Thiên Sứ

Lý Học & Khoa Học Hiện Đại

247 bài viết trong chủ đề này

Thưa quý vị và anh chị em.

Tôi đã trình bày một luận điểm về sự tồn tại của một nền văn minh toàn cầu, trước nền văn minh của chúng ta. Và nền văn minh này chính là chủ nhân đích thực của thuyết ADNh. Mọi người có thể hoài nghi luận điểm này của tôi. Nhưng những di sản khảo cổ học tiết lộ ngày càng nhiều và đang tự nó chứng minh luận điểm của tôi hoàn toàn chính xác. Thí dụ như bài viết dưới đây trên Đại Kỷ Nguyên.

==============================

Phát hiện cấu trúc nano có cổ đại 300.000 năm tuổi ở Nga

Đại Kỷ Nguyên

2 days trước

1,303 lượt xem

 

Oopart (Đồ tạo tác lạc chỗ – out of place artifact) là một thuật ngữ chỉ nhiều vật thể thời tiền sử được tìm thấy tại nhiều nơi trên khắp thế giới, dường như cho thấy một trình độ tiến bộ công nghệ không tương xứng với thời đại chúng được tạo ra. Những Oopart thường gây khó chịu cho các nhà khoa học bảo thủ, và truyền cảm hứng cho các nhà nghiên cứu liều lĩnh mở ra những lý thuyết thay thế, và khuấy lên tranh luận.

 

Năm 1991, các cổ vật cực nhỏ, hình cuộn xoắn đã được tìm thấy bên bờ các con sông Kozhim, Narada, và Balbanyu ở Nga, và chúng đã châm ngòi cho một cuộc tranh luận vẫn tiếp diễn cho đến ngày nay. Những cấu trúc nano nhỏ xíu, bí ẩn này cho thấy có thể tồn tại một nền văn hóa có khả năng phát triển công nghệ nano từ tận 300.000 năm trước.

cau-truc-nano-co-dai-o-nga-634x400.jpg

Các dây xoắn nano được tìm thấy tại dãy núi Ural. (Ảnh: cosmostv.org)

Những cuộn dây xoắn đã được phát hiện lần đầu tiên trong một cuộc khảo sát địa chất với mục đích khai thác vàng ở dãy núi Ural, Những mảnh vụn được phát hiện bao gồm các cuộn dây xoắn, các đường xoắn ốc, các cán tay cầm của giáo mác, cùng với các thành phần chưa được xác định.

Russia_Ural_Mountains.jpg

Những cổ vật hình cuộn dây xoắn thời cổ đại đã được tìm thấy ở dãy núi Ural ở Nga. (Ảnh: Pinterest)

Theo một phân tích của Viện Hàn lâm Khoa học Nga ở Syktyvkar, mảnh vụn lớn nhất được tìm thấy có cấu tạo chủ yếu bằng đồng, trong khi mảnh nhỏ nhất có cấu tạo từ tungsten (W) và molypden (Mo).

Trong khi mảnh lớn nhất trong số đó có chiều dài 2,99 cm, thì mảnh nhỏ nhất chỉ bằng 1/25.400 của một cm, và rất nhiều trong số chúng cho thấy mức tỷ lệ vàng. Hình dạng của chúng cho thấy chúng ta đã được sản xuất chứ không phải là các mảnh kim loại được hình thành trong tự nhiên. Trên thực tế, người ta nhận thấy chúng có hình dạng khá tương đồng với các bộ phận vi tiểu của công nghệ nano đương đại.

nano_coils.jpg

Hình ảnh phóng đại của một trong các cuộn dây xoắn nano được tìm thấy trong dãy núi Ural. (Ảnh: esoreiter.ru)

 

Tuy một số người cho rằng những cấu trúc nano này chỉ đơn thuần là các mảnh vụn còn sót lại từ các vụ phóng tên lửa thí nghiệm ở trạm không gian Plesetsk gần đó, một báo cáo từ Viện Moscow đã khẳng định rằng chúng có niên đại quá lớn để có thể bắt nguồn từ quá trình sản xuất hiện đại.

Năm 1996, Tiến sĩ E.W. Matvejeva, từ Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Địa chất và Khai thác Kim loại quý ở Moscow, đã viết rằng, bất chấp một mốc niên địa hàng nghìn năm tuổi, các bộ phận này là một sảm phẩm có tính chất công nghệ.

Các mảnh vụn đã được tìm thấy tại một độ sâu trong khoảng từ 25 đến 100 cm, trong một tầng địa chất có niên đại trong khoảng từ 20.000 đến 318.000 năm tuổi.

Làm sao con người có thể chế tạo được những bộ phận nhỏ bé như vậy trong quá khứ xa xôi, và chúng đã được sử dụng phục vụ mục đích gì? Một số người tin rằng các cuộn dây này chứng tỏ nhân loại đã có một trình độ công nghệ tiên tiến vào Thế Pleistocene (hay Thế Canh Tân), trong khi những người khác cho rằng các di vật này là tác phẩm của người ngoài hành tinh.

Cổ vật này đã được phân tích tại bốn cơ sở khác nhau ở Helsinki, St. Petersburg, và Moscow. Tuy nhiên, các nghiên cứu đi sâu vào các cấu trúc nano này dường như đã kết thúc vào năm 1999, theo sau cái chết của Tiến sĩ Johannes Fiebag, nhà nghiên cứu chính của phát hiện này.

Theo Đại Kỷ Nguyên tiếng Anh
Đọc bản gốc ở đây.
Quý Khải biên dịch

==============================

Kim tự tháp ở Nam Cực có thể khiến chúng ta phải nhìn nhận lại lịch sử nhân loại

Đại Kỷ Nguyên

15/04/2015

79,921 lượt xem

 

“Kim tự tháp” ở Nam Cực đã được phát hiện khá lâu. Tin tức về kiến trúc bí ẩn này đã thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu và người tin học thuyết UFO, vô số giả thuyết đã được đưa ra để giải thích sự kì lạ của những “kiến trúc” này.

 

kim-tu-thap-nam-cuc-675x400.jpg

 
(Ảnh: getty images)

 

Các giả thuyết được đưa ra gồm: công trình xây dựng của người ngoài hành tinh, căn cứ quân sự bí mật của những nền văn minh cổ đại tiên tiến, trong khi lại có những người khác tin rằng kim tự tháp này chỉ là cấu trúc hình thành trong tự nhiên. Đáng tiếc giả thuyết này vẫn chưa được xác nhận hay bác bỏ vì không có những nguồn dữ liệu chính thức nhằm xem xét vấn đề này một cách nghiêm túc.

 

700_ddbd72f891c83a97f66b3d70c4b54805.jpg
Những bức ảnh chụp kim tự tháp tại Nam Cực. (Ảnh: ianchadwick.com)

 

Một vài bức ảnh đã được lưu truyền trên mạng Internet cho thấy tồn tại một kiến trúc hình kim tự tháp trong môi trường băng giá ở Nam Cực, một vài bức trong số đó là được thu thập trong Chương trình Khoan Đại dương tích hợp (Integrated Ocean Drilling Program-IODP), một dự án quốc tế nhằm thăm dò đại dương.

Việc phát hiện ra kim tự tháp ở Nam Cực đã dẫn đến những suy đoán về hình thái của Châu Nam Cực trong quá khứ xa xôi. Một số người cho rằng nó không luôn luôn lạnh lẽo như ngày nay, và các nghiên cứu khoa học dường như cũng xác nhận giả thuyết này.

 

Năm 2009, các nhà khoa học tiến hành nghiên cứu và thu thập mẫu vật, đã phát hiện thấy các hạt phấn hoa ở Châu Nam Cực, từ đó cho thấy hệ sinh thái của Châu Nam Cực trong quá khứ là vô cùng khác biệt. Vào một thời điểm nhất định trong mùa hè nhiệt độ tại đây có thể lên đến 20 độ C.

Năm 2012, một nhóm các nhà nghiên cứu đã xác định được 32 loài vi khuẩn, trong đó có một loài vi khuẩn ưa mặn 2800 tuổi được lấy từ các mẫu nước ở hồ Vida tại phía đông Nam Cực. Lớp băng vĩnh cửu trên mặt hồ là loại băng dày nhất trên Trái đất.

 

Image199.gif
Có thể châu Nam Cực trong quá khứ không lạnh như hiện nay? (Ảnh: thedailyjournalist.com)

 

Nếu chúng ta giả định rằng Nam Cực không lạnh giá trường kỳ như ngày nay, điều này có thể mở ra những khả năng vô tận. Câu hỏi được đặt ra ở đây là: Trong quá khứ châu Nam Cực có đủ ấm để một nền văn minh cổ đại có thể tồn tại ở đây hay không? Và nếu một nền văn minh cổ đại đã phát triển ở Nam Cực trong thời quá khứ xa xôi, tại sao hôm nay chúng ta không tìm thấy dấu vết về cuộc sống của họ ở đó?

Theo nhiều nhà nghiên cứu, có những kiến trúc ở Nam Cực, cả những kim tự tháp và các bằng chứng đủ để củng cố giả thuyết về nền văn minh cổ xưa đã từng tồn tại ở Nam Cực trong quá khứ. Việc giới khảo cổ có thừa nhận phát hiện này hay không thì lại là một câu hỏi hoàn toàn khác.

 

pyramid-07.jpg
Ảnh chụp ‘kim tự tháp’ tại Nam Cực. (Ảnh: Gettyimages)

 

a69dc-2332724_orig.jpg
Ảnh chụp ‘kim tự tháp’ tại Nam Cực. (Ảnh: www.forocoches.com)

 

pyramid-05.jpg
Ảnh chụp ‘kim tự tháp’ tại Nam Cực. (Ảnh: www.egaliteetreconciliation.fr)

 

Quay trở lại châu Phi, chúng ta biết rằng các học giả và nhà Ai Cập học từ lâu đã nghi ngờ rằng tượng Nhân Sư có tuổi thọ lớn hơn nhiều so với suy nghĩ của chúng ta, thậm chí có thể lên đến hơn 10.000 năm tuổi. Những giả thuyết này được củng cố bởi việc phát hiện các dấu hiệu xói mòn nước trên tượng Nhân Sư khổng lồ, và theo các học giả điều này cho thấy tình trạng biến đổi khí hậu cực đại trong quá khứ.

Ngoài ra, tấm bản đồ nổi tiếng Piri Reis cũng mô tả đường bờ biển của Nam Cực trong một thời kỳ vô cùng xa xôi trước đây, trước khi bị băng bao phủ.

2 people like this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Ngoài sự phổ biến trên khắp thế giới của đồ hình Âm Dương Lạc Việt, Những di sản khảo cổ khác cũng cho thấy một nền văn minh toàn cầu đã tồn tại......

Biểu tượng của chữ Vạn chính là sự mô tả cô động nhất sự vận động (Chữ Vạn ngược) và sự tương tác của vũ trụ (Chữ Vạn xuôi).....

Nguyễn Vũ Tuấn Anh.

===========================

Ý nghĩa thực sự của biểu tượng chữ “Vạn” (Swastika) không như những gì bạn từng nghĩ

Tác giả: Keejaa Ramgotra | Epoch Times | Dịch giả: Nguyên Linh
Nguồn Đại Kỷ Nguyên
19 Tháng Một , 2015
 

Khi nhắc đến chữ “Vạn” ( “Swastika” ), người ta thường nghĩ đến vụ diệt chủng Holocaust, Phát-xít, Hitler và cả cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai. Tuy nhiên, có một khoảng thời gian dài cho đến trước năm 1947, hình chữ “Vạn” lại nổi tiếng được biết đến như là một biểu tượng rất phổ biến tượng trựng cho vận may tốt lành.

 

Từ Vạn (swastika) trong tiếng Phạn: ‘swa’ – nghĩa là ‘cái tôi cao hơn’, ‘asti’ nghĩa là ‘sinh mệnh’, và ‘ka’ là một hậu tố. Cả từ này có thể được hiểu là “sinh mệnh với cái tôi cao hơn.” —Natalie Basdeki (The Epoch Times)

Biểu tượng chữ “Vạn” xuất hiện ở Trung Quốc, Ấn Độ, Peru, Israel, Nhật Bản, Ethiopia, và nhiều nơi khác trên Thế giới. Hầu hết mỗi nền văn hóa đều có chứng tích về biểu tượng này trong những dữ liệu về văn hóa nghệ thuật của họ, và nó được phát hiện là đã được vẽ trên vách đá của các hang động cách đây hơn 10.000 năm. Danh từ “swastika” (biểu tượng chữ “Vạn”) cũng còn được gọi là srivatsa.

Biểu tượng chữ “Vạn” là một ký hiệu của những điều liên quan đến Mặt trời, con số 10.000 (“Vạn” còn có nghĩa là mười ngàn) ở Trung Quốc và Nhật Bản, sự trường tồn hoặc sự sáng tạo vô tận, và một vòng tròn đang quay. “ Khi chữ Vạn quay tròn theo chiều kim đồng hồ nó tượng trưng cho năng lượng, sức mạnh và sự thông thái của vũ trụ. Khi quay tròn ngược chiều kim đồng hồ nó tượng trưng cho sự khoan dung từ bi.”

Đây là những hình ảnh về biểu tượng chữ “Vạn” tại các quốc gia khác nhau trên thế giới:

 

Hy Lạp

800px-GreekHelmetSwastika1.jpg

Dấu chữ Vạn trên Mũ bảo vệ của người Macedonia cổ đại, từ 350-325 trước Công nguyên, đã được tìm thấy tại Herculanum. (Cabinet des Médailles, Paris / Wikimedia Commons)

 

Ý

Etruscan-pendant-with-swastika-symbols-B

Etruscan Pendant với biểu tượng chữ vạn – Bolsena – Italy – 700 TCN đến 650 TCN

 

Peru

Sican-Vessel-in-the-Huaca-Rajada-Site-Mu

Di vật từ nền văn minh Sican / Lambayeque ở Peru, nền văn minh phát triển hưng thịnh từ năm 750 đến 1375 sau Công Nguyên(Wikimedia Commons)

 

Hong Kong

Buddha-Statue-Lantau-Island-Hong-Kong1.j

Tượng Phật – Đảo Lantau – Hồng Kông

 

Ethiopia

Skastika_symbol_in_the_window_of_Lalibel

Biểu tượng Swastika trong cửa sổ của nhà thờ đá Lalibela.

 

Tây Ban Nha

swastika-31.jpg

Đồ khảm của người La Mã cổ đại ở Villa Romana La Olmeda

 

Israel

Mosaic-swastika-in-excavated-Byzantine-C

Đồ Khảm Chữ “Vạn” được tìm thấy ở nhà thờ Byzantine ở – Shavei Tzion (Israel)

 

Tunisia

1024px-Romswastika-674x5051.jpg

Chữ vạn trên tấm khảm của người La Mã trước thế kỷ thứ 2 sau CN  (Maciej Szczepańczyk/Wikimedia Commons)

 

Hy lạp

Two-opposite-facing-swastikas-on-an-anci

2 chữ Vạn nằm đối xứng trên bình cổ Kantharos của Hy L ạp – Attica năm 780 trước CN

 

Vase-from-the-National-Archeological-Mus

Bình cổ ở Viện bảo tàng khảo cổ học quốc gia – Hy Lạp

 

The-Goddess-Athena-Museum-at-Olympia-Gre

Nữ thần Athena – Bảo tàng ở Olympia – Hy Lạp

 

Iran

Golden-necklace-with-ancient-swastikas-f

Vòng cổ làm bằng vàng với chữ vạn cổ được tìm thấy ở Marlik, một địa điểm cổ đại gần Rudbar – Iran

Hy Lạp Cổ Đại

swastikas_in_ancient_greek_culture-1024x

Chữ vạn trong văn hóa Hy Lạp cổ đại

 

Bulgaria

Sunny-Beach-Nesebar-centre1.jpg

Sunny Beach Nesebar

 

Đan Mạch

Carlsbergs-Elephant-Tower1.jpg

Tháp voi Carlberg

 

Hàn Quốc

Swastika-on-a-temple-in-Korea.1.jpg

Chữ vạn trên một đền thờ ở Hàn Quốc

 

Việt Nam

symbol-in-decoration-in-a-ancient-temple

Biểu tượng chữ “Vạn” trong một ngôi đền cổ ở Nha Trang (VN)

5 people like this

Share this post


Link to post
Share on other sites
Từ lâu tôi đã xác định rằng: Đã có một nền văn minh toàn cầu kỳ vĩ tồn tại trên trái Đất này. Và tôi cũng xác định rằng: người Việt chính là hậu duệ còn sống sót sau trận Đại Hồng thủy hủy diệt nền văn minh này. Thuyết Âm Dương Ngũ hành chí là sản phẩm của nến văn minh đã bị hủy diệt và nền văn minh Việt đã ừng dụng trong suốt 2622 năm của thời đại Hùng Vương.

Không cần những bằng chứng khảo cổ, chỉ cần sự tổng hợp tất cả những gì còn lại với một giả thuyết phù hợp với những chuẩn mực khoa học, đủ để nhận thấy điều đó.

 

 

Kim tự tháp khổng lồ dưới biển, bí ẩn liên quan tới thành phố cổ Atlantis?

Một Kim Tự tháp khồng lồ đầy bí ẩn đã được phát hiện nằm dưới biển gần đảo Azores của Bồ Đào Nha, đang được các nhà khoa học cho rằng nó liên quan tới thành phố huyền thoại cổ xưa Atlantis trong truyền thuyết. (Getty)

 

12347667_546667525486249_787646355595920

Kim Tự tháp khổng lồ dưới biển tìm thấy gần đảo Azores đang được các nhà khoa học cho rằng nó liên quan tới thành phố huyền thoại cổ xưa Atlantis trong truyền thuyết.

Các nhà nghiên cứu đã phát hiện cụm Kim Tự tháp dưới đáy biển có chiều cao 60 mét, diện tích đế 8.000 mét gần De João de Castro, nằm giữa đảo Terceira và São Miguel.

Cấu trúc này được thủy thủ Diocleciano Smith phát hiện khi đo độ sâu biển trong hành trình thường lệ. Ban đầu ông Smith không tin đó là một Kim Tự tháp.

Chính phủ Bồ Đào Nha sau khi biết được tin đã cử một đội điều tra là các nhà khoa học và lính hải quân.

Bộ trưởng giáo dục Luiz Fagundes Duarte cho rằng, công trình nhìn giống Kim tự tháp dưới đáy biển này không giống là tác phẩm của con người.

Trong đoạn ghi hình do các chuyên gia thực hiện, có thuyết minh nói rằng đỉnh chóp của cụm Kim Tự tháp dưới đáy biển này được bố trí thẳng hàng để một trong số đó chỉ về phía bắc, cái còn lại chỉ nam, giống hệt Đại Kim Tự tháp Giza.

Khối đế của Kim Tự tháp chìm dưới đáy biển này còn lớn hơn cả một sân vận động quy mô.

Thủy thủ Smith là người đầu tiên tìm thấy công trình này cho biết, ban đầu ông không thể tin vào những gì mình vừa thấy và phải vài tháng sau mới dám tiết lộ về nó.

Hiện ông đang hợp tác với giới chức Bồ Đào Nha để nghiên cứu sâu hơn công trình bí ẩn dưới đáy biển này.

Terceira, hay còn gọi là “Ilha Lilás” (đảo “lilac” hay đảo “tím”), là hòn đảo thuộc quần đảo Azores nằm giữa Bắc Đại Tây dương. Nó là một trong những hòn đảo có kích thước lớn hơn tương đối trong số những cá thể thuộc quần đảo Azores với dân số khoảng 56.000 người sống trên diện tích gần 396,75 km².

Nó cũng là nơi có thủ phủ lâu đời nhất trong lịch sử hình thành quần đảo này, thành phố cổ đại Azores đã được UNESCo công nhận là di sản thế giới.

Hiện chưa có tài liệu nào chính xác nói về thời gian và bối cảnh phát hiện ra quần đảo Azores về mặt lịch sử. Bản đồ hàng hải được lập ra trước khi chính thức phát hiện quần đảo nằm trên Đại Tây dương này được xác định tồn tại từ năm 1325, khi một bản đồ do Angelino Dalorto ghi nhận ‘Bracile’ nằm phía tây Ireland và sau đó chuyên gia này lại vẽ ra bản khác định dạng Canaries và Madeira cùng cụm đảo bí ẩn gọi là Capraria (địa danh một số sử gia cho rằng chính là São Miguel và Santa Maria).

Nhiều truyền thuyết cho rằng thành phố huyền thoại Atlantis, Sete Cidades (vương quốc gồm 7 đô thị) và một loạt địa danh khác xuất hiện trên bản đồ hàng hải từ năm 1351 đến 1439.

Xem Video Youtube:

Biên dịch từ Beforeitnews

=======================

Qua phát hiện mơi nhất từ bài trên, một lần nữa thấy rõ luận điểm của tôi về một nền văn minh toàn cầu là hoàn toàn chính xác. Mặc dù những lập luận của tôi không cần đến những bằng chứng trực quan này. Thế giới này có thể thừa nhận sự tồn tại của một nền văn minh toàn cầu, qua những di vật khảo cổ mang tính trực quan không thể chối cãi. Nhưng họ sẽ không thể biết đến nội dung những giá trị tri thức khoa học của nền văn minh này như thế nào, để có thể ứng dụng cho sự phát triển của nền văn minh hiện nay. Trừ khi Việt sử trải 5000 năm văn hiến được vình danh.

2 people like this

Share this post


Link to post
Share on other sites

 

Phát hiện hạt cơ bản mới chứng tỏ sự tồn tại của vũ trụ song song

 

Các nhà khoa học vừa phát hiện sự tồn tại của một loại hạt mới nặng hơn hạt Higgs, có thể chứng minh sự tồn tại của không gian – thời gian đa chiều.
 

Theo New York Times, hai nhóm chuyên gia vật lý làm việc độc lập tại Máy gia tốc hạt (LHC) của Tổ chức Nghiên cứu Hạt nhân châu Âu (CERN), báo cáo họ quan sát thấy dấu vết của một loại hạt mới.

may-gia-toc-hat-lon-se-giai-ma-bi-an-cua

Máy gia tốc hạt LHC ở châu Âu

Nếu điều này là thật, nhiều khả năng đây là phiên bản nặng hơn của hạt Higgs boson, một nhân tố quan trọng giúp giải thích nguyên nhân các hạt hạ nguyên tử khác có khối lượng. Giả thuyết khác cho rằng nó là graviton, một hạt lượng tử cơ bản được tiên đoán mang năng lượng hấp dẫn, bằng chứng cho sự tồn tại của không gian – thời gian đa chiều.

LHC được xây dựng với chi phí vài chục tỷ USD, để tăng tốc proton quanh một đường ngầm dài 29 km với tốc độ lớn hơn 99% tốc độ ánh sáng. Các proton này sẽ va chạm và vỡ ra, cho phép các nhà khoa học tìm kiếm hạt mới và các lực tự nhiên.

Nhờ phương trình tương đương giữa khối lượng và năng lượng của Albert Einstein, càng nhiều năng lượng đổ vào va chạm, những phân tử sinh ra từ va chạm có khối lượng càng lớn. Theo logic của kính hiển vi lượng tử, các phân tử càng sử dụng nhiều năng lượng, nhà vật lý càng dễ quan sát thấy những chi tiết nhỏ hơn và sâu xa hơn của tự nhiên.

Đặt dọc theo đường hầm ngầm là một cặp kết cấu sáu lớp khổng lồ bao gồm máy tính, tinh thể, dây dẫn và nam châm. Hai tổ nghiên cứu Atlas và CMS duy trì với 3.000 nhà vật lý mỗi nhóm nhằm phát hiện và phân loại mọi thứ đến từ vi mẫu của những va chạm.

Trong hai năm đầu tiên hoạt động, LHC bắn ra những proton, với năng lượng lên tới khoảng 4 nghìn tỷ eV, một đơn vị trung gian của khối lượng và năng lượng. Khi so sánh, các proton thường nặng khoảng một tỷ eV trong khi con số tương ứng với hạt Higgs boson là khoảng 125 tỷ điện eV.

Từ tháng 6/2015, sau hai năm ngừng hoạt động, các nhà vật lý của CERN tái khởi động máy gia tốc với mức năng lượng gần gấp đôi giá trị dùng để phát hiện ra hạt Higgs. Các proton va chạm với năng lượng 6,5 nghìn tỷ eV để tìm kiếm các hạt mới cho phép con người hiểu sâu hơn về những định luật vật lý.BcKCN8.jpg

Kết quả đáng chú ý nhất cho đến nay được các nhà vật lý báo cáo hôm 15/12 là sự dư thừa cặp tia gamma tương ứng với năng lượng khoảng 750 tỷ eV. Các tia gamma có thể ra đời từ sự phân rã phóng xạ của một hạt mới, trong trường hợp này là một hạt có dạng giống với hạt Higgs boson, cũng được nhận thấy qua sự phân hủy thành chùm tia gamma.BcKCN8.jpg

Càng bất thường càng tốt, nó sẽ mang tới cho chúng tôi nhiều điều để suy nghĩ. Chúng tôi được trả lương để đưa ra các phân tích”, Joe Lykken, Giám đốc Nghiên cứu tại Phòng thí nghiệm gia tốc quốc gia Fermi kiêm thành viên của CERN, cho biết.

 

luong-hat-1349856962_480x0.jpg

 

Là các nhà thực nghiệm, chúng tôi chứng kiến một con thú 750 tỷ eV phân rã thành hai photon“, Maria Spiropulu, Giáo sư tại Đại học Công nghệ California, Mỹ, và thành viên một trong hai nhóm phát hiện ra tín hiệu này chia sẻ.

Những kết quả mới này được dựa trên phân tích 400.000 tỷ va chạm giữa các proton.

Kết quả cuối cùng có thể là một cuộc cách mạng với những manh mối đầu tiên về lý thuyết tự nhiên vượt ra ngoài mô hình chuẩn – lý thuyết đã thống trị nền vật lý trong suốt một phần tư thế kỷ qua.

Tuy nhiên, giới nghiên cứu vật lý cho rằng còn quá sớm để khẳng định phát hiện. Lịch sử vật lý hạt luôn chứa đầy rẫy quan sát bất thường mang tính xác suất, thường biến mất khi các dữ liệu thống kê được tập hợp đầy đủ hơn.

