Posted 26 Tháng 9, 2016 Hồi hộp chờ NASA công bố về sự sống ngoài địa cầu 26/09/2016 14:28 GMT+7 TTO - Lúc 1g sáng ngày 27-9, Cơ quan Hàng không và không gian (NASA) của Mỹ dự kiến sẽ thông báo những thông tin đáng ngạc nhiên về sự sống ngoài địa cầu của chúng ta. Hình ảnh minh họa về thiết bị không gian của con người sẽ tiếp cận và nghiên cứu "mặt trăng" Europa trong tương lai - Ảnh: NASA Thực sự là từ năm ngày qua, những người yêu khoa học và yêu thích tìm tòi về sự sống đã hồi hộp khi cơ quan NASA thẩy lên Twitter vài dòng ngắn gọn nhưng cực kỳ quan trọng: vào lúc 14g chiều 26-9, tức 1g sáng 27-9 (giờ VN), cơ quan nghiên cứu không gian uy tín này sẽ thông báo về một phát hiện quan trọng trên một trong những vệ tinh của Sao Mộc (Jupiter) là “Mặt trăng” Europa. Để tránh các suy đoán, “chém gió”, cơ quan NASA cũng đã nói rõ rằng không có chuyện phát hiện người ngoài hành tinh hay gì cả! Thông báo của NASA trên mạng xã hội về việc sẽ công bố phát hiện trên Europa - Ảnh chụp màn hình Lần gần nhất mà cơ quan NASA có kiểu thông báo khiến người ta trông chờ như lần này là lần thông báo về sự hiện diện của nước trên sao Hỏa. Lần này, cảnh báo của NASA cũng không thể ngăn người ta đưa ra những giả thuyết khác nhau về những điều sắp được công bố và đương nhiên cũng không thể tránh được giả thuyết về những người ngoài hành tinh mắt tròn to, tai dài như con người vẫn thường tưởng tượng và thể hiện trên phim ảnh hay tranh vẽ. Các chuyên gia về lĩnh vực thì phỏng đoán nghiêm túc rằng có thể thông báo của NASA sẽ liên quan đến việc phát hiện một đại dương lỏng bên dưới lớp vỏ băng dày 15 - 20 km đang bao phủ bề mặt hành tinh Europa. Trước đây, NASA đã phát hiện thấy các dấu vết của nước trên bề mặt của Europa - vốn được xem là "mặt trăng" của sao Mộc. Vì khả năng có chứa nước mà các nhà khoa học tin rằng trên hành tinh này sẽ có sự sống. Thực ra vào hồi tháng 5 vừa qua, một số thành viên của NASA cũng đã nóng lòng nên tiết lộ thông tin về sự hiện hữu của một đại dương thể lỏng trên Europa. Đại dương ở thể lỏng dưới bề mặt băng của Europa là kết quả của quá trình tích nhiệt do thủy triều. Lực thủy triều làm cho phần bên trong của Europa ấm dần, cho phép đại dương nước lỏng tồn tại thay vì đông cứng. NASA đang lên kế hoạch cho sứ mệnh thăm dò tới Europa vào khoảng năm 2020, với hi vọng xem xét thành phần cấu tạo đại dương, độ dày của lớp vỏ băng và địa chất học ở bề mặt vệ tinh. Cho đến nay, những thông tin có được về Europa chủ yếu từ thông tin thu thập về của viễn vọng kính Hubble đang bay trên không gian "Theo hiểu biết của chúng tôi, đại dương của Europa không phải là môi trường khắc nghiệt", ông Kevin Peter Hand nhận xét. Ông là nhà sinh học thiên văn kiêm phó trưởng nhóm phụ trách chương trình thám hiểm hệ Mặt Trời tại Phòng thí nghiệm Sức đẩy Phản lực (JPL) của NASA. Đầu năm nay, nhóm nghiên cứu ở JPL công bố nghiên cứu cho thấy đại dương của Europa có thể giống Trái Đất về sự cân bằng năng lượng hóa học, cụ thể là tỷ lệ oxy và hydro, điều kiện hỗ trợ sự sống phát triển. "Europa rất đặc biệt bởi khả năng có một lượng oxy dồi dào trong đại dương. Chúng tôi dự đoán lượng khí oxy cùng với hydro lớn và duy trì liên tục của Europa có thể cân bằng theo cách thức độc đáo trên những thiên thể băng đá thuộc hệ Mặt Trời. Vì lý do này, Europa có thể là nơi thuận lợi cho sự sống khởi nguồn và tiến hóa", nhóm tác giả nghiên cứu chia sẻ. Hiện nay cũng đang có tàu dò Juno tập trung quan sát sao Mộc, nhưng sẽ có một tàu dò khác dành riêng cho Europa sẽ phóng lên không gian vào năm 2020. Cơ quan không gian của châu Âu (ESA) cũng có kế hoạch đưa tàu dò mang tên Juice lên không gian vào năm 2022 để khám phá các hành tinh Ganymède, Europe và Callisto, là ba trong số bốn vệ tinh của sao Mộc. Cần nhớ hồi tháng 3-2015, cơ quan NASA từng thông báo về sự hiện diện của vết nước trên bề mặt của vệ tinh Ganymède. Các "mặt trăng" của sao Mộc được cho là có kích cỡ tương đương hành tinh của chúng ta. Theo dự đoán của cơ quan ESA, các hành tinh đó "có thể chứa những vùng có sự sống bên dưới lớp vỏ băng của chúng". Nhưng hãy khoan nghĩ xa xôi hơn những phát hiện đã có như hiện nay, ví dụ về khả năng chuyển lên sống ở Europa. Hiện nhiệt độ ở bề mặt này đang là thử thách với con người: -150 độ C. Sao Mộc là hành tinh thứ năm tính từ Mặt Trời và là hành tinh lớn nhất trong Hệ Mặt Trời. Nó là hành tinh khí khổng lồ với khối lượng bằng một phần ngàn của Mặt Trời nhưng bằng hai lần rưỡi tổng khối lượng của tất cả các hành tinh khác trong Hệ Mặt Trời cộng lại. Khoảng cách trung bình giữa Sao Mộc và Mặt Trời là 778 triệu km (bằng 5,2 lần khoảng cách từ Trái Đất đến Mặt Trời, hoặc 5,2 AU) và nó hoàn thành một vòng quỹ đạo bằng 11,86 năm Trái Đất. Bầu khí quyển có Sao Mộc khá giống với bầu khí quyển của Mặt Trời, được cấu tạo chủ yếu bởi Hidro và Heli. Và với 4 vệ tinh lớn cùng rất nhiều vệ tinh nhỏ quay xung quanh, Sao Mộc đã tự "xây dựng" nên một Hệ Mặt Trời thu nhỏ. Với kích thước to lớn của Sao Mộc, nó có thể chứa hơn 1.300 Trái Đất. TÚ ANH ======================== Bây giờ là 2g ngày 27/ 9 2016 giờ Việt Nam. Hay nói đúng hơn là còn 23 g đồng hồ nữa NASA sẽ công bố một tin mà rất nhiều người hy vọng về sự sống ngoài trái Đất. Lão Gàn một lần nữa phát biểu trước giờ G: Chẳng bao giờ có một cái vẩy của một tế bào sống nào trong vũ trụ. Hãy yêu lấy cuộc sống ngay trên trái Đất này. 1 person likes this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 27 Tháng 9, 2016 Thưa quý vị và anh chị em.Trong video clip này, các bạn sẽ thấy biểu tượng chữ Vạn có ở khắp nơi trong các nền văn minh cổ trên thế giới - phút ghi trên video 14, 5< và 4 <.Trong cuốn "Tìm về cội nguồn Kinh Dịch" xb 2001, tôi đã chứng minh với bạn đọc về biểu tượng chữ Vạn chính là mô tả sự tương tác của vũ trụ theo chiều thuận, và chiều vận động của các dạng tồn tại của vật chất có hình thể theo chiều ngược. Và biểu tượng chữ Vạn cũng chính là sự cô đọng nhất của vòng xoáy Âm Dương Lạc Việt . Đây cũng là một biểu tượng phổ biến ở các nền văn minh cổ xưa, mô tả sự tương tác và vận động của vũ trụ. Nền văn minh hiện đại cũng đã phát hiện ra điều này (Xem sách "Minh triết Việt trong văn minh Đông phương". Nxb Tri Thức 2014).Thưa các bạn.Sự đồng nhất mang tính phổ biến của các biểu tượng văn hóa trên khắp các nền văn minh cổ xưa, đã xác định rằng: Đã có một nền văn minh toàn cầu tồn tại trước nền văn minh của chúng ta. Nền văn minh này đã bị xóa sổ và dấu ấn của nó đã để lại khi sự sống của toàn thể con người phải bắt đầu lại từ đầu.Người ta có thể có những giải thích khác nhau cho một sự kiện trực quan. Nhưng không thể làm thay đổi bản chất của chân lý. Bởi vì, không thể có bất cứ một nền văn minh hoang sơ nào trong lịch sử nhân loại nhận thức được, theo cách hiểu từ thời đại đồ đá cách đây hơn một vạn năm, có thể hoàn thiện một lý thuyết thống nhất vũ trụ mà cả nền văn minh hiện đại vẫn đang tìm kiếm.Đó chính là thuyết Âm Dương ngũ hành và ký hiệu Bát quái. Mà nền văn minh Lạc Việt với gần 5000 năm lịch sử chính là chủ sở hữu trong lịch sử văn minh hiện đại. Nhưng chủ nhân bản quyền của lý thuyết này lại thuộc về một nền văn minh toàn cầu kỳ vĩ đã tồn tại trên Địa cầu, trước nền văn minh của chúng ta.Thưa các bạnNhững cá nhân xuất sắc nhất trong lịch sử nền văn minh hiện đại, có thể phát minh ra những học thuyết cục bộ mô tả tính quy luật chuyên ngành, như: Newton, Galileo, Einstein.....Nhưng để tổng hợp thành một lý thuyết thống nhất, thì phải là cả một quá trình lịch sử và phát triển với hội nhập của cả một nền văn minh toàn cầu. Bởi vì nó phải là sự tổng hợp của tất cả những phát minh của con người trong lịch sử tiến hóa.Bởi vậy, Việt sử trải gần 5000 năm văn hiến, một thời huyền vĩ ở miền nam sông Dương Tử là một chân lý ngày càng chứng tỏ tính huyền vĩ của nó. Sự hội nhập toàn cầu chỉ có thể hoàn tất, nếu những cơ quan có trách nhiệm như UNESCO quan tâm đến chân lý cội nguồn đích thực của nền văn minh Đông phương. Vấn đề cũng không chỉ là sự hội nhập giữa các nền văn minh trong lịch sử văn minh hiện tại. Mà là sự hội nhập với cả một quá khứ vinh quang của con người.Cảm ơn sự quan tâm của các bạn.PS: Video được chia sẻ từ Fb của Thiên Đồng Bùi Anh Tuấn. https://www.facebook.com/thiensu.lacviet 3 people like this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 3 Tháng 10, 2016 NỀN VĂN MINH ATLANTICThưa quý vị và anh chị em.Ngay từ trong cuốn "Tìm về cội nguồn Kinh Dịch" xb lần đầu tiên 2001, tôi đã đặt vấn đề về sự tồn tại của một nền văn minh toàn cầu kỳ vĩ, có trước nền văn minh của chúng ta và tôi gọi là : nền văn minh Atlantic. Và đây chính là nền văn minh chủ nhân đích thực của thuyết ADNh, một lý thuyết thống nhất vũ trụ mà tất cả những tri thức tinh hoa của nhân loại đang mới chỉ mơ ước. Từ đó, trên những bài viết khắp các diễn đàn Lý học và những sách đã xuát bản, tôi luôn chứng minh và khẳng định điều này. Sự chứng minh của tôi căn cứ vào tính hợp lý lý thuyết và những di sản vật thể, phi vật thể liên quan.Kể từ khi tôi công bố điều này, những nhà khoa học đã phát hiện từ khắp nơi trên thế giới, những bằng chứng trực quan để xác minh cho sự đúng đắn từ nhận định của tôi. Bài viết trên Soha được trích dẫn dưới đây chứng tỏ điều này.Tuy nhiên, tôi cần khẳng định rằng: Sự phát hiện ngày càng nhiều những di sản của nền văn minh Atlantic sẽ chỉ cho chúng ta xác định một nền văn minh cổ xưa đã tồn tại. và từ đó dẫn đến những tri thức tinh hoa của nền văn minh hiện đại thừa nhận sự tồn tại của một nền văn minh huyền vĩ có trước nền văn minh của chúng ta, qua nhưng di sản vật thể được phát hiển bởi ngành khảo cổ, - thì - họ cũng mới chỉ thừa nhận về hình thức qua những di sản khảo cổ sự tồn tại của nền văn minh Atlantic, còn những giá trị tri thức đích thực và là tinh hoa của nền văn minh này, sẽ chỉ thật sự sáng tỏ khi thông qua những giá trị huyền vĩ của nền văn hiến Việt trải gần 5000 năm lịch sử và là cội nguồn đích thực của nền văn minh Đông phương. Cảm ơn sự quan tâm của quý vị và anh chị em. =================== Ba phát hiện khảo cổ học khiến nhân loại phải viết lại lịch sử Cẩm Mai | 03/10/2016 09:04 Những phát hiện này cho thấy, sử sách thế giới mới chỉ ghi lại đươc một phần quá trình phát triển của nhân loại. Thung lũng kim tự tháp Bosnia. Tình cờ phát hiện ba kim tự tháp kỳ lạ dưới đáy biển Bồ Đào Nha Ai Cập có kim tự tháp bị nổ cách đây 12.000 năm, còn cao hơn cả Giza! Bí mật đêm kinh hoàng của Napoleon trong kim tự tháp Ai Cập Phát hiện thung lũng kim tự tháp khổng lồ ở Bosnia, lịch sử thế giới có thể phải viết lại Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng có lẽ loài người đã tồn tại lâu hơn so với những gì chúng ta đã biết và ghi chép lại. Những phát hiện khảo cổ học gần đây làm giới nghiên cứu kinh ngạc, ngay cả các nhà sử học cũng chưa từng được biết đến. Sau đây là 3 phát hiện khảo cổ học nổi bật nhất khiến chúng ta phải viết lại lịch sử thế giới: Các kim tự tháp trên bán đảo Crimea Giới nghiên cứu cho rằng các kim tự tháp trên bán đảo Crimea được xây dựng từ khi khủng long chạy tự do trên Trái Đất. Tàn tích cổ đại trên bán đảo Crimea. Những công trình bằng đá và kim tự tháp trên bán đảo Crimea làm thay đổi cách người ta nhìn nhận lịch sử. Khu vực này nổi tiếng bởi những phát hiện khảo cổ học cổ đại. Người ta đã phát hiện thấy ở đây những kho báu của nhiều nền văn minh khác nhau, từ Hy Lạp, La Mã đến Genoa, Ottoman và Thổ Nhĩ Kỳ. Cựu chiến binh Vitalij Gokh đã từng phục vụ hơn 30 năm trong quân đội Xô viết, là người đầu tiên phát hiện ra những kho báu đó vào năm 1999. Sau khi về hưu, ông trở thành nhà nghiên cứu tìm ra kim tự tháp Gokh. Ông còn khẳng định rằng trên bán đảo Crimea có những thị trấn kim tự tháp và những công trình bằng đá bị chôn vùi. Các kim tự tháp tại Bosnia Phát hiện thung lũng kim tự tháp tại Bosnia được coi là phát hiện khảo cổ có giá trị nhất châu Âu, khiến nhân loại phải viết lại lịch sử. Các kim tự tháp tại Bosnia. Các nhà nghiên cứu trên thế giới cho rằng các kim tự tháp gần thị trấn Visoko, phía tây bắc Sarajevo thuộc Bosnia là những kim tự tháp cổ xưa nhất hành tinh do con người xây dựng. Kim tự tháp Mặt Trời cao nhất trong thung lũng kim tự tháp Bosnia, còn cao hơn cả đại kim tự tháp Giza ở Ai Cập. Điều kỳ lạ là 2 kim tự tháp này có 4 mặt trùng khớp nhau trên la bàn. Không biết vì sao hai nền văn minh ở cách xa nhau và không trao đổi với nhau mà xây dựng chính xác như nhau đến vậy? Kết cấu nano 300.000 năm tuổi trong núi Ural Kết cấu nano 300.000 năm tuổi được phát hiện ra ở Nga được coi là đồ tạo tác bí ẩn nhất được tìm thấy trong mấy năm gần đây. Những đồ vật được phát hiện trong núi Ural. Những kết cấu này đã 300.000 năm tuổi thì có nghĩa là nền văn minh cổ đại tiến bộ làm ra chúng đã từng tồn tại trên Trái Đất từ lâu hơn thế. Trong khi các nhà địa chất đi tìm vàng ở núi Ural, họ đã phát hiện ra những đồ vật này. Trong số những đồ vật không xác định được phát hiện trong lòng đất, có những vòng xoáy tròn, vòng xoáy xoắn ốc và ống trục. Viện hàn lâm Khoa học Nga đã kiểm định những đồ vật này và cho ra kết quả bất ngờ. Những đồ vật lớn bằng đồng, đồ vật nhỏ bằng vonfam và molypden. Nguồn: EWAO 2 people like this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 17 Tháng 10, 2016 Những bản khắc đá bí ẩn thời tiền sử ở ScotlandChủ nhật, 16/10/2016 | 10:00 GMT+7 Một nhà khảo cổ phát hiện hàng trăm bản khắc đá thời tiền sử ở Scotland với mục đích sử dụng chưa thể lý giải.Những khối đá tròn như hòn bi khổng lồ ở Kazakhstan Bản khắc đá do Currie phát hiện ở trung tâm thành phố Perthshire, Scotland. Ảnh:George Currie. Nhà khảo cổ học nghiệp dư George Currie ở Dundee, Scotland, tìm thấy hơn 670 bản khắc đá thuộc thời kỳ Đồ đồng và Đồ đá mới, theoGuardian trong quá trình tìm kiếm suốt 15 năm qua ở thành phố Perthshire. Currie quan tâm đến khảo cổ học trong thời gian dài, nhưng niềm đam mê nghệ thuật trên đá của ông bắt đầu sau khi ông phát hiện bản khắc đá kỳ lạ có kích thước hai mét chưa được ghi chép tại một địa điểm khảo cổ. Những khám phá của Currie sẽ nằm trong dự án nghiên cứu lớn nhất về nghệ thuật đá thời tiền sử ở Anh kéo dài 5 năm, bắt đầu từ năm 2017. Dự án này được chủ trì bởi tổ chức Môi trường Lịch sử Scotland (HES) dưới sự chỉ đạo của Tertia Barnett, tiến sĩ tại Đại học Edinburgh, Scotland. Giới khảo cổ phát hiện hơn 2.500 phiến đá chạm khắc ở Scotland, có niên đại từ năm 4000 đến năm 2000 trước Công nguyên. Hầu hết bản khắc đá có vết lõm trên bề mặt, xung quanh là những vòng tròn đồng tâm với đường hoặc rãnh mở rộng. Mục đích và ý nghĩa ban đầu của các bản khắc đá cho đến nay vẫn là điều bí ẩn. Nhiều học giả suy đoán chúng được dùng để đánh dấu lãnh thổ, biểu tượng sinh sản, dấu hiệu thiên văn, hoặc chỉ đơn giản là hình vẽ nguệch ngoạc của người tiền sử. Xem thêm: Công trình 5.400 tuổi vùi dưới bãi rác cổ đại Lê Hùng Nguồn: Báo Vnexpress Share this post Link to post Share on other sites
Posted 23 Tháng 10, 2016 Vật thể bằng nhôm 250.000 năm tuổi nghi là mảnh vỡ UFOThứ sáu, 21/10/2016 | 12:00 GMT+7 Một vật thể lớn bằng nhôm có niên đại 250.000 năm gây tranh cãi bởi nó xuất hiện sớm hơn rất nhiều so với thời điểm con người biết đến được kim loại nhôm.Vật thể giống đĩa bay trên đỉnh núi sao Hỏa Vật thể bằng nhôm chưa rõ nguồn gốc tìm thấy ở Romania. Ảnh: CEN. Vật thể lạ bằng nhôm gần đây gây nhiều tranh cãi do các chuyên gia đánh giá nó có niên đại ít nhất 250.000 năm, trong khi loài người mới chỉ sản xuất được nhôm kim loại cách đây khoảng 200 năm, theo Mirror. Năm 1973, nhóm công nhân xây dựng làm việc trên bờ sông Mures gần thị trấn Aiud của Romania tìm thấy ba vật thể ở độ sâu 10 m dưới mặt đất. Do các vật đào lên có vẻ khác thường và lâu đời, các nhà khảo cổ học được mời đến hiện trường. Họ lập tức nhận ra hai trong số ba vật thể là hóa thạch xương động vật. Vật thể còn lại rất nhẹ, trông giống như đồ kim loại do con người sản xuất và có hình dáng giống lưỡi rìu. Cả ba món đồ được gửi tới thành phố Cluj thuộc tỉnh Transylvania, Romania để phân tích kỹ hơn. Chuyên gia giám định nhanh chóng phát hiện hai chiếc xương lớn thuộc về một động vật có vú đã chết cách đây 10.000 - 80.000 năm. Tuy nhiên, vật thể thứ ba khiến họ vô cùng kinh ngạc. Theo kết quả kiểm tra, vật thể được làm từ 12 kim loại với 90% là nhôm, có niên đại 250.000 năm. Kết quả giám định này được một phòng thí nghiệm ở Lausanne, Thụy Điển, xác nhận sau đó. Một số chuyên gia khác đưa ra nhiều mốc niên đại khác nhau của vật thể, từ 400 đến 80.000 năm. Ngay cả có niên đại ít nhất là 400 năm, vật thể vẫn ra đời sớm hơn 200 năm so với thời điểm con người lần đầu tiên biết tới vật liệu nhôm. Vật thể dài 20 cm, rộng 12,5 cm và dày 7 cm. Điều khiến các chuyên gia bối rối là khối kim loại có mặt lõm giống như một bộ phận của một hệ thống máy móc phức tạp. Nhiều thợ săn vật thể bay không xác định (UFO) cho rằng vật thể này chính là mảnh vỡ của một chiếc đĩa bay, bằng chứng cho thấy nền văn minh ngoài hành tinh từng ghé thăm Trái Đất trong quá khứ. Nhà sử học người Romania Mihai Wittenberger cho rằng mảnh nhôm trên là một phần của chiếc máy bay Đức thời Thế chiến II, nhưng không thể giải thích được niên đại của vật thể. Vật thể đang được triển lãm tại Bảo tàng lịch sử Cluj-Napoca với ghi chú "chưa rõ nguồn gốc". Phương Hoa Nguồn: Báo Vnexpres. Share this post Link to post Share on other sites
