứ Quái Âm trên Hậu Thiên Bát Quái: Càn, Khảm, Cấn, Chấn biểu tượng cho nam giới.

 

Qua đó, nhận thấy rằng: sự vật, hiện tượng nhận thức được Dương (Hình tượng)  như lửa, kim loại, ban ngày... thì dùng làm biểu tượng cho Âm - với cái Lý của Âm động như lửa rất động, nhưng kim lại tịnh hơn do phải quán xét tổng thể "không - thời - vị" tương ứng Âm Dương Ngũ Hành trong hệ tương tác như mặt trời chẳng hạn. Ngựợc lại, hiện tượng nhận thức được Âm (Hình tượng)  như nước, cây xanh, bóng tối... thì dùng làm biểu tượng cho Dương - với cái Lý của Dương tịnh.

 

Đến đây nhận ra rằng: Bát Quái là quy ước cho Tượng Hình (ẩn trong nó là Lý, Khí), chẳng hạn phương hướng cũng là sự vật, hiện tượng được nhận biết, ít nhất là thông qua kim chỉ Nam.

 

Đối với núi sông, địa hình thì nơi núi cao mang hình thế Âm chứa lý Dương - ứng với người nữ. Còn địa hình thấp trũng hay vùng biển thì rõ ràng mang hình thế Dương chứa lý Âm - ứng với người nam. Như đã phân tích, người nữ sống phù hợp với quy luật tự nhiên còn người nam thì ngược lại -> cho nên, mới thấy trong lịch sử cổ kim người đàn ông hùng hục đi tìm "Đạo".

 

Hậu Thiên Bát Quái phối Địa Cầu:

15dop6c.jpg

 

Đối với Khí, cần xem xét tới quy luật bốn mùa xuân - hạ - thu - đông của tự nhiên và trạng thái cưỡng bức, ví dụ như đặt một lò lửa cạnh một người thì cảm thất rất nóng và cần tránh xa do ảnh hường của nhiệt độ cao tức tương tác nhiệt từ lò lửa tới chủ thể. Vậy, khí chính là tương tác của sự vật, hiện tượng có quy luật hoặc cưỡng bức từ ý đồ của khách thể nào đó tới chủ thể xác định.

 

Về mặt bản chất, Khí cũng chính là vạn vật trong vũ trụ, khí nhẹ thì bay lên khí đục thì tụ xuống thành "Hình tượng". Quy luật vận động của Khí chính là Lý, Hình - Lý - Khí không tách rời nhau và sẽ được quy ước một cách có hệ thống trong thuyết Âm Dương Ngũ Hành như đã trình bày một phần cực nhỏ ở trên.

 

Theo quy luật, thì chỉ có Khí của Âm Dương Ngũ Hành mà thôi (Khí Âm - Dương; khí Ngũ Hành; Khí Âm Dương Ngũ Hành), chẳng hạn mùa xuân có trường khí Mộc đi tới làm cho vạn vật trên mặt đất sinh sôi phát triển, đấy là do tương tác biểu kiến từ mặt trời tới trái đất (tất nhiên trong tổ hợp hệ mặt trời...). Tuy nhiên, khi triển khai chi tiết Khí Âm Dương Ngũ Hành sẽ biến hóa thành các trạng thái sự vật, hiện tượng như quyền, tiền, tình, buồn, vui, sướng, khổ... (hóa khí, hóa vật, hóa sinh - người).

 

Khí đục tụ xuống thành vạn vật, thành hình và chúng sẽ trở thành một cấu trúc Âm Dương Ngũ Hành và vận động theo những nguyên lý chung và riêng, nhưng tựu trung tuân thủ theo Hà đồ - Lạc thư và nhận tương tác quy luật như mùa xuân mô tả trên theo Hậu Thiên Bát Quái - Hà đồ (Lạc thư ẩn - vì khi xét Đông y thì có hệ kinh mạch quy ước "Khí" theo Lạc thư) và Tiên Thiên Bát Quái.

 

Đối với Số Hóa như độ số của Hà đồ và Lạc thư, đây là những quy luật Số được khám phá ra bởi cổ nhân, cũng như các sơ đồ hay công thức Dịch, Độ Số này cũng ăn khớp một cách tương ứng với luật Âm Dương Ngũ Hành - cần xem xét cực kỳ cẩn thận, nếu chúng ta sa vào "ma trận" Số - Sơ đồ Dịch... như đối xứng qua tâm Hà đồ hay Lạc thư là tổng 15 hay...! mà chưa rõ đến Tiên Thiên Bát Quái, Hậu Thiên Bát Quái, Hà đồ, Lạc thư, Hình - Lý - Khí thì sẽ "tẩu hỏa nhập ma" trong tương lai gần - đó là điều chắc chắn.

 

Chúng ta cũng nên chú ý biểu tượng Bát Quái của Tiên Thiên và Hậu Thiên, đây là cấu trúc hoạch quái siêu đẳng và được đối chiếu quy luật vận động vận vật mới ra được, có thể hiệu là sự chồng vạch Âm Dương tự thân nó đã tuân thủ và thể hiện tính quy luật Âm Dương thăng giáng và cần phân tích chi tiết hơn nữa về chính biểu tượng này. Hậu Thiên Bát Quái được chồng quái thành Chu Dịch - công thức và ý nghĩa Dịch là sự tổng hợp cuối cùng các phương pháp Đông phương như phong thủy, tử vi... bởi nó mang thêm tính "Tiên tri" - tức đã vượt ra khỏi chiều kích của các phương pháp nói trên, ngay cả Đông Y, hay có thể hiểu là "kết quả của sự phản ứng từ toàn thể vũ trụ ngay lập tức tới sự vật, hiện tượng cần quán xét".

Share this post


Link to post
Share on other sites

Trong một năm vào mùa hè thì trái đất ở vị trí xa mặt trời và vào mùa đông thì trái đất lại ở gần mặt trời, đây là một thách đố của hiện tượng thiên văn, bởi vì lời giải thích là do trục nghiêng của trái đất so với mặt phẳng Hoàng đạo!

 

Câu trả lời chưa đầy đủ và thực chất không rõ ràng, bởi chúng ta chỉ cần xê dịch một khoảng vi động thì trục trái đất vẫn xem như không đổi nhưng nhiệt độ thay đổi hay trái đất đủ nhỏ nằm trong trường nhiệt độ của mặt trời, do vậy cần một lời giải thích khác.

 

Căn cứ vào thuyết Âm Dương Ngũ Hành, mùa hè là trường khí Hỏa và mùa Đông là trường khí thủy -> tạo nên kết quả của bốn mùa. Tuy nhiên, có thể nhận thấy vào mùa hè trường khí thủy này áp đảo nhiệt độ của mặt trời so với mùa đông? vậy nguồn phát ra hành thủy hay nhiệt lạnh này từ quy luật của hệ thiên văn nào và nó nằm ở đâu trong không gian - so với Hệ mặt trời?

 

Tại sao ta không cảm thấy trái đất chuyển động?

 

Mỗi giây, trái đất vượt được chặng đường 30 km quanh mặt trời. Đó là chưa kể tới việc nó tự quay quanh mình với tốc độ ở đường xích đạo là 465 mét/giây.
chuyendongtd.png

Chuyển động trái đất

Vậy mà có vẻ như trái đất đang đứng yên, trong khi chỉ cần ngồi lên xe, bạn sẽ thấy xe lao đi nhanh chóng mặt.

Trở lại với một tình huống thường gặp: Khi đi thuyền trên sông, bạn sẽ thấy thuyền lướt rất nhanh, cây cối và mọi vật hai bên bờ cứ trôi qua vùn vụt. Nhưng khi đi tàu thủy trên biển rộng, trước mắt là trời biển xanh biếc một màu, chim hải âu trông xa như một đốm trắng lơ lửng trên không trung, lúc đó, bạn sẽ cảm thấy tàu thủy đi quá chậm, mặc dù tốc độ của nó hơn hẳn tốc độ thuyền trên sông. Vấn đề chính là ở chỗ đó.

 

Khi đi thuyền, cây cối hai bên bờ sông không di chuyển mà chính là thuyền di chuyển. Nếu cây cối ven bờ lao đi càng nhanh, chứng tỏ tốc độ của thuyền càng lớn. Nhưng trên biển rộng không có gì làm mốc để ta thấy tàu đang đi nhanh. Bởi thế bạn thấy nó lướt đi rất chậm, thậm chí có lúc đứng yên.

 

Trái đất như một chiếc tàu khổng lồ trong không gian. Nếu bên cạnh quỹ đạo của nó cũng có những vật mốc như cây cối bên bờ sông, chúng ta sẽ dễ dàng nhận thấy trái đất đang chuyển động. Nhưng ở gần trái đất, tiếc thay, lại không có vật gì làm chuẩn. Chỉ có những vì sao xa tít tắp giúp ta thấy được trái đất thay đổi vị trí theo ngày, tháng mà thôi. Các vì sao này ở quá xa, nên trong một thời gian ngắn mấy phút, mấy giây, chúng ta rất khó cảm nhận thấy trái đất đang chuyển dịch.

 

Còn về việc trái đất tự quay quanh nó với tốc độ khá nhanh, chúng ta và mọi vật ở trên đó cũng đang quay với cùng một tốc độ, bởi vậy chúng ta không cảm nhận được chuyển động này. Nhưng các bạn chớ quên rằng, hàng ngày, chúng ta nhìn thấy mặt trời, mặt trăng và các vì sao mọc đằng đông và lặn đằng tây, đó chính là kết quả của việc trái đất tự quay quanh mình nó.

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

CHUYỆN KHỔNG TỬ VÀ HẠNG THÁC

Tuhai.vn


Một lần, Khổng Tử ngồi trên chiếc xe nhỏ có ngựa kéo chu du khắp các nước. Đến một vùng nọ thấy có chú bé lấy đất đắp một tòa thành, rồi ngồi vào trong đó, Khổng Tử liền hỏi: “Này cháu, cháu trông thấy xe ta đi tới cớ sao không chịu tránh?”
 

Chú bé trả lời:
“Cháu nghe người ta đồn rằng, Khổng Phu Tử trên thông Thiên Văn, dưới tường Địa Lý, giữa hiểu lòng người. Vậy mà hôm nay cháu gặp Phu Tử thì không phải vậy. Bởi vì từ xưa đến nay, chỉ nghe nói đến chuyện xe tránh thành, chứ thành nào lại tránh xe đâu?”.


Khổng Tử ngạc nhiên quá, liền hỏi:
- Cháu tên là gì?
- Dạ Hạng Thác
- Năm nay cháu bao nhiêu tuổi?
- Dạ, 7 tuổi ạ.
- Mới 7 tuổi mà đã khôn ngoan vậy sao?
- Dạ thưa, cháu nghe nói, con cá nở được 3 ngày đã bơi tung tăng từ hồ nọ sang hồ kia. Con thỏ 6 ngày tuổi đã chạy khắp đồng cỏ. Cháu sinh ra đến nay đã được 7 tuổi, lấy gì làm khôn?
Lần này thì Khổng Tử thật sự kinh ngạc, bèn đưa ra liền 16 câu hỏi khó để thử tài Hạng Thác. Thế nhưng Hạng Thác đã trả lời trôi chảy, rồi nói:
- Vừa nãy Khổng Phu Tử hỏi cháu nhiều quá. Bây giờ, cháu xin hỏi Phu Tử: Tại sao con ngỗng và con vịt nổi trên mặt nước? Tại sao chim hồng, chim hộc lại kêu to? Tại sao cây tùng, cây bách lại xanh cả mùa hè lẫn mùa đông?
Khổng Tử đáp: Con ngỗng, con vịt nổi được trên mặt nước là nhờ hai bàn chân vuông làm phương tiện. Chim hồng, chim hộc kêu to, là vì cổ chúng dài. Tùng bách xanh tươi bốn mùa là vì thân chúng đặc.
- Thưa, không đúng! Hạng Thác reo lên - con rùa nổi lên mặt nước, đâu có phải nhờ đôi bàn chân vuông làm bàn đạp. Con ễnh ương kêu to mà cổ nó đâu có dài. Cây trúc cũng xanh bốn mùa, mà ruột nó rỗng đấy thôi.


Khổng Tử chưa biết giải thích ra sao, thì chú bé lại hỏi:
- Thưa Phu Tử, cho phép cháu hỏi thêm. Tại sao mặt trời buổi sáng lại to mà buổi trưa lại nhỏ?


Khổng Tử nói:
- Là vì buổi sáng, mặt trời gần ta hơn.
- Không phải ạ! Hạng Thác vặn lại.

Một lần, Khổng Tử ngồi trên chiếc xe nhỏ có ngựa kéo chu du khắp các nước.
Đến một vùng nọ thấy có chú bé lấy đất đắp một tòa thành, rồi ngồi vào trong đó, Khổng Tử liền hỏi:
“Này cháu, cháu trông thấy xe ta đi tới cớ sao không chịu tránh?”


Chú bé trả lời:
“Cháu nghe người ta đồn rằng, Khổng Phu Tử trên thông thiên văn, dưới tường địa lý, giữa hiểu lòng người. Vậy mà hôm nay cháu gặp Phu Tử thì không phải vậy. Bởi vì từ xưa đến nay, chỉ nghe nói đến chuyện xe tránh thành, chứ thành nào lại tránh xe đâu?”.


Khổng Tử ngạc nhiên quá, liền hỏi:
- Cháu tên là gì?
- Dạ Hạng Thác
- Năm nay cháu bao nhiêu tuổi?
- Dạ, 7 tuổi ạ.
- Mới 7 tuổi mà đã khôn ngoan vậy sao?
- Dạ thưa, cháu nghe nói, con cá nở được 3 ngày đã bơi tung tăng từ hồ nọ sang hồ kia. Con thỏ 6 ngày tuổi đã chạy khắp đồng cỏ. Cháu sinh ra đến nay đã được 7 tuổi, lấy gì làm khôn?
Lần này thì Khổng Tử thật sự kinh ngạc, bèn đưa ra liền 16 câu hỏi khó để thử tài Hạng Thác. Thế nhưng Hạng Thác đã trả lời trôi chảy, rồi nói:
- Vừa nãy Khổng Phu Tử hỏi cháu nhiều quá. Bây giờ, cháu xin hỏi Phu Tử: Tại sao con ngỗng và con vịt nổi trên mặt nước? Tại sao chim hồng, chim hộc lại kêu to? Tại sao cây tùng, cây bách lại xanh cả mùa hè lẫn mùa đông?
Khổng Tử đáp: Con ngỗng, con vịt nổi được trên mặt nước là nhờ hai bàn chân vuông làm phương tiện. Chim hồng, chim hộc kêu to, là vì cổ chúng dài. Tùng bách xanh tươi bốn mùa là vì thân chúng đặc.
- Thưa, không đúng! Hạng Thác reo lên - con rùa nổi lên mặt nước, đâu có phải nhờ đôi bàn chân vuông làm bàn đạp. Con ễnh ương kêu to mà cổ nó đâu có dài. Cây trúc cũng xanh bốn mùa, mà ruột nó rỗng đấy thôi.


Khổng Tử chưa biết giải thích ra sao, thì chú bé lại hỏi:
- Thưa Phu Tử, cho phép cháu hỏi thêm. Tại sao mặt trời buổi sáng lại to mà buổi trưa lại nhỏ?


Khổng Tử nói:
- Là vì buổi sáng, mặt trời gần ta hơn.
- Không phải ạ! Hạng Thác vặn lại
Buổi sáng mặt trời gần ta hơn, sao lại mát, còn buổi trưa mặt trời xa ta hơn, sao lại nóng?
Rồi Hạng Thác lý sự một hồi, khiến Khổng Tử phải thốt lên:
- Cháu còn ít tuổi mà lại thích hỏi những chuyện xa xôi, viễn vông, ở tận đẩu tận đâu, chuyện trước mắt thì không hỏi.


Hạng Thác cười khanh khách nói:
- Vâng, cháu xin hỏi chuyện ngay trước mắt ngài: Vậy lông mày của Phu Tử có bao nhiêu sợi ạ?
Khổng Tử không đáp, sai người đánh xe đi, và than rằng: “Hậu sinh khả úy!”. Câu “hậu sinh khả úy” ra đời từ đấy. Hạng Thác mất năm 10 tuổi, được lập đền thờ, gọi là Tiểu Nhi Thần, nghĩa là Thần Nhi Đồng, gọi tắt là thần đồng. Chữ “thần đồng” cũng có từ ngày đó.

 

Bình:

Đại gia nọ vốn ít chữ, nhờ mánh mung mà nhanh chóng phất thành tỉ phú, giàu có nổi tiếng một vùng. Tuy tiền bạc, của nả chẳng thiếu nhưng vị đại gia vẫn mặc cảm mình chỉ là kẻ trọc phú ít học. Bởi thế ông ta quyết chí tầm sư cho con mình trở thành thiên tài để khoe khoang với thiên hạ.


Nghe đồn, muốn thành tài phải vào học những trường có tiếng, phải lựa chọn những thầy tên tuổi nâng đỡ kèm cặp, vị đại gia nọ bèn sắm sinh lễ vật lên đường tìm thầy giỏi, chọn trường hay cho con.


Đại gia đi mãi, hết thành phố này đến thành phố khác vẫn chưa chọn được những lão sư có khả năng đào tạo thiên tài. Đang lúc mệt mỏi, vị đại gia nọ bỗng gặp một ông già quắc thước, râu tóc bạc phơ, tướng mạo tựa tiên ông, đại gia vội kể lể mục đích chuyến đi và nhờ ông lão chỉ đường đi tìm thầy giỏi. Ông lão cả cười hỏi: "Ông muốn con trai thành thiên tài, vậy có biết thiên tài học thầy nào không ?".


Đại gia lúng túng một lúc rồi thưa: "Các danh sĩ tài năng như Lý Bạch, Đỗ Phủ đều theo học các danh gia từng là học trò của học trò thầy Khổng Tử như Tử Lộ, Tử Cống ạ". "Thế Tử Lộ, Tử Cống học ai ?". Đại gia nọ kiêu hãnh bảo: "Tất nhiên Tử Lộ, Tử Cống học giáo sư thiên tài là thầy Khổng Tử rồi". Ông lão vuốt chòm râu bạc hỏi tiếp: "Thế thầy Khổng Tử học ai ?". Đại gia nọ luống cuống không biết trả lời ra sao, bèn nói bừa: "Thầy Khổng là bậc Thánh nhân, cần gì phải học ai !". Ông lão ngửa mặt lên trời mà than rằng: "Người đời lầm to. Khổng Tử tên thật là Khổng Khâu, con trai của Khổng Thúc Lương Ngột, là người chứ không phải thánh. Khổng Tử từng vái Hạng Thác tôn làm thầy". Nghe tới đó vị đại gia nọ mừng quá reo to: "Vậy lão hãy chỉ đường để tôi gặp thầy Hạng Thác, xin thầy dạy con tôi thành thiên tài như Khổng Tử, mất bao nhiêu tiền tôi cũng theo !".


Ông lão mỉm cười bảo: "Được thôi, ta sẽ giúp ông gặp Hạng Thác. Nhưng ta nói trước, Hạng Thác chỉ là đứa trẻ bảy tuổi chưa biết chữ. Sở dĩ đức Khổng Tử tôn Hạng Thác làm thầy bởi ngài muốn đề cao đức khiêm tốn học hỏi cho người đời". Vị đại gia nghe ông lão nói vậy, tức giận thét lên: "Lão đừng có lừa tôi ! Tôi nhiều tiền, nhất định sẽ mời được thầy Hạng Thác về dạy con tôi thành thiên tài".


23734.jpg

 

Khổng Tử Bái Sư  孔子拜师的故事 - Đạo Giáo Việt Nam 越南道教

Share this post


Link to post
Share on other sites

Phương pháp Huyền không phi tinh theo Trung Tâm Lý Học Đông Phương dựa trên Hà đồ là chuẩn xác.

 

Trên cở sở này và tính hợp lý của mọi vấn đề và các hiện tượng liên quan đến Lý học Đông phương, Phong thủy Lạc Việt đã ứng dụng trong phương pháp Huyền Không Lạc Việt phi tinh. Phương pháp phi tinh theo Huyền Không Lạc Việt khác trên Lạc Thư từ cổ thư chữ Hán được so sánh trên đồ hình sau:

 

hdltphitinh.jpg

hdltvan13.jpg

hdltvan46.jpg

hdltvan79.jpg

Qua sự trình bày trên, chúng ta thấy rằng: Sư khác biệt giữa Huyền Không lạc Việt với Huyền Không trong cổ thư chỉ ở các phương vị phía Nam của Hà Đồ. Đây cũng là khác biệt chủ yếu của phương pháp Huyền Không Lạc Việt khi phi tinh, còn tất cả mối quan hệ phân tích tương quan các sao trong Huyền không và các mối tương quan khác và phương pháp luận trên cơ sở thuyết Âm Dương Ngũ hành không thay đổi.

 

Tính chất của cửu tinh:

- Số 1: Nhất bạch Tham lang: Là cát tinh đứng đầu.

* Âm dương, ngũ hành: Dương thuỷ

 

- Số 2: Nhị hắc Cự môn: là sao xấu, hung.

* Âm dương, ngũ hành: Âm hoả đới thổ.

 

- Số 3: Tam bích Lộc tồn: Là sao xấu.

* Âm dương, ngũ hành: dương mộc.

 

- Số 4: Tứ lục Văn xương: là sao tốt.

* Âm dương, ngũ hành: âm kim.

 

- Số 5: Ngũ hoàng Liêm trinh: Là sao xấu nhất, còn gọi là đại sát tinh.

* Âm dương, ngũ hành: Thổ

 

- Số 6: Lục bạch Vũ khúc: Là sao tốt.

* Âm dương, ngũ hành: Âm kim đới thuỷ.

 

- Số 7: Thất xích Phá quân: Là sao xấu.

* Âm dương, ngũ hành: Dương hoả.

 

- Số 8 : Bát bạch Tả phù: Là sao tốt.

* Âm dương, ngũ hành: Âm mộc.

 

- Số 9: Cửu tử - Hữu bật: là sao trung tính.

* Âm dương, ngũ hành: Dương kim.

 

Trong thuộc tính Cửu Tinh, chúng ta có những vấn đề:

 

- Lục Bạch có thuộc tình Âm Kim đới Thủy - tạo sao lại như vậy, khi trên Hà đồ là Âm Thủy.

 

- Thuộc tính Cửu Tinh phi trên Hà đồ khi đã chọn chủ thể nhận tượng tác và từ đó luận giải tốt, xấu: vậy phải chăng chúng ta quy ước trước cho các sao nào là tốt, xấu là chưa hợp lý?

 

Nếu ví dụ tiên tri cho Việt Nam năm 2014: năm nay Thái tuế chiếu phương Nam (dựa theo Phi tinh thuận) thì tốt hay xấu nhiều... cùng Ngũ Hoàng, Nhị Hắc ở các cung khác...