Tôi nghĩ đây chưa phải là kết luận cuối cùng, nhưng nó sẽ là bước đột phá lớn nếu trở thành sự thật”, Kyle Cranmer, nhà vật lý tại Đại học New York, Mỹ, làm việc trong nhóm Atlas, nhận định.

Kết quả nghiên cứu của Atlas càng trở nên tin cậy hơn khi một nhóm nghiên cứu khác tại CERN tên là CMS cũng tìm thấy tín hiệu ở cùng một vị trí. “Thật tuyệt vì nó không phải là một tín hiệu nhiễu trong một kênh truyền dẫn sạch“, Nima Arkani-Hamed, một nhà lý thuyết hạt tại Viện Nghiên cứu Cao cấp ở Princeton, New Jersey, Mỹ, cho biết.

Các nhà vật lý không tránh khỏi cân nhắc điều gì sẽ xảy ra nếu lịch sử sắp lặp lại. Bốn năm trước, cũng chính hai nhóm nghiên cứu Atlas và CMS đã phát hiện những tín hiệu trùng hợp trong dữ liệu của LHC, và hạt Higgs boson được khám phá 6 tháng sau đó.

Hạt Higgs boson là miếng ghép còn thiếu cuối cùng của mô hình chuẩn, được mệnh danh là hạt của Chúa bởi nó giúp các nhà khoa học giải thích mọi điều về hạt hạ nguyên tử và lực tự nhiên. Tuy nhiên, còn những câu hỏi mà mô hình chuẩn không thể trả lời như điều gì xảy ra ở tận cùng của hố đen, nhận dạng của vật chất tối và năng lượng tối thống trị vũ trụ, hoặc tại sao vũ trụ là vật chất mà không phải phản vật chất.

Một phát hiện như thế sẽ báo trước tương lai thành công cho những chuyến du hành vũ trụ và cho cả CERN, khi trung tâm này dự kiến sẽ hoạt động trong 20 năm nữa. Nó cũng giúp nâng cao giá trị của các đề xuất hiện nay còn nằm trên bàn giấy ở Trung Quốc và các nước khác, nhằm xây dựng những thí nghiệm va chạm lớn hơn và mạnh hơn.

Theo VnExpress

 

 

Thưa quý vị và anh chị em quan tâm.

Nội dung bài báo cho thấy lần này các nhà khoa học đầu bảng ở Châu Âu và cả Hoa Kỳ đã tỏ ra thận trọng hơn so với khi tuyên ngôn về "Hạt của Chúa".

 

Hạt Higgs boson là miếng ghép còn thiếu cuối cùng của mô hình chuẩn, được mệnh danh là hạt của Chúa bởi nó giúp các nhà khoa học giải thích mọi điều về hạt hạ nguyên tử và lực tự nhiên. Tuy nhiên, còn những câu hỏi mà mô hình chuẩn không thể trả lời như điều gì xảy ra ở tận cùng của hố đen, nhận dạng của vật chất tối và năng lượng tối thống trị vũ trụ, hoặc tại sao vũ trụ là vật chất mà không phải phản vật chất.

 

 

Không có Hạt của Chúa theo nghĩa là dạng vật chất nguyên thủy tạo ra các hạt cơ bản. Đấy là kết luận của tôi từ 2008.

Cỗ máy gia tốc hạt LHC với vận tốc nhanh hơn trong hoạt động lần này, đã tạo ra một dạng vật chất khác với "đám mây mờ" theo dự đoán của lý thuyết Higg:

 

Kết quả đáng chú ý nhất cho đến nay được các nhà vật lý báo cáo hôm 15/12 là sự dư thừa cặp tia gamma tương ứng với năng lượng khoảng 750 tỷ eV. Các tia gamma có thể ra đời từ sự phân rã phóng xạ của một hạt mới, trong trường hợp này là một hạt có dạng giống với hạt Higgs boson, cũng được nhận thấy qua sự phân hủy thành chùm tia gamma.BcKCN8.jpg

 

 

Nhưng lần này họ đã thận trọng hơn khi công bố một kết quả trực quan nhận thức được, trước khi đưa ra một giả thuyết như bài báo giật tít: "Phát hiện hạt cơ bản mới chứng tỏ sự tồn tại của vũ trụ song song". Họ đã phát biểu:

 

Kết quả cuối cùng có thể là một cuộc cách mạng với những manh mối đầu tiên về lý thuyết tự nhiên vượt ra ngoài mô hình chuẩn – lý thuyết đã thống trị nền vật lý trong suốt một phần tư thế kỷ qua.

Tuy nhiên, giới nghiên cứu vật lý cho rằng còn quá sớm để khẳng định phát hiện. Lịch sử vật lý hạt luôn chứa đầy rẫy quan sát bất thường mang tính xác suất, thường biến mất khi các dữ liệu thống kê được tập hợp đầy đủ hơn.

 

 

Lý học Đông phương, nhân danh nền văn hiến Việt huyền vĩ, xác định rằng: Những hiện tượng được nhận thức và nội dung đích thức của nó là hai vấn đề khác nhau. Hay nói rõ hơn: Từ một hiện tượng được nhận thức trực quan, có thể sinh ra nhiều giả thuyết về nội dung của nó và chỉ có thể có một giả thuyết đúng; hoặc tất cả đều sai. Việc các nhà khoa học ở CERN và cả ở Hoa Kỳ phát hiện ra một loại hạt vật chất mới và các tia mà họ gọi là gama, hay bất cứ một cách gọi các tia gì khác, thì nó cũng sẽ không nói lên một điều gì về bản chất của vật chất có hình thể. Nó chỉ có một ý nghĩa rất ngắn gọn và dễ hiểu là: Những cấu trúc của vật chất có hình thể, nếu tiếp tục được khám phá thì họ có thể ứng dụng những dạng vật chất mới tìm thấy vào cuộc sống hiện đại. Nhưng vấn đề còn lại là cái gì tạo ra vật chất có hình thể từ hạt vật chất nhỏ nhất - (vừa khám phá ra và cả trong tương lai có thể còn nhỏ hơn) - thì không phải xuất phát từ một nền tảng tri thức dựa trên nhận thức trực quan. Mà nó thuộc về một tư duy phức hợp có khả năng xác định một cách chính xác bản chất của vấn đề, qua những phân tích hiện tượng thực tế trực quan những dạng tồn tại, để xác định những dạng tồn tại trên thực tế liên quan, mà các phương tiện kỹ thuật hiện đại không thể nhận thức được. Bởi vì, nó tương tự như thế này: Bạn không thể tự nắm tóc mình nhấc lên khỏi mặt đất. Cho nên những phương tiện kỹ thuật hiện đại nhất sẽ không thể "nhìn" thấy chính nó. Cái mà khoa học hiện đại gọi là "vật chất tối", nằm ngay chính trong những phương tiện hiện đại nhất. Thí dụ: Nó nằm ngay trong kính thiên văn hiện đại nhất mà con người đang nhìn vào vũ trụ để khám phá "vật chất tối".

Chẳng bao giờ có cái gọi là "sự tồn tại của vụ trụ song song" cả. Cũng như không bao giờ có "Hạt của Chúa" theo nghĩa một dạng tồn tại duy nhất tạo ra các hạt cơ bản, dù bạn gọi nó là cái gì: Hạt hay trường năng lượng. Đây là giới hạn của một nền tảng tri thức được hình thành trên cơ sở nhận thức trực quan. Cho nên nó cần một khả năng của tư duy phức hợp, tổng hợp những thực tại nhận thức được và phán đoán chính xác những thực tại chưa nhận thức được một cách chính xác có thể kiểm chứng gián tiếp, mà tôi đã trình bày ở trên. Điều này thuộc về một nền văn minh toàn cầu kỳ vĩ đã tồn tại trên trái Đất này và dấu ấn của nó chính là nền tảng tri thức của nền văn minh Đông Phương huyền vĩ.

Có thể sau này, nền văn minh hiện đại thừa nhận một nền văn minh toàn cầu cổ xưa, hết sức cao cấp đã tồn tại, như Thiên Sứ tôi đã nhiều lần nhắc đến. Nhưng họ sẽ không bao giờ có thể tiếp cận với những giá trị đích thực nền tảng tri thức của nền văn minh này. Đương nhiên, nền văn minh toàn cầu ấy, phải có một nền tảng tri thức để tạo nên những thành tựu kỳ vĩ của họ.

Thưa quý vị và anh chị em.

Tôi không hề ngạo mạn khi trình bày những ý tưởng này. Tôi chỉ trình bày những vấn đề hoàn toàn khách quan đã từng tồn tại trên trái Đất này.  Tất cả những bí ẩn của nền văn minh Đông phương huyền vĩ và của cả những bí ẩn của các nền văn minh cổ xưa - ví dụ như Kim Tự Tháp, có thể được giải đáp nếu Việt sử trải 5000 năm văn hiến được sáng tỏ tính chân lý.

Những điều tôi đã trình bày nhiều lần trên diễn đàn, quý vị và anh chị em có thể tìm thấy sự nhận xét tương đồng của các chuyên gia khoa học trong video clip dưới đây. Tôi cũng xin được lưu ý rằng: Video clip này được đưa lên từ 18/ 11/ 2015. Còn những gì tôi đã nói tương đồng với những nghiên cứu của các nhà khoa học này từ trước đó cả chục năm, trên các sách đã xuất bản và trên diễn đàn.

Xin cảm ơn sự quan tâm của quý vị.

 

Share this post


Link to post
Share on other sites

Xin bổ sung cho bài viết trên bằng một video clip, để quý vị và anh chị em tham khảo. Xin được lưu ý quý vị và anh chị em , là vào phút thứ 12: 55 và 12: 56 trong video clip là hình Âm Dương Lạc Việt.

Có một điều là sai lầm của những nhà khoa học nghiên cứu về nền văn minh cổ đã biến mất, là họ cho rằng Atlantic chỉ là một vùng lãnh thổ. Không bao giờ có điều đó! Nó phải là một nền văn minh toàn cầu và người ta có thể tìm thấy dấu vết của nó ở nhiều nơi khác nhau trên thế giới. Đó là kết luận của tôi.

 

https://www.youtube.com/watch?v=mXfahEHkmpc

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Thưa quý vị và anh chị em

Bài viết liên quan đến bài "Phát hiện hạt cơ bản mới chứng tỏ sự tồn tại của vũ trụ song song" - do trong khi viết, những ý tưởng liên tục và sự thể hiện lại thiếu sót - nên tôi bổ sung một đoạn còn thiếu làm sáng tỏ thêm nội dung đã trình bày. Xin cảm ơn sự quan tâm.

Share this post


Link to post
Share on other sites
Điểm Lagrange là gì?

Viết bởi JK

Thứ hai, 07 Tháng 9 2015 08:46

 

Điểm Lagrange là một vị trí trong không gian tại đó lực hấp dẫn tổng hợp của hai vật thể lớn, ví dụ Trái đất và Mặt trời hoặc Trái đất và Mặt trăng, bằng với lực li tâm chịu bởi một vật thứ ba nhỏ hơn nhiều. Tương tác của các lực tạo ra một điểm cân bằng tại đó phi thuyền vũ trụ có thể “neo đậu” để tiến hành các quan sát.

 

Những điểm này được đặt theo tên Joseph-Louis Lagrange, nhà toán học thế kỉ 18 đã viết về chúng trong một bài báo năm 1772 nói về cái ông gọi là “bài toán ba vật”. Chúng được gọi là các điểm Lagrange và các điểm bập bềnh.

 

lagrange-points1.jpg
 

Các điểm Lagrange của hệ Mặt trời – Trái đất. Ảnh: NASA

Cấu trúc của các điểm Lagrange

Có năm điểm Lagrange xung quanh các vật thể lớn như một hành tinh hay một ngôi sao. Ba trong số chúng nằm trên đường thẳng nối liền hai vật thể lớn. Ví dụ, trong hệ Trái đất-Mặt trời thì điểm thứ nhất, L1, nằm giữa Trái đất và Mặt trời, cách Trái đất khoảng 1 triệu dặm. L1 có góc nhìn Mặt trời liên tục, và nó hiện là chỗ neo đậu phi thuyền Đài quan sát Mặt trời và Quang quyển (SOHO) và Đài quan sát Khí hậu Vũ trụ Xa.

L2 cũng cách Trái đất 1 triệu dặm, nhưng ở ngược phía so với Mặt trời. Tại điểm này, với Trái đất, Mặt trăng và Mặt trời ở phía sau nó, phi thuyền vũ trụ có tầm quan sát vũ trụ xa xăm. Phi thuyền Tàu khảo sát Vi sóng Phi đẳng hướng Wilkinson (WMAP) của NASA hiện đang neo đậu tại điểm này để đo bức xạ phông nền vũ trụ còn sót lại từ thời Big Bang. Kính thiên văn vũ trụ James Webb sẽ đi vào vùng này vào năm 2018.

Điểm Lagrange thứ ba, L3, nằm phía sau Mặt trời, phía bên kia quỹ đạo Trái đất. Hiện nay khoa học chưa tìm thấy công dụng nào cho điểm này, mặc dù truyện khoa học viễn tưởng thì không hiếm ý tưởng khai thác.

NASA chưa tìm ra công dụng nào cho điểm L3 vì nó luôn nằm phía bên kia Mặt trời, theo một bài viết trên trang web của NASA. Ý tưởng một Hành tinh X tiềm ẩn tại điểm L3 là một đề tài quen thuộc trong văn chương khoa học viễn tưởng. Sự mất cân bằng của quỹ đạo Hành tinh X (trên cỡ thời gian 150 năm) không khiến Hollywood ngừng triển khai các tác phẩm kinh điển như “Người đến từ Hành tinh X”.

L1, L2 và L3 đều là những điểm không bền với trạng thái cân bằng mong manh. Nếu một phi thuyền tại L3 trôi giạt lại gần hay ra xa Trái đất một chút, thì nó sẽ rơi hẳn về phía Mặt trời hoặc Trái đất, giống như một hòn bi vừa vặn cân bằng trên một đỉnh dốc. Phi thuyền vũ trụ phải được điều chỉnh tinh vi để duy trì quỹ đạo của chúng.

Tuy nhiên, điểm L4 và L5 thì bền, giống như một hòn bi nằm tại đáy bát. Hai điểm này nằm trên quỹ đạo Trái đất, ở phía trước và phía sau Trái đất 60 độ, tạo thành một hình thoi gồm hai tam giác đều lấy các vật thể lớn (Trái đất và Mặt trời chẳng hạn) làm đỉnh của chúng.

Do tính ổn định của những điểm này, bụi vũ trụ và các tiểu hành tinh có xu hướng tích tụ ở đây. Các tiểu hành tinh tập trung quanh điểm L4 và L5 được gọi là tiểu hành tinh Thành Troy để tôn vinh các tiểu hành tinh Agamemnon, Achilles và Hector (đều là các nhân vật trong câu chuyện vây hãm thành Troy) nằm giữa Mộc tinh và Mặt trời. NASA cho biết có hàng nghìn tiểu hành tinh loại này được tìm thấy trong hệ mặt trời của chúng ta, trong đó có tiểu hành tinh Thành Troy duy nhất được biết của Trái đất, 2010 TK7.

L4 và L5 còn là các điểm tập kết khả dĩ cho việc khai thác không gian do vị trí của chúng gần Trái đất, chí ít là theo các tác phẩm của Gerard O'Neill và các cây viết khác cùng quan điểm. Vào thập niên 1970 và 1980, một nhóm gọi là Hội L5 đã xúc tiến quan điểm này giữa các thành viên. Vào cuối thập niên 1980, hội đã sát nhập vào một nhóm ngày nay gọi là Hiệp hội Vũ trụ Quốc gia (Hoa Kì), một tổ chức hậu thuẫn xúc tiến quan điểm xây dựng các nền văn minh ra ngoài Trái đất.

 

Lợi ích của điểm Lagrange

Nếu một phi thuyền vũ trụ sử dụng một điểm Lagrange ở gần Trái đất, thì có nhiều lợi ích với vị trí đó, theo lời Amy Mainzer thuộc Phòng thí nghiệm Động cơ Phản lực của NASA.

Mainzer là nhà nghiên cứu chính của dự án NEOWISE, một sứ mệnh tìm kiếm các tiểu hành tinh gần Trái đất sử dụng phi thuyền Tàu thám hiểm Khảo sát Hồng ngoại Trường rộng (WISE) đang quay trong quỹ đạo gần hành tinh của chúng ta. Trong khi WISE đang làm tốt sứ mệnh ba năm hiện nay của nó sẽ kết thúc trong năm 2016, theo Mainzer, một phi thuyền vũ trụ đặt tại một điểm Lagrange sẽ có thể làm được nhiều việc hơn.

Ở xa nhiệt và ánh sáng gây nhiễu của Mặt trời, một phi thuyền vũ trụ săn tìm tiểu hành tinh tại một điểm Lagrange sẽ nhạy hơn với các tín hiệu hồng ngoại nhỏ xíu truyền đến từ các tiểu hành tinh. Nó có thể định vị trên một ngưỡng quét rộng, trừ hướng rất gần Mặt trời. Và nó sẽ không cần chất điều nhiệt để làm lạnh, kiểu như phi thuyền WISE cần cho giai đoạn đầu sứ mệnh của nó từ năm 2009 đến 2011 – bản thân vị trí neo đậu sẽ cho phép sự làm lạnh tự nhiên. Kính thiên văn vũ trụ James Webb sẽ khai thác ưu điểm của môi trường nhiệt tại điểm L2 Mặt trời-Trái đất để giúp nó làm lạnh.

Nguồn: Space.com

"Nguồn Thuvienvatly.com"

==========================

Ý KIẾN THAM KHẢO

Anh Túy Lão - Nguyễn Thế Quỳnh có ý kiến cho rằng: Đây chính là thực tế của mô hình biểu kiến của cung chính chiếu và cung tam hợp trên Tử Vi. Ý kiến này có sự hợp lý ban đầu, tuy nhiên nó còn nhiều vấn đề cấn giải thích hợp lý với các vấn đề liên quan. Nên tôi đưa lên đây để chia sẻ với các cao thủ và các nhà khoa học quan tâm cho ý kiến đóng góp.

Xin cảm ơn.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Đảng viên Trung Quốc bị cấm đi coi bói, xem phong thủy

04:15 PM - 04/01/2016

Thanh Niên Online

 

Đảng Cộng sản Trung Quốc vừa ra quy định nghiêm cấm đảng viên tham gia các hoạt động xem bói toán, phong thủy, đi ngược lại luật lệ, kỷ cương của đảng.

 

xemboi_TGHU.jpg?w=665&encoder=wic&subsam
Trung Quốc cấm đảng viên coi bói - Ảnh minh họa: AFP

 

Đảng Cộng sản Trung Quốc vừa đưa ra quy định mới nhằm siết chặt những điều cấm đoán đối với các đảng viên, theo AFP ngày 4.1. Theo đó, 88 triệu đảng viên ở Trung Quốc không được đi coi bói hoặc xem phong thủy.
Báo chí địa phương cho rằng coi bói và xem phong thủy là những hành vi mê tín dị đoan mà các đảng viên không được phép. Tân Hoa xã ngày 3.1 cho biết các quy định mới của đảng Cộng sản Trung Quốc có hiệu lực đầu tháng 1.2016, những đảng viên tổ chức các hoạt động mê tín sẽ bị khai trừ đảng, trong khi những người tham gia vào những hoạt động này sẽ bị kỷ luật, cảnh cáo.
Trong những năm gần đây rất nhiều đảng viên, kể cả đảng viên cấp cao của Trung Quốc được cho tham gia vào các hoạt động mê tín dị đoan, tin vào thầy bà.
Chu Vĩnh Khang, nguyên Trưởng ban Chính pháp trung ương đảng Cộng sản Trung Quốc và đang chịu án tù chung thân vì tội nhận hối lộ, lạm quyền và tiết lộ bí mật quốc gia, được xem là đảng viên cấp cao rất tin vào bói toán. Chu Vĩnh Khang thường đến tham vấn, nhờ xem vận mệnh với thầy bói Cao Ung Chính cũng là một bậc thầy về khí công ở Trung Quốc.
Việc cấm hoạt động mê tín dị đoan là không mới ở Trung Quốc, nhưng theo AFP quy định vừa có hiệu lực tỏ ra nghiêm khắc hơn trong việc xử phạt đối với những đảng viên thực hành hành vi mê tín.

Minh Quang

=========================

Một bằng chứng rất thuyết phục để thấy rõ rằng: Người Trung Quốc không thể là cội nguồn của nền văn minh Đông phương. Họ không hể biết bản chất của Phong thủy và bói toán. Việc làm này của Trung Quốc cho thấy họ tự mâu thuẫn khi lập Viện Khổng Tử ở khắp nơi trên thế giới. Bởi vì, trong Nho học được coi là của Khổng Tử có Kinh Dịch, là một kỳ thư dùng để bói toán. Và cũng là cũng chứa đựng căn nguyên của Phong Thủy (Phân cung, mệnh theo Bát quái). Nhưng đã bị chính Trung Quốc phủ nhận qua quyết định này.

Share this post


Link to post
Share on other sites
Tiến hoá hay tạo hoá
26/01/2016 - 20:46 PM
 
Mặc dù khoa học đã đạt được những thành tựu vô cùng vĩ đại, các quy luật của thế giới tự nhiên cứ lần lượt được phơi bày, sân chơi của Chúa tưởng chừng ngày càng hẹp lại; nhưng cứ mỗi lần các nhà khoa học vén được một bức màn đen do Chúa dựng nên này thì lại thấy một bức màn đen khác sừng sững trước mặt.
 

Và cho đến tận ngày nay hai câu hỏi nguyên thủy “ Vũ trụ được hình thành thế nào?” và “Loài người xuất hiện từ đâu? Từ loài  khỉ lớn (vượn hay tinh tinh) tiến hóa lên, hay do Chúa tạo ra ?”, xem ra vẫn chưa  có câu trả lời cuối cùng; và liệu có thể có câu trả lời cuối cùng hay không? lại là một câu hỏi hóc búa khác.

 

25_9%20-%206.jpg

Giáo sư Chu Hảo


Sai lầm của Thuyết Tiến hóa

Thuyết Big Bang hầu như đã được kiểm chứng. Ngày càng có nhiều bằng chứng khách quan cho thấy Vũ trụ, mà chúng ta đang ở trong, được sinh ra từ một vụ nổ lớn trong hư không khoảng 14 tỷ năm trước rồi dãn nở không ngừng, đồng đều theo mọi hướng, chứa hàng trăm tỷ thiên hà có kích thước khoảng 100.000 năm ánh sáng (một giây ánh sáng là 30 vạn km); mỗi thiên hà lại chứa hàng trăm tỷ ngôi sao; mỗi sao lại có một hệ thống hành tinh quay quanh như kiểu hệ Mặt trời của chúng ta. Khoảng hơn mười tỷ năm nữa Vũ trụ sẽ dừng dãn nở, co sụp lại thành một điểm như lúc ban đầu..

Nếu thuyết này là đúng thì vẫn còn những câu hỏi chưa thể có câu trả lời: Thế trước Big Bang là cái gì? Vì sao nó lại vận hành một cách trơn tru, hoàn hảo như thế? Vì sao các hằng số vật lý của Vũ trụ (tốc độ ánh sáng, điện tích của điện tử, hằng số Plank...) lại được gán cho những giá trị chính xác đến nỗi chỉ cần một trong các hằng số ấy thay đổi đi một phần triệu giá trị vốn có thì thế giới này không có sự sống, không có chúng ta - con người có khả năng tìm hiểu Vũ trụ?
 

CH%20-%20a%202.jpg


Mặc dù vậy, các bằng chứng thực nghiệm về sự hình thành và tiến hoá của Vũ trụ cho đến nay vẫn ủng hộ thuyết Big Bang. Điều này khác hẳn với sự đáng ngờ của thuyết Tiến hóa về nguồn gốc của Loài người, rộ lên trong vài chục năm gần đây. Số người ủng hộ thuyết Tiến hóa còn rất nhiều (xem Nguyễn Văn Tuấn, Ykhoa.net/binhluan/), nhưng những người phản đối càng ngày càng làm tôi “nao núng”. Xin chia sẻ với bạn đọc những gì tôi thu nhận được từ lập luận của những người “phủ nhận sạch trơn” Darwin (xem Viethungpham.com).

Chúng ta đều biết Darwin (1809 - 1882) đã công bố Thuyết Tiến hoá của mình trong hai cuốn sách kinh điển: “Nguồn gốc các loài” ( 1859 ) và “Nguồn gốc con người” (1871). Trong đó ông đã khẳng định: 1) Các loài động vật tiến hoá từ bậc thấp lên bậc cao hơn theo quy luật chọn lọc tự nhiên những biến dị nhỏ ngẫu nhiên có lợi trong quá trình cạnh tranh sinh tồn, được tích tụ dần. 2) Sự sống được hình thành một cách tự phát ngẫu nhiên từ một tập hợp các nguyên tố hoá học. 3) Loài khỉ lớn (tinh tinh) là tổ tiên trực tiếp của Loài người.

Vào thời điểm ấy học thuyết này đã được hưởng ứng một cách cuồng nhiệt và tiếp tục mê hoặc  các thế hệ sau cho đến tận cuối Thế kỷ 20. Ngày nay trong các trường học trên toàn thế giới, người ta vẫn vô tư rao giảng những quan điểm phi khoa học của Darwin. Sự “ngộ nhận thế kỷ” này có thể do hai nguyên nhân chính sau đây. Một là, công trình của Darwin ra đời vào đúng lúc xu thế vô thần và duy vật của Thế kỷ Khai minh đang nở rộ; nó đánh trúng vào tâm lý khoa học thời đại: sự sống và con người không phải do Chúa tạo ra. Hai là, cuộc cách mạng khoa học lần thứ nhất đạt được những thành công rực rỡ với sự ra đời của Vật lý học Newton, đã làm cho cộng đồng khoa học ngây ngất với ý tưởng “sân chơi” của Chúa đang thu hẹp lại và một ngày không xa khoa học sẽ trả lời được mọi câu hỏi về vạn vật. Thế nhưng, như bạn đọc sẽ thấy, đấy là một sự ngộ nhận tai hại.