Posted 18 Tháng 11, 2016 Bùa hộ mệnh 6.000 năm được đúc như công nghệ của NASAThứ năm, 17/11/2016 | 12:00 GMT+7 Chiếc bùa hộ mệnh ra đời cách đây 6.000 năm bằng công nghệ đúc liền khối vẫn được NASA sử dụng để chế tạo tàu vũ trụ.Bùa hộ mệnh - vật trừ tà cầu may của người cổ đại Bùa hộ mệnh chế tạo bằng kỹ thuật đúc khuôn chảy. Ảnh: Nature. Chiếc bùa 6.000 năm tuổi tìm thấy ở ngôi làng từ thời Đồ đá mới Mehragarh, Pakistan, là sản phẩm lâu đời nhất sử dụng kỹ thuật đúc khuôn chảy, phương pháp chế tác kim loại vẫn được sử dụng trong ngành hàng không vũ trụ ngày nay, theo Washington Post. Trong báo cáo công bố hôm 15/11 trên tạp chí Nature, các nhà khoa học ở trung tâm nghiên cứu vật liệu khảo cổ châu Âu Ipanema, Pháp, phân tích chiếc bùa bằng công nghệ chụp ảnh phát quang để tìm hiểu chính xác cách người cổ đại chế tạo nó. Họ chiếu ánh sáng lên chiếc bùa, sau đó đo lượng ánh sáng phản xạ lại. Những vật liệu khác nhau có lượng ánh sáng phản xạ khác nhau, cho phép nhóm nghiên cứu xác định rõ vật liệu dùng để chế tạo chiếc bùa. Quá trình phân tích chỉ ra chiếc bùa được đúc liền khối, chứng tỏ nó được tạo ra bằng kỹ thuật đúc khuôn chảy. Kỹ thuật này tạo ra bản sao của vật mẫu bằng sáp, sau đó làm khuôn bao quanh. Người thợ rèn đun nóng khuôn này, đổ sáp lỏng ra ngoài và rót kim loại nóng chảy vào trong. Sau khi nguội, khuôn vỡ ra, để lại đồ vật kim loại mới nguyên vẹn. Chiếc bùa hộ mệnh được chế tác bằng cách đổ đồng nóng chảy vào khuôn đất sét chuẩn bị từ trước. Đồng hấp thụ một lượng nhỏ oxy trong quá trình sản xuất, dẫn đến những vệt oxit đồng nhỏ li ti bên trong chiếc bùa. Kỹ thuật đúc khuôn chảy có thể sử dụng cho những thiết kế phức tạp hơn. Đây vẫn là phương pháp phổ biến nhất trong các lò đúc ngày nay. "Đúc khuôn chảy là kỹ thuật chế tác kim loại chính xác nhất trong các ngành hàng không vũ trụ và y sinh học, dùng cho hợp kim từ thép đến titan", nhóm nghiên cứu cho biết. Kỹ thuật cũng được dùng để tạo ra nhiều phần trên tàu con thoi NASA, Trạm Vũ trụ Quốc tế và robot thăm dò sao Hỏa Curiosity. NASA cũng chế tạo các bộ phận của tàu vũ trụ Messenger bay quanh quỹ đạo sao Thủy trong năm 2011 - 2015 bằng công nghệ đúc khuôn chảy này. Xem thêm: Bùa hộ mệnh bí ẩn của người cổ đại Phương Hoa Nguồn: Báo Vnexpress. Share this post Link to post Share on other sites
Posted 29 Tháng 11, 2016 Tài liệu kết quả thử nghiệm của NASA bị lộ cho thấy động cơ đưa chúng ta lên Sao Hỏa trong 70 ngày hoàn toàn khả thi 07/11/2016 22:41 Động cơ đi ngược với nguyên tắc vật lý này liệu có thể đưa loài người đi khám phá vũ trụ? Kết quả thử nghiệm động cơ điện từ EM Drive đã bị lộ ra ngoài, và theo như những tài liệu lộ ra đó, không phải một nhóm các nhà khoa học “nào đó” đã tiến hành thử nghiệm, đó là chính NASA. Mức độ chính xác của những tài liệu này vẫn chưa được xác minh, nhưng thông tin trong đó có vẻ như toàn là tin mừng: hệ thống đẩy của EM Drive thực sự hoạt động được và chúng có thể tạo ra được lực đẩy trong môi trường chân không. Trong khoảng thời gian một năm qua, có thể nói EM Drive đã làm mưa làm gió khắp nơi. Người ta nghe tới một động cơ đẩy-mà-không-đẩy, có thể tạo ra lực phóng mà không dùng tới nhiên liệu và tuyệt vời hơn, nó có thể đưa chúng ta tới Sao Hỏa chỉ trong 70 ngày. Một vấn đề tồn tại duy nhất và cũng là lớn nhất: động cơ này không thể hoạt động được, nếu dựa trên các nguyên tắc vật lý hiện tại mà chúng ta vẫn biết. Theo Newton: Trong mọi trường hợp, khi vật A tác dụng lên vật B một lực, thì vật B cũng tác dụng lại vật A một lực. Hai lực này có cùng giá trị, cùng độ lớn, nhưng ngược chiều. Điều đó có nghĩa rằng để một động cơ có thể “đẩy” được, nó phải đẩy thứ gì đó ra để có thể tiến về phía trước. Như trong vũ trụ, thì thứ đó chính là nhiên liệu đốt. Nhưng EM Drive lại hoạt động mà không cần tới nhiên liệu, nó hoạt động nhờ photon vi sóng nảy qua lại trong một lồng chứa kín bằng kim loại. Chuyển động hạt đó khiến cho EM Drive tạo ra lực đẩy, đưa “đầu nhọn” hướng về phía trước. Là chủ đề tranh cãi và là đối tượng thử nghiệm nhiều năm rồi, động cơ này vẫn là thứ làm đau đầu các nhà khoa học. Nó không thể hoạt động, không được phép hoạt động bởi chúng ta bị các quy luật vật lý trói buộc, nhưng rồi với các thử nghiệm này qua thử nghiệm khác, EM Drive vẫn cho ra kết quả rằng nó hoạt động được. Năm ngoái, Phòng thí nghiệm Eagleworks tham gia vào quá trình giải thích nguyên lý EM Drive “một lần cho xong”, xóa bỏ mọi cuộc tranh cãi và giờ đây, với kết quả thử nghiệm vừa mới bị lộ ra ngoài, không chỉ là EM Drive hoạt động được mà thậm chí, nó còn hoạt động với một lực đẩy khá ấn tượng. Mức độ tin cậy của những tài liệu này chưa được xác định, hiện tại nó mới chỉ được coi là những kết quả nghiên cứu của một số nhà khoa học mà thôi. Họ kết luận rằng EM Drive có thể tạo ra lực đẩy 1,2 millinewton/kilowatt trong môi trường không trọng lực. Chừng đó không phải là nhiều, khi so sánh với động cơ đẩy plasma Hall (được cho là sẽ đưa con người lên sao Hỏa mà tốn rất ít nhiên liệu) với lực tạo ra là 60 millinewton/kilowatt. Tuy nhiên, Hall vẫn phải sử dụng nhiên liệu và vẫn cần một tàu lớn để có thể mang được nó lên vũ trụ, trong khi đó EM Drive nhỏ nhẹ hơn và không cần tới nhiên liệu. Trong quá trình thử, họ theo dõi cẩn thận xem liệu việc phát hiện ra lực đẩy có thể là do lỗi hệ thống hay không, nhưng cho tới giờ, có vẻ như EM Drive có khả năng đẩy thực sự, theo kết luận của trưởng đội ngũ nghiên cứu, ông Harold White. Có được kết quả này nhưng đội ngũ nghiên cứ vẫn xác nhận rằng họ vẫn cần phải xem xét kĩ lưỡng động cơ này, rất có thể một lượng nhiệt lượng đột nhiên tăng cao đã làm hỏng kết quả thử nghiệm này. Họ cũng nói rõ rằng những thử nghiệm này không phải là để tối ưu hóa lực đẩy mà EM Drive có thể tạo ra, nó được thử nghiệm đơn giản là để xem xem DM Drive có thể thực sự hoạt động không và nếu có, nó sẽ có thể giúp cho hệ thống động cơ đẩy thông thường được thiết kế để tăng hiệu quả sử dụng. Đừng kỳ vọng quá nhiều vào một bản báo cáo lộ ra ngoài và chưa được xem xét kĩ càng. Nhưng bây giờ cũng đã là một thời điểm thích hợp để chúng ta bắt đầu tìm hiểu xem hệ thống kì lạ này hoạt động như thế nào và quan trọng hơn, thử nghiệm nó trên môi trường ngoài Trái Đất. Vẫn là một chặng được dài để biến thứ “bất khả thi” thành “có thể”, nhưng đây cũng có thể coi là một chứng cứ nữa về tính khả dụng của EM Drive. Rất có thể trong tương lai, chúng ta sẽ có được những hệ thống động cơ đẩy mà không cần nhiên liệu. Ta hãy cùng chờ xem điều gì sẽ xảy ra tiếp theo. ===================== NASA xác nhận rằng động cơ điện từ bất khả thi EM Drive hoạt động được 19/11/2016 23:00 Lời giải thích nào cho động cơ trái với vật lý mà ta biết nhưng vẫn hoạt động được? Sau cả tháng giời mong ngóng với những tài liệu nghiên cứu bị rò rỉ ra ngoài thì cuối cùng, NASA cũng đã chính thức công bố báo cáo kết quả nghiên cứu động cơ điện từ EM Drive. Và họ kết luận rằng, ĐỘNG CƠ NÀY HOẠT ĐỘNG ĐƯỢC. Phòng thí nghiệm Eagleworks của NASA đã thử nghiệm và chứng minh được rằng EM Drive có tạo ra một lực đẩy, một lực đẩy trái với mọi quy luật vật lý mà ta biết. Giải ngố chút nếu như bạn chưa biết, động cơ điện từ EM Drive là một động cơ đẩy lý thuyết được đưa ra bởi nhà phát minh người Anh, ông Roger Shawyer hồi năm 1999. Thay vì sử dụng nhiên liệu tên lửa nặng nề và tốn kém, EM Drive sẽ sử dụng các photon vi sóng va đập liên tục trong khoang của mình để tạo ra lực đẩy. Theo như tính toán của ông Shawyer, EM Drive sẽ có thể đưa chúng ta lên tới Sao Hỏa trong thời gian vỏn vẹn 70 ngày. Điều duy nhất khiến cho công nghệ này không vận dụng được, đó là nó đi ngược lại với những quy luật vật lý mà ta vẫn biết. Theo Newton: Trong mọi trường hợp, khi vật A tác dụng lên vật B một lực, thì vật B cũng tác dụng lại vật A một lực. Hai lực này có cùng giá trị, cùng độ lớn, nhưng ngược chiều. Điều đó có nghĩa rằng để một động cơ có thể “đẩy” được, nó phải đẩy thứ gì đó ra để có thể tiến về phía trước. Như trong vũ trụ, thì thứ đó chính là nhiên liệu đốt. Nhưng EM Drive lại hoạt động mà không cần tới nhiên liệu, nó hoạt động nhờ photon vi sóng nảy qua lại trong một lồng chứa kín bằng kim loại. Chuyển động hạt đó khiến cho EM Drive tạo ra lực đẩy, đưa “đầu nhọn” hướng về phía trước. Thử nghiệm này qua thử nghiệm khác, động cơ này vẫn hoạt động dù bản thân nó là một nghịch lý và năm ngoái, Phòng thí nghiệm Eaagleworks chính thức đưa động cơ này vào thử nghiệm, một lần duy nhất để chứng minh/bác bỏ lý thuyết về động cơ này. Chúng ta đã có kết quả chính thức. Báo cáo đã được xét duyệt mang tên “Đo đạc Lực đẩy của Tần số radio gần trong khoảng không - Measurement of Impulsive Thrust from a Closed Radio-Frequency Cavity in Vacuum” đã được đăng tải bởi Viện Hàng không và Du hành vũ trụ Mỹ. Nó có những phần giống với bản báo cáo bị lộ ra hồi đầu tháng này, và hiển nhiên kết quả của nó cũng giống nhau: EM Drive tạo ra được lực đẩy trong chân không bằng 1,2 millinewtons với mỗi kilowatt. So sánh để dễ hình dung, động cơ đẩy siêu mạnh Hall có thể tạo ra 60 millinewton/kilowatt. Nhưng Hall cần tới một lượng rất lớn nhiên liệu tên lửa để hoạt động, chưa kể cân nặng lớn khiến sức mạnh của nó bị kéo lại phần nào. Động cơ đẩy Hall. Đội ngũ nêu rõ rằng họ không cố gắng tối đa hóa hiệu năng của những động cơ này. Họ chỉ cố gắng chứng minh động cơ không tưởng này có thể hoạt động được và họ đã làm được điều đó, ta sẽ có những ứng dụng cho động cơ điện từ này. Và một điều cực kì đáng ngạc nhiên và nhiều phần không rõ ràng nữa là “Các định luật vật lý của ta liệu có phải là chuẩn xác?”, khi mà NASA đã chứng minh được rằng EM Drive – động cơ đi ngược lại với quy luật Newton – thực sự hoạt động? Giả thuyết mà NASA đưa ra là: “Hình mẫu vật lý khiến đã được chứng kiến trong thử nghiệm này có thể được xếp hạng vào giả thuyết pilot-wave”. Một giả thuyết nhằm vào việc giải thích cơ học lượng tử bằng thuyết tiền định (thuyết định mệnh) mà không cần động chạm tới tính đối ngẫu của sóng-hạt hay nghịch lý mèo Schrödinger nổi tiếng. Nói bằng ngôn ngữ dễ hiểu, đó là: Hiện tại, ta đang chấp nhận bản chất của trạng thái cơ học lượng tử là các hạt không tồn tại một địa điểm cho trước, cho tới khi chúng được quan sát và phân tích. Thuyết pilot-wave cho rằng vào mọi lúc, các hạt đều tồn tại ở một vị trí chính xác nhưng để thuyết này thực sự tồn tại, bản chất thế giới chúng ta phải hoạt động khác và đó là lý do vì sao nhiều nhà vật lý không chấp nhận thuyết pilot-wave. Những năm gần đây, thuyết pilot-wave đã được chú ý tới nhiều hơn và NASA cho rằng chính thuyết này sẽ chứng minh được lý do động cơ EM Drive có thể hoạt động được “Nếu như chân không có thể biến đổi và suy giảm, ta sẽ có thể thử nghiệm trên nó và lấy thông tin từ nó, từ đó ta có thể tiến tới việc đẩy xa hơn những giới hạn của chân không lượng tử và sẽ vẫn giữ nguyên vẹn được luật bảo toàn năng lượng và luật bảo toàn động lượng”, đội ngũ các nhà khoa học tại NASA viết trong báo cáo. Tuy nhiên, đó cũng chỉ là phỏng đoán, một cách giải thích cho sự “kì diệu” của động cơ EM Drive. Vẫn cần tiến hành những thử nghiệm khác, để chứng minh rằng “làm thế nào mà nó lại hoạt động được”. Nhiều thành viên trong cộng đồng khoa học vẫn nhìn động cơ EM Drive với một con mắt khác: họ không tin tưởng rằng EM Drive có thể tạo ra lực đẩy. Nhưng với bản báo cáo được xét duyệt mới này, EM Drive sẽ chuyển từ khoa học giả - khoa học lý thuyết sang thứ gì đó đáng để thực sự bỏ công nghiên cứu. Bước tiếp theo sẽ là thử nghiệm EM Drive trên vũ trụ, dự án này hiện đã được chuẩn bị những bước đầu rồi. Nếu như nó tạo ra lực đẩy trong môi trường ngoài Trái Đất, toàn bộ cộng đồng khoa học sẽ phải có một cái nhìn khác về động cơ này. Bạn có thể đọc toàn bộ bản báo cáo nghiên cứu khoa học tại đây. Tham khảo ScienceAlert Nguồn: Báo Thời Đại Share this post Link to post Share on other sites
Posted 29 Tháng 11, 2016 (đã chỉnh sửa) Sự bất lực khi giải thích hiện tượng trên chỉ chứng tỏ khoa học hiện đại còn nhiều bất cập, nếu không thay đổi lớn thì hông bao giờ giải thích được. Dựa trên "Cơ sở học thuyết Âm dương Ngũ hành" trên diễn đàn này, tôi không chỉ giải thích được mà còn có thể thiết kế nguyên lý hoạt động của cái động cơ này. Chỉ lưu ý, sóng ánh sáng xử dụng ở đây có tần số khá thấp chứ không cao, nói đúng hơn, nó là sóng vô tuyến tần số trung bình. Động cơ của tương lai có lẽ là theo nguyên lý này. Cái hay là không có nhiều chuyển động quay đòi hỏi quá chính xác như cái mô tơ , hộp số hiện hành. Chỉ cần một máy phát sóng vô tuyến, một buồng cộng hưởng sóng và một cây nhận lực là đủ. Edited 29 Tháng 11, 2016 by Vo Truoc Share this post Link to post Share on other sites
Posted 30 Tháng 11, 2016 Để anh chị em không nghĩ tôi chém gió, tôi xin pot thiết kế nguyên lý động cơ sóng điện từ mà tôi đã nghiên cứu từ lâu khi viết "Cơ sở học thuyết Âm dương Ngũ hành" xem có giống không nhé. 1 person likes this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 30 Tháng 11, 2016 Các nhà khoa học đang thực nghiệm một lý thuyết có thể thay đổi cả thuyết tương đối của Albert Einstein 29/11/2016 10:56 Và có thể thay đổi hoàn toàn hiểu biết về vũ trụ. Được đề xuất lần đầu vào cuối năm 1990 nhưng tới bây giờ lý thuyết về tốc độ ánh sáng này mới được thực nghiệm. Nó có khả năng trở thành một trong những thực nghiệm quan trọng nhất từ trước tới nay bởi nếu được chứng minh là đúng, nó có thể thay đổi một số hiểu biết cơ bản nhất của chúng ta về vũ trụ. Trước đây, chúng ta cho rằng tốc độ ánh sáng về cơ bản là không thay đổi. Đó là ý tưởng trung tâm góp phần tạo ra một số khái niệm quan trọng nhất trong vật lý và những hiểu biết của chúng ta về vũ trụ, chẳng hạn như thuyết tương đối tổng quát và cách vũ trụ giãn nở sau vụ nổ Big Bang. Tốc độ ánh sáng hiện tại, xấp xỉ 300 triệu mét mỗi giây, luôn luôn được coi là một hằng số và còn được coi là tốc độ tối đa của bất cứ thứ gì trong vũ trụ. Nhưng lý thuyết mới cho rằng trong thời gian đầu khi vũ trụ mới hình thành ánh sáng có thể đi với tốc độ nhanh hơn nhiều so với hiện tại. Bằng cách nghiên cứu bức xạ nền vi sóng vũ trụ (CMB) các nhà khoa học hy vọng rằng họ có thể chứng minh rằng tốc độ ánh sáng không phải là hằng số. CMB là bức xạ điện từ được sinh ra từ thời kỳ sơ khai của vũ trụ, sau vụ nổ Big Bang, và là bức tranh của vũ trụ thời sơ khai. Các cấu trúc trong vũ trụ, như các thiên hà, tất cả đều được hình thành từ các biến động nhỏ trong vũ trụ thủa sơ khai, hiện các biến động này đều được in dấu trong CMB. Hiện các nhà khoa học đang cố gắng dùng những số liệu tính toán, đo đạc của các biến động này để tạo ra một "chỉ số quang phổ". Theo một nghiên cứu mới, nếu lý thuyết tốc độ ánh sáng mới là đúng và tốc độ ánh sáng có thể cao hơn sau vụ nổ Big Bang, chỉ số quang phổ chính xác là 0,96478. Ước tính hiện tại chỉ số quang phổ gần đạt mức tương tự, vào khoảng 0,968. Giáo sư Joao Magueijo, từ trường Imperial College London, người dẫn đầu nghiên cứu, chia sẻ rằng: "Lý thuyết mà chúng tôi đề xuất lần đầu vào cuối năm 1990 đã tới lúc trưởng thành, nó đã tạo ra một dự đoán có thể kiểm chứng. Nếu quan sát trong tương lai gần có thể tìm ra rằng con số này là chính xác, nó sẽ khiến thuyết tương đối của Einstein không còn đúng nữa". "Ý tưởng cho rằng tốc độ ánh sáng không phải là hằng số có thể bị phản bác khi lần đầu được đề xuất nhưng với một số dự đoán nhất định nó có thể là một thứ gì đó mà các nhà khoa học có thể thực sự thực nghiệm. Nếu nó được chứng minh là đúng thì các quy luật tự nhiên mà chúng ta biết hiện tại có thể sẽ bị thay đổi". Theo Independent Nguồn: Báo Thời Đại Share this post Link to post Share on other sites