Share this post


Link to post
Share on other sites

Lục Bạch có thuộc tính Âm Kim đới Thủy - tạo sao lại như vậy, khi trên Hà đồ là Âm Thủy.

 

Vấn đề này chưa logic bởi vì sự thay đổi chỉ diễn ra trong một cung Âm Thủy, cho nên theo tôi, thuộc tính sao Lục Bạch vẫn chính là là Âm Thủy. (Mật ngũ hệ thiên văn lớn hơn mặt trời là thay đổi vùng tương giao, 1 vùng hay vài vùng, với sao Nhị Hắc Âm Hỏa đới Thổ?)

 

Rõ ràng, quy luật phi tinh này đã vượt ra khỏi hệ mặt trời, với chu kỳ 9 năm, 81 lượt thay đổi của chín cung Hà đồ. Do cung mệnh của một đứa trẻ nam và nữ được quy ước theo Huyền không phi tinh, sau hình thành nên bộ môn Bát Trạch, nhưng đã chưa xét đến người mẹ sinh ra chúng tại năm phi tinh đó và người cha của đứa trẻ này, đây là mắt xích nhận định về quy tắc dùng Huyền không trong tiên tri, Thuận hay Nghịch?

 

Trong Đông y, có một nguyên lý phổ quát gọi là "quy tắc mẹ sinh con - mẹ tròn con vuông" tức tính thuận quy luật bao trùm của tự nhiên, "nữ thuận còn nam nghịch tự nhiên" câu này tôi đã đọc đâu đó trong sách phong thủy hay lý học rồi. Vậy thì, khi muốn tiên tri cho một ngôi gia, vùng miền, quốc gia... sẽ áp dụng "Phi tinh thuận" tức tương đương áp dụng cho "nữ".

 

Khi tiên tri cho toàn cầu, tất nhiên cũng không ngoại lệ, tuy nhiên vị trí trung cung đặt ở đâu trên trái đất? Nơi mà cân bằng Âm Dương, bắc và nam bán cầu, chính là đường xích đạo vuông góc với trục quay của trái đất, và cần xét đến các yếu tố đặc trưng khác:

 

- Lục địa và đại dương.

- Núi và sông trên địa cầu.

- Vùng có sinh tụ động vật (tiền thân của con người), con người, các trung tâm văn minh.

 

Xác định được, đó là vùng đất "Giao Chỉ".

 

Đây chỉ là nhận xét cá nhân!.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Hệ mặt trời đã đi vào cung độ của chòm sao Giác (4 ngôi sao tạo nên hình Thánh giá đầu vòng trong Thần đạo Ai Cập - chiếc xương sống của thần chết Osiris) năm 2013 chứ không phải 2012 (định vị lại theo Việt lịch - Âm lịch): bắt đầu một mùa xuân vũ trụ, tức mùa xuân của Thiên cầu chu kỳ 25.920 năm.

 

Giác: có nghĩa là "giác ngộ" một cách trọn vẹn, đầy đủ về ý nghĩa bản chất vũ trụ, đời sống con người và vạn vật.

 

Sao Giác hay Giác Tú (tiếng Hán: 角宿) là tên gọi của một trong hai mươi tám chòm sao cổ đại Đông phương (Nhị thập bát tú). Nghĩa đen của nó là "sừng rồng" và con vật tượng trưng là cá sấu (Giác Mộc Giao). Nó là một trong 7 chòm sao thuộc về Thanh Long ở phương Đông, tượng trưng cho Mộc của Ngũ hành và mùa xuân.

 

Ngày nay, người ta xác định được nó nằm trong khu vực có hai ngôi sao của chòm sao Thất Nữα Virginis (hay Spica), được gọi là Giác Tú 1 hoặc Thiên Môn và ζ Virginis, được gọi là Giác Tú 2. Nên xem lại!

 

Chòm sao Thanh Long phương đông

image_32222_TLBH.jpg

 

Sừng của con Rồng trong cổ vật thời Hạ, Thương, Chu thể hiện rõ ràng. Con Rồng dùng sừng húc tung đất đáy vực ở biển sâu mà nó đang ẩn mình trong 2.160 năm và bay thẳng lên không trung.

 

Cổ vật thời Thương

stock-photo-dragon-shaped-gong-shang-dyn

Hai chiếc sừng Rồng thời Thương cũng là biểu tượng của dãy núi Hindu Kush ở Afganistan.

 

central-asia-mountains.jpg

Share this post


Link to post
Share on other sites

Trên đỉnh Yên Tử (Quảng Ninh), đoạn từ chùa Vân Tiêu đi lên chùa Đồng có một pho tượng đá mình bám đầy rong rêu, hình dáng giống một vị pháp sư đang cung kính lần tràng hạt, mặt hướng về phía Tây.

 

Tương truyền đây chính là tượng đá An Kỳ Sinh (còn có tên gọi khác là Yên Kỳ Sinh) – một vị đạo sỹ nổi tiếng dưới thời Tần Thủy Hoàng ở Trung Quốc, từng qua đỉnh Yên Tử tìm cây thuốc để luyện linh đan rồi hóa đá. Sự thật về tượng đá này cho đến nay vẫn còn là một ẩn số.
Tượng đá hình đạo sỹ

Tượng đá An Kỳ Sinh tọa lạc trên một khoảng đất khá rộng, cách tháp 7 tầng mới, điểm dừng chân cuối cùng của tuyến cáp treo Hoa Yên – Yên Tử khoảng 200m. Đây cũng chính là đoạn cao nhất trong dãy Yên Tử - nơi được mệnh danh là “non thiêng đệ nhất danh thắng”.

Là tượng đá xanh nguyên khối, lại đứng giữa đất trời hàng nghìn năm nên trên mình tượng An Kỳ Sinh bám đầy rong rêu. Thoạt nhìn, tượng là một khối đá tự nhiên, giống dáng một vị sư khoác áo chùng thâm, hai tay đang lần tràng hạt, mặt hướng về phía Tây như đang hướng về đất Phật. Không ai biết “nhà sư” đứng như thế ở đây từ bao giờ, chỉ biết rằng ngài đứng ở đây thanh thản giữa đất trời, tà áo bay trong gió như một sự hiện hữu đầy lạ kỳ.
tuong3.jpg
Người dân khi đi qua pho tượng đều dừng lại thành kính thắp hương để cầu xin sức khỏe.

Quan sát kỹ thì thấy tượng được dựng đứng trên một khối đá hình nấm, dưới chân tượng được cố định bằng xi măng. Trước mặt tượng được xây một bệ thờ ba bậc, bằng xi măng. Bậc trên cùng của bệ thờ đặt một bát hương bằng đá, có nhiều họa tiết hoa văn rất cổ kính, hai bậc giữa và cuối cũng bám đầy rong rêu và đã bị bào mòn bởi thời gian. Bên phải tượng An Kỳ Sinh có một bệ thờ nhỏ, đắp bằng xi măng. Không ai biết đích xác đó là bệ thờ ai, chỉ nghe tương truyền đó là bệ thờ một trong hai vị đệ tử của đạo sỹ An Kỳ Sinh từng theo ông học đạo trên vùng núi Yên Tử này. Bên trái tượng có một biển bằng xi măng cắm trên một cột bê tông hình chữ nhật, nét chữ khắc lõm phết sơn vàng ghi: “Tượng An Kỳ Sinh – di tích có giá trị, đã được xếp hạng bảo vệ, nghiêm cấm mọi hành vi xâm phạm”.

Theo PGS Nguyễn Duy Hinh – người đã từng bỏ rất nhiều tâm sức và thời gian để nghiên cứu về nhân vật An Kỳ Sinh và pho tượng đá kỳ lạ này thì thì trước đây, khu di tích này là một quần thể gồm một tượng đá đứng và hai ngôi mộ hình chữ nhật có núm nhô lên như hình hoa sen, đắp cao khoảng hơn 10cm. Xung quanh có kè đá che chắn khá kiên cố. Nhiều người dân ở đây cho hay, đó chính là tượng An Kỳ Sinh và hai ngôi mộ của hai học trò từng theo ông học đạo. Tượng tuy có hình dạng giống người nhưng lại không phải là đá mọc tự nhiên mà là do con người dựng- Chính vì thế dưới chân tượng mới có nhiều khối đá lớn như bệ để giữ cho tượng không bị đổ. Nếu quan sát kỹ sẽ thấy ở phần ngực tượng có một khung hình chữ nhật khắc lõm và một số vết khắc chữ Hán, qua năm tháng có thể đã bị mờ. Theo phỏng đoán của PGS Hinh thì đó có thể là ngày xưa khi đặt tượng người ta đã khắc tên An Kỳ Sinh như một cách “yểm tâm tượng” thường thấy trong dân gian. Đó cũng chính là dấu vết của một sự gia công của người sau. Gần tượng xưa còn có động Dược am và Thung am (am thuốc và am luyện thuốc) tương truyền là nơi đạo sĩ An Kỳ Sinh và các học trò luyện thuốc trường sinh.

Một điều rất lạ là đoạn từ tháp 7 tầng đi lên chùa Đồng, đoạn nào cũng dốc, đá núi lởm chởm thì chỗ đặt tượng thờ An Kỳ Sinh lại bằng phẳng mặc dù rộng chưa đầy 100m2. Theo nhiều người bán hàng ở đây cho biết, chỉ duy nhất ở đoạn này, trên hành trình lên chùa Đồng không bao giờ xảy ra cảnh chen lấn, xô đẩy. Khi đi qua đoạn này, du khách thập phương thường kiên nhẫn đứng lại, chờ đến lượt mình được vào lễ bái chứ không tranh giành nhau như ở chùa dưới. Nhiều người cho rằng An Kỳ Sinh là một vị đạo sĩ chuyên luyện thuốc cứu người nên khi đi qua đây người đi chùa thường lấy một tờ tiền mới, chà lên mình tượng để cầu sức khỏe. Nhiều người dân còn đồn thổi: Có người khi mắc bệnh hiểm nghèo, vô phương cứu chữa đã đến đây lập đàn cúng tế, xin cho bệnh tật tiêu tan, tai qua nạn khỏi đã rất linh ứng (?!).

tuong13.jpg

An Kỳ Sinh từng đặt chân đến Yên Tử?

Từ trước đến nay, nhiều người vẫn tin rằng tượng đá kỳ lạ này chính là hiện thân của An Kỳ Sinh nhưng không ai biết An Kỳ Sinh là người nước nào và vì sao ông lại đến Yên Tử? Cũng có người từng đưa ra giả thiết: An Kỳ Sinh không phải là đạo sĩ mà là một vị thiền sư, sau khi đi truyền đạo đến Yên Tử thấy cảnh sắc nơi đây hùng vĩ liền dừng chân lập am hành đạo. Chính vì thế mà người ta lấy tên ông để đặt tên cho cả dãy Yên Tử này (Theo sách An Nam Chí của Cao Hùng Trưng, núi Yên Tử ban đầu có tên là Tượng Đầu sơn).

Còn theo PGS Nguyễn Duy Hinh thì ông đã từng tìm hiểu rất nhiều sách vở và tài liệu cổ của Việt Nam lẫn Trung Hoa để lần tìm dấu vết của An Kỳ Sinh, song đây là một nhân vật có hành tung “ẩn tàng” khá ly kỳ.

Sách “Lịch triều hiến chương loại chí” của nhà sử học Phan Huy Chú có dẫn bài thơ “Thủy văn tùy bút” của Phật hoàng Trần Nhân Tông. Bài thơ này có nhắc đến Yên Kỳ Sinh như một vị tiên giả từng tu luyện linh đan trên đỉnh cao nhất của Yên Tử. Như vậy, ngay từ thời Trần trên núi Yên Tử đã có di tích An Kỳ Sinh, đó là một bằng chứng thực tế có thể tin tưởng được và như vậy có nghĩa là pho tượng đã này có tuổi đời khá lâu trước đó.

Về nguồn gốc của vị đạo sỹ họ Yên này, PGS Hinh cho biết, theo sách “Liệt tiên truyện” của Trung Quốc thì Yên Kỳ Sinh là người Phụ Hương ở Lang Gia (vùng Chư Thành, tỉnh Sơn Đông ngày nay), chuyên bán thuốc ven biển Đông Hải, người bấy giờ gọi là Thiên Tuế Ông. Tần Thủy Hoàng đi tuần phương Đông đã từng nói chuyện với ông rồi tặng ông kim hoàng cùng ngọc bích. Không hiểu sao sau đó ông bỏ lại số quà tặng quí báu này trong đình Phụ Hương rồi để lại một bức thư, một đôi giày bằng xích ngọc để báo đáp và dặn Tần Thủy Hoàng mấy năm sau hãy đến tìm ông ở núi Bồng Lai. Theo lời dặn, mấy năm sau Tần Thủy Hoàng sai Từ Thị (Từ Phúc), Lô Sinh đem mấy trăm người ra biển tìm ông nhưng chưa đến núi Bồng Lai thì gặp bão nên phải quay về. Tần Thủy Hoàng cho lập hơn 10 chỗ thờ ông ở đình Phụ Hương và ven biển Đông Hải. Nhà Tần mất, ông ở cùng người bạn thân là Khoái Thông. Tây Sở Bá Vương Hạng Vũ từng mời ông ra làm quan, ông bèn đi nơi khác, không biết chết ở đâu.
 
Trong một số thư tịch và sử liệu khác của Trung Hoa còn có thêm chi tiết, Yên Kỳ Sinh đã từng tìm được cây thạch xương bồ để cứu một người qua cơn thập tử nhất sinh và cũng chính nhờ uống loại cây kỳ diệu này mà trở nên trường sinh bất tử, sống đến nghìn năm.

Cũng theo PGS Hinh thì trong sách “Đại Nam nhất thống chí” của Việt Nam từng nhắc đến loại cây thạch xương bồ (tương truyền là một loại kỳ dược, có thể chữa được bách bệnh) mọc khá nhiều trên đỉnh núi các vùng Sơn Tây (Hà Tây), Tam Dương và Lập Thạch (thuộc vùng đất Quảng Ninh và Phú Thọ ngày nay). Như vậy, khả năng Yên Kỳ Sinh từng tìm đến Yên Tử để tìm cây thạch xương bồ cứu người hoặc luyện linh đan, sau đó ở lại nơi đây tu luyện là có thể xảy ra.

“Thêm vào đó, dười thời Tần Hán con đường giao thương giữa Giao Châu với các miền ven biển Đông Hải khá thuận lợi. Những di tích khảo cổ học thời Ân Thương ở Quảng Đông và Việt Nam đã chứng tỏ mối quan hệ khó tưởng giữa hai nước. Cho nên, khả năng Yên Kỳ Sinh theo đường biển, vượt biên giới đến Yên Tử vào thứ kỷ III trước CN để tìm cây thuốc chữa bệnh cứu người hoặc tìm một vùng đất thiêng để luyện linh đan là có thể chấp nhận” – PGS Hinh cho biết.
 

Về pho tượng đá An Kỳ Sinh, PGS Hinh từng nhận định rằng đây là một di tích ngoài trời mang tính dân gian, hoặc do môn đệ của Yên Kỳ Sinh lập nên hoặc do nhân dân tạo dựng để dánh dấu sự có mặt của Yên Kỳ Sinh và môn phái của ông trên đỉnh núi này. “Còn việc chỉ có mộ của học trò mà không có mộ của ông, có thể lý giải do Yên Kỳ Sinh là tiên nên bay lên trời chứ không chết nên không có mộ. Hoặc cũng có thể môn đồ của của ông đến đây luyện linh đan rồi chết, mộ của họ còn đó và bên cạnh là tượng thờ tổ sư” – PGS Hinh nói.

 

Hà Tùng Long
 
Yên Kỳ Sinh có hẹn 2.000 năm sau sẽ gặp lại Tần Thủy Hoàng, và ông để lại một đôi hài màu đỏ làm tin.
 
Tại sao lại đôi hài màu đỏ? Nếu xem lại tục cúng 12 Bà Mụ khi đầy năm của trẻ sơ sinh người Việt thì phải làm 1 đôi hài màu đỏ và 12 đôi hài màu xanh -> mang ý nghĩa kết thúc chu kỳ cũ 12 cung Hoàng đạo và bắt đầu một chu kỳ mới và "giờ đã đến hẹn lại lên".
 
An Kỳ Sinh chính là vị tiên Lữ (Lý) Đồng Tân, đang được thờ ở đền Ngọc Sơn, hồ Hoàn Kiếm. Hà Nội.
 
Còn chùa Đồng trên đỉnh Yên Tử, theo nhà bác học Lê Quý Đôn (không nhớ chắc chắn) thì thờ 2 vị - nhưng không rõ? -> đấy chính là cha mẹ của thạch tiên An Kỳ Sinh, hai người có khả năng tạo lập "đại đồng".

Share this post


Link to post
Share on other sites
Còn chùa Đồng trên đỉnh Yên Tử, theo nhà bác học Lê Quý Đôn (không nhớ chắc chắn) thì thờ 2 vị - nhưng không rõ? -> đấy chính là cha mẹ của thạch tiên An Kỳ Sinh, hai người có khả năng tạo lập "đại đồng".
 
Chùa Hoa Yên,Chùa Thiên Trúc &Thiền viện trúc Lâm Yên Tử Quảng Ninh

 

Núi Yên Tử ở xã Thượng Yên Công, phía Tây thị xã Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, có đỉnh cao 1068m.

 

Chùa Hoa Yên thường gọi là chùa Cả, tọa lạc trên núi Yên Tử, ở độ cao 516m.  Chùa nguyên tên là Vân Yên, do Thiền sư Hiện Quang khai sơn. Ngài là đệ tử nối pháp của Thiền sư Thường Chiếu. Kế tiếp Thiền sư Hiện Quang là Quốc sư Trúc Lâm, Quốc sư Đại Đăng, Thiền sư Tiêu Diêu, Thiền sư Huệ Tuệ, Đại Đầu Đà Trúc Lâm tức Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông (1299) v.v...

Đại Đầu Đà Trúc Lâm thuộc thế hệ thứ 6 ở Yên Tử, nhưng đến Ngài, Ngài đã thống nhất các Thiền phái đã có thành một Thiền phái Trúc Lâm nên người đời gọi Ngài là Trúc Lâm đệ nhất Tổ.

Ngài cho mở chùa Vân Yên to rộng, tả hữu dựng viện Phù Đồ, lầu chuông trống, nhà dưỡng tăng, nhà khách, dưới sườn núi dựng nhà cửa suốt đến xứ Thanh Lương. Tăng đồ khắp nơi đến nghe giảng yếu chỉ Thiền tông rất đông. Chùa Vân Yên trở thành trung tâm Phật giáo thời bấy giờ.

Đến khoảng niên hiệu Hồng Đức (1470-1497), vua Lê Thánh Tông lên thăm chùa, thấy cảnh hoa nở đầy sân, bèn cho đổi tên là Hoa Yên.

Trước chùa Hoa Yên có Hue Quang Kim Tháp xây năm 1309, an táng Xá Lợi Trần Nhân Tông, và hơn 40 ngôi tháp lớn nhỏ khác, đều là tháp cổ đời Trần.

Hệ thống chùa ở Yên Tử hiện nay đang được trùng tu, xây dựng quy mô lớn : chùa Cầm Thực, chùa Giải Oan, chùa Một Mái, chùa Bảo Sái, chùa Vân Tiêu, chùa Thiên Trúc v.v… Tuyến cáp treo từ chân núi đến gần khu vực tháp Tổ đã hoạt động từ năm 2002.

yentu1.gif

Yên Tử

Chùa Thiên Trúc (chùa Đồng) trên đỉnh núi Yên Tử do một bà phi của chúa Trịnh phát tâm cúng dường. Ngôi chùa nhỏ ở dạng một khối đồng hình chữ nhật, cao 1,35m, dài 1,4m, rộng 1,1m, qua thời gian đã hư hỏng nhiều. Ngay 23-10-2005, UBND tỉnh và Ban Trị sự Phật giáo tỉnh Quảng Ninh đã làm lễ khởi công xây dựng lại chùa Đồng hoàn toàn bằng chất liệu đồng với khoảng 70 tấn đồng, diện tích khoảng 20m2 ; chiều cao từ cột nền tới mái là 3,35m, mỗi viên ngói nặng khoảng 4 kg, 4 cột chùa, mỗi cột nặng 1 tấn. Trong Đại lễ khánh thành chùa Đồng ngày 30-01-2007, Trung tâm Sách Kỷ lục Việt Nam đã trao bằng xác lập kỷ lục : Thiên Trúc Tự - ngôi chùa bằng đồng lớn nhất Việt Nam trước hàng ngàn Chư tôn đức Tăng Ni, quan khách, Phật tử và du khách tham dự.

yentu-2.gif
Đường lên Yên Tử

yentu3.gif
Chùa Hoa Yên

yentu-4.gif
Thăm chùa Hoa Yên

yentu-5.gif
Tháp Huệ Quang 

yentu-6.gif
Viếng Tháp Tổ

yentu-7.gif
Đường lên chùa Đồng

yentu-8.gif
Chùa Đồng

yentu-9.gif
Đại lễ khánh thành chùa Đồng

 

Thiền viện Trúc Lâm, tức chùa Lân, chùa Long Động, nằm trên đường vào khu danh thắng Yên Tử, cách tỉnh lộ 18 khoảng 10 km, thuộc xã Thượng Yên Công, thị xã Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, đã được Hòa thượng Thích Thanh Từ cho khởi công xây dựng lại ngày 15-8-2002 và tổ chức lễ khánh thành ngày 14-12-2002. Đây là nơi trước kia Trúc Lâm đệ nhất Tổ Trần Nhân Tông làm nơi giảng đạo.

Trước sân Thiền viện có đặt một quả cầu Như Ý Báo Ân Phật bằng đá hoa cương đỏ (rubi), đường kính 1.590 mm, trọng lượng 6,5 tấn, được lấy tại mỏ đá An Nhơn (Quy Nhơn). Quả cầu đặt trên một bệ đá granit có tiết diện vuông, nặng 4 tấn, bọc bên ngoài là bể nước hình bát giác với tám bồn hình cánh hoa bao quanh tượng trưng cho Bát Chánh Đạo. Quả cầu do nhóm Phật tử Minh Hạnh Túc phát tâm cúng dường, được Công ty TNHH Hà Quang thi công trong 18 tháng. Lễ cúng dường được tổ chức vào ngày 06-7-2005 (01 tháng 6 năm At Dậu). Trung tâm Sách Kỷ lục Việt Nam đã xác lập kỷ lục :

 

Quả cầu Như Ý lớn nhất Việt Nam.

yentu-10.gif
Toàn cảnh Thiền viện Trúc Lâm

Lễ hội Yên Tử bắt đầu ngày 10 tháng giêng (âm lịch) kéo dài đến hết tháng ba. Ca dao có câu :

Trăm năm tích đức tu hành,
Chưa đi Yên Tử, chưa thành quả tu.