Thuyết Tạo hoá

Sự sai lầm của thuyết Tiến hoá và sự ngộ nhận về nó sẽ không xảy ra nếu Darwin được biết đến công trình khoa học vĩ đại về Di truyền học của Gregor Mendel (1822-1884) ra đời chỉ sau cuốn “Nguồn gốc các loài” có bảy năm, 1866. Giá ông biết thì chắc ông đã buộc phải xem xét lại các luận điểm của mình. Không những chỉ Darwin không được biết mà cả thế giới cũng hầu như không biết tới công trình khoa học của Mendel vì nó đã bị rơi vào quên lãng. Ba mươi năm sau, vào năm 1900, lý thuyết di truyền của ngài Linh mục người Áo ấy mới được các nhà khoa học Đức và Hà Lan phát hiện. Từ đó di truyền học mới thực sự chào đời, và ngày càng được khẳng định đóng vai trò quan trọng trong Sinh học như thuyết Lượng tử trong Vật lý học. Di truyền học khẳng định những điều ngược lại hẳn với học thuyết Tiến hoá. Cụ thể là: 1) Phân tử ADN (vật liệu di truyền ở cấp độ phân tử quyết định các tính trạng của động vật) của mỗi loài là cố định, không biến đổi trong quá trình chọn lọc tự nhiên để thích nghi với môi trường sinh sống. Như vậy loài này không thể “tiến hoá” lên loài khác được. 2) Phân tử tế bào sống đơn giản nhất cũng không thể hình thành từ sự kết hợp ngẫu nhiên của các nguyên tử hoá học. Xác suất của quá trình ấy có thể coi là bằng không như đã được chứng minh bằng toán học cũng như mô phỏng trên các “siêu máy tính”. 3) Khỉ là khỉ, người là người. Bộ gene của khỉ dù có giống của người đến hơn 95%  thì vẫn còn đó, một sự khác biệt về chất rất lớn nằm trong số vài phần trăm chứa trong ADN cấu tạo nên các gene. ADN của người có 46 nhiễm sắc thể, của tinh tinh là 48 nằm trong nhân mỗi tế bào, và hoàn toàn cố định.

Nhận được sự chào đón hồ hởi ngay từ khi mới ra đời, thuyết Tiến hóa đã “bùng nổ” sau “vụ án thế kỷ”, trong đó một giáo viên trung học người Mỹ là Scopes bị buộc tội rao giảng thuyết Tiến hóa tại một trường phổ thông ở Tiểu bang Tennesse đã thắng kiện. Người ta đồng nhất thắng lợi của Scopes với thắng lợi của thuyết Tiến hóa. Thế nhưng cũng bắt đầu từ đó các bằng chứng khách quan ngày càng chống lại Darwin về giả thuyết loài tinh tinh là tổ tiên trực tiếp của loài người.

Bằng chứng quan trọng nhất là suốt từ khi giả thuyết “khỉ biến thành người” ra đời cho đến nay, đã hơn một thế kỷ rưỡi trôi qua, không có một hóa thạch trung gian nào giữa khỉ và người được phát hiện. Chỉ có một bằng chứng “ngụy khoa học” được tạo dựng nên vào năm 1912. Lúc đó có người đã cả gan ghép hóa thạch hộp sọ của người cổ đại với hóa thạch xương hàm của một con tinh tinh cùng thời để “chứng minh” rằng đã tìm thấy một loài trung gian giữa khỉ và người, đúng như sự mong đợi của những người hâm mộ thuyết Tiến hóa. Thế nhưng trò lừa đảo đó mau chóng bị lật tẩy, và công việc tìm kiếm hóa thạch trung gian vẫn cứ được miệt mài… Ngoài ra, phái phản đối thuyết Tiến hóa khẳng định một cách không hề thiếu sức thuyết phục rằng: Nếu Mendel đúng thì Darwin phải sai, chứ không thể dung hòa. 

Tôi e còn ít người biết được rằng sinh thời chính Darwin đã tuyên bố: “Nếu có bằng chứng cho thấy sự tiến hóa từ loài thấp hơn lên loài cao hơn mà không do sự tích tụ các biến đổi nhỏ liên tục thì lý thuyết của tôi là sai!”. Đúng như sự nghi ngại của ông, những phát hiện mới nhất của Di truyền học và Khảo cổ học nhiều lắm cũng chỉ chứng minh được rằng tinh tinh và người cùng phát sinh từ vùng Nam châu Phi cách đây khoảng 200.000 năm rồi lan tỏa đi khắp địa cầu. Thế thôi, vẫn không có một hóa thạch trung gian nào được phát hiện.

Cho nên ở nơi chín suối ông không thể không ân hận khi được biết chiến dịch tàn sát người da đỏ (bị coi là giống “nửa khỉ nửa người”) ở Úc cuối Thế kỷ 19, và tội ác diệt chủng của Hitler gây ra đối với người Do Thái trong Thế chiến thứ hai. Bởi không ai khác ngoài ông đã vạch đường cho quỷ dữ hoành hành khi tuyên bố: “Vào một giai đoạn nào đó, có thể tính bằng thế kỷ, các chủng tộc văn minh của loài người hầu như chắc chắn sẽ hủy diệt và thay thế các chủng tộc man rợ”. 

Nếu thuyết Tiến hóa là sai thì thuyết Tạo hóa có nhiều cơ hội là đúng?

Không đơn giản như vậy! Chỉ có điều càng ngày càng nhiều nhà khoa học lỗi lạc tin rằng có một lực lượng siêu nhiên nào đấy đã lập trình sự sống và cài đặt nó vào các phân tử ADN dưới dạng các mã thông tin, như một bản thiết kế cực kỳ linh diệu. Đáng kinh ngạc thay, từ Thế kỷ 13 Thánh Thomas Aquine đã phán: “Bất cứ ở đâu tồn tại những thiết kế phức tạp, ở đó ắt phải có nhà thiết kế thông minh”. Nhà thiết kế thông minh ấy đã được nhân loại gán cho các tên: Đấng sáng tạo, Tạo hóa, Chúa trời của các tôn giáo; hay “Chúa phiếm thần” của các nhà khoa học. 

Nếu bạn đọc còn do dự tin hay không tin vào một trong hai giả thuyết nói trên thì hãy nghe lời khuyên của Einstein mà vui sống. Ông nói thế này: “Có hai cách để sống: bạn chẳng tin vào phép màu nào cả, hoặc tin rằng mọi thứ đều là một phép màu”. Há chẳng thanh thản sao!

Chu Hảo

===========================

Kính thưa giáo sư Chu Hảo.

Nếu Việt sử 5000 năm văn hiến được xác định tính chân lý thì giáo sư có thể tổ chức tiếp một cuộc hội thảo quốc tế về chính vấn nạn này của khoa học thế giới và tôi sẽ là người thuyết trinh. Tôi rất nghiêm túc trong truyện này.

PS: Thưa giáo sư. Nếu tôi chỉ dừng lại với một đề xuất như trên thì giáo sư và mọi người xem topic này có thể nghi ngờ tôi. Cho nên tôi phải mô tả luận điểm của tôi về vấn đề trên như sau:

Thuyết tiến hóa của Darwin và thuyết Di truyền của Mendel đều không sai. Đấy là hai mặt của vấn đề bổ sung cho nhau. Thuyết của Darwin khiếm khuyết về mặt thời gian.

2 people like this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Đáng kinh ngạc thay, từ Thế kỷ 13 Thánh Thomas Aquine đã phán: “Bất cứ ở đâu tồn tại những thiết kế phức tạp, ở đó ắt phải có nhà thiết kế thông minh”. Nhà thiết kế thông minh ấy đã được nhân loại gán cho các tên: Đấng sáng tạo, Tạo hóa, Chúa trời của các tôn giáo; hay “Chúa phiếm thần” của các nhà khoa học.

 

Cũng lại rất ngạc nhiên khi giáo sư Chu Hảo lại trích một câu nói vô thưởng vô phạt của Thomas Aquine, nhà triết học kinh viện tức chỉ ngồi trong thư viện đọc sách rồi viết 5 cách chứng minh Thượng Đế, nhưng không hiểu Thượng Đế là ai hay còn gọi là chưa định hình được khái niệm này, trong mối liên hệ với thực tế phản ánh sự vật, hiện tượng vận động như thế nào trong không gian (ở đây, chúng ta cần tách biệt về mặt bản chất giữa sự vật, hiện tượng và không gian, vì rằng "cái gì" nảy sinh ra không gian hay tự thân nó?... Do vậy, ngoài vấn đề muôn thuở vật chất và ý thức phải thấy được vật chất - ý thức và không gian nữa, còn không đều sai. Ví dụ, ai cũng nói đến cái "tuyệt đối", vậy nó quan hệ với không gian như thế nào!).

 

Chưa chắc việc nhân loại hiểu Thượng Đế là khởi nguyên vũ trụ - hay hiểu là sáng tạo ra vạn vật là chính xác với khái niệm của người xưa, vì còn có "Nhà thiết kế thông minh khác" là cha của Thượng Đế - "Người sáng tạo ra không gian?". Các tôn giáo độc thần với lịch sử man rợ của mình, đang lợi dụng "thương hiệu" này và đủ mọi loại "công xưởng sản xuất thánh" đã gây những núi tội ác đối với toàn nhân loại trong lịch sử của mình.

 

Những cách lý luận suông kiểu này của Aquine bị triết gia Kant (nhớ không chắc) đập cho tơi tả, có gì đâu mà "Thánh", chưa cần đến văn minh Việt.

 

Cho nên ở nơi chín suối ông không thể không ân hận khi được biết chiến dịch tàn sát người da đỏ (bị coi là giống “nửa khỉ nửa người”) ở Úc cuối Thế kỷ 19, và tội ác diệt chủng của Hitler gây ra đối với người Do Thái trong Thế chiến thứ hai. Bởi không ai khác ngoài ông đã vạch đường cho quỷ dữ hoành hành khi tuyên bố: “Vào một giai đoạn nào đó, có thể tính bằng thế kỷ, các chủng tộc văn minh của loài người hầu như chắc chắn sẽ hủy diệt và thay thế các chủng tộc man rợ”.

 

Đây là kết luận vô cùng cẩu thả của giáo sư.

 

Người Việt đang rơi vào tình cảnh hết sức quái đản: "Thấy Tây thì kinh - kẻ từng nô lệ mình, đâu cũng toàn là Thánh Cha cả. Thấy Tàu thì sợ - kẻ cũng từng nô lệ mình, đâu cũng là văn hóa rực rỡ, toàn Thần hết".

 

Nhạc sĩ thiên tài Trịnh Công Sơn đã cảm thán:

 

"Người nô lệ da vàng, ngủ quên, ngủ quên trong căn nhà nhỏ, đèn thắp thì mờ. Ngủ quên, không thấy quê hương, ngửa tay, xin áo xin cơm. Bao giờ đập tan gông cùm, xiềng xích vô hình trói buộc dân ta. Bao giờ đập tan gông cùm, xiềng xích vô hình trói buộc tự do".

 

 

Mã đề dương cước anh hùng tận,

Thân dậu niên lai kiến Thái Bình.

Share this post


Link to post
Share on other sites

 

Tiến hoá hay tạo hoá
26/01/2016 - 20:46 PM
 
Mặc dù khoa học đã đạt được những thành tựu vô cùng vĩ đại, các quy luật của thế giới tự nhiên cứ lần lượt được phơi bày, sân chơi của Chúa tưởng chừng ngày càng hẹp lại; nhưng cứ mỗi lần các nhà khoa học vén được một bức màn đen do Chúa dựng nên này thì lại thấy một bức màn đen khác sừng sững trước mặt.
 

Và cho đến tận ngày nay hai câu hỏi nguyên thủy “ Vũ trụ được hình thành thế nào?” và “Loài người xuất hiện từ đâu? Từ loài  khỉ lớn (vượn hay tinh tinh) tiến hóa lên, hay do Chúa tạo ra ?”, xem ra vẫn chưa  có câu trả lời cuối cùng; và liệu có thể có câu trả lời cuối cùng hay không? lại là một câu hỏi hóc búa khác.

 

25_9%20-%206.jpg

Giáo sư Chu Hảo

Sai lầm của Thuyết Tiến hóa

Thuyết Big Bang hầu như đã được kiểm chứng. Ngày càng có nhiều bằng chứng khách quan cho thấy Vũ trụ, mà chúng ta đang ở trong, được sinh ra từ một vụ nổ lớn trong hư không khoảng 14 tỷ năm trước rồi dãn nở không ngừng, đồng đều theo mọi hướng, chứa hàng trăm tỷ thiên hà có kích thước khoảng 100.000 năm ánh sáng (một giây ánh sáng là 30 vạn km); mỗi thiên hà lại chứa hàng trăm tỷ ngôi sao; mỗi sao lại có một hệ thống hành tinh quay quanh như kiểu hệ Mặt trời của chúng ta. Khoảng hơn mười tỷ năm nữa Vũ trụ sẽ dừng dãn nở, co sụp lại thành một điểm như lúc ban đầu..

Nếu thuyết này là đúng thì vẫn còn những câu hỏi chưa thể có câu trả lời: Thế trước Big Bang là cái gì? Vì sao nó lại vận hành một cách trơn tru, hoàn hảo như thế? Vì sao các hằng số vật lý của Vũ trụ (tốc độ ánh sáng, điện tích của điện tử, hằng số Plank...) lại được gán cho những giá trị chính xác đến nỗi chỉ cần một trong các hằng số ấy thay đổi đi một phần triệu giá trị vốn có thì thế giới này không có sự sống, không có chúng ta - con người có khả năng tìm hiểu Vũ trụ?

 

CH%20-%20a%202.jpg

Mặc dù vậy, các bằng chứng thực nghiệm về sự hình thành và tiến hoá của Vũ trụ cho đến nay vẫn ủng hộ thuyết Big Bang. Điều này khác hẳn với sự đáng ngờ của thuyết Tiến hóa về nguồn gốc của Loài người, rộ lên trong vài chục năm gần đây. Số người ủng hộ thuyết Tiến hóa còn rất nhiều (xem Nguyễn Văn Tuấn, Ykhoa.net/binhluan/), nhưng những người phản đối càng ngày càng làm tôi “nao núng”. Xin chia sẻ với bạn đọc những gì tôi thu nhận được từ lập luận của những người “phủ nhận sạch trơn” Darwin (xem Viethungpham.com).

Chúng ta đều biết Darwin (1809 - 1882) đã công bố Thuyết Tiến hoá của mình trong hai cuốn sách kinh điển: “Nguồn gốc các loài” ( 1859 ) và “Nguồn gốc con người” (1871). Trong đó ông đã khẳng định: 1) Các loài động vật tiến hoá từ bậc thấp lên bậc cao hơn theo quy luật chọn lọc tự nhiên những biến dị nhỏ ngẫu nhiên có lợi trong quá trình cạnh tranh sinh tồn, được tích tụ dần. 2) Sự sống được hình thành một cách tự phát ngẫu nhiên từ một tập hợp các nguyên tố hoá học. 3) Loài khỉ lớn (tinh tinh) là tổ tiên trực tiếp của Loài người.

Vào thời điểm ấy học thuyết này đã được hưởng ứng một cách cuồng nhiệt và tiếp tục mê hoặc  các thế hệ sau cho đến tận cuối Thế kỷ 20. Ngày nay trong các trường học trên toàn thế giới, người ta vẫn vô tư rao giảng những quan điểm phi khoa học của Darwin. Sự “ngộ nhận thế kỷ” này có thể do hai nguyên nhân chính sau đây. Một là, công trình của Darwin ra đời vào đúng lúc xu thế vô thần và duy vật của Thế kỷ Khai minh đang nở rộ; nó đánh trúng vào tâm lý khoa học thời đại: sự sống và con người không phải do Chúa tạo ra. Hai là, cuộc cách mạng khoa học lần thứ nhất đạt được những thành công rực rỡ với sự ra đời của Vật lý học Newton, đã làm cho cộng đồng khoa học ngây ngất với ý tưởng “sân chơi” của Chúa đang thu hẹp lại và một ngày không xa khoa học sẽ trả lời được mọi câu hỏi về vạn vật. Thế nhưng, như bạn đọc sẽ thấy, đấy là một sự ngộ nhận tai hại.

Thuyết Tạo hoá

Sự sai lầm của thuyết Tiến hoá và sự ngộ nhận về nó sẽ không xảy ra nếu Darwin được biết đến công trình khoa học vĩ đại về Di truyền học của Gregor Mendel (1822-1884) ra đời chỉ sau cuốn “Nguồn gốc các loài” có bảy năm, 1866. Giá ông biết thì chắc ông đã buộc phải xem xét lại các luận điểm của mình. Không những chỉ Darwin không được biết mà cả thế giới cũng hầu như không biết tới công trình khoa học của Mendel vì nó đã bị rơi vào quên lãng. Ba mươi năm sau, vào năm 1900, lý thuyết di truyền của ngài Linh mục người Áo ấy mới được các nhà khoa học Đức và Hà Lan phát hiện. Từ đó di truyền học mới thực sự chào đời, và ngày càng được khẳng định đóng vai trò quan trọng trong Sinh học như thuyết Lượng tử trong Vật lý học. Di truyền học khẳng định những điều ngược lại hẳn với học thuyết Tiến hoá. Cụ thể là: 1) Phân tử ADN (vật liệu di truyền ở cấp độ phân tử quyết định các tính trạng của động vật) của mỗi loài là cố định, không biến đổi trong quá trình chọn lọc tự nhiên để thích nghi với môi trường sinh sống. Như vậy loài này không thể “tiến hoá” lên loài khác được. 2) Phân tử tế bào sống đơn giản nhất cũng không thể hình thành từ sự kết hợp ngẫu nhiên của các nguyên tử hoá học. Xác suất của quá trình ấy có thể coi là bằng không như đã được chứng minh bằng toán học cũng như mô phỏng trên các “siêu máy tính”. 3) Khỉ là khỉ, người là người. Bộ gene của khỉ dù có giống của người đến hơn 95%  thì vẫn còn đó, một sự khác biệt về chất rất lớn nằm trong số vài phần trăm chứa trong ADN cấu tạo nên các gene. ADN của người có 46 nhiễm sắc thể, của tinh tinh là 48 nằm trong nhân mỗi tế bào, và hoàn toàn cố định.

Nhận được sự chào đón hồ hởi ngay từ khi mới ra đời, thuyết Tiến hóa đã “bùng nổ” sau “vụ án thế kỷ”, trong đó một giáo viên trung học người Mỹ là Scopes bị buộc tội rao giảng thuyết Tiến hóa tại một trường phổ thông ở Tiểu bang Tennesse đã thắng kiện. Người ta đồng nhất thắng lợi của Scopes với thắng lợi của thuyết Tiến hóa. Thế nhưng cũng bắt đầu từ đó các bằng chứng khách quan ngày càng chống lại Darwin về giả thuyết loài tinh tinh là tổ tiên trực tiếp của loài người.

Bằng chứng quan trọng nhất là suốt từ khi giả thuyết “khỉ biến thành người” ra đời cho đến nay, đã hơn một thế kỷ rưỡi trôi qua, không có một hóa thạch trung gian nào giữa khỉ và người được phát hiện. Chỉ có một bằng chứng “ngụy khoa học” được tạo dựng nên vào năm 1912. Lúc đó có người đã cả gan ghép hóa thạch hộp sọ của người cổ đại với hóa thạch xương hàm của một con tinh tinh cùng thời để “chứng minh” rằng đã tìm thấy một loài trung gian giữa khỉ và người, đúng như sự mong đợi của những người hâm mộ thuyết Tiến hóa. Thế nhưng trò lừa đảo đó mau chóng bị lật tẩy, và công việc tìm kiếm hóa thạch trung gian vẫn cứ được miệt mài… Ngoài ra, phái phản đối thuyết Tiến hóa khẳng định một cách không hề thiếu sức thuyết phục rằng: Nếu Mendel đúng thì Darwin phải sai, chứ không thể dung hòa. 

Tôi e còn ít người biết được rằng sinh thời chính Darwin đã tuyên bố: “Nếu có bằng chứng cho thấy sự tiến hóa từ loài thấp hơn lên loài cao hơn mà không do sự tích tụ các biến đổi nhỏ liên tục thì lý thuyết của tôi là sai!”. Đúng như sự nghi ngại của ông, những phát hiện mới nhất của Di truyền học và Khảo cổ học nhiều lắm cũng chỉ chứng minh được rằng tinh tinh và người cùng phát sinh từ vùng Nam châu Phi cách đây khoảng 200.000 năm rồi lan tỏa đi khắp địa cầu. Thế thôi, vẫn không có một hóa thạch trung gian nào được phát hiện.

Cho nên ở nơi chín suối ông không thể không ân hận khi được biết chiến dịch tàn sát người da đỏ (bị coi là giống “nửa khỉ nửa người”) ở Úc cuối Thế kỷ 19, và tội ác diệt chủng của Hitler gây ra đối với người Do Thái trong Thế chiến thứ hai. Bởi không ai khác ngoài ông đã vạch đường cho quỷ dữ hoành hành khi tuyên bố: “Vào một giai đoạn nào đó, có thể tính bằng thế kỷ, các chủng tộc văn minh của loài người hầu như chắc chắn sẽ hủy diệt và thay thế các chủng tộc man rợ”. 

Nếu thuyết Tiến hóa là sai thì thuyết Tạo hóa có nhiều cơ hội là đúng?

Không đơn giản như vậy! Chỉ có điều càng ngày càng nhiều nhà khoa học lỗi lạc tin rằng có một lực lượng siêu nhiên nào đấy đã lập trình sự sống và cài đặt nó vào các phân tử ADN dưới dạng các mã thông tin, như một bản thiết kế cực kỳ linh diệu. Đáng kinh ngạc thay, từ Thế kỷ 13 Thánh Thomas Aquine đã phán: “Bất cứ ở đâu tồn tại những thiết kế phức tạp, ở đó ắt phải có nhà thiết kế thông minh”. Nhà thiết kế thông minh ấy đã được nhân loại gán cho các tên: Đấng sáng tạo, Tạo hóa, Chúa trời của các tôn giáo; hay “Chúa phiếm thần” của các nhà khoa học. 

Nếu bạn đọc còn do dự tin hay không tin vào một trong hai giả thuyết nói trên thì hãy nghe lời khuyên của Einstein mà vui sống. Ông nói thế này: “Có hai cách để sống: bạn chẳng tin vào phép màu nào cả, hoặc tin rằng mọi thứ đều là một phép màu”. Há chẳng thanh thản sao!

Chu Hảo

===========================

Kính thưa giáo sư Chu Hảo.

Nếu Việt sử 5000 năm văn hiến được xác định tính chân lý thì giáo sư có thể tổ chức tiếp một cuộc hội thảo quốc tế về chính vấn nạn này của khoa học thế giới và tôi sẽ là người thuyết trinh. Tôi rất nghiêm túc trong truyện này.

PS: Thưa giáo sư. Nếu tôi chỉ dừng lại với một đề xuất như trên thì giáo sư và mọi người xem topic này có thể nghi ngờ tôi. Cho nên tôi phải mô tả luận điểm của tôi về vấn đề trên như sau:

Thuyết tiến hóa của Darwin và thuyết Di truyền của Mendel đều không sai. Đấy là hai mặt của vấn đề bổ sung cho nhau. Thuyết của Darwin khiếm khuyết về mặt thời gian.

 

 

 

Thưa giáo sư.

Vì một bài viết mang tính ngẫu nhiên nên có vẻ như chưa rõ. Tôi xin được lặp lại và nói rõ hơn như sau:

 

Nếu tôi chỉ dừng lại với một đề xuất như trên thì giáo sư và mọi người xem topic này có thể nghi ngờ tôi. Cho nên tôi phải mô tả luận điểm của tôi về vấn đề trên như sau:

Thuyết tiến hóa của Darwin và thuyết Di truyền của Mendel đều không sai. Đấy là hai mặt của vấn đề bổ sung cho nhau. Thuyết của Darwin khiếm khuyết về mặt thời gian.

 

Thuyết Darwin không chỉ khiếm khuyết về mặt thời gian, còn khiếm khuyết khi nó chưa xác định về mặt lý thuyết bản chất và cơ chế của sự  tiến hóa. Bởi vậy, những người quan tâm đến học thuyết này và ít chịu tư duy sẽ khó hiểu vì sao một con khỉ - hoặc một loài tương tự - lại có thể tiến hóa thành con người như ngày nay. Nhưng xét về tính định hướng của thuyết tiến hóa thì tôi chắc chắn không sai.

Cũng như thuyết di truyền của Mendel, lúc đầu nó chỉ đặt một giả thuyết về sự tồn tại xác định tính di truyền trong muôn loài, nhưng nó cũng chưa mô tả được cơ chế di truyền. Nên một thời nó cũng bị phản đối mạnh mẽ. Rất tiếc thuyết Tiến hóa của Darwin không có sự phát triển tiếp theo như thuyết di truyền của Mendel. Nếu hai học thuyết này bổ sung cho nhau thì chính là một học thuyết hoàn chỉnh về sự phát triển và tồn tại của tự nhiên.

 

4 people like this

Share this post


Link to post
Share on other sites
Đâu là bản chất đích thực của con người?
Phần 1: Thí nghiệm Turing

04/11/2015

 

Xưa nay, con người luôn yên chí rằng mình là những sinh vật ‘thượng đẳng”, hơn hẳn mọi giống loài khác. Nhưng niềm tin ấy đang bị đe doạ bởi sự xuất hiện của một “giống loài” mới: robot với bộ óc là computer!

 

alan-turing-675x400.jpg
Alan Turing (Ảnh: robertsharp.co.uk)

 

Ngay từ những năm 1950, Alan Turing, một trong những cha đẻ của computer, đã khẳng định rằng sẽ đến lúc computer thông minh như con người. Thực tế diễn ra có vẻ như còn chứng tỏ computer có thể “thông minh hơn” con người:

Năm 1997, máy tính Deep Blue đã đánh thắng vua cờ Garry Kasparov! Đó là lúc trường phái “trí thông minh nhân tạo” – AI (Artificial Intelligence) – ăn mừng. Nhưng không chỉ AI ăn mừng: rất nhiều người khác cũng bị lây nhiễm tâm lý sùng bái computer, sùng bái khoa học, sùng bái máy móc. Số người này rất đông đúc (có lẽ chiếm đa số), bao gồm cả những người giỏi giang nhất, uy tín nhất, tạo nên một xu thế thời đại khó cưỡng nổi – thời đại kỹ trị.

