quang_tam3

NHỮNG ĐIỂM ĐẶC SẮC CỦA PHẬT GIÁO

84 bài viết trong chủ đề này

NHỮNG ĐIỂM ĐẶC SẮC CỦA PHẬT GIÁO

Tác giả: Lâm Thế Mẫn - Việt dịch: Thích Chân Tính

NHÀ XUẤT BẢN TÔN GIÁO Ha Noi – 2001

------------------------

Ôi ! Núi xanh vốn không già, vì tuyết mà bạc đầu

Nước xanh vốn không sầu, vì gió mà nhăn nheo.

con người vốn tự do tự tại , nhưng vì ham mê rượu chè , nên thành ra sa đọa .

Khi buông xả được tham sân si , tự nhiên sẽ thấy được CHÂN TÂM.

Nếu chúng ta đem so sánh Phật giáo với các tôn giáo khác hiện tồn tại trên thế giới, có thể phát hiện rất rõ ràng giữa Phật giáo và các tôn giáo khác có nhiều chỗ khác nhau. Tôi mạn phép đem vấn đề này quy nạp thành mười điểm để thuyết minh. Cũng chính là nói Phật giáo tối thiểu có mười điểm đặc sắc như thế.

1/ Phật là ngưởi mà không phải là thần

Nhìn chung các tôn giáo trên thế giới, ngoài Phật giáo ra, giáo chủ của các tôn giáo đều tự cho mình là “thần” cách siêu nhân. Thần ấy có thể hô phong hoán vũ, điểm đá thành vàng. Ngài là chúa tể ban phước giáng họa cho nhân loại. Ngài điều khiển mọi vinh nhục sống chết của vạn vật. Loài người chỉ có phủ phục trước mặt ngài, ca ngợi và xưng tán, đem tất cả thành tựu vinh quang quy về cho thần vạn năng cả. Ai tin tưởng vào tài năng của thần thì được lên Thiên đường, phản đối lại sẽ bị đọa vào địa ngục đời đời.

Giáo chủ của Phật giáo - Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, câu nói đầu tiên của Ngài lúc đến nhân gian này là : “Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn”. Chúng ta nên chú ý chữ ngã trong câu duy ngã độc tôn, không phải chỉ riêng bản thân Thích Ca Mâu Ni, mà là chỉ cho toàn thể nhân loại.

Giải thích chính xác câu ấy là : Người ta ở trong vũ trụ đầu đội trời chân đạp đất, mỗi người đều là chúa tể của chính mình, quyết định vận mạng của chính mình, mà không phải nghe theo mệnh lệnh của ai hoặc vị thần siêu nhân nào khác.

Đức Thích Ca Mâu Ni nói là sự giác ngộ, và thành tựu của Ngài, hoàn toàn đều do công phu nỗ lực và tài trí của chính mình.

Đức Thích Ca Mâu Ni cho rằng, điều cát hung họa phước, thành bại vinh nhục của một cá nhân quyết định ở hành vi thiện ác và nỗ lực của chính bản thân họ. Không ai có thể đề bạt ta lên thiên đường, cũng không người nào có thể đem ta đẩy xuống địa ngục. Ca ngợi và tán thán không thể lìa khổ được vui, chỉ có thực hành tu tâm sửa tính mới có thể khiến cho nhân cách của mình tịnh hóa thăng hoa, khiến cho mình hưởng thọ khoái lạc tâm an lý đắc.

Đức Thích Ca Mâu Ni cũng không có phép chỉ đá hóa vàng được. Ngài chủ trương “Người ta muốn thu hoạch cái gì thì trước phải trồng thứ đó”. Ngài không thể khiến cho cây Liên vụ sinh ra quả Tần bà được. Nếu bạn muốn được quả Tần bà thì trước hết bạn phải gieo hạt giống Tần bà. Đức Thích Ca Mâu Ni chẳng qua chỉ là bảo cho bạn biết trồng như thế nào, để sau này thu được nhiều kết quả. Song công việc vun trồng vẫn phải do chính nơi bàn tay của bạn.

Đức Thích Ca Mâu Ni thuyết pháp 49 năm, nói kinh hơn 300 hội, đều vì chúng ta mà chỉ bày “con đường thành Phật” - tự chính mình sáng tạo trí tuệ và nhân cách viên mãn triệt để nhất. Thế nhưng con đường ấy phải nhờ vào nghị lực, trí tuệ, hằng tâm của chính mình mới có thể đạt được. Cho nên Phật nói : “Ta chỉ là người chỉ đường, còn đi đến là do các ngươi”.

Con đường đi đến quả vị Phật cần phải công phu tu hành từng ly từng tí.

“Nếu chẳng một phen xương lạnh buốt,

Hoa mai đâu dễ ngửi mùi hương”.

(Thiền Sư Hoàng Bá Hy Vân)

2/Phật là ngưởi rất bình đẳng

Tôi nói Đức Phật là người rất bình đẳng không phải là vô căn cứ. Trước tiên chúng ta hãy lấy bối cảnh xã hội của Ấn Độ đương thời mà quan sát.

Ai cũng biết xã hội Ấn Độ thời đại Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, chia ra làm bốn đẳng cấp lớn là : Bà la môn, quý tộc, bình dân và nô lệ. Điều đáng quý ở chỗ Đức Thích Ca Mâu Ni là thái tử đã nhìn thấy sự bất hợp lý của đẳng cấp xã hội, kiên quyết giương cao ngọn cờ bình đẳng, chủ trương phế trừ giai cấp đối lập, đề xướng chúng sinh bình đẳng.

Các bạn đồng học thử nhớ lại xem, những cuộc cách mạng trên lịch sử phần lớn là thuộc giai cấp cùng khổ đấu tranh mong muốn được bình đẳng giai cấp và được “đề cao” địa vị, tuyệt đối không có ai giống như Đức Thích Ca Mâu Ni, tự nguyện đem thân phận thái tử thuộc giai cấp quý tộc “giáng xuống” giai cấp bình dân. Cho nên tôi nói Ngài là chân bình đẳng vậy.

Đồng thời Phật giáo lại chủ trương “Vô duyên đại từ” và “Đồng thể đại bi”, lại đem ý nghĩa của bình đẳng nâng lên một bước nữa.

Tôi nghĩ ý nghĩa của “Vô duyên đại từ” và “Đồng thể đại bi” sẽ có những bạn chưa hiểu, tôi xin được phép giải thích sơ như sau :

1/ Vô duyên đại từ : Phật giáo chủ trương không những đối với người có quan hệ với mình, mình phải thương yêu như cha mẹ, thân thuộc, bằng hữu… mà còn đối với người không có quan hệ bạn bè thân thích với mình, mình cũng phải thương yêu nữa. Như tôi đối với các bạn từ trước tới nay chưa từng qua lại, không hề quen biết mà vẫn quan tâm yêu quý như thân thích vậy.

2/ Đồng thể đại bi : Đồng thể đại bi là một loại tinh thần người đói mình đói, người yếu mình yếu, xem hết thảy chúng sinh trong vũ trụ, ta và người một thể, vui buồn cùng chia sẻ, cốt nhục thâm tình.

Nhà Nho thì nói : “Người trong bốn biển đều là anh em”, cũng biểu hiện tinh thần “đồng thể đại bi”. Mà lòng từ bi vô bờ bến của đức Địa Tạng Vương Bồ tát “Ta không vào địa ngục thì ai vào ?” chính là chỗ tột cùng của đồng thể đại bi vậy.

Cuối cùng tôi xin nói thêm cái tinh thần “chân bình đẳng” của Phật giáo biểu hiện cao nhất, chính là Phật giáo đem cái quan niệm bình đẳng, không cục hạn nơi con người linh hơn vạn vật. Phật giáo phản đối quan niệm cho rằng tất cả động vật, trừ loài người ra, đều được sáng tạo để cung cấp cho con người ăn. Tất cả động vật lúc chết kêu la thảm thiết, thật là thương xót không nỡ thấy nghe. Phật vì không từ bi khuyên Phật tử không nên vì miếng ăn mà giết hại loài vật.

Phật giáo còn tiến thêm một bước nữa khẳng định những động vật bị chúng ta tự khoe mình là loài người linh hơn vạn vật, đem giết chúng một cách bừa bãi đó, chúng cũng đều có đầy đủ Phật tính, có tiềm năng thành Phật trong tương lai. Mặc dù giữa người và động vật khác, trên hình thức và trí tuệ có chỗ bất đồng, nhưng trên quyền lợi sinh tồn và Phật tính thì là bình đẳng. (Giống như kẻ khốn cùng ác độc hoặc ngu si vô tri, họ cũng có đầy đủ “nhân tính”, chúng ta phải đem “nhân đạo” để đối xử với họ, dùng “nhân đạo” để giáo dục, cảm hóa họ).

Người xưa nói : “Trời có cái đức hiếu sinh” lại nói “vạn vật với ta cùng sinh” đều là tư tưởng bình đẳng, xem vạn vật là một thể. Chẳng qua chỉ chưa thấu triệt bằng thuyết của Phật giáo mà thôi.

3/Phật không phải là người sinh ra mà biết

Đức Thích Ca Mâu Ni là một con người bình thường, Ngài họ Kiều Đáp Ma, tên là Tất Đạt Đa, sinh tại Ấn Độ vào khoảng thế kỷ thứ 6 trước Tây lịch, nơi vườn Lâm Tỳ Ni, thành Ca Tỳ La Vệ.

Năm 29 tuổi, Ngài xả bỏ vương vị mà mình sẽ kế thừa, xuất gia học đạo, tìm cầu phương pháp giải thoát nhân sinh khỏi khổ não. Trải qua 6 năm, lúc Ngài 35 tuổi, dưới gốc cây Bồ đề bên bờ sông Ni Liên Thiền chứng được Chính giác, giác ngộ một cách chính xác và thấu triệt đạo lý căn bản của nhân sinh vũ trụ.

Từ đấy người ta mới gọi Thích Ca Mâu Ni là Phật đà, hoặc gọi tắt là Phật. Ý là giác tỉnh chân lý, hoặc gọi là bậc giác ngộ.

Tôi giới thiệu sơ qua việc tu hành của Đức Phật, mục đích chủ yếu là nói với người đồng học. Đức Thích Ca Mâu Ni với chúng ta đều là người bình thường cả, Ngài nhờ vào việc tu hành mà ngộ đạo, mọi người chúng ta đều có thể cùng nhau noi theo giáo pháp mà Ngài đã chỉ dạy để tu hành và chứng quả.

Thích Ca Mâu Ni - Ngài chỉ là một người giác trước, biết trước trong vô số người, mà chúng ta là người giác sau biết sau. Sự bất đồng giữa Phật và chúng ta không phải bất đồng ở chỗ nhân cách, địa vị, mà là bất đồng ở một chữ “Giác”. Cũng như Hàn Dũ nói : “Nghe đạo có kẻ trước người sau” vậy.

4/Phật giáo không thừa nhận có người tồi tệ không thể giáo hóa

Cổ nhân có nói “lãng tử hồi đầu vàng không đổi”. Người làm cha mẹ ở đời, luôn luôn mở rộng cõi lòng, ngóng chờ đứa con lưu lạc (lãng tử) có ngày hồi đầu trở lại, dù con cái của họ gây tạo tội lỗi ngập đầu. Xưa nay chưa có cha mẹ nào lại nhẫn tâm hoặc mong muốn con mình vĩnh viễn chịu khổ trong địa ngục nơi âm u tăm tối, nước sôi lửa dữ.

Phật giáo thừa nhận tính người là thiện lương, chỉ cần buông dao bỏ xuống, có thể tu hành thành Phật. Phật cho rằng hết thảy tội ác đều là do nơi vô tri (Phật giáo gọi là vô minh) dẫn dắt mà sinh ra. Nhân đấy mà hết lòng khuyên bảo, đêm ngày khai đạo chỉ bảo cho chúng sinh thay đổi tâm tính, chính là trách nhiệm của Phật. Đức Phật quan tâm đối với chúng sinh “như mẹ thương con”, không những không nỡ thấy thân chúng sinh chịu khổ nơi địa ngục, mà còn phát thệ nguyện lớn “địa ngục chưa trống, thề không thành Phật, chúng sinh độ hết, mới chứng Bồ đề” (Bồ đề ý là giác ngộ hoặc chính đạo, chứng Bồ đề ý là đắc đạo hoặc thành Phật).

Ôi, còn lòng từ nào hơn ! Còn bi nguyện nào hơn ! Đó mới là lòng thương chân thật !

5/Phật không phải là độc nhất vô nhị, mọi ngưởi đều có thể thành Phật

Ở phần thứ ba đã nêu Phật và chúng sinh chỉ là trước và sau của thời gian giác ngộ mà thôi.

“Phật” chỉ là tên gọi chung cho những vị đã giác ngộ. Cũng giống như chúng ta gọi “người truyền đạo, truyền nghề” là “giáo sư” vậy. Giáo sư không chỉ có một vị, ai ai cũng có thể làm giáo sư được, nơi nơi đều có thể có giáo sư. Đạo lý cũng vậy, Phật không phải chỉ có một cá nhân Thích Ca Mâu Ni mà người người đều có thể thành Phật, chỗ chỗ đều có thể có Phật. Không chỉ thế giới này có Phật, mà vô số tinh cầu trong vũ trụ đều có thể có Phật (đương nhiên cũng có chúng sinh).

Điểm này cũng là chỗ bất đồng căn bản giữa Phật giáo và tôn giáo khác. Tôn giáo khác chỉ thừa nhận thần của họ là “độc nhất vô nhị”, và ra sức công kích, phủ định thần của giáo phái khác là “thần giả”.

Đồng thời về giáo nghĩa của họ chỉ dạy thì loài người dù có nỗ lực phấn đấu đến đâu đi nữa, vĩnh viễn không thể ngang bằng với thần được (mãi mãi vẫn là mối quan hệ chủ nô). Bởi vì thần là đấng tạo vật, mà người chẳng qua chỉ là một trong những “vật” mà thần sáng tạo ra mà thôi.

6/Phật giáo không thừa nhận có thần sáng tạo ra vạn vật

Quan niệm vũ trụ vạn vật do thần vạn năng sáng tạo ra là không hợp lý. Bởi lẽ thần chính là sản vật của tư tưởng con người. Loài người dựa vào quan niệm và hình tượng của mình mà tạo ra thần, nhằm mục đích để giải thích nguồn gốc của nhân sinh vũ trụ, Phật giáo gọi đó là “nguyên nhân đầu tiên”. Nếu cho rằng thần có thể sáng tạo nhân sinh vũ trụ thì vị thần ấy do ai sáng tạo ra ? Những người tin tưởng tuyệt đối sẽ cho rằng thần là vạn năng, tồn tại một cách tự nhiên. Thần đã tồn tại một cách tự nhiên, không bị ai sáng tạo ra, tự mình có thể tồn tại được thì quan niệm thần sáng tạo ra nhân sinh vũ trụ còn có ý nghĩa gì nữa (bởi vì cùng một lý ấy nhân sinh vũ trụ cũng có thể tồn tại một cách tự nhiên được vậy).

Phật giáo vốn phủ định giả thiết “thần sáng tạo ra vạn vật”, vốn không thừa nhận vũ trụ có “bắt đầu”, cái gọi là “bắt đầu” của một sự kiện chỉ là cái “kết thúc” của một sự kiện trước mà thôi. Trong một chuỗi quan hệ nhân quả, sự tiêu tan của một sự vật chính là điều kiện để cấu thành một sự vật khác sinh khởi.

Tiến sĩ Trương Trừng Cơ viết trong cuốn “Phật pháp là gì ?” đối với vấn đề này cũng đã nêu : “Cái quan niệm “bắt đầu” ấy, là do tâm lý “hữu hạn” của loài người không thể hiểu thấu được mối quan hệ nhân quả sum la vạn tượng”.

Thí dụ như chúng ta đi xem phim, từ 7 giờ bắt đầu chiếu đến 10 giờ thì kết thúc. Chúng ta thử nhớ lại xem sự bắt đầu của bộ phim tập 3, chính là sự kết thúc của bộ phim tập 2, mà sự kết thúc của tập 3 chẳng phải là bắt đầu của tập 4 hay sao ? Cho nên khái niệm “bắt đầu” ấy chỉ có ý nghĩa đối với một sự vật nhất định nào đó mà thôi, còn đối với toàn thể vũ trụ chằng chịt đan quyện nhân quả tương tục với nhau thì không có ý nghĩa gì hết. Thời gian là vận động không ngừng, ai có thể từ trong ấy tìm ra một điểm gọi là “hiện tại” đình chỉ bất động ? Về sau lại nói một điểm ấy chính là “bắt đầu” ư ?

Thật ra Phật giáo không hứng thú cho lắm về việc thảo luận vấn đề không có lợi ích đối với nhân sinh như thế (Hình nhi thượng học của triết học). Bởi vì vũ trụ là vô thủy, cũng là vô chung, chúng ta có kiệt lực vắt óc tìm tòi “nguyên nhân đầu tiên của vũ trụ” chỉ là uổng công phí sức mà thôi. Lúc bạn khổ tâm tìm được nguyên nhân đầu tiên, bạn nhất định sẽ phát giác ra trước nó vẫn có một “nhân” nữa. Như thế tuần hoàn không dừng, xoay vần rồi trở lại ban đầu, bạn vĩnh viễn tìm không ra “nguyên nhân đầu tiên” cố định bất biến.

Vả lại đời người ngắn ngủi, sinh mạng vô thường, nếu bạn cứ ra công tìm kiếm nguyên nhân đầu tiên của vũ trụ, e rằng thân bạn sẽ tiêu ma mà đáp án vẫn chưa tìm ra.

Trong kinh Phật có câu chuyện tỉ dụ rất hay : Có một người bị thương vì mũi tên độc, người thân bèn đem ông ta đến y sĩ để chữa trị. Nếu lúc ấy người đó nói rằng : “Tôi chưa muốn lấy mũi tên ấy ra, tôi muốn biết là ai đã bắn tôi, người ấy là dòng Sát đế lợi ? Bà la môn ? Hay là Thủ đà la ? Tên họ và thị tộc của hắn là gì ? Thân hắn cao hay thấp ? Da hắn màu đen hay màu vàng ? Hắn ta từ làng mạc, thành thị nào đến ? Tôi không muốn lấy mũi tên này ra, nếu tôi chưa biết cây cung và dây cung làm bằng gì ? Hình dáng mũi tên ấy ra sao, chế tạo bằng gì ? v.v…” Người ấy chắc chắn sẽ chết trước khi biết được mọi thứ.

Cho nên Phật giáo không lãng phí công sức và thời gian tìm hiểu vấn đề “nguyên nhân đầu tiên của vũ trụ”. Bởi vì tìm cầu cũng chỉ là vô dụng, đồng thời cũng chỉ là vô ích đối với nhân sinh. Những thứ ấy với việc thoát ly thống khổ sinh, lão, bệnh, tử của chúng ta không có liên quan gì. Không thể khiến cho người ta từ chỗ hiểu biết đó mà được an lạc hạnh phúc hay giải thoát.

Vấn đề đã hơi kéo dài, hiện tại tôi xin bàn lại vấn đề Phật giáo không chấp nhận vũ trụ vạn vật là do thần sáng tạo, mà cho rằng vạn vật đều do “nhân duyên tụ hợp” mà thành.

Ví như một ngọn núi ở trước mắt ta, nó là sự tích tụ của đất, đá; sông hồ là chỗ trũng chứa nước mà thành; lại xem những cái bàn trong phòng học, là do thợ mộc dùng cây mà đóng nên.

Nếu đem đất đá phân tán ra thì không thành “núi” nữa; đem nước hồ ao múc cạn hết thì thành đất trũng, bóng dáng của “hồ ao” ở đâu ? Lại đem cây ván chia ra từng mảnh một, vậy thì “cái bàn” ở chỗ nào ?

Một vài thứ có thể xem thấy đó chúng ta có thể gọi nó là “sắc”, bởi vì chúng chỉ là “nhân duyên tụ hợp tạm thời” mà thôi, không phải chân thật bất biến. Cho nên chúng ta nói nó là “không”, tức là không có thực thể tồn tại vĩnh hằng bất biến.

Đó chính là đạo lý đơn giản “sắc tức là không” ở trong kinh Phật đã dạy.

Tuy nhiên Phật giáo nói “sắc tức là không”, chữ “không” ấy hoàn toàn không phải “không trống rỗng”, không có gì, cũng không phải là “không” đối với có, mà là “chân không diệu hữu”.

Vậy câu “chân không diệu hữu” ấy là gì ? Tôi xin lấy một ví dụ để các bạn rõ.

Trước mắt chúng ta có một ly nước, sau khi đun sôi nước biến thành hơi cạn hết, không còn thấy bóng dáng của nước nữa. Thế nhưng cũng không thể nói nước tiêu mất thành “không”, đến lúc hơi nước gặp lạnh lại trở thành “nước” như cũ.