Hiện nay mỗi năm, có khoảng cả triệu Tăng Ni, Phật tử và du khách về tham quan Khu di tích lịch sử văn hóa nổi tiếng này ở Quảng Ninh. Di tích Trúc Lâm - Yên Tử đã được báo Sài Gòn Tiếp thị (số 16, ngày 28-4-2005) công bố là 1 trong 10 điểm du lịch hành hương được du khách hài lòng nhất năm 2005.

yentu-11.gif
Chánh Điện thờ Phật tại TV Trúc Lâm

yentu-12.gif
Điện thờ Trúc Lâm Tam Tổ

yentu-13.gif
Quả cầu Như Ý Báo Ân Phật

yentu-14.gif
Về thăm Yên Tử

yentu-15.gif
Đại biểu Phật giáo Toàn quốc về thăm Yên Tử

Đặc biệt, Khu di tích danh thắng Yên Tử còn thường xuyên đón tiếp Chư tôn đức Tăng Ni lãnh đạo Phật giáo trong nước và các nước trên thế giới. Ngày 14-12-2007, hàng ngàn Chư tôn đức Tăng Ni, quan khách và Phật tử cả nước về Hà Nội dự Đai hội Đại biểu Phật giáo Toàn quốc lần thứ VI đã về thăm Yên Tử.  Ngày 17-5-2008, đã có hơn 1.000 đại biểu, trong đó, hơn 160 đại biểu Quốc tế đến từ hơn 30 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới cùng khoảng 7.000 Phật tử trong cả nước đến Hà Nội dự Đại lễ Phật đản Liên Hợp Quốc (Vesak 2008) đã hành hương về chốn thiêng Yên Tử để chiêm bái và làm lễ cầu nguyện hòa bình, an lạc, hữu nghị cho nhân loại. Và ngày 27-11 năm nay, Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam cùng Ban Trị sự Phật giáo tỉnh Quảng Ninh chuẩn bị tổ chức Đại lễ kỷ niệm 700 năm ngày mất của đức Vua - Phật Hoàng Trần Nhân Tông với quy mô hoành tráng, trang nghiêm tại Khu danh thắng tâm linh quan trọng Yên Tử, Quảng Ninh

Tư liệu THÁP HUỆ QUANG

Thờ Đệ nhất Tổ Trúc Lâm Điều ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông, tên húy là Trần Khâm.

Pháp danh : Hương Vân Đại Đầu Đà. Đạo hiệu : Trúc Lâm Đại Sỹ.

Sanh vào ngày 11 tháng 11 năm Mậu Ngọ (năm 1258). Hiển Phật : Đêm 03 tháng 11 năm Mậu Thân (năm 1308). Trụ thế : 50 năm.

Sự nghiệp tu hành : Là con trưởng của vua Trần Thánh Tông và Nguyên Thánh Hoàng Thái Hậu. Năm 16 tuổi được lập làm Hoàng Thái Tử. Từ nhỏ, Ngài đã được lĩnh hội tư tưởng Thiền tông từ ông nội Trần Thái Tông và người cậu Tuệ Trung Thượng Sĩ Trần Tung nên rất mộ đạo Phật. Trong lần về Yên Tử cùng vua cha (năm 1279), Ngài đã ngỏ ý xin ở lại Yên Tử để tu hành. Trở về kinh, vua Trần Thánh Tông vội cử Lễ Truyền ngôi cho Ngài, khi ấy Ngài tròn 21 tuổi. Trong 14 năm trên cương vị Hoàng đế, Ngài đã hai lần trực tiếp lãnh đạo toàn dân đánh thắng giặc ngoại xâm (năm 1285 và năm 1288), xây dựng cơ nghiệp nhà Trần được hưng thịnh. Đến năm Quý Tỵ (năm 1293), Ngài truyền ngôi cho con là Thái tử Trần Thuyên rồi lui về Thiên Trường, chuyên tâm giảng cứu kinh sách Phật. Ở lứa tuổi 35, trí lực sung mãn, Ngài tập trung xây dựng một hệ thống giáo lý mới mẻ của đạo Phật dân tộc. Năm Ất Mùi (năm 1295), Ngài thực tập xuất gia ở hành cung Vũ Lâm (Gia Khánh, Ninh Bình) và có ý định tu ở đó. Tháng 8 năm Kỷ Hợi (năm 1299), Ngài rời Vũ Lâm, chính thức xuất gia về Yên Tử tu hành, sáng lập dòng Thiền Trúc Lâm, xây dựng Yên Tử trở thành Trung tâm của Phật giáo Đại Việt. Từ lúc xuất gia, Ngài được rảnh rang lo việc Đạo, Ngài đã đi khắp nơi trong nước để giảng giải cho chúng dân hiểu rõ và làm theo "Mười Điều Thiện" của đạo Phật. Ngài có công phát hiện và bồi dưỡng các tài năng có học vấn. có giới đức, xứng đáng là người Thầy tâm hồn của chúng dân. Đến năm Mậu Thân (năm 1308), tại chùa Siêu Loại, đức Điều Ngự tổ chức long trọng Lễ Truyền đăng trao Y Bát cho Thiền sư Pháp Loa kế vị làm Tổ thứ 2 của Thiền phái Trúc Lâm, rồi hiển Phật vào đêm mùng 3 tháng 11 năm Mậu Thân (năm 1308).

Tháp xây dựng vào năm Kỷ Dậu (năm 1309), niên hiệu Hưng Long thứ 17, trong lăng Quy Đức, để quàn Xá Lợi đức Điều Ngự, tên gọi là Huệ Quang Kim Tháp và dâng tôn hiệu là Đại Thánh Trần Triều Trúc Lâm Đầu Đà Tĩnh Tuệ Giác Hoàng Điều Ngự Tổ Phật.

(Bài văn bia tại tháp Huệ Quang, Yên Tử, Quảng Ninh)

Bài và ảnh: Võ Văn Tường

Share this post


Link to post
Share on other sites

VỀ TƯỢNG VIÊM ĐẾ VÀ HOÀNG ĐẾ MỚI ĐƯỢC XÂY DỰNG BÊN SÔNG HOÀNG HÀ

Tác giả: Hà Văn Thùy.
 
Theo các báo, ngày 18 tháng 4 năm 2007, tại thành phố Trịnh Châu, thủ phủ tỉnh Hà Nam Trung Quốc khánh thành tượng Viêm Đế và Hoàng Đế cao 106 m, được xây dựng trên một ngọn núi nhìn ra sông Hoàng Hà.
 
Truyền thuyết cho rằng Hoàng Đế và Viêm Đế cùng trong một bộ lạc do Viêm Đế làm chủ. Sau đó, Hoàng Đế mạnh lên, đánh thắng Viêm Đế ở trận Phản Tuyền. Viêm Đế quy phục. Nhưng bộ tướng của ông là Si Vưu nổi lên đánh lại, buộc Hoàng Đế phải tận lực tiêu diệt trong trận Trác Lộc. Người Hán được gọi là Viêm Hoàng tử tôn, tức là con cháu của Viêm Đế và Hoàng Đế.
 
     Đấy là truyền thuyết. Mà truyền thuyết thì không phải là lịch sử. Trong chính sử, ngườiTrung Quốc cho rằng, họ là hậu duệ của người Bắc Kinh, xuất hiện 600.000 năm trước tại di chỉ Chu Khẩu Điếm. Xa hơn nữa, tổ tiên của họ là người Nguyên Mưu, sống cách nay 1,7 triệu năm. Tuy nhiên, sang thế kỷ này, khoa học khám phá rằng, người Bắc Kinh và người Nguyên Mưu thuộc loài người Đứng thẳng Homo erectus, một loài tiền nhiệm của loài người hiện nay và đã bị tuyệt diệt khoảng 250.000 năm trước tại châu Á.
 
    Một thuyết khác ra đời năm 2005, căn cứ vào một số tiếng nói và tôn giáo cho rằng, tổ tiên người Trung Quốc là người Arian từ phía Tây tới. Tuy nhiên thuyết này mâu thuẫn với thực tế vì nếu vậy, người Trung Quốc hiện nay phải có mã di truyền Ấn-Âu giống với người Ấn Độ. Trong khi đó, 93% người Trung Quốc hiện nay có mã di truyền của người Mongoloid phương Nam.
 
75157338-110544_yh3.jpg
 
  Từ khám phá của di truyền học đầu thế kỷ cho thấy, con người hiện đại xuất hiện đầu tiên ở châu Phi rồi từ đó theo ven biển Nam Á tới Việt Nam. Khoảng 40.000 năm trước, người từ Việt Nam đi lên khai phá Trung Hoa. Khoảng 4000 năm TCN, người Việt đã xây dựng trên đất Trung Hoa nền kinh tế nông nghiệp phát triển rực rỡ. Tại văn hóa Ngưỡng Thiều phía nam Hoàng Hà xuất hiện trung tâm lớn của người Việt. Thần Nông (3320-3080 TCN) chủ nhân văn hóa Ngưỡng Thiều, là con cháu người Lạc Việt, có nước da đen như da người Tây Nguyên hiện nay. Trong khi đó Hoàng Đế thuộc chủng Mongoloid phương Bắc (North Mongoloid), là thủ lĩnh bộ lạc du mục Hiên Viên, đánh trận Trác Lộc chiếm nam Hoàng Hà khoảng năm 2698 TCN. Như vậy, Hiên Viên là dân Mông Cổ rặt, có nước da sáng. Hoàng Đế sau Viêm Đế hơn 300 năm nên về thứ thế, chỉ ngang với với Đế Lai, cháu nhiều đời của Thần Nông.
 
   Vào chiếm vùng Trong Nguồn của người Việt (sau đổi thành Trung Nguyên), người Mông Cổ lai giống với người Việt, sinh ra người Hoa Hạ. Ban đầu người Mông Cổ gọi người bản địa là “dân đen” –  chỉ dân da đen. Sau này do hòa huyết nhiều đời với người Việt, Hoa Hạ cũng thành đen. Chắt của Hoàng Đế là Đế Khốc, tên Việt gốc là Cốc, do nước da đen như con chim cốc. Thành Thang tổ nhà Thương do nước da đen nên có tên Việt là Than, sau đọc trại là Thang. Thương tụng của Kinh Thư gọi là “huyền điểu”. Mãi sau này, Lão Tử cũng có nước da đen bóng của người Việt.
 
  Người Hoa Hạ tồn tại và giữ vai trò thống trị tới vương triều Chu. Cuối thời Chiến Quốc, nhà Chu bị diệt, dân Hoa Hạ tan biến trong khối dân Việt đông đúc của vương triều Tần rồi Hán. Tuy nhiên do vinh quang quá khứ của Hoa Hạ nên người Tần Hán dù không dính dáng gì tới máu huyết Hoàng Đế cũng nhận là Hoa Hạ. Do quan hệ huyết thống như vậy nên nói người Trung Quốc là Viêm Hoàng tử tôn chỉ đúng một phần!
 
75157338-110547_yh2.jpg
   
Rõ ràng, hai bức tượng được dựng theo truyền thuyết. Truyền thuyết là ký ức mơ hồ của cộng đồng, vừa thật vừa ảo, tồn tại tự nhiên trong tâm thức, như con cá bơi trong nước. Cá đưa ra khỏi nước sẽ chết. Một khi biến truyền thuyết thành lịch sử với tượng đồng bia đá, thì cái phần mờ mờ ảo diệu bị tước đi, còn trơ lại những điều không thật nên tượng đồng bia đá thành đồ giả!
 

Bức tượng đồ sộ và trang trọng kia cho thấy, người Trung Hoa chưa thực sự biết tổ tiên họ là ai!

 

Để biết được Viêm Đế và Hoàng Đế là ai đâu phải chuyện dễ dàng, cần sử dụng thuyết Âm Dương Ngũ Hành cùng Hậu Thiên Bát Quái, Tiên Thiên Bát Quái, Hà đồ - Lạc thư và các dữ liệu như dưới đây:

- Kinh thư.

- Kinh thư diễn nghĩa (Lê Quý Đôn).

- Lữ Thị xuân thu.

- Hoài Nam Tử liệt truyện.

- Sử ký Tư Mã Thiên.

- Gia phả, thần tích Việt thời Hùng Vương.

- Truyền thuyết và huyền thoại Việt và Trung Hoa.

- Thần tiên truyện.

- Tham khảo tới cổ vật Hạ, Thương, Chu.

- Thiên văn, lịch pháp Đông phương.

- Chu Dịch.

-...

 

Biết được:

- Viêm Đế tức Đế Nghi - hành hỏa, phương nam, còn Viêm Đế Thần Nông là ông nội của Đế Nghi, thuộc cấu trúc cao hơn của Bắc và Nam Dương Tử.

 

- Hoàng Đế tức Đế Lai (con trai trưởng của Đế Nghi, cha của bà Âu Cơ) - hành thổ, trung ương.

 

Vậy, sẽ có câu hỏi: Đế Minh truyền cho Đế Nghi làm vua phương Bắc còn Kinh Dương Vương làm vua phương Nam, vậy tại sao Đế Nghi lại là hành hỏa, phương nam?

 

Vậy mới gọi là mật ngữ, mộ của Đế Nghi hiện ở Việt Nam, còn của Đế Lai ở Trung Quốc chứ không chuyển về Việt Nam. 

Share this post


Link to post
Share on other sites

Tôi ghi nhận những chú ý về mặt thời gian của các mốc cổ đại quan trọng của nước Văn Lang:

 

- Thời điểm Kinh Dương Vương lên ngôi năm Nhâm Tuất 2879 TCN, vận 7, hội Ngọ (theo phả hệ, được xem là lúc 41 tuổi).

- Kinh Dương Vương là Hùng Vương Thứ Nhất và An Dương Vương là Hùng Vương Thứ 108 - có tất cả 108 vua Hùng tương ứng với 18 đời Hùng Vương.

- Cha mẹ và tổ tiên của Kinh Dương Vương được ghi chép tới 5 đời trước là kết thúc, thời điểm trước đó không ghi chép sử và gọi chung là thời kỳ Tổ Tông - Hồng Bàng. Như vậy, lịch sử Văn Lang ghi chép chính xác trong khoảng thời gian từ 3050-2950 TCN.

 

Đối chiếu và phân tích:

 

- Đối chiếu tới sử của Ai Cập là cực kỳ quan trọng, bởi vùng phía tây sa mạc của sông Nile nơi chôn cất Pharaohs và người dân hầu hết còn nguyên vẹn, cổ vật khai quật được nhiều vô cùng và phong phú với cả triệu cái xác ướp (mummy), truyền thuyết và thần thoại cũng rất độc đáo và hầu hết còn lưu giữ nguyên vẹn ý nghĩa nguyên thủy, nhưng cổ sử Ai Cập lờ mờ tại khoảng thời gian >2800 TCN.

 

- Đối chiếu với sử Lưỡng Hà: bắt đầu lờ mờ khoảng >2300 CTN với cổ vật đồng và đá, tất nhiên phải có quá trình tích lũy và phát triển trước mốc thời gian này.

 

- Ấn Độ cũng tương tự với các di chỉ Mohejo-daro và Harpara vùng Afganistan ngày nay, 2300 TCN.

 

Đối chiếu với Trung Hoa, Nhật bản, hàn Quốc và Đông Nam Á, Tây Tạng, Bangladet:

 

- Chỉ duy nhất tại Trung Hoa sử rõ ràng tới thời nhà Hạ, Thương, Chu, tức cũng khoảng 2300 TCN, lúc này cần phải đi chi tiết vào văn hóa đá mới, ngọc khí, đồ gốm... từ đó, lại dẫn tới đi chi tiết vào các văn hóa tương tự tại Việt Nam và Nam Dương Tử và các quốc gia cổ đại khác. Qua đó, sẽ thấy rằng lịch sử văn minh nhân loại có một bước nhảy vọt khoảng gần 5000 năm trước (do vậy, cuốn sách Nguồn gốc người Việt - người Mường của Tạ Đức là cực kỳ quan trọng, khi chúng ta bỏ qua những nhận định về thiên di...).

 

Nhảy vọt về tri thức:

 

Sự nhảy vọt này được xác định trong khoảng 2700-2300 TCN về nhiều mặt, đặc biệt về thiên văn, lịch pháp, nông nghiệp - với sự khai thác các loại cây lúa và cây nông nghiệp. Thời gian đại nhảy vọt này sau thời kỳ Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, Hùng Quốc Vương ước hơn 200 năm.

 

Vũ trụ quan và thế giới quan cổ đại dựa trên hai lớp hệ thần thánh: từ vũ trụ nguyên thủy có lớp thần đầu tiên và sau đó có lớp thần tạo ra loài người, các nhân vật thần thánh được tôn thờ trên toàn thế giới quy ước tương ứng tới các chòm sao thiên văn, lịch sử... là các nhân vật lịch sử nước Văn Lang ở trên, do các ngài đã có công truyền bá tri thức đến toàn thế giới, và họ đã trở thành một thành phần của nền văn hóa bản địa vô cùng sâu sắc và độc đáo. Cái giá trị cao nhất mà các vua Hùng giúp cho thế giới cổ đại và vĩnh viễn cho tới ngày nay, cũng như mai sau đó là: "Đại Đạo chân chính" - hiểu rõ bản chất vũ trụ, đời người và diễn tiến của nó đi đâu, về đâu...

 

Nền văn minh Atlantic:

 

Sự trùng hợp về tên gọi Thái Bình Dương là Atlantic, chính là nền văn hóa này chứ không phải trước thời Kinh Dương Vương nhiều nghìn năm. Do vậy, năm 2879 TCN chính là mốc năm tham chiếu thời gian chính xác cho lịch sử văn minh nhân loại của toàn thế giới.

 

Văn minh Atlantic bị chìm xuống biển (thế giới đi vào cung Song Ngư) chính là nói về bí ẩn của nền văn hóa Văn Lang đã bị mai một, cho mãi tới thời Nghiêu - Thuấn - Vũ của Trung Quốc vẫn là thời "thái bình thịnh trị", ngoại trừ các vùng Lưỡng Hà và Ai Cập với những công trình kỳ vĩ như kim tự tháp thì làm sao thái bình được với hàng chục triệu nô lệ và các cuộc chiến tranh.

 

Ghi chú:

 

Lịch sử của các nền văn minh trong các sách hiện nay còn có những mục đích "thần quyền" và "thế quyền" nữa, khi đọc cần chắt lọc một cách logic. Ví dụ, người ta sử dụng lịch sử thiên văn Ai Cập ghi chép cực kỳ chính xác các chòm sao của bầu trời phương bắc vào khoảng năm 150 TCN để giải thích tương ứng tới thiên văn Lưỡng Hà, nhưng lại cho rằng những con dấu bằng đá có tượng thần - chòm sao ở những năm 4000-3000 TCN, nhằm mục đích "thần quyền" cho vùng Lưỡng Hà với các tôn giáo đã biết (tất nhiên, họ không thể và không bao giờ biết được những vị thần đang tôn thờ là ai cả!), hàm ý "cái rốn vũ trụ" tức về mặt bản chất mong muốn duy trì tư tường nô lệ con người nhằm phục vụ cho cuộc sống ăn trên, ngồi trốc sung sướng của mình, chứ làm quái gì những ông ở đâu đâu Rome - nước Ý lại "chúng tôi thương các bạn lắm lắm" - lên thiên đường nhé, mấy nghìn năm mà chả thấy ông bà nào mô tả bản chất của thiên đường cụ thể cả (một số nhân vật có khả năng tâm linh cũng có kể lại đôi phần). Kẻ đã đắc đạo, giải thoát, lên thiên đường ở đâu? Tiên tri người Pháp cùng thời với Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm là ông Naustradamus đã từng viết: "toàn những lời dối trá, hư ngụy".

 

Bống bống, bang bang,

Lên ăn cơm vàng, cơm bạc nhà ta,

Chớ ăn cơm hẩm, cháo hoa nhà người.

 

Lịch sử đau thương của dân tộc cho thấy rằng, cơm hẩm, cháo hoa mà cổ nhân đã nói vẫn thực sự chưa... ngon, mà phải cơm sườn... người!

Share this post


Link to post
Share on other sites

Sự xác định về mặt thời gian của năm Kinh Dương Vương lên ngôi 2879 TCN khi đối chiếu với toàn bộ dữ kiện lịch sử tại Việt Nam, Trung Quốc và thế giới là chính xác, với sai số vài năm do 5 đời trước Ngài sẽ được tính thời gian trung bình của một đời người.

 

Tại thời điểm này, so sánh tới sự phát triển xã hội sẽ có những vấn đề cần đặt ra:

 

- Rơi vào thời kỳ tiền đồ đồng.

 

- Rơi vào thời kỳ đồ ngọc - như ngọc Lương Chử vùng Chiết Giang (thuộc Văn Lang) và sự phân bố nha chương, rìu Việt, đĩa bích của Văn Lang -Đông Nam Á và Trung Quốc.

 

- Vẫn còn một số đồ đá mới ở những vùng khác nhau.

 

- Theo nhận định cấu trúc xã hội: đã có chế độ quản trị quốc gia Văn Lang và Trung Quốc và một số nơi khác, do vậy biểu tượng của quốc gia phải tồn tại, chẳng hạn học thuyết Âm Dương Ngũ Hành, rìu Việt, nha chương, ống tông, đĩa bích, đỉnh đồng (nên tham khảo Nguồn gốc người Việt - người Mường của Tạ Đức) ... -> phải cân nhắc lịch sử trước đó đủ tích lũy kiến thức hình thành nên học thuyết và có sự đột biến tri thức, đồng thời sự kiện khả năng các vị Hùng Vương cũng suy tôn "thành quả" cho tổ tiên của mình.

 

- Thời kỳ trước 3050 TCN sẽ là tiền đề của lịch sử Văn Lang, Trung Quốc và thế giới cho nên phải xem xét kỹ, nhưng do dữ liệu qua các cổ vật và các chuyên ngành khác nhau  xác định cá mốc thời gian chênh lệch quá lớn làm cho sự xuyên suốt về mặt thời gian thường "nhảy cóc".

 

- Cuối cùng, là sự hình thành nên các nền văn minh trên thế giới và nguồn gốc ban đầu của con người ở đâu? Châu Phi? tức phải xác định "người vượn" ban đầu ở châu Phi hay đồng loạt nhảy vọt "đứt đuôi, rụng lông" ở trên khắp thế giới? -> chỉ định vị sự xuất phát đầu tiên duy nhất tại châu Phi là sai cơ bản rồi (chưa cần sử dụng phương pháp ADN)!. Bởi vì rằng, trong một sự đột biến loài khỉ trên trái đất, với trái đất chỉ là 1 điểm như hạt cát trong sa mạc cho nên tương tác tại thời điểm chuyển thuộc tính tương tác từ vũ trụ là toàn thể trên trái đất, lúc này có thể đã có tư duy trừu tượng dù chỉ là ở mức độ nhỏ bé nào đó.