Trong thời đại này, khoa học vật chất được tôn lên thành “chúa tể” của tri thức, đẩy các lĩnh vực văn hoá nhân văn vào thế lép vế, dẫn tới một sự mất cân bằng nghiêm trọng trong đời sống nhân loại. Mất cân bằng sinh thái, bầu khí quyển bị hâm nóng, thiên nhiên nổi giận, môi trường bị ô nhiễm, năng lượng hạt nhân trở thành mối đe doạ, GDP tăng trưởng nhưng đạo đức suy đồi, khủng hoảng tội ác, phân hoá giầu nghèo đến mức cùng cực – trong khi có những kẻ cất giữ hàng tỷ đô-la trong ngân hàng, của cải đổ đi không hết thì vẫn có trên 1 tỷ người trên thế giới đang sống trong tình trạng đói rét, bệnh tật…

Nhà Quảng Cáo

Nguồn gốc sâu xa của tình trạng mất cân bằng đó là sự thiếu hiểu biết về bản chất con người.

Con người đơn thuần chỉ là kết quả của sự tiến hoá sinh học hay là một thực thể tâm linh – “một cây sậy có tư tưởng” như Pascal định nghĩa?

Liệu học thuyết Darwin và những lý thuyết tiến hoá hiện đại khác có giúp chúng ta hiểu rõ bản tính người hay không? Bản tính người thực sự là cái gì?

Thuyết tiến hoá nói rằng đặc trưng của loài người là ở chỗ biết sáng tạo ra công cụ lao động. Nhưng lý thuyết này đang trở nên quá nghèo nàn trước những thành tựu của khoa học computer, bởi việc chế tạo ra công cụ thực ra chỉ là một biểu hiện của trí thông minh vượt trội, mà computer cũng sẽ thông minh không thua kém con người. Vậy chỗ đứng thật sự của con người ở đâu?

 

b1-2-douglas-hofstadter1.jpg

 

Douglas Hofstadter, giáo sư ngành khoa học nhận thức và văn học so sánh từ trường Đại học Indiana (Mỹ), trong cuốn sách nổi tiếng từng đoạt Giải Pulitzer năm 1980 của ông, “Godel, Escher, Bach”, đã tìm ra một phản đề tuyệt vời: “Khi một hoạt động trí não nào đó đã được chương trình hoá thì người ta sẽ mau chóng ngừng coi nó như một thành phần chủ yếu của tư duy thực sự”. Nói một cách dễ hiểu: đâu là chỗ của máy móc thì đó không phải là chỗ để tính người lộ rõ.

 

b1-1-godelescherbach1.jpg

(Ảnh: Blog Phạm Việt Hưng)

 

Từ phản đề ấy, lập tức suy ra rằng tư duy đánh cờ không còn nằm trong vùng tư duy đặc trưng nhất của tính người nữa, vì Deep Blue đã đánh thắng vua cờ! Đây là một sự kiện làm đảo lộn vai trò của cờ vua nói riêng và là một cột mốc quan trọng trong lịch sử nhận thức của con người về chính bản thân mình. Xem thế đủ thấy việc hiểu bản chất thật sự của con người hoá ra không đơn giản như ta tưởng.

Chính vì không hiểu rõ chính mình là gì nên con người mới sùng bái những tri thức khoa học vật chất đến mức thái quá, từ đó tạo ra một thế giới mất cân bằng nghiêm trọng như hiện nay. Dường như linh cảm được điều đó nên từ cách đây hơn nửa thế kỷ, Albert Einstein đã lên tiếng cảnh báo: Hãy thận trọng đừng biến tri thức thành chúa tể của chúng ta, nó có… sức mạnh cơ bắp nhưng không có nhân tính[1].

Đó là lúc Einstein đề cập tới những tri thức của nền văn minh kỹ trị – tri thức tạo ra của cải vật chất, máy móc, súng ống…

Tuy nhiên, có những tri thức không có sức mạnh cơ bắp nhưng giàu nhân tính. Những tri thức này nằm ở đâu? Nói cách khác: Bản chất đích thực của con người nằm ở đâu?

Các bậc thức giả đang ra sức tìm kiếm câu trả lời.

Brian Christian, tác giả cuốn “The Most Human Human[2] (Người người nhất), gợi ý: Hãy khám phá bản chất người từ chính sự khác biệt giữa con người với computer!

Học giả David Shenk bình luận: “Máy móc đã trở nên thông minh đến nỗi nó buộc chúng ta phải có một cái nhìn hoàn toàn mới đối với câu hỏi thông minh là gì và con người là gì”.

Một học giả khác thốt lên: “Ai mà ngờ được rằng cách tốt nhất để hiểu con người lại là nghiên cứu chính những sản phẩm bắt chước con người”.

Thật vậy, muốn thấy rõ tính người nằm ở đâu, hãy nghiên cứu computer để xem chúng khác chúng ta ở chỗ nào. Chỗ khác biệt ấy chính là chỗ hơn hẳn của con người! Để làm việc này, hãy theo dõi một sự kiện được gọi là “Thí nghiệm Turing” (Turing Test) do cộng đồng AI tổ chức hàng năm.

Thay vì tranh cãi về mặt lý thuyết, Turing, ngay từ thời của ông (những năm 1950), đã đề xuất một kiểu thí nghiệm, nhằm chứng minh computer sẽ thông minh như con người. Đó là một cuộc thi đấu giữa hai đấu thủ: một bên là computer, một bên là con người.

Hai đấu thủ sẽ phải trả lời các câu hỏi do một ban giám khảo đưa ra. Các câu hỏi này không có bất cứ một hạn chế nào: từ chuyện vặt vãnh trong đời thường cho tới những sự kiện lớn lao của khoa học, lịch sử, văn hoá, nghệ thuật, triết học… Chẳng hạn: Bạn thích món ăn gì nhất? Thời tiết hôm nay ra sao? Sydney có đẹp bằng Paris không? Godel là ai? Hạnh phúc là gì? Tình yêu là gì? Tranh Monet có đẹp hơn tranh Picasso không? “Ode to Joy” có phải là nhạc phẩm vĩ đại nhất không?… Để đảm bảo công bằng, hai đấu thủ được đặt trong hai phòng kín để ban giám khảo không thể nhận biết bên nào là computer, bên nào là người, nhưng tuỳ theo nội dung của các câu trả lời, ban giám khảo sẽ bỏ phiếu đoán nhận bên nào là computer, bên nào là người. Kết luận của ban giám khảo dựa trên đa số phiếu, giống như bầu cử. Nếu ban giám khảo đoán nhận sai – lẫn lộn computer với người – thì đó là bằng chứng chứng tỏ computer thông minh như người.

Turing dự đoán vào năm 2000, computer sẽ đánh lừa được 30% số giám khảo sau 5 phút trò chuyện. Với kết quả đó “người ta sẽ có thể nói về tư duy của máy móc mà không thấy bị mâu thuẫn”, ông nói.

Nhưng Thí nghiệm Turing năm 2000 không xẩy ra như Turing dự đoán. Năm 2008, trong thí nghiệm diễn ra tại Reading ở Anh, suýt nữa thì dự đoán của Turing trở thành sự thật – chỉ còn thiếu đúng một lá phiếu nữa thì chương trình máy tính đã đánh lừa được ban giám khảo. Nếu chương trình đánh lừa được ban giám khảo thì nó sẽ được trao một giải thưởng mang tên “The Most Human Computer” (Computer người nhất). Ngược lại, nếu phần thắng thuộc về người tham gia thí nghiệm thì người này sẽ được trao giải thưởng “The Most Human Human” (Người người nhất). Nếu có vài người cùng tham gia thí nghiệm thì người nào được nhiều phiếu nhất sẽ được trao phần thưởng đó.

Nhiều người đã đoạt giải “Người người nhất”, vì Thí nghiệm Turing được tiến hành từ những năm 1990, nhưng phải đợi mãi đến năm 2009 thì giải thưởng “Computer người nhất” mới lần đầu tiên được trao cho David Levy – một trong những tên tuổi lớn về lập trình cho cờ vua trong thập kỷ 1980, trước khi ra đời chương trình Deep Blue trong thập kỷ 1990.

Levy là người cổ vũ điên cuồng cho khoa học AI. Ông đã viết cuốn “Love and Sex with Robots” (Yêu và làm tình với robots) để trình bầy tư tưởng của mình. Không quá khó để hiểu được khái niệm “làm tình với robots” nhưng sẽ rất khó để hiểu được khái niệm “yêu robots”, nếu chữ “love” được hiểu như một tình yêu đích thực, chẳng hạn như tình yêu giữa Marius và Cosette trong “Những người khốn khổ” của Victor Hugo.

Tại sao Levy có tư tưởng thái quá như vậy? Có lẽ vì ông không hiểu bản chất đích thực của con người là gì. Nhưng tại sao lại trách Levy trong khi bỏ qua Turing?

b1-3-alan-turing1.jpg(Ảnh: Blog Phạm Việt Hưng)

Turing là một thiên tài có số phận bi thảm: Ông bị kết án tù vì quan hệ đồng tính. Ra tù ông phẫn chí rồi tự tử. Nhưng nghịch lý lớn nhất trong đời ông có lẽ nằm ngay trong học thuật: ông là tác giả của bài toán “Sự cố dừng” (The halting problem), chỉ ra rằng computer có những hạn chế không thể vượt qua được, như một “khuyết tật bẩm sinh” của bất kỳ một hệ logic nào. Nhưng cũng chính Turing lại là người đề xuất tư tưởng coi computer như một cỗ máy vạn năng có thể thay thế con người.

Nghịch lý đó cũng chính là nghịch lý của nền văn minh kỹ trị: trong khi tư tưởng của Turing thúc đẩy khoa học computer phát triển không ngừng thì đồng thời nó cũng khuyến khích tinh thần sùng bái máy móc đến mức hạ thấp vai trò của con người, sùng bái tư duy hình thức đến mức hạ thấp tư duy cảm xúc, sùng bái giá trị vật chất đến mức hạ thấp các giá trị nhân văn… kết quả là đưa xã hội loài người đến trạng thái mất cân bằng và bị đe doạ bởi một thế giới đầy ắp những sản phẩm do chính con người tạo ra.

Nhưng khoan hãy kết tội một thiên tài.

Chẳng phải Turing đã tiên đoán chính xác rằng máy móc có thể thông minh như con người đó sao? Chẳng phải thí nghiệm Turing đã thành công đó sao?

Vâng, thiên tài của Turing là điều không thể chối cãi, nhưng Thí nghiệm Turing, thay vì làm cho những người sâu sắc sùng bái máy móc, họ đặt vấn đề hoàn toàn ngược lại – thí nghiệm ấy chỉ chứng tỏ sự ấu trĩ trong nhận thức về bản chất của trí thông minh:

Một, trí thông minh của con người tuy có giới hạn nhưng hình thức biểu lộ của nó lại vô hạn, do đó không thể kiểm chứng nó bằng một tập hợp giới hạn các câu hỏi, bất kể tập hợp đó rộng chừng nào. Bản thân việc đề xuất một thí nghiệm thử thách trí thông minh thông qua một tập hợp giới hạn các câu hỏi đã là một sai lầm ấu trĩ trong việc nhận thức khả năng biểu lộ của trí thông minh.

Hai, trí thông minh của con người hơn hẳn computer ở chỗ nó không chỉ nhận thức được những đối tượng đo được, mà còn nhận thức được những khái niệm không đo được, hoặc những khái niệm vô hình, vô ảnh, vô ngôn – không thể diễn tả được bằng bất cứ một thứ ngôn ngữ nào, mà chỉ có thể quán tưởng bằng chiêm nghiệm, trực giác, thậm chí bằng sự lặng thinh. Computer dựa trên nguyên lý số hoá và logic hình thức, không thể nhận thức cái không đo được và cái không tuân thủ logic hình thức. Turing là thiên tài trong việc khám phá những bí mật của logic hình thức nhưng xem ra ông không hiểu thấu những khái niệm tư duy trực giác, tư duy quán tưởng.

Tuy nhiên, có người lý sự rằng thực ra vẫn có thể số hoá những khái niệm vốn không thể đo được. Chẳng hạn, vẻ đẹp của phụ nữ đã được số hoá trong các cuộc thi hoa hậu đấy thôi. Từ đó computer có thể chứng minh người này đẹp hơn người kia, và rồi với cái kiểu số hoá như thế, sẽ đến lúc computer chứng minh được cái này đẹp hơn cái kia, cái này tốt hơn cái kia… Chẳng phải David Levy đã nghĩ đến chuyện số hoá tình yêu đó sao?

Liệu có thể số hoá tình yêu không?

Liệu có thể số hoá nghệ thuật không?

Liệu có thể số hoá mọi tri thức của con người không?

Liệu computer có thể thực sự thay thế con người không?

Liệu computer có thể có nhân tính không?

Câu chuyện Deep Blue đánh thắng vua cờ Kasparov sẽ đưa ra một câu trả lời thú vị. Trước khi tìm hiểu câu chuyện đó, cần biết rằng cờ vua không chỉ được coi là một môn thể thao trí tuệ, mà đã từng có một thời được coi là một lĩnh vực nghệ thuật bậc thầy “có tất cả mọi vẻ đẹp của nghệ thuật”.

Nhưng xin dành câu chuyện đó cho bài kỳ sau: “Môn thể thao trí tuệ có tất cả mọi vẻ đẹp của nghệ thuật”!

==========================

Chú thích:

[1] “Take care not to make the intellect to be our god; it has … powerful muscles but no personality” (Ideas that shaped our world, Marshall Editions, 1997)

[2] “The Most Human Human”, Brian Christian, Doubleday DD, New York, London, Toronto, Sydney, Auckland, 2011

Bài này được đăng bản gốc trên viethungpham.com. Đọc bản gốc ở đây.

Bài viết thể hiện quan điểm của tác giả, không nhất thiết phản ánh quan điểm của Đại Kỷ Nguyên.

pham-viet-hung.jpg

TÁC GIẢ: PHẠM VIỆT HƯNG

Email: bizet09@gmail.com

Giảng dạy: Từng giảng dạy các môn Toán Kinh tế; Cơ học Lý thuyết; Sức bền Vật liệu; Toán luyện thi đại học. Hiện thỉnh giảng Toán cao cấp tại một đại học ở VN.

Hoạt động báo chí với tư cách một freelance trên nhiều báo in và trên mạng:

  • Trang mạng Vietsciences: http://vietsciences.free.fr/
  • Tạp chí Khoa học & Tổ quốc của Hội Liên hiệp Khoa học & Kỹ thuật Việt Nam
  • Tạp chí Vật lý Ngày nay của Hội Vật lý VN
  • Khoa học & Đời sống của Hội Liên hiệp Khoa học & Kỹ thuật Việt Nam
  • Văn Nghệ của Hội nhà văn VN
  • Văn Nghệ Trẻ của Hội nhà văn VN
  • Tạp chí Tia Sáng của Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường

Hoạt động xuất bản Sách:

  • Tác giả cuốn “Những câu chuyện khoa học hiện đại”, NXB Trẻ xuất bản năm 2003
  • Đồng dịch giả cuốn “Định Lý Cuối Cùng của Fermat” (Fermat’s Last Theorem) của Simon Singh, NXB Trẻ năm 2004
  • Dịch giả cuốn “Phương Trình của Chúa” (God’s Equation) của Amir Aczel, NXB Trẻ 2004
  • Dịch giả cuốn “Từ Xác định đến Bất định” (From Certainty to Uncertainty) của David Peat, NXB Tri Thức 2011.
  • Cộng tác với Kỷ yếu “Đại học Humboldt 200 năm, Kinh nghiệm Giáo dục Thế giới & Việt Nam”, NXB Tri Thức, 2011. Bài “Nền khoa học và giáo dục Australia: Một kim tự tháp vững chắc”, Phạm Việt Hưng, trang 353.
  • Cộng tác với Kỷ yếu “Hạt Higgs và Mô hình Chuẩn, cuộc phiêu lưu kỳ thú của khoa học”, NXB Tri Thức, 2014. Bài “Câu chuyện ‘hạt của Chúa’ đã kết thúc?”, Phạm Việt Hưng, trang 265.

============================

Học giả Phạm Việt Hưng đã đặt lại vấn đề từ thời thượng cổ về vấn nạn: "Con người là gì? Nó từ đâu tới và sẽ đi về đâu?'. Sự phát triển của khoa học hiện đại về trí thông minh nhân tạo - càng ngày càng giống người - đã đặt lại vấn đề này. Nhưng phải xác định rằng bài của học giả Phạm Việt Hưng là bài tiếng Việt hay nhất đặt lại vấn đề này. Những đề tài của học giả Phạm Việt Hưng, có thể nói, đều có thể đưa vào topic "Lý học và khoa học" hiện đại để đối chiếu, so sánh, phân tích dưới góc nhìn của Lý học Việt. Rất tiếc tôi chưa có thời gian đi sâu phân tích và chứng minh bản chất "người" từ góc nhìn Lý học, vì nó không phải việc cần làm trong giai đoạn này của tôi với mục đích minh chứng Việt sử trải gần 5000 văn hiến. Nhưng tôi xác định rằng: Nền Lý học Đông phương đã giải quyết một cách rốt ráo vấn nạn này, nhân danh một lý thuyết thống nhất vũ trụ.

Tôi trình bày lại ở đây ba truyện khoa học giả tưởng của tôi liên quan đến trí tuệ nhân tạo và bản chất người:

Bài thứ #11; bài thứ #12 và bài thứ #18 của đường link này.

http://diendan.lyhocdongphuong.org.vn/bai-viet/272-nguoi-xua/

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites
​Phát hiện sóng hấp dẫn, thành tựu làm thay đổi khoa học
11/02/2016 23:07 GMT+7
 

TTO - Ngày 11-2, các nhà khoa học quốc tế khẳng định đã phát hiện thấy sóng hấp dẫn do thiên tài vật lý Albert Einstein tiên đoán một thế kỷ trước đây.

 

songhapdan-jpg-1455206751.jpg

Ông Roni Gross, giám đốc Thư viện Albert Einstein thuộc ĐH Hebrew ở Israel giới thiệu các tài liệu của Einstein về sóng hấp dẫn do ông tiên đoán 100 năm trước - Ảnh: Reuters

 

Trong cuộc họp báo được truyền hình trực tiếp trên mạng Internet từ Washington DC (Mỹ), các nhà khoa học thuộc Viện Công nghệ California (CIT), Viện Công nghệ Massachusetts (MIT) và tổ chức khoa học LIGO Scientific Collaboration cho biết đã phát hiện ra sóng hấp dẫn vào ngày 12-8-2015.

Sóng hấp dẫn này xuất phát từ hai lỗ đen va chạm vào nhau. Hai lỗ đen này có khối lượng lớn gấp 30 lần mặt trời, nằm ở vị trí cách trái đất khoảng 1,3 tỷ năm ánh sáng. Các nhà khoa học bắt được sóng hấp dẫn nhờ hai thiết bị dò laser khổng lồ ở Mỹ, một tại Louisiana và một ở Washington.

 

Nghe tiếng hai lỗ đen đụng nhau

Sóng hấp dẫn là các gợn sóng trong không - thời gian, lan tỏa trong vũ trụ với tốc độ ánh sáng, được nhà bác học Einstein tiên đoán 100 năm trước. Các nhà thiên văn học đã khổ công “săn lùng” sóng hấp dẫn trong nhiều thập kỷ qua. Bởi sóng hấp dẫn là vấn đề cuối cùng của thuyết tương đối rộng chưa được kiểm chứng.

Hai thiết bị laser có tên Đài quan sát sóng hấp dẫn giao thoa kế laser (LIGO) có khả năng đo được những dao dộng cực nhỏ từ sóng hấp dẫn. Sau khi phát hiện tín hiệu sóng hấp dẫn, các nhà khoa học đã chuyển đổi chúng thành sóng radio. Nhờ đó, họ nghe được tiếng hai lỗ đen va chạm vào nhau và nhập lại làm một.

“Chúng tôi thực sự nghe tiếng chúng đụng vào nhau trong đêm - nhà vật lý MIT Matthew Evans mô tả - Chúng tôi nhận được tín hiệu bắn tới trái đất, chúng tôi đưa nó vào loa và nghe thấy tiếng hai lỗ đen đụng nhau”.

AFP dẫn lời nhà khoa học MIT David Shoemaker, người đứng đầu dự án LIGO, cho biết sau nhiều tuần lễ thu được tín hiệu sóng hấp dẫn, nhóm nghiên cứu mới đủ tự tin khẳng định đó chính là sóng hấp dẫn. Và họ thực hiện hàng loạt cuộc kiểm tra để xác định khám phá này.

Các nhà khoa học cho biết việc phát hiện sóng hấp dẫn sẽ mở cánh cửa mới để quan sát vũ trụ và tìm hiểu về các vật thể bí ẩn như lỗ đen và sao neutron. Thông qua nghiên cứu sóng hấp dẫn, các nhà khoa học cũng sẽ có thể thấu hiểu được bản chất của vũ trụ thời kỳ mới khai sinh sau Vụ nổ lớn (Big Bang).

 

Cánh cửa quan sát vũ trụ

Tất cả những gì chúng ta biết về vũ trụ hiện nay đến từ các sóng điện từ như sóng radio, ánh sáng, hồng ngoại, tia X và tia gramma. Tuy nhiên các sóng này khi di chuyển trong vũ trụ chịu nhiều tác động, do đó chỉ tiết lộ cho con người một phần bức tranh vũ trụ.

Ngược lại, sóng hấp dẫn không vấp phải bất cứ cản trở nào, do đó mang theo nguồn thông tin phong phú. Ví dụ, lỗ đen không phát ra ánh sáng hay sóng radio vì có lực hấp dẫn quá lớn. Nhưng các nhà khoa học giờ có thể nghiên cứu lỗ đen qua sóng hấp dẫn.

Như vậy, việc phát hiện ra sóng hấp dẫn trên thực tế cũng đã khẳng định sự tồn tại của lỗ đen, vật thể bí ẩn nhất trong vũ trụ. Lỗ đen được hình thành sau khi những ngôi sao khổng lồ nổ tung. Ở trung tâm các thiên hà luôn tồn tại những lỗ đen siêu khổng lồ với trọng lượng lớn gấp mặt trời hàng triệu, thậm chí hàng tỷ lần.

Giới khoa học quốc tế tỏ ra vô cùng hào hứng với phát hiện mang tính cột mốc này. “Phát hiện này mở ra cửa sổ mới để quan sát vũ trụ” - Reuters dẫn lời chuyên gia Abhay Ashtekar, giám đốc Viện Lực hấp dẫn và vũ trụ thuộc ĐH Penn State (Mỹ).

Nhà vật lý Saul Teukolsky của ĐH Cornell đánh giá phát hiện sóng hấp dẫn là một trong những khám phá khoa học vĩ đại nhất trong vòng 50 năm qua. Giới chuyên gia dự báo nhiều khả năng phát hiện sóng hấp dẫn sẽ sớm giành giải Nobel Vật lý trong năm nay.

 
HIẾU TRUNG
Tin liên quan

============================

Nhân danh nền Lý học Đông phương có cội nguồn từ văn hiến Việt với lịch sử gần 5000 năm, một thời huy hoàng ở miền nam sông Dương tử, Thiên Sứ tôi chúc mừng thành tựu mới nhất của nền khoa học hiện đại. Chính những tiến bộ trong những phát hiện này, sẽ làm cho những tri thức của nền khoa học hiện đại hiểu sâu hơn về ngành Phong Thủy Lạc Việt. Ngành này ứng dụng sóng hấp dẫn từ hàng chục thiên niên kỷ trước và xác định những quy luật tương tác trong phong thủy.

Nếu quả là Einstein đã tiên đoán trước 100 năm cho sự tồn tại của sóng hấp dẫn trong vũ trụ, thì lão Gàn - nhân danh nền văn hiến Việt - tiên đoán cho 500 năm sau, rằng: nền khoa học của tương lai sẽ tìm ra sóng hấp dẫn ở tất cả các vật thể từ hạt vật chất nhỏ nhất cho đến thiên hà khổng lồ. Và lão Gàn cũng cần xác định rằng: Chính những sóng hấp dẫn này là yếu tố tương tác của các vật thể từ nhỏ nhất đến những thiên hà khổng lồ. Đây là sự tương tác hoàn toàn có tính quy luật và tạo ra khả năng tiên tri. Nó đã được ứng dụng trong ngành Địa Lý Lạc Việt để phục vụ cho cuộc sống của con người từ hơn 6000 năm trước ở Nam Dương tử (Xem bài "Mộ Rồng").

Xin cảm ơn vì đã quan tâm.

2 people like this

Share this post


Link to post
Share on other sites

 

Đâu là bản chất đích thực của con người?

Phần 1: Thí nghiệm Turing

04/11/2015

 

Xưa nay, con người luôn yên chí rằng mình là những sinh vật ‘thượng đẳng”, hơn hẳn mọi giống loài khác. Nhưng niềm tin ấy đang bị đe doạ bởi sự xuất hiện của một “giống loài” mới: robot với bộ óc là computer!

 

alan-turing-675x400.jpg
Alan Turing (Ảnh: robertsharp.co.uk)

 

Ngay từ những năm 1950, Alan Turing, một trong những cha đẻ của computer, đã khẳng định rằng sẽ đến lúc computer thông minh như con người. Thực tế diễn ra có vẻ như còn chứng tỏ computer có thể “thông minh hơn” con người:

Năm 1997, máy tính Deep Blue đã đánh thắng vua cờ Garry Kasparov! Đó là lúc trường phái “trí thông minh nhân tạo” – AI (Artificial Intelligence) – ăn mừng. Nhưng không chỉ AI ăn mừng: rất nhiều người khác cũng bị lây nhiễm tâm lý sùng bái computer, sùng bái khoa học, sùng bái máy móc. Số người này rất đông đúc (có lẽ chiếm đa số), bao gồm cả những người giỏi giang nhất, uy tín nhất, tạo nên một xu thế thời đại khó cưỡng nổi – thời đại kỹ trị.

Trong thời đại này, khoa học vật chất được tôn lên thành “chúa tể” của tri thức, đẩy các lĩnh vực văn hoá nhân văn vào thế lép vế, dẫn tới một sự mất cân bằng nghiêm trọng trong đời sống nhân loại. Mất cân bằng sinh thái, bầu khí quyển bị hâm nóng, thiên nhiên nổi giận, môi trường bị ô nhiễm, năng lượng hạt nhân trở thành mối đe doạ, GDP tăng trưởng nhưng đạo đức suy đồi, khủng hoảng tội ác, phân hoá giầu nghèo đến mức cùng cực – trong khi có những kẻ cất giữ hàng tỷ đô-la trong ngân hàng, của cải đổ đi không hết thì vẫn có trên 1 tỷ người trên thế giới đang sống trong tình trạng đói rét, bệnh tật…

Nhà Quảng Cáo

Nguồn gốc sâu xa của tình trạng mất cân bằng đó là sự thiếu hiểu biết về bản chất con người.