Những vị hiểu về hóa học đều biết, nước là chất hóa hợp của Hydro và Oxy, nói một cách khác “nước” chẳng qua là chất hóa hợp tạm thời của Hydro và Oxy mà thôi. Nước sau khi trải qua điện giải bèn biến thành khí Hydro và khí Oxy. Theo đó mà suy thì vạn sự vạn vật trong vũ trụ không có một thứ gì không phải là nhân duyên tạm thời tụ hội mà thành, không có cái gì là vĩnh hằng bất biến. Nhân duyên hợp thì sinh, nhân duyên tan thì diệt, làm gì ở trong đó có “thần” sáng tạo vạn vật ? Làm gì có chuyện “vạn vật” được sáng tạo ra ?

7/Phật pháp tùy theo căn cơ hoàn cảnh mà giáo hóa

Phật thuyết pháp cho chúng sinh là nhắm vào căn cơ khác nhau mà giảng giải, tùy theo chỗ khác nhau về thời gian, không gian mà lập giáo.

Phật vì đối tượng khác nhau mà giáo hóa cho nên mới có những giải thích khác nhau. Ví như đối với người trí tuệ cao, Phật có thể nói thẳng đạo lý để họ minh tâm kiến tánh, giác ngộ tức thời. Đối với người trí tuệ chậm lụt, Phật dạy họ những phương pháp tu hành từng bước để tiến tới quả vị Chính giác.

Lại đối với người đắm mê danh lợi, Phật bèn nói với họ “danh lợi đều là hư ảo”. Đối với người quan niệm tiêu cực, cho rằng đời sống không có ý nghĩa gì, sinh mạng hoàn toàn là hư vô không ảo, Phật nói với họ “thân người khó được, mạng sống rất quý, người ta có thể nhờ đó mà nỗ lực đạt đến hạnh phúc và an lạc”, để cổ vũ dũng khí và tín tâm của họ.

Cùng đạo lý ấy, do sự khác nhau của thời gian không gian, Phật bèn nói những thí dụ và thuyết minh khác nhau.

Ví như : Người Đài Bắc hỏi Phật rằng : “Đài Trung đi hướng nào ?”. Lời đáp của Phật là “về hướng Nam”. Nhưng đối với người ở Cao Hùng thì phải nói là “lên hướng Bắc”. Cũng thế, vì địa phương chỗ ở của chúng sinh khác nhau mà Phật nói có khác.

Phật pháp có ba tạng mười hai bộ với tám vạn bốn ngàn pháp môn (pháp môn là phương pháp tu hành). Những phương pháp tu hành ấy đều vì thích ứng với căn khí của chúng sinh, vì đối trị phiền não của chúng sinh mà chỉ bày.

Nếu như không có chúng sinh thì cũng không cần có Phật pháp. Phật pháp như “thuốc”, chúng sinh không có “bệnh” phiền não, thuốc cũng không còn cần thiết.

Phật pháp truyền nơi đời hơn hai ngàn rưởi năm, có thể thích ứng với thời đại khác nhau, đó chính là vì Phật pháp tùy theo căn cơ và hoàn cảnh mà giáo hóa. Phương pháp giáo dục này chính là một trong những điểm đặc sắc của Phật giáo.

8/Phật pháp là nhập thế

Đạo lý mà Phật giáo giảng dạy, tuy mục đích cuối cùng là “xuất thế”, nhưng điều đó với tinh thần “nhập thế” không có gì là mâu thuẫn cả (cái gọi là “xuất thế gian” không phải là thoát ly, trốn tránh thế gian, mà là cải tạo thế gian, xây dựng lại thế giới).

Lục Tổ Huệ Năng nói : “Phật pháp tại thế gian, không lìa thế gian mà giác ngộ, nếu lìa thế gian mà tìm Bồ đề, cũng như tìm lông rùa sừng thỏ”. Chính là nói tu hành phải ở tại thế gian, giác ngộ cũng ở tại nơi thế gian. Những người có tâm hướng về Đạo, họ không thể chán bỏ thế giới, trốn tránh loài người trên thế giới này mà “độc thiện kỳ thân” tu thành chính quả. Bởi vì một người muốn thành Phật, người ấy ngoài việc có đầy đủ thông minh trí tuệ, vẫn phải có bi tâm thệ nguyện rộng lớn phổ độ chúng sinh. Cần phải có cả “bi” và “trí” song hành, đạt đến chỗ triệt để, viên mãn mới có thể thành Phật. Cho nên Phật giáo lấy tinh thần xuất thế để làm sự nghiệp nhập thế, từ lúc tu hành đến khi thành Phật, đã không có “nhập thế” cũng không có “xuất thế”, mà là thẳng một mạch tiến hành nơi thế gian này.

9/Phật giáo không bài xích đạo khác

Phần lớn các tôn giáo trên thế giới đều chỉ thừa nhận giáo lý mà tôn giáo họ tin mới là chân lý duy nhất và ra sức bài xích giáo lý của tôn giáo khác là tà thuyết. Phật giáo thì cho rằng tất cả tôn giáo chỉ có sự khác nhau về giáo nghĩa sâu hay cạn, rất ít có sự sai biệt về tốt xấu tà chính. Bất kỳ tôn giáo nào đã tồn tại trên đời này 1000 năm trở lên, nhất định có lợi ích không nhiều thì ít, ngược lại thì tôn giáo ấy sẽ bị “trí tuệ” loài người ruồng bỏ, cho đến sẽ bị bão táp thời gian làm tiêu tan mất rồi.

Vấn đề là ở chỗ một số tôn giáo chỉ có thể đem lại cho người ta niềm an lạc tạm thời và ngắn ngủi, có một số tôn giáo thì đem lại cho người ta niềm hạnh phúc lâu dài và mãi mãi.

Phật pháp truyền nơi đời đã gần 3.000 năm, Phật giáo vẫn cùng với tôn giáo khác sống hòa bình với nhau. Trên lịch sử truyền giáo thì sự việc Phật giáo xung đột dẫn đến đổ máu với tôn giáo khác, từ xưa tới nay chưa từng có.

Vấn đề này chúng ta hãy xem qua lịch sử A Dục Vương của Ấn Độ (thế kỷ thứ 3 trước CN), do thấm nhuần tinh thần từ bi quảng đại của Đức Thích Ca Mâu Ni, qua một đoạn văn Di giáo của ông, được ông cho khắc trên bia đá hiện nay vẫn còn nguyên văn như sau : “Không thể chỉ tôn trọng tôn giáo của mình mà chê bai tôn giáo người khác. Phải như lý mà tôn trọng họ. Làm được như thế, không những giúp cho tôn giáo của mình trưởng thành, mà còn làm tròn nghĩa vụ đối với tôn giáo khác. Nếu làm ngược lại, thì không những đem tôn giáo của mình chôn vùi, mà còn làm tổn hại đến tôn giáo khác”.

“Nhân đó, hài hòa mới là tốt đẹp. Quý vị đều phải nên lưu tâm lắng nghe điều này, và hoan hỷ lắng nghe giáo lý của tôn giáo khác”.

Từ đoạn văn trên mà xét, tấm lòng khoan dung và thành ý ấy, chính là một di sản rất trân quý trong văn hóa của Phật giáo.

“Chân lý” đối với Phật giáo là không có giới hạn quốc gia, nó không phải là “nhãn hiệu” của tôn giáo nào cả. Nó cũng không thuộc về một tôn giáo nào, hoặc thuộc về cá nhân nào trong một thời đại nào. Cho nên chân lý mà Đức Phật nói, không phải riêng một cá nhân Ngài có, bởi vì Phật chẳng qua chỉ là một “người phát hiện chân lý” mà thôi. Cũng giống như Newton phát hiện ra “sức hấp dẫn của trái đất” vậy.

Nhân đó Phật giáo cho rằng hết thảy đạo lý hợp lý, vĩnh hằng bất biến đều là “Phật pháp”.

Câu “bạn nên yêu thương kẻ thù của bạn” tuy xuất phát từ Thánh kinh, nhưng Phật giáo thừa nhận không một chút nghi ngờ đó là chân lý tốt đẹp đáng trân trọng. (Tương đồng với “vô duyên đại từ” và “đồng thể đại bi” của Phật giáo).

Phật pháp giống như biển hồ mênh mông, nó có thể dung nạp hết thảy sông ngòi lớn nhỏ trên địa cầu. Cho nên trong kinh có câu “Hết thảy pháp đều là Phật pháp”.

10/Phật giáo là dân chủ và tự do

Trong một số tôn giáo lời nói của giáo chủ là mệnh lệnh không được kháng cự, là chân lý không được phép hoài nghi. Ai không phục tùng hoặc tỏ thái độ hoài nghi thì sẽ bị trời, thần trừng phạt. Trong kinh điển của Phật giáo tuyệt đối không tìm đâu ra sự tức giận của Đức Phật cả, càng không thể có phương pháp xử phạt tàn khốc. Trong 49 năm giáo hóa của Đức Phật, các đệ tử chỉ thấy Ngài lúc nào cũng sắc diện tươi vui, tư cách hòa nhã, từ bi an lành. Ngài đối với người tốt cũng như vậy, đối với người hủy báng cũng như vậy.

Đức Phật đối với đạo lý mà mình nói ra, dứt khoát không cưỡng bức các đệ tử phải tiếp thụ, Ngài khuyến khích họ nên hoài nghi thưa hỏi. Mãi cho đến 80 tuổi, lúc gần viên tịch nơi giữa hàng cây Sa la, Ngài vẫn giảng dạy và nhắc đi nhắc lại nếu các đệ tử còn thắc mắc nghi ngờ điều gì cứ hỏi.

Phật nói : “Nghi lớn thì ngộ lớn, nghi nhỏ thì ngộ nhỏ, không nghi thì sẽ không ngộ”.

Phật giáo cho phép và khuyến khích các tín đồ tự do hoài nghi thưa hỏi những đạo lý mà bản thân giáo chủ nói ra, tiến tới tinh thần nghiên cứu sâu xa hơn nữa. Quả là trên đời này hiếm có một tôn giáo nào lại dân chủ và tự do như thế.

Các bạn đọc thân mến, chân lý không nên cưỡng bách người khác tiếp thu. Chân lý chỉ có ở tiền đề của dân chủ, tự do, của suy nghĩ chín chắn mới thực sự hiển xuất tinh thần và giá trị của nó.

Mà trong các tôn giáo trên thế giới chỉ có giáo chủ và kinh điển của Phật giáo cho phép được hoài nghi, thảo luận và nghiên cứu.

Xin hoan nghinh các bạn học sinh đã có tinh thần nghiên cứu, có nhân cách độc lập, tự chủ, có trí thông minh để nghiên cứu Phật pháp. Cánh cửa rộng lớn của Phật giáo, mãi mãi mở rộng đối với các bạn.

trích từ trang http://thuvienhoasen.org/nhungdiemdacsaccuaphatgiao-00.htm

Share this post


Link to post
Share on other sites

XÓA TAN MỘT SỐ HIỂU LẦM VỀ GIÁO PHÁP

-----------

Phật giáo phát nguồn từ Ấn Độ, cho đến nay đã gần 3.000 năm, truyền bá khắp cả thế giới. Do sự dài lâu của thời gian và rộng lớn của khu vực khó có thể tránh khỏi hoặc nhiều hoặc ít biến đổi bộ mặt vốn có của nó. Sự thay đổi bộ mặt như thế là vì thích ứng với việc sinh tồn và phát triển của bản thân mà hình thành một cách tự nhiên. Phật giáo sau khi truyền vào Trung Quốc đã dung hợp quán thông với tư tưởng Nho đạo; như việc khai sáng Thiền tông, phát huy tông phong Đại thừa v.v… đều có đầy đủ sắc thái và tinh thần riêng biệt của Trung Quốc. Vì người đời sau không hiểu biết một cách rõ ràng, nghe người ta nói sao thì tin vậy, tự mình đeo vào cặp kính màu sặc sỡ, cho nên nhìn sự vật không đúng đắn.

Điều mà chương này cần thảo luận, chính là giúp độc giả tháo gỡ cặp kính màu đã đeo ấy ra, hy vọng có thể nhìn thấy sự vật trước mắt một cách chính xác hơn. Nếu có thể nhờ đó mà tiến thêm một bước nhận thức Phật giáo, hiểu rõ Phật giáo, xóa tan đi những hiểu lầm về Phật giáo mà bạn đã nghe thấy, thì đó là điều rất vui sướng của tác giả.

Thông thường người ta có những hiểu lầm về Phật giáo mà tôi có thể quy nạp làm tám điều như sau để thuyết minh :

1/Phật giáo là trí tín chẳng phải mê tín

Trước khi đi sâu vào vấn đề tôi xin được định nghĩa về “trí tín” và “mê tín”.

Nói một cách đơn giản : Nếu chưa trải qua sự quan sát rõ ràng, suy nghĩ thật thận trọng mà mù quáng tin theo, đó gọi là “mê tín”. Ngược lại nếu trải qua công phu “suy nghĩ thận trọng” “tư duy chính xác” mới tin tưởng gọi là “trí tín”.

Hiện nay một số người chỉ trích Phật giáo là “mê tín”, họ chỉ nhìn thấy một vài biểu hiện mặt ngoài cạn cợt của Phật giáo, hoặc nghe một vài tin đồn nhảm nhí của kẻ ngoại đạo, rồi một mực cho rằng Phật giáo là “mê tín”. Thật ra trong óc của chính họ cũng còn đôi chút trí tuệ và tư tưởng chứ ! Nếu không tham cứu sâu xa, trải qua sự quan sát rõ ràng, mà mù quáng nghe lời người khác, thì chính bản thân người nghe cũng là “mê tín” rồi, vì đã mê tín nghe theo lời nói bừa của kẻ khác.

Đức Thích Ca Mâu Ni chưa từng cưỡng bách các đệ tử mù quáng tín ngưỡng Ngài, mà còn khuyến khích thắc mắc thưa hỏi. Phần này đã nói rất rõ trong mục thứ 10 “Phật giáo là dân chủ và tự do” ở chương 2 rồi, xin mời các bạn đọc xem lại.

Kinh điển của Phật giáo và kinh điển của các tôn giáo có chỗ khác nhau rất lớn. Đó chính là chỗ mà kinh Phật cho phép hoài nghi, nghiên cứu; còn kinh điển của các tôn giáo khác thì là chân lý tuyệt đối, không được quyền bài bác, trái lại là phạm tội bất kính đối với thần.

Đức Phật thường dạy các đệ tử rằng : Sự hoài nghi của các ngươi là chính đáng, bởi vì đối với một sự việc khả nghi thì nên khởi nghi.

Phật cho rằng một người có chú tâm thì không thể bị chi phối bởi truyền thuyết, lời nói vu vơ, cũng không nên y cứ vào kinh điển của tôn giáo, không nên chỉ dựa vào luận lý hoặc suy lường, không nên vì sự việc nào đó chưa rõ ràng mà tin cho là thật.

Tư tưởng vĩ đại của Phật giáo vẫn không dừng ở đó. Phật cho rằng một người không thể vì “Vị ấy là Thầy của chúng tôi”, mà đối với lời của vị Thầy nói ra tin sâu không chút nghi ngờ, mà còn mong các đệ tử cần phải : “Chính bản thân các ngươi phải hiểu biết chính xác lời dạy đó là tốt đẹp, thiện lương, lúc ấy các ngươi hãy tín thọ phụng hành”.

Phật giáo không cho rằng hoài nghi là tội ác hoặc ngu xuẩn, ngược lại còn cho rằng hoài nghi là con đường tắt đạt đến giác ngộ. “Nghi lớn ngộ lớn, nghi nhỏ ngộ nhỏ, không nghi không ngộ”.

2/phật pháp là khoa học mà chẳng phản khoa học

Tôn Trung Sơn nói : “Phật học là mẹ của triết học, nghiên cứu Phật học có thể bổ khuyết cho khoa học”.

Nói cách khác, Phật học không những hợp với khoa học, mà còn bổ sung những khiếm khuyết, cải chính những hiểu lầm mà khoa học nghiên cứu.

Tôi sẽ đưa ra một vài ví dụ để cho quý vị hiểu, nhằm chứng minh khoa học và Phật học không xung đột nhau. Bởi vì mục tiêu của Phật học và khoa học đều truy cầu “chân tướng” và “sự thật” của nhân sinh vũ trụ.

1- Vũ trụ quan của Phật giáo : Từ những nhà thiên văn học trước đây có người giả định vũ trụ là có tận cùng, có biên giới, thế nhưng giả định này đã bị các nhà thiên văn học ngày nay đánh đổ vì những phát hiện mới ngày càng nhiều.

Căn cứ học thuyết của Thác Lặc Mật (Ptolematis System) trước đây : Địa cầu là trung tâm của vũ trụ, là yên lặng bất động, mặt trời xoay quanh địa cầu. Đương thời cũng được triều đình La Mã giáo cho là chân lý không thể hoài nghi. Về sau Ca Bạch Ni (Kopernik) và Gia Lợi Luợc (Galilei) đều bài xích thuyết này, vì thế mà họ chút nữa bị đem thân mạng chôn vùi. Song quyền thế của La Mã cuối cùng vẫn không ngăn cản được chứng cứ của khoa học. Hiện nay một học sinh cũng biết địa cầu chẳng qua chỉ là một vai trò nhỏ trong vô số tinh cầu của vũ trụ mà thôi, vả lại nó không những tự chuyển, lại còn xoay quanh mặt trời.

Bây giờ chúng ta hãy xem tổ chức vĩ đại của vũ trụ mà Phật giáo đã miêu tả, so với sự tự thuật của khoa học hiện đại, cách xa nhau mà lại rất phù hợp với nhau.

Phật giáo lấy 1000 thái dương hệ làm một “tiểu thiên thế giới”, lấy 1000 tiểu thiên thế giới làm một “trung thiên thế giới”, rồi lấy 1000 trung thiên thế giới làm một “đại thiên thế giới”. Mỗi đại thiên thế giới là một “quốc độ Phật” (khu vực mà Phật giáo hóa). Vậy một quốc độ Phật gồm có bao nhiêu thái dương hệ ? Gồm một tỷ thái dương hệ, tương đương với một tòa tinh vân trong thiên văn học (một hằng tinh do một quần thể hành tinh, vệ tinh vây quanh tạo thành một hệ thống gọi là thái dương hệ. Như mặt trời của chúng ta, xung quanh có địa cầu, Thủy tinh, Kim tinh, Hỏa tinh, Thổ tinh, Mộc tinh, Thiên vương tinh, Hải vương tinh, Minh vương tinh, tất cả 9 đại hành tinh, 27 vệ tinh và hơn 1100 tiểu hành tinh).

Cho nên Đức Thích Ca Mâu Ni nói “Mười phương hư không không cùng tận, quốc độ thế giới không thể hạn lượng”. (Mười phương hư không với “thái không” mà chúng tôi nói ý nghĩa giống nhau).

Câu nói ấy chính là nói với chúng ta rằng ở trong hư không tinh cầu vẫn không tính đếm hết, hư không là không có biên giới.

Từ Văn nghệ Phục Hưng Châu Âu về sau, Galilei đã dùng kính vọng viễn để quan sát quần tinh của thiên không, thiên văn học mới dần dần tiến bộ, mãi cho đến ngày nay chúng ta mới hiểu biết đôi chút về sự rộng lớn vô biên của bầu trời, mới hiểu địa cầu của chúng ta chẳng qua chỉ là một tiểu hành tinh trong Thái dương hệ mà thôi. Hơn nữa Thái dương hệ trong hư không không thể nào tính đếm, có hàng ngàn vạn thái dương.

Thế mà, hơn hai ngàn năm trăm năm trước, Thích Ca Mâu Ni không có kính nhìn xa đã nói với chúng ta hư không là vô biên vô tế, và tinh cầu trong hư không là không thể tính đếm (Phật lấy “Bất khả tư nghị” để hình dung, nghĩa là không những không thể tính đếm được hết, mà còn dứt khoát cũng không có cách nào tưởng tượng suy lường được).

Nếu không phải là bậc tiên tri tiên giác đầy đủ trí tuệ rộng lớn, sâu xa, thì làm sao có thể miêu tả vũ trụ vĩ đại, bí ẩn và bao la như thế được.

2- Trong một ly nước có tám vạn bốn ngàn chúng sinh : Lúc Phật nói pháp, thường nói với chúng ta một cách rõ ràng, chúng sinh trong vũ trụ là không thể tính đếm, là không thể tưởng tượng. Ngoài địa cầu chúng ta đang ở có chúng sinh ra, vô số tinh cầu trong vũ trụ cũng có chúng sinh tồn tại. Ngoài chúng sinh mà chúng ta dùng mắt thường để thấy ra, vẫn còn rất nhiều chúng sinh mà mắt thịt của chúng ta không thể thấy được. Ngài chỉ vào một ly nước và nói rằng trong ly nước ấy có tám vạn bốn ngàn chúng sinh. (Trong kinh Phật dùng tám vạn bốn ngàn là ý biểu thị số lượng rất nhiều).