 

vuon_co__nguoi_toi_co_nguoi_hien_dai_500

 

Vậy thì, thông thường sự thuận lợi nhất của vùng sinh trưởng của động vật tại các vùng nhiệt đới, ôn đới... nơi mà có các loài dã nhân, phải chăng là nơi có trường khí Âm Dương hài hòa nhất sẽ chịu trường khí tương tác tốt nhất tại một thời điểm đặc biệt để tạo nên tình trạng đột phát này?

Share this post


Link to post
Share on other sites

Nhằm minh xác cho sự nhận định trên, chúng ta cần nhìn nhận một số dữ kiện khảo cổ học và tự nhiên. Thực tế cho thấy, chỉ có một số loài dã nhân trong điều kiện thích hợp mới tiến hóa thành người, do vậy trên thế giới vẫn còn rất nhiều loài khỉ như đã biết chưa tiến hóa hay hầu như đang tiến hóa rất chậm cho tới thời đại của chúng ta ngày nay.

 

dongvat81.jpg

 

Sự tiến hóa về mặt sinh lý "rụng lông, đứt đuôi" của các chủng loài dã nhân sẽ này sinh trong một thời điểm tương tác từ vũ trụ thích hợp nhất cho các điều kiện tự nhiên trên trái đất - đấy chính là tương tác thuộc hành Mộc, Thiệu Khang Tiết viết: "Trời sinh ở hội Tý, Đất sinh ở hội Sửu, Người sinh ở hội Dần", chúng ta đang ở hội Ngọ và nếu tính từ thời điểm bắt đầu chu kỳ của một Nguyên 129.600 năm thì tới thời chúng ta đã trên 50.000 năm rồi. Tuy nhiên, khoa học cho rằng sự tiến hóa này đã xác định 2.9-2.7 triệu năm với các đồ đá nằm trong địa tầng cổ sinh tương ứng??? (điều này theo khoa học, đối với cá nhân tôi là chưa rõ ràng) và thời kỳ đồ đá kết thúc được xem vào khoảng 10.000 năm nay.

 

Đối với các di chỉ đồ đá tại Việt Nam, niên đại xác định bằng phương pháp phóng xạ các bon là 11.000-12.000 năm cách nay. Các di chỉ đồ đá phổ biến rộng khắp trên thế giới, chứng tỏ rằng sự tiến hóa là phổ biến đối với các loài dã nhân trên mặt địa cầu. Do vậy, nếu khoa học chứng minh cội nguồn nhân loại từ châu Phi rồi di chuyển đi khắp thế giới là kết luận phi logic. Đồng thời, nếu kết hợp với câu nói của Thiệu Khang Tiết ở trên, xác suất đột phá tư duy trong công cụ đồ đá cách nay trên 50.000 năm là hợp lý bởi vì nếu tính thêm một chu kỳ lặp vòng tròn nữa thì số năm cực lớn, không khả thi tương ứng với trình độ tiến hóa.

 

Tương tác mang hành Mộc sẽ làm thay đổi cơ chế sinh lý của loài dã nhân, vậy tương tác thuộc hành nào sẽ làm thay đổi tư duy trừu tượng đột phá của chúng sau khi đã rụng lông, đứt đuôi!. Chúng ta nên nhớ rằng, các loài khỉ vẫn có thể dùng công cụ như nhánh cây để khều thức ăn, con chim đại bàng quắp con rùa bay lên cao thả xuống các mỏm đá cho vỡ chiếc mai cứng ra để ăn thịt chúng, rồi thì những con cua dừa biển Thái Bình Dương có khả năng trèo lên cây dừa dùng càng cắt đứt cuống dừa để trái dừa rớt xuống bể ra để ăn cùi...

 

Xem lại thần thoại và truyền thuyết của Tây Tạng (thuộc Văn Lang) là rất độc đáo, họ cho rằng tổ tiên của dân tộc Tây Tạng là một con khỉ đã được Quán Âm Bồ Tát điểm hóa, có lẽ ý nghĩa này là độc nhất vô nhị, trong khi đó các tôn giáo lớn trên thế giới không công nhận thuyết tiến hóa của Đác Uyn và con người không phải từ loài khỉ tiến hóa, chứng tỏ đã có một sự trì trệ về mặt tổng hợp kiến thức khách quan hàng thiên niên kỷ cho tới tận ngày nay, cũng tức là không có bất kỳ một sự tiến hóa về mặt tri thức, bởi do "tính chấp" cứng như đá và đã bị "trói não" bởi cái được gọi là "đức tin" mà không dùng trí tuệ do một nhóm người nào đó có mục đích.

 

Dưới đây là hình Nữ Oa và Phục Hy nắm tay một đứa bé trong hình hài " con khỉ nhỏ":

ctrinity_Nuwa.jpg

Về hình thức so sánh tiến hóa tư duy giữa đồ đá và sử dụng lửa (cất giữ) trong nấu ăn, rõ ràng lửa là một sản phẩm sử dụng của tư duy cao cấp hơn đồ đá -> vấn đề này rất quan trọng trong sự đột phá về tư duy trừu tượng của người nguyên thủy. Kèm theo sau đó, chính là những bức tranh trên đá khi mà một số người nguyên thủy phát triển tư duy hơn nữa, qua hình tượng từ tự nhiên chuyển thành sản phẩm nhân tạo.

 

20141009142932-3.jpg

Các bức tranh vẽ hang động phát hiện ở Sulawesi, tây nam Indonesia được xác định có tuổi thọ tới 40.000 năm. Ảnh: PA

 

Ghi chú: về thần thoại và truyền thuyết của nước Văn Lang, Thượng Đế chưa phải là tiêu biểu cho khởi nguyên vũ trụ tức không phải "Người sinh ra vũ trụ" như một số tôn giáo... Ki tô giáo, trên ngài còn nhiều vị nữa và các vị trong gia phả sẽ có vai trò này, còn trước các vị này là thời kỳ Tổ Tông - Hồng Bàng không được lấy làm biểu tượng nguyên thủy. Vị này có tên là Nguyên Thủy Thiên Tôn (bộ ba chứa đựng tiềm năng của sự sống) trong Đạo giáo (phân lớp thần linh thừ 1).

Share this post


Link to post
Share on other sites

Trong tiến trình lịch sử thời kỳ đồ đá cũ của nhân loại, có một sự kiện quan trọng nhất đó chính là trận đại hồng thủy trên thế giới, nó đã được ghi dấu trong truyền thuyết của hầu hết các dân tộc 5 châu. Theo nghiên cứu của các nhà khoa học địa chất, địa cầu và các chuyên ngành khác, trận đại hồng thủy khủng khiếp thuộc khoảng thời gian từ 8.000 - 12.500 năm trước cách ngày nay, tức cũng tương ứng với kết quả thí nghiệm phóng xạ các bon cho các công cụ thời đá cũ tại Việt Nam.

 

h%281%29.JPG

 

dan-da.jpg

Đàn đá, phát hiện tại huyện Di Linh, có niên đại khoảng 2500 tới 3000 năm cách ngày nay.

 

Về mặt lý thuyết, dấu tích phải còn lại trên mặt địa cầu, chẳng hạn khi xét bức tranh trong hang động phát hiện ở Sulawesi, tây nam Indonesia được xác định có tuổi thọ tới 40.000 năm phải chăng có dấu tích ảnh hưởng của trận đại hồng thủy này? Khi mà vùng đất Indonesia thuộc địa hình thấp trũng. Đồng thời, xét về mặt tổng thể thì niên đại của bức tranh này vượt quá xa thời kỷ đồ đá mới ngay cạnh nó là Miến Điện, Thái Lan, Việt Nam... do vậy, khả năng bức tranh này được khắc họa thực sự chưa tới 10.000 năm. Con số 40.000 này chỉ thích hợp khi cho rằng nguồn gốc loài người từ châu Phi di chuyển dọc bờ biển tới Indonesia rồi tới các nước gần đó.

 

Mặt khác, với trận đại hồng thủy này thì loài người gần như bị tiêu diệt hết, chắn chắn chỉ còn lại một số nhóm người trên khắp địa cầu sống sót khi ở trên núi cao. Điều này chỉ tới, sự phát triển trí tuệ tính từ thời điểm của trận đại hồng thủy - 5000 năm lịch sử là rất chậm chạp, cho nên khi tới thời tổ tiên Kinh Dương Vương đủ tích hợp tri thức mà khám phá ra những quy luật của tự nhiên như bốn mùa, đêm ngày, nam nữ, đực cái... mà từ đó, suốt theo các thế hệ xây dựng thành học thuyết Âm Dương Ngũ Hành và phát triển hoàn hảo hơn. Tất nhiên, cũng thời gian này các ngài đã biết đến hành "Kim" tức kim loại rồi, nó cũng đã trở thành một thành tố của học thuyết trên.

 

Chiếu theo thần phả, gia phả, truyền thuyết và huyền thoại Việt thì tới thời Hùng Vương Thứ Bốn (Hùng Hoa Vương) tức Sơn Tinh (bắt đầu thời Hùng Vương Thứ Bốn - 2253 TCN) mới kết thúc hình thành học thuyết Âm Dương Ngũ Hành, qua bản tổng hợp liên hợp Thiên - Địa - Nhân: "Hồng Phạm Cửu Trù", được xem như là một quyết sách cho việc quản trị của mỗi quốc gia cũng như cho toàn thể nhân loại.

 

3. Chi Cấn: Hùng Quốc Vương, húy Hùng Lân, sinh năm Canh Ngọ (2570 tr. TL) lên ngôi khi 18 tuổi, không rõ truyền được mấy đời vua, đều xưng là Hùng Quốc Vương,272 năm, từ năm Đinh Tỵ (2524 tr. TL) đến 2253 tr.TL. Ngang với Trung Quốc vào thời Đế Thuấn, Hữu Ngu.

4. Chi Chấn: Hùng Hoa Vương, húy Bửu Lang, không rõ năm sinh, lên ngôi năm Đinh Hợi (2252 tr. TL), không rõ truyền được mấy đời vua đều xưng là Hùng Hoa Vương, ở ngôi tất cả 342
năm, từ năm Đinh Hợi (2254 tr. TL) đến năm Mậu Thìn (1913 tr. TL). Ngang với Trung Quốc vào thời Đế Quýnh nhà Hạ.

 

hpct.jpg

 

(Ghi chú: ngay cả Hồng Phạm Cửu Trù cũng phải được cấu trúc theo Hậu Thiên Bát Quái - Hà đồ chứ không phải trên đồ hình Lạc thư theo truyền thuyết)
 
Trong các phương pháp ứng dụng siêu đẳng của thuyết Âm Dương Ngũ Hành, thì bộ môn Tử vi dùng để xác định các trạng thái trong tương lai của mỗi con người, với 110 biến số - sao quy ước trên một cấu trúc Thiên bàn tuân thủ theo công thức Hậu Thiên Bát Quái - Hà đồ, căn cứ công thức áp dụng cho các bài toán tổ hợp và chỉnh hợp của toán cao cấp thì 110 biến số này sẽ tương tác lẫn nhau tạo thành hàng tỷ tỷ... mối liên hệ đan xen, nhưng trong bộ môn này chỉ xét đến những tương tác lớn, có quy luận để giúp cho nhận thức và phân tích được dễ dàng hơn. Vậy, rõ ràng thời Hùng Vương đã thấu triệt đến tận cùng của vũ trụ nếu kết hợp với bộ môn Dịch học tiên tri (Dịch học là phương pháp tổng hợp cuối cùng bởi tính liên kết tức thì tới toàn bộ vũ trụ vô cùng), chúng ta sẽ có câu hỏi:
 
     Tử vi được hoàn thiện vào thời gian nào trong lịch sử Hùng Vương, trước Dịch lý (trước thời kỳ của Thánh Khổng Tử và trước cả Phật Thích Ca Mâu Ni) thời nhà Chu: Chu Dịch và còn có cả Dịch Phục Hy?
 
Đại hồng thủy - truyền thuyết và khoa học
 

Theo truyền thuyết, đại hồng thủy là sự trừng phạt của thần linh đối với sự bướng bỉnh bất tuân của loài người. Nhiều dấu vết tìm được mới đây cho thấy, các biến cố đó là có thật.
 

77-887052-1368810937_500x0.jpg

Ảnh: Sức Khỏe & Đời Sống.

 

Truyền thuyết về đại hồng thủy xuất hiện trong rất nhiều nền văn hóa cổ xưa như Lưỡng Hà, Trung Hoa, Hy Lạp cổ đại... Tuy nhiên, hiện chưa có cơ sở để thống kê có bao nhiêu trận trong lịch sử loài người.

 

Truyền thuyết nổi tiếng nhất là trận đại hồng thủy được ghi lại trong sách Sáng Thế ký (Kinh Thánh). Chúa trời quyết định xóa bỏ loài người vì những tội lỗi của họ gây ra, nhưng lại cứu ông Noah vì ông có đạo đức. Chúa đã dạy ông cách đóng một con thuyền lớn để tự cứu mình và các loài khác.

 

Một truyền thuyết được coi là cổ xưa nhất về đại hồng thủy được ghi lại trong cuốn sách đá của nền văn minh Lưỡng Hà. Vị thần Enki đã cảnh báo vua Ziusudra thành Shuruppak (một triều đại cách đây 5.000-6.000 năm, nay thuộc lãnh thổ Iraq) rằng Thượng đế sẽ tiêu diệt loài người bằng một trận lụt ghê gớm. Thần Enki đã mách cho vua Ziusudra cách đóng một con thuyền lớn, vì thế mà Ziusudra đã thoát nạn sau trận đại hồng thủy kéo dài 7 ngày đêm.

 

Trong truyền thuyết của Babylonie, người anh hùng Gilgamesh thuộc xứ Uruk muốn trở thành bất tử giống như tổ tiên của mình là UtNapishtim. Chính ông này đã báo cho Gilgamesh biết sắp có trận lụt lớn và dạy cách trở thành bất tử là thức 6 ngày 7 đêm, nhưng cuối cùng thì Gilgamesh đã ngủ quên mất. Tuy không trở thành bất tử nhưng Gilgamesh đã học được cách đóng một cái bè lớn để đưa gia đình, bạn bè và tài sản của mình lên đó để tránh lụt.

 

Cuốn Luật lệ của Plato đã nói về trận lụt lớn xuất hiện trước thời của ông khoảng 10.000 năm. Ông viết rằng còn có rất nhiều trận đại hồng thủy khác cho đến khi thành Athens trở nên trù phú.

 

Cuốn Cổ sử của Trung Hoa ghi nhận vào năm 700 trước Công nguyên hoặc sớm hơn, vào thời Tam Hoàng Ngũ Đế đã có một trận lớn, nước dâng lên tận Thiên đình. Da Yu đã khống chế được lũ lụt và trở thành Hoàng đế đầu tiên. Sau này nhiều cuốn sách khác cũng viết về những trận đại hồng thủy do giao long sống tại sông Hoàng Hà vì giận dữ với loài người đã gây nên.

Truyền thuyết về sự tích Hồ Ba Bể ở Việt Nam cũng liên quan đến đại hồng thủy. Thần Giao long hóa thân thành một bà già ăn mày đi dự hội “Vu Già” cầu Phật, do thấy người đời không có lòng nhân từ nên đã dâng nước nhấn chìm tất cả. Chỉ có hai mẹ con bà góa cho bà ăn mày ăn và ngủ nhờ nên được cứu. Thần đưa cho họ 2 vỏ trấu (sau đó biến thành thuyền) và một nắm tro để rải xung quanh ngôi nhà của mình. Khu đất đó không bị chìm trong nước và ngay nay là đảo Po-già-nải ở giữa Hồ Ba Bể.

 

Những phát hiện của khoa học

 

Các cuộc khai quật ở khu vực nền văn minh Lưỡng Hà (thuộc nước Iraq ngày nay) đã phát hiện nhiều dấu vết như lớp bùn trầm tích, hay các hóa thạch liên quan đến trận đại hồng thủy vào khoảng 2.900-2.700 năm trước Công nguyên.

 

Trong những năm 1920, nhà khảo cổ học người Anh Leonard Wooley khai quật ở khu vực Nam Mesopotamia (vùng đất được coi là nơi sinh Abraham, tổ phụ của dân Do Thái) đã phát hiện các vỉa bùn sâu nằm dưới nước, chứng tỏ cư dân sống không liên tục. Ngoài ra còn có nhiều dấu vết nhà cửa vật dụng bằng gốm chìm dưới tầng bùn.

 

Gần đây, các nhà khoa học tìm thấy dấu tích của một chiếc thuyền lớn trên đỉnh núi tại Thổ Nhĩ Kỳ. Họ cho rằng đó là chiếc thuyền nổi tiếng của ông Noah ghi trong sách Sáng Thế ký.

 

Như vậy, có thể khẳng định những trận đại hồng thủy trong quá khứ là có thật. Các nhà khoa học cũng đưa ra giả thiết về nguyên nhân gây ra chúng. Họ cho rằng vào cuối kỷ băng hà (kéo dài từ 2,5 triệu năm đến 10.000 năm trước Công nguyên), nhiệt độ của trái đất rất thấp. Băng hà bao phủ toàn bộ bắc bán cầu. Sau đó, những khối băng cực lớn bắt đầu di chuyển, khối lượng ước chừng 30 triệu km2.

 

Những núi băng khổng lồ đè nặng lên vỏ trái đất gây lún sụt ở nơi này và trồi lên ở nơi khác, tạo ra những vùng đất như Scandinavia, Scotland, Canada... Khi đó, mực nước biển rất thấp (thấp hơn hiện nay 120-150 m); châu Á và Bắc Mỹ nối liền nhau qua eo biển Bering. Thời kỳ cuối cùng của kỷ băng hà cách đây 10.000 năm, khí hậu trái đất nóng lên làm băng tan và mực nước biển dâng nhanh. Đó chính là nguyên nhân gây đại hồng thủy nhấn chìm nhiều vùng đất.

 

Theo các thống kê mới đây nhất, các nhà khoa học đã khám phá những đại dương khổng lồ nằm ẩn sâu hơn 1.000 km dưới bề mặt trái đất và họ cho rằng đây chính là nguyên do gây nạn đại hồng thủy được kể trong truyền thuyết. Các khảo sát sóng địa chấn cho thấy có ít nhất hai đại dương ngầm bên dưới bề mặt lục địa Âu - Á và Bắc Mỹ.

 

Các nhà khoa học Mỹ tin rằng các đại dương ngầm có lượng nước không kém hai đại dương vùng cực. Vì một lý do nào đó (động đất, chuyển động vỏ trái đất...), lượng nước khổng lồ này đã phun trào lên mặt đất. Hơi nước bốc lên cao gặp khí lạnh ngưng tụ thành những đợt mưa dài ngày gây đại hồng thủy và sau đó lại ngấm xuống đại dương ở trong lòng đất.

 

(Theo Sức Khỏe & Đời Sống)

Share this post


Link to post
Share on other sites

Qua nội dung phân tích ở trên, chúng ta có một khoảng trống về mặt thời gian kể từ trận Đại hồng thủy cho tới thời tổ tiên Kinh Dương Vương tạm xác định là 5.000 năm trước. Cùng với sự đột phá về tri thức về vũ trụ và nhân sinh thời kỳ này đã chứng minh rằng, thời gian trước đó cũng đã có một sự kế thừa tri thức ở một mức độ xác định, đó chính là:

 

- Nền văn hóa đồ đá và ngọc khí như đặc trưng ngọc khí vùng Chiết Giang (thuộc Văn Lang), Giang Tô (thuộc Trung Hoa), Tam Tinh Đôi (thuộc Trung Hoa) và các vùng lân cận (bao gồm các cả nền văn hóa khác nhau trên thế giới). Nền văn hóa cổ Văn Lang lấy "Rìu Việt" làm biểu tượng, tuy nhiên cũng còn những biểu tượng khác nữa nhằm thể hiện học thuyết Âm Dương Ngũ Hành một cách đầy đủ hơn.

 

- Nền văn hóa đồ gốm. Tất nhiên, nó sẽ kết thừa nền văn hóa đồ đá và cũng thể hiện sự tiếp nối của tri thức trên.

 

- Nền văn hóa tiền đồ đồng đang diễn tiến, cho nên trong khoảng 5.000 năm trước, các di vật đồ đồng không thể khai quật cho tới nay, một số vùng văn hóa trên thế giới mà trong sách vẫn ghi nhận đồ đồng trên 5.000 hầu như vô lý và không rõ ràng khi tham khảo, bởi chúng đã bị phân rã theo thời gian. Trong kinh sách cổ liên quan đến học thuyết Âm Dương Ngũ Hành của Văn Lang, kim loại đồng là hành Kim.

 

Về mặt xương cốt, ngoại trừ trong trạng thái đặc biệt được bảo tồn do hóa thạch thì chiếu theo điều kiện tự nhiên như mộ Nam Việt Vương Triệu Muội (trước CN) thì phân rã hết chỉ còn mỗi bộ răng mà thôi, cho nên khi nói còn các di chỉ xương cốt khoảng 4.000 trước là rất nghi ngờ ngoại trừ còn lại trong kim tự tháp Ai Cập - lăng mộ của vua Tutankhamun còn hài cốt trên 3.000 năm.

 

Cày cấy Ai Cập (dùng bò chứ không phải trâu)

cattle2.jpg

 

- Sự phát triển nông nghiệp và chăn nuôi gia súc cũng đã có từ thời trước đó, chúng ta cần chú ý trong lịch sử nước Văn Lang và Trung Hoa (thời Đế Minh thì Văn Lang và Trung Hoa là một quốc gia thống nhất, có tên là Đại Hòa, sau Nhật Bản lấy lại cái tên này cho nước mình) thì vua Thần Nông được biểu tượng cho ông tổ của ngành nông nghiệp, còn chính thất của ngài được biểu tượng cho bà tổ của ngành chăn nuôi động vật thuần hóa (THẦN NÔNG VÀ ĐỊA TRẠCH). Đặc biệt, dòng họ cây lúa là quan trọng nhất trong ngành nông nghiệp thượng cổ, ngay cả Ai Cập cũng tôn sùng công tác này và ông tổ của ngành đó chính là vua Thần Nông nước ta.

 

Địa Trạch - Chính thất của vua Thần Nông

TranhTho-TayThai.jpg

 

Trong bức tranh Địa Trạch này, người đàn ông ở trục trung tâm tại hàng dưới chính là người con trai của Thần Nông - Địa Trạch tức Đế Thừa Sở Minh Công - kế thừa ngôi vị, người cha của Đế Minh.

 

 

VĂN MINH LÚA NƯỚC
 

Văn minh lúa nước là một nền văn minh cổ đại xuất hiện từ cách đây khoảng 10.000 năm tại vùng Đông Nam Á và Nam Trung Hoa. Nền văn minh này đã đạt đến trình độ đủ cao về các kỹ thuật canh tác lúa nước, thuỷ lợi, phát triển các công cụ và vật nuôi chuyên dụng. Chính sự phát triển của nền văn minh lúa nước đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự ra đời của những nền văn hoá đương thời như Văn hóa Hemudu, Văn hóa Đông Sơn, Văn hóa Hòa Bình .v.v. Cũng có những ý kiến cho rằng, chính nền văn minh lúa nước là chiếc nôi để hình thành cộng đồng cư dân có lối sống định cư định canh và các giá trị văn hoá phi vật thể kèm theo, đó chính là văn hóa làng xã.

 

250px-Den_thuyen.jpg
Di vật đèn thuyền Văn hóa Đông Sơn- biểu tượng cho Văn minh lúa nước

Quê hương cây lúa nước

 

Các nhà khoa học như A.G. Haudricourt & Louis Hedin (1944), E. Werth (1954), H. Wissmann (1957), Carl Sauer (1952), Jacques Barrau (1965, 1974), Soldheim (1969), Chester Gorman (1970)... đã lập luận vững chắc và đưa ra những giả thuyết cho rằng vùng Đông Nam Á là nơi khai sinh nền nông nghiệp đa dạng rất sớm của thế giới.

Quê hương của cây lúa, không như nhiều người tưởng là ở Trung Quốc hay Ấn Độ, là ở vùng Đông Nam Á vì vùng này khí hậu ẩm và có điều kiện lí tưởng cho phát triển nghề trồng lúa. Theo kết quả khảo cổ học trong vài thập niên gần đây, quê hương đầu tiên của cây lúa là vùng Đông Nam Á, những nơi mà dấu ấn của cây lúa đã được ghi nhận là khoảng 10.000 năm trước Công Nguyên. Còn ở Trung Quốc, bằng chứng về cây lúa lâu đời nhất chỉ 5.900 đến 7.000 năm về trước, thường thấy ở các vùng xung quanh sông Dương Tử. Từ Đông Nam Á, nghề trồng lúa được du nhập vào Trung Quốc, rồi lan sang Nhật Bản, Hàn Quốc, những nơi mà cư dân chỉ quen với nghề trồng lúa mạch.

Ngày nay, giới khoa học quốc tế, kể cả các khoa học gia hàng đầu của Trung Quốc đồng thuận cho rằng quê hương của cây lúa nước là vùng Đông Nam Á và Nam Trung Hoa.

Lịch sử phát triển và khảo cổ học

 

Các cuộc khảo cổ gần đây đã chứng minh sự tồn tại của con người trên lãnh thổ Việt Nam từ thời Đồ đá cũ. Vào thời kỳ Đồ đá mới, các nền văn hoá Hoà Bình - Bắc Sơn (gần 10.000 năm trước CN) đã chứng tỏ sự xuất hiện của nông nghiệp và chăn nuôi, có thể là cả nghệ thuật trồng lúa nước.

Các nhà khảo cổ tìm thấy trong lớp đất bên dưới khu khảo cổ thuộc Văn hóa Hòa Bình những hạt thóc hóa thạch khoảng 9260-7620 năm trước. Nhưng theo nhiều nhà khảo cổ, đa số di tích, di vật tìm thấy ở Thái Lan, khi định tuổi lại thấy muộn hơn nhiều so với tuổi định ban đầu trước đó khi người ta tìm thấy những di tích về văn minh lúa nước.


200px-Riziere_Oki.jpg
Tranh mô tả việc trồng lúa nước Nhật Bản-một nhánh từ Đông Nam Á

 

Vết tích bữa cơm tiền sử nấu với gạo từ lúa mọc hoang xưa nhất thế giới, 13.000 năm trước, được một nhóm khảo cổ Mỹ-Trung Hoa tìm thấy trong hang Diaotonghuan phía nam sông Dương Tử (bắc tỉnh Giang Tây). Cư dân sống trong vùng này đã biết thử nghiệm các giống lúa và cách trồng trong thời gian dài tiếp theo đó. Điều này đă được nhóm khảo cổ chứng minh qua sự tăng độ lớn phytolith của lúa (phần thực vật hoá thạch, tồn tại nhờ giàu chất silica) lắng trong những lớp trầm tích theo thời gian. Tin này đã được đăng trên tạp chí khoa học Science, năm 1998. Các nhà khoa học nghiên cứu về phytoliths - thạch thể lúa - này đă chứng minh rằng từ 9000 năm trước dân cổ ở vùng đó đã ăn nhiều gạo của lúa trồng hơn lúa hoang. Nhóm cư dân bản địa này cũng bắt đầu làm đồ gốm thô xốp bằng đất trộn trấu. Kinh nghiệm về trồng lúa tích tụ tại đấy trong mấy ngàn năm đă đưa đến nghề trồng lúa trong toàn vùng nam Dương Tử. Di tích xưa thứ hai, 9000 năm trước, là Pengtou, gần hồ Động Đình phía nam sông Dương Tử. Hơn bốn mươi chỗ có di tích lúa cổ hàng ngàn năm đă được tìm thấy ở vùng nam Trường Giang. Gần cửa biển nam Trường Giang, di tích Văn hoá Hemudu (Hà Mỗ Độ) cho thấy văn minh lúa nước trong vùng lên đến trình độ rất cao vào 7.000 năm trước, sớm hơn cả di tích làng trồng kê Banpo (Bán Pha) xưa nhất của dân tộc Hán phương Bắc.

Hemudu là một làng vài trăm người sống trên nhà sàn trong vùng đầm lầy ở cửa sông Tiền Đường. Dân Hemudu đă trồng lúa, ăn cơm, để lại lớp rơm và trấu dày 25-50 cm, có nơi dày đến cả mét, trên diện tích 400 mét vuông. Có thể đó là lớp rác để lại trên sân đập lúa. Di chỉ thực vật củ ấu, củ năng, táo và di cốt động vật hoang hươu, trâu, tê giác, cọp, voi, cá sấu... cho thấy khí hậu vùng Nam sông Dương Tử bấy giờ thuộc loại nhiệt đới, hoàn toàn thích hợp với việc canh tác lúa nước.

Nền văn hoá Hemudu xưa bảy ngàn năm có nhiều điểm gần gũi với văn hoá Phùng Nguyên-Đông Sơn vốn là những văn hoá trẻ hơn nhiều sau hơn 3000 năm. Cư dân vùng nam Trường Giang lúc ấy có lẽ gần với cư dân Bắc Việt về mặt chủng tộc và văn hoá hơn cư dân bắc Trung Hoa. Khuôn mặt đắp từ sọ người Hemudu trưng bày ở Viện Bảo tàng Hemudu cho thấy họ giống người thuộc chủng Nam Mongoloid, tức là chủng của người Việt Nam từ thời Đông Sơn về sau. Sau văn hoá Hemudu, hàng loạt văn hoá lúa nước khác đã sinh ra dọc lưu vực sông Trường Giang khoảng 4000 năm trước như
Liangzhu, Majiabin, Quinshanyang, Qujialing, Daxi, Songze, Dadunze.

Điều kiện đồng bằng sông Hồng là nơi rất thích hợp cho lúa hoang và sau này là lúa trồng. Thật là huyền vĩ, người Việt trong cộng đồng chủng Nam Mongoloid là tổ tiên của văn minh lúa nước.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Sự tiến hóa về mặt tri thức liên quan đến công cụ lao động và các sản vật ứng dụng từ tự nhiên là mang tính quy luật, trong thời đại Đá Mới và Đá Cũ thì chiếc rìu đá là công cụ sử dụng phổ biến nhất, sau này nó được lấy làm biểu tượng cho dân tộc Việt và chính nó có cái tên là "VIỆT" - "YUE", Chữ Yue Việt này cũng chính là nói về thời vua Đại Vũ nhà Hạ của Trung Hoa, Đại Vũ là người Việt vùng Giang Tô (Thuộc Trung Hoa) bởi Giang Tô và Chiết Giang cùng thuộc tộc Việt (vùng biển đảo, vùng thấp tức Lạc Việt) rõ rệt thời Đông Chu Liệt Quốc, mà Việt Vương Câu Tiễn nắm lấy địa bàn này để mà từ đó tranh bá đồ vương vùng Trung Nguyên. Theo Sử Ký, Việt Vương Câu Tiễn là con cháu vua Đại Vũ.

 

Chúng ta cũng nhận biết được sự tiến hóa của người nguyên thủy xảy ra trên toàn cầu, do vậy ý nghĩa này cũng phải ăn khớp với tiến trình phát triển trước đó của các loài động thực vật nữa, điều này dẫn đến phải có sự đối chiếu với các thời kỳ trước đó như thời kỳ của các loài khủng long hóa thạch, rõ ràng vùng Đông Nam Á và Nam Bắc Dương Tử cũng xuất hiện loài khủng long hóa thạch hay các động vật cùng thời kỳ này.

 

Chinesedinosaur_1538820c.jpg

Hóa thạch khủng long tại tỉnh Vân Nam (một bộ của nước Văn Lang)

 

Ngắm hóa thạch khủng long Đông Dương lưu giữ ở Việt Nam

Những mẫu hóa thạch khủng long đang được lưu giữ tại Việt Nam thuộc về một loài khủng long ăn cỏ có kích thước khổng lồ.

Chuyện về mẫu hóa thạch hiếm hoi của một loài khủng long đang được bảo quản ở Việt Nam là điều ít người biết đến.

 

Năm 1936, trong khi nghiên cứu bản đồ địa vùng Hạ Lào, nhà địa chất học người Pháp Josúe Heilman Hoffet đã phát hiện ra nhiều mẫu xương hóa thạch trong khu vực Bản Tangvai, thuộc tỉnh Savanakhet, cách biên giới Việt Nam khoảng 200km.

 

Những mẫu vật được khai quật bao gồm một xương đùi lớn và nhiều đốt xương sống của một loài sinh vật khổng lồ mà người dân bản địa chưa bao giờ bắt gặp. Các mẫu vật đã được chuyển về bảo tàng địa chất ở Hà Nội, thủ phủ của Đông Dương và được lưu trữ tại bảo tàng từ thời đó cho đến nay.

 

Hiện nay, các mẫu hóa thạch trên đang được bảo quản tại tầng 3 của Bảo tàng Địa chất, nơi trưng bày một bộ sưu tập chuyên đề cổ sinh vật. Trong ba mẫu hóa thạch, có một mẫu xương đùi dài khoảng 60cm và hai mẫu xương khác nhỏ hơn.

 

Các chuyên gia cổ sinh học quốc tế đã xác định các mẫu hóa thạch thuộc về một loài khủng long có tên khoa học là Titanosaurus falloti. Vào cuối thập kỷ 1990, tên của loài khủng long đã đươc đặt lại là Tangvaysaurus, nghĩa là thằn lằn bản Tangvay.

 

Loài khủng long Titanosaurus falloti hay Tangvaysaurus thuộc về một chi khủng long có tên gọi Titanosaurus, còn gọi là thằn lằn hộ pháp, sống ở cuối kỷ Phấn Trắng cách đây từ 83-65 triệu năm. Các loài khủng long thuộc chi này có hình thái giải phẫu khá giống nhau, đều là các loài ăn thực vật khổng lồ, có cổ dài, khi trưởng thành có thể dài từ 9 đến 12m.

 

Cho đến nay, Lào là quốc gia duy nhất trên thế giới phát hiện ra hóa thạch của loài khủng long Titanosaurus falloti.

 

Theo Phó giáo sư - tiến sỹ Tạ Hòa Phương, Chủ tịch Hội Cổ sinh - địa tầng Việt Nam, điều kiện địa chất ở Việt Nam trong đại Trung sinh hoàn toàn có điều kiện để khủng long sinh sống. Việc tìm ra hóa thạch của khủng long ở Việt Nam là hoàn toàn có khả năng.

 

Một số hình ảnh phục dựng về khủng long Titanosaurus:

 

Hồng Quân

 

Kể từ biểu tượng rìu Việt cho tới thời gian sau đó, hàng loạt các biểu tượng khác được ra đời nhằm mục đích tế tự và mô phỏng những nguyên lý của vũ trụ, nhân sinh. Đặc biệt, chúng ta thấy vua Thần Nông và chính thất của Ngài được hình tượng hóa thành ông tổ ngành nông nghiệp và bà tổ ngành chăn nuôi động vật thuần hóa, mà để duy trì cuộc sống vật chất này phải nhận biết được thiên văn, địa lý tức quy luật vận động của mặt trời (bốn mùa), mặt trăng (thủy triều, cày cấy, sinh đẻ, săn bắn...) mà từ đó nắm rõ Âm Lịch.

 

Trong các cổ vật đồ ngọc khí tại vùng Chiết Giang và các vùng khác trên toàn thể Văn Lang và Trung Hoa nhưng giảm đi ở vùng Đông Nam Á, các biểu tượng đặc trưng và phổ biến nhất:

- Rìu Việt.

- Ống tông có hoa văn đặc trưng (Bắc Việt Nam và Đông Nam Á không thấy) và đĩa bích.

- Nha chương.

 

65080766-small_87935.jpg
Hiện vật trong mộ ở Phú Thọ: 2 chiếc nha chương, 4 vòng tay đá, 1 chuôi rìu đá.
 
Dịch giải: Rìu đá biểu tượng cho sự phân chia Âm Dương hay Thái Cực, 4 vòng tay Tứ Tượng và 2 nha chương biểu tượng cho Âm Dương.
 

Nha chương là hiện vật quý và đẹp. Từ trước tới nay mới tìm được vài chiếc. Những ngày cuối cùng của năm 2006, giới khảo cổ lại vui mừng khi tìm thêm được 2 chiếc nữa được chôn ngay trong một ngôi mộ táng ở địa điểm khảo cổ nổi tiếng trên đất Phú Thọ.

Ngày 24/12/2006, nhân dân xã Gia Thanh, huyện Phù Ninh, Phú Thọ đã tìm được một số mảnh vòng trang sức bằng đá ở địa điểm khảo cổ học Xóm Rền dưới độ sâu khoảng 40cm trong khi đào đất. Nhờ ý thức bảo vệ di tích cao, người dân đã báo cho Bảo tàng Phú Thọ đến tiến hành khai quật.

 

Một ngôi mộ táng được phát lộ đã làm cho các nhà khảo cổ hết sức vui mừng vì đồ tùy táng không những tương đối nguyên vẹn mà còn rất quý hiếm. Căn cứ vào vị trí của các hiện vật, chúng ta có thể hình dung được cách chôn cất chủ nhân ngôi mộ này.

 

Vị trí đầu mộ tìm thấy khoảng 50 hạt chuỗi đá hình trụ và hơn 10 mảnh vỡ của một loại vòng đá đeo cổ. Vị trí mỗi bên cổ tay, người chết được đeo 2 chiếc vòng tay đá có mặt cắt ngang hình chữ T đường kính lớn đến 12,1cm. Đặc biệt, dọc theo thân người mỗi bên được đặt 1 chiếc nha chương bằng đá ngọc nêphơrit. Cả 2 chiếc đều còn nguyên vẹn.

 

Chiếc thứ nhất có hình dáng là một thanh đá dài và dẹt, đá màu trắng vân xám. Phần chuôi hình chữ nhật, có lỗ ở giữa chuôi. Phần lưỡi có 2 ngạnh nhọn như hình đuôi cá và được mài vát một bên. Giữa chuôi và lưỡi có những mấu nhô ra được mài giũa khá tinh tế. Chiều dài của chiếc nha chương này đạt kỷ lục trong số các nha chương tìm được ở nước ta: dài 63cm, chỗ rộng nhất 11cm.

 

Chiếc này được chôn ở phía sườn phải người chết, phần chuôi được đặt hướng về phía đầu và phần lưỡi được đặt hướng về phía chân. Kỹ thuật chế tạo chiếc nha chương này khá tinh xảo. Toàn thân được mài nhẵn bóng dường như không có một vết ghè đẽo.

 

Thời bấy giờ chưa có dụng cụ kim loại, người xưa đã dùng những lưỡi cưa đá, khoan đá và sự kiên nhẫn đã tạo ra một sản phẩm tuyệt hảo đến vậy. Hai bên nha chương phẳng lỳ, nổi lên những đường vân đá ngọc. Có lẽ những thợ làm đồ đá mỹ nghệ ngày nay cũng chỉ làm được đến thế.

Chiếc thứ hai có dáng hình gần giống chiếc thứ nhất nhưng nhỏ hơn, thân thẳng, rìa lưỡi cong tròn hơn là hình đuôi cá. Hiện vật có màu trắng, vân màu hồng. Chiều dài 32,4cm, chiều rộng 7,7cm. Toàn thân cũng được mài bóng và không có vết ghè đẽo. Chiếc này được chôn phía bên sườn trái người chết. Người xưa đặt chiếc nha chương này ngược hướng với chiếc thứ nhất: chuôi hiện vật hướng về phía chân.

 

Việc định niên đại của nha chương cũng như ý nghĩa khoa học của nó đem lại nhiều vấn đề mới và lý thú.

 

Đây là một ngôi mộ thuộc văn hóa Phùng Nguyên, cách đây khoảng từ 3.700 đến 3.400 năm. Địa điểm khảo cổ này đã nổi danh từ lâu mang tên là Xóm Rền, nằm gần sông Lô, thuộc địa phận huyện Phù Ninh và cách khu vực Đền Hùng không xa. Các nhà khảo cổ đã từng khai quật đến lần thứ sáu và thu được khá nhiều đồ đá, đồ gốm.

 

Tại đây đã phát hiện 1 chiếc nha chương vào năm 1981 và 1 chiếc vào năm 2004 nhưng 2 chiếc này không đẹp và không lớn như 2 chiếc mới được phát hiện. Ngoài Xóm Rền là nơi có nhiều nha chương nhất, ở tại địa điểm Phùng Nguyên (xã Kinh Kệ, huyện Lâm Thao) cũng đã tìm được 2 chiếc nha chương vào năm 1985.

 

Hiện vật quý và hiếm, mới tìm thấy trên địa bàn vùng Đất Tổ Phú Thọ, đã cho thấy đây quả là quê hương tập trung nhiều hiện vật điển hình và đặc sắc của nền văn hóa Phùng Nguyên. Mà, như các nhà khảo cổ giải mã thì chính văn hóa Phùng Nguyên là nền văn hóa khởi nguồn của người Việt cổ cách đây gần 4.000 năm.

 

Nha chương: vũ khí hay một dạng quyền trượng?

 

Nha chương là cái gì? Điều đó cho đến nay các nhà khảo cổ trong và ngoài nước vẫn còn tranh luận... Sự quý giá từ chất liệu đá ngọc, kỹ thuật chế tác đá đỉnh cao thì ai cũng thấy được nhưng với “vóc dáng” mỏng mảnh chỉ khoảng 0,5 - 0,8cm, thì làm công cụ và vũ khí sao được. Mặc dù có lưỡi mài vát một bên, nhưng do hình dáng mỏng dẹt mà chỉ đánh rơi cũng vỡ, bổ vào người hoặc thú săn thì nha chương gãy vỡ là không thể tránh khỏi.

 

Không chỉ Việt Nam phát hiện loại hiện vật này mà Trung Quốc cũng có ở tỉnh Hà Nam, Tứ Xuyên, Thiểm Tây, Phúc Kiến, Hồng Công và cũng ít khi tìm được trong mộ táng. Theo Giáo sư Hà Văn Tấn, các học giả Trung Quốc có nhiều cách gọi loại hiện vật này.

 

Có khi gọi là loại ngọc “Diễm Khuê”, có lỗ ở gần đốc, có 2 tia nhọn ở lưỡi là hình tượng của sát thương, chinh phạt. Mỗi khi chư hầu không tuân lệnh thì vua sai quan đại phu cầm đến để dụ cáo. Một số gọi đây là vật hình dao có lưỡi một đầu. Nhiều người gọi là nha chương (theo sách Chu Lễ thì nha chương dùng để điều động quân đội, chỉ huy quân đồn thú).

 

Ngay bản thân chữ “Nha” tiếng Hán có nghĩa là răng nhọn đã bao hàm ý nghĩa công kích, uy hiếp. Tác dụng của nha chương như một thứ hổ phù hay một dạng “thượng phương bảo kiếm” đầy uy lực trong quân đội. Một số ý kiến lại cho rằng, đây là một vật nghi lễ chứ không liên quan đến quân đội. Nhưng tựu trung, các nhà khoa học đều cho rằng ở đâu xuất hiện nha chương thì ở đấy xuất hiện quyền lực thủ lĩnh.

 

Nếu quan sát hiện vật cụ thể, chúng ta có thể loại bỏ chức năng thực dụng của nha chương chỉ còn chức năng nghi lễ. Tuy nhiên, đây cũng không hẳn là một loại hiện vật như thẻ bài, ấn tín sau này mà có lẽ cũng có chức năng tượng trưng cho một loại vũ khí, ít ra là buổi ban đầu, đó là những chiếc “qua”.

 

Cũng cần giải thích thêm rằng, qua là một loại vũ khí phổ biến ở Trung Quốc giống như câu liêm được lắp cán dài dùng để bổ và chém, có lưỡi sắc và nhọn thường thấy ở trong nhiều bộ phim dã sử Trung Hoa. Những chiếc qua đá cũng tìm được trong văn hóa Phùng Nguyên.

 

Nha chương có một số nét của qua thể hiện ở chỗ: có lỗ để xâu dây buộc cán, có phần gờ hai bên để buộc dây vào cán, nhiều chiếc cũng có phần lưỡi cong lệch về một bên. Vì thế, những chiếc nha chương có thể được coi là một loại “qua” nghi lễ, được lắp thêm cán và dần dà biến thành một thứ vũ khí tượng trưng cho quyền uy như một dạng quyền trường.

 

Sản phẩm của sự giao lưu văn hóa

 

Tương đương với niên đại của văn hóa Phùng Nguyên ở ta là đời nhà Thương bên Trung Quốc. Cả hai nước đều phát hiện ra loại hình nha chương tương đối giống nhau và khá sớm cách đây gần 4.000 năm.

 

Nhiều người cho rằng, nha chương là hiện vật của văn hóa Trung Quốc vì tìm thấy số lượng nhiều hơn, mặc dù cũng ít khi tìm được trong mộ táng. Nếu như vậy thì những chiếc nha chương có mặt ở ta là do giao lưu văn hóa.

 

Đó cũng là hiện tượng bình thường trong thời cổ đại, nếu như chúng ta biết rằng, ngay cả trong một ngôi mộ cổ ở tỉnh Triết Giang, Trung Quốc cách Việt Nam hàng ngàn cây số về phía bắc cũng có chôn theo một chiếc trống đồng minh khí đích thị của người Việt cổ.

 

Khi mới tìm thấy, các nhà khảo cổ Trung Quốc cũng phải thừa nhận trống đồng minh khí không phải là sản phẩm của vùng này. Điều đó chứng tỏ không chỉ ngày nay mà con đường giao lưu kinh tế, văn hóa của Việt Nam đã sớm rộng mở và cũng vươn xa từ 4.000 năm về trước. Sự giao lưu hai chiều này đều có đi có lại. Mà không chỉ giữa ta và Trung Quốc mà còn với nhiều nước khác ở Đông Á và Đông Nam Á nữa.