Con người đơn thuần chỉ là kết quả của sự tiến hoá sinh học hay là một thực thể tâm linh – “một cây sậy có tư tưởng” như Pascal định nghĩa?

Liệu học thuyết Darwin và những lý thuyết tiến hoá hiện đại khác có giúp chúng ta hiểu rõ bản tính người hay không? Bản tính người thực sự là cái gì?

Thuyết tiến hoá nói rằng đặc trưng của loài người là ở chỗ biết sáng tạo ra công cụ lao động. Nhưng lý thuyết này đang trở nên quá nghèo nàn trước những thành tựu của khoa học computer, bởi việc chế tạo ra công cụ thực ra chỉ là một biểu hiện của trí thông minh vượt trội, mà computer cũng sẽ thông minh không thua kém con người. Vậy chỗ đứng thật sự của con người ở đâu?

 

b1-2-douglas-hofstadter1.jpg

 

Douglas Hofstadter, giáo sư ngành khoa học nhận thức và văn học so sánh từ trường Đại học Indiana (Mỹ), trong cuốn sách nổi tiếng từng đoạt Giải Pulitzer năm 1980 của ông, “Godel, Escher, Bach”, đã tìm ra một phản đề tuyệt vời: “Khi một hoạt động trí não nào đó đã được chương trình hoá thì người ta sẽ mau chóng ngừng coi nó như một thành phần chủ yếu của tư duy thực sự”. Nói một cách dễ hiểu: đâu là chỗ của máy móc thì đó không phải là chỗ để tính người lộ rõ.

 

b1-1-godelescherbach1.jpg

(Ảnh: Blog Phạm Việt Hưng)

 

Từ phản đề ấy, lập tức suy ra rằng tư duy đánh cờ không còn nằm trong vùng tư duy đặc trưng nhất của tính người nữa, vì Deep Blue đã đánh thắng vua cờ! Đây là một sự kiện làm đảo lộn vai trò của cờ vua nói riêng và là một cột mốc quan trọng trong lịch sử nhận thức của con người về chính bản thân mình. Xem thế đủ thấy việc hiểu bản chất thật sự của con người hoá ra không đơn giản như ta tưởng.

Chính vì không hiểu rõ chính mình là gì nên con người mới sùng bái những tri thức khoa học vật chất đến mức thái quá, từ đó tạo ra một thế giới mất cân bằng nghiêm trọng như hiện nay. Dường như linh cảm được điều đó nên từ cách đây hơn nửa thế kỷ, Albert Einstein đã lên tiếng cảnh báo: Hãy thận trọng đừng biến tri thức thành chúa tể của chúng ta, nó có… sức mạnh cơ bắp nhưng không có nhân tính[1].

Đó là lúc Einstein đề cập tới những tri thức của nền văn minh kỹ trị – tri thức tạo ra của cải vật chất, máy móc, súng ống…

Tuy nhiên, có những tri thức không có sức mạnh cơ bắp nhưng giàu nhân tính. Những tri thức này nằm ở đâu? Nói cách khác: Bản chất đích thực của con người nằm ở đâu?

Các bậc thức giả đang ra sức tìm kiếm câu trả lời.

Brian Christian, tác giả cuốn “The Most Human Human[2] (Người người nhất), gợi ý: Hãy khám phá bản chất người từ chính sự khác biệt giữa con người với computer!

Học giả David Shenk bình luận: “Máy móc đã trở nên thông minh đến nỗi nó buộc chúng ta phải có một cái nhìn hoàn toàn mới đối với câu hỏi thông minh là gì và con người là gì”.

Một học giả khác thốt lên: “Ai mà ngờ được rằng cách tốt nhất để hiểu con người lại là nghiên cứu chính những sản phẩm bắt chước con người”.

Thật vậy, muốn thấy rõ tính người nằm ở đâu, hãy nghiên cứu computer để xem chúng khác chúng ta ở chỗ nào. Chỗ khác biệt ấy chính là chỗ hơn hẳn của con người! Để làm việc này, hãy theo dõi một sự kiện được gọi là “Thí nghiệm Turing” (Turing Test) do cộng đồng AI tổ chức hàng năm.

Thay vì tranh cãi về mặt lý thuyết, Turing, ngay từ thời của ông (những năm 1950), đã đề xuất một kiểu thí nghiệm, nhằm chứng minh computer sẽ thông minh như con người. Đó là một cuộc thi đấu giữa hai đấu thủ: một bên là computer, một bên là con người.

Hai đấu thủ sẽ phải trả lời các câu hỏi do một ban giám khảo đưa ra. Các câu hỏi này không có bất cứ một hạn chế nào: từ chuyện vặt vãnh trong đời thường cho tới những sự kiện lớn lao của khoa học, lịch sử, văn hoá, nghệ thuật, triết học… Chẳng hạn: Bạn thích món ăn gì nhất? Thời tiết hôm nay ra sao? Sydney có đẹp bằng Paris không? Godel là ai? Hạnh phúc là gì? Tình yêu là gì? Tranh Monet có đẹp hơn tranh Picasso không? “Ode to Joy” có phải là nhạc phẩm vĩ đại nhất không?… Để đảm bảo công bằng, hai đấu thủ được đặt trong hai phòng kín để ban giám khảo không thể nhận biết bên nào là computer, bên nào là người, nhưng tuỳ theo nội dung của các câu trả lời, ban giám khảo sẽ bỏ phiếu đoán nhận bên nào là computer, bên nào là người. Kết luận của ban giám khảo dựa trên đa số phiếu, giống như bầu cử. Nếu ban giám khảo đoán nhận sai – lẫn lộn computer với người – thì đó là bằng chứng chứng tỏ computer thông minh như người.

Turing dự đoán vào năm 2000, computer sẽ đánh lừa được 30% số giám khảo sau 5 phút trò chuyện. Với kết quả đó “người ta sẽ có thể nói về tư duy của máy móc mà không thấy bị mâu thuẫn”, ông nói.

Nhưng Thí nghiệm Turing năm 2000 không xẩy ra như Turing dự đoán. Năm 2008, trong thí nghiệm diễn ra tại Reading ở Anh, suýt nữa thì dự đoán của Turing trở thành sự thật – chỉ còn thiếu đúng một lá phiếu nữa thì chương trình máy tính đã đánh lừa được ban giám khảo. Nếu chương trình đánh lừa được ban giám khảo thì nó sẽ được trao một giải thưởng mang tên “The Most Human Computer” (Computer người nhất). Ngược lại, nếu phần thắng thuộc về người tham gia thí nghiệm thì người này sẽ được trao giải thưởng “The Most Human Human” (Người người nhất). Nếu có vài người cùng tham gia thí nghiệm thì người nào được nhiều phiếu nhất sẽ được trao phần thưởng đó.

Nhiều người đã đoạt giải “Người người nhất”, vì Thí nghiệm Turing được tiến hành từ những năm 1990, nhưng phải đợi mãi đến năm 2009 thì giải thưởng “Computer người nhất” mới lần đầu tiên được trao cho David Levy – một trong những tên tuổi lớn về lập trình cho cờ vua trong thập kỷ 1980, trước khi ra đời chương trình Deep Blue trong thập kỷ 1990.

Levy là người cổ vũ điên cuồng cho khoa học AI. Ông đã viết cuốn “Love and Sex with Robots” (Yêu và làm tình với robots) để trình bầy tư tưởng của mình. Không quá khó để hiểu được khái niệm “làm tình với robots” nhưng sẽ rất khó để hiểu được khái niệm “yêu robots”, nếu chữ “love” được hiểu như một tình yêu đích thực, chẳng hạn như tình yêu giữa Marius và Cosette trong “Những người khốn khổ” của Victor Hugo.

Tại sao Levy có tư tưởng thái quá như vậy? Có lẽ vì ông không hiểu bản chất đích thực của con người là gì. Nhưng tại sao lại trách Levy trong khi bỏ qua Turing?

b1-3-alan-turing1.jpg

(Ảnh: Blog Phạm Việt Hưng)

Turing là một thiên tài có số phận bi thảm: Ông bị kết án tù vì quan hệ đồng tính. Ra tù ông phẫn chí rồi tự tử. Nhưng nghịch lý lớn nhất trong đời ông có lẽ nằm ngay trong học thuật: ông là tác giả của bài toán “Sự cố dừng” (The halting problem), chỉ ra rằng computer có những hạn chế không thể vượt qua được, như một “khuyết tật bẩm sinh” của bất kỳ một hệ logic nào. Nhưng cũng chính Turing lại là người đề xuất tư tưởng coi computer như một cỗ máy vạn năng có thể thay thế con người.

Nghịch lý đó cũng chính là nghịch lý của nền văn minh kỹ trị: trong khi tư tưởng của Turing thúc đẩy khoa học computer phát triển không ngừng thì đồng thời nó cũng khuyến khích tinh thần sùng bái máy móc đến mức hạ thấp vai trò của con người, sùng bái tư duy hình thức đến mức hạ thấp tư duy cảm xúc, sùng bái giá trị vật chất đến mức hạ thấp các giá trị nhân văn… kết quả là đưa xã hội loài người đến trạng thái mất cân bằng và bị đe doạ bởi một thế giới đầy ắp những sản phẩm do chính con người tạo ra.

Nhưng khoan hãy kết tội một thiên tài.

Chẳng phải Turing đã tiên đoán chính xác rằng máy móc có thể thông minh như con người đó sao? Chẳng phải thí nghiệm Turing đã thành công đó sao?

Vâng, thiên tài của Turing là điều không thể chối cãi, nhưng Thí nghiệm Turing, thay vì làm cho những người sâu sắc sùng bái máy móc, họ đặt vấn đề hoàn toàn ngược lại – thí nghiệm ấy chỉ chứng tỏ sự ấu trĩ trong nhận thức về bản chất của trí thông minh:

Một, trí thông minh của con người tuy có giới hạn nhưng hình thức biểu lộ của nó lại vô hạn, do đó không thể kiểm chứng nó bằng một tập hợp giới hạn các câu hỏi, bất kể tập hợp đó rộng chừng nào. Bản thân việc đề xuất một thí nghiệm thử thách trí thông minh thông qua một tập hợp giới hạn các câu hỏi đã là một sai lầm ấu trĩ trong việc nhận thức khả năng biểu lộ của trí thông minh.

Hai, trí thông minh của con người hơn hẳn computer ở chỗ nó không chỉ nhận thức được những đối tượng đo được, mà còn nhận thức được những khái niệm không đo được, hoặc những khái niệm vô hình, vô ảnh, vô ngôn – không thể diễn tả được bằng bất cứ một thứ ngôn ngữ nào, mà chỉ có thể quán tưởng bằng chiêm nghiệm, trực giác, thậm chí bằng sự lặng thinh. Computer dựa trên nguyên lý số hoá và logic hình thức, không thể nhận thức cái không đo được và cái không tuân thủ logic hình thức. Turing là thiên tài trong việc khám phá những bí mật của logic hình thức nhưng xem ra ông không hiểu thấu những khái niệm tư duy trực giác, tư duy quán tưởng.

Tuy nhiên, có người lý sự rằng thực ra vẫn có thể số hoá những khái niệm vốn không thể đo được. Chẳng hạn, vẻ đẹp của phụ nữ đã được số hoá trong các cuộc thi hoa hậu đấy thôi. Từ đó computer có thể chứng minh người này đẹp hơn người kia, và rồi với cái kiểu số hoá như thế, sẽ đến lúc computer chứng minh được cái này đẹp hơn cái kia, cái này tốt hơn cái kia… Chẳng phải David Levy đã nghĩ đến chuyện số hoá tình yêu đó sao?

Liệu có thể số hoá tình yêu không?

Liệu có thể số hoá nghệ thuật không?

Liệu có thể số hoá mọi tri thức của con người không?

Liệu computer có thể thực sự thay thế con người không?

Liệu computer có thể có nhân tính không?

Câu chuyện Deep Blue đánh thắng vua cờ Kasparov sẽ đưa ra một câu trả lời thú vị. Trước khi tìm hiểu câu chuyện đó, cần biết rằng cờ vua không chỉ được coi là một môn thể thao trí tuệ, mà đã từng có một thời được coi là một lĩnh vực nghệ thuật bậc thầy “có tất cả mọi vẻ đẹp của nghệ thuật”.

Nhưng xin dành câu chuyện đó cho bài kỳ sau: “Môn thể thao trí tuệ có tất cả mọi vẻ đẹp của nghệ thuật”!

==========================

Chú thích:

[1] “Take care not to make the intellect to be our god; it has … powerful muscles but no personality” (Ideas that shaped our world, Marshall Editions, 1997)

[2] “The Most Human Human”, Brian Christian, Doubleday DD, New York, London, Toronto, Sydney, Auckland, 2011

Bài này được đăng bản gốc trên viethungpham.com. Đọc bản gốc ở đây.

Bài viết thể hiện quan điểm của tác giả, không nhất thiết phản ánh quan điểm của Đại Kỷ Nguyên.

pham-viet-hung.jpg

TÁC GIẢ: PHẠM VIỆT HƯNG

Email: bizet09@gmail.com

Giảng dạy: Từng giảng dạy các môn Toán Kinh tế; Cơ học Lý thuyết; Sức bền Vật liệu; Toán luyện thi đại học. Hiện thỉnh giảng Toán cao cấp tại một đại học ở VN.

Hoạt động báo chí với tư cách một freelance trên nhiều báo in và trên mạng:

  • Trang mạng Vietsciences: http://vietsciences.free.fr/
  • Tạp chí Khoa học & Tổ quốc của Hội Liên hiệp Khoa học & Kỹ thuật Việt Nam
  • Tạp chí Vật lý Ngày nay của Hội Vật lý VN
  • Khoa học & Đời sống của Hội Liên hiệp Khoa học & Kỹ thuật Việt Nam
  • Văn Nghệ của Hội nhà văn VN
  • Văn Nghệ Trẻ của Hội nhà văn VN
  • Tạp chí Tia Sáng của Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường

Hoạt động xuất bản Sách:

  • Tác giả cuốn “Những câu chuyện khoa học hiện đại”, NXB Trẻ xuất bản năm 2003
  • Đồng dịch giả cuốn “Định Lý Cuối Cùng của Fermat” (Fermat’s Last Theorem) của Simon Singh, NXB Trẻ năm 2004
  • Dịch giả cuốn “Phương Trình của Chúa” (God’s Equation) của Amir Aczel, NXB Trẻ 2004
  • Dịch giả cuốn “Từ Xác định đến Bất định” (From Certainty to Uncertainty) của David Peat, NXB Tri Thức 2011.
  • Cộng tác với Kỷ yếu “Đại học Humboldt 200 năm, Kinh nghiệm Giáo dục Thế giới & Việt Nam”, NXB Tri Thức, 2011. Bài “Nền khoa học và giáo dục Australia: Một kim tự tháp vững chắc”, Phạm Việt Hưng, trang 353.
  • Cộng tác với Kỷ yếu “Hạt Higgs và Mô hình Chuẩn, cuộc phiêu lưu kỳ thú của khoa học”, NXB Tri Thức, 2014. Bài “Câu chuyện ‘hạt của Chúa’ đã kết thúc?”, Phạm Việt Hưng, trang 265.

============================

Học giả Phạm Việt Hưng đã đặt lại vấn đề từ thời thượng cổ về vấn nạn: "Con người là gì? Nó từ đâu tới và sẽ đi về đâu?'. Sự phát triển của khoa học hiện đại về trí thông minh nhân tạo - càng ngày càng giống người - đã đặt lại vấn đề này. Nhưng phải xác định rằng bài của học giả Phạm Việt Hưng là bài tiếng Việt hay nhất đặt lại vấn đề này. Những đề tài của học giả Phạm Việt Hưng, có thể nói, đều có thể đưa vào topic "Lý học và khoa học" hiện đại để đối chiếu, so sánh, phân tích dưới góc nhìn của Lý học Việt. Rất tiếc tôi chưa có thời gian đi sâu phân tích và chứng minh bản chất "người" từ góc nhìn Lý học, vì nó không phải việc cần làm trong giai đoạn này của tôi với mục đích minh chứng Việt sử trải gần 5000 văn hiến. Nhưng tôi xác định rằng: Nền Lý học Đông phương đã giải quyết một cách rốt ráo vấn nạn này, nhân danh một lý thuyết thống nhất vũ trụ.

Tôi trình bày lại ở đây ba truyện khoa học giả tưởng của tôi liên quan đến trí tuệ nhân tạo và bản chất người:

Bài thứ #11; bài thứ #12 và bài thứ #18 của đường link này.

http://diendan.lyhocdongphuong.org.vn/bai-viet/272-nguoi-xua/

 

 

 

 

Thưa quý vị và anh chị em.

Câu chuyện khoa học viễn tưởng này tôi viết từ năm 1992 ở Bến Tre. Nội dung câu chuyện liên quan đến trí tuệ nhân tạo và vấn nạn con người là gì, mà bài viết của học giả Phạm Việt Hưng đã đề cập đến. Và sau này cả SW Hawking cũng phải đặt vấn đề: "Trí thông minh nhân tạo hủy diệt nền văn minh"?!. Ngài Hawking đã sai. Tôi sẽ chứng minh sai lầm của ngài SW Hawking, nếu viện Hàn Lâm khoa học Anh Quốc quan tâm.

Cảm ơn sự quan tâm của quý vị và anh chị em.

 

THÂN CHỦ TÔI KHÔNG GIẾT NGƯỜI

Nguyễn Vũ Tuấn Anh

 

Truyện khoa học giả tưởng

Hắn mở mắt ra, một thoáng cảm giác lạ xẹt qua người làm hắn nhớ lại: Đây không phải phòng riêng của hắn ở 27 đường Maxell mà là phòng giam. Một căn phòng hẹp téo, bề ngang chừng 2m5, dài cỡ 4m, đủ kê một cái giường cá nhân và một cái tủ con. Tường bê tông ba phía quét vôi xanh, cửa và mặt phòng giam quay ra hành lang làm bằng song sắt. "Rồi, ta bắt đầu một cuộc đời mới!". Hắn lẩm baẩm, đầu vẫn choáng váng vì rượu và quả đấm của Dream: "Cái thằng chết tiệt!". Mặc dù đã bị từ chối, vẫn năn nỉ đòi khiêu vũ với Mazda - người tình của hắn - khi nàng đã mệt đờ vì nhảy cả tiếng đồng hồ trước đó. Hắn đã cho Dream một bài học về phép lịch sự đối với phụ nữ, khiến cho nó không bao giờ có thể lặp lại hành đông bất nhã đó là lần thứ hai trong đời: một viên dạn vào giữa sọ làm thằng bợm đó chết ngay. Cảnh sát đã tống cổ hắn vào trại giam với cả lít Martell trong bụngナ. "Thế là hếtナ!" Nhưng hắn cũng chẳng còn kịp suy nghĩ gì hơn vì men rượu đã giúp hắn ngủ say đờ trên cái giường nệm mút cũ kỹ ở trong phòng giam nàyナ

Còn bây giờ thì hắn hối hận. Hình ảnh những người thân và những kỷ niệm bắt đầu hiện ra - những buổi vũ hội, những cuộc tắm biển và những đêm mùi mẫn bên người tìnhナ "Ôi! Mazdaナ". Nàng chẳng hơi đâu chờ đợi một kẻ giết người như hắn mà cái giá hữu nghị nhất là hai năm tù.

Bỗng một tiếng nói trầm trầm, đều đều vang lên từ cái haut - parleur đặt ở đầu hành lang làm đứt dòng suy nghĩ của hắn: "Giám thị trực! Đưa ngay phạm nhân VB - 018 - E lên phòng điều tra!". Hắn nhìn xuống ngực - số VB - 018 - E chính là hắn.

Có tiếng giày lộp cộp, một viên cảnh sát đi đến trước cửa phòng giam. Hắn xoay người đúng một góc chín mươi độ và đưa tay hướng về ổ khoá. Bộ điều khiển từ xa lắp trong bàn tay làm chiếc cửa tự động mở. "Một thằng "cớm sắt"!". Giới giang hồ rất sợ loại cớm này: võ nghệ tuyệt hảo, bắn súng như trong phim, bất kể kẻ nào chống lại hoặc cố ý chạy trốn đều nằm ngay đơ vì bị đánh trúng huyệt, hoặc ăn một viên đạn thuốc mê vào bả vai cứ y như là nó đã nằm sẵn ở đấy từ trướcナ

- Đứng dậy! Đi theo tôi.

Hắn đừng dậy và buớc ra. Đằng sau hắn, tay cớm lầm lũi đi theo. Hắn thấy ghê ghê ở trên gáy. "Biết đâu, do một sự trục trặc kỹ thuật nào đó mà tay "cớm" này có hành động bất thường và giết hắn?"ナ Những chuyên viên khoa học ở Bộ Nội vụ bảo đảm rằng: Không bao giờ có sự cố và tất cả những cảnh sát máy đều được theo dõi chặt chẽ bằng computer, chỉ cần một hành động khác thường nằm ngoài chương trrình, lập tức sẽ bị vô hiệu hoá bằng vô tuyến điều khiển từ xaナ "Mẹ kiếp! Cái xã hội loài người ở thiên niên kỷ thứ IV này, đã sống trong một môi trường nhân tạo hoàn toàn và bị lệ thuộc vào những bộ nhớ điện tử. Nếu bị một trục trặc gì đó, mọi thứ sẽ đi đứt, cuộc sống rối loạn và nhân loại sẽ trở lại thời kỳ đồ đá!". Hắn lẩm bẩm cầu xin Thượng đế toàn năng hãy ban phép lành cho những con virus điện tử ở trong các trung tâm siêu điện toán. Thế là xong! Mọi trung tâm điều khiển không còn hoạt động, những tội lỗi của hắn ghi trong bộ nhớ của các máy siêu điện toán sẽ được xoá sạch. Hắn sẽ quẹo phải, đi qua cổng trại giam về nhà và trở thành người lương thiện, còn tay "cớm sắt" lùi lũi đi sau lưng hắn sẽ quẹo sang tráiナ

Nhưng điều đó đã không xảy ra, vì hắn không phải là một nhân vật quan trọng đáng được Thượng đế chú ý, cho nên hắn vẫn phải bước vào phòng điều tra với tay "cớm sắt" đi sau lưng. Trong phòng điều tra không có một người nào. Hắn hiểu ngay: Người ta làm việc với hắn theo chương trình của những thủ tục pháp lý.

- Mời anh ngồi!

Hắn ngồi xuống chiếc ghế trước bàn làm việc như một cái máy, mặc dù haắn là một con người thật sự. Giọng nói đều đều, lạnh lùng tiếp tục vọng ra từ máy siêu điện toán:

- Anh sẽ được tiếp xúc với ngài luật sư Organ để biểu lộ sự đồng ý hay không đồng ý nhờ luật sự can thiệp cho vụ án của anh ! Xin mời ngài Organ Yamaha!

Cánh cửa tự động mở ra. Một người đứng tuổi, dong dỏng cao, khuôn mặt sáng sủa dễ mến, cắp chiếc cặp bước vào trong phòng. Ông nhã nhặn bắt tay hắn và ngồi xuống ghế đối diện:

- Anh là Sonyl - Pho?

- Thưa ông, vâng!

- Tôi là luật sư tiến sĩ Organ Yamaha, được gia đình anh đề nghị bào chữa cho anh trong vụ án Dream, anh có quyền từ chối hoặc chấp nhận sự bào chữa của tôi theo luật định!

Vừa nói ông vừa lấy trong túi áo vét một cái thẻ luật sự đưa cho hắn.

- Tôi đồng ý! Hoàn toàn đồng ý! - Hắn nói một cách vội vã, nét mặt tỏ ra sung sướng - Được một người như ông giúp đỡ, chắc chắn tôi sẽ có một mức án hữu nghị!

- Được rồi! - Luật sư Organ gật đầu tỏ vẻ hài lòng. - Bây giờ anh hãy trả lời một số câu hỏi của tôi: Anh thừa nhận có bắn vào Dream?

- Đúng thế thưa ông! Nhưng lúc đó tôi say rượu, tôi đã uống cạn cả lít Martell, không tin ông có thể hỏi thằng bồi, tôi không cố sát!

- Anh bắn vào nó trong trường hợp nào?

- Nó đánh tôi một cú rất mạnh vào đầu - Hắn chỉ lên trán - Đây ông coi, nó còn sưng chù vù lên đây này!

Luật sư gật đầu, nhìn lên cái trán có một cục lồi tím xanh, tỏ vẻ thông cảm:

- Nhân chứng cho biết hai người có xô xát!

- Đúng vậy thưa ông! Vì nó xúc phạm đến người yêu của tôi, tôi cản trở, nó còn mắng tôi là: Đồ lợn ích kỷ. Thế là tôi choảng nó!

- Dream đánh anh nhiều không?

- Mới chỉ một cú vào đầu nhưng rất mạnh, khiến tôi bật ngửa. Tôi phải bắn hắn vì nếu để một cú thứ hai chắc tôi không sống nổi!

Luật sư Organ nheo nheo mắt nhìn hắn:

- Trường hợp này tôi khuyên anh nên thừa nhận mọi hành động gây án để hoàn tất hồ sơ và được ra toà một cách nhanh chóng. Tôi sẽ giúp anh có thể được trắng án!

- Trắng án? Hắn trố mắt ngạc nhiên.

Luật sư Organ gật đầu với một nụ cười bí hiểm đầy vẻ tự tin:

- Cảm ơn sự cộng tác của anh.

Ông đứng dậy, bắt tay hắn rồi lặng lẽ ra về.

* *

*

Toà đại hình xử vụ giết người được mở tại toà án tiểu bang Atlantic. Thực ra với một án giết người do say rượu và sĩ diện với gái cũng chẳng có gì đáng chú ý, nhưng vì là một vụ đại hình nên số người tham dự cũng khá đông đảo. Trong khi chờ đợi đến giờ xử án, họ bàn tán đủ mọi chuyện trên đời: từ chuyện bế tắc trong việc tìm một giá trị hối đoái tiền tệ, để có thể liên kết về mặt kinh tế với người ngoài hành tinh; cho đến chuyện đã có một loại vải thông minh, có khả năng thay đổi màu sắc và độ dày mỏng theo ý muốn, được tung vào thị trường để phục vụ các quí bà, quí cô ナ Bỗng tiếng chuông reo vang và ánh sáng trong phòng xử án đổi sang màu lá mạ khiến cho mọi người chú ý. Tiếng ồn ào bớt đi hẳn vì những câu chuyện phiếm được ngưng lại. Phiên toà sắp bắt đầu.