Posted 30 Tháng 11, 2016 Cái lý thuyết ấy các nhà khoa học còn đang nghiên cứu xây dựng, còn tôi thì đã viết xong và pot lên diễn đàn, không chỉ bác bỏ thuyết tương đối mà còn bao trùm luôn cơ học lượng tử và thuyết Bigbang (không có vấn đề không tương thích như giữa thuyết tương đối và cơ học lượng tử). Chỉ có một điều khác nhau là lý thuyết của họ được quan tâm còn của tôi thì không! 2 people like this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 4 Tháng 12, 2016 Các nhà thiên văn học phát hiện ra hiện tượng đi ngược lại với những gì Newton và Einstein đã vẽ ra 03/12/2016 09:57 Một hiện tượng lượng tử diễn ra với quy mô khổng lồ của cả một ngôi sao vũ trụ. Lần đầu tiên trong lịch sử, các nhà thiên văn học phát hiện và quan sát được một hiện tượng lượng tử diễn ra trong tự nhiên. Đó là khi một sao neutron bị bao quanh bởi một từ trường mạnh tới mức nó tạo ra cả một vùng kì dị trên vũ trụ, một vùng mà trong đó các vật chất liên tục tồn tại rồi lại biến mất một cách tự nhiên. Hình minh họa cho một ngôi sao neutron. Được gọi là lưỡng chiết chân không (lưỡng chiết là là hiện tượng xảy ra khi tia sáng khi đi qua một số loại tinh thể bị tách ra thành hai tia sáng: tia thường và tia khác thường – tia thượng đẳng), hiện tượng kì lạ này được dự đoán lần đầu tiên vào khoảng thời gian những năm 1930, nhưng mới chỉ được quan sát ở quy mô nguyên tử. Bây giờ, các nhà khoa học đã lần đầu tiên chứng kiến hiện tượng này diễn ra trong tự nhiên và kì lạ hơn, nó đi ngược lại với mọi thứ mà Newton và Einstein đã vẽ ra. Ánh sáng đi qua tinh thể canxít tạo ra hai ảnh của chữ viết nằm bên dưới, tương ứng với tia thường và tia khác thường. “Đây là một sự kiện xảy ra rất rõ ràng thuộc lĩnh vực lượng tử, một sự kiện mang tầm vĩ mô”, anh Jeremy Heyl tới từ Đại học Bristish Columbia, người không thuộc dự án nghiên cứu này nói. “Mức độ rõ ràng của nó mang tầm cỡ của cả một ngôi sao neutron”. Một nhóm các nhà thiên văn học quốc tế, dẫn dắt bởi giáo sư Roberto Mignani từ Ý đã phát hiện ra hiện tượng này, khi họ tiến hành quan sát sao neutron mang tên RX J1856.5-3754, cách Trái Đất chúng ta 400 năm ánh sáng. Sao neutron là những lõi bị nghiền nát từ một ngôi sao khổng lồ bị “sập” xuống bởi chính sức nặng của nó, hiện tượng “sập” xảy ra khi ngôi sao ấy hết năng lượng và phát nổ dưới dạng một siêu tân tinh. Cho dù sự hình thành và tính chất của nó khá giống với hố đen, nhưng nó vẫn thiếu độ lớn để có thể trở thành “tử thần” của vũ trụ. Chúng được cấu tạo nên từ một trong những vật liệu đặc nhất Vũ trụ. Chỉ một thìa vật chất này cũng có cân nặng tới 1 tỷ tấn khi đặt trên Trái Đất, lớp ngoài của nó cứng hơn thép 10 tỷ lần. Sau neutron RX J1856.5-3754. Chưa hết, sao neutron cũng sở hữu một trong những từ trường mạnh nhất Vũ trụ. Các nhà thiên văn học dự đoán rằng sao neutron có từ trường mạnh nhất sẽ lớn hơn Trái Đất hoảng 100 nghìn tỷ lần. Những từ trường ấy mạnh đến mức nực cười, và chúng có thể tự gây ảnh hưởng tới những vùng không gian trống xung quanh một ngôi sao neutron. Trong vật lý cơ bản ta học được từ Newton và Einstein, khoảng không vũ trụ hoàn toàn trống rỗng, nhưng thuyết cơ học lượng tử lại không cho rằng như vậy. Theo như động lực điện lượng tử QED – một lý thuyết lượng tử lý giải cách thức ánh sáng và vật chất tiếp xúc với nhau – dự đoán, thì vũ trụ có đầy những hạt ảo liên tục tồn tại và biến mất, gây ảnh hưởng tới hoạt động của các hạt ánh sáng photon khi các hạt photon này di chuyển xuyên qua vũ trụ. Những hạt ảo này không giống như những hạt vật lý thông thường (như các electron, photon) mà ta vẫn biết. Chúng là những điểm bất thường trong lĩnh vực vật lý lượng tử nhưng vẫn có tính chất giống các hạt thường. Điểm khác biệt lớn nhất của các hạt ảo này là chúng không thực sự tồn tại, chúng có thể xuất hiện và biến mất ở bất kì thời điểm nào trong thời gian và không gian. Trong không gian vũ trụ thông thường, các photon sẽ không bị ảnh hưởng bởi những hạt ảo này, chúng sẽ di chuyển mà không gặp trở ngại gì. Nhưng trong khoảng không vũ trụ bị ảnh hưởng bởi từ trường cực mạnh từ sao neutron kia, những hạt ảo kia sẽ bị kích thích và chúng gây ảnh hưởng rất lớn tới những photon ánh sáng đi qua đó. “Theo như động lực điện lượng tử, khoảng không bị ảnh hưởng bởi từ trường có hoạt động như một lăng kính với ánh sáng truyền tới, chính hiện tượng đó được gọi là lưỡng chiết chân không”, Mignani giải thích trong một buổi họp báo công bố hiện tượng này. “Hiệu ứng này chỉ có thể được quan sát trong một từ trường cực kì mạnh, ví dụ như là một từ trường bao quan các sao neutron”, thành viên nhóm nghiên cứu, giáo sư Roberto Turolla từ Đại học Padua, Ý bổ sung. Những nhà nghiên cứu đã sử dụng kính viễn vọng mặt đất tiên tiến nhất thế giới, Kính viễn vọng Cực lớn VLT của Đài quan sát Nam Châu Âu để quan sát sau neutron nêu trên. Ở đó, họ đã phát hiện ra hiện tượng phân cực của ánh sáng trong khoảng không vũ trụ xung quanh ngôi sao neutron. “Điều này rất kì lạ, bởi lẽ thuyết tương đối cho rằng ánh sáng sẽ được phép di chuyển tự do xuyên qua khoảng không mà không bị ảnh hưởng gì”, một trong số các nhà nghiên cứu nói. “Hiện tượng phân cực này (con số góc bẻ chính xác là 16 độ) là lời lý giải duy nhất cho các thuyết về động lực điện lượng tử và sự ảnh hưởng của các hạt ảo”. Ánh sáng đi ra từ bề mặt sao neutron (bên trái) trở nên phân cực khi đi qua khoảng không vũ trụ và cuối cùng tới được mắt chúng ta (bên phải). Bước tiếp theo của nghiên cứu này là quan sát và phân tích rõ xem, đây có thực sự là sự kiện lưỡng chiết chân không xảy ra với quy mô của cả một ngôi sao hay không. Nếu đúng như vậy, ta sẽ có cả một hiện tượng lạ mới để nghiên cứu trong lĩnh vực cơ học lượng tử. Bạn có thể đọc về nghiên cứu trên tại đây. Nguồn: Báo Thời Đại Share this post Link to post Share on other sites
Posted 7 Tháng 12, 2016 On 9/27/2016 at 02:12, Thiên Sứ said: Hồi hộp chờ NASA công bố về sự sống ngoài địa cầu 26/09/2016 14:28 GMT+7 TTO - Lúc 1g sáng ngày 27-9, Cơ quan Hàng không và không gian (NASA) của Mỹ dự kiến sẽ thông báo những thông tin đáng ngạc nhiên về sự sống ngoài địa cầu của chúng ta. Hình ảnh minh họa về thiết bị không gian của con người sẽ tiếp cận và nghiên cứu "mặt trăng" Europa trong tương lai - Ảnh: NASA Thực sự là từ năm ngày qua, những người yêu khoa học và yêu thích tìm tòi về sự sống đã hồi hộp khi cơ quan NASA thẩy lên Twitter vài dòng ngắn gọn nhưng cực kỳ quan trọng: vào lúc 14g chiều 26-9, tức 1g sáng 27-9 (giờ VN), cơ quan nghiên cứu không gian uy tín này sẽ thông báo về một phát hiện quan trọng trên một trong những vệ tinh của Sao Mộc (Jupiter) là “Mặt trăng” Europa. Để tránh các suy đoán, “chém gió”, cơ quan NASA cũng đã nói rõ rằng không có chuyện phát hiện người ngoài hành tinh hay gì cả! Thông báo của NASA trên mạng xã hội về việc sẽ công bố phát hiện trên Europa - Ảnh chụp màn hình Lần gần nhất mà cơ quan NASA có kiểu thông báo khiến người ta trông chờ như lần này là lần thông báo về sự hiện diện của nước trên sao Hỏa. Lần này, cảnh báo của NASA cũng không thể ngăn người ta đưa ra những giả thuyết khác nhau về những điều sắp được công bố và đương nhiên cũng không thể tránh được giả thuyết về những người ngoài hành tinh mắt tròn to, tai dài như con người vẫn thường tưởng tượng và thể hiện trên phim ảnh hay tranh vẽ. Các chuyên gia về lĩnh vực thì phỏng đoán nghiêm túc rằng có thể thông báo của NASA sẽ liên quan đến việc phát hiện một đại dương lỏng bên dưới lớp vỏ băng dày 15 - 20 km đang bao phủ bề mặt hành tinh Europa. Trước đây, NASA đã phát hiện thấy các dấu vết của nước trên bề mặt của Europa - vốn được xem là "mặt trăng" của sao Mộc. Vì khả năng có chứa nước mà các nhà khoa học tin rằng trên hành tinh này sẽ có sự sống. Thực ra vào hồi tháng 5 vừa qua, một số thành viên của NASA cũng đã nóng lòng nên tiết lộ thông tin về sự hiện hữu của một đại dương thể lỏng trên Europa. Đại dương ở thể lỏng dưới bề mặt băng của Europa là kết quả của quá trình tích nhiệt do thủy triều. Lực thủy triều làm cho phần bên trong của Europa ấm dần, cho phép đại dương nước lỏng tồn tại thay vì đông cứng. NASA đang lên kế hoạch cho sứ mệnh thăm dò tới Europa vào khoảng năm 2020, với hi vọng xem xét thành phần cấu tạo đại dương, độ dày của lớp vỏ băng và địa chất học ở bề mặt vệ tinh. Cho đến nay, những thông tin có được về Europa chủ yếu từ thông tin thu thập về của viễn vọng kính Hubble đang bay trên không gian "Theo hiểu biết của chúng tôi, đại dương của Europa không phải là môi trường khắc nghiệt", ông Kevin Peter Hand nhận xét. Ông là nhà sinh học thiên văn kiêm phó trưởng nhóm phụ trách chương trình thám hiểm hệ Mặt Trời tại Phòng thí nghiệm Sức đẩy Phản lực (JPL) của NASA. Đầu năm nay, nhóm nghiên cứu ở JPL công bố nghiên cứu cho thấy đại dương của Europa có thể giống Trái Đất về sự cân bằng năng lượng hóa học, cụ thể là tỷ lệ oxy và hydro, điều kiện hỗ trợ sự sống phát triển. "Europa rất đặc biệt bởi khả năng có một lượng oxy dồi dào trong đại dương. Chúng tôi dự đoán lượng khí oxy cùng với hydro lớn và duy trì liên tục của Europa có thể cân bằng theo cách thức độc đáo trên những thiên thể băng đá thuộc hệ Mặt Trời. Vì lý do này, Europa có thể là nơi thuận lợi cho sự sống khởi nguồn và tiến hóa", nhóm tác giả nghiên cứu chia sẻ. Hiện nay cũng đang có tàu dò Juno tập trung quan sát sao Mộc, nhưng sẽ có một tàu dò khác dành riêng cho Europa sẽ phóng lên không gian vào năm 2020. Cơ quan không gian của châu Âu (ESA) cũng có kế hoạch đưa tàu dò mang tên Juice lên không gian vào năm 2022 để khám phá các hành tinh Ganymède, Europe và Callisto, là ba trong số bốn vệ tinh của sao Mộc. Cần nhớ hồi tháng 3-2015, cơ quan NASA từng thông báo về sự hiện diện của vết nước trên bề mặt của vệ tinh Ganymède. Các "mặt trăng" của sao Mộc được cho là có kích cỡ tương đương hành tinh của chúng ta. Theo dự đoán của cơ quan ESA, các hành tinh đó "có thể chứa những vùng có sự sống bên dưới lớp vỏ băng của chúng". Nhưng hãy khoan nghĩ xa xôi hơn những phát hiện đã có như hiện nay, ví dụ về khả năng chuyển lên sống ở Europa. Hiện nhiệt độ ở bề mặt này đang là thử thách với con người: -150 độ C. Sao Mộc là hành tinh thứ năm tính từ Mặt Trời và là hành tinh lớn nhất trong Hệ Mặt Trời. Nó là hành tinh khí khổng lồ với khối lượng bằng một phần ngàn của Mặt Trời nhưng bằng hai lần rưỡi tổng khối lượng của tất cả các hành tinh khác trong Hệ Mặt Trời cộng lại. Khoảng cách trung bình giữa Sao Mộc và Mặt Trời là 778 triệu km (bằng 5,2 lần khoảng cách từ Trái Đất đến Mặt Trời, hoặc 5,2 AU) và nó hoàn thành một vòng quỹ đạo bằng 11,86 năm Trái Đất. Bầu khí quyển có Sao Mộc khá giống với bầu khí quyển của Mặt Trời, được cấu tạo chủ yếu bởi Hidro và Heli. Và với 4 vệ tinh lớn cùng rất nhiều vệ tinh nhỏ quay xung quanh, Sao Mộc đã tự "xây dựng" nên một Hệ Mặt Trời thu nhỏ. Với kích thước to lớn của Sao Mộc, nó có thể chứa hơn 1.300 Trái Đất. TÚ ANH ======================== Bây giờ là 2g ngày 27/ 9 2016 giờ Việt Nam. Hay nói đúng hơn là còn 23 g đồng hồ nữa NASA sẽ công bố một tin mà rất nhiều người hy vọng về sự sống ngoài trái Đất. Lão Gàn một lần nữa phát biểu trước giờ G: Chẳng bao giờ có một cái vẩy của một tế bào sống nào trong vũ trụ. Hãy yêu lấy cuộc sống ngay trên trái Đất này. Thưa quý vị và anh chị em. Bây giờ là ngày mùng 7/ 12. Tức là đã ba tháng sau khi Thiên Sứ tôi chờ đợi NASA công bố sự sống ngoài Địa Cầu - mà tôi luôn khẳng định là không có - cũng chưa thấy một tin tức nào của NASA tuyên bố v/v này. Bây giờ chúng ta lại phải chờ 5 năm nữa về kết quả mà NASA nói về một khả năng tồn tại sự sống ngoài Địa cầu, qua bài dưới đây: ========================== NASA phát hiện hành tinh “siêu Trái đất” với những điều kiện hoàn hảo cho sự sống Thứ tư, 07/12/2016 - 09:27 Dân trí Một hành tinh đá khổng lồ cách Trái đất chưa tới 150 triệu năm ánh sáng có thể là một trong những nơi có khả năng tồn tại sự sống ngoài Trất đất nhất. Hành tinh K2 – 3d lớn hơn Trái đất 1,6 lần có khí hậu ấm ám và những điều kiện tiềm năng để có nước ở dạng lỏng. Hành tinh K2 – 3d giống Trái đất có thể có điều kiện môi trường thích hợp để nước tồn tại ở dạng lỏng NASA dự kiến sẽ dùng kính thiên văn Hubble khổng lồ để nghiên cứu hành tinh này trong 5 năm tới Kể từ khi được phát hiện bởi kính viễn vọng không gian Kepler của NASA khi băng qua ngôi sao chủ, K2 – 3d đã trở thành niềm hứng thú mới trong giới thiên văn nhờ tiềm năng của mình. Bởi vì hành tinh này rất giống Trái đất hiện nay, một số nhà khoa học tin rằng Siêu Trái Đất K2 – 3d vẫn đang tồn tại sự sống. Mới đây, cơ quan vũ trụ cho biết sẽ sử dụng kính thiên văn khổng lồ Hubble để nghiên cứu hành tinh này trong vòng 5 năm tới. Họ hy vọng các quan sát sẽ tiết lộ dấu hiệu cần thiết cho sự sống, như phân tử của nước, khí mê-tan hoặc amoniac trong bầu khí quyển của hành tinh này. K2 – 3d là một hành tinh nằm ngoài hệ mặt trời, quay xung quanh ngôi sao chủ có kích thước khoảng ½ kích thước mặt trời, một chu kỳ quay này dài 45 ngày. Hành tinh này có nhiệt độ thấp do có quỹ đạo rất gần với ngôi sao chủ (bằng 1/5 khoảng cách giữa Trái Đất và Mặt trời) - điều này cũng có nghĩa khả năng tồn tại sự sống trên hành tinh này là rất lớn. Lần nhật thực toàn phần sắp tới vào năm 2018 của ngôi sao lùn đỏ này sẽ tiết lộ liệu K2 – 3d có đang ẩn chứa dạng sống ngoài Trái Đất nào hay không. Bjorn Benneke từ Viện Công nghệ California cho biết “Nếu chúng tôi tìm thấy bất kỳ dấu hiệu nào, thì chúng tôi sẽ quan sát nó cẩn thận bằng kính thiên văn James Webb” (James Webb là kính thiên văn mới của NASA sẽ được ra mắt trong năm 2018). Ông cũng dự đoán rằng hành tinh này có thể có bầu khí quyển đầy hy-đro hoặc được bao phủ bởi những đám mây. Một nhóm các nhà khoa học Nhật Bản ở Đài thiên văn Okayama đã tính toán sự quá cảnh của hành tinh này chính xác gấp 30 lần so với trước đây. Các nhà nghiên cứu cho biết “phát hiện của chúng tôi đã cải thiện đáng kể độ chính xác của các dự đoán về quá cảnh của hành tinh trong tương lai. Sự cải thiện này đảm bảo rằng khi các thế hệ tiếp theo của các kính thiên văn lớn được trực tuyến, họ sẽ biết chính xác khi nào có thể quan sát các quá cảnh của hành tinh” Anh Thư (Tổng hợp) ========================== THƯ NGỎ GỬI NGÀI TRUMP Kính thưa ngài. Tôi là người ủng hộ ngài vào trước ngày bầu cử tại Hoa Kỳ đúng một ngày + 12g. Có lẽ tôi đúng vì ngài tỏ ra tiết kiệm để giảm chi phí vô bổ của nước Mỹ. Như việc ngài không lĩnh lương, không làm chiếc Không lực 1....Nhưng nước Mỹ sẽ thật sự tiết kiệm, nếu bỏ ngay cái chương trình đi tìm sự sống ngoài trái Đất và những vấn đề liên quan đến nó. Để có cơ sở bỏ chương trình này, ngài chỉ cần chi 10 triệu Dollar, để mời tôi sang thuyết phục và chứng minh với Viện Hàn Lâm khoa học Hoa Kỳ và các tri thức tinh hoa của Nasa rằng: Không bao giờ có sự sống ngoài trái Đất. Nếu tôi không thuyết phục được, tôi sẽ tự trả chi phí ăn ở và vé tàu bay sang Hoa Kỳ, tất nhiên cũng không lấy 10 triệu Dollar của Hoa Kỳ. Và Hoa Kỳ chỉ chịu chi phí tổ chức các cuộc họp của các khoa học gia với tôi. Nhưng nếu tôi đúng thì 10 triệu Dollar đó rẻ hơn nhiều so với kinh phí mà nước Mỹ bỏ ra đi tìm sự sống ngoài Địa cầu. Cũng như trước đây - từ 2008 - tôi đã xác định lý thuyết Higg sai. Nếu được quan tâm thì thế giới này không tốn 100 tỷ Dollar. Tôi viết lên đây có lẽ cũng chẳng được sự quan tâm của ngài. Nhưng nếu ngài quan t6am thì cũng tốt thôi. Cảm ơn ngài trước, nếu được sự quan tâm. 3 people like this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 23 Tháng 12, 2016 Bí ẩn lớn về phản vật chất sắp được lý giải Thứ sáu, 23/12/2016 | 00:00 GMT+7 Lần đầu tiên sau hai thập kỷ các nhà vật lý tại CERN đo được ánh sáng phát ra bởi một nguyên tử phản vật chất, chứng minh phản hạt của hydro chính là hình ảnh phản chiếu của hydro thông thường. Nguyên tử hydro và phản nguyên tử hydro. Ảnh: The Register. Các nhà khoa học cuối cùng có thể xác nhận những dự đoán từ các định luật vật lý về phản vật chất, theo Science Alert. Kết quả này mở ra phương pháp mới để kiểm tra lý thuyết đặc biệt của nhà vật lý Albert Einstein về thuyết tương đối, giúp lý giải một trong những bí ẩn lớn nhất của vật lý hiện đại: "Tại sao trong vũ trụ lại có nhiều vật chất thông thường hơn so với phản vật chất?" "Đây là một thời điểm lịch sử trong những thập kỷ dài nỗ lực để tạo ra phản vật chất và so sánh các thuộc