 

Tuy nhiên, những chiếc nha chương Xóm Rền vừa phát hiện được vẫn có khả năng sản xuất ở nước ta. Chất liệu làm 2 chiếc nha chương này hoàn toàn cùng loại đá ngọc màu trắng của 4 chiếc vòng tay, hạt chuỗi vòng đeo cổ điển hình của văn hóa Phùng Nguyên. Người Việt cổ vào thời điểm này cũng có trình độ chế tác đá tuyệt đỉnh thừa sức chế tạo nha chương và họ cũng có nhiều công xưởng làm đá ngọc mà điển hình là ở địa điểm Tràng Kênh, Hải Phòng. Cũng ghi nhận thêm một điểm là mộ táng mới phát hiện này đã cung cấp một bộ đồ trang sức tuyệt đẹp hiếm có của người xưa: vòng tay, hạt chuỗi, vòng cổ, tất cả đều làm bằng đá quý.

 

Sự có mặt của loại nha chương ở Xóm Rền đã cho thấy xã hội người Việt cổ đã hình thành một số thủ lĩnh có quyền lực chi phối một cộng đồng người, nhen nhúm các tiền đề phân hóa xã hội để hình thành nên nhà nước Văn Lang thời Hùng Vương trên vùng Đất Tổ.

(Theo CAND)

 

Độc đáo hơn nữa, vùng Tây Tạng (một bộ của Văn Lang) cũng xuất hiện những chiếc đĩa bích loại lớn có hoa văn mỹ thuật khác với vùng thấp ở trên, mà người ta cho là sản phẩm của "Người ngoài hành tinh". Để dịch giải nội dung của chúng, rất đơn giản, dùng lịch sử - văn hóa - học thuyết của Văn Lang là "ra tất".

 

kienthuc-dropa-01_jnor.jpg Từ nhiều thập niên gần đây, những chiếc đĩa đá cổ Dropa được cho là một trong những minh chứng rõ ràng về sự tồn tại của người ngoài hành tinh. Những hiện vật này được tìm thấy vào thập niên 1940, từ chuyến khảo sát của GS Tề Phúc Thái, một nhà khảo cổ đến từ ĐH Bắc Kinh.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Chúng ta tham khảo một số cổ vật bằng đá ngọc được phân bố khắp Văn Lang và Trung Hoa:

 

liangzhu001.jpg

Đĩa bích có ở vùng Tây Tạng, còn Tứ Xuyên có cả ống tông, đĩa bích, rìu Việt, nha chương và chúng cũng được diễn họa trên đồ đồng thông qua các tư thế của các pháp sư, phù thủy.

 

07M23-linjiatan.jpg

Một ngôi mộ ở tỉnh An Huy, Trung Hoa

 

Trong hệ thống biểu tượng được quy ước hết sức chặt chẽ, thì rìu Việt là cực kỳ quan trọng và nó được lấy làm "công cụ" khai phá vũ trụ và lãnh thổ (rìu Việt là bản đồ nước Văn Lang cổ) qua câu truyện Ông Bàn Cổ khai thiên lập địa và sau đó là Bà Nữ Oa đội đá vá trời.

 

Cùng với hai câu truyện trên, thì hình tượng Bà Nữ Oa và Phục Hy cũng thường được khắc họa trên đá hoặc đồ gốm thời trước Công Nguyên với hình người mình rắn, như vậy đã có sự mâu thuẫn hay tích hợp giữa Ông Bàn Cổ và Phục Hy.

 

180px-Anonymous-Fuxi_and_N%C3%BCwa2.jpg

Hình vẽ Nữ Oa và Phục Hy đầu người mình rắn đào được ở Tân Cương. trong đó Nữ Oa cầm com-pa ("quy" 規), Phục Hy cầm ê-ke
 
Chiếu theo thần phả, gia phả và huyền thoại Việt, Ông Bàn Cổ không phải là vua Phục Hy và là người tối cổ nhất, được lấy làm biểu tượng cho sự khai thiên lập địa và đó chính là Đế Hòa - cha của vua Phục Hy. Từ đó, bức tranh Phục Hy - Nữ Oa không chính xác mà đó phải là bức tranh Bàn Cổ - Nữ Oa, hai người này biểu tượng cho Lưỡng Nghi - Âm Dương, từ đó cũng có một sự liên hệt chặt chẽ khác nối tiếp: Tổ Tông Hồng Bàng trước hai vị này biểu tượng cho Thái Cực.
 
000e7b3289130b16460904.jpg
Rìu Việt
 
Như vậy, với sự phân bố rìu Việt và ý nghĩa biểu tượng Việt, cùng với kết quả thí nghiệm phóng xạ các bon cho các ngôi mộ có đồ ngọc khí đã chứng tỏ chúng có từ thời Đế Minh - trước khi chia đôi nước Bắc Dương Tử cho Đế Nghi và Nam Dương Tử cho Kinh Dương Vương (nhận định này cần kiểm tra lại một lần nữa).
 
Dưới đây là một chiếc rìu ngọc Chiết Giang có chữ được phiên dịch có tên "Hoàng Đế" (Yellow Emperor):
201307091223376b39f.gif?resize=600%2C563
 
Ngoài ra, trong cổ mộ còn phát hiện những chiếc con lắc ngọc dùng để tìm nguồn nước và cảm ứng tiên tri cho những sự kiện cần hỏi, và cho tới nay chúng ta vẫn đang dùng nó.
 
000e7b3289130b16461707.jpg
Liangzhu Jade Awl-shaped Object
 
Từ các nhận định này, chúng ta lại một lần nữa đối chiếu với vai trò của Nguyên Thủy Thiên Tôn - một vị thần có chức cao hơn cả Ngọc Hoàng Thượng Đế!. Những sự kiện mà chúng ta đang phân tích là hết sức chặt chẽ khi so sánh với lịch sử Hùng Vương của nước Văn Lang và tổ tông của Trung Hoa.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Qua các cổ vật ngọc khí, chúng ta thấy biểu tượng rìu Việt phổ biến cho cả Bắc và Nam Dương Tử. Trong cuốn Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam, Bình Nguyên Lộc cũng có viết về vùng Hà Nam, Hà Bắc, Trung Hoa nói tiếng Việt (không nhớ rõ chương nào). Cho tới thời Hạ, Thương, Chu thì biểu tượng này còn nổi trội hơn nữa qua những chiếc búa, rìu đồng có kích cỡ lớn.

 

Chiếc bình có hình con cò, cá và chiếc rìu. Chiếc bình có từ Văn hóa Ngưỡng Thiều thời kì đồ đá mới được phát hiện vào năm 1978 ở tỉnh Hà Nam. Vật báu này phản ánh lối sống săn bắt của con người giai đoạn bấy giờ. Đồng thời, đây cũng là chiếc bình hiếm, quý giá về vẽ hình trên đồ gốm từ giai đoạn văn hóa Ngưỡng Thiều. Chiếc bình có hình con cò, cá và chiếc rìu. Chiếc bình có từ Văn hóa Ngưỡng Thiều thời kì đồ đá mới được phát hiện vào năm 1978 ở tỉnh Hà Nam. Vật báu này phản ánh lối sống săn bắt của con người giai đoạn bấy giờ. Đồng thời, đây cũng là chiếc bình hiếm, quý giá về vẽ hình trên đồ gốm từ giai đoạn văn hóa Ngưỡng Thiều.

fcf3fef2fe8189a941dda6a88da3c165.jpg
 
Dưới đây là một chiếc rìu thời Thương
752ecef34302d999dfffc8caf520caf8.jpg
 
Đối với Văn Lang, tất nhiên rìu Việt là cực kỳ phổ biến và được dùng trong các buổi tế trâu bò tới đất trời, tổ tông. Hình ảnh của chúng còn được khắc họa trên thân trống đồng Ngọc Lũ, Hoàng Hạ... ở trên tay của một phù thủy nhưng không thể hiện một cách to lớn, oai nghiêm như các loại búa, rìu thời Thương, Chu mà lại rất gần gũi và giản đơn, thường được gọi là rìu hài - biểu tượng trang phục quan triều thời Hùng Vương, lưu giữ qua trang phục của các pháp sư, phù thủy. Búa, rìu Việt sau cũng trở thành một trong các nghi trượng nơi thờ tự, gọi là Lỗ bộ.
 
Trước đình, đền, chùa... chúng ta thường thấy hai tướng quân tạc vào hai bên cổng Tam quan thường cầm phủ Việt và đại đao.
riu-dong-vukhi-nguoi-viet-co-xua-6.jpg
 
Trong thời kỳ đồ đồng, biểu tượng ghi nhận cho tới thời Hạ (truyền thuyết vua Hạ Vũ cho đúc 9 chiếc đỉnh đồng tượng trưng cho 9 châu thời nhà Hạ - biểu tượng cho thần quyền kết hợp), Thương, Chu chính là những chiếc đỉnh đồng dùng trong tế lễ. Thời Thương chúng được chế tác vô cùng công phu, to lớn, oai nghiêm với hoa văn long - hổ là chủ yếu, trong khi đó những chiếc chuông đồng lại không được như vậy. Cho tới thời Chu thì sự hoàng tráng của những chiếc đỉnh đồng lại giảm đi, mà cùng với chúng thì những chiếc chuông đồng lại được thăng hoa về mọi mặt như hoa văn, kích cỡ, số lượng và chủng loại.
 
Đại Đỉnh có từ cuối thời nhà Thương (1400-1100 BC). Tư Mẫu Hậu đỉnh được một người nông dân ở tỉnh Hà Nam, Trung Quốc phát hiện vào tháng 3/1939. Đỉnh nặng 832.84 kg. Nó là chiếc đỉnh nặng nhất trong các nồi đồng được khai quật. Đỉnh được đúc cho vua Zugeng để cúng mẹ vua. Tư mẫu mậu đỉnh là minh chứng cho trình độ cao về kỹ thuật đúc đồng ở thời nhà Thương.

41dc3b194b1a12c991c14dda34abfe3e.jpg
Đối với Bắc Dương Tử thì đỉnh đồng chính là biểu tượng cho thần quyền, tất nhiên đi kèm còn những biểu tượng khác nữa cấu trúc thành một hệ thống. Còn đối với Nam Dương Từ thì sao? Ngoài những chiếc rìu Việt thì đó là biểu tượng nào liên quan đến thần quyền? Đó chính là những chiếc thố đồng Đông Sơn. Theo nhiều nhà nghiên cứu, thố đồng chính là chiếc đèn treo hay là đồ đựng vật dụng, tuy nhiên chúng ta cần nhận thấy rằng, thố đồng được chôn theo như một vật tế khí, có kích cỡ chung nhất, hoa văn đơn giản, có móc treo trên cao đối với những ngôi nhà vùng đất thấp, hải đảo hoặc trên "thuyền nhà".
 
Vai trò của chiếc thố đồng Đông Sơn chính là vai trò tổng hợp của chiếc "lư hương" và chiếc "đỉnh xông trầm" ngày nay, dùng chung cho việc thờ tự cắm hương, xông trầm.
 
trongdong10_zing.JPG

Trình độ kim khí ở thời đại văn hóa Đông Sơn cũng còn thể hiện qua bộ sưu tập sinh hoạt thường ngày phong phú về loại hình, kiểu dáng. Cần chú ý tới chiếc Âu - Âu vàng hay kim Âu trong thơ ca Việt. Cổ vật Đông Sơn cũng cần chú ý tới chậu đồng dùng trong các cuộc lễ tế nữa.

 

trongdong11_zing.JPG

Đồ minh khí (chôn cất cùng người chết) trong thời kỳ văn hóa Đông Sơn rất phát triển. Trong ảnh là những chiếc thố đồng được xếp vào đồ minh khí.

 

Vai trò của chiếc thố đồng Đông Sơn hầu như không được biết bởi các nhà nghiên cứu lịch sử, văn hóa cho tới tận ngày nay. Giữa thố đồng và đỉnh đồng có một mối quan hệ vô cùng mật thiết, thố đồng - biểu tượng cho Nam Dương Tử và đỉnh đồng - biểu tượng cho Bắc Dương Tử, chỉ khi liên hợp hai biểu tượng này mới hoàn thành lịch sử, giống như trong Đạo giáo Văn Lang, sự liên hợp của "lư đỉnh" trong tu luyện mới dẫn đến thành công - đắc đạo thành tiên.

 

Thời Tây và Đông Chu thì những chiếc chuông đồng được tôn vinh! Vậy còn Văn Lang thì sao? Đó chính là những chiếc trống đồng Đông Sơn.

 

800px-Bronze_ritual_bell%2C_Western_Zhou

Chuông khổng lồ thời Tây Chu, bảo tàng tỉnh Hồ Nam - một bộ của Văn Lang sau đó thuộc về triều đại Ân Thương trong trận chiến với Hùng Vương Thứ VI, Ngài không tổ chức lấy lại các vùng đất bị mất là có lý do của nó (còn gọi là Bạt Hổ - 4 phương Tứ tượng với 8 hổ Bát Quái)

 

trongdong3_zing.JPG

Trống đồng Làng Vạc, Nghệ An.

 

trongdong9_zing.JPG

Họa tiết hoa văn trên chiếc chuông được làm bằng đồng phát hiện tại Mộc Sơn, Thanh Hóa.

 

Sự ứng đối giữa chuông đồng và trống đồng cũng tương tự như đỉnh đồng và thố đồng, vậy thì chúng ta đã có 4 biểu tượng đầy đủ của 4 phương, sự hợp nhất của Bắc và Nam Dương Tử tức Lưỡng Nghi:

 

- Bắc và Nam Dương Tử liên hợp: rìu Việt (Yue) - Đế Thừa Sở Minh Công (cha của Đế Minh, Đế Nghi) trở về trước. Nó sẽ được phân tích trong mối quan hệ với các bộ tế khí nơi thờ tự.

- Nam Dương Tử (bao hàm cả Đông Nam Á và Tây Tạng): trống đồng (đông) và thố đồng (bắc) - tính từ Đế Minh và Kinh Dương Vương trở về sau.

- Bắc Dương Tử: chuông đồng (tây) và đỉnh đồng (nam) - tính từ Đế Nghi và Hoàng Đế - Đế Lai (cha của mẫu Âu Cơ - Quán Âm Bồ Tát) trở về sau.

 

"Thần tốc, thần tốc hơn nữa,

Táo bạo, táo bạo hơn nữa".

Bồ Tát Võ Nguyên Giáp.

 

Share this post


Link to post
Share on other sites

Từ cấu trúc biểu tượng ở trên chúng ta có nhận xét:

 

- Văn Lang với thố đồng - bắc, hành thủy và trống đồng - đông, hành mộc.

- Trung Hoa với đỉnh đồng - nam, hành hỏa và chuông đồng - tây, hành kim.

 

Chuông tai dê có "tượng voi" - phương Tây

Ancient_Civilization_Vietnam_Article_04.

 

Cấu trúc này phản ảnh đồ hình Hà đồ - Lạc thư, sự phân chia cung Dương ứng với hành thủy, mộc và cung Âm ứng với hành hỏa, kim qua dòng sông Dương Tử - định vị tâm Hà đồ - Lạc thư. Qua cấu trúc này, một lần nữa khẳng định tính quy ước của đồ hình như đã phân tích trong các bài viết ở trước: Hà đồ - Lạc thư được định vị theo phương Nam trên Bắc dưới tức lấy con người làm chủ thể nhận tương tác, tức như đồ hình cổ trong Kinh Dịch.

 

Đồ hình Hà đồ cần đảo ngược lại 180 độ.

3524359518_b4cd8c82b0.jpg

 

Đây chính là nền tảng để quán xét toàn bộ ý nghĩa tương hợp giữa Bắc và Nam Dương Tử về mọi mặt.

 

Tuy nhiên, khí nói đến Hà đồ - Lạc thư là phải nói trên trung cung hành thổ, vậy biểu tượng đồ đồng của Văn Lang và Trung Hoa cho trung cung này là đồ tế khí loại nào?

 

Đỉnh xông trầm - cổ vật Đông Sơn

DSC_0060-77cef.JPG
 
3452f_dodong4.jpg
 
taihien1.JPG

 

2012-06-25.03.05.07-1000-bao-vat-van-hoa

 

Chúng ta cũng đã nói về biểu tượng rìu Việt, có một sự chú ý trong bộ nghi trượng Lỗ Bộ thì dùng búa lớn (Phủ Việt) chứ không phải rìu Việt. Rìu Việt xuất hiện trên trống đồng Đông Sơn dùng trong các buổi tế lễ tức liên quan đến Cõi Vô Hình - vũ khí trừng phạt của Ngọc Hoàng Thượng Đế qua tay của thần Sấm còn kiếm (gươm) mới là vũ khí của Cõi Hữu Hình chúng ta. Truyền thuyết về Rùa Vàng tăng gươm báu cho vua Lê Lợi mang ý nghĩa này.

 

Pháp sư cầm rìu Việt trên trống đồng Đông Sơn

 

3705160539_17ae00966b.jpg

Kiếm đồng Đông Sơn

Vao-xem-kho-co-vat-gia-tri-cua-dai-gia-x

Share this post


Link to post
Share on other sites

Qua cấu trúc các bộ đồ tế khí, chúng ta sẽ nhận nhận một điểm quan trọng mà từ đó xác định được Viêm Đế của Trung Hoa là vị nào:

 

- Phương Nam hành hỏa với biểu tượng của Đế Minh ứng với đỉnh đồng (Trung Hoa) và phương Đông với biểu tượng trống đồng ứng với Kinh Dương Vương, cấu trúc vận động theo Lạc thư. Còn Trong Hoa cấu trúc vận động theo Hà đồ với định vị phương Nam với biểu tượng của Đế Nghi ứng đỉnh đồng, Đế Nghi là em sinh đôi với Đế Minh.

 

- Tam Hoàng Ngũ Đế có 2 cấu trúc: cho Toàn thể Bắc Nam Dương Tử và Nam Dương Tử; cho riêng Bắc Dương Tử.

 

Để từ đó, xác định được Hoàng Đế là Đế Lai như đã viết ở các bài trên.

 

Tuy nhiên, đỉnh đồng không thấy hay cực kỳ ít ở Nam Dương Tử, ngoại trừ vùng Hồ Nam, Giang Tây, Chiết Giang sau khi thuộc về nhà Ân Thương, do vậy biểu tượng phương Nam là gì?

 

Đó là chiếc Âu đồng, tế khí mang ý nghĩa chứa đựng, không có nắp, thường đựng đồ cúng như cơm... dùng cho sự sinh, còn đối xứng nó là thố đồng dùng co sự tử - hương trầm.

 

Âu đồng Đông Sơn

2012-06-25.03.05.07-1000-bao-vat-van-hoa

 

Lịch sử Tử vi còn ghi lại bài phú:

 

 # Ngân đăng giá bích câu
Ánh đèn bạc làm băng lạnh con ngòi biếc.

Có thể hiểu là giá trị giả thấp kém đã thay thế cho giá trị thật, cao quí.
#Yên mãn tự chung lâu
Lửa đã cháy đến tận đỉnh lầu chuông.

Có thể hiểu là sự nguy nan của quốc gia Văn Lang có nguyên nhân từ bên trong không thể cứu vãn.
#Hán địa siêu sài thấp
Đất nhà Hán đã nghiêng tràn đến chỗ thấp nhất. (Đất hay Nước và chỗ thấp nhất - trống không đối ứng với Lửa đã cháy đến tận đỉnh lầu chuông).


Ngân đăng giá bích câu.
Yên mãn tự chung lâu
Hán địa siêu sài thấp
Viêm Thuỷ lạc kim âu.
Bắc Nam Dương Tử đã lạc tổ tông của mình

 

Câu thứ tư này không lạc vận với 3 câu trên và trùng với nội dung ban đầu của nó với đủ ngũ hành (bổ sung bởi tác giả Thiên Sứ):

Ngân (Kim) Đăng (Hỏa) Giá (Mộc) Bích (Thổ) Câu (Kim).
Yên (Hỏa) Mãn (Thủy) Tự (Thổ) Chung (Kim) Lâu (Mộc).
Hán (Thủy) Địa (Thổ) Siêu (Hỏa) Sài (Mộc) Thấp (Thủy).
Viêm (Hoả) Thuỷ (Thuỷ) Lạc (Mộc) Kim (Kim) Âu (Thổ).

 

Chúng ta xem lại các địa chí:

 

Bích Câu có nghĩa là ngòi biếc, ám chỉ ngày xưa ở đây có một con ngòi (kênh, mương) nước trong xanh chảy ra hồ Giám, Lương Sử, Ngô Sĩ Liên tới hồ Kim Âu gần phố Khâm Thiên. Tương truyền chúa Trịnh Sâm đã từng từ phủ chúa gần ngã tư Quang Trung-Tràng Thi đi thuyền theo một con ngòi đến hồ Kim Âu, qua ngòi biếc này ghé đến nhà tham tụng Nguyễn Khảm (anh ruột của Nguyễn Du) ở Văn Miếu[1]

 

Vị trí phường Bích Câu theo phỏng đoán là cả một khu vực ôm lấy nội thành phía nam, tây nam và tây bắc vòng Hoàng thành Thăng Long. Nếu nhìn trên bản đồ hiện nay thì Bích Câu gồm các phố Quán Thánh, sang Hùng Vương, sang Nguyễn Thái Học, Quốc Tử Giám, xuôi nửa đường Tôn Đức Thắng, xuống các làng Hào Nam, Giảng Võ rồi ngang về phía cuối các trục đường Cát Linh, Kim Mã - cả Thủ Lệ, Đội Cấn, Hoàng Hoa Thám và một phần thuộc đất làng Thụy Khuê.

 

Phường Bích Câu vốn có từ rất lâu trước khi Lý Công Uẩn dời đô về Đại La, lập thành Thăng Long. Từ thời nhà Lý trở đi thì phường Bích Câu phát triển thành một trung tâm chính trị, văn hóa, kinh tế bậc nhất Thăng Long. Thời hoàng kim của Bích Câu kéo dài hàng thế kỷ văn minh từ thời trung đại cho đến hết thế kỷ 19.

 

Cái tên Bích Câu được ra đời từ rất sớm, đã xuất hiện trong các câu truyện dân gian từ xa xưa. Các sách về địa chính Tống Bình, Đại La đã nói đến Bích Câu với sự tích văn hóa và lịch sử hình thành đặc biệt của nó. Trước đây Bích Câu này chỉ được gọi là trại, sau đổi là phường. Khu vực này tập trung đa phần là vua chúa, quan lại và danh sĩ ngay từ thời Văn Lang - Thục Phán.

 

Theo Văn Kỳ Trung hưng, sinh hoạt của phường Bích Câu náo nhiệt nhất vào những năm 40 của thế kỷ 17 đến đầu thế kỷ 19. Các sinh hoạt ở đây đã sớm hội nhập văn minh phương Tây lẫn thời Minh, Thanh của Trung Quốc, mạnh nhất là thời Khang Hy, Càn Long. Nơi đây đã từng tập trung vua chúa, quan lại, văn nghệ sĩ, bác học và cả những "Mạnh Thường Quân"... Gia đình của Nguyễn Du cũng ở phường Bích Câu, khi đó là một gia đình đại quý tộc.