Các quan chức của phiên toà trịnh trọng với bộ lễ phục, lục tục bước vào vị trí của mình trong phòng xử án. Sau những nghi thức được tiến hành cho có lệ, phạm nhân được dẫn ra trước vành móng ngựa. Chỉ mới có ba ngày trong tù, khuôn mặt của Sony - Pho trông đã tiều tuỵ hốc hác, hắn bước đi như người mộng du. Các nhân chứng làm lễ tuyên thệ rồi thuật lại những gì họ đã chứng kiến. Tất cả đều chống lại Sonyl. Hắn hồi hộp chờ đợi bản cáo trạng.

Ngài đại diện Công tố viện, một người đàn ông trạc tứ tuần, mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao bọc lấy một dáng người đẫy đà. Với vẻ mặt lạnh lùng nghiêm nghị, ông lấy từ trong chiếc cặp da đen một cái đĩa nhỏ màu bạc, cho vào ngăn xử lý của máy siêu điện toán được gắn vào bàn làm việc. Ông nhấn nút, ra lệnh cho máy hoạt động. Một giọng đều đều lạnh lùng vang ra từ trong máy đọc bản cáo trạng: Tất cả mọi hành động của Sonyl được phân tích một cách rất chi tiết với những điều luật liên quan. Hắn chẳng hiểu chiếc máy nói gì với những danh từ chuyên môn của ngành tư pháp - ở cái thiên niên kỷ này, mọi lĩnh vực đều được chuyên môn hoá rất sâu, mỗi người chỉ có khả năng hiểu biết trong lĩnh vực của mình. Nhưng mặt hắn từ từ chuyển sang màu tái mét, những hình ảnh trước mắt hắn quay tròn và cảm giác có một vật gì đó đè nặng lên tim, khiến cho hắn phải nắm chặt lấy cái vành móng ngựa. Bản cáo trạng với sự tính toán chính xác của máy siêu điện toán vừa đưa ra đề nghị dành cho hắn mức án: bốn mươi năm tù.

Ông chánh án chống tay lên cằm ra vẻ suy nghĩ và tập trung tư tưởng nghe máy siêu điện toán đọc cáo trạng. Sự có mặt của ông ở phiên toà chỉ có ý nghĩa nghi thức, tất cả phần việc dánh cho ông đều do máy siêu điện toán làm việc, quyền hành thật sự của ông ở trong phòng nghị án. Cho nên, ông đã lợi dụng ánh sáng lóe phản chiếu từ mắt kiếng để tranh thủ ngủ. Tối hôm qua, ông đã đi nhảy đầm đến sáng với người bạn tình cũ, hơn mười năm nay mới gặp lại. Ông bồi thẩm biết điều đó, nên khi bản cáo trạng vừa dứt, liền đá nhẹ vào chân chánh án. Chánh án uể oải nhấn nút máy siêu điện toán. Một giọng trầm oai vệ thốt lên:

- Xin mời ngài luật sư Organ Yamaha.

Danh vị luật sư được nhắc đến như một dòng điện kích thích thần kinh khiến cho Sonyl - Pho tỉnh lại. Hắn ngước mặt về phía ông với cái nhìn van lơn, cầu cứu.

Luật sư bước hẳn ra khỏi chỗ ngồi, ông nói với một giọng từ tốn:

- Thưa quí toà! Vì những luận cứ để bào chữa của tôi không thể lập chương trình cho máy điện toán, cho nên căn cứ vào điều 432A, chương 27 của Luật Xử án, tôi xin phép được bào chữa bằng chính khả năng cá nhân!

Tiếng xì xào nổi lên trong phòng xử án. Đề nghị của luật sư làm họ ngạc nhiên. Ở thiên niên kỷ thứ IV này, một con người làm việc không cần đến sự hỗ trợ của máy siêu điện toán là điều không thể hiểu nổi. Ngài đại diện Công tố viện mỉm cười với ý nghĩ hài hước: "Có lẽ ông ta muốn thân chủ của mình hưởng nguyên xi mức án hoặc tù thêm".

- Thưa quí toà! - Luật sư nói tiếp - Tôi xin phép được trình bày đoạn phim tư liệu có liên quan đến đời tư của nạn nhân - Ông Dream - Makeno - trước khi tiến hành bào chữa cho bị can.

- Tôi phản đối! - Ngài đại diện Công tô viện cau mặt - Công bố đời tư của một người không được sự đồng ý của họ là sai luật.

-Thưa quí toà! Đây chỉ là đoạn phim của giai đoạn bệnh án của ông Dream, có liên quan đến những yếu tố luật pháp và là chứng cứ cho những lời bào chữa của tôi.

- Toà án đồng ý - Chánh án phát biểu và che miệng ngáp. Ông chẳng muốn mất thì giờ vì tụi luật sư nói giai như đỉa này.

Luật sư Organ lấy từ trong cặp một cái đĩa nhỏ màu bạc đưa cho thư ký Toà án. Ông này cho vào ngăn xử lý của máy siêu điện toán. Lập tức sáu màn hình 150 inch được bố trí xung quanh phòng xử án, cùng lúc hiện lên những hình ảnh về những biến cố trong đời của Dream - Makeno:

Trên màn hình là cảnh dòng sông Danube chảy quanh co dưới những hàng thuỳ dương thơ mộng. Bên sông có một cái cối xay gió đứng im bất động, như suy tư cho những sự thăng trầm của cuộc đời. Đó là một di tích cổ được phục chế lại để nhắc nhở nền văn minh cổ xưa của loài người. Dream - Makeno đã sinh ra ở đây vào tháng 7 năm 3267.

Hình ảnh thơ mộng biến mất, thay vào đó là một thanh niên nằm quằn quại vì bị một chiếc xe hơi chạy bằng nệm không khí lướt qua đôi chân, khi anh ta té sấp xuống mặt đường. Mạch máu bể nát, xương ống chân nứt như mai rùa. Sự cố được ghi nhận vào tháng 2 năm 3289, lúc này Dream 22 tuổi. Anh ta được đưa vào bệnh viện thay bằng hai chân máy. Anh được xuất viện vào tháng 6 năm 3289 với tình trạng sức khoẻ tốt.

Tháng 10 năm 3296, Dream - Makeno tốt nghiệp đại học Oxford. Nhưng ngay sau lễ tốt nghiệp, trên đường về nhà, do một tai nạn xe hơi, Dream bị phỏng nặng. Màn hình chiếu cảnh một người bị cháy phừng phừng đang cố chui qua cửa kính xe hơi một cách tuyệt vọng. Bệnh nhân được đưa vào bệnh viện. Một ca giải phẫu tuyệt vời tiến hành dưới sự chỉ đạo của giáo sư Niq Vidi đã tách não và tim - hai bộ phận tự nhiên duy nhất còn hoạt động của bệnh nhân - vào một cơ thể nhân tạo giống hệt Dream về ngoại hình. Những hình ảnh sinh động của cuộc giải phẫu, được quay rất chi tiết và nó trở thành một bộ phim tư liệu nổi tiếng của ngành giải phẫu. Bệnh nhân xuất viện ngày 29 tháng 12 năm 3296 với một cơ thể yếu, không được hoạt động mạnh. Ra viện, bệnh nhân tiếp tục theo học chương trình cao học kỹ thuật tại Đai học Oxford. Lúc này Dream 29 tuổi.

Trên màn hình hiện lên cảnh mùa đông dưới chân dãy núi Alpes. Một màu trắng êm ái của tuyết phủ dày mặt đất, trên đó, đoàn người mặc quần áo thể thao, đầu đội mũ bảo hiểm đang chơi trượt tuyết. Họ đang bay từ độ cao 4m xuống và lướt đi trên mặt đất. Nhưng có một người vừa rơi xuống thì lăn đi vài vòng rồi giãy giụa. Đó là những hình ảnh được tái tạo trong phim tư liệu về tai nạn xảy ra cho Dream. Anh bị đứt mạch máu nối từ tim lên não, do chấn động khi rơi từ trên cao. Não tự nhiên của anh không còn khả năng phục hồi chức năng hoạt động. Người ta đưa não của anh vào phòng xử lý, mã hoá toàn bộ ký ức và chuyển sang bộ nhớ của óc điện tử. Bộ nhớ này hoạt động trên cơ sở những ký ức đã có của Dream và là một sự tiếp tục của những ký ức đó. Não nhân tạo được thay thế cho não tự nhiên trong cơ thể Dream. Trái tim được loại bỏ, vì không còn thích hợp cho một cơ thể nhân tạo và được thay bằng hộp năng lượng nguyên tử. Sự kiện xảy ra vào ngày 28 tháng 11 năm 3298. Hội đồng y học quốc tế coi việc thay thế não tự nhiên bằng não nhân tạo là thành tựu cuối cùng của ngành giải phẫu.

Hình ảnh Dream - Makeno tươi cười nhận văn bằng tiến sĩ kỹ thuật vào năm 3301, chứng tỏ cuộc giải phẫu hoàn hảo, não nhân tạo vẫn hoạt động tốtナ

Luật sư Organ ra hiệu tắt máy. Ông phát biểu:

- Thưa quí toà! Những hành động của Sonyl, tôi không có gì để bào chữa. Nhưng điểm quan trọng ở đây là: Dream thật sự đã chết vì tai nạn ngày 28 tháng 11 năm 3298 dưới chân dãy núi Alpes. Sự thay thế não, bộ phận tự nhiên cuối cùng trong cơ thể Dream bằng óc điện tử, chỉ là sự tái tạo hình ảnh của một con người thật sự đã chết bằng một người máy. Trong bộ luật về Người Máy đã định danh: "Người máy là sản phẩm do con người tạo ra bằng công cụ lao động, được mô phỏng theo hình thức và nội dung giống con người. Thưa quí toà! Trong Dream có cái gì không phải là sản phẩm của con người? Không có gì cả!.

Ông hăng hái nói tiếp:

- Điều 47B thuộc chương II của bộ luật này đã qui định: "Con người được quyền huỷ diệt hoặc vô hiệu hoá người máy, khi người máy có hành vi chống lại con người". Dream đã tấn công Sonyl bằng sức mạnh cơ khí của anh ta và dấu vết còn để lại ngay trên khuôn mặt, mà tất cả những ai tham dự trong phiên toà này đều nhìn thấy. Thưa quí toà! Căn cứ vào những điều luật về quyền con người đối với người máy, thân chủ tôi hoàn toàn vô tội.

Phát hiện độc đáo của Organ khiến mọi người sửng sốt. Có những tiếng vỗ tay nổi lên hoan hô ông. Những người tham dự quan toà xì xào làm cường độ âm thanh vượt quá giới hạn cho phép, máy điện toán tự động rung chuông và yêu cầu im lặng.

Ngài đại diện Công tố viện đứng dậy bước ra khỏi chỗ ngồi và nói với một giọng điềm tĩnh:

- Ngài luật sư đã viện dẫn phần định danh về người máy một cách thiếu sót, vì còn một đoạn văn bản sau đây cho phần này: "Người máy hoạt động được, bởi sự điều khiển trực tiếp hay gián tiếp của con người thông qua chương trình đã được ghi trong bộ nhớ điện tử"! Thưa quí toà! Dream không hề bị điều khiển bởi bất cứ một con người nào trên hành tinh này, ngoại trừ sự diễn biến tư duy của anh ta. Hơn nữa về mặt luật pháp, Dream chưa hề có sự công nhận đã chết của một hội đồng giám định y khoa. Việc thay thế những bộ phận tự nhiên bằng bộ phận nhân tạo đã được thực hiện từ lâu trong lịch sử loài người, để đảm bảo sự sống tiếp tục của một con người là việc làm nhân đạo. Đối với Dream, khi não - bộ phận tự nhiên cuối cùng - được thay thế, anh ta đã sống với tất cả sự hiểu biết của bản thân anh ta. Môi trường gia đình và xã hội vẫn chấp nhận Dream như một con người thật sự. - Ngài đại diện Công tố viện nói mỗi lúc càng hăng hái; ông vung tay chặt xuống không khí với vẻ mặt phẫn nộ - Việc giết Dream phải được coi như một hành động giết người. Thưa quí toà! Ngay ở đây, quí vị có thể chứng kiến sự đau khổ tận cùng của một người mẹ mất con - Giọng ông trầm xuống với một nét mặt tỏ ra thương cảm, ông đưa tay chỉ hàng ghế dành cho thân nhân của Dream. Ở đấy có hai người đàn bà đang ôm mặt khóc nức nở, đó là mẹ và em gái Dream. - Phải chăng đây là tình cảm dành cho người máy? Nạn nhân chỉ thật sự được coi là đã chết bởi bàn tay của kẻ đang đứng ở kia, sau vành móng ngựa.

Luật sư Organ vội vã bước tới trước mặt mẹ và em gái của Dream. Ông nghiêng mình, nói với một vẻ mặt thông cảm:

- Tôi xin trân trọng bày tỏ sự chia buồn cùng bà và cô, vì đã mất đi hình ảnh sinh động của một người con trong gia đình.

Nói xong, ông cúi chào rồi quay lại phía quan toà:

- Thưa quí toà! Không ai có thể không xúc động trước những đau khổ của đồng loại, nếu tỏ ra là người có lương tâm. Tình cảm đối với Dream - người máy trong gia đình và cả trong xã hội - chỉ là một sự liên hệ tiếp tục với ký ức về một con người đã sống. Dream - người máy bị phá huỷ đã làm mất đi hình ảnh sống động liên hệ với kỷ niệm, tạo nên một cảm giác đau khổ vì mất mát thật sự. Nhưng không phải vì thế mà Dream - người máy phải được coi như là một con người. Đó là ý tưởng không nhân bản. Thưa quí toà! - Luật sư Organ nói một cách hăng hái - Chúng ta cũng không thể vì những thiếu sót có tính hành chính ở một bệnh viện mà đi đến kết luận về sự tồn tại của con người về mặt pháp lý. Ở Dream, người máy rõ ràng không có những giá trị sinh học của con người. Điều dễ nhận thấy ở đây là: anh ta không có tuổi sinh học như con người và bất tử cho đến ngày tận thế! - Nói đến đây ông ngừng lời nhìn phía những người dự phiên toà - Đối với con người đích thực - Ông nói tiếp - Tuy chưa có một sự định danh rõ ràng cho nó, nhưng ý niệm về con người vẫn hình thành bởi mối tương quan với đồng loại. Dream - người máy không phải là đối tượng nghiên cứu của mọi khoa học nhân văn. Nếu coi hành động của Sonyl là hành động của một kẻ giết người thì đó cũng là lúc người ta đã giết chết những ý niệm đích thực về con người.

Luật sư Organ dang rộng hai tay với vẻ mặt thất vọng và tiếc nuối:

- Ôi! Nhân loại sẽ đi về đâu, nếu người ta thừa nhận Dream - người máy, là một con người?

- Tôi phản đối - Ngài đại diện Công tố viện hầm hầm tức giận - Ông luật sư đã đưa ra những lời lẽ có tính ám chỉ đả kích cá nhân, chứ không phải tranh biện trên cơ sở luật pháp để làm sáng tỏ công lý.

- Tôi đang tranh luận với ngài đại diện Công tố viện tại toà án để làm sáng tỏ vụ án, chứ không phải hân hạnh tiếp kiến cá nhân ngài George - Malem.

- Rất tiếc, nếu nạn nhân không bị bắn chết bởi thân chủ của ông, chắc chắn anh ấy sẽ chứng minh với ông: anh ấy là con người thật sự.

- Điều may mắn cho ông là linh hồn con người chết không hiện về để báo cho ông biết: Anh ta đã thật sự chết trong cuộc trượt tuyết dười chân núi Alpes.

Tiếng chuông reo cảnh cáo những biểu hiện lệch hướng trong tranh luận. Máy siêu điện toán đã nhận được những tín hiệu âm thanh dồn dập.

Ngài đại diện Công tố viện quay về phía ông chánh án - với nét mặt bực bội - giành quyền phát biểu:

- Thưa quí toà! Con người không phải chỉ thay đổi những bộ phận tự nhiên trong cơ thể bằng những bộ phận nhân tạo, mà nó đã thay đổi luôn môi trường thiên nhiên đã sinh ra nó bằng một môi trường nhân tạo. Và đó là biểu hiện của sự tiến hoá của nền văn minh nhân loại. Phải chăng sống trong một môi trường nhân tạo, con người đã huỷ diệt mình? Sự tồn tại của Dream sau giải phẫu và thay thế bằng óc điện tử, chính là một thành tựu khoa học vĩ đại - cũng giống như con người đã tạo ra một môi trường của mình - ở đấy không phải sự sống kết thúc mà là tiếp tục phát triển dưới dạng khác. Nền văn minh của nhân loại sẽ đi về đâu, nếu không goi hành động của bị cáo là một hành động giết người - Vừa nói ông vừa ngẩng cao đầu nhìn mênh mang lên trần.

Luật sư Organ đưa tay lên xoa xoa cằm, đầu hơi cúi nhìn xuống đất, phải chăng ông đã tìm thấy ở nơi cát bụi - cõi cội nguồn và sự kết thúc của con người - một ý niệm đích thực về con người? Lúc này trông ông có dáng trầm ngâm của một triết gia. Bất ngờ, ông quay người về phía toà án, giơ tay như muốn nói ナ

Bỗng một tiếng nói trầm trầm hoà vào tiếng chuông reo vang: "Toà tạm nghỉ để nghị án."

Tiếng ồn ào lập tức nổi lên, những người tham dự phiên toà tiếp tục cuộc tranh luận của luật sư và vị đại diện Công tố. Trong phía ý kiến ủng hộ Công tố viện có mẹ của Dream. Bà cảm nhận đứa con bà chỉ thật sự chết bởi viên đạn oan nghiệt của Sonyl. Bà sụt sùi khóc vì người ta nhắc tới con bà.

- Thưa bà! Mong bà hãy bớt phiền não, người ta có thể làm sống lại con bà bằng cách chế tạo lại một bộ óc điện tử khác với những dữ kiện ký ức của Dream còn lưu trữ trong máy siêu điện toán. Anh ấy sẽ trở về với tất cả tình cảm nồng hậu như xưa đối với bà! Một ông béo phị, hói trán, ngồi bên cạnh mẹ Dream - mà người ta nhận ra là ông chủ tiệm gà rán Hamberger ở đường Don Juan - đã an ủi bà. Cô Simili, em gái của Dream, lắc đầu buồn bã:

- Nhưng lúc đó anh tôi sẽ thật sự là một người máy. Đâu còn như anh Dream trước đây là sự sống tiếp nối của anh ấy! Nói xong, cô ôm mặt khóc nức nở. Ông chủ tiệm gà rán lắc cái đầu hói tỏ vẻ bất lực.

Trong số những người ủng hộ luật sư Organ, những người có tín ngưỡng đã đưa ra lập luận dựa trên giáo lý: "Thượng đế đã sinh ra con người, nhưng trong cơ thể của Dream không có cái gì thuộc về Thượng đế. Dream phải là người máy". Một số người mộ đạo vội làm dấu thánh khi nghe nhắc đến danh vị Thượng đế. Có người lầm rầm: "Cầu xin Thượng đế toàn năng hãy tha tội. Thế gian này có cái gì nằm ngoài quyền năng của Ngài. Dream đã tồn tại trong hình ảnh của một con người, đó chính là ý muốn của Đấng Tối cao. Coi Dream như là một người máy chính là họ xúc phạm đến quyền năng của Ngài!".

Cuộc tranh luận chắc chắn sẽ còn kéo dài, nếu không có tiếng chuông báo hiệu cuộc xử án tiếp tục. Mọi người đứng dậy hồi hộp nghe quan toà đọc bản án:

- Sau khi căn cứ vào các điều khoản luật pháp, căn cứ vào cáo trang của Công tố viện và những chứng cứ với sự thú nhận của bị can. Toà đã buộc tội bị can Sonyl - Pho, sinh năm 3267, ngụ tại số 27, đường Maxell thuộc tiểu bang Atlantic, bị pháp luật trừng phạt một năm tù giam vì tội danh: say rượu, sử dụng vũ khí phá rối trật tự nơi công cộng.

Những người tham dự phiên toà cùng "ồ" lên ngạc nhiên. Chính Sonyl cũng buột miệng thốt lên câu nói cuối cùng trước toà:

- Vậy còn tội giết Dream thì sao?

* *

*

 

Luật sư Organ rít thêm một hơi thuốc dài rồi dụi thuốc vào cái gạt tàn. Ông cầm tờ tin "Thế giới hôm nay" rồi ngả người trên ghế xích đu. Tờ báo được giở ra, ngay đầu trang hai, một hàng tít lớn chạy suốt tám cột báo với những chữ: "SỰ TIẾN BỘ CỦA KHOA HỌC KỸ THUẬT: CON NGƯỜI ĐÃ BIẾN MẤT HAY TIẾP TỤC PHÁT TRIỂN?" Bài báo tường thuật lại phiên toà ngày hôm qua - mà chính ông là một thành viên quan trọng - như một hiện tượng xã hội để bình luận về vấn đề con người. Thay cho lời kết luận, tác giả bài báo đưa ra câu trả lời phỏng vấn của ông chánh án khi được hỏi: "Phải chăng ngài đã bất lực khi xử vụ án này?". "Vụ án này đã đụng phải vấn đề mà nhân loại tìm kiếm: Con người là gì? Hay nói một cách chính xác hơn: Sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật đã đặt lại vấn đề này. Tôi không thể lấy sự phán quyết của toà án để đặt ra một chuẩn mực xã hội!".

"Còn lâu mới có một chuẩn mực xã hội cho nó!" Luật sư Organ lẩm bẩm. Bỗng có tiếng động nhẹ, bà Organ đến bên cạnh ông, nét mặt tỏ ra bực bội một cách dễ mến:

- Thần kinh của ông đã bị suy nhược vì làm việc căng thẳng quá độ rồi đấy. Tôi thấy ông cần phải bồi dưỡng và nghỉ ngơi cho khoẻ!

Nói xong, bà đặt lên bàn bên cạnh ông một ly sữa hột gà và hai cục pin điện tử.

Luật sư Organ hững hờ lấy ly sữa nhấp một ngụm rồi đặt xuống bàn. Sau đó, ông đưa tay lấy hai cục pin rồi từ tốn vén mớ tóc loà xoà sau gáy - ông ấn hai cục pin vào một cái khe nhỏ ở đó. Ông làm việc ấy như một thói quen, hai mắt vẫn không rời khỏi tờ báo.

Bến Tre 1992

.

 

3 people like this

Share this post


Link to post
Share on other sites

 

​Phát hiện sóng hấp dẫn, thành tựu làm thay đổi khoa học

11/02/2016 23:07 GMT+7
 

TTO - Ngày 11-2, các nhà khoa học quốc tế khẳng định đã phát hiện thấy sóng hấp dẫn do thiên tài vật lý Albert Einstein tiên đoán một thế kỷ trước đây.

 

songhapdan-jpg-1455206751.jpg

Ông Roni Gross, giám đốc Thư viện Albert Einstein thuộc ĐH Hebrew ở Israel giới thiệu các tài liệu của Einstein về sóng hấp dẫn do ông tiên đoán 100 năm trước - Ảnh: Reuters

 

Trong cuộc họp báo được truyền hình trực tiếp trên mạng Internet từ Washington DC (Mỹ), các nhà khoa học thuộc Viện Công nghệ California (CIT), Viện Công nghệ Massachusetts (MIT) và tổ chức khoa học LIGO Scientific Collaboration cho biết đã phát hiện ra sóng hấp dẫn vào ngày 12-8-2015.

Sóng hấp dẫn này xuất phát từ hai lỗ đen va chạm vào nhau. Hai lỗ đen này có khối lượng lớn gấp 30 lần mặt trời, nằm ở vị trí cách trái đất khoảng 1,3 tỷ năm ánh sáng. Các nhà khoa học bắt được sóng hấp dẫn nhờ hai thiết bị dò laser khổng lồ ở Mỹ, một tại Louisiana và một ở Washington.

 

Nghe tiếng hai lỗ đen đụng nhau

Sóng hấp dẫn là các gợn sóng trong không - thời gian, lan tỏa trong vũ trụ với tốc độ ánh sáng, được nhà bác học Einstein tiên đoán 100 năm trước. Các nhà thiên văn học đã khổ công “săn lùng” sóng hấp dẫn trong nhiều thập kỷ qua. Bởi sóng hấp dẫn là vấn đề cuối cùng của thuyết tương đối rộng chưa được kiểm chứng.

Hai thiết bị laser có tên Đài quan sát sóng hấp dẫn giao thoa kế laser (LIGO) có khả năng đo được những dao dộng cực nhỏ từ sóng hấp dẫn. Sau khi phát hiện tín hiệu sóng hấp dẫn, các nhà khoa học đã chuyển đổi chúng thành sóng radio. Nhờ đó, họ nghe được tiếng hai lỗ đen va chạm vào nhau và nhập lại làm một.

“Chúng tôi thực sự nghe tiếng chúng đụng vào nhau trong đêm - nhà vật lý MIT Matthew Evans mô tả - Chúng tôi nhận được tín hiệu bắn tới trái đất, chúng tôi đưa nó vào loa và nghe thấy tiếng hai lỗ đen đụng nhau”.

AFP dẫn lời nhà khoa học MIT David Shoemaker, người đứng đầu dự án LIGO, cho biết sau nhiều tuần lễ thu được tín hiệu sóng hấp dẫn, nhóm nghiên cứu mới đủ tự tin khẳng định đó chính là sóng hấp dẫn. Và họ thực hiện hàng loạt cuộc kiểm tra để xác định khám phá này.

Các nhà khoa học cho biết việc phát hiện sóng hấp dẫn sẽ mở cánh cửa mới để quan sát vũ trụ và tìm hiểu về các vật thể bí ẩn như lỗ đen và sao neutron. Thông qua nghiên cứu sóng hấp dẫn, các nhà khoa học cũng sẽ có thể thấu hiểu được bản chất của vũ trụ thời kỳ mới khai sinh sau Vụ nổ lớn (Big Bang).