tính của nó với những vật chất thông thường", nhà vật lý lý thuyết Alan Kostelecky tại Đại học Indiana đánh giá. Các định luật vật lý dự đoán rằng cứ mỗi hạt của vật chất thông thường sẽ có một phản hạt tương ứng. Vì vậy, đối với mỗi electron điện tích âm sẽ có một positron mang điện tích dương. Điều đó có nghĩa với mỗi nguyên tử hydro thông thường được tạo thành bởi một electron liên kết với một proton, sẽ có một nguyên tử hydro được tạo thành từ một phản electron (hoặc positron) liên kết với một phản proton. Nếu một phản hạt tìm thấy một hạt của chính nó, chúng sẽ triệt tiêu lẫn nhau, giải phóng năng lượng dưới dạng ánh sáng. Thực tế là có quá nhiều vật chất thông thường trong vũ trụ trong khi khó có thể tìm thấy phản hạt trong tự nhiên. Điều này có thể giải thích bởi các phản hạt sẽ bị triệt tiêu bởi các hạt của chính nó ngay trước khi chúng ta kịp quan sát. Tuy nhiên, vấn đề khiến các nhà khoa học bối rối là số lượng các hạt vật chất nhiều hơn phản vật chất trong khi các mô hình vật lý hiện đại do Einstein đưa ra trong thuyết tương đối dự đoán số lượng hạt và phản hạt cân bằng sinh ra từ vụ nổ Big Bang. "Điều gì đó đã xảy ra, dẫn tới sự phân bố mất cân bằng hiện tại, và chúng ta đơn giản không có cách giải thích ngay bây giờ", Jeffrey Hangst, một thành viên nhóm nghiên cứu tại phòng thí nghiệm ALPHA cho biết. Theo kết quả mới được công bố trên tạp chí Nature ngày 29/11, lần đầu tiên các nhà khoa học có thể đo phổ ánh sáng phát ra bởi một phản nguyên tử hydro khi bị kích thích bởi laser, và so sánh với phổ ánh sáng phát ra bởi một nguyên tử hydro thông thường. Là nguyên tử phổ biến nhất trong vũ trụ, hydro luôn triệt tiêu mọi phản nguyên tử của chính nó ngay lập tức và khó có thể tìm thấy phản nguyên tử hydro trong tự nhiên. Do đó, các nhà khoa học cần phải tạo ra các phản nguyên tử hydro trong phòng thí nghiệm. Trong 20 năm qua, nhóm nghiên cứu ALPHA thuộc Tổ chức Nghiên cứu Hạt nhân châu Âu (CERN) đã tìm cách tạo ra các phản nguyên tử hydrogen để nghiên cứu và phát triển kỹ thuật cho phép tạo ra khoảng 25.000 phản nguyên tử hydro mỗi 15 phút, và bẫy được khoảng 14 trong số 25.000 phản nguyên tử để nghiên cứu. Đây là một bước đột phá lớn khi trước đây họ chỉ có thể bẫy từ 1 đến 2 nguyên tử hydro mỗi 15 phút. Những phản nguyên tử này sau đó sẽ được kích thích bởi ánh sáng laser để buộc positron "nhảy" từ mức năng lượng thấp lên một mức năng lượng cao hơn. Sau một thời gian ngắn, các positron trở lại mức năng lượng thấp hơn, phần năng lượng dư thừa sẽ chuyển thành ánh sáng bức xạ ra ngoài. Khi đo ánh sáng bức xạ, các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng các phản nguyên tử hydro phát ra chính xác cùng một quang phổ ánh sáng như các nguyên tử hydro thông thường. Kết quả này phù hợp với mô hình chuẩn của vật lý hạt, dự đoán rằng hydro và phản hydro sẽ có quang phổ giống hệt nhau. Nếu tất cả các quang phổ của các laser khác nhau cho nguyên tử và phản nguyên tử hydro đều kết thúc giống nhau, nhóm nghiên cứu có thể chứng minh thuyết tương đối đặc biệt của Einstein vẫn đúng. Thanh Tùng Nguồn: Báo Vnexpres Share this post Link to post Share on other sites
Posted 10 Tháng 3, 2017 CHÍNH THỨC: Chúng ta đã có một trạng thái vật chất mới: tinh thể thời gian 10/03/2017 09:16 Việc phải làm bây giờ là tạo ra chúng, và áp dụng chúng vào máy tính lượng tử. Lại một lần nữa, cảnh báo bài viết mang tính chất khó hiểu. Các bạn suy nghĩ trước khi tiếp tục đọc. Đầu năm nay, các nhà vật lý học đã vẽ ra một bản hướng dẫn cách thức để tạo ra và đo đạc được “tinh thể thời gian” – time crystal, một trạng thái kì lạ của vật chất với cấu trúc nguyên tử không chỉ lặp lại trong không gian mà còn cả trong thời gian, cho phép chúng duy trì trạng thái dao động bất biến mà không cần tới năng lượng. Tháng Giêng năm nay, hai đội ngũ nghiên cứu cũng đã tạo ra một loại vật chất trông rất giống tinh thể thời gian, cả hai thử nghiệm cũng đã được xét duyệt cẩn thận, khiến cho sự “bất khả thi” đang dần hiện hữu rõ ràng trong thế giới thực hơn bao giờ hết. “Chúng tôi đã đưa ý tưởng trên giả thuyết, những ý tưởng mà chúng tôi đã nghiên cứu vài năm trở lại đây và thực sự dựng nên một thứ như thế trong phòng thí nghiệm”, nhà nghiên cứu Andrew Potter từ Đại học Texas cho hay. “Mong rằng, với nguyên mẫu đầu tiên này, sẽ còn nhiều thử nghiệm thành công khác được tiến hành”. Tinh thể thời gian là một trong những thứ “ngầu” nhất mà ngành vật lý hiện đại mang tới cho chúng ta, bởi chúng mở ra cả một thế giới mới của một giai đoạn vật chất có tên không-cân bằng – non-equilibrium, một giai đoạn khác biệt hoàn toàn với bất kì thứ gì các nhà khoa học đã nghiên cứu trong quá khứ. Đã nhiều thập kỷ nay, chúng ta đã nghiên cứu các vật chất như kim loại hay các chất cách điện – những thứ được phân loại là “cân bằng”, trạng thái vật chất mà toàn bộ nguyên tử trong chúng đều có một lượng nhiệt nhất định. Nhưng tinh thể kim cương là nguyên mẫu đầu tiên của một thứ “không cân bằng” – một trạng thái hoàn toàn khác và bản thân chúng có thể cách mạng hóa cách thức chúng ta lưu trữ và luân chuyển thông tin qua các hệ thống lượng tử. “Nó chỉ cho chúng ta thấy rằng trạng thái của vật chất vẫn còn đa dạng hơn chúng ta biết nhiều lắm”, nhà vật lý học Norman Yao từ Đại học California bày tỏ. “Một trong những chuẩn mực của vật lý là phải hiểu được những loại vật chất gì tồn tại trong tự nhiên. Trạng thái không-cân bằng này đại diện cho một lĩnh vực hoàn toàn mới, khác biệt hoàn toàn với những gì chúng ta đã nghiên cứu trong quá khứ”. Thứ tinh thể thời gian này lần đầu tiên được đưa ra ánh sáng bởi nhà vật lý học lý thuyết, người đã từng giành giải Nobel năm 2012, ông Frank Wilczek. Ông nói rằng trên lý thuyết, một cấu trúc vật chất (như của tinh thể thời gian) sẽ có vận động ngay cả ở trạng thái năng lượng thấp nhất của chúng – trạng thái cơ bản. Thông thường, khi một vật chất ở trạng thái cơ bản thì trên lý thuyết, chúng sẽ không thể vận động được, bởi lẽ vận động cần năng lượng – một thứ không tồn tại ở trạng thái cơ bản. Nhưng Wilczek đoán trước rằng một vật có thể vận động mặc dù chúng đang trong trạng thái cơ bản, bằng cách liên tục sắp xếp thẳng hàng những nguyên tử bên trong chúng liên tục, làm đi làm lại – tức là đưa chúng ra khỏi trạng thái cơ bản rồi lại quay lại, tạo thành một vòng lặp liên hồi. Đây không phải là thành tố tạo nên động cơ vĩnh cửu – một thứ máy vận hành không bao giờ dừng, bởi lẽ năng lượng không tồn tại bên trong hệ thống này. Nhưng vẫn còn một lý do nữa khiến cho giả thuyết này nghe có vẻ ... bất khả thi. Nó nói tới một hệ thống bẻ gãy một trong những giả định nổi tiếng nhất, cơ bản nhất của vật lý hiện đại (giả định nhưng vẫn mang tính chất cơ bản), rằng tính đối xứng thời gian - thứ đề ra các quy luật vật lý, đều như nhau ở mọi nơi, mọi lúc. Tính đối xứng thời gian tịnh tiến chính là lý do tại sao ta không thể làm được việc sau đây: lần đầu tiên tung một đồng xu, tỉ lệ sẽ là 50/50 nhưng lần thứ hai tung đồng xu đó lên, ta lại có tỉ lệ 70/30. Thế mà có những vật thể có thể bẽ gãy tính đối xứng ấy khi chúng đang ở trạng thái cơ bản, điểm quan trọng là chúng không bẻ gãy một định luật vật lý nào. Ví dụ như nam châm với một cực Bắc và một cực Nam (cực dương và cực âm). Ta không rõ làm cách nào mà nam châm lại “tự quyết định” đầu nào thuộc cực nào, nhưng việc nó có cả hai cực đồng nghĩa vừa việc nó sẽ không còn như cũ trong một không gian khác - nó sẽ không đối xứng. Một ví dụ khác về việc không đối xứng là một tinh thể, với mẫu cấu trúc lặp lại của chúng. Nhưng dù lặp lại liên tục, những nguyên tử bên trong lại “có mong muốn” nằm bên trong lớp lưới tinh thể kia hơn. Vì vậy, nếu bạn quan sát một tinh thể trong môi trường Vũ trụ, nó sẽ có hình dạng khác – các định luật vật lý sẽ không còn đối xứng nữa, bởi nó không áp dụng giống nhau trong các không gian khác nhau. Với những ý niệm về sự khác nhau của vật chất trong những không gian khác nhau như vậy, Wilczek đã đề cập tới việc tạo ra một vật thể có thể tạo ra trạng thái cơ bản không đối xứng không chỉ khác nhau trong không gian (như nam châm hay các tinh thể) mà còn trong cả thời gian nữa. Hiểu một cách khác, liệu các nguyên tử có “muốn” tồn tại trong các trạng thái khác tại những khoảng thời gian khác nhau? Tua nhanh thời gian đến thời điểm hiện tại, các nhà nghiên cứu Mỹ và Nhật bản đã chứng minh được rằng việc này hoàn toàn khả thi, với một chỉnh sửa nhỏ trong đề cập của Wilczek – để có thể khiến tinh thể chuyển trạng thái liên tục, thỉnh thoảng chúng cần phải được “huých” nhẹ một cái. Trong nghiên cứu hồi tháng Giêng, Norman Yao mô tả cách thức một hệ thống như vậy được tạo nên, nói rằng nó là một phiên bản “yếu hơn” của việc làm mất cân đối, so với những gì Wilczek đã tưởng tượng ra. “Cứ như ta đang chơi nhảy dây vậy, khi tay ta quay hai lần mà dây cũng chỉ quay có một lần mà thôi”, Yao nói, và bổ sung thêm rằng trong phiên bản thử nghiệm của Wilczek, sợi dây nhảy sẽ có thể có khả năng tự dao động. “Nó bớt dị thường hơn ý tưởng ban đầu (của Wilczek kia), nhưng vẫn phải công nhận là nó rất dị”. Hai đội ngũ các nhà nghiên cứu riêng biệt, một của Đại học Maryland và một của Đại học Harvard, đã tiến hành nghiên cứu và thử nghiệm bản thiết kế của Wilczek, tạo ra hai phiên bản tinh thể thời gian khác nhau như đều có tính chất giống nhau. “Cả hai hệ thống đều rất tuyệt. Chúng đều có một khía cạnh nào đó rất khác nhau. Tôi nghĩ rằng cả hai đều cực kì đáng khen ngợi”, Yao nói. “Tôi không nghĩ cái nào tốt hơn các nào. Chúng đều thể hiện hai khía cạnh khác nhau của vật lý. Điều thực sự đáng kinh ngạc là bạn có thể nhìn thấy cùng một hiện tượng lạ trong hai hệ thống khác nhau rất nhiều". Đội ngũ nghiên cứu tại Đại học Maryland đã tạo ra tinh thể thời gian của họ bằng cách sắp xếp một dãy 10 ion nguyên tố Ytebi (yttebium), tất cả đều được làm rối với các vòng xoay electron. Chuỗi ion của Đại học Maryland. Điểm mấu chốt của việc biến hệ thống kia thành một tinh thể thời gian là giữ cho các ion nằm ngoài trạng thái cân bằng, và để làm được việc đó, các nahf nghiên cứu đã bắn hai tia laser vào chúng. Một tia tạo ra từ trường và tia thứ hay vặn ngược vòng quay của nguyên tử lại. Bởi sự xoay của các nguyên tử đều được làm rối với nhau, các nguyên tử đều được sắp xếp thành một khuôn mẫu ổn định, mang tính lặp và chính điều đó đã định nghĩa được tính chất của một tinh thể. Tuy nhiên, để có thể biến thành tinh thể thời gian, nó đã phải thực hiện một điều rất kì lạ: tốc độ xoay và lật khuôn mẫu của hệ thống này chỉ nhanh bằng một nửa mạch laser. “Liệu việc bạn lắc một viên thạch rồi phát hiện ra rằng nó phản hồi việc rung lắc trong một khoảng thời gian khác không?”, Yao giải thích. Còn tinh thể thời gian của Đại học Harvard lại được tạo ra bằng một cách khác: họ sử dụng những tinh thể kim cương đã được đổ đầy tạp chất nitro. Và kết quả thí nghiệm cho họ những tinh thể thời gian màu đen. Tinh thể kim cương đen của Harvard. Sự xoay của những tạp chất này có thể được lật đi lật lại như sự xoay của các ion Ytebi trong thử nghiệm của Đại học Maryland. Đây đúng là một thời điểm thú vị với toàn giới vật lý: cuối cùng thì trạng thái tinh thể thời gian đã được chính thức công nhận, bởi cả hai thử nghiệm trên đã qua giai đoạn kiểm duyệt. Lúc này, khi mà ta đã biết được rằng những trạng thái này thực sự tồn tại, ta sẽ có thể bắt tay vào việc chế tạo và ứng dụng nó trong thực tiễn. Một trong những ứng dụng đầu tiên của tinh thể thời gian mà ta nghĩ được ngay tới đó là công nghệ máy tính lượng tử. Nó sẽ cho phép các nhà vật lý học tạo ra một hệ thống lượng tử ổn định với một nhiệt độ cao hơn hẳn trước đây. Có lẽ, đây chính là bước đà ta cần để máy tính lượng tử bước ra công chúng với tư cách “một kẻ được xã hội chào đón mọi nơi, mọi chỗ”. Tham khảo: Science Alert/Motherboard/wiki Nguồn Tri Thức Trẻ Share this post Link to post Share on other sites
Posted 12 Tháng 4, 2017 Vật Lý Lượng Tử Nói Gì Về Bản Chất Của Thực Tại? Một giáo sư vật lý tại Đại học Oregon[1] và là thành viên của Viện Khoa Học Lý Thuyết, Tiến sĩ Amit Goswami là thành phần quan trọng trong một nhóm các nhà khoa học táo bạo, những năm gần đây đã mạo hiểm tiến vào lĩnh vực tâm linh với nỗ lực vừa để giải thích những phát hiện dường như không thể giải thích những kết quả thí nghiệm của họ và để chứng minh trực giác của họ về sự tồn tại của một chiều tâm linh của sự sống. Đỉnh cao trong những công trình riêng của Goswami là cuốn sách của ông, The Self-Aware Universe: How Consciousness Creates the Material World (Vũ Trụ Tự Thức: Làm Thế Nào Ý Thức Tạo Ra Thế Giới Vật Chất). Bắt nguồn từ những diễn giải về các dữ liệu thực nghiệm trong vật lý lượng tử (vật lý của các hạt cơ bản), cuốn sách thêu dệt lại với nhau vô số các phát hiện và giả thuyết trong các lĩnh vực từ trí tuệ nhân tạo đến thiên văn học đến truyền thống đạo Hindu huyền bí, trong một nỗ lực để chứng minh rằng những khám phá của khoa học hiện đại phù hợp hoàn hảo với các chân lý huyền nhiệm sâu xa nhất. [1 ]Là một trong 60 thành viên của Hiệp hội các Viện Đại học Mỹ. Quỹ Carnegie Vì Sự Phát Triển Giảng Dạy đánh giá đại học này là một viện đại học “phát triển cao về nghiên cứu”. Trong năm 2008, Viện Đại học Oregon được lên danh sách là một viện đại học bậc nhất bởi đánh giá hằng năm về các trường và viện đại học của chương trình Tin tức mới của Hoa Kỳ và Thế giới) [Bách khoa toàn thư mở] Goswami cùng với một số người khác có cùng quan điểm tương tự chắn chắn rằng vũ trụ, để có thể tồn tại, đòi hỏi phải có một sinh linh có ý thức để nhận thức được nó. Nếu không có người quan sát, ông tuyên bố, nó chỉ tồn tại như một khả năng. Và theo cách nói trong cộng đồng khoa học, Goswami đã giải được bài toán của ông. Sắp xếp các chứng cứ từ những nghiên cứu gần đây trong tâm lý học nhận thức, sinh học, tâm lý học siêu hình, và vật lý lượng tử, và nương tựa nhiều vào các truyền thống huyền học của thế giới cổ đại, Goswami đang xây dựng một mô hình mới mà ông gọi là “chủ nghĩa duy ý nhất nguyên” (monistic idealism) với quan niệm rằng ý thức, không phải vật chất, là nền tảng của mọi sự. Vật lý lượng tử, cũng như một số ngành khoa học học hiện đại khác, ông cảm thấy, đang tỏ bày rằng sự thống nhất cần thiết về một tổng thể thực tại là một sự kiện có thể được kiểm chứng bằng thực nghiệm. Bởi vì những ngụ ý lớn lao ông nhìn thấy được trong các xác nhận khoa học về tâm linh, Goswami đã hăng hái tận tình giải thích lý thuyết của ông đến càng nhiều người càng tốt để giúp mang lại những gì ông cảm thấy như một sự thay đổi khuôn mẫu bức thiết. Ông cảm thấy rằng bởi vì khoa học đã có khả năng xác nhận những điều huyền bí và một bước nhảy đức tin đã có thể được chứng minh, và do đó, mô hình duy vật đã thống trị tư tưởng khoa học và triết học trong hơn 200 năm cuối cùng đã có thể được đưa ra để chất vấn. Vào thời điểm khi mà sự tan rã của các giá trị con người và sự xói mòn của những ý nghĩa đạo đức luân lý đã lan truyền đến mức đại dịch, thật khó để hình dung điều gì có thể quan trọng hơn điều này. WIE: Trong cuốn sách Vũ Trụ Tự Thức, ông nói về sự khẩn thiết trong việc thay đổi mô hình nhận thức hiện tại. Ông có thể nói rõ hơn cách ông quan niệm về sự thay đổi đó? Từ những gì đến những gì? Amit Goswami: Thế giới quan của khoa học ngày nay cho rằng tất cả mọi thứ được tạo ra từ vật chất, và tất cả mọi thứ có thể được tối giảm thành các hạt cơ bản của vật chất, thành phần cơ bản, khối tạo dựng, của vật chất. Và nguyên nhân phát sinh từ sự tương tác của các khối tạo dựng cơ bản đó, hạt cơ bản tạo ra nguyên tử, nguyên tử tạo ra phân tử, phân tử tạo ra tế bào, và tế bào tạo ra não bộ. Tuy nhiên, tận cùng thì nguyên nhân cơ bản luôn luôn là sự tương tác giữa các hạt cơ bản. Đây là niềm tin cho rằng tất cả các nguyên nhân bắt nguồn từ các hạt cơ bản. Đây là những gì chúng ta gọi là “nhân quả hướng lên”. Vì vậy, trong quan điểm này, những gì mà chúng ta nghĩ là ý chí tự do không thực sự tồn tại. Nó chỉ là một hiện tượng phụ, thứ cấp, đứng sau sức mạnh nhân quả vật chất. Và bất cứ ý định nào liên quan đến kiểm soát vật chất bằng ý thức chỉ là một ảo tưởng. Đây là mô hình nhận thức hiện tại. Bây giờ, quan điểm ngược lại là tất cả mọi thứ bắt đầu bằng ý thức. Nó nói, ý thức là nền tảng của thực tại. Theo quan điểm này, ý thức đặt ra một loại “nhân quả hướng xuống.” Nói cách khác, ý chí tự do của chúng ta là có thật. Khi chúng ta tác động lên thế giới, chúng ta thực sự đang hành động với sức mạnh quan hệ nhân quả. Quan điểm này không phủ nhận rằng vật chất cũng có tiềm năng nhân quả của nó, không phủ nhận rằng có một chuỗi nhân quả từ các hạt cơ bản trở lên, là dạng “nhân quả hướng lên” như đã nói, nhưng ngoài ra nó khẳng định rằng còn có “nhân quả hướng xuống”. Nó biểu hiện trong sự sáng tạo của chúng ta và hành vi của ý chí tự do, hoặc khi chúng ta đưa ra các quyết định đạo đức. Trong những trường hợp đó chúng ta đang thực sự chứng kiến “nhân quả hướng xuống” bởi ý thức. WIE: Trong cuốn sách của ông, ông đề cập đến một mô hình mới gọi là “chủ nghĩa duy ý nhất nguyên.” Và ông cũng cho rằng khoa học ngày nay đã xác nhận được điều mà nhiều nhà huyền môn đã nói trong suốt lịch sử, rằng những phát hiện của khoa học hiện nay dường như là song song với bản chất của những giáo lý tâm linh bất diệt. AG: Nó “là” giáo lý tâm linh. Không phải chỉ song song. Quan điểm cho rằng ý thức là nền tảng của thực tại là cơ sở của tất cả các truyền thống tâm linh, cũng như triết lý của chủ nghĩa duy ý nhất nguyên. Ở phương Tây, có một triết lý được là là “chủ nghĩa duy tâm” trái ngược với triết lý của “chủ nghĩa thực dụng duy vật”, cho rằng chỉ có vật chất là có thật. Chủ nghĩa duy tâm nói không, ý thức mới là sự thật duy nhất. Nhưng ở phương Tây loại chủ nghĩa duy tâm thường có nghĩa là nó thuộc về nhị nguyên – có nghĩa là, ý thức và vật chất là tách biệt. Vì thế, khi nói “chủ nghĩa duy ý nhất nguyên”, tôi muốn nói rõ ràng rằng, không, tôi không có ý muốn nói đến loại nhị nguyên của chủ nghĩa duy tâm phương Tây, nhưng đúng hơn là một chủ nghĩa duy ý nhất nguyên, đã tồn tại ở phương Tây, nhưng chỉ trong các truyền thống tâm linh bí truyền. Trong khi đó, ở phía Đông, đây là triết lý chính quy đại trà. Trong Phật giáo, hoặc Hindu giáo, nơi nó được gọi là Vedanta (hay Upanishads – Áo Nghĩa Thư) hoặc trong Đạo giáo, đây là triết lý của tất cả mọi người. Nhưng ở phương Tây là một truyền thống bí truyền, chỉ được biết đến và tán đồng bởi các triết gia anh minh, những người đã thực sự đào sâu vào bản chất của thực tại. WIE: Những gì ông đang nói có nghĩa là khoa học hiện đại, từ một góc nhìn hoàn toàn khác, không giả định bất kì điều gì về sự tồn tại của một chiều tâm linh sự sống, bằng cách nào đó đã quay trở lại, và tìm thấy chính nó đồng nhất với quan điểm đó từ kết quả của những khám phá trong khoa học. AG: Đúng vậy. Và điều này không phải là hoàn toàn bất ngờ. Bắt đầu từ những ngày đầu của vật lý lượng tử, từ những năm 1900 và sau đó nó trở nên sung mãn vào năm 1925 khi các phương trình của cơ học lượng tử đã được khám phá, vật lý lượng tử đã cho chúng ta thấy những dấu hiệu rằng thế giới quan người ta đang giữ có bị thể thay đổi. Các nhà vật lý duy vật trung thành đã rất thích so sánh thế giới quan cổ điển và thế giới quan lượng tử. Tất nhiên, họ sẽ không đi quá xa để từ bỏ ý tưởng rằng chỉ có “nhân quả hướng lên” và rằng vật chất là tối thượng, nhưng sự thật vẫn là họ đã thấy trong vật lý lượng tử một số tiềm năng rất lớn để thay đổi cái khuôn mẫu hiện tại. Và sau đó những gì xảy ra là, bắt đầu từ năm 1982, những kết quả bắt đầu đến từ những phòng thí nghiệm vật lý. Đó là năm, ở Pháp, Alain Aspect và các cộng sự của ông thực hiện thành công một thí nghiệm tuyệt vời và từ đó những kết luận đã được thiết lập về tính xác thực của các khái niệm tâm linh và đặc biệt là khái niệm siêu việt. Tôi có nên đi vào một chút chi tiết về thí nghiệm của Aspect? WIE: Vâng, xin tiếp tục. AG: Để nhắc lại một số điều căn bản, những gì đã xảy ra trong thế vật lý lượng tử trong nhiều năm trời là đã có những nhận định được đưa ra về những mật độ thực tại khác ngoài mật độ vật chất. Bắt đầu từ những vật thể lượng tử, được nhìn nhận như là những làn sóng khả năng. Mới đầu thì người ta nghĩ “Ồ, chúng chỉ giống như những làn sóng bình thường.” Nhưng sớm sau đó người ta đã phát hiện rằng, không, chúng không phải chỉ như những làn sóng trong không thời. Chúng tuyệt đối không thể được gọi là “sóng” trong không thời. Vì chúng có những đặc điểm không hề giống với những làn sóng bình thường. Thế nên sau đó chúng đã bắt đầu được nhìn nhận như là những làn sóng khả năng, và khả năng tiềm tàng được nhìn nhận như là một hiện tượng siêu việt, vượt ngoài vật chất bằng cách nào đó. Nhưng dữ kiện rằng có một khả năng siêu việt lúc đó chưa được hiểu rõ ràng trong một thời gian dài. Sau đó thí nghiệm của Aspect đã xác minh được rằng đây không phải chỉ là một lý thuyết, khả năng siêu việt là một sự thật, vật thể thật sự có những mối liên kết nằm ngoài không gian và thời gian! Điều đã xảy ra trong thí nghiệm này là một nguyên tử phóng ra hai hạt ánh sáng, gọi là photon, ngược chiều nhau, và bằng cách nào đó những photon này ảnh hưởng đến hành vi của nhau từ một khoảng cách, mà không hề có tín hiệu nào được trao đổi qua lại. Chú ý rằng: không hề có tín hiệu nào được trao đổi qua lại, mà là một ảnh hưởng xảy ra tức khắc, đồng thời. Einstein đã cho thấy rằng hai vật thể không bao giờ có thể ảnh hưởng lên nhau một cách tức khắc trong không thời bởi vì mọi thứ phải di duyển với vận tốc tối đa, và giới hạn đó chính là vận tốc ánh sáng. Thế nên mọi tương tác phải di chuyển, và nếu nó di chuyển trong không gian, nó tốn thời gian. Ý tưởng này được gọi là “địa tính” (“locality”) trong vật lý. Mọi tín hiệu đáng ra nên mang thuộc tính địa phương và nó phải mất một thời gian nhất định để tín hiệu này di chuyển trong không gian. Vậy mà, những hạt photon của Aspect, ảnh hưởng lẫn nhau, từ một khoảng cách, không trao đổi tín hiệu qua lại bởi vì nó xảy ra tức thì, hiện tượng này xảy ra nhanh hơn vận tốc ánh sáng. Và vì thế suy ra được rằng tương tác đã không thể nào di chuyển qua không gian. Thay vào đó tương tác phải thuộc về một miền thực tại mà chúng ta phải nhìn nhận rằng nó chính là miền thực tại siêu việt. (Tham khảo thêm về khái niệm rối lượng tử, quantum entanglement [2]) [2] Rối lượng tử hay vướng víu lượng tử là một hiệu ứng trong cơ học lượng tử trong đó trạng thái lượng tử của hai hay nhiều vật thể có liên hệ với nhau, dù cho chúng có nằm cách xa nhau. Rối lượng tử là hiệu ứng được ứng dụng trong các công nghệ như tính toán lượng tử, mật mã lượng tử, viễn tải lượng tử. Hiệu ứng này, được khẳng định bởi quan sát thực nghiệm, cũng gây ra sự thay đổi nhận thức rằng thông tin về một vật thể chỉ có thể thay đổi bằng tương tác với các vật ngay gần nó.[Bách khoa toàn thư mở] WIE: Thật tuyệt vời. Liệu đa số các nhà vật lý sẽ đồng ý với kiến giải đó từ thí nghiệm này? AG: Vâng, các nhà vật lý phải đồng ý với kiến giải này. Nhưng tất nhiên là nhiều lần họ sẽ nói như thế này, “À, chắc chắn rồi, thí nghiệm mà. Nhưng mối quan hệ giữa các hạt cơ bản này thật sự không quan trọng. Chúng ta đừng nhìn vào những hệ quả của cái miền siêu việt này, nếu nó có thể được lý giải theo cách đó.” Nói cách khác, họ cố gắng giảm thiểu tối đa tầm quan trọng của sự kiện này và vẫn cố gắng níu bám vào cái ý tưởng rằng vật chất mới là tối thượng. Nhưng trong thâm tâm họ biết, vì bằng chứng quá rõ ràng. Vào năm 1984 hay 85, tại Hội Nghị Vật Lý Hoa Kỳ trong đó tôi có tham gia, có một nhà vật lý đã nói với một nhà vật lý khác rằng, sau thí nghiệm của Aspect, bất kì ai không tin rằng có điều gì đó thật kì lạ về thế giới quanh ta chắc chắn phải chứa đá trong đầu hắn. WIE: Vậy là ông đang nói rằng từ góc nhìn của ông, và của nhiều người khác, một cách nào đó hiển nhiên rằng một người phải đem vào cái ý tưởng về một chiều siêu việt để thật sự thấu hiểu chuyện này. AG: Đúng thế. Henry Stapp, một nhà vật lý tại Đại Học Berkeley [3], California, có nói rõ ràng về vấn đề này trong một trong những bài viết của ông vào năm 1977, rằng vật nằm ngoài không thời ảnh hưởng lên vật nằm trong không thời. Không có thắc mắc gì về những gì xảy ra trong thế giới vật lý lượng tử khi bạn đang làm việc với những vật thể lượng tử. Tất nhiên, điểm quan trọng nhất là, điểm ngạc nhiên nhất là, chúng ta luôn luôn làm việc với những vật thể lượng tử bởi vì vật lý lượng tử là vật lý (chính xác) duy nhất mà chúng ta có. Thế nên tuy rằng nó hiển nhiên hơn với photon, với electron, với các vật thể hạ vi tế, chúng tôi tin rằng mọi thực tại, mọi thực tại được thể hiện, mọi vật chất, đều được kiểm soát bởi những quy luật giống nhau. Và nếu nó đúng như vậy, thí nghiệm này đang nói với chúng ta rằng chúng ta nên thay đổi quan điểm của mình bởi vì chúng ta, không khác, cũng là những vật thể lượng tử. [3] UC Berkeley đã có những đóng góp quan trọng về khoa học tự nhiên (với 66 giáo sư và cựu sinh viên đoạt các giải Nobel) và các hoạt động xã hội (phong trào chống Chiến tranh Việt Nam trong thập niên 1960). Berkeley có hệ thống giáo dục bậc cử nhân rất đa dạng và được xem là trung tâm nghiên cứu của rất nhiều ngành học. Viện đại học đạt nhiều thành tích về vật lý, hóa học và các ngành sinh học trong thế kỷ 20, như sáng chế ra máy cyclotron, cách ly thành công vi khuẩn bại liệt ở người, phát triển khái niệm tia laser, giải thích nguyên lý của quang hợp, thiết kế thí nghiệm chứng minh định lý Bell, tạo ra hệ điều hành BSD Unix, và phát hiện ra 17 nguyên tố hóa học, trong đó có Plutonium, Berkelium và Californium. Viện đại học cũng đạt được nhiều giải thưởng về Toán, giải Nobel Kinh tế và giải Nobel Văn học. Các nhà vật lý của Berkeley nằm trong nhóm khoa học gia phát triển Dự án Manhatttan chế tạo bom nguyên tử trong Thế chiến thứ nhất và bom hiđrô không lâu sau đó.[Bách khoa toàn thư mở] WIE: Đây là những khám phá tuyệt vời đã gây cảm hứng đến nhiều người. Đã từng có một số đầu sách cũng cố gắng tạo ra một mối liên kết giữa vật lý và huyền học. Đương cử như cuốn “Cái Đạo của Vật Lý” (The Tao of Physics) của Fritjof Capra và “The Zukav’s The Dancing Wu Li Masters” của Gary Zukav, những cuốn sách này đã đến tay rất nhiều độc giả. Trong cuốn sách của ông, ông có nhắc đến rằng có vài điều vẫn chưa được nói đến mà ông cảm thấy rằng những đóng góp của ông là mới mẻ. Ông có thể cho biết thêm về những gì ông đã viết khác với những gì đã được viết trước đó? AG: Tôi mừng là anh đã hỏi câu này. Chuyện này nên được làm sáng tỏ và tôi sẽ cố gắng giải thích thật rõ ràng trong khả năng của tôi. Những công trình trước, như Cái Đạo của Vật Lý, đã từng là rất quan trọng trong lịch sử của khoa học. Tuy nhiên, những công trình trước đây, mặc dù là có hỗ trợ khía cạnh tâm linh của loài người, về mặt căn bản tất cả vẫn còn níu giữ những quan điểm vật chất về thế giới. Nói cách khác, họ không thật sự thử thách quan điểm của các nhà duy vật thực dụng rằng mọi thứ đều được tạo ra từ vật chất. Quan điểm đó chưa bao giờ được thử thách bởi bất kì những cuốn sách nào trước đây. Thật sự, cuốn sách của tôi là cuốn đầu tiên thẳng thừng thách thức điều đó và mọi bằng chứng đều được dựa trên những cuộc thí nghiệm khoa học gắt gao. Nói cách khác nữa, quan điểm cho rằng ý thức là nền tảng của thực tại, tất nhiên, đã từng tồn tại trong tâm lý học, chẳng hạn như tâm lý học siêu thể (transpersonal psychology), nhưng ngoài tâm lý học siêu thể không có một truyền thống khoa học nào và không có một nhà khoa học nào đã thấy được nó rõ ràng. Nó là một điều may mắn cho tôi khi nhận ra được điều này thông qua vật lý lượng tử, nhận ra rằng mọi nghịch lý trong vật lý lượng tử có thể được giải đáp nếu chúng ta chấp nhận rằng ý thức chính là nền tảng của thực tại. Nên đó chính là đóng góp riêng của tôi và, tất nhiên, điều này mang một tiềm năng biến đổi tầm nhìn, bởi vì bây giờ chúng ta đã có thể hợp nhất một trọn vẹn khoa học và tâm linh. Nói cách khác, với Capra và Zukav – mặc dù là sách của họ rất hay – nhưng họ vẫn bám víu vào cái khuôn khổ vật chất nền tảng, tầm nhìn vẫn không xê dịch, và cũng chẳng có một hòa giải đích thực nào giữa tâm linh và khoa học. Bởi vì nếu mọi thứ tối cùng vẫn là vật chất, mọi tương tác nhân quả phải đến từ vật chất. Và một ý thức thứ cấp cũng chẳng có gì đáng nói. Ý tôi là, nó không thể làm được gì hết. Nên, mặc dù những cuốn sách này công nhận tâm linh, nhưng thực chất tận cùng của nó vẫn đến từ những tương tác vật chất. Nhưng đó không phải là thứ tâm linh mà Jesus đã nói về. Đó không phải là thứ tâm linh đem đến các nhà huyền môn phương Đông hỷ lạc. Đó không phải là thứ tâm linh một nhà huyền học nhận ra và nói, “Bây giờ tôi đã biết thực tại đích thực là gì, nó xua tan mọi bất hạng một người đã từng có. Nó vô tận, nó là phúc lạc, nó là ý thức.” Những nhận xét hoa mỹ này không thể được đưa ra dựa trên một nền tảng ý thức thứ cấp. Nó chỉ có thể được đưa ra khi một người giác ngộ được bản chất đích thực về nền tảng của thực tại, khi một người giác ngộ trực tiếp được rằng Một là Tất Cả. Một con người thứ cấp sẽ không bao giờ có được những nhận thức như thế. Nó sẽ chẳng có nghĩa lý gì khi nói rằng bạn là Tất Cả. Đó là ý tôi muốn nói. Chừng nào mà khoa học còn giữ cái quan điểm về thế giới vật chất, dù cho bạn có cố gắng dàn xếp những trải nghiệm tâm linh theo lối song song hay theo lối những phản ứng hóa học trong não bộ hay gì đi nữa, bạn vẫn chưa buông bỏ cái khuôn mẫu cũ. Chỉ khi nào bạn thiết lập một nền khoa học dựa trên nền tảng và ý niệm rằng bản chất của thực tại là ý thức, khi đó bạn mới thật sự buông bỏ cái khuôn mẫu cũ và trọn vẹn hòa nhập được với tâm linh. Đó là những gì tôi đã làm trong cuốn sách, và đó là sự khởi đầu. Nhưng hiện nay cũng đã có những cuốn sách khác cũng nhận ra được điều này. WIE: Vậy là có những người khác đang chứng thực những ý tưởng của ông? AG: Có những người cũng đang bước ra khai sáng và nhìn nhận ý niệm này, rằng tư tưởng này là con đường đúng đắn để giải thích vật lý lượng tử và cũng để phát triển nền khoa học tương lai. Nói cách khác, khoa học hiện tại không những cho ta thấy những nghịch lý, mâu thuẫn, mà còn cho thấy sự thiếu sót của nó trong việc giải thích các hiện tượng nghịch lý và phi thường, ví dụ như tâm lý học siêu hình, siêu linh, ngay cả tính sáng tạo. Và ngay cả những đề tài truyền thống, như khả năng nhận thức hay tiến hóa sinh học, v.v… nó giải thích được những câu hỏi mà các giả thuyết duy vật không thể giải thích. Cho một ví dụ, trong sinh học có một cái gọi là giả thuyết về các điểm nhấn cân bằng (punctuated equilibrium). Giả thuyết này có nghĩa là tiến hóa không xảy ra một cách đều đặn, như Darwin nhìn nhận, mà có những kỉ nguyên tiến hóa xảy ra đột ngột, chúng được gọi là những “điểm nhấn”. Nhưng sinh học truyền thống không có giải thích gì về điều này. Tuy nhiên, nếu chúng ta làm khoa học dựa trên nền tảng của ý thức, chúng ta có thể thấy được trong hiện tượng về tính sáng tạo, tính sáng tạo đích thực của ý thức. Nói cách khác, chúng ta có thể thật sự thấy được rằng ý thức đang hoạt động một cách sáng tạo ngay cả trong sinh học, ngay cả trong sự tiến hóa của các loài. Và chúng ta có thể chám vào những chỗ trống nền sinh học chính quy không thể giải thích bằng những ý tưởng tâm linh, chẳng hạn như ý thức chính là cái tạo ra thế giới. WIE: Điều này nhắc cho tôi nhớ đến cái phụ đề của cuốn sách, “Làm Thế Nào Ý Thức Tạo Ra Thế Giới Vật Chất”. Đây hiển nhiên là một ý tưởng táo bạo. Ông có thể giải thích rõ hơn điều này thật sự xảy ra như thế nào theo ý kiến của ông không? AG: Thật ra, đây là điều dễ giải thích nhất, bởi vì trong vật lý lượng tử, như tôi đã nói khi nãy, vật thể không được xem như những sự kiện cố định, như chúng ta thường nghĩ vậy. Newton dạy chúng ta rằng vật chất là cố định, chúng có thể được nhìn thấy mọi lúc, di chuyển theo những chiều hướng cố định. Vật lý lượng tử hoàn toàn không hình dung vật thể là như vậy. Trong vật lý lượng tử, vật thể được xem như là những khả năng, những làn sóng khả năng. Đúng chứ? Nên khi câu hỏi được đặt ra, điều gì đã biến đổi khả năng thành hiện thực? Bởi vì, khi chúng ta nhìn thấy, chúng ta chỉ thấy những sự kiện thực tế. Khi bạn nhìn thấy một cái ghế, bạn thấy một cái ghế thực sự, bạn không thấy khả năng của một cái ghế. WIE: Đúng. Tôi hy vọng thế. AG: Tất cả chúng ta đều hy vọng thế. Cái này gọi là “nghịch lý đo đạc lượng tử” (quantum measurement paradox). Nó là một nghịch lý là vì chúng ta là ai mà thực hiện sự biến đổi này? Bởi vì sau cùng thì, trong khuôn mẫu vật chất chúng ta không hề có bất cứ quyền lực nhân quả nào. Chúng ta không là gì ngoài não bộ, cái được tạo ra từ các nguyên tử và các hạt cơ bản. Nên làm sao mà một bộ não được cấu tạo từ các nguyên tử và các hạt cơ bản có thể biến đổi những khả năng thành hiện thực được? Đây gọi là một nghịch lý. Nhưng với góc nhìn mới, ý thức là nền tảng của thực tại, cái gì biến đổi khả năng thành thực tại? Ý thức thực hiện chuyện đó, bởi vì ý thức không tuân theo vật lý lượng tử. Ý thức không phải là vật chất. Ý thức là siêu việt. Bạn có thấy được góc nhìn biến đổi khuôn khổ ngay đây không – làm sao mà ý thức có thể được cho là tạo ra thế giới vật chất được? Thế giới vật chất trong vật lý lượng tử chỉ là những khả năng. Chính nhờ có ý thức, thông qua sự chuyển đổi từ khả năng thành hiện thực, nó tạo ra những gì chúng ta thấy được biểu lộ. Nói cách khác, ý thức tạo ra thế giới được biểu lộ. WIE: Thành thật mà nói, khi lần đầu tiên đọc được dòng phụ đề của cuốn sách của ông, tôi nghĩ là ông chỉ đang ám chỉ theo nghĩa bóng. Nhưng sau khi đọc cuốn sách, và thời gian ngồi nói chuyện với ông ở đây, tôi cảm thấy chắc chắn rằng ý của ông thiên về nghĩa đen nhiều hơn là tôi tưởng. Có một điểm trong cuốn sách thật sự đã làm tôi đứng sững lại về phát biểu theo lý giải của ông, tổng thể vũ trụ hữu hình chỉ tồn tại trong một miền khả năng tiến hóa vô tận cho tới một điểm, khả nằng về một ý thức, một thực thể có tri giác xuất hiện, và ngay lập tức tại thời điểm đó, toàn bọ vũ trụ trở thành hiện thực, bao gồm luôn cả 15 tỉ năm lịch sử dẫn tới cột mốc đó. Ông thật sự có ý như vậy hay sao? AG: Tôi có ý đó theo nghĩa đen. Đây là điều khoa học lượng tử đòi hỏi. Thật sự, trong vật lý lượng tử điều này được gọi là “chọn lựa trì hoãn” (delayed choice). Và tôi đã thêm vào một khái niệm mới, là khái niệm về sự “tự liên quan” (self-reference). Một câu hỏi luôn luôn phát sinh, “Vũ trụ nếu đã tồn tại được 15 tỉ năm, và nếu cần có một ý thức để biến chuyển khả năng thành hiện thực, vậy thì làm thế nào mà vũ trụ đã tồn tại lâu đến thế?” Bởi vì không có ý thức, không có thực thể hữu tri, thực thể sinh học, thực thể từ carbon, trong khối cầu lửa nguyên thủy, cái mà chúng ta cho rằng đã tạo ra vũ trụ, thuyết big bang. Nhưng nếu nhìn từ một góc độ khác thì cả vũ trụ vẫn tồn tại dưới dạng những khả năng cho tới khi có một có một sự đo đạc lượng tử có mối liên hệ với chính nó – đây là một khái niệm mới. Một người quan sát là cần thiết để biến khả năng thành hiện thực, và chỉ khi một người quan sát nhìn thấy, chỉ khi đó cái toàn thể mới biểu hiện – bao gồm luôn thời gian. Hóa ra thì ý tưởng này, một cách rất tế nhị, tinh tế, thật ra đã được tìm thấy trong thiên văn học và chiêm tinh học dưới sự hướng dẫn của một nguyên tắc được gọi là “nguyên tắc nhân quan” (anthropic principle). Và ý tưởng này đã nảy nở trong giới chiêm tinh gia và thiên văn học – rằng vũ trụ có một mục đích. Nó được tinh chỉnh tỉ mỉ, có quá nhiều trùng hợp, dường như rất có thể rằng vũ trụ này đang thực hiện một mục đích gì đó, như thể vũ trụ đang phát triển theo một đường lối mà sẽ có một thực thể có tri giác sẽ xuất hiện tại một điểm. WIE: Vậy là ông cảm thấy rằng có một ý nghĩa, mục đích trong cách mà vũ trụ đang tiến hóa; rằng đại khái là nó đã sinh hoa kết trái qua chúng ta, qua loài người? AG: À, loài người có thể sẽ không phải là kết quả cuối cùng, nhưng chắc chắn chúng ta chính là những hoa quả đầu tiên, bởi vì từ đây mà khả năng về sự sáng tạo bắt đầu. Thú vật rõ ràng cũng có tri giác, nhưng chúng không sáng tạo như chúng ta. Loài người hiện nay dường như chính là một khuôn mẫu toát yếu, nhưng nó sẽ không là khuôn mẫu cuối cùng. Tôi nghĩ chúng ta có một chặng đường dài tiến hóa chưa xảy ra phía trước. WIE: Trong sách ông còn đưa ra một gợi ý xa hơn rằng vũ trụ này đã được tạo ra vì chúng ta. AG: Tuyệt nhiên là vậy. Nhưg nó có ý là những thực thể hữu tri, vì những thực thể hữu tri. Và vũ trụ này là chúng ta. Điều đó là rõ ràng. Vũ trụ có ý thức tự thân, nhưng ý thức tự thân thông qua chúng ta. Chúng ta là ý nghĩa của vũ trụ. Chúng ta không phải là trung tâm của vũ trụ một cách địa lý – Copernicus đã đúng về chuyện đó – nhưng chúng ta là trung tâm ý nghĩa của vũ trụ. WIE: Thông qua chúng ta vũ trụ tìm được ý nghĩa của nó? AG: Thông qua các cá thể hữu tri. Đó không có nghĩa chỉ là loài người trên trái đất. Mà còn có nghĩa là những cá thể hữu tri trên những hành tinh khác – về điều này tôi chắc chắn là có – và điều đó hoàn toàn tương thích với lý thuyết này. WIE: Ngoài là một khoa học gia, ông còn là một người tu hành tâm linh. Ông có thể cho biết điều gi đã mang ông đến với tâm linh? AG: Vâng, tôi nghĩ là trường hợp của tôi cũng khá thông thường, hầu như là một trường hợp cổ điển. Là trường hợp của Phật, người đã nhận ra, ở độ tuổi 29, rằng mọi thú vui của một hoàng tử thật sự chỉ là phí phạm thời gian bởi vì vẫn còn đau khổ trên đời. Đối với tôi thì nó không đến mức như vậy, nhưng vào khoảng 37 tuổi thế giới của tôi bắt đầu rơi rớt thành từng mảnh. Tôi không còn được cung cấp chi phí nghiên cứu; tôi có một cuộc ly hôn và tôi rất cô đơn. Và niềm vui nghề nghiệp tôi thường có khi viết về những nghiên cứu vật lý không còn vui thích gì nữa. Tôi nhớ có lần khi tham dự một cuộc hội thảo, suốt ngày hôm đó tôi đã loanh quanh tranh cãi với nhiều người. Và tối hôm đó khi tôi một mình, tôi cảm thấy thật cô đơn. Đột nhiên lúc đó tôi bị chứng ợ nóng (heartburn) hành hạ, tôi tọng vào cả một chai thuốc Tums (hiệu thuốc đặc trị) nhưng nó vẫn không hết. Tôi đã nếm được mùi vị của đau khổ; tôi đã khám phá ra đau khổ, theo nghĩa đen. Và khám phá đó đã dẫn tôi đến với tâm linh, bởi vì tôi không còn có thể nghĩ được về điều gì khác nữa. Tôi không còn có thể nghĩ ra được cách nào nữa – mặc dù tôi đã hoàn toàn bác bỏ cái ý tưởng về Trời vì đã là một nhà vật lý duy vật khá lâu rồi. Nhiều khi những đứa con tôi hỏi, “Bố có phải là một người vô thần không?” Tôi trả lời đại khái rằng, “Phải.” Và, “Trời có thật không?” Và tôi nói, “Không, bố không tin vào Trời.” Những câu đó tôi hay nói thường xuyên. Nhưng vào khoảng thời gian sau này, khi tôi khoảng 37 tuổi, trong không gian đó, nơi mà Trời không tồn tại và ý nghĩa của cuộc đời đối với tôi chỉ là sự theo đuổi lý trí thành công trong nghề nghiệp, đã không còn có thể thỏa mãn tôi và mang lại được hạnh phúc. Thật sự thì lúc đó đời tôi chứa đầy khổ đau. Và tôi đã biết đến thiền. Tôi muốn biết xem có cách nào để ít nhất tìm được sự khuây khỏa không, chứ chưa nói đến hạnh phúc. Nhưng cuối cùng thì thiền định cũng mang lại được hỷ lạc, nhưng phải qua luyện tập. Thêm vào đó, tôi phải nhắc đến việc tôi tái hôn lần nữa, và thử thách của tình yêu cũng đã rất quan trọng. Nói cách khác, tôi sớm khám phá ra rằng sau khi tôi lập gia đình lần thứ hai thì tình yêu lúc đó rất khác biệt so với những gì tôi nghĩ. Tôi khám phá ra được rằng vợ tôi chính là ý nghĩa của tình yêu, và đó cũng là một đóng góp lớn lao cho cuộc sống tâm linh của tôi. WIE: Thật thú vị khi biết rằng khi ông hướng đến tâm linh bởi vì khoa học đã không thật sự thỏa mãn được khát khao tìm kiếm chân lý của ông, nhưng mặc dù vậy ông vẫn tiếp tục sự nghiệp khoa học của mình. AG: Đúng vậy. Chỉ là cách làm khoa học của tôi đã thay đổi. Lý do khiến tôi đánh mất sự hào hứng trong khoa học là vì tôi đã biến nó trở thành một cuộc chơi nghề nghiệp. Tôi đã đánh mất tinh thần về cách làm khoa học lý tưởng, là tinh thần khám phá, là óc tò mò, là tinh thần nhận biết sự thật. Nên tôi đã không còn tìm kiếm sự thật thông qua khoa học, và vì thế tôi đã phải tìm đến thiền, nơi tôi tìm được chân lý một lần nữa, chân lý về thực tại. Nhưng sau cùng bản chất của thực tại là gì? Bạn thấy xu hướng đầu tiên là chủ nghĩa hư vô, không gì tồn tại; Tôi đã hoàn toàn tuyệt vọng. Nhưng thiền định sớm bảo tôi rằng không, không tuyệt vọng như vậy đâu. Tôi đã có một trải nghiệm. Tôi đã hé nhìn được rằng thực tại thật sự tồn tại. Nó là gì thì tôi không biết, nhưng nó tồn tại. Điều đó đang mang lại động lực cho tôi để trở lại với khoa học để xem tôi có thể làm được gì với nguồn năng lượng mới và phương hướng mới này không, và thật sự tìm kiếm chân lý thay vì tìm kiếm chỉ vì những danh nghĩa nghề nghiệp. WIE: Niềm hứng thú mới mẻ về tâm linh này ảnh hưởng đến các hoạt động khoa học của ông như thế nào? AG: Những gì đã xảy ra là tôi không còn làm khoa học chỉ vì mục đích công bố các bài viết và thực hiện các thí nghiệm cho phép bạn nhận được tài trợ. Thay vào đó, tôi bắt đầu giải quyết những vấn đề thật sự quan trọng. Những vấn đề này ngày nay rất nghịch lý và và rất bất thường. Vâng, tôi không nói rằng các nhà khoa học truyền thống không có một vài vấn đề quan trọng. Cũng có chứ không phải không. Anh thấy đó, khoa học lượng tử là một vấn đề luôn làm trật hướng người ta khỏi những thành tựu nghề nghiệp vì nó là một vấn đề rất khó. Người ta đã cố gắng nhiều thập kỉ nhưng vẫn chưa thể giải đáp được nó. Nhưng tôi nghĩ, “Mình không có gì để mất và mình chỉ đang điều tra về sự thật, tại sao lại không?” Vật lý lượng tử là chuyên ngành tôi biết rõ. Tôi đã nghiên cứu về vật lý lượng tử suốt đời tôi, vậy thì tại sao lại không làm? Đó là lý do dẫn đến câu hỏi, “Nhân tố nào chuyển đổi khả năng thành hiện thực?” và nó đã chiếm hết thời gian của tôi từ 1975 đến 1985, cho tới khi có một bức phá huyền bí xảy ra. WIE: Ông có thể mô tả sự bức phá này không? AG: Vâng, tôi rất sẵn lòng. Nó đang hiển hiện rõ ràng trong đầu tôi. Có một lần – khi sực bức phá này xảy ra – vợ tôi và tôi đang ở Ventura, California và một người bạn tâm linh, Joel Morwood, xuống chơi từ Los Angeles, và tất cả chúng tôi đều đi tới nghe buổi thuyết giảng của Krishnamurti. Krishnamurti, tất nhiên rồi, là một nhà huyền môn vĩ đại và cực kì độc đáo. Sau buổi thuyết giảng chúng tôi về nhà và ngồi ăn tối với nhau. Tôi trao đổi với Joel về những ý tưởng mới nhất của tôi về vật lý lượng tử liên quan đến ý thức và Joel đã thách thức tôi rằng, “Ý thức có thể được giải thích chăng?” Tôi đã cố gắng luồn lách đưa ra câu trả lời nhưng Joel đã không nghe gì hết. Anh ta nói, “Anh đang tự bịt mắt mình bằng khoa học. Anh không nhận ra được rằng ý thức là nền tảng của vạn vật.” Anh ta nói một câu đại khái là, “Không có gì khác ngoài Trời.” Và đã có một cái gì đó lật úp lại trong đầu tôi mà tôi không thể giải thích được. Đây là một nhận thức tối hậu mà tôi có được ngay giây phút đó. Tôi nhớ rằng tôi đã thức suốt đêm đó, nhìn lên bầu trời và có được một cảm giác thiêng liêng lạ lùng về thế giới, và một sự quả quyết hoàn toàn rằng đây đúng là bản chất của thế giới, bản chất của thực tại, và một người có thể làm khoa học dựa trên nền tảng này. Anh thấy đó, cái ý niệm đang thịnh hành bay giờ – ngay cả với những người như David Bohm [4] – là “Làm sao bạn có thể làm khoa học mà không cho rằng có một thực tại vật chất? Làm sao bạn có thể làm khoa học nếu bạn để cho ý thức quyết định những điều tùy nghi?” Nhưng tôi đã hoàn toàn chắc chắn – không một mảy may nghi ngờ nào kể từ đó – rằng một người hoàn toàn có thể làm khoa học trên nền tảng này. Không những thế, họ còn có thể giải quyết những vấn đề của khoa học ngày nay. Và đó là những gì đang diễn ra. Trong vòng vài tháng mọi vấn đề về đo đạc lý thuyết, đo đạc nghịch lý đã tan biến mất. Kể từ khi đó ý tưởng tiếp nối ý tưởng cứ tuôn trào, và rất nhiều vấn đề đã được giải quyết – vấn đề về hiểu biết, nhận thức, tiến hóa sinh học, chữa bệnh bằng tâm linh. Cuốn sách mới nhất của tôi, “Vật Lý của Linh Hồn” (Physics of the Soul) là một học thuyết về luân hồi, tất cả đã được giải thích cặn kẽ. Thật là một cuộc hành trình sáng tạo tuyệt vời. [4] David Bohm: Chuyên gia vật lý lượng tử người Hoa Kỳ. Được công nhận rộng rãi là một trong những nhà vật lý lượng tử quan trọng nhất trong thế kỷ 20. WIE: Nhìn từ góc độ ngược lại, ông nói như thế nào về việc bản thân là một nhà khoa học đã có ảnh hưởng thế nào đến sự tiến hóa tâm linh của ông? AG: À, tôi đã không xem chúng là tách biệt. Sự bao trùm, thống nhất này rất quan trọng đối với tôi. Các giác giả thường cảnh báo người ta rằng, “Đừng phân tách cuộc đời thành cái này hay cái kia.” Đối với tôi nó đến một cách tự nhiên vì tôi đã khám phá ra những cách thức mới mẻ để làm khoa học khi tôi khám phá ra tâm linh. Tâm linh là bản chất tự nhiên của tôi, kể từ đó bất cứ tôi làm gì, tôi không tách biệt chúng. Trước khi có những công trình của tôi, tôi nghĩ rằng nó vẫn còn rất mơ hồ làm thế nào để kết hợp khoa học và tâm linh. Mặc dù là những người như Teilhard de Chardin (nhà triết học, thần học người Pháp), Aurobindo [5], hay Blavatsky [6], đã nhận ra được rằng một nền khoa học như thế sẽ đến, và rất ít người sẽ có thể nhìn thấy nó. Những gì tôi làm là nắn thêm thịt vào tất cả những tầm nhìn ở những thế kỉ trước. Và khi bạn làm thế, khi bạn nhận ra rằng khoa học có thể được dựa trên nền tảng của ý thức, mọi thiếu hụt sẽ không còn nữa. Nói cách khác, thành kiến cho rằng khoa học chỉ mang đến tách biệt sẽ không còn nữa. Khoa học duy vật là một khoa học tách biệt. Một nền khoa học mới nói rằng thế giới vật chất vẫn tồn tại, nhưng nó chỉ là một phần của tổng thể, không phải toàn bộ. Có tách biệt thì cũng phải có thống nhất. Trong cuốn sách Vũ Trụ Tự Thức của tôi, tôi nói về cuộc hành trình của những vị anh hùng trong thế giới khoa học. Tôi nói rằng, 400 năm trước, với Galileo, Copernicus, Newton và những người khác, chúng ta giương cánh buồm tách biệt và du hành vào hải phận của sự tách biệt, nhưng đó chỉ là phần đầu của chuyến hành trình. Sau đó người anh hùng đã khám phá ra được chân lý và quay trở lại. Đây chính là sự trở lại của người anh hùng và chúng ta đang tận mắt chứng kiến qua tầm nhìn mới này. [5] Aurobindo: học giả, nhà thơ, triết gia, yogi người Ấn Độ, là một trong những lãnh tụ tinh thần nổi tiếng nhất và có ảnh hưởng nhất của triết lý Vệ-đà [6] Blavatsky: Nhà huyền bí đại tài trong lịch sử văn minh Tây Âu. Bà cũng là sứ giả trực tiếp của các vị Chân-Sư ngự nơi dãy núi Hy Mã Lạp Sơn. Người sáng lập ra hội Thông Thiên Học. http://www.amitgoswami.org/scientific-proof-existence-god/ Share this post Link to post Share on other sites
Posted 23 Tháng 4, 2017 Phát hiện bằng chứng sao chổi đâm vào Trái Đất, quét sạch sự sống cách đây 13.000 năm Trang Ly | 22/04/2017 09:29 PM Ảnh minh họa. Sự kiện sao chổi đâm vào Trái Đất cách đây 13.000 năm đã quét sạch sự sống của hàng nghìn người và nhiều loài động vật, gây biến đổi khí hậu trong 1.300 năm. Những siêu Trái Đất có thể tồn tại sự sống mà nhân loại đã tìm được sau gần 60 năm NASA chế tạo tàu thăm dò năng lượng nguyên tử để săn tìm sự sống trong Hệ Mặt trời? NASA: Xuất hiện thiên thạch khổng lồ đường kính 1.600m bay ngang Trái Đất ngày mai 20/4 Bí mật dưới lòng đại dương Enceladus - ứng viên sáng giá nhất có sự sống trong Hệ Mặt Trời Sau khi phân tích các hình chạm khắc trên cột trụ niên đại hơn 10.000 năm tìm thấy tại ngôi đền được xem là cổ nhất thế giới Gobekli Tepe ở Thổ Nhĩ Kỳ, các nhà khoa học nhận định: Cách đây 13.000 năm, một sao chổi đã đâm vào Trái Đất, giết chết hàng nghìn người, biến đổi hoàn toàn khí hậu và khiến văn minh nhân loại trở về con số 0. Nghiên cứu những bằng chứng trên các cột đá Vulture Stone, các nhà khảo cổ khẳng định, vào năm 11000 Trước Công nguyên, hàng loạt các bụi sao chổi đã đâm vào Trái Đất, gây nên thảm họa kinh hoàng bậc nhất mà loài người phải hứng chịu từ không gian. Sao chổi đâm vào Trái Đất gây nên thảm họa kinh hoàng cho con người, động vật và khí hậu. Ảnh: Shutterstock. Hình ảnh chạm khắc một người đàn ông không đầu trên các bia đá Vulture Stone có thể là hình ảnh biểu trưng cho hậu quả khủng khiếp từ thảm họa không gian. Sao chổi đâm vào Trái Đất đã quét sạch sự sống của nhiều loài động vật khổng lồ, trong đó có loài voi ma mút. Hình ảnh các loài động vật chạm khắc trên tấm đá có thể là bằng chứng cho việc này. Hình ảnh những loài động vật chạm khắc trên tấm bia đá. Ảnh: NatGeo. Giới khoa học cho rằng, thảm họa không gian này đã làm các tảng băng khổng lồ ở Bắc Mỹ sụp đổ khiến nước biển lạnh hơn. Hệ quả là, nhiệt độ Trái Đất giảm mạnh, phù hợp với thời kỳ mà các học giả gọi là kỷ băng hà Younger Dryas, kéo dài trong 1.300 năm. Tiến sĩ Martin Sweatman, trưởng nhóm nghiên cứu, thuộc trường Đại học Edinburgh, cho biết: "Tôi cho rằng, những phát hiện trên Vulture Stone củng cố thêm bằng chứng cho thấy, Trái Đất đã từng xảy ra thời kỳ kỷ băng hà mini Younger Dryas. Thảm họa tồi tệ này đã khiến khí hậu hành tinh chúng ta thay đổi trong hàng nghìn năm." Những hình chạm khắc có thể ứng với các chòm sao mà chúng ta đã tìm thấy. Nguồn: Dailymail. Hiện tại, các kỹ sư thuộc trường Đại học Edinburgh (Scotland) đang sử dụng phần mềm máy tính phù hợp để nghiên cứu các hình chạm khắc động vật có tương ứng với các chòm sao mà chúng ta đã biết hay không. Đền Gobekli Tepe ở Thổ Nhĩ Kỳ. Ảnh: NatGeo. Dịch từ: Telegraph Nguồn: http://soha.vn/phat-hien-bang-chung-sao-choi-dam-vao-trai-dat-quet-sach-su-song-cach-day-13000-nam-20170422092632486.htm Share this post Link to post Share on other sites
Posted 1 Tháng 7, 2017 Thưa ngài W. S. Hawking. Có lẽ ngài sẽ không vui, nếu như ngài đọc được bài viết này của tôi. Tôi xác định chắc chắn rằng ngài đã sai lầm, khi cho rằng có thể đi du hành vượt thời gian - nếu thông tin của bài báo này đúng. Bởi vì thời gian chỉ là quy ước của con người và nó không có thật. Cho nên không thể có cách nào vượt quả một ảo ảnh không thật. Tôi phát biểu điều này, nhân danh nền văn hiến Việt - cội nguồn đích thực của nền văn minh Đông phương, một thời nhuy hoàng ở miến nam sông Dương tử. Tôi sẵn sàng chia sẻ nếu ngài quan tâm. http://khoahoc.tv/stephen-hawking-cach-tao-mot-co-may-du-hanh-vuot-thoi-gian-29307 1 person likes this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 7 Tháng 10, 2017 Nobel Vật Lý 2017: Đang mở ra những thế giới chưa từng thấy! Posted on Tháng Mười 6, 2017 by Blog của 5xu Năm 1916 nhà bác học Albert Einstein nói ông tin vào sự tồn tại của sóng hấp dẫn. Năm nay, 101 năm sau phát biểu của Einstein, giải Nobel Vật Lý được trao cho Rainer Weiss, Barry C. Barish và Kip S. Thorne vì đã phát hiện ra được sự tồn tại của sóng hấp dẫn. Trong thông báo về giải thưởng, Viện hàn lâm khoa học hoàng gia Thụy điển nói về giải Nobel Vật lý 2017 năm nay: “Đây là một thứ hoàn toàn mới và khác biệt, đang mở ra những thế giới chưa từng thấy.” (Bài trích từ sách Bầu trời chiều ẩn giấu, bài trích này cũng đã đăng trên Tuổi Trẻ Cuối Tuần số tuần này, tức tuần công bố giải Nobel 2017). Link download sách, bản ebook định dạng pdf ở đây, và bản để in ở đây). * Năm 1916, một nhà vật lý người đức, lúc này đang sĩ quan pháo binh trên mặt trận Nga, tên là Karl Schwarzschild, đã giải các phương trình tensor của Einstein và tìm ra một nghiệm kỳ lạ. Theo nghiệm này, xung các ngôi sao có khối lượng cực lớn có một không quyển kỳ ảo (magical sphere). Tất cả mọi thứ, kể cả ánh sáng, khi đi vào không quyển này sẽ bị hút vào ngôi sao khổng lồ và không có cách nào thoát ra được. Schwarzschild còn tính toán được bán kính của không quyển kỳ ảo này. Bán kính này được gọi là bán kính Schwarzschild hoặc bán kính hấp dẫn (gravitational radius). Schwarzschild qua đời trên mặt trận Nga và không biết rằng mình đã tìm ra một thứ, về sau được John Wheeler đặt tên: Hố Đen (Black Hole). Không quyển ma quái mà Schwarzschild tìm ra, ngày nay được gọi là Chân trời sự kiện (event hoziron), hàm ý đấy là nơi xa nhất mà tầm mắt của người quan sát có thể với tới (sau chân trời là hố đen, nơi mà ánh sáng nếu vươn tới sẽ bị nuốt vào và không bao giờ trở lại). Cũng năm 1916, Einstein đề xuất sự tồn tại của một sóng gọi là sóng hẫp dẫn, một loại sóng mang lực hấp dẫn lan truyền trong không gian với vận tốc bằng vận tốc ánh sáng. Einstein đã tìm thấy sóng trên lý thuyết bằng cách giải các phương trình của mình, cũng như dự báo các ngôi sao đôi quay quanh một trục chung sẽ dần sát lại với nhau để rồi lao vào nhau do năng lượng mất dần do bị bức xạ vào không gian dưới dạng sóng hấp dẫn. Để biết chi tiết hơn, xem bài Tiếng vọng từ sáng thế. Năm 1936, Einstein và học trò là Nathan Rosen đăng một bài báo khoa học trên tạp chí Physical Review. Bằng cách sử dụng nghiệm của một hố đen tiêu chuẩn hình bình cổ dài có cổ bình bị cắt ngang và sáp nhập (merge) với một hố đen giống như thế nhưng đã bị xoay ngược lại. Ý tưởng này của Einstein và Rosen ngày nay được các nhà vũ trụ học hình dung như một cổng để kết nối hai vũ trụ khác nhau. Ý tưởng này có tên gọi Cầu Einstein-Rosen. Hay còn được biết với tên lỗ sâu đục (wormhole). Tuy nhiên, theo Einstein, các lỗ sâu đục có thể tồn tại, nhưng các sinh vật lọt vào miệng hố đen sẽ chết ngay lập tức vì bị xé xác bởi lực hấp dẫn. Năm 1963, nhà toán học Roy Kerr tìm được nghiệm chính xác của phương trình Einstein: một ngôi sao chết, suy sụp vào bên trong do lực hấp dẫn của chính nó, do định luật bảo toàn động lượng sẽ quay nhanh hơn, và tạo thành một lỗ đen quay. Nghiệm của Roy Kerr cho thấy việc đào thoát tới một không gian khác thông qua lỗ sâu đục là khả thi về lý thuyết: lực ly tâm (hướng ra ngoài) do sự quay của hố đen sẽ cân bằng và triệt tiêu lực hấp dẫn (hút vào), và các sinh vật rơi vào miệng hố đen sẽ không bị xé tan xác nữa. Lỗ đen là vô hình bởi nó hút tất cả ánh sáng vượt qua không quyển kỳ ảo quanh nó (hay còn gọi là chân trời sự kiện). Các nhà thiên văn phải tìm hố đen bằng cách xác định các đĩa bồi tích (accretion disk) tạo thành do các khí bồi đắp dần xung quanh hố đen. Trước năm 1990, hố đen chỉ tồn tại trên lý thuyết cho đến năm 1994 kính viễn vọng Hubble tìm thấy bằng chứng rõ ràng về các hố đen siêu nặng “ẩn nấp” giữa các thiên hà. Các nhà thiên văn tin rằng, hầu hết các thiên hà, kể cả Ngân Hà của chúng ta, đều có hố đen ở trung tâm. Các hố đen đã được phát hiện, ngày nay đã tới hàng trăm. Tất cả các hố đen đều tự quay rất nhanh quanh chính mình. Năm 1988, một học trò của John Wheeler, nhà vũ trụ học và vật lý hấp dẫn Kip Thorne đề xuất một ý tưởng xây dựng máy du hành thời gian. Ý tưởng này được Thorne tư vấn để Christopher Nolan xây dựng bộ phim giả tưởng rất thành công Interstellar. Trong bộ phim này, người cha sau khi vượt qua chân trời sự kiện của hố đen vẫn tiếp tục sống và tìm được cách gửi thông điệp về cho con gái của mình bằng cách sử dụng sóng hấp dẫn. Năm 1962, hai nhà khoa học là Gertsenshtein và Pustovoit xuất bản một bài báo đề xuất các nguyên tắc dò tìm sóng hấp dẫn bước sóng dài bằng giao thoa kế. Năm 1973, Kip Thorne ở học viện Caltech bắt đầu hành trình săn lùng sóng hấp dẫn của mình. Năm 1984, Kip Thorne, Ronald Drever và Rainer Weiss thành lập ủy ban lâm thời để xây dựng dự án LIGO. Năm 2002, LIGO bắt đầu dò tìm sóng hấp dẫn. Năm 2015, phiên bản hiện đại hơn với tên gọi Advanced LIGO, đi vào hoạt động. LIGO (Laser Interferometer Gravitational Wave Observatory – Trạm quan trắc sóng hấp dẫn giao thoa kế laser) là một thiết bị khổng lồ gồm hai đường ống dài khoảng 4km, nối với nhau hình chữ L. Trong mỗi ống có một chùm tia laser được chiếu liên tục. Hai chùm tia gặp nhau ở góc chữ L. Các sóng laser được tính toán sao cho chúng triệt tiêu nhau và tạo nên vân giao thoa. Do hiện tượng phân cực, hai ống vuông góc với nhau nên chỉ có một ống sẽ bị sóng hấp dẫn đập vào. Khi sóng hấp dẫn đập vào một trong hai ống , chiều dài ống này sẽ bị co giãn khác với ống kia, gây ra nhiễu loạn phá vỡ cân bằng của hai chùm laser, và làm mất các vân giao thoa Theo tính toán, để phát hiện sự va chạm của hai hố đen cách trái đất 300 triệu năm ánh sáng, LIGO có thể phải chờ đợi từ 1 đến 1000 năm. Cuối cùng, Advance LIGO phát hiện được sự va chạm của hai hố đen cách trái đất 1.3 tỷ năm, chỉ vài tiếng đồng hồ sau khi được sửa chữa nâng cấp. Giống các loại sóng khác, như sóng hấp dẫn có biên độ, tần số, bước sóng và tốc độ. Tốc độ của sóng hấp dẫn bằng tốc độ ánh sáng. Tần số của sóng hấp dẫn rất thấp (thấp tần) nên bước sóng của chúng rất dài, truyền tải năng lượng rất bé. Đây là lý do rất khó bắt được sóng hấp dẫn. 1.3 tỷ năm trước, ở một thiên hà rất xa xôi, có hai hố đen bị dính vào một quỹ đạo xoắn ốc, rồi ở khoảnh khắc cuối cùng chúng đâm sập vào nhau với tốc độ gần bằng tốc độ ánh sáng. Vụ va chạm đã tạo ra một hố đen mới nặng bằng 62 lần khối lượng mặt trời, đồng thời phát ra một nguồn năng lượng khổng lồ và tinh khiết. Toàn bộ năng lượng ấy bức xạ vào vũ trụ chỉ trong trong chỉ khoảng 1 phần 10 giây. Năng lượng ấy làm biến dạng không gian và thời gian xung quanh vụ va chạm trong chớp mắt. Bởi vụ va chạm là của hai lỗ đen, nên năng lượng phát ra không phải là sóng ánh sáng, mà là sóng hấp dẫn. Sóng hấp dẫn này truyền đi và làm co giãn không gian khi nó đi qua. Đó chính là không gian – thời gian trong vũ của Einstein. Ngày 11 tháng 2 năm 2016, các nhà khoa học của LIGO công bố họ đã dò tìm được sóng hấp dẫn của một vụ sáp nhập hố đen cách chúng ta 1.3 tỷ năm ánh sáng (và cũng có nghĩa là sóng từ một vụ sáp nhập cách ngày nay 1.3 tỷ năm). Ngày 15 tháng 6 năm 2016, LIGO công bố lần thứ hai dò được sóng hấp dẫn từ một vụ sáp nhập hố đen cách trái đất 1.4 tỷ năm ánh sáng. Một nửa giải Nobel Vật Lý năm nay được trao cho Rainer Weiss, giáo sư tại đại học MIT và là một trong ba nhà vật lý sáng lập LIGO. Nửa giải còn lại được trao cho Kip Thorne và Barry C. Barish. Kip Thorne là giáo sư tại đại học Caltech (California Institute of Technology) và cũng là thành viên sáng lập LIGO. Barry C. Barish, giáo sư đại học Caltech, là giám đốc thứ hai của LIGO và là người nỗ lực xây dựng thành công và đưa LIGO vào hoạt động. Rainer Weiss sinh ở Đức năm 1932. Năm 1939, gia đình ông đào thoát khỏi ách Phát Xít và đến nước Mỹ. Vài phút sau khi giải Nobel Vật lý được công bố, ông trả lời các phóng viên qua điện thoại: “Thật là tuyệt. Tôi thấy rất ổn. Thậm chí tôi còn mặc quần áo sẵn sàng rồi đây.” Ông nói giải thưởng này là kết quả lao động của 1000 con người tham gia vào dự án LIGO, là dự án đã quan sát được sóng hấp dẫn, qua đó chứng minh được lý thuyết có tuổi đời một thế kỷ của Einstein. Ronald Drever, giáo sư đại học Caltech, một trong ba sáng lập viên của LIGO mới qua đời tháng ba năm nay. Nếu giải Nobel được trao sớm thêm một năm có lẽ ông cũng là người được nhận giải. Trong khoa học hiện đại, đóng góp của nhóm các nhà nghiên cứu cho thành tựu khoa học có tác động lớn hơn các đóng góp cá nhân. Gần đây có nhiều ý kiến chỉ trích cách giải Nobel được trao. Các nhà khoa học cho rằng giải Nobel Vật lý chỉ trao tối đa cho ba nhà khoa học như hiện nay không còn hợp lý nữa. Tất nhiên những người được giải vẫn xứng đáng, nhưng trên thực tế họ không làm việc đơn độc. Phát biểu sau khi biết mình được trao giải Nobel, Kip Thorne nói: “Tôi đã hy vọng giải được trao cho cả nhóm LIGO, nhưng thay vì thế giải được trao cho ba chúng tôi.” Phát hiện sóng hấp dẫn của LIGO còn chứng minh Einstein tiếp tục đúng ở một khía cạnh khác, khía cạnh lực hấp dẫn trong Thuyết tương đối rộng của ông. Lần đầu tiên sóng hấp dẫn được chứng minh với bằng chứng thực nghiệm của một hiện tượng xảy ra bên ngoài hệ mặt trời. Phát hiện sóng hấp dẫn của LIGO lần đầu tiên giúp khoa học chứng minh trực tiếp bằng thực nghiệm được sự tồn tại của một cặp hố đen, vốn chỉ tồn tại trên lý thuyết. Dữ liệu đo được còn giúp các nhà khoa học biết về hai hố đen đã tạo ra sóng: khối lượng của hố đen, vận tốc quỹ đạo, và thời điểm chúng đâm vào nhau. Có thể, dữ liệu ấy còn giúp giải thích các hố đen siêu nặng đã hình thành như thế nào ở tâm các thiên hà. Người Hy Lạp cổ và người Do Thái cổ cùng tin rằng vũ trụ trật tự (cosmos) được sinh ra từ hỗn mang không có hình dạng. Thánh Augustine, một nhà thần học xuất sắc của Hội Thánh ở thế kỷ thứ 4, có những chiêm nghiệm rất độc đáo về thời gian và không gian. Theo chiêm nghiệm của Thánh Augustine, Thượng Đế tồn tại bên ngoài thời gian mà con người nhận thức được. Thượng đế ở bên ngoài vũ trụ do chính ngài tạo ra, và ở bên ngoài thời gian của cái vũ trụ ấy. Thời gian của Thượng Đế là một cái gì đó vừa hiện tại vừa vĩnh hằng. Quan điểm của Thánh Augustine đã đặt không gian với thời gian của vũ trụ vào chung trong một khái niệm, rất gần với một vũ trụ được dệt lưới (fabric) bằng không-thời gian của Einstein. Và ý tưởng của Thánh Augustine về một thượng đế đứng hoàn toàn bên ngoài không gian và thời gian của vũ trụ do chính ngài tạo ra cũng là một ý tưởng độc đáo và cấp tiến. Sau khi Einstein đặt những viên gạch đầu tiên cho ngành vũ trụ học hiện đại, ý tưởng ấy quay lại bằng sự màu nhiệm của khoa học. * Năm 1915, Einstein đưa ra lý thuyết mới về lực hấp dẫn, còn gọi là thuyết tương đối rộng: một vũ trụ “mới” hình thành. Trong vũ trụ ấy, khi con người quan sát ánh sáng của một ngôi sao cách trái đất một tỷ năm ánh sáng, thì đồng thời cũng là quan sát ánh sáng được phát đi từ một tỷ năm trước. Trong vũ trụ ấy, không gian và thời gian đã dệt vào nhau thành lưới không-thời gian (spacetime). Năm 1921,nhà vật lý gốc Nga Alexander Friedmann khi giải các phương trình gốc của Einstein đã tìm ra nghiệm mà ngày nay được gọi là nghiệm Big Bang. Vũ trụ xuất hiện đột ngột và mạnh mẽ kinh khủng từ một trạng thái có độ nén vô hạn và năng lượng cực lớn. Tác động của vụ nổ Big Bang lan ra khắp vũ trụ theo không gian và thời gian, và tác động của nó còn tồn tại đến ngày nay. Vũ trụ bao la được tuôn trào từ một điểm sau một vụ nổ là một ý tưởng rất khó hiểu với nhận thức thông thường. Hơn thế, khác với các vụ nổ bình thường, phải xảy ra ở đâu đó với thời gian và vị trí cụ thể trong không gian, vụ nổ Big Bang xảy ở một điểm hoàn toàn chưa có không gian và thời gian. Vị trí của vụ nổ ấy ở hiện tại chính là tất cả các điểm trong vũ trụ. Toàn bộ vũ trụ rộng lớn ngày nay, ngày xưa đã ở cùng một chỗ. Ở thời điểm Planck, 10-43 giây sau Big Bang, vũ trụ là là một mớ hỗn mang cực kỳ nóng, cỡ 1032 độ Kelvin. Đó là một khối plasma đồng chất, nóng bỏng, và có thể có nhiều hơn 3 chiều không gian. Chừng một phần trăm giây sau, vũ trụ mới nguội đi, còn khoảng 10 ngàn tỷ độ K, các hạt quark bắt đầu cụm lại để tạo ra proton và neutron. Một phần trăm giây sau nữa hạt nhân các nguyên tố nhẹ hình thành. Giai đoạn tổng hợp hạt nhân kéo dài vài trăm ngàn năm, rất dài với đời người nhưng chỉ là khoảnh khắc ngắn ngủi của vũ trụ. Vũ trụ đầy plasma của các hạt tích điện khiến các photon bị khuếch tán không thoát ra được. Khi nhiệt độ vũ trụ giảm xuống còn vài ngàn độ, các electron chuyển động chậm dần và lúc này nguyên tử mới bắt đầu hình thành. Sau Big Bang khoảng 370 ngàn năm, nhiệt độ vũ trụ hạ xuống còn 3000 độ Kelvin, các electron và hạt nhân chuyển động đủ chậm để hình thành nguyên tử: electron bị trói vào quỹ đạo nguyên tử và hòa điện với các proton. Các photon nguyên thủy của Big Bang, không còn bị các hạt tích điện ngăn trở nữa, bắt đầu tràn ra và lấp đầy vũ trụ. Do vũ trụ giãn nở, mọi thứ giảm mật độ và nguội dần. Do photon luôn chuyển động với tốc độ ánh sáng nên khi nguội đi, tần số của nó cũng giảm dần. Ánh sáng của của vũ trụ nguyên thủy chuyển dần màu sắc, từ tím chuyển dần sang xang, vàng, đỏ, hồng ngoại và cuối cùng trở thành sóng vô tuyến. Nhờ vào vệ tinh COBE và vệ tinh WMAP đã chụp được bức xạ nền sóng vô tuyến của vũ trụ, con người đã có thể nhìn xa được vào không gian, tới tận quá khứ, khi vũ trụ sơ sinh mới 370 ngàn năm tuổi. Để nhìn xa hơn về thời điểm gần Big Bang hơn nữa, các nhà khoa học kỳ vọng những thiết bị dò sóng hấp dẫn như LIGO, có thể dò được nhưng sóng hấp dẫn nguyên thủy có từ thời điểm Big Bang. Và có vẻ như với LIGO, họ đang tiến tới thành công. Share this post Link to post Share on other sites