 

Bích Câu còn được nhắc tới trong tác phẩm Bích Câu kỳ ngộ, kể về một học trò tên Tú Uyên gặp nàng Giáng Kiều ở đất Bích Câu. Bích Câu kỳ ngộ có nghĩa là cuộc gặp gỡ lạ lùng ở Bích Câu. Cuộc gặp gỡ Bắc - Nam, Cõi Âm và Cõi Dương.

 

Bích Câu hay con ngòi biếc chính là sông Nhị Hà (sông Hồng) và Kim Âu chính là Bạch Long thành tức thành Thăng Long hay Hà Nội ngày nay, kinh đô của Văn Lang và của Đại Hòa thời Đế Minh.

 

Tuy nhiên, trong bài thơ "Âu" hành thổ, trung tâm chứ không phải hành hỏa như nhận định, vậy biểu tượng phương Nam là cái gì? Cái âu ở trung tâm Hà đồ - Lạc thư!

 

Đó là cái Ấm có hình con gà trống hay là cái nồi đồng Việt?.

 
1d687_dodong5.jpg
 

1-6cb6e.JPG

 

Đấy chính là cái nồi đồng Việt có dấu "hoa thị 6 cánh 1 nhụy = 7 độ số phương Nam" mà ngày nay còn sử dụng, chúng đượng dùng trong các buổi tế lễ, nó liên quan đến lửa - hành hỏa. Tất nhiên, trung tâm sẽ là cái Âu đồng Đông Sơn.

 

rak1363079945.jpg

 

Nồi sắt mộ Nam Việt Vương Triệu Muội.

btv-navv-5.jpg?w=881&h=906

 

Âu đồng trung tâm liên quan đến đồ tế lễ và ứng với Đạo thờ Tổng Tông trong cấu trúc các Đạo thời Hùng Vương: Đạo Mẫu, Đạo Tổ Tông, Đạo Tiên, Thần Đạo và Đạo Nho, còn đồ tế khí trung tâm thì chính là cái Đỉnh xông trầm Đông Sơn, mà sau này được chế tác thành chiếc đỉnh trên các bàn thờ tổ tông Việt.

 

Đỉnh xông trầm - cổ vật Đông Sơn

3775499978_a53ca30ce1.jpg

Share this post


Link to post
Share on other sites
Bích câu kỳ ngộ
 
Tác giả: Khuyết Danh
 
Mấy trăm năm một chữ tình,
Dưới trời ai kẻ lọt vành hóa nhi.
Cơ duyên ngẫm lại mà suy,
Trời Nam nào có xa gì cõi Tây.
Tương duyên kỳ ngộ xưa nay,
Trước kia Lưu, Nguyễn, sau này Bùi, Trương.
Kìa ai mê giấc Đài Dương,
Mây mưa là chuyện hoang đường biết đâu?

Thành Tây có cảnh Bích Câu,
Cỏ hoa góp lại một bầu xinh sao!
Đua chen thu cúc, xuân đào,
Lựu phun lửa hạ, mai chào gió đông.
Xanh xanh dãy liễu, ngàn thông,
Cỏ lan lối mục, rêu phong dấu tiều.
Một vùng non nước quỳnh giao,
Phất phơ gió trúc, dạt dào mưa hoa.

Triều Lê đương hội thái hòa,
Có Trần công tử tên là Tú Uyên.
Phúc lành nhờ ấm xuân huyên,
Số trong tài mạo kiêm tuyền kém ai.
Thông minh sẵn có tư trời,
Còn khi đồng ấu mãi vui cửa Trình.
Trải xem phong cảnh hữu tình,
Lâm toàn pha lẫn thị thành mà ưa.
Liền khu trùm một lầu thơ,
Lau già chắn vách, trúc thưa giũ rèm.
Thừa hư đàn suối ca chim ,
Nửa song đèn sách, bốn thềm gió trăng.
Của chung huy hoắc đâu bằng,
Chứa kho vàng cúc, chất từng tiền sen .
Khắp so trong cõi ba nghìn ,
Yên hà riêng nửa, lâm tuyền chia đôi.
Thú vui bốn bạn thêm vui
Khắp trong bể thánh, đủ ngoài rừng tao

Thoi đưa ngày tháng sương sao,
Ngô vừa rụng lá lại đào nẩy hoa.
Trời hôm giục bóng dâu tà,
Xuân già e tuyết, huyên già ngại sương .
Não người thay! nỗi tang thương,
Trông vùng mây trắng ngất đường non xanh.
Vai còn đôi gánh thâm tình,
Bầu Nhan đã sạch sành sanh còn gì!
Mấy phen hạ tới thu về,
Lọt mành nắng rõ, quanh hè tuyết xây.
Chiều trời lạnh ngắt hơi may,
Mai tàn trước gió, liễu gầy sau sương!
Lơ thơ nửa mái thảo đường,
Phên thềm lọt gió, vôi tường thấm mưa!
Phong quang lạ khác dấu xưa,
Ao tù sen rũ, rào thưa, cúc cằn.

Sinh từ gặp bước gian truân,
Vinh khô gọi nếm mùi trần chút chơi.
Cùng thông dù mặc có trời,
Nguôi dần bể khổ, san vơi mạch sầu.
Lôi thôi cơm giỏ nước bầu ,
Những loài yến tước biết đâu chí hồng .
Thề xưa đã nặng với lòng,
Dẫu sau trắng nợ tang bồng mới thôi.
Ao nghiên giá bút thảnh thơi,
Tây hồ tiên tích mấy nơi phẩm bình.
Thi hào dậy tiếng Phượng thành,
Vào phen Lý, Đỗ, nức danh Tô, Tào .
Ngửa nghiêng lưng túi phong tao,
Nước, non, mây, gió, chất vào còn vơi.
Châu ken chữ, gấm thêu lời ,
Vàng gieo tiếng đất, hạc khơi bóng thuyền.
Đã người trong sách là duyên ,
Mấy thu hạt ngọc Lam điền chưa giâm.
Lửng lơ chiếc lá doành nhâm,
Cắm thuyền đợi khách, ôm cầm chờ trăng.

Ngọc hồ có đám chay tăng,
Nức nô cảnh Phật, tưng bừng hội xuân.
Dập dìu tài tử giai nhân ,
Ngổn ngang mã tích xa trần thiếu ai .
Thưởng xuân sinh cũng dạo chơi,
Thơ lưng lưng túi, rượu vơi vơi bầu.
Mảng xem "cây phạm" thú mầu,
Vầng kim ô đã gác đầu non tê .
Tiệc thô ai nấy cùng về,
Gió chiều lay bóng hoa Lê la đà.
Bân cầu đàn lũ năm ba,
Thần tiên trước mắt ai là kẻ hay!
Sinh vừa tựa liễu nương cây,
Lá hồng đâu đã thổi bay lại gần.
Mắt coi mới tỏ dần dần,
Mấy dòng chữ viết ba vần bốn câu .
Trông qua lặng ngắt giờ lâu,
Ấy ai thả lá doành câu ghẹo người .
Vừa toan họa lại mấy lời,
Gió hương đâu đã bay hơi nồng nàn.

Thấy người trước cửa tam quan,
Theo sau ba bảy con hoàn nhởn nhơ.
Lạ lùng con mắt người thơ,
Hoa còn phong nhụy, trăng vừa tròn gương.
Rành rành xuyến ngọc thoa vàng,
Quần nghê tha thướt, sóng Tương rượm rà .
Mỉa chiều nét ngọc làn hoa,
Cá chìm mặt nước, Nhạn sa lưng trời .
Gần xem vẻ mặt thêm tươi,
Mùi hương thoang thoảng thơm rơi ít nhiều.
Làn thu lóng lánh đưa theo,
Não người nhăn chút lông nheo cũng tình .
Vốn mang cái bệnh Trương sinh,
Gặp người nghiêng nước nghiêng thành biết sao?
Đưa tình một nét sóng đào,
Dẫu lòng sắt đá cũng xiêu, lọ người.
Nhân duyên ví chẳng tự trời,
Từ lang chưa dễ lạc vời non tiên.

Dù mặt lạ đã lòng quen,
Cả liều đến gốc thu thiên ướm nàng:
"Quá vui nên trót sỗ sàng,
"Thử tình cho kẻo bẽ bàng với hoa."
Khách rằng: "Trong hội Vô già,
"Cửa không, ngàn giác đấy là từ bi .
"Gió bay những tiếng thị phi,
"Trót lầm thôi có trách gì đến ai."
Giọng kiều nghe lọt vào tai,
Đã gần bể sắc, khôn vơi sóng tình.
Thưa rằng: "Chút phận thư sinh,
"Đèn từ soi đến tấm thành với nao!
"Chi viên nỡ hẹp hòi sao,
"Mở đường phương tiện chút nào được chăng?"
Rằng: "Đây về đạo kim thằng,
"Trăng hoa sao khéo nói năng những lời.
"Bến từ có hẹp chi ai,
"Dốc đem thuyền giác độ người bến mê.
"Ngán cho bên cõi bồ đề,
"Phải đường ong bướm đi về đấy sao?
"Đóa hoa sẵn nhạc vàng treo,
"Tiếng oanh chỉ để lao xao trên cành."
Lặng nghe lọt đến giọng tình,
Lòng tham quanh cả bên mình mỹ nhân.
Rằng: "Đây lầm xuống mê tân,
"Tiền duyên xin để kim thân tu đền.
"Ba sinh cho vẹn mười nguyền,
"Nhờ tay kim tướng, đưa duyên xích thằng.
"Gậy linh mượn phép cao tăng,
"Phá thành sầu khổ cho bằng mới cam.
"Chày sương đợi khách cầu Lam,
"Phẩm tiên may bén tay phàm biết đâu.
"Nước bèo dù có duyên sau,
"Bên sông thử bắc nhịp cầu từ đây."

Người còn cợt gió, đợi mây,
Gót tiên khách đã trở giầy làm thinh.
Ngóng theo đến Quảng Văn Đình,
Bóng trăng trông đã trên cành lướt qua.
Mượn người thăm hỏi gần xa,
Hồng Lâu Tử Các đâu mà đến đây?
Hay là quán nước, làn mây,
Gió xuân thổi xuống chốn này đấy sao?
Dám xin trỏ lối cho nao,
Tới non Ngọc dễ ai nào về a!
Ơn lòng nhắm liễu thăm hoa,
Biết đâu sắc sắc vẫn là không không
Thoắt thôi lẩn bóng ngàn thông,
Hương trầm còn thoảng cánh hồng đã khơi.
Xe loan gió cuốn lưng trời,
Tiên về động bích, tình rơi cõi trần.
Ngửa trông năm thức mây vần,
Hồn chưa đến chốn non thần đã mê.

Lần trăng ngơ ngẩn ra về,
Đèn thông khêu cạn, giấc hòe chưa nên.
Nỗi nàng canh cánh nào quên,
Vẫn còn quanh quẩn người tiên khéo là?
Bướm kia vương lấy sầu hoa,
Đoạn tương tư ấy nghĩ mà buồn tênh!
Có khi gẩy khúc đàn tranh,
Nước non ngao ngán ra tình hoài nhân.
Cầu hoàng tay tựa nên vần,
Tương Như lòng ấy, Văn Quân lòng nào.
Có khi mượn chén rượu đào,
Tiệc mồi chưa cạn, ngọc dao đã đầy.
Hơi men chưa nhấp đã say,
Như xông mùi nhớ, như gây giọng tình.
Có khi ngồi suốt năm canh,
Mõ quyên điểm nguyệt, chuông kềnh nện sương.
Ỏi tai những tiếng đoạn trường,
Lửa tình dễ nguội, sông Tương khôn hàn.
Có đêm ngắm bóng trăng tàn,
Tiếng quyên hót sóm, trận nhàn bay khuya.
Ngổn ngang cảnh nọ tình kia,
Nỗi riêng, riêng biết, dãi dề với ai!
Vui xuân chung cảnh một trời,
Sầu xuân riêng nặng một người tương tư.
Lòng yêu tay tả nên thơ,
Mảnh tình phong với mảnh tờ đưa theo.
Ả Hằng ví nặng lòng yêu,
Rẽ mây mở lối tinh thiều cho nao!
Hỏi cho giáp mặt hoa đào,
Vườn xuân chẳng lẽ ngăn rào mãi ru!

Đồng song có gã họ Hà,
Ướm tình mới hỏi lân la gót đầu.
Cớ sao chuốc não mua sầu,
Bữa thường ngao ngán như màu nhớ ai?
Bấy nay vắng vẻ thư trai,
Vóc sương nghe đã kém vài bốn phân.
Nguồn cơn ngỏ với cố nhân,
Họa may sẽ giúp được phần nào chăng?
Điều đâu thực khéo như rằng,
Nói vào hợp ý, khôn bưng lòng người.
Song mà tình chẳng riêng ai,
Bệnh tương tư có trải mùi mới hay.
Người ngu đấng thánh xưa nay,
Tình chung chẳng ở vòng này hay sao?
Nói dù nghe cũng thế nào,
Lặng dù, nghe cũng nao nao chẳng đành.
Bệnh căn khôn lẽ dấu quanh,
Cầm tay mới kể đinh ninh mọi điều.
Nói bao nhiêu, tưởng bấy nhiêu,
Ghê cho sắc ngọc dễ xiêu lòng vàng.
Những là tiếc phấn say hương,
Nên vò lưới nhện mà vương tơ tằm.
Sầu dường bể, khắc như năm,
Xương mai chịu được mấy lăm mà gầy!
Nghìn xưa âu cũng thế này,
Gánh sầu san sẻ ai đầy ai vơi?
Lạ cho cái giống hương trời,
Biết năm biết thuở, biết đời nào quên.

Hà nghe nói hết căn nguyên,
Nghĩ xem chuyện ấy quả nhiên rằng kỳ.
Chẳng thần nữ, cũng tiên phi,
Duyên xưa còn có chút gì hay không.
Lá hồng ra mối chỉ hồng,
Nước bèo kia cũng tương phùng có phen.
Ngọc Liên nghe có Hóa Tiên,
Thánh Tông thuở trước qua miền ấy chơi.
Lầu chuông bỗng gặp một người,
Ngâm câu thần kệ, vịnh bài quốc âm.
Ngự khen tú khẩu cẩm tâm,
Mến riêng vì sắc, yêu thầm vì thơ.
Rước về rắp gạn tóc tơ,
Gót tiên bỗng thoắt bao giờ còn đâu?
Mười lăm năm nọ chưa lâu,
Còn di tích đó là lầu Vọng Tiên
Lạ tai nghe những chẳng tin,
Thử coi cho thấy nhãn tiền mà ghê.
Nhận ra trong lá thơ đề,
Bút tiên chi để điểm mê lòng phàm.
Những là én bắc nhạn nam,
Cánh hoa mặt nước dễ làm sao đây?
Tuy rằng cách trở đông tây,
Dẫu xa, xa cũng có ngày gần nơi.
Gác xuân cách mấy dặm khơi,
Nhân duyên đành để gió trời thổi đưa.

Hà rằng: "Hương lửa duyên xưa,
"Có khi tình trước còn chờ hội sau.
"Đành rằng kỳ ngộ nan cầu,
"Biết đâu non thẳm doành sâu mà tìm.
"Biết đâu nhắn cá gửi chim,
"Vớt trăng dưới nước, mò kim trong doành.
"Biết đâu ả Tố, nàng Quỳnh,
"Cớ chi nhớ quẩn sầu quanh khéo là.
"Chuốc mua lấy nợ phong hoa,
"Mối tơ phó mặc trăng già phải nao!
"Xuân sang xuân đã già nào,
"Chờ sau mai nở thì đào chẳng lâu."
Vắt tay ngẫm nghĩ xưa sau,
Như ai cất hẳn gánh sầu thoảng không.
Nói cười tươi tắn thong dong,
Đổi lòng phong nguyệt ra lòng vân thiên.
Thôi mong khách, lại chờ tin,
Thư hồng ngày mỏi, chăn uyên đêm dài.
Bâng khuâng một mối viễn hoài,
Khi trong sân tuyết, khi ngoài trời tây.
Ngày thường ngắm cảnh am mây,
Người buồn xui cả cỏ cây cũng buồn.
Còn trời, còn nước, còn non,
Mây xanh nước biếc vẫn còn như xưa.
Hoa đào còn đó trơ trơ,
Mà người năm ngoái bây giờ là đâu?

Vù vù gió thổi rèm lau,
Càng như chất mối tơ sầu vào thêm.

Chạnh đâu nhớ chuyện bốc tiêm,
Tới đền Bạch Mã, giải niềm cầu duyên.
Khấn rồi ra góc tây hiên,
Nén hương tắt đỏ, ngọn đèn nhỏ to.
Bóng trăng vừa xế cành ngô,
Giấc hoè dìu dịu, chăn cù êm êm.
Thấy người cao mũ rộng xiêm,
Tay cầm thiết bảng, trang nghiêm khác vời.
Trước sân sang sảng dạy lời,
Rằng: "Mai sớm đợi ta ngoài sông Tô.
"Lọ là oanh yến hẹn hò,
"Cầu Đông sẵn lối, cầu Ô đó mà!"
Vội mừng chợt tỉnh giấc hoa,
Sao vừa nhàn nhạt, trời vừa eo eo.
Lòng yêu phải bước chân theo,
Xăm xăm ra đó vắng teo thấy gì.
Nước trong vắt, cỏ xanh rì,
Thạch Kiều thấy đó giai kỳ nào đâu?

Trông mong đã suốt giờ lâu,
Ôm cây mãi thế, ra màu cũng quê.
Chán chiều thơ thẩn ra về,
Xem tình dở tỉnh dở mê nực cười.
Bỗng may lại gặp một người,
Tay mang tranh vẽ, gót dời đường hoa.
Liền tay xin lĩnh xem qua,
Truyền thần một tượng Tố Nga rành rành.
Dịu dàng vẻ đạm màu thanh,
Như người gặp Quảng Văn Đình ngày xưa.
Càng nhìn nét bút càng ưa,
Chàng Vương dẫu mạc bao giờ cho nên.
Mua về treo chốn thư hiên,
Như ai đem ngọc giải phiền lại cho.

Mưa hoa khép cánh song hồ,
Sớm khuya với bức họa đồ làm đôi.
Mâm chung một, đũa thêm hai,
Thơ trao dưới nguyệt, rượu mời trước hoa.
Tưởng gần thôi lại nghĩ xa,
Có khi hình ảnh cũng là phát phu.
Êm trời vừa tiết trăng thu,
Ngàn sương rắc bạc, lá khô rụng vàng.
Chiều thu như gợi tấm thương,
Lòng người trông xuống sông Tương mơ hình.
Kề bên năn nỉ bày tình,
Nỗi nhà thuở trước, nỗi mình ngày xưa.
Từ phen giáp mặt đến giờ,
Những là ngày tưởng đêm mơ đã chồn.
Ấy ai điểm phấn tô son,
Để ai ruột héo, gan mòn vì ai?
Buồn đào nửa bước chẳng rời,
Nghìn vàng đổi được trận cười ấy chăng?
Rày xin bẻ khóa cung trăng,
Vén mây mở mặt chị Hằng, chút nao!
Chợt trông mấp máy miệng đào,
Mặt hoa hớn hở dường chào Chúa đông.

Cho hay tình cũng là chung,
Khách tiên chưa dễ qua vòng ái ân!
Một khi ra việc tràng văn,
Trở về đã thấy bát trân sẵn sàng.
So xem phong vị khác thường,
Mùi hoa sực nức, mùi hương ngạt ngào.
Bếp trời sẵn đấy hay sao?
Của đâu thấy lạ, lòng nào chẳng nghi?
Rạng mai cứ buổi ra đi,
Liệu chừng thoắt trở lại nhà thử coi.
Sẩy đâu thấy sự lạ đời:
Trong tranh sao có bóng người vào ra?
Nhơn nhơn mày liễu mặt hoa,
Này người khi trước, đâu mà đến đây?

Nàng đương trang điểm nào hay,
Cửa ngoài sẽ hé cánh mây bước vào.
Vội vàng đánh tiếng ra chào,
Bên mừng, bên lệ, xiết bao là tình!
Rằng: "Bấy lâu một chữ tình,
"Gặp đây xin tỏ tính danh cho tường."
Nàng rằng: "Bồ liễu phận thường,
"Vì mang má phấn, nên vương tơ điều.
"Vốn xưa thiếp khách thanh tiêu,
"Tiên thù là hiệu, Giáng Kiều là tên.
"Ba sinh đã nặng vì duyên,
"Đem thân liễu yếu, kết nguyền đào thơ.
"Nhân duyên đã định ngày xưa,
"Tơ trăng xe đến bây giờ mới thân.
"Cũng là nhờ đức tiên quân,
"Đóa hoa biết mặt chúa xuân từ rày."
Sinh rằng: "Trong bấy lâu nay,
"Nhắp sầu, gối muộn, có ngày nào ngơi!
"Đã rằng: Tác hợp duyên trời,
"Làm chi cho vẩn lòng người lắm nau?"
Nàng rằng: "Xin quyết gieo cầu,
"Tấm son thề với trên đầu xanh xanh.
"Dám đâu học thói yến oanh,
"Mặn tình trăng gió, nhạt tình lửa hương.
"Gieo thoi trước đã dở dang.
"Sau nên nát đá phai vàng như chơi.
"Mái Tây còn để tiếng đời,
"Treo gương kim cổ cho người soi chung.
"Lạ chi hoa với gió đông,
"Tiếc hương, vả cũng nể lòng chim xanh.
"Một mai mưa gió bất tình,
"Vóc tàn, nên để yến oanh hững hờ.
"Nghĩ trong thân phận yếu thơ,
"Làm chi để tiếng sờ sờ lại sau?"

Nói thôi rút chiếc trâm đầu,
Biến hình liền thấy đôi hầu theo ra.
Tưng bừng sắm sửa tiệc hoa,
Bình trầm đưa khói, chén hà đậm hương.
Giọng tình sánh với quỳnh tương,
Giả say sinh mớ toan đường lần khân.
Thưa rằng: "Túc trái tiền nhân,
"Không dưng dễ xuống cõi Trần làm chi.
"Song còn mấy bạn tương tri,
"Bấy lâu chưa có chút gì là đâu.
"Trước xin từ biệt cùng nhau,
"Chữ duyên này trở về sau còn dài."
Nghe lời nói cũng êm tai,
Chìu lòng chi nỡ ép nài mưa mây.
Trước sân mừng cuộc tỉnh say,
Tiếng vui đãi nguyệt, tiệc bày đối hoa.
Bóng mây bỗng kéo quanh nhà,
Thảo am thoát đã đổi ra lâu đài.
Tường quang sáng một góc trời,
Nhởn nhơ áo, mũ, xiêm, hài, biết bao!
Người yểu điệu, khách thanh tao,
Mỗi người một vẻ, ai nào kém ai.
Lả lơi bên nói bên cười,
Bên mừng cố hữu, bên mời tân lang.
Đong đưa khoe thắm đua vàng,
Vũ y thấp thoáng, Nghê thường thiết tha.

Yến tân chuốc chén năm ba,
Người còn vui tiệc, khách đà cáo say.
Kẻ ra nương bánh xe mây,
Người vào trong gấm vui vầy bạn loan.
Lả lơi cười với hoa nhan,
Trải chăn thúy vũ, buông màn phù dung.
Phòng tiên dìu dặt chén đồng,
Rèm tương giủ thấp, trướng hồng treo cao.
Ngẩn ngơ hé cửa động đào,
Mây tuông bể ái, mưa rào sông ân.
Mấy vàng đổi được khắc xuân,
Xưa nay tài tử, giai nhân lạ gì?
Cho hay thiên tải giai kỳ,
Trăng già xe đã phải thì đào non.
Cũng là môt mốt tơ son,
Năm trăm năm cũng vuông tròn từ đây.
Đàn cầm từ thuở bén dây,
Khi đằm thắm đã, bỏ ngày nhớ nhung!
Khi gió mát, lúc trăng trong,
Bầu tiên chuốc rượu, tơ đồng nối dây.
Khi tuyết xuống, lúc hương bay,
Câu thơ trên gác, bàn vây bên bình.
Tài hoa quốc sắc khuynh thành,
Cầm, kỳ, thi, tửu, đủ vành Trần duyên.
Ngươi tao nhã, khách thuyền quyên,
Phong, hoa, tuyết, nguyệt, là tiên trên đời.
Nhà lan sum họp ban mai,
Đã trong tần tảo, lại ngoài ty ca.

Dần dần năm đã kể ba,
Hạnh và độ thắm, Liễu và phần son.
Duyên ai tính đã vuông tròn,
Nào hay nợ trước chút còn dở dang.
Trần Sinh từ thuở gặp nàng,
Vui vầy mê mải nên càng quá xưa.
Một ngày say mấy canh thừa,
Khuyên can nàng mới ngỏ thưa ít nhiều.
Rằng: "Xin gửi một hai điều,
"Thân trăm năm nỡ bỏ liều thế ư!
"Thiếu gì những chuyện ngày xưa,
"Còn bia miệng đó trơ trơ chưa mòn!
"Ấy ai dỗi gót bên non,
"Bóng trăng Thái Thạch là hồn ai say!
"Ví còn lầm trước chưa hay,
"Thì đem gương ấy sau này mà soi."

Ngán thay khuyên nhủ đến lời,
Nưóc kia dội đá có mùi gì đâu.
Thôi ngày trọn, lại đêm thâu,
Cạn chung Lý Bạch, nghiêng bầu Lưu Linh.
Ma men quanh quẩn bên mình,
Cho đàn trễ phím, cho bình nhạt hương.
Mải mê say tỉnh tâm trường,
Liệu bài nàng lại tìm đường van lơn.
Trái tai vả lại ngứa gan,
Đang tay nỡ dập hoa tàn tả tơi.
Dây đồng đứt hẳn làm đôi,
Cánh bèo theo ngọn nước trôi cũng rầu!
Nàng càng tầm tả tuôn châu,
Ngán nhân tình khéo ra màu thắm phai.
Rằng: "Thôi, tôi đã quá lời,
"Xui lòng nghĩ lại một hai kẻo mà..."
Sinh đang vui chén la đà,
Vẩn vơ tính quỉ hồn ma biết gì.
Nói thôi, nói cũng chi chi,
Nghe ra tiếng nặng như chì, giọng say!
Nàng rằng: "Duyên nợ bấy nay,
"Thương ôi nước đổ bốc đầy được đâu.
"Tiếc cho nỗi vợ chồng Ngâu,
"Doành thu nên để bắc cầu mấy phen!
"Sá chi nữa, cái hoa hèn,
"Nghĩ làm chi nữa cái duyên cũ càng.
"Đã lòng rẻ thúy chia hương,
"Đành lòng rẫy ngọc, ruồng vàng thì vâng.
"Thôi thôi, thôi cũng cầm bằng,
"Tơ hồng phó trả bà trăng cho rồi."
Lạy rồi, đứng lại sân ngoài,
Bên bàn say tỉnh mặc người ngồi trơ.

Sinh còn đương cuộc nào ngờ,
Tỉnh dần dần lại, bây giờ biết sao?
Biết phương nào, biết chước nào,
Có chăng còn lúc chiêm bao họa là!
Non thần mấy dặm đường xa,
Khói mây man mác dễ mà hỏi, vay!
Cát vàng bụi bạc xa bay,
Mây trên mặt đất, non xây chân trời.
Ngắt chừng bể thẳm doành khơi,
Đường xa bao ngả tình dài bấy nhiêu.
Buồn trông quãng vắng đường queo,
Gió lay nhẹ lá, sương gieo nặng cành.
Buồn trông cửa bể mông mênh,
Con thuyền thấp thoáng cuối ghềnh ngổn ngang.
Buồn trông cuối phố hàng đường,
Cánh hồng man mác, hạt sương đầm đìa.
Buồn trông theo giải Tô Khê,
Chim kêu bụi rậm, Trâu về đồng không.
Cảnh buồn như giục tấm lòng,
Lại thêm vấn vít mấy vòng tơ vương.
Ấy ai phải vía chàng Trương,
Non tiên cách một bước đường nên xa.
Hay là lỗi sổ Hằng Nga,
Đêm đông vò võ bóng tà sao thưa.
Nghĩ tình nên những ngẩn ngơ,
Ai lên đường ấy, ai chờ đợi ai?
Dần dần trăng tối gió may,
Nghĩ sao cho xiết sự đời phôi pha!
Trêu ngươi chi bấy trăng già,
Xe dây mỏng mảnh ỡm ờ mà chơi.
Cho nên cách trở đôi nơi,
Hoa trôi cửa động, nước xuôi cõi Trần.
Nghĩ riêng, riêng những ăn năn,
Phấn Hồ, còn đó, tinh thần nào đâu?
Càng thêm ngao ngán trăm chiều,
Giấc nào nào nhắp, bữa nào nào ngon.
Xác ve ngày một héo mòn,
Xác gan con vượn, mơ hồn cái quyên.
Tả lòng tay thảo mười thiên,
Mấy câu mấy chữ, mấy nghìn câu rơi.

Hà Sinh phải buổi sáng chơi,
Xót tình khế hữu liêu bài giải khuyên:
"Biết đâu rằng quỉ rằng tiên,
"Một may một rủi thôi phiền não chi.
"Dù tiên duyên đã mãn kỳ,
"Chờ cho duyên hợp châu về mòn hơi!
"Hãy xin gắng gượng làm tươi,
"Gánh sầu trút cả cho người phải nao!
"Lỡ ra khi đến thế nào,
"Mà cho mắt tục trông vào sao nên."
Rằng: "Xưa trót đã nặng nguyền,
"Phải đem vàng đá mà đền mới xuôi.
"Cũng đành cho thế gian cười,
"Còn hơn cam phụ với người tri âm.
"Duyên xưa âu chẳng se lầm,
"Bao giờ kéo hết tơ tằm mà hay!
"Công đâu nghĩ mướn lo vay,
"Dẫu mòn bia đá khôn lay tấc lòng."
Xem chiều nói cũng như không,
Hà Sinh ra ý sượng sùng cáo lui.

Khách đà về chốn tây trai,
Một mình một bóng đứng ngồi sao yên.
Quyết tìm khắp nước non tiên,
Đem duyên giai lão đính nguyền lai sinh.
Giải là giũ sẵn bên mình,
Cũng liều trắng nợ, trần tình thử xem!
Gió hương đâu bỗng lai rèm,
Bóng hoa đâu đã trước thềm lả lơi.
Đương khi rằng một rằng hai,
Sịch hài nàng đã tới nơi bao giờ!
Mặt trông mặt, hãy ngẩn ngơ,
Nào hay đã tỉnh còn ngờ rằng mê.
May sao may khéo đi về,
Chậm chân chút nữa còn gì là ai!
Mắt nhìn chung cả con ngươi,
Bên lòng mừng tủi, bên lời hợp tan,
Sinh rằng: "Từ vắng phương nhan.
"Lòng theo trăng, bể, mây ngàn thiếu đâu.
"Quản bao bể rộng sông sâu,
"Đã toan quên cả cái cầu tư sinh.
"Dám đâu riêng phụ với tình,
"Dưới vàng có đất, trên xanh có trời.
"Kể chi những sự đã rồi,
"Sắt son ghi tạc một lời từ đây."
Thưa rằng: "Cầm đã bén dây,
"Có tri âm đó, cuốn dây sao đành.
"Cũng công hương lửa ba sinh,
"Nguồn ân chưa cạn, sóng tình còn xao."
Đinh ninh gắn bó tất giao,
Trước sau nối gót trướng đào song song.
Vườn xuân hoa đã quen ong,
Từng xa xôi lắm, lại nồng nàn thêm.
Mấy thu gối ấm chăn êm,
Cửa cài then nghĩa, phòng niêm khóa tình.

Trên đào vừa thấy tinh oanh,
Gốc giao sớm đã nối cành Quế Yên.
Chân Nhi rơi chút dấu tiên,
Một mai dành để dõi truyền thi thư.
Sinh càng chăm chút sớm trưa,
Cá mong rẽ sóng, rồng chờ tung mây.

Đường trời chưa mỏi cánh bay,
Thung dung nàng lại giãi bày một hai.
Rằng: "Coi cho thấu sự đời,
"Giam danh khóa lợi, những người thế gian.
"Trời thu mây hợp, lại tan,
"Ngày xuân hoa nở, hoa tàn mấy năm.
"Gẫm trong tám, chín mươi năm,
"Bóng câu cửa sổ, dễ cầm mãi ru!
"Thịt xương gửi đám Diêm Phù,
"Sinh sinh hóa hóa trong lò hồng quân.
"Đố ai vượt khỏi lòng trần,
"Sông mê chìm nổi, thế nhân đã đầy.
"Anh hùng những mặt xưa nay,
"Trăm năm nát vớt cỏ cây cũng là.
"Dần dần tháng trọn ngày qua,
"Má hồng mấy chốc đã ra bạc đầu.
"Thôn hoang mấy nắm cổ khâu,
"Ấy nền Đồng Tước, hay lầu Nhạc Dương.
"Chưa đầy một cuộc tang thương,
"Non đồng cũng lở, núi vàng cũng nghiêng.
"Sao bằng ngày tháng cung tiên,
"Vui chung tám cõi, xuân riêng bốn mùa.
"Dọc ngang bốn bể, năm hồ,
"Khắp trong ba cõi chín châu mặc dầu.
"Ra vào kim khuyết quỳnh lâu,
"Treo tranh yên thủy, giắt bầu kiền khôn.
"Đi về tuyết điếm hoa thôn,
"Thông rền nhịp phách, suối tuôn ngón đàn.
"Một này trong thú thanh nhàn,
"Mấy trăm mượn cảnh nhân hoàn đọ sao!
"Khuyên chàng sớm nghĩ lấy nao,
"Gà lồng, hạc nội, bên nào là hơn?"


Mảnh riêng sinh những bàng hoàng,
Tuy say cõi tĩnh, chưa tan lòng phàm.
Trót xưa túi sách con gươm,
Ví ta Sào, Hứa, ai làm Y, Chu?
Thưa rằng: "Đã tiếng trượng phu,
"Sự đời vinh nhục chi cho bận lòng.
"Ví ham nghìn tứ, muôn chung,
"Con chim bay mãi cũng trong khuôn trời.
"Làm chi cho bạn tiên cười,
"Ai vui viên hạc, ai vui yên hà.
"Vẩn vơ trong đám phồn hoa,
"Ba mươi sáu động, ai là chủ nhân?"
Sinh nghe tỉnh chuyện tiền nhân,
Rửa dần bụi tục, tỏ dần lối mê.
Rằng: "Xưa Hoàng Đế, An Kỳ,
"Nào phương thoát hóa tu từ sao đây?"

Nàng rằng: "Thiên đạo nhiệm thay,
"Kiều, Tùng xưa cũng thế này chứ sao!
"Vả chàng dự bậc thanh tao,
"Mà xem trong sổ Tiên Tào có tên.
"Học sao cho hết chân truyền,
"Tu sao cho hết tinh huyền thì tu."

Tay trao một đạo tiên phù,
Một phương hỏa tảo, một lò kim đan.
Đường tu sẵn cách khảo bàn,
Rượu sen thắm giọng, trà lan thơm lòng.
Dần theo gió liễu, trăng đồng,
Thân phàm như chấp cánh lông nhẹ nhàng.
Đương khi lốt trắng điểm vàng,
Tỉnh say Vương Mẫu, mơ màng Lão Quân.

Mây đưa năm sắc tường vân,
Hạc đâu đôi chiếc, trước sân đón người.
Dang tay cỡi hạc cả cười,
Nhủ Chân Nhi lại nối lời thề xưa:
"Còn kỳ dậy gió tuôn mưa,
"Mai sau gặp gỡ bấy giờ sẽ hay!"
Nói rồi thẳng rẽ đường mây,
Trông theo cánh hạc về Tây tuyệt vời.
Bồng lai riêng một bầu trời,
Màn hoa, cầu đá, mấy nơi thiên thành.


Tác Giả

Hiện nay không biết tác giả của quyển Bích Câu Kỳ Ngộ là ai. Truyện này kể một sự tích ở nước ta, tức là việc một người học trò tên Trần Tú Uyên gặp một nàng tiên ở đất Bích Câu, bởi thế mới đặt tên truyện là Bích Câu Kỳ Ngộ (sự gặp gỡ lạ lùng ở Bích Câu). Bích Câu (ngòi biếc) trước thuộc làng Yên Trạch, tổng Yên Hòa, huyện Thọ Xương, tỉnh Hà Nội; nay là phố Cát Linh. Hiện còn đền thờ Tú Uyên, bên cạnh nhà Văn Miếu, là cái di tích của câu chuyện hoang đường này.


Tác Phẩm

I. Tú Uyên gặp Giáng Kiều, về ốm tương tư (1 - 272): Trần Tú Uyên, một người học trò nghèo, thường đi chơi những nơi thắng cảnh; một lần đến đất Bích Câu, thấy phong cảnh đẹp, bèn làm nhà ở đấy học. Một hôm, ông đi xem hội làm chay ở chùa Ngọc Hồ (tức chùa bà Ngô ở phố Sinh Từ, Hà Nội). Chiều đến, sắp về, chợt thấy bay đến trước mặt một bài thơ có ý ghẹo mình. Trông ra cửa Tam quan, thấy một người con gái rất đẹp. Ông bèn đi theo, đến Quảng Văn đình (nay là chợ cửa Nam Hà Nội) thì chợt người ấy biến mất. Từ đấy, Tú Uyên sinh ra ốm tương tư.

II. Tú Uyên kết duyên cùng Giáng Kiều (273 - 428): Sau Tú Uyên đến đền Bạch Mã (nay là phố Hàng Buồm) cầu mộng. Đêm, thần bảo ông sáng hôm sau ra đợi ở Cầu đông (nay ở phố hàng đường) thì gặp người con gái ấy. Hôm sau ra đợi mãi đến chiều, chỉ gặp một ông lão bán bức tranh một tố nữ giống hệt người đã gặp hôm trước. Ông bèn mua về, treo ở nhà, cứ đến bữa ăn, dọn hai cái bát, hai đôi đũa, mời người trong tranh ăn. Một hôm, ông đi học về, thấy có mâm cơm dọn sẵn, trong bụng sinh nghi. Hôm sau, ông rình ở một chỗ, thấy người trong tranh bước ra, ông vội chạy lại hỏi, thì người ấy nói tên mình là Giáng Kiều ở trên cung tiên xuống, xin kết duyên cùng ông. Giáng Kiều làm phép biến chỗ nhà của ông thành nguy nga tráng lệ.

III. Giáng Kiều giận Tú Uyên bỏ đi, sau lại trở về nhà (429 - 558): Tú Uyên lấy Giáng Kiều được ba năm, thường cứ rượu chè say sưa, nàng can ngăn, ông không nghe, lại còn đánh đập. Một lần, nàng quá giận, bỏ ông biến đi. đến lúc tỉnh, ông đi tìm đâu cũng không thấy, chỉ than khóc thương tiếc. Một hôm buồn quá, ông toan tự vận; chợt nàng Giáng Kiều hiện ra, ông bèn từ tạ, hai bên đoàn tụ như xưa.

IV. Tú Uyên và Giáng Kiều lên cõi tiên (559 - 648): Từ bấy giờ Tú Uyên đối đãi tử tế với Giáng Kiều. Sau sinh được một đứa con trai đặt tên là Chân Nhi. Nàng Giáng Kiều bèn khuyên ông nên lên cõi tiên và trao cho bùa tiên cùng thuốc tiên để ông tu luyện. Rồi một hôm sau khi dặn dò Chân Nhi ở lại cõi trần. hai vợ chồng cùng cỡi hạc bay lên cõi tiên.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Trong bài phú Tử vi, chúng ta cần hiểu câu đầu tiên:

 

 Ngân đăng giá bích câu
Ánh đèn bạc làm băng lạnh con ngòi biếc.

 

"Ánh đèn bạc" ở đây là nói về ánh sáng phát ra của dòng sông Ngân (chiếc đĩa bạc, dòng sông bạc, ngọn đèn bạc) trên bầu trời, các hệ sao trong Tử vi thuộc hệ Ngân Hà. Tuy nhiên, về mặt thiên văn ý nói hệ mặt trời bắt đầu đi vào cung Song Ngư - biểu tượng của thần Chết.

 

dai-ngan-ha.jpg

 

"Con ngòi biếc" chính là dòng sông Nhị Hà (sông Hồng - trên hoa văn của các hòn đá cổ Sapa có khắc hình ảnh con sông Mẹ này) nơi có kinh đô Văn Lang, đồng thời cũng mang ý nghĩa biểu tượng của "chiếc ngòi bút" tức nói về lịch sử, văn hóa sẽ bị mai một, thất thoát. Sau này, chúng ta còn thấy tháp Bút ở đền Ngọc Sơn.

 

Trên núi Ngọc Bội (núi Độc Tôn) cũ, danh sĩ Nguyễn Văn Siêu cho xây một tháp đá, đỉnh tháp hình ngọn bút lông, thân tháp có khắc ba chữ "Tả Thanh Thiên" (viết lên trời xanh), ngày nay thường gọi đó là Tháp Bút. Tiếp đến là một cửa cuốn gọi là Đài Nghiên, trên có đặt một cái nghiên mực bằng đá hình nửa quả đào bổ đôi theo chiều dọc, có hình ba con ếch đội.
den_ngoc_son_1.jpg

 

Cũng từ lịch sử Văn Lang và Trung Hoa, các vị tổ tông được quy ước theo thuyết Âm Dương Ngũ Hành:

- Văn Lang: hành thủy, mộc thuộc cung Dương, cấu trúc tổ tông vận động theo Lạc thư.

- Trung Hoa: hành hỏa, kim thuộc cung Âm, cấu trúc tổ tông vận động theo Hà đồ.

- Văn Lang và Trung Hoa: lấy mốc hành Hỏa ứng Đế Minh và Đế Nghi làm điểm bắt đầu, cũng là lúc Đế Minh phân chia nước Bắc Dương Tử cho Đế Nghi và Nam Dương Tử cho Lộc Tục Kinh Dương Vương. Vùng Nghệ An, Hà Tĩnh có câu tiên tri nói về sự kiện này:

 

Song Ngư (cung) liền địa,

Nghi Lộc (Đế Nghi - Lộc Tục) phát vương.

 

Cũng từ đây, đã xây dựng nên tục cài áo bên trái của Văn Lang do thuộc cung Dương và ngược lại. Ý nghĩa này cũng hàm ý về sự vận động của Huyền không phi tinh - đã có từ thời cổ đại rồi (điều này rất logic, Tử vi có trước Chu Dịch và tất nhiên, Huyền không có trước Tử vi):

 

- Văn Lang thuộc cung Dương chuyển nghịch - cài áo trái sang phải cho nam giới, còn nữ thì ngược lại.

- Trung Hoa thuộc cung Âm chuyển thuận - cài áo phải sang trái cho nam giới, còn nữ thì ngược lại.

 

Thánh Khổng Tử cũng đã viết trong thiên Hiến Vấn, sách Luận Ngữ:

"Nếu không có Quản Trọng - (Tể tường phục hưng nước Tề thành bá chủ chư hầu) - thì người Hán bây giờ mặc áo cài vạt bên trái như người Nam Man rồi".

 

Thời Khổng Tử không thể có người Hán hay nhà Hán, cho nên đây là chi tiết thêm vào của các nhân vật đời sau nhằm nêu cao tinh thần của nhà Hán - Hán Cao Tổ Lưu Bang. Mà cái tên "Hán" lại là do Hạng Vũ tặng cho Lưu Bang.

 

Quay trở lại cấu trúc thờ thời Hùng Vương, liên quan đến chiếc đỉnh xông trầm ở trung tâm - cũng được ghi nhận chính xác trong bức tranh Hàng Trống có từ thời nhà Lý, với sự chú ý là chiếc đĩa chứa ngũ quả cũng được bài trí ở trung tâm đồ tế lễ.

 

Tranh Hương Chủ

7a31c585eaeb1219aa1d893651e3b2a5.jpg

 

Dưới đây là một chiếc đỉnh của thời kỳ sau này:

Dinh-rong-ok.jpg

Đỉnh đắp nổi rồng và sư tử hý cầu (năm 1736)

 

- Như vậy, đến đây thì lịch sử của tổ tông nước Trung Hoa đã thực sự an bài rồi. Đồng thời, xác định rõ nguồn gốc của thuyết Âm Dương Ngũ Hành.

 

- Căn cứ thiên văn và sự hợp lý của Âm Lịch Việt thì năm Tận Thế 2012 theo lịch Maya bị sai số 1 năm do cách tính, tức là năm 2013 mới là năm siêu đặc biệt, do vậy năm nay 2014 chúng ta đang ở năm thứ nhất trong cung Bảo Bình, tức ứng với quẻ Phục cho chu kỳ vũ trụ (thiên cầu) 25.920 năm. Đối với trái đất thuộc hệ mặt trời, do quá nhỏ bé trong thiên cầu cho nên chỉ cần một thay đổi rất nhỏ (vi động) về tính chất tương tác từ thiên cầu tới là nó chịu ảnh hưởng cực lớn ngay - điều này hàm ý trái đất đang ở trong quẻ Địa Thiên Thái.

 

- Năm nay trái đất đã ở trong trường khí của quẻ Địa Thiên Thái cho nên: trí tuệ - thanh khí của Việt Nam là cực mạnh.

 

Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã,
Sơn hà thiên cổ điện kim âu.

 

Xã tắc hai phen chồn ngựa đá,
Non sông nghìn thuở vững âu vàng.

 

Phật Hoàng Trần Nhân Tông.

Share this post


Link to post
Share on other sites