 

Cánh cửa quan sát vũ trụ

Tất cả những gì chúng ta biết về vũ trụ hiện nay đến từ các sóng điện từ như sóng radio, ánh sáng, hồng ngoại, tia X và tia gramma. Tuy nhiên các sóng này khi di chuyển trong vũ trụ chịu nhiều tác động, do đó chỉ tiết lộ cho con người một phần bức tranh vũ trụ.

Ngược lại, sóng hấp dẫn không vấp phải bất cứ cản trở nào, do đó mang theo nguồn thông tin phong phú. Ví dụ, lỗ đen không phát ra ánh sáng hay sóng radio vì có lực hấp dẫn quá lớn. Nhưng các nhà khoa học giờ có thể nghiên cứu lỗ đen qua sóng hấp dẫn.

Như vậy, việc phát hiện ra sóng hấp dẫn trên thực tế cũng đã khẳng định sự tồn tại của lỗ đen, vật thể bí ẩn nhất trong vũ trụ. Lỗ đen được hình thành sau khi những ngôi sao khổng lồ nổ tung. Ở trung tâm các thiên hà luôn tồn tại những lỗ đen siêu khổng lồ với trọng lượng lớn gấp mặt trời hàng triệu, thậm chí hàng tỷ lần.

Giới khoa học quốc tế tỏ ra vô cùng hào hứng với phát hiện mang tính cột mốc này. “Phát hiện này mở ra cửa sổ mới để quan sát vũ trụ” - Reuters dẫn lời chuyên gia Abhay Ashtekar, giám đốc Viện Lực hấp dẫn và vũ trụ thuộc ĐH Penn State (Mỹ).

Nhà vật lý Saul Teukolsky của ĐH Cornell đánh giá phát hiện sóng hấp dẫn là một trong những khám phá khoa học vĩ đại nhất trong vòng 50 năm qua. Giới chuyên gia dự báo nhiều khả năng phát hiện sóng hấp dẫn sẽ sớm giành giải Nobel Vật lý trong năm nay.

 
HIẾU TRUNG
Tin liên quan

============================

Nhân danh nền Lý học Đông phương có cội nguồn từ văn hiến Việt với lịch sử gần 5000 năm, một thời huy hoàng ở miền nam sông Dương tử, Thiên Sứ tôi chúc mừng thành tựu mới nhất của nền khoa học hiện đại. Chính những tiến bộ trong những phát hiện này, sẽ làm cho những tri thức của nền khoa học hiện đại hiểu sâu hơn về ngành Phong Thủy Lạc Việt. Ngành này ứng dụng sóng hấp dẫn từ hàng chục thiên niên kỷ trước và xác định những quy luật tương tác trong phong thủy.

Nếu quả là Einstein đã tiên đoán trước 100 năm cho sự tồn tại của sóng hấp dẫn trong vũ trụ, thì lão Gàn - nhân danh nền văn hiến Việt - tiên đoán cho 500 năm sau, rằng: nền khoa học của tương lai sẽ tìm ra sóng hấp dẫn ở tất cả các vật thể từ hạt vật chất nhỏ nhất cho đến thiên hà khổng lồ. Và lão Gàn cũng cần xác định rằng: Chính những sóng hấp dẫn này là yếu tố tương tác của các vật thể từ nhỏ nhất đến những thiên hà khổng lồ. Đây là sự tương tác hoàn toàn có tính quy luật và tạo ra khả năng tiên tri. Nó đã được ứng dụng trong ngành Địa Lý Lạc Việt để phục vụ cho cuộc sống của con người từ hơn 6000 năm trước ở Nam Dương tử (Xem bài "Mộ Rồng").

Xin cảm ơn vì đã quan tâm.

 

 

 

 

Một lần nữa, mô hình mô tả sự vận động của hai hố đen tạo ra sóng hấp dẫn lại, chính là mô hình vòng xoáy huyền vĩ của hình Âm Dương Lạc Việt - có trong tất cả các nền văn minh cổ đại và phổ biến nhất trong di sản văn hóa truyền thống Việt. Bởi vậy, tôi xác định một lần nữa rằng: nền văn hiến Việt đã chứa đựng tất cả bí mật huyền vĩ của vũ trụ.

Quý vị và anh chị em có thể tham khảo bài viết được diễn tả dưới đây:

 

Bắt được tín hiệu của sóng hấp dẫn, kết thúc 100 năm tìm kiếm lời tiên tri của Einstein

Quan sát được sóng hấp dẫn sẽ mở ra một kỷ nguyên hoàn toàn mới trong thiên văn học.

Một nhà toán học vừa công bố phát minh chưa từng có: Tạo ra được lực hấp dẫn

So sánh lực hấp dẫn của các hành tinh trong Hệ Mặt Trời

 

Cuộc họp báo của Đài quan trắc Sóng hấp dẫn bằng giao thoa kế laser (LIGO) tại Hoa Kỳ vừa kết thúc. Đây là thời điểm chúng ta xác nhận sóng hấp dẫn chắc chắn đã được quan sát dưới góc độ tiếp xúc vật lý trực tiếp. Đúng 100 năm tìm kiếm “chiếc chìa khóa” quan trọng của vũ trụ đã kết thúc. Nó bắt đầu khi nhà khoa học đại tài Albert Einstein dự đoán sóng hấp dẫn tồn tại lần đầu tiên, từ năm 1916 trong thuyết Tương đối rộng.

Thưa quý vị, chúng tôi đã dò ra sóng hấp dẫn. Chúng tôi thực sự đã làm được”, David Reitze, Giám đốc điều hành Phòng thí nghiệm LIGO tại Viện công nghệ California, cho biết trong cuộc họp báo.

 

bat-duoc-tin-hieu-cua-song-hap-dan-ket-t

Mô phỏng sóng hấp dẫn mà các nhà khoa học tại LIGO quan sát được

 

Tại thời điểm sự kiện diễn ra, nhà vật lý nổi tiếng Stephen Hawking cũng gửi lời chúc mừng đội nghiên cứu trên trang Facebook cá nhân của mình: “Tôi xin chúc mừng các nhà khoa học tại LIGO với khám phá của họ về sóng hấp dẫn. Đây là một kết quả quan trọng, ít nhất cũng sánh ngang với việc phát hiện ra hạt Higgs Boson. Kết quả là dấu mốc của lần đầu tiên chúng ta quan sát được sóng hấp dẫn và hai hố đen va chạm để sáp nhập”.

Sóng hấp dẫn là những gợn lăn tăn được tạo ra bởi độ cong của không-thời gian. Nó lần đầu tiên được dự đoán bởi Albert Einstein vào năm 1916, trong Thuyết Tương đối rộng. Enstein trình bày khối lượng sẽ uốn cong không-thời gian. Khối lượng càng lớn, hiệu ứng uốn cong càng mạnh. Khi đối tượng khổng lồ di chuyển, chúng tạo ra những dao động trong không-thời gian, giống như sóng hình thành ở mũi một con tàu.

 

bat-duoc-tin-hieu-cua-song-hap-dan-ket-t

Hai hố đen sáp nhập mang lại 1 phần 6 triệu cơ hội quan sát sóng hấp dẫn

 

Dự đoán của Einstein là khởi nguồn cho 1 thế kỷ các nhà khoa học đi tìm sự tồn tại của sóng hấp dẫn. Điều này không chỉ bởi uy tín và những di sản mà Einstein để lại. Quan trọng hơn cả, sóng hấp dẫn nắm giữ chìa khóa cho một loạt câu hỏi về sự hoạt động của vũ trụ.

Nếu nhìn thấy sóng hấp dẫn, bạn có thể nhìn ngược về 1 phần tỷ giây đầu của vụ nổ Big Bang. Loài người không còn cách nào khác nếu muốn khám phá nguồn gốc của vũ trụ”, Tuck Stebbins, trưởng phòng thí nghiệm Vật lý học thiên thể tại Trung tâm Không gian Goddard thuộc NASA cho biết.

Quan sát sóng hấp dẫn còn mở ra hi vọng thăm dò tận sâu vào bên trong các ngôi sao, lý giải sự bí ẩn trong hoạt động của hố đen và những bức xạ phát ra từ sự kiện khởi đầu vũ trụ.

 

bat-duoc-tin-hieu-cua-song-hap-dan-ket-t

Một trong hai cơ sở thí nghiệm của LIGO

 

Trong cuộc họp báo, LIGO tuyên bố lần đầu tiên họ quan sát được sóng hấp dẫn là ngày 14 tháng 9 năm 2015. Đó là thời điểm các nhà khoa học quan sát sự sáp nhập của hai hố đen. Đây là một trong những sự kiện hiếm hoi trong vũ trụ ẩn chứa cơ hội cho chúng ta tìm kiếm dấu vết của sóng hấp dẫn.

Hai hố đen đã sáp nhập cách đây 1,3 tỷ năm. Chúng có khối lượng tương tự nhau, lần lượt bằng 29 và 36 lần khối lượng Mặt Trời. Các nhà khoa học tại LIGO có 1 phần 6 triệu cơ hội để tìm ra sóng hấp dẫn trong sự kiện này. Có thể nói, họ đã thực sự may mắn.

Theo dõi sự kiện, Giám đốc điều hành Facebook, Mark Zuckerberg cũng không giấu nổi hào hứng: “Các nhà khoa học vừa xác nhận việc họ tìm ra sóng hấp dẫn. Đây là một trong những khám phá lớn nhất của khoa học hiện đại. Albert Einstein là một trong những người hùng của tôi. Vì vậy, tôi luôn theo sát sự kiện này”.

 

bat-duoc-tin-hieu-cua-song-hap-dan-ket-t

Dữ liệu được LIGO công bố trong cuộc họp báo

"Phát hiện và đo đạc sóng hấp dẫn là chiếc Chén thánh trong lý thuyết tương đối rộng của Einstein" Giáo sư Bob Bingham, một nhà vật lý đến từ Hội đồng Khoa học và Công nghệ tại Harwell Campus Anh cho biết. "Phát hiện này mở ra nhiều con đường cho chúng ta nhìn lại thời gian vũ trụ hình thành, để lại nhiều kế thừa quan trọng cho thiên văn học hiện đại”.

Đây có lẽ là thời điểm mà các nhà khoa học cảm thấy hào hứng nhất. Quan sát được sóng hấp dẫn sẽ mở ra một kỷ nguyên hoàn toàn mới trong thiên văn học. Đứng ở một góc độ khác, nó cũng thể hiện tinh thần cố gắng và kế thừa không ngừng nghỉ trong sự phát triển tri thức nhân loại. Các nhà khoa học tại LIGO đã truyền cảm hứng của họ cho rất nhiều người, như Mark Zuckerberg viết trong phần cuối lời chúc mừng của anh:

"Thật hứng thú khi nghĩ về những nỗ lực được truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác để vén lên bức màn, giúp chúng ta có cái nhìn sâu sắc về vũ trụ. Bước đột phá của ngày hôm nay được làm nên bởi sự cống hiến và tài năng của các nhà khoa học và nhiều kỹ sư xuất sắc đến từ nhiều quốc gia. Bên cạnh đó, sự tiến bộ của máy tính cũng góp phần khiến điều đó trở thành có thể. Xin chúc mừng tất cả những ai đã chung sức cho phát hiện mới này. Các bạn đã khiến Einstein tự hào”.

Tham khảo Iflscience, ScienceAlert

3 people like this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Cách đơn giản nhất để hiểu được khái niệm sóng hấp dẫn và hố đen vũ trụ

 

Biết rằng việc tìm ra sóng hấp dẫn là một sự kiện lịch sử, nhưng rốt cục sóng hấp dẫn là gì?
 

Vừa qua, giới khoa học đã chính thức công bố về việc phát hiện ra sóng hấp dẫn phát ra từ một vụ va chạm "kinh thiên động địa" giữa hai hố đen vũ trụ khổng lồ.

 

Nhưng sóng hấp dẫn và hố đen vũ trụ là những khái niệm chỉ có những người đam mê vật lý mới có thể am tường. Vậy còn người bình thường, chúng ta sẽ phải hiểu hai khái niệm này như thế nào?

 

1. Hố đen Vũ trụ

Hố đen là nơi có trọng lực vô cùng lớn trong vũ trụ, có thể hút tất cả mọi thứ xung quanh bao gồm cả ánh sáng.

 

1_59497.jpg

 

Tại sao hố đen lại có lực hút mạnh đến vậy? Trước tiên, cần biết rằng hố đen được hình thành sau khi một ngôi sao có khối lượng cực lớn sụp đổ.

Một ngôi sao sẽ có các giai đoạn sau đây: hình thành, trương nở thành sao khổng lồ đỏ, và rồi khi đến "cuối đời" sẽ phát ra vụ nổ siêu tân tinh (supernova). Vụ nổ sẽ khiến khối vật chất trong ngôi sao sụp đổ, nén vào trong một không gian rất hẹp, và đây là lúc hố đen được hình thành.

 

2_18509.jpg

 

Để đơn giản hơn, hãy thử tưởng tượng bạn cầm...Trái đất trong lòng bàn tay rồi bóp vặn, nhồi nhét vào trong một chiếc hộp có kích cỡ chỉ bằng một hạt cát. Để làm được điều đó sẽ cần một lực nén vô cùng lớn, đủ sức nghiền nát mọi dạng vật chất lọt vào.

 

3_46493.jpg

 

Trong khi đó, điều kiện để hình thành hố đen là ngôi sao đó phải có khối lượng lớn gấp 10 lần Mặt trời. Việc "nhồi" một khối lượng vật chất khổng lồ như vậy vào không gian quá hẹp là lý do vì sao hố đen lại có lực hút vô cùng khủng khiếp.

2. Sóng hấp dẫn

Tiếp theo, chúng ta sẽ cùng đến với sóng hấp dẫn. Đây là một khái niệm trong Thuyết tương đối được Einstein đưa ra vào năm 1915, trong đó Einstein cho rằng vũ trụ là một khoảng không-thời gian không hề cố định, và có tính chất giống như... bể bơi vậy.

 

4_165415.jpg

 

Khi ta chạm tay vào nước và di chuyển, ta sẽ thấy từng đợt sóng dao động lan tỏa đi khắp mặt nước. Vũ trụ cũng vậy. Theo Einstein, hiện tượng tương tự sẽ xảy ra khi một vật thể có khối lượng lớn di chuyển trong vũ trụ. Sự di chuyển đó sẽ phát ra các năng lượng dưới dạng sóng, và chúng ta gọi đó là sóng hấp dẫn.

 

5_66850.jpg

 

Về lý thuyết, các vật thể có khối lượng lớn di chuyển trong vũ trụ như Trái đất và các tinh cầu đều tạo ra sóng hấp dẫn. Tuy nhiên, cũng giống như khi ta chạm nhẹ đầu ngón tay xuống mặt nước: năng lượng phát ra là quá nhỏ và không thể quan sát.

Chỉ đến khi sự kiện hai hố đen vũ trụ "hợp thể" xảy ra, tạo thành một nguồn năng lượng gấp 50 lần tổng năng lượng của tất cả ngôi sao trong vũ trụ này, nhân loại mới có thể xác nhận được sự tồn tại của hiện tượng này.

 

6_152799.jpg

 

Với việc xác nhận sự tồn tại của sóng hấp dẫn, chúng ta cũng chính thức xác nhận luôn một điều: không-thời gian có thể bị bẻ cong. Giờ hãy hãy tưởng tượng đơn giản bạn ở Việt Nam và muốn sang Mỹ chơi. Thông thường, khoảng cách ngắn nhất là đường chim bay thẳng cánh. Nhưng với lý thuyết bẻ cong được không gian, ta có thể "gập" bản đồ thế giới, đưa Mỹ và Việt Nam sát lại. Đó cũng chính là lời giải cho ước mơ du hành vũ trụ của con người.

Nguồn: Nasa

Theo J / Trí Thức Trẻ

Share this post


Link to post
Share on other sites

Thưa quý vị và anh chị em.

Việc tìm ra sóng hấp dẫn khiến cả thế giới coi như bước sang một kỷ nguyên mới trong việc nghiên cứu vũ trụ. Trên cơ sở này, sẽ có hàng loạt những phát minh mới. Đưa nền khoa học hiện đại thoát khỏi sự bế tắc hiện nay.  Bởi vậy Thiên Sứ tôi ngay từ những nhận xet đầu tiên về sự kiện này là nhiệt liệt chúc mừng các nhà khoa học đầu bảng ở Hoa Kỳ vì phát hiện của họ.

Nhưng cũng nhân sự kiện này, Thiên Sứ tôi một lần nữa xin được đặt vấn đề với các nhà khoa học đầu bảng, rằng:

Nếu quả thực có một lý thuyết thống nhất thì chắc chắn tất cả những sóng hấp dẫn, từ sự va chạm của những hố đen trong thiên hà khổng lồ - như hai hố đen va chạm và nhìn thấy trong sự kiện này - cho đến tất cả các hạt vật chất nhỏ nhất - đều phải là những hiện tượng mang tính quy luật được mô tả trong lý thuyết đó.

Về mặt lý thuyết thì để xuất hiện một lý thuyết thống nhất , nó phải là sự tổng hợp được tất cả mọi sự kiện và vấn đề trong lịch sử hình thành vũ trụ - tất nhiên trong đó có hiện tượng "sóng hấp dẫn". Và rồi lý thuyết đó phải mô tả được tất cả mọi sự vận động có tính quy luật tương tác của vũ trụ - trong đó có "sóng hấp dẫn" - trong hệ thống lý thuyết của lý thuyết thống nhất.

Thuyết Âm Dương Ngũ hành được Thiên Sứ tôi mô tả là một Lý thuyết thống nhất. Đương nhiên nó phải hàm chứa tất cả những thành tựu của khoa học hiện đại, trong qúa khứ, hiện tại - với sự phát hiện "sóng hấp dẫn" - và cả tương lai. Cũng như nó phải mô tả được cả ...Thượng Đế. Nếu không phải như vậy thì nó không phải lý thuyết thống nhất. Và khi đã xác định thuyết ADNh chính là Lý thuyết thống nhất thì đấy là điểu kiện tất yếu.

Vậy thì sự phát hiện ra sóng hấp dẫn, nằm ở đâu trong thuyết Âm Dương Ngũ hành?

Thiên Sứ tôi xác định rằng: Nền văn minh Đông phương huyền vĩ có cội nguồn văn hiến Việt, đã ứng dụng từ lâu những hiệu ứng tương tác có tính quy luật giữa các vật thể - từ vi mô đến vĩ mô của vũ trụ - trong phong thủy và các môn dự đoán khác. Nó không những ứng dụng đến chi tiết sóng hấp dẫn, mà còn hiểu biết sâu sắc môi trường chứa sự vận động của sóng hấp dẫn và hiệu ứng tương tác của loại sóng này với khả năng tiên tri. Hệ thống tri thức huyền vĩ của nền văn minh Đông phương nhân danh nền văn hiến Việt, đương nhiên vượt xa tất cả mọi tri thức nền tảng của nền văn minh hiện đại.

Một lần nữa tôi cảm ơn sự phát hiện ra sóng hấp dẫn trong vũ trụ. Ví nó là điều kiện để tôi thể hiện những hiểu biết của tôi liên quan đến nền văn minh Đông phương.

Nếu như những nhà khoa học đầu bảng của nền văn minh hiện đại có xuất xứ Tây phương này, quan tâm đến những giá trị huyền vĩ của nền văn minh Đông phương, sẽ tìm thấy sự chia sẻ từ Thiên Sứ tôi, trong một diều kiện duy nhất: Chân lý Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến phải được sáng tỏ.

Xin cảm ơn vì sự quan tâm.

Xin cảm ơn Phoenix vì đã chia sẻ bài này với tôi.

PS: Một trong những nguyên nhân để tôi xác định rằng: "Không thể có động đất hủy diệt ở bờ biển phía Tây Hoa Kỳ", chính vì nó không có sự mô tả những hiệu ứng liên quan cần có của một trận động đất lớn. Với tri thức mới nhất của các nhà khoa học Hoa Kỳ , tôi mô tả rằng: trận động đất không thể xảy ra, chính vì nó không xuất hiện những hiện tượng liên quan đến sóng hấp dẫn trong sự tương tác của những hiện tượng sẽ xảy ra động đất. Ngay cả khi các nhà khoa học đầu bảng của nền văn minh tìm ra sóng hấp dẫn vũ trụ - thì - khoảng cách từ nhận thức này, đến việc ứng dụng vào sự đoán mọi hiện tượng, còn rất xa vời.

http://diendan.lyhocdongphuong.org.vn/bai-viet/33640-co-hay-khong-dong-dat-huy-diet-phia-tay-hoa-ky/

 

 

Cách đơn giản nhất để hiểu được khái niệm sóng hấp dẫn và hố đen vũ trụ

 

Biết rằng việc tìm ra sóng hấp dẫn là một sự kiện lịch sử, nhưng rốt cục sóng hấp dẫn là gì?
 

Vừa qua, giới khoa học đã chính thức công bố về việc phát hiện ra sóng hấp dẫn phát ra từ một vụ va chạm "kinh thiên động địa" giữa hai hố đen vũ trụ khổng lồ.

 

Nhưng sóng hấp dẫn và hố đen vũ trụ là những khái niệm chỉ có những người đam mê vật lý mới có thể am tường. Vậy còn người bình thường, chúng ta sẽ phải hiểu hai khái niệm này như thế nào?

 

1. Hố đen Vũ trụ

Hố đen là nơi có trọng lực vô cùng lớn trong vũ trụ, có thể hút tất cả mọi thứ xung quanh bao gồm cả ánh sáng.

 

1_59497.jpg

 

Tại sao hố đen lại có lực hút mạnh đến vậy? Trước tiên, cần biết rằng hố đen được hình thành sau khi một ngôi sao có khối lượng cực lớn sụp đổ.

Một ngôi sao sẽ có các giai đoạn sau đây: hình thành, trương nở thành sao khổng lồ đỏ, và rồi khi đến "cuối đời" sẽ phát ra vụ nổ siêu tân tinh (supernova). Vụ nổ sẽ khiến khối vật chất trong ngôi sao sụp đổ, nén vào trong một không gian rất hẹp, và đây là lúc hố đen được hình thành.

 

2_18509.jpg

 

Để đơn giản hơn, hãy thử tưởng tượng bạn cầm...Trái đất trong lòng bàn tay rồi bóp vặn, nhồi nhét vào trong một chiếc hộp có kích cỡ chỉ bằng một hạt cát. Để làm được điều đó sẽ cần một lực nén vô cùng lớn, đủ sức nghiền nát mọi dạng vật chất lọt vào.

 

3_46493.jpg

 

Trong khi đó, điều kiện để hình thành hố đen là ngôi sao đó phải có khối lượng lớn gấp 10 lần Mặt trời. Việc "nhồi" một khối lượng vật chất khổng lồ như vậy vào không gian quá hẹp là lý do vì sao hố đen lại có lực hút vô cùng khủng khiếp.

2. Sóng hấp dẫn

Tiếp theo, chúng ta sẽ cùng đến với sóng hấp dẫn. Đây là một khái niệm trong Thuyết tương đối được Einstein đưa ra vào năm 1915, trong đó Einstein cho rằng vũ trụ là một khoảng không-thời gian không hề cố định, và có tính chất giống như... bể bơi vậy.

 

4_165415.jpg

 

Khi ta chạm tay vào nước và di chuyển, ta sẽ thấy từng đợt sóng dao động lan tỏa đi khắp mặt nước. Vũ trụ cũng vậy. Theo Einstein, hiện tượng tương tự sẽ xảy ra khi một vật thể có khối lượng lớn di chuyển trong vũ trụ. Sự di chuyển đó sẽ phát ra các năng lượng dưới dạng sóng, và chúng ta gọi đó là sóng hấp dẫn.

 

5_66850.jpg

 

Về lý thuyết, các vật thể có khối lượng lớn di chuyển trong vũ trụ như Trái đất và các tinh cầu đều tạo ra sóng hấp dẫn. Tuy nhiên, cũng giống như khi ta chạm nhẹ đầu ngón tay xuống mặt nước: năng lượng phát ra là quá nhỏ và không thể quan sát.

Chỉ đến khi sự kiện hai hố đen vũ trụ "hợp thể" xảy ra, tạo thành một nguồn năng lượng gấp 50 lần tổng năng lượng của tất cả ngôi sao trong vũ trụ này, nhân loại mới có thể xác nhận được sự tồn tại của hiện tượng này.

 

6_152799.jpg

 

Với việc xác nhận sự tồn tại của sóng hấp dẫn, chúng ta cũng chính thức xác nhận luôn một điều: không-thời gian có thể bị bẻ cong. Giờ hãy hãy tưởng tượng đơn giản bạn ở Việt Nam và muốn sang Mỹ chơi. Thông thường, khoảng cách ngắn nhất là đường chim bay thẳng cánh. Nhưng với lý thuyết bẻ cong được không gian, ta có thể "gập" bản đồ thế giới, đưa Mỹ và Việt Nam sát lại. Đó cũng chính là lời giải cho ước mơ du hành vũ trụ của con người.

Nguồn: Nasa

Theo J / Trí Thức Trẻ

 

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Sự mô tả sóng hấp dẫn

 

5_66850.jpg

 

Một lần nữa quý vị và anh chị em lại nhận thấy sự trùng lặp với đồ hình Âm Dương Lạc Việt.

Lo_n_dan_gian-2.jpg

2 people like this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Nhân danh nền Lý học Đông phương có cội nguồn từ văn hiến Việt với lịch sử gần 5000 năm, một thời huy hoàng ở miền nam sông Dương tử, Thiên Sứ tôi chúc mừng thành tựu mới nhất của nền khoa học hiện đại. Chính những tiến bộ trong những phát hiện này, sẽ làm cho những tri thức của nền khoa học hiện đại hiểu sâu hơn về ngành Phong Thủy Lạc Việt. Ngành này ứng dụng sóng hấp dẫn từ hàng chục thiên niên kỷ trước và xác định những quy luật tương tác trong phong thủy.

Nếu quả là Einstein đã tiên đoán trước 100 năm cho sự tồn tại của sóng hấp dẫn trong vũ trụ, thì lão Gàn - nhân danh nền văn hiến Việt - tiên đoán cho 500 năm sau, rằng: nền khoa học của tương lai sẽ tìm ra sóng hấp dẫn ở tất cả các vật thể từ hạt vật chất nhỏ nhất cho đến thiên hà khổng lồ. Và lão Gàn cũng cần xác định rằng: Chính những sóng hấp dẫn này là yếu tố tương tác của các vật thể từ nhỏ nhất đến những thiên hà khổng lồ. Đây là sự tương tác hoàn toàn có tính quy luật và tạo ra khả năng tiên tri. Nó đã được ứng dụng trong ngành Địa Lý Lạc Việt để phục vụ cho cuộc sống của con người từ hơn 6000 năm trước ở Nam Dương tử (Xem bài "Mộ Rồng").