Posted 22 Tháng 5, 2018 Nghiên cứu cho thấy phụ nữ lưu giữ ADN của mọi người đàn ông họ từng có quan hệ tình dục Dink | 03-05-2018 - 21:20 PM Đến các nhà khoa học cũng phải nhận định phụ nữ thật khó hiểu, phức tạp hơn ta tưởng rất nhiều. Theo một nghiên cứu được thực hiện bởi Đại học Seattle và Trung tâm Nghiên cứu Ung thư Fred Huntchinson, thì phụ nữ lưu giữ và mang theo ADN của mọi người đàn ông mà cô ấy từng có quan hệ tình dục. Đây hoàn toàn là một khám phá ngẫu nhiên. Các nhà khoa học lúc ấy đang tìm cách xác định xem nếu người phụ nữ đang mang thai con trai, thì liệu đứa con ấy có mắc căn bệnh thần kinh thường thấy trên nam giới không. Nhưng khi nghiên cứu não bộ người phụ nữ, nghiên cứu này bắt đầu đi theo một chiều hướng hoàn toàn khác: Hóa ra não bộ người phụ nữ bí ẩn hơn ta tưởng nhiều. Ta vẫn biết phụ nữ khó hiểu, nhưng hóa ra mọi thứ không chỉ dừng lại tại đó. Các nhà khoa học tìm ra rằng não bộ người phụ nữ thường xuất hiện hiện tượng "vi chimera nam giới - male microchimerism", về cơ bản, thì là có sự xuất hiện của ADN nam giới đến từ một cá nhân khác, có dấu hiệu gen khác biệt với toàn bộ các tế bào khác trong cơ thể người phụ nữ. Theo nghiên cứu trên, thì có tới "63% phụ nữ được thử nghiệm (37 trên 59 người) có hiện tượng vi chimera nam giới trong não. Hiện tượng này xuất hiện ở nhiều phần của não bộ". Tế bào ADN của nam giới có thể tới từ đâu được? Không thể tới từ cha của cô gái đó, bởi lẽ ADN của cha kết hợp với ADN của mẹ để tạo ra ADN đặc biệt, duy nhất của một cá thể. Vậy ADN này có thể tới từ đâu? Qua nghiên cứu này, các nhà khoa học cho rằng ADN có trong não người phụ nữ có từ việc mang thai một bé trai. Đó là một kết luận an toàn và không làm phật lòng ai. Tuy nhiên, chính những nhà khoa học này cũng không hoàn toàn tin tưởng vào những gì mình đã kết luận. Họ suy nghĩ như vậy là vì khám nghiệm cho thấy não bộ của những người phụ nữ chưa từng có thai, chứ chưa nói tới mang thai bé trai, cũng vẫn cho thấy dấu vết của tế bào ADN từ nam giới. Họ đưa ra kết luận cuối cùng, đưa ra 4 nguồn tế bào ADN nam giới có thể được đưa vào cơ thể người phụ nữ: - Một lần sẩy thai mà người phụ nữ có thể không biết. - Một người anh/em sinh đôi đã tiêu biến trong quá trình trong bụng mẹ. - Tới từ việc mang thai. - Tới từ việc quan hệ tình dục. Cuối kết luận, các nhà khoa học nói rằng cần thêm những nghiên cứu nữa để xác định nguồn gốc của hiện tượng vi chimera nam giới này. Ta có con số 63% phụ nữ được thử nghiệm có hiện tượng này. Trong 4 khả năng trên, 3 cái đầu rất khó xảy ra, nên con số 63% quả thực là khó đạt được. Vậy ta còn khả năng thứ 4: tế bào ADN của nam giới xuất hiện trong cơ thể người phụ nữ nhiều khả năng là tới từ việc quan hệ tình dục. Những người phụ nữ tham gia thử nghiệm này đều lớn tuổi. Có người đã mang ADN của nam giới trong mình tới hơn 50 năm. Ngẫm nghĩ một chút thì điều này cũng hợp lý. Tinh trùng là những tế bào sống. Khi đi vào cơ thể theo bất kì cách gì, tình trùng cũng đều có thể bơi được, đi vào máu và cuối cùng là được lưu lại trong não bộ người phụ nữ. Nhưng có vẻ không phải ai cũng vậy. Thử nghiệm cho thấy chỉ 63% nữ giới xuất hiện hiện tượng vi chimera nam giới cơ mà! Nhưng vẫn có thể kết luận lại là phụ nữ thật khó hiểu, cả tâm trí, tâm lý và cả cơ thể của họ. Theo Trí Thức Trẻ Share this post Link to post Share on other sites
Posted 29 Tháng 5, 2018 (đã chỉnh sửa) Có thứ gì nhanh hơn cả vận tốc ánh sáng không? Trên lý thuyết thì có, 5 loại trong bài viết này là ví dụ FRTK | 04-06-2017 - 20:17 PM Mọi ngành khoa học đều được dẫn dắt bởi những câu hỏi lớn. Đối với Vật lý học, một trong những câu hỏi lớn nhất là liệu chúng ta có thể vượt qua tốc độ ánh sáng hay không. Bởi nếu có thể, thì đây là hy vọng duy nhất để vươn đến những hành tinh xa xôi trên bầu trời. Khi Einstein lần đầu tiên tiên đoán rằng ánh sáng dịch chuyển với tốc độ giống nhau ở bất cứ đâu trong vũ trụ, nhà vật lý vĩ đại nhất thế kỉ 20 đã 'đóng nhãn' tốc độ của nó là 299.792,458 km/giây. Nhưng đó không phải là tất cả. Trên thực tế, đây mới chỉ là bước khởi đầu của câu chuyện dài về tốc độ ánh sáng. Trước thế kỉ 20, khối lượng - thứ làm nên bạn, tôi và tất cả những gì chúng ta nhìn thấy - và năng lượng được coi là độc lập với nhau. Nhưng vào năm 1905, Lý thuyết Tương Đối Hẹp của Einstein đã thay đổi mãi mãi cách mà các nhà vật lý nhìn vũ trụ, bằng việc ràng buộc khối lượng và năng lượng vào một phương trình tuy đơn giản nhưng cực kì quan trọng E=mc^2. Về bản chất, phương trình này tiên đoán không có bất cứ thứ gì có khối lượng có thể đạt vận tốc bằng ánh sáng, chứ đừng nói là nhanh hơn. Nỗ lực thành công nhất của loài người trong việc tiệm cận tốc độ ánh sáng nằm trong các máy gia tốc hạt siêu mạnh như Máy Gia tốc Hạt Lớn (LHC) của CERN hay Tevatron của Mỹ. Các cỗ máy khổng lồ này (LHC thậm chí còn có chu vi vắt ngang qua dãy Alps, nằm trên cả lãnh thổ Pháp và Thụy Sĩ) có khả năng tăng tốc độ các hạ nguyên tử lên đến 99.99% tốc độ ánh sáng, tuy nhiên theo giải thích của nhà vật lý đạt giải Nobel David Gross, những hạt này sẽ không bao giờ chạm đến ngưỡng tốc độ vũ trụ. Máy dò hạt ATLAS, một phần của LHC, từng đi vào lịch sử với tư cách nơi đầu tiên tìm ra hạt Higgs Bởi, để làm như thế cần vô hạn năng lượng (E), và trong quá trình đó, khối lượng (m) của vật thể cũng sẽ đi tới vô hạn, vốn là điều bất khả. Đó là lý do tại sao photon - phân tử của ánh sáng lại đạt được tốc độ này, vì chúng về bản chất không có khối lượng. Einstein là một biểu tượng điên rồ trong thời đại của ông. Tuy nhiên điên rồ lại luôn là đặc tính chung của các nhà vật lý, thế nên kể từ Einstein, họ đã luôn cố gắng tìm ra những thứ có khả năng đạt tốc độ nhanh hơn cả ánh sáng, mà vẫn tuân theo các nguyên tắc vũ trụ của Thuyết Tương Đối Hẹp. Rất nhiều ý tưởng sáng tạo trong số đó - trong khi không bác bỏ thế giới quan vũ trụ của Einstein - đã cho chúng ta một cái nhìn sâu sắc hơn về đặc tính của ánh sáng cũng như địa hạt lượng tử. 1. Big Bang và Giãn nở Vũ Trụ Bạn đã bao giờ tự hỏi, liệu có một luồng ánh sáng siêu mạnh nào có thể đi xuyên qua vũ trụ? Câu trả lời là KHÔNG. Đơn giản là vì vũ trụ của chúng ta không ngừng giãn nở với tốc độ cao hơn nhiều so với ánh sáng. Tốc độ này nằm khoảng 67.15 ± 1.2 (km/s)/Mpc, tức là gần 68 kilomet/ giây/ megaparcec. Điều này có nghĩa là bất cứ thiên hà nào đang cách chúng ta 10 megaparcec (khoảng 30 triệu năm ánh sáng) sẽ dần dần rời xa khỏi chúng ta với tốc độ 680 km/giây. Có 'hack' trời thì ánh sáng từ Trái đất cũng không bao giờ có thể đến được thiên hà đó. Mặc dù theo thuyết Tương Đối Hẹp, không vật thể có khối lượng nào có thể đi nhanh hơn tốc độ ánh sáng, tuy nhiên câu hỏi đặt ra là, liệu có thể có những vật thể không có khối lượng như chính photon ánh sáng? Bạn ít nhất không cần phải dựa dẫm vào các nhà bác học điên với những thuyết kì dị để tìm ra những hạt "vô lượng" như thế. Khoảng không vũ trụ của chúng ta, do không chứa bất kì một thứ vật chất nào, chính là một 'vật thể' không có khối lượng. Có thể nói thuyết tương đối áp dụng với tất cả những vật thể bên trong vũ trụ, nhưng không phải là chính bản thân vũ trụ. Vũ Trụ giãn nở, khoảng cách giữa các thiên hà dần rời xa nhau. Đây chính là những gì mà các nhà vật lý Alan Guth và Andrei Linde giả thiết vào những năm 1980, về điều đã xảy ra ngay tức khắc sau Vụ Nổ Lớn Big Bang. Trong một phần một triệu tỉ tỉ (10^-24) của giây đầu tiên sau vụ nổ, vũ trụ đã liên tục tăng gấp đôi kích cỡ, và kết quả là rìa ngoài của nó mở rộng nhanh chóng, nhanh hơn tốc độ ánh sáng rất nhiều. Big Bang 2. Rối lượng tử Nghe qua thì Rối Lượng Tử có vẻ khó hiểu, bí hiểm và ... hơi "rối", nhưng hiểu theo nghĩa sơ khai nhất thì đây chỉ là cách mà các hạt hạ phân tử "giao tiếp" với nhau. Và điều thú vị mà các nhà nghiên cứu đã chỉ ra, đó là quá trình giao tiếp này thậm chí còn nhanh hơn cả ánh sáng. "Nếu tôi đặt hai electron nằm rất gần nhau, chúng sẽ giao động cùng tần số theo thuyết lượng tử," nhà vật lý Kaku Michio lý giải với Big Think. Giờ nếu chia rẽ hai electron đó sao cho chúng cách nhau hàng trăm hoặc thậm chí hàng ngàn năm ánh sáng, và chúng sẽ giữ cho kết nối chốc lát này mở rộng. Rối lượng tử giữa hai hạt "Nếu tôi lắc nhẹ một electron, thì ngay lập tức electron còn lại sẽ 'cảm nhận' được rung chấn, nhanh hơn so với tốc độ ánh sáng. Einstein cho rằng không có gì có thể đi nhanh hơn ánh sáng, vậy nên trong quá khứ ông đã là một trong những người phản đối thuyết lượng tử quyết liệt nhất," Kaku viết thêm. Trên thực tế vào năm 1935, Einstein cùng với Boris Podolsky và Nathan Rosen đã thử bác bỏ thuyết lượng tử bằng một thí nghiệm tư duy mà Einstein gọi là "các tác động ma quỷ ở khoảng cách xa". Khá hài hước khi thí nghiệm này của họ lại đặt nền móng cho cái mà ngày nay chúng ta gọi là nghịch lý EPR( Einstein-Podolsky-Rosen), một nghịch lý mô tả chính xác hiện tượng kết nối tức thì trong rối lượng tử vừa được miêu tả ở trên. 3. Tachyon Sự đổi hướng của hạt Tachyon, khoảnh khắc duy nhất (theo giả thuyết) khi ta chứng kiến được hạt này khi nó đi qua sóng xung kích( đường đen) phát ra từ bức xạ Cherenkov Khả năng về một loại hạt dịch chuyển nhanh hơn ánh sáng lần đầu được đề xuất vào năm 1962 bởi nhà vật lý E.C.G Sudarshan và các đồng sự, mặc dù lúc đầu họ sử dụng thuật ngữ "siêu-hạt". Gã siêu nhân Barry Allen từ series The Flash với "mô-tơ Tachyon" Trong bài luận văn viết năm 1967 của mình, Gerald Feinberg đã lần đầu sử dụng thuật ngữ "Tachyon" - vốn bắt nguồn từ từ Tachy có nghĩa là 'nhanh' trong tiếng Hy Lạp - đồng thời đề xuất các hạt tachyon có thể trở thành một lượng tử ( nghĩa là- một lượng nhỏ nhất của năng lượng phát xạ) trong vật lý với một 'khối lượng tưởng tượng". Tuy nhiên cộng đồng khoa học đã sớm nhận ra rằng sự kích thích trường khối lượng tưởng tượng như thế, về bản chất không truyền nhanh hơn ánh sáng, mà thay vào đó biểu diễn một trạng thái không ổn định được biết tới với cái tên ngưng tụ tachyon. Các pháp sư sáng chế ra đồng hồ thời gian trong series Harry Potter liệu có biết đến sự hiện diện của Tachyon ? Nếu một hạt như thế tồn tại, loài người có thể xây nên những "tachyonic antitelephone", một thiết bị tưởng tượng có khả năng truyền sóng nhanh hơn ánh sáng, và thậm chí, truyền ngược về quá khứ. Đây có thể chính là nền tảng của du hành thời gian! Einstein (bạn còn kỳ vọng khác nữa?) một lần nữa bác bỏ điều này trong thí nghiệm nổi tiếng của mình năm 1907, khi chứng minh các tín hiệu nhanh hơn ánh sáng có thể dẫn đến việc vi phạm luật nhân quả. Nón không-thời gian là một biểu trưng vật lý quan trọng của luật nhân quả, được lấy cảm hứng từ hình ảnh ném 1 hòn đá xuống mặt nước. Bất cứ vật thể nào di chuyển nhanh hơn tốc độ ánh sáng đều vượt ra ngoài đường biên quá khứ(nón dưới) và tương lai (nón trên). Luật nhân quả khẳng định tất cả những sự kiện diễn ra trong đường biên ở phần nào của nón thì sẽ phải xuất hiện trong đường biên của phần còn lại 4. Lỗ Giun Cảnh du hành Vũ Trụ qua lỗ giun ngoạn mục trong phim Interstellar Mặc dù Einstein đã chà đạp không thương tiếc lên giấc mộng du hành vũ trụ của chúng ta với thuyết Tương Đối Hẹp, nhưng may quá ông lại còn nghĩ ra thêm Thuyết Tương Đối rộng. Hẹp thì kết nối khối lượng với năng lượng lại, trong khi Rộng lại đan quện thời gian với không gian vào nhau. Không-thời gian cong "Cách duy nhất để đạp đổ giới hạn tốc độ ánh sáng là thông qua thuyết Tương Đối rộng và sự bẻ cong không thời gian," Kaku viết. Sự bẻ cong này được chúng ta gọi thông tục là "lỗ giun" hay "cầu Einstein-Rosen", với giả định rằng nó sẽ giúp du hành một khoảng cách xa trong nháy mắt Vào năm 1988, nhà vật lý lý thuyết Kip Thorne đã sử dụng các phương trình của thuyết tương đối rộng để tiên đoán về khả năng 'mở khóa' lỗ giun thông qua cái gọi là "vật chất tối". "Một điều phi thường là nếu thuần túy dựa vào các định luật vật lý lượng tử, việc tồn tại các "vật chất tối" hoàn toàn có thể xảy ra," Thorne viết trong cuốn sách "Khoa học giữa các vì sao" của mình Vật chất tối, cánh cổng để mở ra lỗ giun Việc nghiên cứu vật chất tối thậm chí đã xuất hiện trong nhiều phòng thí nghiệm trên khắp thế giới, tuy nhiên sau gần 30 năm kể từ ngày Thorne lần đầu đưa khái niệm này ra công chúng, kết quả nghiên cứu vẫn hầu như dậm chân tại chỗ Niềm hy vọng về tính ổn định của vật chất tối, giờ đây hầu như chỉ có thể hy vọng vào một học thuyết rất hiện đại của thế kỉ 20 - Lý thuyết dây hay String theory - lý thuyết đi đầu trong hy vọng nối kết giữa trọng trường và thuyết lượng tử Hình ảnh trực quan của String theory 5. Bức xạ Cherenkov Khi các vật thể dịch chuyển nhanh hơn vận tốc âm thanh, chúng tao ra vụ nổ âm thanh. Tương tự, khi thứ gì đó dịch chuyển nhanh hơn tốc độ ánh sáng, chúng cũng tạo ra một thứ gọi là "vụ nổ ánh sáng". Trên thực tế, đây là điều diễn ra hàng ngày ở khắp nơi - người ta gọi nó là bức xạ Cherenkov, lấy theo tên của nhà khoa học Xô Viết đạt giải Nobel Pavel Alekseyevich Cherenkov. Về mặt vật lý mà nói, ánh sáng dịch chuyển với tốc độ c/n ở môi trường có chỉ số khúc xạ n (không phải môi trường chân không). Điều thú vị là ở chỗ trong một vài môi trường như vậy, tồn tại các hạt di chuyển nhanh hơn tốc độ c/n (nhưng vẫn chậm hơn c), và điều nãy dẫn đến hiện tượng bức xạ Cherenkov. Bức xạ Cherenkov trong Lò phản ứng Thí nghiệm Cao cấp Bức xạ Cherenkov sở dĩ bừng sáng là bởi nguyên lý cốt lõi trong Lò phản ứng Thí nghiệm Cao cấp là việc giữ nó trong nước để làm lạnh. Trong nước, ánh sáng chỉ còn di chuyển với 75% tốc độ mà nó di chuyển trong chân không, tuy nhiên các electron được tạo nên bởi phản ứng trong lò di chuyển trong nước nhanh hơn cả ánh sáng . Các hạt như electron vượt qua tốc độ ánh sáng trong nước, hay các dung môi khác như thủy tinh, tạo nên các sóng kích tương tự như từ các vụ nổ âm thanh "Nổ ánh sáng" từ bức xạ Cherenkov Nguồn: Tri Thức Trẻ Edited 29 Tháng 5, 2018 by thanhdc Share this post Link to post Share on other sites
Posted 4 Tháng 9, 2018 Giải mã phiến đất sét tiết lộ hiểu biết phi thường của người Babylon BILLVN , THEO THỜI ĐẠI 14 GIỜ TRƯỚC Hóa ra người Babylon đã nghiên cứu lượng giác đến cảnh giới thượng thừa trước người Hy Lạp cổ đại đến 1.500 năm. Các nhà khoa học Úc đã tìm cách giải mã mã của một phiến đất sét 3.700 năm tuổi bí ẩn của người Babylon. Kết quả tiết lộ khả năng toán học trước thời đại của người Hi Lạp cổ đại đến 1.500 năm. Phiến đất sét Babylon này được gọi là Plimpton 322 – đây là bảng lượng giác lâu đời nhất và chính xác nhất theo kết quả nghiên cứu được công bố trong tuần này ở Historia Mathematica. Các nhà nghiên cứu tại Đại học New South Wales, Sydney nói rằng phiến đất sét này có thể đã được các nhà toán học sử dụng để tính toán góc khi thiết kế cung điện, đền, kim tự tháp và kênh. Khám phá này cho thấy những người Babylon cổ đại - chứ không phải người Hy Lạp - là người đầu tiên nghiên cứu lượng giác, nghiên cứu toán học về hình tam giác. Plimpton 322 được phát hiện vào đầu những năm 1900 ở miền nam Iraq bởi nhà khảo cổ học nổi tiếng Edgar Banks – nhân vật làm nguồn cảm hứng cho tác phẩm Indiana Jones. Có niên đại từ năm 1822 đến năm 1762 trước Công Nguyên, phiến đất sét này có khả năng bắt nguồn từ thành phố Larsa cổ đại của người Sumer. Phân tích từ nội dung của nó cho thấy người Babylon cổ đại biết về Định lý Pythagore từ lâu (trước cả thời đại của người Hy Lạp cổ đại) nhưng mục đích tạo ra phiến đất sét này vẫn còn là một bí ẩn. Current Time1:55 / Duration2:07 Auto Video về chiếc "tablet" cổ xưa nhất thế giới Một lý thuyết được nhiều người ủng hộ cho rằng đây là một học cụ dùng để giảng dạy và kiểm tra các phương trình bậc 2. Tuy nhiên, nghiên cứu mới được tiến hành bởi các nhà khoa học Daniel Mansfield và Norman Wildberger xác nhận các dấu hiệu trên bảng như là một bảng lượng giác. Sau khi tiến hành phân tích lịch sử về mục đích của chiếc phiến đất sét đặc biệt này, Mansfield và Wildberger đã xem xét kỹ hơn nó và các chữ khắc trên đó. Plimpton 322 có 4 cột và 15 hàng số. Quan trọng hơn, văn bản này được viết trong một hệ thống đánh số (hệ 60), còn được gọi là hệ thống giới tính (nó giống như phân chia 1 phút trên đồng hồ analog). 15 hàng của nó mô tả một chuỗi gồm 15 hình tam giác vuông góc, giảm đều theo độ nghiêng. Ngoài ra, cạnh trái của máy tính bảng bị hỏng, có nghĩa là các bộ phận của Plimpton 322 bị thiếu. Current Time0:01 / Duration0:02 Auto Plimpton 322 Dựa trên nghiên cứu trước đây, Mansfield và Wildberger thấy rằng có 2 cột và 23 hàng bị thiếu – phiến đất sét ban đầu chứa 6 cột và 38 hàng. Phiến đất sét chứa một mẫu đặc biệt của các con số được gọi là bộ ba Pythagore. Điều này gợi ý rằng Plimpton 322 mô tả các hình dạng của các hình tam giác vuông bằng cách sử dụng một dạng lượng giác mới dựa trên tỷ số, chứ không phải là các góc hoặc hình tròn. Do đó, người ghi chép có thể sử dụng bảng để thực hiện nhiệm vụ phức tạp của việc tạo ra và phân loại các con số trên phiến, họ có thể lấy một tỷ lệ đã biết của các cạnh của tam giác vuông để xác định hai tỷ lệ chưa biết khác. Mansfield cho biết: "Không có gì nghi ngờ đây là một công trình toán học hấp dẫn thể hiện sự thiên tài". Thật là điên rồ, Plimpton 322 không chỉ là bảng lượng giác lâu đời nhất mà các nhà nghiên cứu nói đó là bảng chính xác nhất trong lịch sử. Và như đã nói, nó cũng viết lại lịch sử. Nhà thiên văn học Hy Lạp Hipparchus, sống khoảng 120 TCN, thường được coi là cha đẻ của lượng giác nhưng công trình nghiên cứu này có thể thay đổi nhận thức của nhân loại. Wildberger nói: "Plimpton 322 có trước Hipparchus hơn 1.000 năm. Nó mở ra những khả năng mới không chỉ cho nghiên cứu toán học hiện đại mà còn cho giáo dục toán học. Với Plimpton 322 chúng ta thấy một hệ thống lượng giác đơn giản hơn, chính xác hơn, có lợi thế rõ ràng hơn so với hệ thống mà chúng ta đang sử dụng. Một kho báu của viên Babylon đã tồn tại nhưng đây chỉ là một phần nhỏ trong số những gì họ đã nghiên cứu. Thế hiện đại phải công nhận rằng nền văn hóa toán học cổ đại nhưng rất tinh vi này có nhiều điều để dạy chúng ta". Tham khảo: Gizmodo 1 person likes this Share this post Link to post Share on other sites