Ngày nay theo sự tiến bộ của khoa học, các nhà khoa học vẫn không dám phủ định trong tinh cầu khác của vũ trụ có thể có chúng sinh tồn tại. Thế nhưng tôi tin rằng một ngày nào đó các nhà khoa học lại một lần nữa chứng minh giả thiết của Phật giáo là chính xác. (Trong vũ trụ vẫn có vô số chúng sinh tồn tại).

Ngày nay dưới kính hiển vi, những vi sinh vật trong ly nước đâu chỉ có ngàn vạn ! Hơn hai ngàn năm trăm năm trước, Thích Ca Mâu Ni không dùng kính hiển vi để quan sát mà có thể nói đúng với khoa học ngày nay. Điều đó đủ để cho chúng ta phải cúi đầu khâm phục rồi.

3- Sắc tức là không, không tức là sắc : Căn cứ theo vật lý học xưa, có hai định luật trọng yếu : Một là “định luật vật chất không diệt”, một là “định luật năng lực không diệt”. Các nhà vật lý học trước đây cho rằng vật chất và năng lực là không tương quan với nhau, không thể trao đổi với nhau, mà hai thứ đều là thường trụ bất diệt.

Vật chất ở trong kinh Phật gọi là “Sắc”, mà Phật giáo cho rằng “sắc” tức là “không”, điều này với khoa học có xung đột. Hơn nữa căn cứ theo sự giải thích của Phật pháp thì hết thảy sự vật trong vũ trụ đều là vô thường, bản thể là không, không có dạng “bất diệt”, điều này với khoa học cũng không hợp.

Thế nhưng, từ lúc Einstein phát biểu “công thức đẳng lượng năng lực vật chất biến thiên”, chứng minh lúc mỗi một pound vật chất hủy diệt, có thể biến thành hàng loạt năng lực kinh người (E = MC2); lại đến lúc thử nghiệm bom nguyên tử thành công, mới có thể chứng minh vật chất biến thành năng lực. Bản thể của vật chất (sắc) đó chẳng phải là “không” sao ?

Cho nên định luật vật lý học xưa kia đã bị phủ định. Phật học một lần nữa từ trong sự tôi luyện của khoa học mà vẫn đứng vững chắc không gì lay chuyển.

Để cho dễ hiểu hơn chúng tôi xin trình bày thêm như sau :

1- Sắc tức là không : Vật chất (sắc), là từ tổ chức của nguyên tử, mà trong nguyên tử có hạt nhân nguyên tử và điện tử, trong hạt nhân nguyên tử lại có chất tử và trung tử, chất tử và trung tử lại có thể đả phá mà biến thành năng lực (không). (Các nhà vật lý học trước đây cho rằng nguyên tử không thể phân chia, đó là điều sai lầm).

2- Không tức là sắc : Năng lực (không) có thể biến thành vật chất (sắc), cũng đã được giới khoa học nhất trí thừa nhận.

3- Cuối cùng tôi xin nêu một ví dụ trong “Thuyết tương đối” của Einstein : Thời gian là tùy theo tốc độ mà thay đổi. Người ta ngồi trên hỏa tiễn đi với tốc độ bằng vận tốc ánh sáng để đến một tinh cầu nào đó, sáng ăn cơm ở địa cầu này, trưa ăn cơm ở tinh cầu khác, buổi tối lại chuẩn bị trở về địa cầu ăn tối. Thế nhưng khi người ấy trở về thì địa cầu đã trải qua hàng trăm năm rồi, thân hữu của họ đã chết gần hết.

Các nhà khoa học hiện nay chưa có người nào dám phủ định tính có thể có của ví dụ nêu trên. Thế nhưng xin mời quý vị hãy xem trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa của Phật giáo, Đức Phật nói với những người nghe pháp rằng : Các ông nghe ta nói pháp giảng kinh, trải qua thời gian không lâu, thế nhưng thế giới bên ngoài đã trải qua hàng ngàn ức năm. Lý luận “thời gian tương đối” của Einstein, Đức Phật đã nói trước đây gần 3000 năm rồi.

Do đó Tôn Trung Sơn mới nói : “Nghiên cứu Phật học có thể bổ khuyết cho khoa học”. Bởi vì Phật học lúc nào cũng đi trước khoa học.

3/Phật giáo là từ bi không sát sinh

Ai cũng đều biết “không sát sinh” là giới cấm căn bản của Phật giáo. Phật giáo chủ trương chúng sinh bình đẳng, coi sinh mạng của các động vật khác cũng như sinh mạng của mình.

Phật giáo chủ trương học thuyết luân hồi, hễ chúng sinh chưa đạt đến “giác ngộ”, đều phải bị luân hồi mãi mãi trong biển khổ sinh tử. Do đó, ngoài đời này ra, người ta vẫn còn có nhiều đời khác ở quá khứ. Nói một cách khác ở trong đời quá khứ, chúng ta thường có biết bao cha mẹ, anh em, chị em, bạn bè, sư trưởng song do chúng ta chưa đạt đến giác ngộ chân chính, chưa có trí tuệ hiểu rõ vấn đề này mà thôi. Nếu ngày nay chúng ta tùy tiện sát hại động vật, có thể là chúng ta đã sát hại thân bằng quyến thuộc đời trước của mình. Cho nên, Phật giáo không sát sinh. (Đây cũng là một lý do mà Phật giáo ăn chay).

Đương nhiên sẽ có những bạn học hỏi ngược lại là : “Làm sao ông biết điều đó ? Ông có thể chứng minh được không ?”.

Để trả lời câu hỏi này, trước tiên tôi xin mời bạn hãy xem đoạn văn đối thoại sau :

A : Xin hỏi có gió hay không ?

B : Đương nhiên là có.

A : Vậy thì, xin bạn dùng màu sắc, hình dáng để chỉ gió ấy cho tôi xem được không ?

B : Đó là việc không thể được.

A : Nếu ông không thể chỉ gió cho tôi xem, vậy cũng chính là nói không có gió phải không ?

B : Không, gió tuy dùng tay nắm không được, rờ không thấy, nhưng gió vẫn là gió, chẳng qua tôi không thể chỉ gió cho bạn xem mà thôi.

Ở trong vũ trụ có rất nhiều sự thật, tuy chúng ta không thể chỉ ra được trực tiếp những chứng cứ để chứng minh, thế nhưng chúng ta cũng không thể phủ định sự tồn tại của nó. Hơn nữa, khoa học ngày nay vẫn còn bị hạn chế, vẫn không thể giải đáp được hiện tượng của vũ trụ là bao nhiêu. Mà nhân sinh vũ trụ sum la vạn tượng, chằng chịt lẫn nhau, con người không dễ dàng hiểu biết hết được.

Đức Thích Ca Mâu Ni đã sớm thấy rõ được đạo lý ấy, cho nên Ngài đã nói với đệ tử rằng : “Ta là người nói đúng sự thật, không nói dối”. Ngài mong muốn đệ tử của mình ra sức nghiên cứu để hiểu rõ hơn, nếu điều nào chưa hiểu thì hãy tạm thời để đó. Bởi vì có một số đạo lý không thể dùng ngôn ngữ, văn tự để giải thích rõ ràng được. Cho nên trong kinh Phật mới có câu “Như người uống nước, nóng lạnh tự biết”. Có thể hiểu biết chính xác và rõ ràng tình trạng đời quá khứ, trong Phật pháp gọi là “túc mạng thông”. Loại năng lực (thần thông) này phải trải qua nỗ lực tu hành mới có thể đạt được.

Đối với một người mù mà nói thế giới này có biết bao đào thắm liễu xanh, người ấy có hiểu được không ? Đối với người ngớ ngẩn mà nói người nào đó là con của người em cha của hắn, tức là em họ của hắn, hắn ta có hiểu được không ?

Rõ ràng Phật giáo chủ trương giới sát, ăn chay. Do đó những người hay sát sinh, dùng gà, vịt, heo để cúng bái là chưa hiểu biết Phật giáo.

4/Phật giáo là tích cực lạc quan

Nói chung người ta thường phê bình Phật giáo là bi quan, rất tiêu cực.

Vì sao người ta lại hiểu lầm như thế ? Tôi nghĩ là vì : Phật giáo nêu lên đời người có những thống khổ như sinh, lão, bệnh, tử v.v… lại nói “đời người vô thường”. Cho rằng vạn sự vạn vật trên thế giới này đều là nhân duyên tạm có, đều là đổi thay chớp nhoáng. Cái gọi là danh, lợi, tài, sắc chỉ là hư ảo, do đó mà khuyên người ta không nên “chấp trước” thái quá, tức là luyến ái không chịu buông xả.

Phật giáo cũng cho rằng “đa dục là khổ”, dục vọng quá nhiều thường là căn bản của thống khổ và phiền não. Nhân đó mà khuyên người ta nên biết đủ ít muốn. Mỗi cá nhân đều phải lượng tài sức của mình để quyết định nhiều hay ít dục vọng. Tài sức của mình không đủ, nhưng cả ngày cứ mơ tưởng không đâu, há không phải là tự mình chuốc lấy phiền não hay sao ?

Thế nhưng, xin bạn nên nhớ, Phật không có buộc chúng ta “tuyệt dục”, mà chỉ nói “ít dục biết đủ”. Tiết kiệm quá đáng, đến nỗi làm tổn hại đến thân thể của mình Phật cũng phê phán. Chính Ngài năm 29 tuổi xuất gia, đã từng noi theo phương pháp tu khổ hạnh của ngoại đạo đương thời, mỗi ngày chỉ ăn một hạt gạo một hạt mè. Thân thể tiều tụy như cây khô, thể lực suy yếu, kết quả vẫn không đạt được giác ngộ như Ngài mong muốn. Cuối cùng Phật mới hiểu rằng ngược đãi thân thể của mình, hoàn toàn không phải là phương pháp đạt đến con đường giải thoát. Thân thể tuy không phải là chân thật, một ngày nào đó cũng phải tử vong, thế nhưng tu hành cũng phải nhờ đến thân thể. Thân thể không khỏe mạnh thì tâm không an ổn, thân cũng không thể ngồi thiền được.

“Ít muốn biết đủ” chính là “Con đường trung dung”. Trong Kinh 42 Chương có chép như vầy : Phật hỏi một vị sư trước khi xuất gia ưa thích đàn Cầm rằng :

- Dây đàn chùng quá thì âm thanh như thế nào ?

- Bạch Thế Tôn, không nghe được.

- Dây đàn căng quá thì sao ?

- Bạch Thế Tôn, dây sẽ đứt.

- Nếu điều chỉnh vừa đủ (không căng quá, không chùng quá) thì sao ?

- Bạch Thế Tôn, có thể gảy được những thứ âm nhạc tuyệt diệu.

Cho nên Phật giáo không phải là chủ nghĩa túng dục “ngày nay có rượu ngày nay say”, cũng không phải chủ nghĩa ngược đãi tự ngã bỏ đói chịu lạnh. “Ít muốn biết đủ” của Phật giáo chính là chủ nghĩa “Trung đạo” đạt đến hạnh phúc an lạc.

Thôi, bây giờ chúng ta lại nói tiếp vấn đề Phật giáo không phải là tiêu cực và bi quan.

Phật giáo khuyên người ta phải hiểu rõ đạo lý nhân sinh vô thường, sinh mạng ngắn ngủi tạm thời, không nên để uổng phí tuổi xuân trôi qua. Có như thế mới yêu tiếc thời gian, nỗ lực làm các công việc tự lợi, lợi tha có ích cho thế đạo nhân tâm.

Phật giáo cho rằng “tứ đại giai không”. Tứ đại là chỉ cho đất, nước, gió, lửa, bốn loại nguyên tố mà tất cả thế giới và con người nhờ đó mà thành lập, cho nên gọi là tứ đại.

Đất là thể rắn của vật chất, nước là thể lỏng của vật chất, lửa là tính ấm của vật chất, gió là tính động của vật chất.

Trong thân thể người ta thì da, thịt, gân, cốt là thuộc về địa đại; tinh huyết đàm dãi thuộc về thủy đại; hơi ấm là hỏa đại; hô hấp vận động là phong đại. Thân thể người ta là do nguyên tố tổ hợp của “tứ đại” này mà thành, cũng lại do sự tan rã của “tứ đại” này mà tiêu diệt. Người ta vốn không có một thứ bản thể chân thật tồn tại, cho nên nói “tứ đại giai không”.

Vì “tứ đại giai không” cho nên nói “vô ngã”. Có một số độc giả nói rằng, rõ ràng tôi có đây, thế mà lại nói “vô ngã” là sao ? Xin thưa “ngã” chẳng qua chỉ là thể tụ hội tạm thời của bốn loại nguyên tố đất nước gió lửa đã nói ở trên mà thôi. Tế bào trong thân thể con người thay đổi từng giây, từng phút. Vậy thì một giây trước là ta ? Hay là một giây sau là ta ? (Thời gian giống như thác nước không thể tìm thấy một điểm “hiện tại”).

Có người nói “tư tưởng” mới là “Ta”, thế nhưng tư tưởng con người là sát na sinh diệt, trôi chảy không dừng. Lại giống như sóng biển, sóng trước lặn sóng sau lên, niệm trước chưa diệt niệm sau lại sinh khởi, niệm niệm không dừng, vậy thì niệm trước là “ta” hay niệm sau là “ta” ? (Cho nên quan niệm của con người luôn luôn cải biến, tư tưởng vẫn luôn dời đổi, hôm qua cho là đúng là tốt, nhưng hôm nay lại cho là sai là không tốt).

Nhân đấy, từ trong thân thể và tư tưởng vốn tìm không được hình bóng của “ngã”, cho nên nói là “vô ngã”.

Phật giáo giảng “vô ngã”, không phải muốn người ta hủy hoại mình. Lại có người cho rằng “ngã” đã không có thì làm điều xằng bậy đâu có liên quan gì ! Ngã là giả thì cố gắng để làm gì ?

Quan niệm theo kiểu này thì thật là lầm to. Phật giáo giảng đạo lý vô ngã chính là mong muốn người ta hiểu rõ ngã chỉ là giả tướng tụ hội tạm thời của tứ đại, một ngày nào đó tứ đại tan rã thì sẽ suy bệnh mà mất. Do đó không nên mải mê tìm cầu danh lợi, không cần phải so đo từng li từng tí với người, mà cần phải khoan nhượng chịu đựng để đối nhân xử thế. Chỉ có nhận thức được vô ngã, mới có thể hy sinh tiểu ngã, hoàn thành đại ngã, mới dám xông vào chỗ nước sôi lửa bỏng để thực hiện lý tưởng cứu nhân độ thế.

Một người có thể thực hiện được vô ngã, thì mới không làm tổn hại người để lợi mình, không lấy của công làm của riêng, mới có thể ngẩng cao đầu đem nhiệt huyết của mình làm đại sự nghiệp cứu nước cứu dân.

Cho nên Phật giáo lấy “vô ngã” “hiểu rõ tất cả” làm công cụ để đạt đến mục đích tạo phước cho mọi người, phục vụ xã hội. Vì có như vậy mới không bị trói buộc trong vòng danh lợi, mới có thể đạt được tự do, tự tại thực sự, lại không còn phải phiền não về việc được thua gì cả.

5/Phật giáo không phải là trốn tránh hiện thực

Có người thấy một vị sư mai danh ẩn tích khổ tu trong chốn sơn lâm cùng cốc, tợ hồ như không còn một chút trách nhiệm gì đối với xã hội, bèn chỉ trích Phật giáo là trốn tránh hiện thực.

Thật ra luận điệu ấy tợ hồ như phải mà lại trái.

Phật giáo chủ trương “Bi trí song tu”. Nếu chỉ có “bi” tâm cứu nhân cứu thế, mà không có “trí” tuệ chân tài thực học, vẫn là không có chỗ dùng. (Có lòng cứu người chết đuối, nhưng lại không biết bơi thì có tác dụng gì !).

Nhân đấy, người tu hành Đại thừa chân chính (thừa ý là thuyền, thuyền lớn nhỏ quyết định chở được nhiều hay ít người. Đại thừa lấy “kiêm thiện thiên hạ” làm mục tiêu, Tiểu thừa lấy “độc thiện kỳ thân” làm mục đích). Ở ẩn tịnh tu chỉ là công việc chuẩn bị cho tương lai hoằng dương Phật pháp, rộng độ chúng sinh mà thôi. (Cũng giống như những nhà khoa học, suốt ngày ở trong phòng, để hết tâm trí thực nghiệm tìm tòi những điều mới lạ nhằm phục vụ cho nhân loại).

Kỳ thật không những người xuất gia như thế, mà người cư sĩ tu hành tại gia cũng phải “phước huệ song tu”. Không chỉ là “hạnh phúc” cho tương lai của mình, mà còn phải học tập rèn luyện mở mang “trí tuệ” để hoằng pháp giúp người.

Dưới đây tôi xin nêu ra sự tích của ngài Huyền Trang, nhân vật chính trong “Tây du ký”, một vị cao tăng thông thạo văn hóa Trung Hoa và Ấn Độ, để thuyết minh Phật giáo hoàn toàn không phải là trốn tránh hiện thực.

Huyền Trang, ngài họ Trần tên Huy, người Hà Nam, sinh năm Khai Hoàng 19 vua Văn Đế đời Tùy. Gia đình có truyền thống học hành. Ông nội ngài là Tiến sĩ quốc học Bắc Tề. Cha làm Huyện trưởng Giang Lăng triều Tùy.

Sau khi Huyền Trang xuất gia, người nhà đề nghị ngài nên trụ trì chùa Trang Nghiêm, một ngôi chùa rất lớn ở Trường An, nhưng ngài không chịu.

Ngài nhận thấy kinh sách trong nước rất ít, mà nghĩa lý thì không rõ ràng, không đủ sức thu phục nhân tâm. Vì thế ngài phát thệ “hy sinh thân mạng đi Tây Trúc cầu pháp, để sau này trở về hoằng hóa tại Trung Quốc. Không những chỉ dịch một lượng lớn kinh sách, mà còn phải giải quyết những tệ bệnh của Phật pháp ngày nay và làm được một công việc hết sức thiêng liêng vĩ đại giúp cho nền văn hóa nước nhà”.

Vào năm thứ 3 Trinh Quán vua Thái Tông đời Đường, Huyền Trang bắt đầu cuộc Tây du cầu pháp. Ngài phải trải qua những sa mạc nóng cháy, vượt qua những ngọn núi cao nguy hiểm. Một thân một bóng chịu đựng biết bao gian lao khổ cực, chín phần chết một phần sống mới đến được Ấn Độ.

Dưới gốc cây Bồ đề nơi Đức Thích Ca thành đạo, Huyền Trang ngậm ngùi rơi lệ cho sự suy vi của Phật giáo Ấn Độ, lập chí phải nỗ lực nghiên cứu Phật pháp. Về sau trong đại hội thành Khúc Nữ (Ranyakubja) ngài đọc một bản tuyên ngôn (tức Chân Duy Thức Lượng tụng) đã làm chấn động giáo đồ Tiểu thừa toàn cõi Ấn Độ.

Huyền Trang được quốc vương các nước tôn sùng ngưỡng mộ, họ tranh nhau mời thỉnh ngài giảng Kinh, thậm chí còn muốn dùng cả vũ lực để tranh giành nữa.

Lúc “công danh phú quý” đã đạt đến đỉnh cao, nhưng Huyền Trang vẫn quyết định trở về nước. Lời ngài nói với Giới Hiền, bậc thầy của ngài lúc bấy giờ, ngày nay sau gần 2000 năm, chúng ta nghe qua vẫn không khỏi cảm động.

“Bạch thầy, mục đích cầu học của con không phải vì hạnh phúc và tài học của cá nhân. Nếu chỉ vì những chuyện như thế, thì con không bao giờ liều mạng vào con đường hiểm cả. Hiện nay con đã học được chút đạo lý nơi quý quốc, cần phải trở về nước để truyền đạo, giải cứu những nỗi khổ đau cho đồng bào. Nếu con lưu lại đây lâu ngày không về, con sẽ có lỗi với đồng bào thân yêu của con”.

Cái tinh thần cao cả vĩ đại ấy, xứng đáng là tấm gương cho chúng ta noi theo học tập.

Trong cuốn “Trung Quốc Triết học sử thoại” của Trương Khởi Quân và Ngô Di tiên sinh hợp biên, có một đoạn nói về Huyền Trang như sau :

“Một đời của vị cao tăng ấy, một nửa đi thỉnh kinh, một nửa chuyên dịch kinh. Ngài có dáng dấp đời sống của nhà du lịch, có tinh thần tuẫn đạo của nhà tôn giáo, có nhiệt tình cứu thế của nhà tư tưởng. Ngài vì Phật giáo, vì văn hóa Trung Quốc đã cống hiến cả cuộc đời mình. Ngày nay đã yên trí lìa bỏ cuộc đời. Ngọn bút trong tay của ngài không còn chuyển động nữa. Quả tim của ngài đã ngừng đập rồi. Thế nhưng dấu chân của ngài vẫn in nơi sa mạc, vĩnh viễn lưu lại trong ký ức của loài người. Một tay của ngài đã phiên dịch hàng ngàn quyển kinh sách, cũng vĩnh viễn lưu lại trong kho tàng văn hóa của Trung Quốc”.

Ai nói Phật giáo là trốn tránh hiện thực ? Ai nói Phật giáo là tiêu cực, bi quan, yếm thế ?

6/ Phật giáo không chỉ nói suông về nghĩa lý

Có những người than rằng : “Chẳng phải tôi không muốn nghiên cứu Phật pháp, cũng chẳng phải nói Phật pháp không tốt, chỉ vì nó quá phiền phức, quá cao xa”.

Ý họ nói kinh Phật rất nhiều, rất cao sâu.

Lại có một người bạn nói với tôi rằng : “Vì sao Phật giáo không học tập Cơ đốc giáo, chỉ cần đưa ra một quyển Thánh Kinh tóm tắt đơn giản rõ ràng là đủ ?”.

Kỳ thật vấn đề này nêu ra rất là ấu trĩ, cũng rất nông cạn, tôi bèn hỏi lại rằng : “Hiện tượng của vũ trụ nhân sinh là đơn giản, hay là phức tạp ?”.

Tôi nói : “Phật pháp là tìm cầu hiện tượng chân thật của nhân sinh vũ trụ. Bởi vì hiện tượng nhân sinh vũ trụ rất phức tạp, cho nên không thể nói đôi ba lời là thấu suốt. Cũng bởi đạo lý của nhân sinh vũ trụ không dễ dàng hiểu biết, cho nên Phật pháp giải thích nó cũng có chỗ sâu cạn khác nhau”.

Đồng thời Phật pháp là giảng cho chúng sinh nghe. Chúng sinh thì vô biên, căn khí (trí tuệ) của chúng sinh cũng bất đồng, có người cao kẻ thấp, có người trí kẻ ngu, cho nên nói pháp cũng không thể cứ một mực không thay đổi. Cùng một đạo lý ấy nhưng có thể tùy góc độ khác nhau mà giải nói cho từng đối tượng.

Phật giáo không chỉ là tôn giáo nói suông về nghĩa lý, có thể qua sự thực tu và thân chứng, khiến cho giữa nó và lý luận cùng phối hợp với nhau. Trong đó chỉ đơn cử một việc như tọa thiền chẳng hạn. Phương pháp tọa thiền rất nhiều, có thể thực hành như chuyên chú, quán tưởng, điều tức, mật niệm, vận động v.v… Dù bạn y theo một phương pháp nào, đều có thể đạt đến cảnh giới giác ngộ “minh tâm kiến tánh, chuyển mê thành trí”.

Ví như Đại sư Huệ Năng - Tổ thứ 6 của Thiền tông Trung Quốc. Ngài là một vị sư không biết chữ, nhưng có thể nêu ra bài kệ của Thần Tú, vị đệ tử lớn của Ngũ Tổ là chưa đắc đạo, bài kệ ấy là : “Thân là cây Bồ đề, tâm như đài gương sáng, thời thời siêng lau chùi, chớ để nhiễm trần ai”. Phê bình Thần Tú chỉ là người mới đến cửa mà chưa vào nhà, ngài nhờ người viết hộ bài kệ (vì ngài không biết chữ) : “Bồ đề vốn không cây, gương sáng cũng không đài, xưa nay không một vật, chỗ nào nhiễm trần ai ?”. Được Ngũ Tổ ca ngợi và truyền trao y bát kế thừa thiền pháp.

Chúng ta chỉ cần xem qua “Lục Tổ Đàn Kinh” sẽ biết được trí tuệ tuyệt vời của Lục Tổ, khâm phục năm vóc sát đất. Bởi vì những lời giảng của ngài với lời Phật thuyết hoàn toàn phù hợp không một chút sai sót nào.

Dưới đây là một đoạn công án (sự tích) của Đại sư Huệ Năng sẽ chứng tỏ điều đã nêu trên.

Có hai vị sư nhìn thấy lá phướn bên ngoài giảng đường, gió thổi lay động qua lại. Nhân đó đã dẫn đến sự tranh luận. Một vị nói :

- Tại gió động.

Vị sư khác nói :

- Không phải, tại phướn động. Tại sao ông lại nói gió động ?

- Nếu không có gió thổi thì làm sao phướn động được ?

Lúc ấy Huệ Năng nghe được, ngài liền nói với hai vị sư là :

- Không phải gió động, cũng không phải phướn động, mà là do tâm của các ông động !

Lại có một vị thi tăng Bát Chỉ đầu đà (đầu đà là khổ hạnh tăng, tức là vị sư tu hành khổ hạnh), ở vào đầu nhà Thanh cuối nhà Minh. Trước kia là người có đủ 10 ngón tay, sau vì ngài biểu thị quyết tâm cầu đạo và lòng thành kính đối với Đức Phật, cho nên đã đốt hai ngón tay trước điện Phật, chỉ còn lại tám ngón (Bát chỉ).

Bát Chỉ đầu đà vốn không biết làm thơ, cho đến chữ nghĩa cũng biết rất ít, thế nhưng có một hôm, sau khi tĩnh tọa nhập định liễu ngộ, ngài đi đến Động Đình hồ thăm người bạn. Lần đầu tiên ngài chấp bút viết câu “Động Đình ba tống nhất tăng lai” (Sóng hồ Động Đình đã đưa vị tăng đến), khiến cho mọi người phải kinh ngạc. Từ đấy, ngài làm thơ như là có thần trợ giúp, ý thơ tuôn ra như nước.

Còn có rất nhiều vị cao tăng khác, cũng chữ nghĩa không bao nhiêu, thế nhưng sau khi công phu thiền định đã được liễu ngộ rồi, giảng kinh thuyết pháp, nói có bài bản hẳn hoi, trên hợp với ý Phật, dưới hợp với tâm người, không cần khéo léo trau chuốt mà ngôn từ ý tứ vẫn siêu việt hơn người. Vì tập sách có hạn nên không thể giới thiệu hết được.

Phần trên là giới thiệu về sự thực chứng của việc tu hành theo pháp môn “thiền định”. Còn đối với những vị tu hành theo Tịnh độ tông chỉ niệm Phật A Di Đà, cũng có thể đạt được đạo quả. (Phật giáo nương theo phương pháp tu hành khác nhau mà có các phái khác nhau gọi là Tông).

Chẳng hạn như ngài Từ Hàng Đại sư trải qua 5 năm ở trong chiếc vại đậy kín mà nhục thân không hoại (tức là thể xác đã chết mà không hư hoại). Hiện nay đã thếp vàng lên thân ngài tôn thờ tại Tịch Chỉ ở Đài Bắc. (Đại sư Huệ Năng cũng nhục thân bất hoại, tức là sau khi chết thi thể còn nguyên, vẫn sinh động như sống, hiện còn lưu giữ tại Quảng Châu).

Lại như Đại sư Ấn Quang và Đại sư Hoằng Nhất (tức là nhà âm nhạc Lý Thúc Đồng) v.v… Các ngài đều tu tập pháp trì danh niệm Phật, sau khi mất, thiêu được rất nhiều Xá lợi. (Xá lợi còn gọi là kiên cố tử, lúc mất hỏa táng di thể mà có được loại Xá lợi này). Ở Đài Loan, tôi đã được may mắn xem qua Xá lợi của Ni sư Viên Dung chùa Đông Sơn ở Bình Đông, Hòa thượng Nhãn Tịnh chùa Từ Vân ở Nam Tử và Đại sư Chương Gia, màu sắc nó lóng lánh tuyệt đẹp. Những dẫn chứng trên để chứng minh việc tu hành chứng quả của các vị tu hành theo Phật giáo.

7/phật giáo phủ định túc mạng luận

Vì sao gọi là “Túc mạng luận” ? Nói một cách đơn giản là sự cát hung họa phước của con người đều do đời trước định đoạt, sức người không có thể thay đổi được.

Nói cách khác người tin theo “Túc mạng luận” là “phú thác mạng mình cho trời”, cho rằng số mạng của mình đã định sẵn rồi.

Rất nhiều người có tư tưởng như vậy. Cũng rất nhiều tôn giáo chủ trương như vậy. Họ cho rằng : Số mạng đã định không thi đậu đại học, nếu có nỗ lực đến đâu cũng không thi đậu; số mạng đã định không bần cùng, dù có xa xỉ phù hoa hoặc hoang phí cũng không bần cùng.

Song Phật giáo triệt để đả phá loại luận điệu này, khẳng định có ra sức thì phải có thu hoạch. Theo thuyết của nhà Phật thì “công bất đường quyên”, ý nói đã cố gắng thì không uổng phí công lao. (Có thể đọc thêm sách “Liễu phàm tứ huấn”).

Phật giáo cho rằng tiền đồ vị lai của một cá nhân là tùy theo hành vi tốt xấu hiện tại của chính mình mà quyết định. Tiền đồ của mình nằm ở trong tay của chính mình. Không có cái gọi là số mạng đã định không thi đậu đại học, nếu mình cố gắng nỗ lực, cánh cửa đại học chắc chắn sẽ mở ra đón nhận bạn. Cũng không có chuyện số mạng định sẵn giàu sang phú quý, cứ xa hoa phung phí, không lo cần kiệm làm ăn thì nhất định một ngày nào đó sẽ bị nghèo khổ. Cho nên Phật giáo không chủ trương “Túc mạng luận”.

Lại bàn qua về thuyết “nhân quả báo ứng” của Phật giáo. Tuy chúng ta thường nghe thuyết pháp “trồng dưa được dưa”, thế nhưng thuyết nhân quả của Phật giáo, nếu nói rõ ràng một tí thì phải nói là “nhân duyên quả báo”. Tức là giữa nhân và quả Phật giáo xem trọng ở chữ “duyên”. Vì sao gọi là “duyên” ? “Duyên” có tác dụng gì ? Nếu như chúng ta gieo một hạt giống dưa xuống đất (nhân) mà không có ánh sáng, nước, phân hoặc sự chăm sóc của nhân công (duyên), nó sẽ ảnh hưởng đến hạt giống, chồi, cây và hoa trái.

Cũng như thế nếu một người đời trước có gieo nhân lành, nhưng đời nay không tiếp tục tu trì, hành thiện để trợ duyên, thì cũng sẽ ảnh hưởng đến sự trưởng thành quả tốt, cũng không thu hoạch được bao nhiêu.

Nếu một người đời trước làm điều xấu, nhưng đời này biết cải hối, bỏ ác làm thiện, cũng có thể giảm thiểu hoặc không thọ quả khổ.

Các bạn học nghe đến đây, chắc chắn sẽ hoài nghi rằng : Một người làm điều xấu, nếu biết cải ác làm thiện thì “có thể” không chiêu thọ quả ác. Và hỏi ngược lại rằng : Như vậy có nghĩa là “có thể” chiêu thọ quả ác phải không ?

Vấn đề này tôi xin nêu ra một thí dụ để giải thích như sau :

Nếu một người uống thuốc độc, được đưa đến bác sĩ cứu trị, kết cục của người ấy có hai thứ : Một là hóa nguy thành yên và một là chết.

Vì sao người ấy uống thuốc độc, (nhân ác, tỉ như làm việc xấu), đưa đến bác sĩ chữa trị (làm thiện, tỉ như làm việc tốt), nhưng lại cũng “có thể” chết ?

Để trả lời vấn đề này không phải chỉ nói vài lời có thể giải thích thấu đáo, tối thiểu cũng liên quan đến ba phương diện :

1/ Người ấy trúng độc nặng hay nhẹ (làm việc xấu nhiều hay ít, tội phạm cũng tương đương).

2/ Người ấy được đưa đi bác sĩ nhanh hay chậm (giác ngộ sớm hay muộn).

3/ Có cứu trị được hay không ? (hành thiện nhiều hay ít, giữa loại hành thiện này có liên quan với nhân ác đã tạo trước kia).

Căn cứ theo ba điểm trên có thể quyết định cá nhân người ấy có hay không chiêu thọ “quả ác”. Song tôi cũng mong các bạn học hiểu cho tỉ dụ đó chẳng qua chỉ là bất đắc dĩ phải nêu mà thôi, mục đích là ở chỗ giúp cho mọi người hiểu được nghĩa chân thật của nhân quả. Chúng ta không nên chấp vào đó, bởi vì đã gọi là “thí dụ” thì không “có nghĩa là” sự thật, mà chỉ có thể nói là “tương tợ” mà thôi.

Thuyết nhân quả của Phật giáo, trùm khắp nhân sinh vũ trụ vô cùng, bao quát không gian và thời gian vô tận, trong ấy chằng chịt xen lẫn nhau, trăm dây nghìn mối, ngoài những vị giác ngộ (như Phật, Bồ tát v.v…) có đầy đủ trí tuệ chân thật ra (Phật giáo gọi là “Bát nhã”) , người bình thường chúng ta khó có thể hiểu được sự thâm áo của nó.

Cũng giống như một cái máy thu hình, bên trong đó dây nhợ chằng chịt, ngoài nhân viên kỹ thuật chuyên môn ra, thì ai có thể nhìn vào đó hiểu được ? Do đó tỉ dụ của tôi không thể bao hàm hết mối quan hệ nhân quả sum la ấy. Cũng giống như một thác nước lớn từ trên cao chảy xuống (Phật giáo gọi là dòng tương tục lớn của nhân quả) thì làm sao có thể cắt xén một đoạn trong dòng thác ấy để quan sát, để thuyết minh cho được ?

Thôi được, dưới đây tôi sẽ nói tiếp về vấn đề “Đời trước làm điều xấu, đời nay tuy nỗ lực làm việc thiện mà vẫn có thể chiêu lấy báo ứng !”. Phật giáo có thái độ gì với vấn đề này ?

Thái độ của Phật giáo là :

1- Khuyên bạn cứ tiếp tục làm điều thiện hơn nữa, bởi vì những việc ấy sẽ thâu hoạch được kết quả mỹ mãn ở tương lai, không nên nản lòng thối chí.

2- Đối với loại “quả xấu” không có thể thay đổi được (Phật giáo gọi là “định nghiệp”), Phật giáo an ủi họ phải mạnh dạn nhẫn chịu, vì người quân tử dám làm thì phải dám chịu. Đã làm những điều sai trái cũng như phạm vào luật pháp thì phải an tâm, nhẫn nại nhận chịu hình phạt, oán trời trách người hoặc có ý trốn thoát đều là biểu hiện của kẻ nhu nhược, đều là một loại hành vi không dám lãnh lấy trách nhiệm mà mình đã làm. (Điều này thường bị người đời hiểu lầm là do số Trời đã định, kỳ thật hoàn toàn sai lầm).

3- Từ trong những báo ứng thống khổ này phải phản tỉnh lấy mình, từ đây về sau cần cẩn thận giữ gìn tâm tính hành vi của mình. Hiểu rõ nhân quả báo ứng không sai sót chút nào, càng phải “chớ cho điều thiện nhỏ mà không làm, chớ cho việc ác nhỏ mà làm” (câu này do Lưu Bị nói với con của mình trước khi chết, còn Phật giáo thì nói “Chớ làm các điều ác, hãy làm các việc thiện”).

Do đó, nhân sinh quan của Phật giáo là tích cực hướng về phía trước. Đối với những sai lầm của dĩ vãng phải dũng mãnh nhìn nhận, an tâm nhẫn chịu, lấy đó để rèn luyện nhân cách tiết tháo. Đồng thời vì sự an lạc và hạnh phúc mai sau, cần phải nỗ lực phấn đấu hướng thượng, dù thế nào cũng không nên tiêu cực, chán nản, tự hủy hoại mình. Điều sau cùng muốn nói thêm là : Vì sao có người đời nay làm thiện, nhưng trái lại toàn gặp điều khổ sở bất hạnh ? Một số người suốt đời làm điều xấu ác, nhưng lại tiêu diêu tự tại, giàu sang trường thọ ?

Trong nhà Phật nói “Thiện có thiện báo, ác có ác báo, nếu không thấy báo, vì thời gian chưa đến”. Câu nói này rất rõ ràng là “nếu như không thấy báo” chỉ là vì “thời gian chưa đến” mà thôi.

Làm thiện mà gặp ác báo, làm ác ngược lại gặp thiện báo, chẳng phải “nhân quả báo ứng” vượt ngoài khuôn phép, sai mất tính chân thật, mà là người hành thiện ấy đời trước đã từng làm những điều xấu, đến đời nay phải chịu những ác quả. Còn việc thiện của họ làm hiện nay ngày sau mới có thể hưởng thiện báo. Người làm ác gặp thiện báo cũng giống như vậy.

Phật giáo lại cho rằng nhân quả báo ứng, có cái đời nay làm đời nay liền báo, nhưng cũng có những cái phải trải qua một đời hoặc bao nhiêu đời mới bị báo ứng. Như vậy là sao ? Xin quý vị hãy xem thí dụ sau :

1- Đời nay làm đời nay báo ứng, cũng như cây cà chua một tháng là có thể thu hoạch được.

2- Đời nay làm trải qua nhiều đời sau mới báo ứng, cũng như cây nho phải trải qua vài năm sau mới có thể thu hoạch được.

Cổ nhân nói : “Thiện ác đều có báo, đạo trời vốn xoay vần, không tinngẩng đầu xem, trời xanh tha thứ ai ?”.

Các bạn học thân mến, chắc các bạn đã biết câu “Lưới pháp lồng lộng, thưa mà không lọt mảy may” rồi chứ ? Hết thảy việc ác dù nhỏ như hạt mè cũng không nên làm, bởi vì một tế bào ung thư dù nhỏ xíu, cũng có thể cướp đi sinh mạng quý báu của bạn, làm cho bạn phải đau khổ tột cùng.

8/ Phật giáo không sùng bái hình tượng

Thường thường chúng ta hay nghe một số người nói Phật giáo là “sùng bái hình tượng”.

Như vậy Phật giáo có sùng bái hình tượng không ? Tôi xin thưa là không.

Như các bạn đã biết, ở trong sách này đã nhiều lần nêu rõ Phật giáo chủ trương “tứ đại giai không”, “sắc tức là không, không tức là sắc”. Nhiều lần thuyết minh vũ trụ vạn sự vạn vật đều là do nhân duyên tạm thời tụ hợp mà thành, không có một thứ bản thể thực tại bất biến. Giống như băng là do nước lạnh đông đặc lại mà thành, nước là hóa hợp của Hydro và Oxy mà thành, mà nguyên tố của Oxy và Hydro lại là do hạt nguyên tử và điện tử v.v… tập hợp mà thành, trong đó có cái nào là thực thể bất biến đâu ?

Nhân đấy Phật giáo chủ trương “phá tướng”. Thế nào gọi là phá tướng ? Phá tướng tức là đả phá quan niệm thiếu sáng suốt cho rằng “sự vật do nhân duyên sinh” là vĩnh tồn bất biến.

Như vậy hình tượng có phải là thứ “tướng” mà Phật giáo muốn phá trừ không ? Tôi xin thưa là phải, bởi vì hình tượng chỉ là do cây, đá, đất bùn trang sức thêm vàng mà thành, cũng là một loại thể giả hợp của nhân duyên, đương nhiên bản thể là không. Hình tượng đã là do “nhân duyên sinh ra”, cho nên Phật giáo không thể thừa nhận nó là vĩnh hằng bất biến. Vì vậy cũng phải phá trừ “tướng” ấy - phá trừ quan niệm hình tượng.

Có bạn đồng học không hiểu hỏi ngược lại tôi : “Hình tượng đã là nhân duyên giả hợp tạm thời, Phật giáo đả phá nó, vì sao trong các tự viện lại thờ rất nhiều tượng Phật ?”

Trả lời vấn đề này có hai mặt, một mặt phải chú ý đến triết lý cao thâm của Phật giáo, mặt khác cũng không nên chê trách tác dụng của Phật giáo dùng phương tiện làm pháp môn, để cứu độ chúng sinh.

1- Về phương diện triết lý : Phật giáo cho rằng “tượng Phật” là do các vật liệu như cây, đá, đất bùn (nhân), do nhân công (duyên) chế tạo mà thành, chia chẻ nó ra thì không còn là tượng nữa, không có chủ thể bất biến, cho nên bản thể là “không”. Lúc nhân công mới chế tạo nếu làm Quan Âm thì thành Quan Âm, làm A Di Đà thì thành A Di Đà. Từ điểm này mà xét, chúng ta gọi đó là “tượng Phật”, hình trạng đó gọi là “giả” (tùy theo sự nhào nặn hình tượng mà gọi). Sự phân tích trên trong Phật giáo trước gọi là “không quán” sau gọi là “giả quán”. Tuy bản thể của tượng Phật là không, hình dáng gọi là giả, nhưng cũng không phải biểu thị Phật giáo phủ định sự tồn tại của tượng Phật. Phật giáo sau khi dạy người “không quán”, “giả quán” muốn chúng ta dùng “trung quán” để nhận thức giá trị và tác dụng của tượng Phật. Vì tượng Phật có thể khiến cho tâm của người ta ngưỡng mộ mà “noi gương học tập”.

2- Về phương diện phương tiện cứu độ chúng sinh : Người đời nếu ai cũng có đủ trí tuệ để hiểu biết câu “tượng Phật chỉ là giúp cho người ta khởi tâm ngưỡng mộ noi theo học tập” thì sẽ không bị chấp trước vào tượng. Bởi vì khi ấy Phật ở trong tâm của mỗi người, thì mỗi một hòn đá, mỗi một gốc cây, thậm chí một áng mây trôi, một thoáng chiều tà, thứ gì mà không tạo thành tượng Phật để suy tư, chiêm bái ?

Thế nhưng, người đời vì không hiểu được ai ai cũng đều là Thánh hiền đại trí. Họ không hiểu được tư tưởng viên dung, vĩ đại ấy của Phật giáo. Họ chưa được xem qua, chưa được biết đến. Họ không chịu tin nên không thể khởi tâm ngưỡng mộ học tập cho được.

Ôi ! Chúng sinh đầy dẫy, có mấy người hiểu được triết lý cao thâm “Bồ đề vốn không cây, gương sáng cũng không đài” đâu.

Nhân đấy, Phật giáo có hay không sùng bái hình tượng, các bạn học thông minh cũng đã hiểu rõ rồi. Phật giáo vì rộng độ chúng sinh, cho nên không chỉ đem Phật pháp cao thâm vĩ đại để khai ngộ cho người thông minh, mà còn đối với chúng sinh thấp kém, cũng phải dùng đạo lý thiển cận, thế tục để bắc cầu dẫn đường cho họ. Nếu không như thế thì Phật giáo không thể gọi là bình đẳng, viên dung và vĩ đại được. Cho nên ý nghĩa của sùng bái tượng Phật là ở chỗ hình tượng tượng trưng cho chân lý, chứ không phải ở nơi bản thân hình tượng.

Thử hỏi trên thế giới này có một quốc gia nào không thiết lập quốc kỳ để khích lệ lòng yêu nước của quốc dân ? Treo chân dung của vị khai quốc công thần, để khêu gợi tình cảm ngưỡng mộ của quốc dân ? Để hết lòng tận trung với lãnh tụ ?

Nếu có người nói hướng về quốc kỳ, chân dung vị nguyên thủ kính lễ là sùng bái hình tượng thì những người này không hiểu đạo lý.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Những điểm nói trên chỉ là sự khác biệt của Phật giáo với tôn giáo khác thôi. Không sai. Nhưng điểm đặc sắc nhất của Phật Giáo theo tôi chỉ có một thôi.

Đó chính là:

Phật giáo chỉ cho con người sự tự giải thoát khỏi chính mình.

Nam mô A Di đà Phật.

Đệ tử Minh Tính - Nguyễn Vũ Tuấn Anh.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Phật giáo quả là tuyệt vời, có rất nhiều điểm đặc sắc. Nhưng có ai chỉ cho tôi thấy điểm hạn chế của Phật giáo?

Share this post


Link to post
Share on other sites

Phật giáo quả là tuyệt vời, có rất nhiều điểm đặc sắc. Nhưng có ai chỉ cho tôi thấy điểm hạn chế của Phật giáo?

Theo tôi thì trong một hoàn cảnh nào đó cái tuyệt đối nhất cũng bị hạn chế. Bởi vậy chúng ta cần xác định tính hạn chế nhìn từ góc độ nào. Tôi nghĩ ngay bây giờ Thượng Đế có hiện ra thì chính Ngài cũng bị hạn chế - dù Ngài hiện ở bất cứ đâu trên thế gian này.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Anh chị em trên diễn đàn thân mến!

Anh Thiên Sứ Viết:

Theo tôi thì trong một hoàn cảnh nào đó cái tuyệt đối nhất cũng bị hạn chế. Bởi vậy chúng ta cần xác định tính hạn chế nhìn từ góc độ nào. Tôi nghĩ ngay bây giờ Thượng Đế có hiện ra thì chính Ngài cũng bị hạn chế - dù Ngài hiện ở bất cứ đâu trên thế gian này.

Để nối tiếp mạch ý tưởng này, tôi xin trình bày những suy nghĩ của tôi cùng ACE tham khảo:

Trong các học thuyết mà con người có thể nghĩ ra được, theo tôi, Đạo Phật là một học thuyết tuyệt vời nhất còn được lưu truyền cho tới ngày nay. Về cái hay của Đạo Phật về bất cứ phương diện nào cũng mênh mông như bể, sâu sắc vô cùng, khó mà hiểu hết chứ đừng nói là có thể phân tích hết ra được.

Nhưng thôi, chúng ta hãy dừng nói về cái hay của Đạo Phật vì đã có không biết bao nhiêu người đã viết về nó mà vẫn chưa hết, ta thử bàn về mặt hạn chế xem sao.

Lần đầu tiên khi truyền bá học thuyết của mình, Phật Tổ đã khẳng định, Đạo của Người là Đạo diệt khổ và đưa ra Tứ Diệu Đế là Khổ đế, Tập đế, Diệt đế, Đạo đế bàn về: Khổ và nguyên nhân của Khổ, cách diệt Khổ và cái đạt được sau đó, y như một lương y bắt mạch chữa bệnh cho nhân loại vậy. Tựu trung trong tất cả các luận điểm của Đạo Phật, cho dù cao siêu đến đâu cũng xoay quanh mục tiêu Diệt Khổ này. Diệt khổ cho nhân loại đầu tiên phải xuất phát từ diệt khổ cho mỗi cá nhân.

Tuy vậy, sau hơn 2500 năm đã qua, dù học thuyết của Phật tổ có hay đến đâu, dù có sự đóng góp của biết bao trí tuệ siêu việt từ nhiều thế hệ phật tử suất sắc nhất, thì đến ngày nay, chúng ta vẫn phải thừa nhận rằng, kết quả của Đạo Phật cũng còn rất hạn chế. Có thể nói, về mặt cá nhân, hàng triệu người thực hành theo con đường của Phật tổ cũng không mấy người được thành tựu cuối cùng, không mấy người diệt được khổ. Về mặt xã hội, bao nhiêu thời đại qua đi cũng không thấy xã hội nào hết được khổ đau dù trong thời gian ngắn. Đấy là tôi chưa nói đến những điểm sáng thành công ngày càng ít ỏi.

Vì vậy, theo tôi, một trong những hạn chế của Đạo Phật là tính hiệu quả không cao trong mục tiêu của nó là diệt khổ. Con người ngày càng tha hóa, xã hội ngày càng nhiễu nhương, cái khổ không giảm đi mà ngày càng khủng khiếp chẳng nhẽ không phải là những ví dụ cho tính thiếu hiệu quả của Đạo Phật đối với quảng đại chúng sinh, ít nhất là về mặt phương pháp thực hành, hay sao?

Vậy, xuất hiện một câu hỏi tự nhiên rằng, liệu có tồn tại một học thuyết Diệt khổ khác hiệu quả hơn, hay ít nhất, một phương pháp diệt khổ khác với phương pháp của Đạo Phật mang lại hiệu quả tốt hơn hay không?

Rõ ràng là chúng ta không thể kết luận chủ quan rằng, không tồn tại một phương pháp như thế. Bạn có thể chất vấn tôi rằng, nếu tồn tại phương pháp diệt khổ hiệu quả hơn thì anh hãy chỉ ra đi!

Tôi không giám cuồng vọng, nhưng cũng cố theo tinh thần Vô trụ, Vô trước của nhà Phật để trình bày suy nghĩ của mình cho anh chị em trên diễn đàn cười cợt như sau:

Trước tiên, tôi sẽ không bàn đến diệt khổ cho xã hội vì sẽ động chạm đến những vấn đề chính trị không thích hợp với qui định của diễn đàn này. Tuy nhiên, không loại trừ trường hợp tôi sẽ xin trình bày với anh chị em quan tâm suy nghĩ của mình về vấn đề này trong một điều kiện khác.

Tôi chỉ xin trình bày diệt khổ về phương diện cá nhân mà thôi.

(còn tiếp)

Share this post


Link to post
Share on other sites

...

Vì vậy, theo tôi, một trong những hạn chế của Đạo Phật là tính hiệu quả không cao trong mục tiêu của nó là diệt khổ. Con người ngày càng tha hóa, xã hội ngày càng nhiễu nhương, cái khổ không giảm đi mà ngày càng khủng khiếp chẳng nhẽ không phải là những ví dụ cho tính thiếu hiệu quả của Đạo Phật đối với quảng đại chúng sinh, ít nhất là về mặt phương pháp thực hành, hay sao?

...

Rubi thấy nhận định này của Vo Truoc có phần "tà kiến".

Cái khổ của thế gian ấy là do chúng sinh Đồng Nghiệp mà thành sự khổ lớn. Nay muốn hết khổ, ấy là Biệt Nghiệp của mỗi người. Rời bỏ Đồng Nghiệp thì chẳng gì hay bằng xuất gia cầu đạo giải thoát, ấy là xuất thế tục gia tìm cách xuất phiền não gia và đi đến phát nguyện xuất tam giới gia.

Nói rằng Phật giáo cao siêu ấy là đếm của báu cho người chẳng phải của báu nơi chính mình, nếu không tự mình thực hành mà nói rằng Phật giáo tuy cao siêu mà không hiệu quả thì đó chính à tà kiến. Cũng có thể có người cho rằng họ đã nhọc công tạo của báu cho chính mình trong Phật Pháp nhưng mãi chẳng thấy kết quả gì biến chuyển lạ thường và đi đến kết luận Phật Pháp kém hiệu quả, cái này thì Phật nói rằng:

Người độn căn tiểu trí

Sám hối nghiệp lâu xưa

Các chướng rứt hết rồi

Cảnh Phật bèn hiển hiện.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Kể ra cách đặt vấn đề của anh Vô Trước rất hay - nếu có thể tóm tắt lại là:

Hiệu quả hàng ngàn năm nay của Phật Giáo mà sao thế nhân chưa bớt khổ?

Còn tôi thì cho rằng ý của Rubi giải thích cũng có phần xác đáng. Có thể tóm tắt lại là:

Do tính cao siêu của Phật Pháp nên thế nhân chưa dễ gì lĩnh ngộ được để tự diệt khổ.

Còn với tôi thì cho rằng:

Trong tương lai, khi con người xác định thuyết Âm Dương Ngũ hành chính là lý thuyết thống nhất vũ trụ thì Phật giáo chính là tôn giáo duy nhất của nhân loại.

Đức Như Lai nói:

Thiên thượng địa hạ. Duy ngã độc tôn

Share this post


Link to post
Share on other sites

Anh Thiên Sứ viết:

Còn tôi thì cho rằng ý của Rubi giải thích cũng có phần xác đáng. Có thể tóm tắt lại là:

Do tính cao siêu của Phật Pháp nên thế nhân chưa dễ gì lĩnh ngộ được để tự diệt khổ.

Dù có lý do gì đi nữa, tôi vẫn cho rằng, một học thuyết vẫn cần tính hiệu quả của nó. Nếu chưa đạt được hiệu quả cao thì dù hay đến đâu, đó cũng vẫn là hạn chế.

Tôi xin trình bày tiếp tục những suy nghĩ của mình về vấn đề này tiếp theo bài viết trước.

Muốn diệt Khổ, trước tiên ta phải biết Khổ là gì. Đây là luận điểm then chốt quyết định sự triển khai tư duy tiếp theo.

Vấn đề này Đạo Phật đã trình bày hết sức tinh tế và sâu sắc trong Khổ đế. Thống nhất với những phân tích đó của Đạo Phật, nhưng dưới một góc nhìn khác, tổng hợp những nhận thức và kinh nghiệm của bản thân mình, tôi xin đưa ra định nghĩa như sau:

“ Khổ là trạng thái cảm nhận của con người nảy sinh khi khả năng không đáp ứng được ý muốn của người đó”.

Trong định nghĩa này, “khả năng” và “ý muốn” cần phải được hiểu theo nghĩa rộng và tinh tế chứ không đơn thuần là vật chất, thô thiển. Thật ra, để hiểu rõ hơn định nghĩa này cần phân tích nhiều trường hợp khác nhau của Khổ, nhưng trong giới hạn phạm vi bài viết, tôi mong ACE tự khảo sát.

Như vậy, khi khả năng nhỏ hơn ý muốn, con người sẽ cả thấy khổ. Ý mốn càng cao, khi khả năng không đáp ứng thì sự khổ não càng lớn. Khi khả năng quá nhỏ so với ý muốn thì ngoài khổ não còn có cảm giác tuyệt vọng xuất hiện. Khi khả năng nhỏ hơn ý muốn không nhiều thì khổ não đi kèm tiếc nuối….

“ Hạnh phúc là trạng thái cảm nhận của con người nảy sinh khi khả năng đáp ứng được ý muốn của người đó”.

Như vậy, khi khả năng lớn hơn ý muốn, con người sẽ cả thấy hạnh phúc. Khi khả năng quá lớn so với ý muốn thì ngoài hạnh phúc còn có cảm giác nhàm chán xuất hiện. Khi khả năng lớn hơn một ý muốn mãnh liệt không nhiều thì hạnh phúc thật là to lớn. …

Tóm lại, tương quan giữa khả năng và ý muốn là nguyên nhân, nguồn gốc của khổ não và hạnh phúc.

Để đơn giản hóa lý luận, ta thử dùng phương pháp diễn đạt toán học mô tả logic trên về cái Khổ như sau:

Giả sử gọi X là đại lượng đặc trưng cho khả năng của một con người, Y là đại lượng đặc trưng cho ý muốn của người đó. Lập hiệu số:

Z = X – Y

Khi Z>= 0, khả năng đáp ứng được ý muốn, trạng thái khổ não không xuất hiện, thay vào đó là trạng thái hạnh phúc. Chất lượng của trạng thái hạnh phúc này phụ thuộc vào độ lớn của Y và Z. Nếu Z quá lớn, kèm với hạnh phúc là sự nhàm chán. Nếu Z không quá lớn thì hạnh phúc sẽ tràn trề khi Y lớn, sẽ nho nhỏ khi Y nhỏ.

Khi Z < 0, khả năng không đáp ứng được ý muốn, trạng thái khổ não xuất hiện. Đặc tính của sự khổ não này phụ thuộc vào giá trị của Z và Y. Nếu Z quá âm, đi kèm khổ não là tuyệt vọng. Nếu Z không quá âm, khổ não sẽ lớn lao cùng tiếc nuối khi Y lớn, sẽ chỉ là khó chịu khi Y nhỏ.

Vì vậy, muốn diệt được Khổ chúng ta chỉ cần làm cho Z >= 0 là đủ.

Vì Z là một hiệu số: Z = X – Y nên, để điều chỉnh Z chúng ta có 2 phương pháp: Điều chỉnh khả năng X và điều chỉnh ý muốn Y để cho Z >= 0.

Trên cơ sở đó, để diệt khổ, trong cuộc sống chúng ta cần:

- Một mặt không ngừng nâng cao năng lực (X) của mình về mọi mặt bằng con đường phấn đấu học hỏi, nghiên cứu, lao động, phấn đấu, tu dưỡng đạo đức, gúp đỡ mọi người, …

- Mặt khác luôn rèn luyện khả năng làm chủ ham muốn (Y) của bản thân, giữ sao cho lòng ham muốn đó không bao giờ vượt quá khả năng cho phép (X) bằng nhiều con đường tu tập, rèn luyện khác nhau, mà theo tôi, hay nhất là con đường mà Đạo Phật đã dày công khai phá.

Nếu chúng ta thực hành được như thế thì cũng coi như chúng ta đã hoàn toàn diệt khổ.

Nói thì đơn giản nhưng thực hành được hai điều đó cũng không hề đơn giản.

Theo Đạo Phật, nguồn gốc sâu xa của Khổ chính là Vô minh (một khái niệm mà muốn hiểu nó cũng hết sức khó khăn đối với những tư duy bình thường) và Đạo Phật đề ra nhiều luận điểm hết sức tinh tế, cao siêu, nhiều phương pháp tu tập hữu ích để quét sạch Vô minh mà suy cho cùng, cái chính là tiêu trừ được ham muốn của bản thân, diệt được bản ngã, Vọng tâm. Nói cách khác là làm cho Y = 0. Khi Y = 0 thì đương nhiên Z = X – Y >= 0 và do đó cái Khổ bị tiêu diệt.

Như vậy, con đường diệt Khổ của Đạo Phật là con đường làm cho Y = 0. Con đường này quá lý tưởng, và do đó, quá khó khăn đối với quảng đại chúng sinh. Đó là lý do dẫn đến tính thiếu hiệu quả của Đạo Phật trong mục tiêu diệt Khổ.

Thực ra, để diệt Khổ không nhất thiết phải làm cho Y = 0 mà chỉ cần sao cho Y <= X là đủ, và đó là con đường mà người viết đề nghị. Rõ ràng con đường này cũng đạt đến mục tiêu Diệt Khổ, tuy không hề đơn giản nhưng mức độ khó khăn đã giảm đi rất nhiều, kết quả là có thể rất nhiều người có khả năng thực hiện được diệt khổ trong chính cuộc đời ngắn ngủi của mình. Do đó, chắc chắn, tính hiệu quả tăng lên rất nhiều trên con đường diệt khổ. Hơn nữa, với góc độ này, chúng ta còn có một ý thức rõ ràng về hạnh phúc (Khi Z >= 0) để mưu cầu nó và khi quan niệm đúng thì đời không chỉ là bể khổ như nhiều Phật tử hay nói mà đời còn là đại dương hạnh phúc.

Để so sánh một cách hình tượng, tôi xin nêu một ví dụ nhỏ:

Một ngày kia có người hỏi bạn: Có bao nhiêu hạt cát trong đống cát bạn vừa xe về chuẩn bị xây nhà. Để trả lời câu hỏi đó bạn có hai phương pháp:

- Phương pháp 1: Bạn ngồi đếm từng hạt cát cho đến khi hết đống cát. Rõ ràng phựơng pháp này chắc chắn thàng công và bạn có thể đưa ra kết quả chính xác nhất về số lượng hạt cát trong đống cát đó.

- Phương pháp 2: Bạn lấy 1cm3 cát và ngồi đếm số hạt cát trong 1cm3 đó. Sau đó bạn tính xem thể tích đống cát đó là bao nhiêu cm3 rồi nhân với số hạt cát bạn vừa đếm được thì ra số hạt cát trong đống cát.

Rõ ràng phương pháp 2 cho kết quả chỉ là gần đúng, không chính xác bằng phương pháp 1 nhưng khả thi hơn. Phương pháp 1 chắc chắn được và cho kết quả chính xác tuyệt đối nhưng không khả thi và chẳng ai làm được.

Nếu Diệt khổ cũng khó khăn như việc xác định số hạt cát trong đống cát thì Đạo Phật đề nghị với bạn phương pháp 1 còn người viết đề nghị với bạn phương pháp 2.

Anh Thiên Sứ viết:

Còn với tôi thì cho rằng:

Trong tương lai, khi con người xác định thuyết Âm Dương Ngũ hành chính là lý thuyết thống nhất vũ trụ thì Phật giáo chính là tôn giáo duy nhất của nhân loại.

Nếu chú ý, hẳn anh cũng nhận thấy phương pháp phân tích trên của em cũng mang nặng phương pháp luận của học thuyết ADNH đấy ạ. Hạnh phúc, diệt khổ là sự cân bằng âm dương hài hòa giữa "khả năng" và "ý muốn".

Xưa nay em vẫn luôn đánh giá rất cao Đạo Phật, nhưng không phải vì thế mà em không chú ý tới mặt hạn chế này. Điều đó cũng rất phù hợp với tinh thần Phật học.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Rubi xin được đối thoại với anh Vo Truoc.

Theo Nho Giáo có nói "người quân tử phải biết đợi thời".

Theo Phật Giáo, có vị nói "người tu hành không nên làm những việc quá sức mình".

Theo anh Vo Truoc thì:

""Giả sử gọi X là đại lượng đặc trưng cho khả năng của một con người, Y là đại lượng đặc trưng cho ý muốn của người đó"..."Thực ra, để diệt Khổ không nhất thiết phải làm cho Y = 0 mà chỉ cần sao cho Y <= X là đủ""

Nhưng mà có một vấn đề, nếu nói rằng Phật Giáo có sự hạn chế thì chúng ta phải xem cách "chúng ta" lý luận cho vấn đề đưa ra có mặt hạn chế nào không. Có thể lấy một câu kệ làm ví dụ, qua ví dụ mà hiểu được vấn đề:

"Nếu lấy tâm luân hồi

Tư duy viên giác Phật

Chỉ quanh quẩn luân hồi

Không thể vào biển giác"

Lý luận bằng Ý Thức có mặt hạn chế nhất định, nếu Ý chưa chuyển thành Trí thì đó chính là Ý Thức làm một việc tư duy vượt qua sức của nó.

Ngoài lề, theo Rubi:

Ý Thức là Thức Đại mà Phật Giáo nói đến.

Ý Thức ứng với hành Thổ mà Nho Giáo nói đến, Tứ Tượng là Kim Mộc Thủy Hỏa ứng với Tinh Thần Hồn Phách. Hành Thổ sinh ra Tứ Tượng thì nghĩa là Ý Thức sinh ra Tinh Thần Hồn Phách.

Nếu bảo rằng Ý Thức đã giác ngộ chân lý thì việc dùng Ý Thức để bảo rằng Phật Giáo có mặt hạn chế, ngay đó là một sai lầm vi tế nghiêm trọng, chưa triệt tiêu được kiến giải về Minh và Vô Minh.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Thân gởi: Anh Vô Trước.

Đức Bổn Sư vì nhìn thấy cảnh khổ của nhân gian nên tâm nguyện tu hành Phật đạo, khi Ngài ngộ đạo thành Phật đúng ra Ngài không thuyết pháp, vậy thì vì sao Ngài lại thuyết pháp? vì Ngài muốn Chúng Sanh hiểu rõ bể khổ mà học tập như Ngài đễ được giác ngộ như Ngài mà thoát khỏi bể khổ? như vậy để thoát khỏi bể khổ thì phải giác ngộ, mà khi giác ngộ được rồi thì đã thành Phật. cho nên để thoát khổ thì phải thành Phật.

Trong câu trên cũng cho thấy rằng "thoát khỏi bể khổ" thì Đức Phật đã khẳng định cõi ta bà này chính là bể khổ, vì thế anh Vô Trước lý luận cái khổ “ Khổ là trạng thái cảm nhận của con người nảy sinh khi khả năng không đáp ứng được ý muốn của người đó” là không được, vì đây là cái khổ của nhân gian, còn cái khổ của Đức Phận nói bao gồm: khổ hiện hữu và sâu hơn là khổ của luân hồi. bởi vì: "Phật dạy rằng: cõi Ta bà chẳng khác gì quán trọ, nhân loại sống trong cõi này đều giả tạm, vô thường, không thật. Tại sao không thật? Vì suốt cả cuộc đời bị sinh, lão, bệnh, tử, tiền tài, danh vọng chi phối, bức bách thật là khổ não. Tất cả đời sống vật chất cho dù làm vua, làm quan, giàu sang đến cỡ nào đi nữa nhưng khi ra đi không mang được gì cả, cho nên mới gọi là không thật. Chúng ta là người hiểu đạo, phải sớm giác ngộ ngay chỗ này, sống có đạo đức để làm lợi ích cho mọi người. Có như vậy, mới không uổng phí đời người".

Đức Phật có dạy để thoát khỏi bể khổ thì phải tu hành và về với Cực Lạc, vì sao? vì Cực Lạc là cõi thuần vui, không có luân hồi. anh Vô Trước cũng nên nhớ, vì muốn tu hành ngộ đạo mà Đức Bổn Sư đã phải vào rừng, nhịn ăn, nhịn uống một lòng tìm đạo. Ngài muốn ngộ đạo để thoát khổ vậy thì Ngài đi tìm và nhận tất cả những cái khổ của nhân gian để làm gì? vì Ngài cho rằng cái đủ của nhân gian chính là cái khổ (Y <= X), vì cõi vô thường là không tồn tại, mọi vật chất đều không vĩnh hằng, đến rồi đi, có rồi mất vậy thử hỏi đến bao giờ thì Y<=X? kiếp này có thể sướng nhưng có chắc rằng kiếp sau sướng?.

Đức Phật, vì hiểu cuộc đời ngắn ngủi, kiếp phù sinh tạm bợ, mong manh nên đã quay mặt với vinh hoa, độc hành vào núi thẳm, rừng sâu tìm chân lý. Bản thân Ngài đã quay mặt với vinh hoa đi tìm lấy cái khổ hạnh để mà ngộ đạo thì Ngài đâu có chỉ con người tham lấy cái vinh hoa đúng không? anh Vô Trước chắc biết câu chuyện "Tái Ông Mất Ngựa" qua đó anh có thể thấy rằng, cái được và cái mất đó đâu hẳng là khổ hay sướng.

Như vậy với đạo Phật không có khái niệm khổ giống như anh nghĩ, vì thế cho nên có nhiều người nói đi chùa cầu tài, danh lợi là không đúng, và dù có đi chùa đề cầu tài lộc, danh lợi thì cũng không có, bởi vì Đức Phật không phân phát cho Chúng Sinh tiền của, vật chất ... Ngài khuyên Chúng Sinh bỏ tham, sân, si, hỉ, nộ ... để tu hành chánh quả, mà không có những cái đó thì sao? không tham thì sẽ thiếu mà thiếu thì khổ? vậy làm sao để không tham mà vẫn sướng? sống trong cái thiếu mà thấy thanh thản, thấy đầy đủ, thấy tự tại, thấy yên vui ... đó là sướng, cho nên mới nói phải bỏ tham, mà muốn bỏ tham thì phải bỏ sân, si ... là vậy.

Đức Phận khuyên nên bố thí, vì bố thí giúp tâm thiện, giúp chúng ta nhìn lại những cái khổ của cỏi Ta Bà ... từ đó mà cố gắng tu hành để mà ngộ đạo. vd: một người chỉ có 1000đ thôi anh ta có thể mua được 1000đ xôi, nhưng thấy một người nghèo hơn mình không có cái ăn, anh ta chia cho người đó 500đ xôi vậy thì về vật chất anh ta bị thiếu, nhưng lòng cảm thấy nhẹ nhàng vui vẽ vì đã giúp được một người đó là sướng rùi :D .

anh Rubi có trích câu rất chí lý: "Nếu lấy tâm luân hồi Tư duy viên giác Phật, Chỉ quanh quẩn luân hồi Không thể vào biển giác"

vothuong không rành về đạo, nhưng đây là những dòng suy nghĩ của bản thân vothuong gởi anh.

Khổ không thể diệt, chúng ta chỉ học tập, rèn luyệt bản thân để "Thoát khổ"

Thân Mến.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Anh chị em trên diễn đàn thân mến!

Khi đưa ra những lưận điểm khác với học thuyết vĩ đại như Đạo Phật về vấn đề diệt khổ - vấn đề mục tiêu mà hàng mấy ngàn năm Đạo Phật chú tâm giải quyết, đã hình thành những quan niệm, cách hiểu như những lối mòn - tôi biết rằng sẽ có nhiều phản đối.

Để tránh hiểu lầm, một lần nữa, tôi xin nhắc lại, đối với tôi, Đạo Phật luôn là học thuyết mà tôi hằng kính ngưỡng, đánh giá cao nhất trong tất cả các học thuyết mà tôi từng được biết. Đức Phật Thích-ca Mâu-ni là người tôi kính phục nhất trong tất cả các vĩ nhân tự cổ chí kim.

Đặc biệt, tôi luôn tâm niệm một lời của Đức Phật, đại ý: “ Các ngươi đừng tin lời ta chỉ vì kính trọng ta mà các ngươi phải kiểm tra lời ta nói cẩn thận như các ngươi kiểm tra vàng thật hay giả. Các ngươi hãy tin lời ta khi sau khi kiểm chứng các ngươi thấy thực sự là đúng”

Người học Phật phải có tinh thần tự do, không nên lệ thuộc vào một kinh sách nào, một giáo lý nào; Phá trừ kiến chấp, mở rộng tâm hồn, trí não nên có thể thông cảm với tất cả mọi giáo lý khác. Người học Phật phải có tinh thần Vô trước, không nên để mình bị ràng buộc, bị dính mắc vào đâu cả, dù là đối với chân lý … Tinh thần đó chính là tinh thần của người Phật tử chân chính khi học hỏi.

Trên tinh thần ấy, không để mình dính mắc vào bất cứ điều gì, kể cả với kinh điển Đạo Phật, tự mình tìm hiểu, tôi nhận thấy rằng:

Đúng như tuyên bố ban đầu của Đức Phật, Đạo Phật trước tiên và cuối cùng là học thuyết diệt khổ. Tất cả những luận điểm chính được Đạo Phật đưa ra như Vô ngã, Vô thường, Luân hồi, Nhân quả, Thập nhị nhân duyên, Nghiệp chung, Nghiệp riêng, Hằng và Chuyển, Duy thức luận, Thực tướng ấn, Bình đẳng quan, Bát chánh Đạo, Niết bàn, cho đến Ngã quỉ, Địa ngục, Ta bà, … đều xoay quanh mục tiêu diệt khổ. Những quan điểm đặc sắc, tinh tế của các lĩnh vực này có thể được khai thác ở nhiều khía cạch, nhưng Đạo Phật đặc biệt chú ý vào những khía cạch có thể hướng chúng sinh vào mục tiêu diệt khổ, còn các khía cạnh khác Đạo phật không bàn hoặc bàn đến rất ít. Còn những học thuyết khác khai thác được những luận điểm đó của Đạo Phật để phục vụ cho mục tiêu của họ thì lại là chuyện khác.

Tuy những luận điểm đó của Đạo Phật rất hay, sâu sắc và tinh tế, nhưng tôi vẫn thấy rằng, nó quá nhấn mạnh đến cái tuyệt đối và do đó có thể chỉ thích hợp với một số ít cá nhân rất suất sắc còn rất khó khăn cho quảng đại chúng sinh. Cái quá ư thâm sâu của Đạo Phật vốn là ưu điểm nhưng ở khía cạnh đối với quảng đại chúng sinh có khi lại là mặt hạn chế. Cái đó gọi là mặt hạn chế của ưu điểm.

Vẫn biết rằng, Đạo Phật cũng tùy đối tượng mà thuyết pháp, nhưng phần giảng cho chúng sinh bình thường thì, theo tôi, không suất sắc lắm và hiệu quả còn hạn chế vì còn hơi nặng vào hướng tới mức cao, hướng tới cái tuyệt đối, khó tiếp thu, chưa phù hợp với hoàn cảnh riêng của mỗi người. Tất nhiên, hướng tới mức cao là tốt nhưng cần phương pháp hiệu quả hơn. Đó là lý do mà sau hơn 2500 năm Đạo Phật ra đời, bất chấp bao cố gắng của nhiều thế hệ Phật tử suất sắc, mà khổ não của chúng sinh ngày càng mênh mông khốc liệt.

Suy nghĩ về biện pháp làm sao diệt khổ hiệu quả hơn nên tôi mới đưa ra lý luận diệt khổ như trên. Thực ra lý luận này không mâu thuẫn với các quan điểm của Đạo Phật, chỉ là một góc nhìn khác, cũng không có gì mới, cổ nhân đã nói tới dưới rất nhiều hình thức. Ở đây tôi chỉ logic hóa lại mà thôi.

Một quan điểm mới đưa ra đương nhiên sẽ gặp nhiều phàn bác, tôi luôn hiểu rõ điều đó. Tôi chỉ đề nghị ACE phản bác trên tinh thần học thuật, có nghĩa là mỗi ý kiến cần có logic chặt chẽ chứ không nên dựa vào quan điểm chủ quan hoặc đơn giản là sách này hay sách kia, người này hay người kia có quan điểm như thế nào, cho dù đó là những bộ kinh sách hay những vĩ nhân.

Về lý luận diệt khổ của tôi thì định nhĩa:

“ Khổ là trạng thái cảm nhận của con người nảy sinh khi khả năng không đáp ứng được ý muốn của người đó”.

Là luận điểm then chốt. Nếu các bạn muốn phản bác thì chỉ cần chỉ ra được dù một ví dụ về cái khổ không thỏa mãn định nghĩa này là đủ, toàn bộ lý luận của tôi sẽ sụp đổ. Tôi chỉ lưu ý rằng, khái niệm “khả năng”. “ý muốn” trong định nghĩa này là phải hiểu theo nghĩa rộng, tinh tế của nó chứ không phải đơn thuần vật chất. Tôi cũng đang chờ đợi những phản bác mang tính học thuật để được mở mang kiến thức, hoàn thiện nhữnh gì mình còn nông cạn.

Rubi và Vô Thường thân mến! rất cảm ơn các bạn đã quan tâm trao đổi học thuật. Chỉ tiếc là với tôi, những trao đổi đó mang nặng tính quan điểm chủ quan mà thiếu logíc học thuật nên tôi không biết phải trả lời bạn thế nào cho phải. Tôi cũng mong những phản bác mang tính học thuật của các bạn.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Về lý luận diệt khổ của tôi thì định nhĩa:

“ Khổ là trạng thái cảm nhận của con người nảy sinh khi khả năng không đáp ứng được ý muốn của người đó”.

Là luận điểm then chốt. Nếu các bạn muốn phản bác thì chỉ cần chỉ ra được dù một ví dụ về cái khổ không thỏa mãn định nghĩa này là đủ, toàn bộ lý luận của tôi sẽ sụp đổ. Tôi chỉ lưu ý rằng, khái niệm “khả năng”. “ý muốn” trong định nghĩa này là phải hiểu theo nghĩa rộng, tinh tế của nó chứ không phải đơn thuần vật chất. Tôi cũng đang chờ đợi những phản bác mang tính học thuật để được mở mang kiến thức, hoàn thiện nhữnh gì mình còn nông cạn.

Đức Phật có dạy, cái khổ nhất của con người là biết được đạo giải thoát nhưng không thực hiện sự giải thoát. Tức là đường sang bến giác đã có thầy soi đuốc, nhưng người trò lại bỏ rơi cơ hội ngàn năm. Hoặc không có thầy chỉ đường nhưng trong tay nắm được bản đồ chỉ đường, người đó lại không thực hiện theo những gì đã nằm trong khả năng của họ thì đó là cái khổ lớn nhất của họ. Cái khổ lớn nhất này hoàn toàn không nằm trong luận điểm then chốt của anh Vo Truoc.

Sự khổ không có sự bắt đầu nhưng tất cả chúng sinh bỗng nhiên khổ, cái khổ cũng chỉ là huyễn hoá. Cho nên Phật dạy:

Các chúng sinh đời sau

Hằng nên viễn ly huyễn

Các huyễn hay viễn ly

Như cọ gỗ lấy lửa

Lửa cháy gỗ tiêu tan

Tro tàn khói bốc hết

Giác, không cần tiệm tiến

Phương tiện cũng chẳng dùng.

Lìa huyễn là một pháp dành cho tất cả các chúng sinh, ai cũng có thể lìa huyễn. Như vậy thì không cần một phương pháp nào để tu từ từ cả, không cần phương tiện nào hết mà vẫn có nhân Giác và quả Giác.

Sự khổ vô biên nhưng vô thỉ vô chung tức là cái khổ nó không có sự bắt đầu cũng không có sự chấm dứt chỉ bỗng nhiên sinh ra. Nếu chấp rằng cái khổ là thật có thì chẳng có một phương pháp nào có thể diệt khổ cả. Chỉ Vô Trước thì lập tức hết khổ, hết khổ là do phá mê, phá chấp chứ không phải là tiêu diệt đi cái khổ.

"Tất cả các chúng sinh

Vô thỉ huyễn vô minh

Như hoa đốm trong không

Từ hư không huyễn có

Hoa đốm dù diệt hết

Hư không vẫn y nhiên"

Cũng như thế

"Huyễn từ giác tâm sanh

Huyễn diệt giác bất động"

Share this post


Link to post
Share on other sites

Rubi Thân mến.

Vô Trước viết:

Tuy những luận điểm đó của Đạo Phật rất hay, sâu sắc và tinh tế, nhưng tôi vẫn thấy rằng, nó quá nhấn mạnh đến cái tuyệt đối và do đó có thể chỉ thích hợp với một số ít cá nhân rất suất sắc còn rất khó khăn cho quảng đại chúng sinh. Cái quá ư thâm sâu của Đạo Phật vốn là ưu điểm nhưng ở khía cạnh đối với quảng đại chúng sinh có khi lại là mặt hạn chế. Cái đó gọi là mặt hạn chế của ưu điểm.

Vẫn biết rằng, Đạo Phật cũng tùy đối tượng mà thuyết pháp, nhưng phần giảng cho chúng sinh bình thường thì, theo tôi, không suất sắc lắm và hiệu quả còn hạn chế vì còn hơi nặng vào hướng tới mức cao, hướng tới cái tuyệt đối, khó tiếp thu, chưa phù hợp với hoàn cảnh riêng của mỗi người. Tất nhiên, hướng tới mức cao là tốt nhưng cần phương pháp hiệu quả hơn. Đó là lý do mà sau hơn 2500 năm Đạo Phật ra đời, bất chấp bao cố gắng của nhiều thế hệ Phật tử suất sắc, mà khổ não của chúng sinh ngày càng mênh mông khốc liệt.

Qua đây, Rubi cũng thấy rằng, cái lý luận của tôi không nhằm tới cái tuyệt đối mà chỉ nhắm vào quảng đại chúng sinh vốn có tư duy không quá sắc sảo, khó lĩnh hội cái tột cùng của Đạo Phật.

Rubi thử đem những lời của mình sau đi nói với 10 người hỏi có mấy người hiểu được:

Sự khổ không có sự bắt đầu nhưng tất cả chúng sinh bỗng nhiên khổ, cái khổ cũng chỉ là huyễn hoá. Cho nên Phật dạy:

Các chúng sinh đời sau

Hằng nên viễn ly huyễn

Các huyễn hay viễn ly

Như cọ gỗ lấy lửa

Lửa cháy gỗ tiêu tan

Tro tàn khói bốc hết

Giác, không cần tiệm tiến

Phương tiện cũng chẳng dùng.

Lìa huyễn là một pháp dành cho tất cả các chúng sinh, ai cũng có thể lìa huyễn. Như vậy thì không cần một phương pháp nào để tu từ từ cả, không cần phương tiện nào hết mà vẫn có nhân Giác và quả Giác.

Sự khổ vô biên nhưng vô thỉ vô chung tức là cái khổ nó không có sự bắt đầu cũng không có sự chấm dứt chỉ bỗng nhiên sinh ra. Nếu chấp rằng cái khổ là thật có thì chẳng có một phương pháp nào có thể diệt khổ cả. Chỉ Vô Trước thì lập tức hết khổ, hết khổ là do phá mê, phá chấp chứ không phải là tiêu diệt đi cái khổ.

"Tất cả các chúng sinh

Vô thỉ huyễn vô minh

Như hoa đốm trong không

Từ hư không huyễn có

Hoa đốm dù diệt hết

Hư không vẫn y nhiên"

Cũng như thế

"Huyễn từ giác tâm sanh

Huyễn diệt giác bất động"

Vị giáo sư kến thức uyên bác khi giảng bài cho học sinh phải tính đến giới hạn của chương trình phù hợp với đối tượng mới có hiệu quả và được coi là vị giáo sư giỏi. Nếu không thì Giáo sư có uyên bác đến đâu cũng chỉ có toàn học sinh không lên lớp được.

Rubi viết:

Đức Phật có dạy, cái khổ nhất của con người là biết được đạo giải thoát nhưng không thực hiện sự giải thoát. Tức là đường sang bến giác đã có thầy soi đuốc, nhưng người trò lại bỏ rơi cơ hội ngàn năm. Hoặc không có thầy chỉ đường nhưng trong tay nắm được bản đồ chỉ đường, người đó lại không thực hiện theo những gì đã nằm trong khả năng của họ thì đó là cái khổ lớn nhất của họ.

Qua câu này ta thấy, con người đó tuy biết được đạo giải thoát nhưng họ không có khả năng nhận thức hay thực hành đạo giải thoát đó. Họ vẫn chìm đắm vào những mong muốn, dục vọng ngày càng cao hơn khả năng của họ. Rõ ràng khả năng (X - năng lực nhận thức, hành động) của họ nhỏ hơn ý muốn (Y- dục vọng, mong muốn hết khổ) làm cho Z < 0 thì họ khổ là lẽ đương nhiên.

Do đó, Rubi viết:

Cái khổ lớn nhất này hoàn toàn không nằm trong luận điểm then chốt của anh Vo Truoc.

là không có cơ sở.

Các ACE thân mến!

Khi tôi đưa vấn đề này lên diễn đàn thì đương nhiên tôi đã khảo sát rất nhiều tính đúng đắn của nó qua những ví dụ khác nhau, trong cuộc sống và trong kinh sách. Tôi chưa từng thấy có ví dụ nào mâu thuẫn với định nghĩa đó. Mong ACE tìm giúp.

Tôi cũng nhắc lại là lý luận của tôi có mục tiêu hướng tới quảng đại chúng sinh trong diệt khổ, chuẩn bị một bước cho họ tiến tới chân lý chứ không nhắm trực tiếp đến chân lý, giải thoát. Tôi cho rằng, nó hiệu quả hơn cách truyền thống của Đạo Phật bấy nay đối với quảng đại chúng sinh trong mục tiêu diệt khổ.

Còn đối với bậc cao thì vạn sự (Khổ, Hạnh phúc, giải thoát, Tham, Sân, Si, ... ) đều không thực có thì làm gì phải Giải thoát hay Diệt khổ.... Những điều tôi viết không nhắm đến các bậc khả kính này vì họ không cần tới.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Vấn đề chung là như thế này, anh Vô Trước ạ.

Anh cho rằng cái khổ là do ý muốn vượt quá khả năng.

Còn Rubi thì biết rằng cái khổ rốt ráo là do không chịu thực hiện những điều nên làm.

Giống như bàn đến vấn đề đói nghèo:

-Có ý kiến cho rằng nghèo là vì không làm được những việc muốn làm.

-Có ý kiến cho rằng nghèo là vì không làm những việc nằm trong khả năng.

Xem ra ý kiến thứ hai hoàn toàn có lý hơn.

Còn vấn đề phương pháp diệt khổ của Phật Giáo thì như thế này, thưa anh Vo Truoc.

Người trí, đã triệt ngộ thì nói không sợ sai. Do đó dù nói thế nào thì họ cũng có cách nói phù hợp với từng đối tượng từng căn cơ. Thật thế, Phật là Bậc Toàn Giác, khi độ người ngu thì Phật chỉ khuyên họ làm bà điều là không tham lam, không nóng giận và không si mê, khi độ kẻ trí thì chắc là anh Vo Truoc cũng có thể tự hiểu. Ví dụ cụ thể cho vấn đề nhiếp hóa kẻ trí người ngu của Phật giáo thì có câu chuyện về anh em Bàn Đặc. Anh có thể tìm trên mạng để hiểu thêm về câu chuyện này, nhưng đại khái như sau:

Hai anh em Bàn Đặc, một kẻ trí một người ngu cùng xuất gia theo Phật. Người anh rất giỏi và học đâu thuộc đấy mau chóng được làm vị Quảng Chúng trong giáo đoàn, còn người em rất ngu độn, học câu trước quên câu sau. Sau nhiều lần khuyên bảo và huấn luyện người em nhưng không tài nào khiến cậu em Bàn Đặc tiến bộ trong việc tiếp thu Lý Luận của Giáo Pháp người anh đã quyết định bắt người em phái rời khỏi giáo đoàn. Rốt cục thì người em cũng phải nghe theo. Nhưng Phật quan sát thấy toàn bộ sự việc và đã đến gặp vị Bàn Đặc ngu dốt kia và chỉ cho Bàn Đặc một phương pháp thực hành. Tức là hàng ngày thì chỉ làm công việc quét dọn và không tham, sân, si. Trong khoảng thời gian thực hành quét bụi, người em Bàn Đặc chỉ một việc không tham sân si đối với hoàn cảnh bên ngoài, cho đến khi đang quét dọn thì nhập định chứng thánh quả.

Như vậy thôi, Rubi không giải thích thêm câu chuyện.

Hoặc dù cho anh Vo Truoc có tìm ra được một công thức diệt khổ nào đi chăng nữa, nhưng nếu người ta không chịu thực hành theo cách của anh thì nghĩa là công thức đó không phù hợp với quảng đại quần chúng.

Chẳng có công thức nào để khiến tất cả mọi người xem và hiểu rồi thực hành để diệt khổ. Chúng sinh vô biên, Phiền não vô tận, Pháp môn vô lượng, Phật Đạo vô thượng thế thì chỉ có công đức tu hành nhiều kiếp với lòng từ bi vô biên mới có thể là sự kiện khiến cho tất cả cùng hướng về chân lý thực hành giải thoát.

Công thức để giải quyết vấn đề khổ đau của chúng sinh là:

Tâm ngộ thật tướng

Duyên khởi tánh không

Tự giác giác tha

Từ bi hỉ xả

Như luận điểm của anh Vo Truoc thì có thê tổng quat Min và Max như thế này:

Người chánh tâm không thành được Phật Đạo thì sẽ khổ

Kẻ tà tâm không thành được Ma Đạo cũng sẽ khổ.

Vậy thì công thức của anh rất tổng hợp.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Qua câu này ta thấy, con người đó tuy biết được đạo giải thoát nhưng họ không có khả năng nhận thức hay thực hành đạo giải thoát đó. Họ vẫn chìm đắm vào những mong muốn, dục vọng ngày càng cao hơn khả năng của họ. Rõ ràng khả năng (X - năng lực nhận thức, hành động) của họ nhỏ hơn ý muốn (Y- dục vọng, mong muốn hết khổ) làm cho Z < 0 thì họ khổ là lẽ đương nhiên.

Thưa anh Vô Trước,

Có một vấn đề cần bàn là Tham Sân Si là khả năng hay là ý muốn. Ví dụ, một người có khả năng sinh lý dồi dào, thì cũng mau chứng được quả vị nếu chuyên tâm tu hành.

Như vậy thì manh nha một điều, ý muốn tương đồng với chánh kiến và/hoặc tà kiến, còn khả năng tương ứng với Tham Sân Si và/hoặc chứng quả vị.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Rubi viết:

Công thức để giải quyết vấn đề khổ đau của chúng sinh là:

Tâm ngộ thật tướng

Duyên khởi tánh không

Tự giác giác tha

Từ bi hỉ xả

Tôi đồng ý. Nhưng theo tôi, chưa tới một phần triệu người thực hiện được công thức này. Hiệu quả như vậy là quá thấp.

Rubi viết:

Như luận điểm của anh Vo Truoc thì có thê tổng quat Min và Max như thế này:

Người chánh tâm không thành được Phật Đạo thì sẽ khổ

Kẻ tà tâm không thành được Ma Đạo cũng sẽ khổ.

Nếu chỉ xét đối với một cá nhân ở một thời điểm thì đúng vậy.

Tôi xin lưu ý một điều là tôi đang bàn đến diệt khổ cho cá nhân. Không bàn đến giải thoát. Cũng không bàn đến diệt khổ cho xã hội. Tôi cũng chỉ nói về hạn chế của Đạo Phật ở khía cạnh hiệu quả cho quảng đại chúng sinh. Những vấn đề còn lại có lẽ sẽ bàn đến vào dịp khác.

Tôi nhấn mạnh mấy ý ấy vì thấy xu hướng hiểu nhầm cho là tôi phủ nhận Đạo Phật, lý luận của tôi là về giải thoát cho mọi chúng sinh. Điều này không đúng làm mất thời gian và tạo cảm giác không thân thiện.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Tôi xin lưu ý một điều là tôi đang bàn đến diệt khổ cho cá nhân. Không bàn đến giải thoát. Cũng không bàn đến diệt khổ cho xã hội. Tôi cũng chỉ nói về hạn chế của Đạo Phật ở khía cạnh hiệu quả cho quảng đại chúng sinh.

Vậy Rubi xin bàn đến trong giới hạn này.

Diệt khổ cá nhân:

Cá nhân thì xét đến chỉ có hai bình diện là Thân và Ý, tất cả số đông cũng chỉ có thể khổ thân và khổ ý.

Ý có 3 cái khổ:

Cầu mà không được thì khổ.

Yêu mà phải xa nhau là khổ.

Ghét mà phải đối diện là khổ.

Thân có 4 cái khổ:

Sinh già bệnh chết là khổ.

Nói về Thân thì không thể trường sinh, nếu mà có đạo lý trường sinh thì lại chẳng hợp với quảng đại chúng sinh. Như vậy dù khổ ít hay nhiều thì Khổ Thân là phải chấp nhận như là định nghiệp.

Nói về Ý thì 'ít muốn biết đủ' thì sẽ diệt được một cái khổ 'muốn mà không được'. Yêu xa nhau là khổ, thế nên chớ vấn vương, người dứt niệm ghét thương, là thoát vòng trói buộc.

Như vậy, xét về Ý thì đạo Phật đã có những phân tích về nhân quả khổ và diệt khổ.

Hoặc là nhìn trên phương diện ngũ dục là năm thứ đảm bảo cho một người cảm thấy hạnh phúc: Tài sản, hình tướng, danh tiếng, ăn uống, ngủ nghỉ. Chẳng lẽ lại bảo vì Đạo Phật không đem đến cho mỗi chung sinh có được ngũ dục mà do đó Đạo Phật có sự hạn chế hiệu quả.

Vậy anh Vo Truoc có thể khái quát các đại lượng X và Y với những sự hạnh phúc và đau khổ ở trên. Nếu chỉ nói chung chung đến Khổ và Vui mà không biết cụ thể nó là gì thì e rằng hai đại lượng X và Y không giải quyết được bài toán tìm ra một cách diệt khổ cho cá nhân và cho số đông áp dụng.

Diệt khổ mà không có con đường sinh tử tự tại thì bao giờ hết khổ cho được. Mà cứ nói là làm sao tìm ra cách hết khổ thì cũng chỉ là hết khổ cho cái thân mấy chục ký này, và hết khổ cho cái tâm thức đang quên mất vai trò thực sự của nó. Dù cho hết khổ thân tâm mà Tánh giác chẳng ngộ thì còn gì là chân lý, thế thì làm gì cần có Đạo Phật để mà nói rằng Đạo có sự hạn chế.

Đạo Phật là đạo Giác Ngộ Giải Thoát, nếu không cần giải thoát thì bàn đến Đạo Phật e rằng chính đó là mặt hạn chế của giả thuyết cho bài toán của anh Vo Truoc.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Rubi viết:

Nội dung trích dẫn(Vo Truoc @ Dec 13 2008, 11:07 AM) Posted ImageTôi xin lưu ý một điều là tôi đang bàn đến diệt khổ cho cá nhân. Không bàn đến giải thoát. Cũng không bàn đến diệt khổ cho xã hội. Tôi cũng chỉ nói về hạn chế của Đạo Phật ở khía cạnh hiệu quả cho quảng đại chúng sinh.

Vậy Rubi xin bàn đến trong giới hạn này.

Diệt khổ cá nhân:

Cá nhân thì xét đến chỉ có hai bình diện là Thân và Ý, tất cả số đông cũng chỉ có thể khổ thân và khổ ý.

Ý có 3 cái khổ:

Cầu mà không được thì khổ.

Yêu mà phải xa nhau là khổ.

Ghét mà phải đối diện là khổ.

Thân có 4 cái khổ:

Sinh già bệnh chết là khổ.

Nói về Thân thì không thể trường sinh, nếu mà có đạo lý trường sinh thì lại chẳng hợp với quảng đại chúng sinh. Như vậy dù khổ ít hay nhiều thì Khổ Thân là phải chấp nhận như là định nghiệp.

Nói về Ý thì 'ít muốn biết đủ' thì sẽ diệt được một cái khổ 'muốn mà không được'. Yêu xa nhau là khổ, thế nên chớ vấn vương, người dứt niệm ghét thương, là thoát vòng trói buộc.

Như vậy, xét về Ý thì đạo Phật đã có những phân tích về nhân quả khổ và diệt khổ.

Hoặc là nhìn trên phương diện ngũ dục là năm thứ đảm bảo cho một người cảm thấy hạnh phúc: Tài sản, hình tướng, danh tiếng, ăn uống, ngủ nghỉ. Chẳng lẽ lại bảo vì Đạo Phật không đem đến cho mỗi chung sinh có được ngũ dục mà do đó Đạo Phật có sự hạn chế hiệu quả.

Vậy anh Vo Truoc có thể khái quát các đại lượng X và Y với những sự hạnh phúc và đau khổ ở trên. Nếu chỉ nói chung chung đến Khổ và Vui mà không biết cụ thể nó là gì thì e rằng hai đại lượng X và Y không giải quyết được bài toán tìm ra một cách diệt khổ cho cá nhân và cho số đông áp dụng.

Cầu mà không được thì khổ.

Yêu mà phải xa nhau là khổ.

Ghét mà phải đối diện là khổ.

Ba cái khổ não này rõ ràng là cái khổ do ý muốn (Y - cầu mong, muốn gần, muốn không gặp) không được khả năng thực hiện (X - đạt được, gần nhau, xa nhau) đáp ứng, tức là Y < X hay Z < 0, phù hợp với định nghĩa của tôi. Nếu muốn tránh 3 cái khổ này thì chỉ cần: Hoặc nâng cao khả năng (thực hiện được mình cầu, có thể gần nhau, có thể xa nhau) hoặc từ bỏ, điều chỉnh ý muốn ( giảm cầu cho phù hớp với điều kiện, không mong gần nữa, không sợ gần nữa) là đủ. Không nhất thiết thực hiện con đường quá chông gai theo Đạo Phật là không có nhu cầu nữa, không yêu nữa, không ghét nữa.

Sinh, bệnh, già mà chết là khổ do người đời có mong muốn trường sinh, bất lão, không bệnh. Mong muốn đó quá lớn so với năng lực của họ vì họ vẫn phải già bệnh và chết (Z < ). Muốn dệt nỗi khổ này, người ta cần đều chỉnh ý muốn: Không sợ chết nữa, coi chết như về, coi đó như là qui luật tất yếu, bình thường của chúng sinh, hoàn thành mỹ mãn những trách nhiệm trong cuộc sống, coi cái chết như là bắt đầu một giai đoạn mới có thể có rất nhiều thú vị ...; Giũ dìn sức khỏe, sống thật dưỡng sinh, học hành y thuật, coi bệnh là điều tất yếu, bình thường, thấy rằng còn nhiều người khác bệnh hơn, ...; Vui thú tuổi già, giữ dìn sức khỏe, nuôi dạy con cái nên người, ...; Không nhất thiết phải theo con đường quá khó khăn của Đạo Phật là đạt được Giải thoát.

Vể ngũ dục, muốn khỏi khổ chỉ cần điều chỉnh cái dục ấy cho phù hợp với điều kiện, khả năng hiện tại là đủ. Ví dụ như về tài sản. Một mặt nâng cao năng lực, trình độ làm kinh tế một cách chân chính, mặt khác đièu chỉnh tham vọng, mục tiêu cho phù hợp với năng lực ấy, ... là khỏi khổ. Không nhất thiết phải từ bỏ gia tài vào núi tu hành.

Nói chung, mọi nỗi khổ khác đều có thể phân tích tương tự, là tương quan giữa khả năng và ý muốn làm cho Z < 0 mà thôi.

Chẳng bao giờ tôi nói. vì Đạo Phật không đem đến cho mỗi chung sinh có được ngũ dục mà do đó Đạo Phật có sự hạn chế hiệu quả. Tôi chỉ đề nghị một phương pháp khác hiệu quả hơn, dễ thực hiện hơn đối với quảng đại chúng sinh để diệt khổ (hay thoát khổ) mà thôi. Phương pháp này cũng chẳng dễ thực hiện đâu, nó chỉ dễ hơn thôi.

Rubi viết:

Đạo Phật là đạo Giác Ngộ Giải Thoát, nếu không cần giải thoát thì bàn đến Đạo Phật e rằng chính đó là mặt hạn chế của giả thuyết cho bài toán của anh Vo Truoc.

Có thể Đạo Phật chú trọng nhiều hơn vào giải thoát nên có hạn chế về phương pháp diệt khổ. Còn tôi đã nói trước, lý luận của tôi không bàn giải thoát, chỉ bàn diệt khổ và diệt khổ hiệu quả hơn. Như vậy, mặt hạn chế này (diệt khổ) là mặt hạn chế của Đạo Phật chứ không phải của lý luận của tôi. Còn mặt hạn chế của lý luận của tôi là không bàn giải thoát (bởi vì đó không phải là mục tiêu của nó)

Đạo Phật là Đạo giải thoát. Đồng ý, nhưng tôi không bàn về khía cạnh giải thoát. Không nên lẫn lộn chỗ này. Tôi chỉ bàn đến diệt khổ mà thôi.

Đạo Phật là Đạo giải thoát bởi vì còn khổ. Nếu hết khổ cần gì giải thoát? Nếu không có cách nào khác thì muốn khỏi khổ cần theo con đường giải thoát tuy nó rất khó khăn. Nhưng nếu diệt được khổ bằng phương pháp khác tuy cũng khó nhưng dễ hơn nhiều thì hà cớ gì mà cần giải thoát?

Share this post


Link to post
Share on other sites

Có thể Đạo Phật chú trọng nhiều hơn vào giải thoát nên có hạn chế về phương pháp diệt khổ. Còn tôi đã nói trước, lý luận của tôi không bàn giải thoát, chỉ bàn diệt khổ và diệt khổ hiệu quả hơn. Như vậy, mặt hạn chế này (diệt khổ) là mặt hạn chế của Đạo Phật chứ không phải của lý luận của tôi. Còn mặt hạn chế của lý luận của tôi là không bàn giải thoát (bởi vì đó không phải là mục tiêu của nó)

Đạo Phật là Đạo giải thoát. Đồng ý, nhưng tôi không bàn về khía cạnh giải thoát. Không nên lẫn lộn chỗ này. Tôi chỉ bàn đến diệt khổ mà thôi.

Đạo Phật là Đạo giải thoát bởi vì còn khổ. Nếu hết khổ cần gì giải thoát? Nếu không có cách nào khác thì muốn khỏi khổ cần theo con đường giải thoát tuy nó rất khó khăn. Nhưng nếu diệt được khổ bằng phương pháp khá

c tuy cũng khó nhưng dễ hơn nhiều thì hà cớ gì mà cần giải thoát?

Bàn đến Đạo Phật mà không nói giải thoát ấy là một sai lầm căn bản. Lại nói rằng chỉ cần hết khổ không cần giải thoát điều này tất nhiên là có sự khác nhau rõ ràng giữa giải thoát và hết khổ.

Vạn vật thì sinh trụ dị diệt, con người thì sinh già bệnh chết, vũ trụ thì thành trụ hoại không cho nên nếu không cầu giải thoát thì sẽ mãi chịu khổ.

Do đó nói rằng "nếu hết khổ thì cần gì giải thoát ?" là một định hướng sai lầm. Bởi vì đó vẫn là mục tiêu phục vụ cho cái Ta, cái Ngã trái với tinh thần Phật Giáo là Phá Ngã, Phá Chấp. Và lại xét về nguyên lý, do Ý quên Tâm cho nên mới sinh ra thế giới và chúng sinh. Ý quên Tâm thì đó chính là nhận lầm có cái Ta, mà đã lầm thì tự nhiên bị nghiệp chuyển. Trong khi bị nghiệp chuyển, vậy thì thử hỏi rằng con người có thể không cần giác ngộ mà vẫn làm chủ được mọi thứ để không bị khổ.

Thật sự thì vẫn có một thế giới rất ít khổ đau nhưng không có ai giác ngộ cả. Nhưng có lẽ để xây dựng một thế giới như thế sẽ tốn thời gian và công lực gấp nhiều lần so với việc thực hiện giác ngộ giải thoát. Liệu con người có thể thực hiện được điều này khi mà thế giới chúng sinh vẫn bị Thiên Ma cái quản. Khi không còn ai cầu giải thoát nữa thì tức là Kinh Lăng Nghiêm và Chú Lăng Nghiêm sẽ bị Thiên Ma tiêu diệt. Theo Phật Giáo, hiện nay do vẫn còn người trì tụng kinh Lăng Nghiêm và thực hiện Thiền Đinh giải thoát cho nên mới chấn giữ được Thiên Ma ở 5 phương Đông Tây Nam Bắc và Trung Ương. Khi không còn ai thực hiện trí trù và Thiền Định nữa thì đó cũng là lúc Thiên Ma giải thoát khỏi sự trấn giữ ấy. Liệu lúc đó, con người có chấp nhận được một sự kiện như vậy để mà thực hiện mục tiếu không khổ như ý tưởng của anh Vo Truoc.

Ví dụ cụ thể về một đoạn kinh sau:

"Có một thời, khi đức Thích Tôn khai diễn Đại hội trên đỉnh Kên Kên, để khẳng định những giá trị phổ quát của các chúng sinh trong thế giới Sahà vốn đang bị đè nặng dưới muôn vàn thống khổ này; bấy giờ có vô số Thượng khách từ nhiều phương trong vô tận thế giới về tham dự. Nhìn thấy thế giới Sahà này quả thực vô cùng xấu xa, ô trược và uế tạp, với những dấu hiệu của bịnh tật, nghèo đói, chiến tranh và áp bức; một thế giới bị bao trùm trong bóng tối, bị cách ly hoàn toàn với phần còn lại của Đại dương Vũ trụ bao la; họ bị chấn động cho đến tận cùng bản thể tồn tại. Toàn thể Thượng khách ấy đồng loạt đứng dậy trước đức Thích Tôn, phát nguyện sẽ ở lại trong Cõi Trần đau khổ này, để trợ giáo đức Thích Tôn kiến thiết một Thế giới thanh tịnh vi diệu, như là Thế giới Quê hương của các Ngài.

Thế nhưng, không phải thế. Sahà không phải chỉ là thế giới của những chúng sinh bé nhỏ, thấp kém, như được nhìn từ ngoại hiện, từ góc độ quyền năng hung bạo của Thiên ma Ba tuần đang liên tục quậy hư không thành dông bão, góp mây trời làm lũ lụt. Bên dưới muôn triệu lớp sóng gào thét kinh hoàng của đại dương nước mắt ấy, là một cõi trầm mặc, tưởng chừng như sa mạc hoang vu. Nhưng trong cõi tịch mịch hoang vu ấy, sự sống vẫn không ngừng triển nở. Cho đến một lúc nào đó, khi âm thanh sư tử hống của Đấng Đại hùng cất lên, thì từ trong lòng đất vọt lên, xuất hiện những người con của Đất Mẹ, từ lâu vẫn im lặng. Thân hình của họ ngời sáng bởi ánh sáng của hùng lực và trí tuệ. Ánh sáng từ họ sẽ rọi sáng Thế giới Sahà, sáng cho đến vô tận Thế giới."

Share this post


Link to post
Share on other sites

Thử hỏi, cái gì đã làm này sinh tâm nguyện của Đức Thích Ca Mâu Ni từ bỏ mọi vinh hoa phú quí khi ngài đang là Thái tử kế vị để bước vào con đường tu hành? Theo chính kinh sách, là do Ngài thương xót khi nhìn thấy nỗi khổ mênh mông của chúng sinh ngày càng trầm trọng.

Đến khi đắc đạo, cũng chính vì thương xót chúng sinh vẫn ngập chìm trong bể Khổ mà Ngài phát tâm hoành dương Phật Pháp phổ độ chúng sinh. Tuyên bố đầu tiên về học thuyết của mình, Ngài khẳng định rằng đây là Đạo Diệt khổ. Bài thuyết pháp đầu tiên của Ngài với chúng sinh là Tứ Diệu Đế bàn về Khổ, nguyên nhân và cách diệt Khổ.

Sau này, các pháp môn Ngài truyền dạy rất phong phú và thâm sâu vô cùng, nhưng chỉ những yếu tố nào phục vụ cho diệt khổ mới được Ngài giảng giải kỹ lưỡng nhất, những yếu tố khác, không thiết thực lắm cho diệt khổ Ngài đều gác lại hoặc chỉ nói qua. Xét cho cùng, những pháp môn đó được Ngài giảng dạy chỉ nhắm tới mục tiêu diệt khổ, do đó, cũng chỉ là những biện pháp diệt khổ mà thôi.

Vì thế, mục tiêu ban đầu và cuối cùng của Đạo Phật là Diệt khổ.

Khi Khổ đã bị diệt triệt để thì đạt được Giải thoát. Nói cách khác, giải thoát chính là kết quả của diệt khổ. Nếu không còn khổ thì có nghĩa là đã Giải thoát. Chính vì thế, tôi viết rằng, khi đã diệt hết khổ rồi thì cần gì giải thoát vì, giải thoát đã có rồi không cần cầu giải thoát nữa. Đó chằng phài sai lầm mà chính là chân lý. Đó chẳng phải không hiểu Đạo Phật mà là hiểu Đạo Phật một cách sâu sắc.

Vì vậy, khi bàn đến diệt khổ cũng chính là bàn đến con đường giải thoát.

Sau hơn 2500 năm ra đời, bằng quá nửa thời gian của văn minh nhân loại, với biết bao đóng góp của các trí tuệ siêu việt nhất của nhiều thế hệ đông đảo Phật tử nối tiếp nhau, cái Khổ trên thế gian này chẳng hề vơi đi, mà ai cũng thấy là ngày càng phổ biến, trầm trọng mà thậm chí còn tiến tới nguy cơ hủy diệt toàn nhân loại. Thế mà vẫn khư khư ôm lấy kinh sách, giáo điều, không thừa nhận mặt hạn chế về thiếu hiệu quả của phương pháp diệt khổ thì thật là mê muội, bảo thủ, chẳng đúng tinh thần của chính Đạo Phật. Thế mà nay, có người nhận thấy mặt hạn chế đó, chẳng quản sức mình có hạn, cố gắng suy nghĩ, tìm ra một phương pháp diệt khổ khác hiệu quả hơn, ngõ hầu chung tay cùng Đạo Phật diệt hết khổ cho nhân loại thì lại câu chấp vào giáo lý, câu từ, kinh sách, chẳng xem xét đúng sai thực chất, ra sức bắt bẻ, bài bác…. thì thật là cái mê muội, bảo thủ đã đến cùng cực rồi vậy!

Share this post


Link to post
Share on other sites

Thử hỏi, cái gì đã làm này sinh tâm nguyện của Đức Thích Ca Mâu Ni từ bỏ mọi vinh hoa phú quí khi ngài đang là Thái tử kế vị để bước vào con đường tu hành? Theo chính kinh sách, là do Ngài thương xót khi nhìn thấy nỗi khổ mênh mông của chúng sinh ngày càng trầm trọng.

Đến khi đắc đạo, cũng chính vì thương xót chúng sinh vẫn ngập chìm trong bể Khổ mà Ngài phát tâm hoành dương Phật Pháp phổ độ chúng sinh. Tuyên bố đầu tiên về học thuyết của mình, Ngài khẳng định rằng đây là Đạo Diệt khổ. Bài thuyết pháp đầu tiên của Ngài với chúng sinh là Tứ Diệu Đế bàn về Khổ, nguyên nhân và cách diệt Khổ.

Sau này, các pháp môn Ngài truyền dạy rất phong phú và thâm sâu vô cùng, nhưng chỉ những yếu tố nào phục vụ cho diệt khổ mới được Ngài giảng giải kỹ lưỡng nhất, những yếu tố khác, không thiết thực lắm cho diệt khổ Ngài đều gác lại hoặc chỉ nói qua. Xét cho cùng, những pháp môn đó được Ngài giảng dạy chỉ nhắm tới mục tiêu diệt khổ, do đó, cũng chỉ là những biện pháp diệt khổ mà thôi.

Vì thế, mục tiêu ban đầu và cuối cùng của Đạo Phật là Diệt khổ.

Khi Khổ đã bị diệt triệt để thì đạt được Giải thoát. Nói cách khác, giải thoát chính là kết quả của diệt khổ. Nếu không còn khổ thì có nghĩa là đã Giải thoát. Chính vì thế, tôi viết rằng, khi đã diệt hết khổ rồi thì cần gì giải thoát vì, giải thoát đã có rồi không cần cầu giải thoát nữa. Đó chằng phài sai lầm mà chính là chân lý. Đó chẳng phải không hiểu Đạo Phật mà là hiểu Đạo Phật một cách sâu sắc.

Vì vậy, khi bàn đến diệt khổ cũng chính là bàn đến con đường giải thoát.

Sau hơn 2500 năm ra đời, bằng quá nửa thời gian của văn minh nhân loại, với biết bao đóng góp của các trí tuệ siêu việt nhất của nhiều thế hệ đông đảo Phật tử nối tiếp nhau, cái Khổ trên thế gian này chẳng hề vơi đi, mà ai cũng thấy là ngày càng phổ biến, trầm trọng mà thậm chí còn tiến tới nguy cơ hủy diệt toàn nhân loại. Thế mà vẫn khư khư ôm lấy kinh sách, giáo điều, không thừa nhận mặt hạn chế về thiếu hiệu quả của phương pháp diệt khổ thì thật là mê muội, bảo thủ, chẳng đúng tinh thần của chính Đạo Phật. Thế mà nay, có người nhận thấy mặt hạn chế đó, chẳng quản sức mình có hạn, cố gắng suy nghĩ, tìm ra một phương pháp diệt khổ khác hiệu quả hơn, ngõ hầu chung tay cùng Đạo Phật diệt hết khổ cho nhân loại thì lại câu chấp vào giáo lý, câu từ, kinh sách, chẳng xem xét đúng sai thực chất, ra sức bắt bẻ, bài bác…. thì thật là cái mê muội, bảo thủ đã đến cùng cực rồi vậy!

Vậy thì có thể nói một cách thế này, Rubi sẽ không gọi là bắt bẻ anh Vo Truoc về khác nhau hay không hai giữa giác ngộ giải thoát và diệt khổ. Thống nhất ở một điểm giác ngộ giải thoát và diệt khổ là không hai. Trong trường hợp nếu diệt khổ mà không có sự giải thoát thì đó là một sự lệch đường chân lý, Rubi sẽ phản biện phản đối bằng khẳ năng và kiến thức theo sức của Rubi.

Ngoài ra có một vấn đề xuất hiện là việc anh Vo Truoc cho rằng có hiện tượng chấp vào Kinh Sách, Giáo Điều. Đây là một nhận định nếu không khéo sẽ có những sai lầm nghiêm trọng.

Kinh và Sử của Phật Giáo càng ngày càng có vai trò không thể thiếu, ngoài nội dung mở bày chân lý nó còn có tác dụng khẳng định đâu là Phật Giáo, đâu là ngoại đạo. Nếu lìa Kinh Sách thì khi tu chứng, sẽ không biết mình đang chứng đến đâu và trong khi tu chứng cần phải thấy rõ tiếp theo như thế nào là lệch đường như thế nào là đúng đường. Không những thế, Kinh và Sử còn có vai trò thay thế Y(áo Cà Sa) và Bát để làm điểm nương tựa của niềm tin. Dù là Phật Tử tại gia hay là Cao Tăng, muốn tu học và hoằng dương Phật Pháp thì đều phải dựa vào Kinh và Sử làm căn cứ. Thiền Tông tuy truyền ngoài giáo lý nhưng giáo lý và Thiền Tông vẫn đồng một yếu chỉ có tác dụng bổ trợ cho nhau trong mỗi thời kỳ Tượng Pháp và Mạt Pháp.

Có nhiều trường hợp các hành giả tu chứng mắc phải lỗi Tăng Thượng Mạn, tức là chưa chứng mà tự cho là đã chứng, chưa đắc mà tự cho là đã đắc và dẫn đến sinh ra tà kiến bài bác Kinh Điển chỗ này sai chỗ kia sai và tự mình đặt ra một con đường riêng dẫn dắt tín đồ cùng tu hành rồi nói và làm những điều mà ngày càng sai lạc với chính pháp.

Một chân sư, nhìn chung khi giáo hóa chúng sinh không có vị nào lìa xa kinh điển, ngay cả các vị Tổ Sư Thiền cũng vậy. Nếu mà giờ đây, buông lời dù chỉ một câu nói có ý lìa xa kinh điển để giống như là giải thoát tri kiến thì chắc chắn về sau ngẫm lại thấy mình đã có ý sai lầm. Nếu không nhìn thấy trước việc này bằng sự dứt khoát thì tâm bình thương đây cũng là tâm ma.

Trở lại vấn đề mà anh Vo Truoc đã có ý sáng kiến để đơn giản cách thực hành diệt khổ, nếu anh đã có ý tạo thành chủ đề thảo luận thì Rubi cũng mong rằng anh vẫn có thể tiếp tục vấn đề.

Share this post


Link to post
Share on other sites

...

Sau hơn 2500 năm ra đời, bằng quá nửa thời gian của văn minh nhân loại, với biết bao đóng góp của các trí tuệ siêu việt nhất của nhiều thế hệ đông đảo Phật tử nối tiếp nhau, cái Khổ trên thế gian này chẳng hề vơi đi, mà ai cũng thấy là ngày càng phổ biến, trầm trọng mà thậm chí còn tiến tới nguy cơ hủy diệt toàn nhân loại. Thế mà vẫn khư khư ôm lấy kinh sách, giáo điều, không thừa nhận mặt hạn chế về thiếu hiệu quả của phương pháp diệt khổ thì thật là mê muội, bảo thủ, chẳng đúng tinh thần của chính Đạo Phật. Thế mà nay, có người nhận thấy mặt hạn chế đó, chẳng quản sức mình có hạn, cố gắng suy nghĩ, tìm ra một phương pháp diệt khổ khác hiệu quả hơn, ngõ hầu chung tay cùng Đạo Phật diệt hết khổ cho nhân loại thì lại câu chấp vào giáo lý, câu từ, kinh sách, chẳng xem xét đúng sai thực chất, ra sức bắt bẻ, bài bác…. thì thật là cái mê muội, bảo thủ đã đến cùng cực rồi vậy!

Ý kiến của anh Vo Truoc như trên có thể song song với ý kiến sau để có được một sự khách quan, Rubi chỉ trích dẫn chứ không bình luận thêm vào.

...Ông Einstein đã phát biểu về Đạo Phật như sau : "Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo toàn cầu, vượt lên trên mọi thần linh, giáo điều và thần học. Tôn giáo ấy phải bao quát cả phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên, đặt trên căn bản của ý thức đạo lý, phát xuất từ kinh nghiệm tổng thể gồm mọi lĩnh vực trên trong cái nhất thể đầy đủ ý nghĩa. Phật giáo sẽ đáp ứng được các điều kiện đó" (The religion of the future will be a cosmic religion. It would transcend a person God and avoid dogmas and theology. Covering both the natural and the spiritual, it should be based on a religious sence, arising from the experience of all things, natural and spiritual, as a meaningful unity. Buddhism answers this description). Đồng thời, một lần khác ông cũng khẳng định rằng: "Nếu có một tôn giáo nào đương đầu với các nhu cầu của khoa học hiện đại thì đó là Phật giáo. Phật giáo không cần xét lại quan điểm của mình để cập nhật hóa với những khám phá mới của khoa học. Phật giáo không cần phải từ bỏ quan điểm của mình để xu hướng theo khoa học, vì Phật giáo bao hàm cả khoa học cũng như vượt qua khoa học" (If there is any religion that would cope with modern scientific needs, it would be Buddhism. Buddhism requires no revision to keep it up to date with recent scientific finding. Buddhism need no surrender its view to science, because it embrances science as well as goes beyond science). (Cả hai câu trên được trích từ Collected famous quotes from Albert Einstein. http://rescomp,stanford,edu/~ cheshire/ Einstein quotes.htm).

Share this post


Link to post
Share on other sites

Rất hay, Rubi, nhưng tôi thấy sắp xếp như thế này hợp lý hơn, vì tôi sinh sau Einstein mà!

Nội dung trích dẫn(Albert Einstein)

...Ông Einstein đã phát biểu về Đạo Phật như sau : "Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo toàn cầu, vượt lên trên mọi thần linh, giáo điều và thần học. Tôn giáo ấy phải bao quát cả phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên, đặt trên căn bản của ý thức đạo lý, phát xuất từ kinh nghiệm tổng thể gồm mọi lĩnh vực trên trong cái nhất thể đầy đủ ý nghĩa. Phật giáo sẽ đáp ứng được các điều kiện đó" (The religion of the future will be a cosmic religion. It would transcend a person God and avoid dogmas and theology. Covering both the natural and the spiritual, it should be based on a religious sence, arising from the experience of all things, natural and spiritual, as a meaningful unity. Buddhism answers this description). Đồng thời, một lần khác ông cũng khẳng định rằng: "Nếu có một tôn giáo nào đương đầu với các nhu cầu của khoa học hiện đại thì đó là Phật giáo. Phật giáo không cần xét lại quan điểm của mình để cập nhật hóa với những khám phá mới của khoa học. Phật giáo không cần phải từ bỏ quan điểm của mình để xu hướng theo khoa học, vì Phật giáo bao hàm cả khoa học cũng như vượt qua khoa học" (If there is any religion that would cope with modern scientific needs, it would be Buddhism. Buddhism requires no revision to keep it up to date with recent scientific finding. Buddhism need no surrender its view to science, because it embrances science as well as goes beyond science). (Cả hai câu trên được trích từ Collected famous quotes from Albert Einstein. http://rescomp,stanford,edu/~ cheshire/ Einstein quotes.htm).

Còn đây là ý kiến của Vô Trước:

Nội dung trích dẫn(Vo Truoc @ Dec 15 2008, 07:33 AM) Posted Image

...

Sau hơn 2500 năm ra đời, bằng quá nửa thời gian của văn minh nhân loại, với biết bao đóng góp của các trí tuệ siêu việt nhất của nhiều thế hệ đông đảo Phật tử nối tiếp nhau, cái Khổ trên thế gian này chẳng hề vơi đi, mà ai cũng thấy là ngày càng phổ biến, trầm trọng mà thậm chí còn tiến tới nguy cơ hủy diệt toàn nhân loại. Thế mà vẫn khư khư ôm lấy kinh sách, giáo điều, không thừa nhận mặt hạn chế về thiếu hiệu quả của phương pháp diệt khổ thì thật là mê muội, bảo thủ, chẳng đúng tinh thần của chính Đạo Phật. Thế mà nay, có người nhận thấy mặt hạn chế đó, chẳng quản sức mình có hạn, cố gắng suy nghĩ, tìm ra một phương pháp diệt khổ khác hiệu quả hơn, ngõ hầu chung tay cùng Đạo Phật diệt hết khổ cho nhân loại thì lại câu chấp vào giáo lý, câu từ, kinh sách, chẳng xem xét đúng sai thực chất, ra sức bắt bẻ, bài bác…. thì thật là cái mê muội, bảo thủ đã đến cùng cực rồi vậy!

Share this post


Link to post
Share on other sites

Sau hơn 2500 năm ra đời, bằng quá nửa thời gian của văn minh nhân loại, với biết bao đóng góp của các trí tuệ siêu việt nhất của nhiều thế hệ đông đảo Phật tử nối tiếp nhau, cái Khổ trên thế gian này chẳng hề vơi đi, mà ai cũng thấy là ngày càng phổ biến, trầm trọng mà thậm chí còn tiến tới nguy cơ hủy diệt toàn nhân loại. Thế mà vẫn khư khư ôm lấy kinh sách, giáo điều, không thừa nhận mặt hạn chế về thiếu hiệu quả của phương pháp diệt khổ thì thật là mê muội, bảo thủ, chẳng đúng tinh thần của chính Đạo Phật. Thế mà nay, có người nhận thấy mặt hạn chế đó, chẳng quản sức mình có hạn, cố gắng suy nghĩ, tìm ra một phương pháp diệt khổ khác hiệu quả hơn, ngõ hầu chung tay cùng Đạo Phật diệt hết khổ cho nhân loại thì lại câu chấp vào giáo lý, câu từ, kinh sách, chẳng xem xét đúng sai thực chất, ra sức bắt bẻ, bài bác…. thì thật là cái mê muội, bảo thủ đã đến cùng cực rồi vậy!

Trường hợp của anh Vo Truoc không phải là xuất gia tu chứng nhưng cũng có học vị và tuổi tác, tuy thế anh có thể mắc phải hai điều sai lầm.

-Một là chê bai kinh sách hay chê những người lấy kinh sách làm bản đồ Phật Pháp.

-Hai là có câu "Đức chúng như hải", tức là cái đức của số đông lớn như biển. Môi trường Phật Tử xuất gia và cả tại gia tu hành đúng chánh pháp là một môi trường có thể nói rằng họ là những người có căn lành sâu dày. Nếu mà phủ nhận hình thức tu hành của họ thì e rằng giống như là 'mở miệng mắng Phật, chuốc lấy tai ương.

Thứ nữa, hiện tại thế gian cũng có rất nhiều người thuộc mọi tầng lớp trong đó có nhiều các vị có học vị đang bị các giáo chủ ngoại đạo dẫn dắt vào con đường thực hành được coi là tà giáo có ý chống đối Phật Giáo. Trước thì có Thanh Hải, rồi gần đây thì có Lý Hồng Chí, cả hai vị này đều có chỗ tu chứng cảnh giới rồi tự xưng đắc, buông lời chỉ dạy mọi người thu thập tín chúng đông đến hàng trăm triệu người trên thế giới. Vấn đề là các vị đó đều lấy uy tín của Phật Giáo để thâu tín đồ nhưng lại một mặt bài bác Phật Giáo, chê bai kinh sách và thiền tông, mạnh miệng bạo gan nói rằng thời này chẳng có ai có thể làm được những điều mà các bậc cao tăng ngày trước làm được, và thay vào đó các vị giáo chủ mới này lại đề ra một lối thực hành không rõ xuất xứ nhưng tự xưng đó là Phật Pháp nằm ngoài Kinh điển và Thiền Tông, cũng là Trực chỉ nhân tâm, nhưng lại bài bác thiền tông, cũng là Phật Pháp nhưng bài bác kinh điển, cũng là tu hành nhưng quái đản đến độ kẻ Thế Tục làm thầy người Xuất Gia. Có nhiều người xuất gia, kiến giải không vững vàng đã quy y những giáo chủ thế tục mà vẫn để đầu tròn áo vuông của Phật Giáo, ấu đó cũng là chưa thấu đạt và coi trọng Kinh Điển của Nhà Phật.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Tạo một tài khoản hoặc đăng nhập để bình luận

Bạn phải là một thành viên để tham gia thảo luận.

Tạo một tài khoản

Đăng ký một tài khoản mới trong cộng đồng của chúng tôi. Dễ thôi!


Đăng ký tài khoản mới

Đăng nhập

Bạn đã có tài khoản? Đăng nhập tại đây.


Đăng nhập ngay