Xin cảm ơn vì đã quan tâm.

 

 

 

Một lần nữa, mô hình mô tả sự vận động của hai hố đen tạo ra sóng hấp dẫn lại, chính là mô hình vòng xoáy huyền vĩ của hình Âm Dương Lạc Việt - có trong tất cả các nền văn minh cổ đại và phổ biến nhất trong di sản văn hóa truyền thống Việt. Bởi vậy, tôi xác định một lần nữa rằng: nền văn hiến Việt đã chứa đựng tất cả bí mật huyền vĩ của vũ trụ.

 

 

 

Thưa quý vị và anh chị em.

Việc tìm ra sóng hấp dẫn khiến cả thế giới coi như bước sang một kỷ nguyên mới trong việc nghiên cứu vũ trụ. Trên cơ sở này, sẽ có hàng loạt những phát minh mới. Đưa nền khoa học hiện đại thoát khỏi sự bế tắc hiện nay.  Bởi vậy Thiên Sứ tôi ngay từ những nhận xet đầu tiên về sự kiện này là nhiệt liệt chúc mừng các nhà khoa học đầu bảng ở Hoa Kỳ vì phát hiện của họ.

Nhưng cũng nhân sự kiện này, Thiên Sứ tôi một lần nữa xin được đặt vấn đề với các nhà khoa học đầu bảng, rằng:

Nếu quả thực có một lý thuyết thống nhất thì chắc chắn tất cả những sóng hấp dẫn, từ sự va chạm của những hố đen trong thiên hà khổng lồ - như hai hố đen va chạm và nhìn thấy trong sự kiện này - cho đến tất cả các hạt vật chất nhỏ nhất - đều phải là những hiện tượng mang tính quy luật được mô tả trong lý thuyết đó.

Về mặt lý thuyết thì để xuất hiện một lý thuyết thống nhất , nó phải là sự tổng hợp được tất cả mọi sự kiện và vấn đề trong lịch sử hình thành vũ trụ - tất nhiên trong đó có hiện tượng "sóng hấp dẫn". Và rồi lý thuyết đó phải mô tả được tất cả mọi sự vận động có tính quy luật tương tác của vũ trụ - trong đó có "sóng hấp dẫn" - trong hệ thống lý thuyết của lý thuyết thống nhất.

Thuyết Âm Dương Ngũ hành được Thiên Sứ tôi mô tả là một Lý thuyết thống nhất. Đương nhiên nó phải hàm chứa tất cả những thành tựu của khoa học hiện đại, trong qúa khứ, hiện tại - với sự phát hiện "sóng hấp dẫn" - và cả tương lai. Cũng như nó phải mô tả được cả ...Thượng Đế. Nếu không phải như vậy thì nó không phải lý thuyết thống nhất. Và khi đã xác định thuyết ADNh chính là Lý thuyết thống nhất thì đấy là điểu kiện tất yếu.

Vậy thì sự phát hiện ra sóng hấp dẫn, nằm ở đâu trong thuyết Âm Dương Ngũ hành?

Thiên Sứ tôi xác định rằng: Nền văn minh Đông phương huyền vĩ có cội nguồn văn hiến Việt, đã ứng dụng từ lâu những hiệu ứng tương tác có tính quy luật giữa các vật thể - từ vi mô đến vĩ mô của vũ trụ - trong phong thủy và các môn dự đoán khác. Nó không những ứng dụng đến chi tiết sóng hấp dẫn, mà còn hiểu biết sâu sắc môi trường chứa sự vận động của sóng hấp dẫn và hiệu ứng tương tác của loại sóng này với khả năng tiên tri. Hệ thống tri thức huyền vĩ của nền văn minh Đông phương nhân danh nền văn hiến Việt, đương nhiên vượt xa tất cả mọi tri thức nền tảng của nền văn minh hiện đại.

Một lần nữa tôi cảm ơn sự phát hiện ra sóng hấp dẫn trong vũ trụ. Ví nó là điều kiện để tôi thể hiện những hiểu biết của tôi liên quan đến nền văn minh Đông phương.

Nếu như những nhà khoa học đầu bảng của nền văn minh hiện đại có xuất xứ Tây phương này, quan tâm đến những giá trị huyền vĩ của nền văn minh Đông phương, sẽ tìm thấy sự chia sẻ từ Thiên Sứ tôi, trong một diều kiện duy nhất: Chân lý Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến phải được sáng tỏ.

Xin cảm ơn vì sự quan tâm.

Xin cảm ơn Phoenix vì đã chia sẻ bài này với tôi.

PS: Một trong những nguyên nhân để tôi xác định rằng: "Không thể có động đất hủy diệt ở bờ biển phía Tây Hoa Kỳ", chính vì nó không có sự mô tả những hiệu ứng liên quan cần có của một trận động đất lớn. Với tri thức mới nhất của các nhà khoa học Hoa Kỳ , tôi mô tả rằng: trận động đất không thể xảy ra, chính vì nó không xuất hiện những hiện tượng liên quan đến sóng hấp dẫn trong sự tương tác của những hiện tượng sẽ xảy ra động đất. Ngay cả khi các nhà khoa học đầu bảng của nền văn minh tìm ra sóng hấp dẫn vũ trụ - thì - khoảng cách từ nhận thức này, đến việc ứng dụng vào sự đoán mọi hiện tượng, còn rất xa vời.

http://diendan.lyhoc...hia-tay-hoa-ky/

 

 

 

TỪ DẤU TÍCH CỦA CÁC NỀN VĂN MINH MAYA, INCA, CELT, HY - LA, LẠC VIỆT ĐẾN SÓNG HẤP DẪN CỦA EINSTEIN.

Tuan Anh Bùi đã thêm 4 ảnh mới.

12744098_808656195929224_369369062485973

12742073_808656162595894_135622556916847

12717366_808656439262533_747530054266017

 

ĐẾN SÓNG HẤP DẪN CỦA EINSTEIN

 

10981620_808656905929153_366216431687570

2 people like this

Share this post


Link to post
Share on other sites

12728962_1751604245069031_82177587558998

Sóng hấp dẫn và sự mô tả trên bãi đá cổ Sapa

2 people like this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Thiên Sứ tôi ứng dụng sóng hấp dẫn đến từng chi tiết trong Địa Lý Lạc Việt. Nhưng nói sớm quá nó lại không có "cơ sở khoa học". Bởi vậy, chỉ có thể phát biểu chung chung về "Quy luật vận động và tương tác trong vũ trụ". Nhưng khi cái "cơ sở khoa học" phát hiện ra "sóng hấp dẫn" thì té ra nó sử dụng đến từng chi tiết trong Lý học Đông phương. Bởi vậy, vớ vẩn cả. 

4 people like this

Share this post


Link to post
Share on other sites
Kính thiên văn nhìn ngược thời gian 13,5 tỷ năm

Bên trong căn phòng rộng lớn, hạn chế người ngoài và bụi bặm, một đội ngũ kỹ sư mặc áo trắng đang xây dựng JWST.

Kính thiên văn mới sẽ nặng khoảng 6,4 tấn, mặt gương chính có đường kính 6,5 m, to gấp ba lần kính Hubble. Theo AFP, Webb sẽ mạnh gấp 100 lần kính thiên văn phản xạ Hubble đang hoạt động trong quỹ đạo cách Trái Đất khoảng 610 km.

NASA hợp tác cùng với cơ quan hàng không vũ trụ châu Âu và Canada thực hiện dự án này. JWST được trang bị nhiều camera và quang phổ kế có độ nhạy cao, thu nhận được những tín hiệu yếu nhất.

Các nhà khoa học mô tả nó là một “cỗ máy siêu thời gian hồng ngoại, giúp quay ngược lại 13,5 tỷ năm để quan sát ngôi sao đầu tiên và các thiên hà hình thành trong bóng tối của vũ trụ sơ khai.”

 
Jwst2-4758-1429773803.jpg

JWST sẽ quan sát được sự hình thành những ngôi sao và thiên hà đầu tiên trong vũ trụ, gần Big Bang. Đồ họa: EPA

“Nhiệm vụ chính của Webb là quan sát những dải ngân hà đầu tiên trong vũ trụ,” Mark Clampin, nhà khoa học thuộc dự án JWST cho biết tại Trung tâm Vũ trụ Goddard ở Greenbelt, bang Maryland, Mỹ.

“JWST có khả năng thu nhận ánh sáng gấp 70 lần Hubble. Vì vậy, mặt gương lớn cùng với khả năng thu nhận hồng ngoại cho phép chúng ta quan sát vũ trụ trong quá khứ,” ông Clampin nói.

“JWST có khả năng quan sát thời gian 200 triệu năm sau Big Bang,” NASA công bố trên trang web. Dự án ước tính lên đến 8,8 tỷ USD, cao hơn nhiều so với dự toán ban đầu là 3,5 tỷ USD và được phóng bằng tên lửa đẩy Ariane 5, tại Guiana, Pháp, tháng 10/2018.

JWST có khả năng hoạt động ở khu vực gọi là L2, cách Trái Đất 1,5 triệu km trong không gian. Khoảng cách này sẽ làm mát kính thiên văn, tránh cho nó không bị mờ do bức xạ Trái Đất và hồng ngoại của chính nó phát ra.

“Nó sẽ bay vòng quanh quỹ đạo Trái Đất và Mặt Trời suốt cả năm. Do đó, nó bay trong quỹ đạo trung tâm Mặt Trời, chứ không phải Trái Đất,” Matt Greenhouse, nhà khoa học thuộc dự án JWST giải thích.

Mario Livio, một nhà thiên văn học tại Viện Khoa học Kính viễn vọng không gian tại Baltimore, Mỹ tin rằng Webb cũng sẽ nhận diện dấu hiệu của sự sống bằng cách phát hiện oxy và chất diệp lục, giúp giới chuyên gia tìm kiếm và giải đáp bí ẩn về người ngoài hành tinh.

Jwst3-4577-1429773804.jpg

Kính James Webb sẽ hoạt động ở vùng L2, cách Trái Đất 1,5 triệu km. Đồ họa:NASA

Theo vnexpress.net

Share this post


Link to post
Share on other sites

Kính thiên văn nhìn ngược thời gian 13,5 tỷ năm

Bên trong căn phòng rộng lớn, hạn chế người ngoài và bụi bặm, một đội ngũ kỹ sư mặc áo trắng đang xây dựng JWST.

Kính thiên văn mới sẽ nặng khoảng 6,4 tấn, mặt gương chính có đường kính 6,5 m, to gấp ba lần kính Hubble. Theo AFP, Webb sẽ mạnh gấp 100 lần kính thiên văn phản xạ Hubble đang hoạt động trong quỹ đạo cách Trái Đất khoảng 610 km.

NASA hợp tác cùng với cơ quan hàng không vũ trụ châu Âu và Canada thực hiện dự án này. JWST được trang bị nhiều camera và quang phổ kế có độ nhạy cao, thu nhận được những tín hiệu yếu nhất.

Các nhà khoa học mô tả nó là một “cỗ máy siêu thời gian hồng ngoại, giúp quay ngược lại 13,5 tỷ năm để quan sát ngôi sao đầu tiên và các thiên hà hình thành trong bóng tối của vũ trụ sơ khai.”

 
Jwst2-4758-1429773803.jpg

JWST sẽ quan sát được sự hình thành những ngôi sao và thiên hà đầu tiên trong vũ trụ, gần Big Bang. Đồ họa: EPA

“Nhiệm vụ chính của Webb là quan sát những dải ngân hà đầu tiên trong vũ trụ,” Mark Clampin, nhà khoa học thuộc dự án JWST cho biết tại Trung tâm Vũ trụ Goddard ở Greenbelt, bang Maryland, Mỹ.

“JWST có khả năng thu nhận ánh sáng gấp 70 lần Hubble. Vì vậy, mặt gương lớn cùng với khả năng thu nhận hồng ngoại cho phép chúng ta quan sát vũ trụ trong quá khứ,” ông Clampin nói.

“JWST có khả năng quan sát thời gian 200 triệu năm sau Big Bang,” NASA công bố trên trang web. Dự án ước tính lên đến 8,8 tỷ USD, cao hơn nhiều so với dự toán ban đầu là 3,5 tỷ USD và được phóng bằng tên lửa đẩy Ariane 5, tại Guiana, Pháp, tháng 10/2018.

JWST có khả năng hoạt động ở khu vực gọi là L2, cách Trái Đất 1,5 triệu km trong không gian. Khoảng cách này sẽ làm mát kính thiên văn, tránh cho nó không bị mờ do bức xạ Trái Đất và hồng ngoại của chính nó phát ra.

“Nó sẽ bay vòng quanh quỹ đạo Trái Đất và Mặt Trời suốt cả năm. Do đó, nó bay trong quỹ đạo trung tâm Mặt Trời, chứ không phải Trái Đất,” Matt Greenhouse, nhà khoa học thuộc dự án JWST giải thích.

Mario Livio, một nhà thiên văn học tại Viện Khoa học Kính viễn vọng không gian tại Baltimore, Mỹ tin rằng Webb cũng sẽ nhận diện dấu hiệu của sự sống bằng cách phát hiện oxy và chất diệp lục, giúp giới chuyên gia tìm kiếm và giải đáp bí ẩn về người ngoài hành tinh.

Jwst3-4577-1429773804.jpg

Kính James Webb sẽ hoạt động ở vùng L2, cách Trái Đất 1,5 triệu km. Đồ họa:NASA

Theo vnexpress.net

 

 

Cho dù có nhìn tới giây "O" của vũ trụ thì họ cũng sẽ chẳng nhìn thấy gì cả.

Lời khuyên chân thành nhất của Thiên Sứ tôi là các vị hãy làm sáng tỏ chân lý Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến. Sau đó, chúng ta sẽ ngồi với nhau để bàn về phần còn lại của vũ trụ, ngoài những cái mà những nhà khoa học đầu bảng đã "nhìn thấy".

Nhưng tôi nhắc lại giới hạn thời gian là ngày 10/ 3 Bính Thân Việt lịch sẽ là mốc để quyết định điều này.

 

2 people like this

Share this post


Link to post
Share on other sites

CỘI NGUỒN VIỆT SỬ VÀ VĂN MINH ĐÔNG PHƯƠNG - VẤN ĐỀ ĐƯỢC ĐẶT RA

Trên web Văn Việt đã đưa ra một vấn đề như sau:

 

 

Nói tóm lại, về vấn đề nguồn gốc dân tộc Việt Nam, đã đến lúc chúng ta đặt vấn đề với giả thiết Bắc xuống Nam, và nghiêm túc thử nghiệm giả thiết Nam lên Bắc. Thực ra, chúng ta cũng chẳng còn quyền lựa chọn nào khác vì khoa học, nhất là khoa di truyền học, đã lựa chọn dùm chúng ta: Khởi thủy, người Hiện Đại (Homo Sapiens – Sapiens) từ Đông Phi đến Đông Nam Á; rồi từ đó họ tiến lên phía Bắc. Sau vì có sự phối hợp với chủng từ Tây Bắc xuống, họ hợp thành cái cốt lõi của dân sống ở Trung Quốc ngày nay. Đó là giai đoạn Nam lên Bắc. Giai đoạn này khoảng từ sau 40.000 năm cách ngày nay cho đến 3.000 năm cách ngày nay thì Trung Hoa bắt đầu có loạn Xuân Thu Chiến Quốc. Đến khi nhà Tần thống nhất lục quốc, nhất là từ khi nhà Hán cai trị Trung nguyên, những dân thuộc Đại tộc Bách Việt ở các nước lưu vực sông Dương Tử xuôi về Nam, không chịu sự đồng hóa của người Hoa Hán đã di dần về phương Nam. Một số những người thuộc nhóm này đã sát nhập với dân Lạc Việt. Giai đoạn này kéo dài cũng cả ngàn năm, nhưng những thiên di từ đời Tần đến đời Đông Hán (khoảng 300 năm trước CN đến 100 năm sau CN) có lẽ là quan trọng hơn cả. Chúng tôi tin rằng đó là một phần của kết luận về nguồn gốc dân tộc Việt Nam.

Cung Ðình Thanh
Nguyễn văn Tuấn
Nguyễn Ðức Hiệp

 

Linh tham khảo:

https://vanvietsite.wordpress.com/2016/02/22/mot-vai-ghi-chep-them-ve-van-minh-co-va-nguon-goc-dan-toc-viet-nam/

 

 

 

Thưa quý vị và anh chị em quan tâm.

Tôi chia sẻ lại một lần nữa bài này lên đây, để nói rõ hơn quan điểm của tôi về vấn đề người Bách Việt - còn gọi là Lạc Việt - thuộc quốc gia Văn Lang xưa, dưới sự trị vì của các vua Hùng, ở Nam Dương tử - đã di cư xuống phía Nam, do sự bành trướng của các tộc ở phương Bắc vào khoảng thế kỷ thứ VII TCN. Và tôi xác định rằng:
Quan điểm này của tôi ko hề mâu thuẫn gì với giả thuyết của các nhà nghiên cứu (trong bài viết chia sẻ trên đây), đã có quan điểm ngược lại, rồi từ đó đặt vấn đề cần tranh luận để làm sáng tỏ sự mâu thuẫn giữa hai quan điểm này.
Vấn đề chỉ đơn giản là: quan điểm của các nhà nghiên cứu cho rằng nguồn gốc loài người từ Châu Phi di cư đến Đông Nam Á và từ đó ngược lên phía Bắc.....Quan điểm này xác định thời điểm rất xa so với sự di cư của Việt tộc - theo quan điểm của tôi, là khoảng 700 năm Trc CN. Còn của các vị kia đến ít nhất là 10. 000 năm Trc CN, nhiều nữa là 40. 000 năm. Cho nên các vị muốn nói gì là chuyện của các vị. Còn tôi chỉ lấy từ mốc 700 năm Trc CN đó trở xuống.
Do đó, nếu giả thuyết quan điểm của các học giả trong bài chia sẻ trên đây là đúng thì nó không thể chứng minh là tôi sai. Hoặc ngược lại nếu tôi đúng thì cũng không có nghĩa các học giả nói trên là sai. Chính vì khoảng cách thời gian ít nhất là 7.300 năm - nếu tính mốc 10.000 năm. Hoặc 39. 300 năm, nếu tính mốc 40.000 năm so với quan điểm của tôi (Hiện mốc thời gian này còn đang là sự tranh cãi. Hiện đang có giả thuyết lên tới 100. 000 năm).
Do đó, tôi xác định rằng: Không hề có mâu thuẫn cần phải tranh luận, để làm sáng tỏ. Hay nói rõ hơn, vấn để Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến mà tôi chứng minh, không dây dưa gì đến quan điểm "loài người có nguồn gốc từ Châu Phi di cư đến Đông Nam Á". Tôi không cần phải chứng minh quan điểm của các học giả trong bài viết trên đây là sai.

Tôi thí dụ như thế này: Kha Luân Bố dẫn đầu đoàn người Âu châu đầu tiên khám phá ra châu Mỹ vào thế kỷ XV BC. Sau đó là làn sóng người châu Âu ồ ạt tới định cư ở châu Mỹ. Vào đầu thế kỷ XXI, có một số người da trắng ở châu Mỹ về định cư ở châu Âu. Không thể nói rằng: người da trắng từ châu Âu chinh phục châu Mỹ vào thế kỷ XV là đúng thì người da trắng về châu Âu ở thế kỷ XXI sai. Hai sự kiện không liên quan đến nhau. Chính vì mốc thời gian khác nhau vậy.

Mặc dù quan điểm là như vậy và tôi đã phân tích. Nhưng, nếu các nhà nghiên cứu ủng hộ học thuyết "Nguồn gốc loài người từ châu Phi", khăng khăng cho họ là đã đưa một giả thuyết đúng và nhất định tôi phải sai, thì tôi sẽ không từ chối tranh luận. Và - như tôi đã nhiều lần công khai trên diễn đàn lyhocdongphuong.org.vn, rằng: Thiên Sứ tôi chứng minh:

Việt sử 5000 năm văn hiến, một thời huy hoàng ở miền nam sông Dương tử và là cội nguồn đích thực của nền văn minh Đông phương huyền vĩ, hoàn toàn nhân danh khoa học với tất cả những khái niệm hợp lý mà thế giới khoa học có thể nghĩ ra về khái niệm "khoa học". Nhưng để phản biện Thiên Sứ và phủ nhận luận điểm của Thiên Sứ tôi, những nhà nghiên cứu đầu bảng của nền văn minh hiện nay, có thể dùng phương pháp luận của toàn bộ tri thức hình thành trong lịch sử của nền văn minh hiện nay mà nhân loại nhận thức được. Tức là bao gồm cả tôn giáo, tín ngưỡng, mọi trường phái triết học, kể cả mỹ học, lịch sử văn hóa, khoa học...vv....để chỉ ra tôi đã sai. Và nếu tôi không thể biện minh được trước những luận cứ của họ, thì tôi sẽ chấp nhận sai khi chứng minh cội nguồn Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến.

Đây không phải là sự kiêu ngạo và thách đố với toàn thể tri thức trong lịch sử văn minh nhân loại. Mà vì là tôi đã xác định thuyết Âm Dương Ngũ hành chính là lý thuyết thống nhất vũ trụ. Do đó, nó sẽ có trách nhiệm biện minh trước tất cả những lý thuyết khoa học và phi khoa học đã tồn tại trong lịch sử nền văn minh này.

Xin cảm ơn sự quan tâm.

5 people like this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Vì lý do này, đừng gọi sóng hấp dẫn là sóng trọng lực!

Hải Nguyễn |

16/02/2016 16:51

 

Sóng hấp dẫn được coi là "phát hiện thế kỷ" đột phá của nhân loại trong việc nghiên cứu về cũ trụ tuần qua.

Các nhà khoa học từ LIGO – Đài quan trắc sóng hấp dẫn bằng giao thoa kế laser, công bố rằng họ đã quan sát được sóng hấp dẫn một cách trực tiếp.

 

song-hap-dan-1455608500097.gif

Có rất nhiều người lầm tưởng rằng sóng hấp dẫn và sóng trọng lực là một, tuy nhiên, sự thật không phải thế.

LIGO phát hiện ra sóng hấp dẫn.

Nhờ vào công nghệ cao của LIGO, lần đầu tiên các nhà khoa học đã chính thức xác nhận tiên đoán của “nhà tiên tri” đại tài Albert Einstein là đúng sau 100 năm.

Việc phát hiện ra sóng hấp dẫn mở ra một “kỷ nguyên” hoàn toàn mới cho ngành Vật lý học nói chung và Thiên văn học nói riêng.

 

4-tim-ra-song-hap-dan-co-the-giup-chung-

Sóng hấp dẫn - phát hiện thế kỷ.

Tuy nhiên, đừng gọi sóng hấp dẫn là sóng trọng lực.

 

Đây là lý do:

Sóng hấp dẫn là những gợn sóng có thể bẻ cong kết cấu không gian-thời gian xung quanh nó.

Nhờ công nghệ của LIGO, chúng ta đã xác định và “tận mắt chứng kiến” được sóng hấp dẫn sẽ khiến hai hố đen sáp nhập vào nhau .

Hai hố đen này xoay quanh nhau theo đường xoắn ốc và cách 1,3 tỷ năm ánh sáng.

Trước đó, các nhà thiên văn học không dám khẳng định có thể hay không xảy ra một vụ va chạm như thế, bởi vì không có cách nào phát hiện nó.

Sự va chạm này giải phóng một khối năng lượng khổng lồ có tốc độ ánh sáng dưới dạng sóng hấp dẫn vào không gian-thời gian xung quanh nó.

Theo thời gian, những sóng này lan ra khắp vũ trụ và đi tới Trái Đất.

Các sóng này biến dạng rất nhỏ - nhỏ hơn đường kính của hạt nhân của nguyên tử. Nó là giao thoa nhạy cảm nhất, vì thế chúng ta cần đến công nghệ của LIGO.

 

vi-ly-do-nay-dung-goi-song-hap-dan-la-so

Nhà vật lý Albert Einstein.

 

Trong khi đó, sóng trọng lực được đánh giá là không “mạnh mẽ” như sóng hấp dẫn.

Thay vì được tạo ra do các sự kiện “đại hồng thủy” của thiên hà, chúng được tạo ra nhờ sự tương tác giữa khí quyển và trọng lực.

Những lớp sóng này khiến nhiệt độ không khí và áp xuất thay đổi khi chúng ta nhảy lên hoặc rơi xuống. Khi bạn nhảy lên, một lực nào đó sẽ kéo bạn xuống mặt đất.

Đó là do sự tham gia của sóng trọng lực.

 

vi-ly-do-nay-dung-goi-song-hap-dan-la-so

Hố đen. Hình minh họa.

 

Khi một trong những lớp sóng gặp một vật cản (một ngọn núi chẳng hạn), chúng sẽ gắng sức để “thắng” nó – nhưng trọng lực sẽ kéo chúng xuống.

Sự tác động này làm lớp sóng này xuyên qua các lớp sóng khác, tạo ra những gợn sóng di chuyển lên xuống.

Trên các đại dương, vệ tinh có thể nhận được các gợn sóng của khí quyển trên bề mặt. Ở đây, bạn có thể nhìn thấy những gợn sóng màu trắng trên hồ Thượng (hồ Superior).

 

vi-ly-do-nay-dung-goi-song-hap-dan-la-so

Hình ảnh sóng trọng lực trên bề mặt hồ Thượng.

 

Sự nhiễu loạn trong không khí, giống như một con bão đột ngột ập tới, cũng có thể tạo nên sóng trọng lực.

Ngược lại, chúng cũng có thể làm cho các trận bão trở nên dữ dội hơn, thậm chí biến nó thành những cơn lốc xoáy.

Không giống như các sóng hấp dẫn, bạn đã có thể nhìn thấy hoặc cảm thấy sóng trọng lực trong hành động theo một vài hình thức.

Vì vậy, khi nói đến một phát hiện đột phá làm khuấy động thế giới khoa học, thì đó chính là sóng hấp dẫn, không phải sóng trọng lực.

Nguồn: Tech Insider

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites