Thiên Sứ

TÍNH BẤT HỢP LÝ VÀ PHI KHOA HỌC CỦA NHỮNG LUẬN ĐIỂM PHỦ NHẬN VĂN HÓA SỬ TRUYỀN THỐNG VIỆT.

101 bài viết trong chủ đề này

Kính thưa quí vị quan tâm

Bắt đầu từ năm 1998, trong một hoàn cảnh vô cùng khó khăn về mặt kinh tế và tư liệu, tôi đã xuất bản được cuốn sách "Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại". Cuốn sách đầu tiên đặt vấn đề minh chứng cho truyền thống văn hiến sử Việt trải gần 5000 năm văn hiến. Mặc dù trải qua nhiều khó khăn sau đó. Nhưng cho đến nay, những luận cứ vững chắc và khoa học đã ngày càng làm sáng tỏ chân lý:

Lịch sử văn hiến Việt trải gần 5000 năm văn hiến.

Luận cứ khoa học minh chứng cho quan điểm này trải khắp trên mọi lĩnh vực: Văn hóa, triết học, lịch sử, và có thể nói hầu hết trên các lĩnh vực liên quan. Quan điểm lịch sử Việt trải gần 5000 năm văn hiến ngày càng được các học giả và các nhà nghiên cứu khoa học trong và ngoài nước ủng hộ. Những bằng chứng sắc sảo dựa trên những thành tựu mới nhất của khoa học như gen di truyền, khảo cổ, những di sản văn hóa phi vật thể.... ngày càng làm sáng tỏ chân lý và ngày càng chứng tỏ quan điểm lịch sử phủ nhận những giá trị văn hiến truyền thống Việt là những sai lầm.

Để chuẩn bị chu đáo cho một công trình nghiên cứu, tôi mở tiểu mục này để phản biện lần lượt những luận cứ phủ nhận những giá trị văn hiến Việt đã sưu tầm được.

Rất mong được sự tham khảo của quí vị và anh chị em.

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Tôi xin bắt đầu minh chứng những sai lầm do cái nhìn chủ quan và phiến diện, bất hợp lý và hoàn toàn không có cơ sở khoa học của quan điểm phủ nhận giá trị văn hóa sử truyền thống Việt trong tiểu mục SƯU TẦM LUẬN ĐIỂM PHỦ NHẬN VĂN HÓA SỬ TRUYỀN THỐNG của mục NGHIÊN CỨU CỔ SỬ VIỆT. Tôi bắt đầu từ bài đầu tiên cho đến bài cuối cùng và đang tiếp tục sưu tầm bổ sung.

Để có tính minh bách trong phản biện, xin quí vị và anh chị em xem lại toàn bộ bài viết sau đây của Phó giáo sư Đặng Việt Bích đăng trên phongthuyankhang.com.

*

Quá trình hợp nhất và sự ra đời của người Việt cổ

PGS. Đặng Việt Bích

www.phongthuyankhang.com

Một điều mà cho đến nay người ta còn chưa biết rõ là người Nam Đảo tiến công vào Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ xuất phát từ đâu? Phải chăng họ từ quần đảo Philippin, Hải Nam đảo, Đài Loan hoặc duyên hải Quảng Đông…? Hay phải chăng họ xuất quân từ lãnh địa của văn hóa Sa Huỳnh, từ miền ven biển Trung Bộ từ nam sông Gianh tới Phan Rang mà họ Bắc tiến sau khi đã đóng vai kẻ chiến thắng tại đây?

Tổ Tiên ta đã gộp hai hiện tượng - một là hiện tượng tự nhiên, một là hiện tượng xã hội – vào trong một câu chuyện thần thoại nên thơ. Lực lượng người Nam Đảo từ biển tới, tổ tiên ta đồng nhất nó với làn sóng nước biển. Và chuyện Thủy Tinh đánh ghen Sơn Tinh, dâng nước làm ngập lụt, thực ra lụt lội đâu phải được gây ra từ biển tới mà ngược lại, từ hướng tây, hướng tây bắc – đông nam, theo chiều của các con sông ở miền Bắc nước ta.

Đa phần, trong các thần thoại, những sự kiện như một đám cưới giữa anh chàng này với cô gái kia, công chúa này theo hoàng tử kia về núi…đều ám chỉ hiện thực một tộc người hỗn huyết và pha trộn văn hóa với một tộc người khác.

Việc có hai chàng trai đều thuộc loại quyền quý, gõ cửa xin làm rể vua Hùng chẳng qua chỉ là hình tượng hóa, mỹ hóa một sự thật phũ phàng là tộc người của Thủy Tinh tràn đến xâm lăng lãnh thổ của Hùng Vương. Cái gọi là Thủy Tinh xin được làm rể Hùng Vương thực chất là cách nói che đậy theo tư duy thần thoại lời yêu cầu sắt đá và thẳng thừng của Thủy Tinh: “Này ông Hùng Vương! Ông có cho ta đến ở trên đất của ông không?”.

Còn lời xin làm rể của Sơn Tinh lại có ý nghĩa: “Này ông Hùng Vương! Thằng Thủy Tinh hung bạo nó muốn cướp đất của ông đấy. Ta hãy hợp nhất lại, đoàn kết lại để xem nó giở được trò gì?!”.

Rõ ràng, đứng trước nguy cơ bị tấn công bởi một tộc người hung hãn và thiện chiến từ xa đến, mang yếu tố ngoại lai và có nhiều điểm dị biệt, hai ông hàng xóm sống gần nhau, có nhiều điểm chung hơn, đều muốn bắt tay nhau, liên kết lại để tống khứ cái kẻ xâm lăng kia. Hùng Vương không muốn mất đất đai, còn Nhóm Sơn Tinh cũng hiểu rằng: nếu để người Nam Đảo thôn tính Hùng Vương, thì nạn nhân tiếp theo sẽ là họ.

Và sự liên kết ấy đã diễn ra, được phản ánh trong truyền thuyết qua đám cưới của Mỵ Nương với Sơn Tinh. Có thể trong thực tế cũng đã có một đám cưới thật, một đám cưới mang tính chính trị, để hai tộc người khác biệt trở thành người một nhà. Có thể đám cưới chỉ là một ký hiệu trong truyền thuyết, nhưng không thể phủ nhận một hiện thực rằng: đã có sự hợp nhất giữa hai liên minh bộ lạc lớn nhất thời bấy giờ tại đồng bằng Bắc Bộ.

Giai đoạn hợp nhất được cho là vào thời kỳ văn hóa Gò Mun (1100 TCN), trùng với thời điểm xuất hiện các cuộc tấn công của người Nam Đảo.

Hai tộc người lớn hòa nhập với nhau, không chỉ về mặt quân sự, mà dần dần cả về mặt văn hóa, huyết thống…Trong khoảng thời gian của văn hóa Gò Mun, Quỳ Chử (400 năm – từ năm 1100 đến năm 700 TCN), là quãng thời gian để hai bên hòa nhập và dần trở thành một tộc người mới. Trong 400 năm ấy, khi nắm trong tay đất đai rộng lớn do sự sáp nhập lãnh thổ của hai bên, có sự nhảy vọt về chất trong thể chất, trong đời sống văn hóa tâm linh, tinh thần, tiếp thu được cả những ưu điểm, tính trội của hai tộc người cũ, nên tộc người mới này năng động hơn, phát triển hơn.

Tộc người mới này được gọi là người Việt cổ, PGS. Đặng Việt Bích gọi họ là người Mường cổ, vì những điểm tương đồng của người Mường sau này với văn hóa đồng Đông Sơn (chúng ta sẽ khảo cứu ở những bài sau: Sự phát triển của người Việt cổ và người Kinh xuất hiện như thế nào?).

Và sau 400 năm chiến đấu chống giặc ngoại xâm và phát triển kinh tế, xã hội, người Việt cổ đã đạt được sự nhảy vọt thần kỳ: sáng tạo ra văn hóa đồng thau Đông Sơn.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Kính thưa quí vị quan tâm đến lịch sử cổ Việt.

Bài viết dưới đây được trích lại nguyên văn bài viết của P.Gs Đặng Việt Bích. Tôi sẽ trích từng phần và không bỏ sót chữ nào để chứng minh luận điểm khiên cưỡng và hoàn toàn chủ quan của ông. Từ đó khẳng định rằng:

Tất cả những luận điểm phủ nhận giá trị văn hóa truyền thống Việt trải gần 5000 năm văn hiến đều chủ quan và phi khoa học.

Trong bài này, P.Gs Đặng Việt Bích đã viết:

Một điều mà cho đến nay người ta còn chưa biết rõ là người Nam Đảo tiến công vào Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ xuất phát từ đâu? Phải chăng họ từ quần đảo Philippin, Hải Nam đảo, Đài Loan hoặc duyên hải Quảng Đông…? Hay phải chăng họ xuất quân từ lãnh địa của văn hóa Sa Huỳnh, từ miền ven biển Trung Bộ từ nam sông Gianh tới Phan Rang mà họ Bắc tiến sau khi đã đóng vai kẻ chiến thắng tại đây?

Ông Đặng Việt Bích đã đặt vấn đề về hiện tượng người Nam Đảo thống trị miền châu thổ sông Hồng và sau đó trở thành cư dân ở đây. Cứ cho rằng ông ta có căn cứ để đặt vấn đề này và bây giờ chúng ta xem ông chứng minh vấn đề mà chính ông đặt ra như thế nào?

Tổ Tiên ta đã gộp hai hiện tượng - một là hiện tượng tự nhiên, một là hiện tượng xã hội – vào trong một câu chuyện thần thoại nên thơ. Lực lượng người Nam Đảo từ biển tới, tổ tiên ta đồng nhất nó với làn sóng nước biển. Và chuyện Thủy Tinh đánh ghen Sơn Tinh, dâng nước làm ngập lụt, thực ra lụt lội đâu phải được gây ra từ biển tới mà ngược lại, từ hướng tây, hướng tây bắc – đông nam, theo chiều của các con sông ở miền Bắc nước ta.

Như vậy với đoạn này ông ta đã sử dụng truyền thuyết để xác định: Truyền thuyết Sơn tinh Thủy tinh. Nhưng chính ông đã phải thừa nhận ngay rằng: Nước lụt - do Thủy Tinh dâng lên không phải từ biển - mà trước đó ông đã gắn hình tượng Biển của người Nam Đảo, mà là từ vùng núi phía Tây, Tây Bắc đồng bằng Bắc bộ. Nhưng có lẽ vì chẳng có chứng cứ nào thuyết phục hơn dù chính ông đã thấy tính phi lý của nó ngay trong đoạn trích dẫn trên: "thực ra lụt lội đâu phải được gây ra từ biển tới mà ngược lại, từ hướng tây, hướng tây bắc – đông nam, theo chiều của các con sông ở miền Bắc nước ta". Cho nên ông vẫn phải sử dụng truyền thuyết và cách giải mã - mà tôi không thể tượng tượng nổi thuộc về đẳng cấp P./Gs viết ra như sau:

Đa phần, trong các thần thoại, những sự kiện như một đám cưới giữa anh chàng này với cô gái kia, công chúa này theo hoàng tử kia về núi…đều ám chỉ hiện thực một tộc người hỗn huyết và pha trộn văn hóa với một tộc người khác.

Việc có hai chàng trai đều thuộc loại quyền quý, gõ cửa xin làm rể vua Hùng chẳng qua chỉ là hình tượng hóa, mỹ hóa một sự thật phũ phàng là tộc người của Thủy Tinh tràn đến xâm lăng lãnh thổ của Hùng Vương. Cái gọi là Thủy Tinh xin được làm rể Hùng Vương thực chất là cách nói che đậy theo tư duy thần thoại lời yêu cầu sắt đá và thẳng thừng của Thủy Tinh: “Này ông Hùng Vương! Ông có cho ta đến ở trên đất của ông không?”.

Còn lời xin làm rể của Sơn Tinh lại có ý nghĩa: “Này ông Hùng Vương! Thằng Thủy Tinh hung bạo nó muốn cướp đất của ông đấy. Ta hãy hợp nhất lại, đoàn kết lại để xem nó giở được trò gì?!”.

Rõ ràng, đứng trước nguy cơ bị tấn công bởi một tộc người hung hãn và thiện chiến từ xa đến, mang yếu tố ngoại lai và có nhiều điểm dị biệt, hai ông hàng xóm sống gần nhau, có nhiều điểm chung hơn, đều muốn bắt tay nhau, liên kết lại để tống khứ cái kẻ xâm lăng kia. Hùng Vương không muốn mất đất đai, còn Nhóm Sơn Tinh cũng hiểu rằng: nếu để người Nam Đảo thôn tính Hùng Vương, thì nạn nhân tiếp theo sẽ là họ.

Thủy Tinh - theo ông là biểu tượng của người Nam Đảo xâm lược - Mặc dù chính ông thừa nhận lũ lụt ở Tây - Tấy Bắc tới. Hai người cùng cầu hôn, nhưng một người thì ông gán là xâm lược vì ông cho là biểu tượng của Nam Đảo, còn người kia - cũng cầu hôn - thì ông cho là liên kết bào vệ giang sơn. Thật là một sự lý giải rất chủ quan - tôi nghĩ là - coi thường độc giả. Nhưng ông ta vẫn kết luận:

Và sự liên kết ấy đã diễn ra, được phản ánh trong truyền thuyết qua đám cưới của Mỵ Nương với Sơn Tinh. Có thể trong thực tế cũng đã có một đám cưới thật, một đám cưới mang tính chính trị, để hai tộc người khác biệt trở thành người một nhà. Có thể đám cưới chỉ là một ký hiệu trong truyền thuyết, nhưng không thể phủ nhận một hiện thực rằng: đã có sự hợp nhất giữa hai liên minh bộ lạc lớn nhất thời bấy giờ tại đồng bằng Bắc Bộ.

Từ một câu chuyện truyền thuyết huyền thoại với việc giải mã của ông - chắc ông khẳng định là đúng - nên ông P. Gs này đã gán ngay cho nó một thực tế để minh chứng cho quan điểm của ông

Giai đoạn hợp nhất được cho là vào thời kỳ văn hóa Gò Mun (1100 TCN), trùng với thời điểm xuất hiện các cuộc tấn công của người Nam Đảo.

Như vậy, qua đoạn trích dẫn trên, chúng ta đã thấy rất rõ rằng:

Để minh chứng cho quan điểm của ông - P.Gs Đặng Ngọc Bích - ông ta đã dựa vào sự giải mã một cách khập khiễng bằng cách cắt xén truyền thuyết Sơn Tinh Thủy Tinh. Chưa nói đến những mâu thuẫn mà chính ông ta phải thừa nhận mà tôi đã phân tích ở trên. Các chi tiết của truyền thuyết lịch sử này ông đã không nhắc tới.

Thiên Sứ tôi cũng thuộc dạng giải mã truyền thuyết, ca dao tục ngữ, truyên dân gian..vv...Nhưng tôi xin nhắc lại một điều mà tôi nhiều lần nói trên diễn đàn rằng:

Không bao giờ Thiên Sứ tôi coi việc giải mã - bất cứ một cái gì - trong những bài viết , tiểu luận ...là bằng chứng khoa học, ít nhất trong lúc này. Vì cho đến nay và chí ít cũng phải nửa thế kỷ nữa, may ra người ta mới có một tiêu chí cho việc giải mã những di sản văn hóa phi vật thể. Nhưng vị giáo sư này thì lại coi sự giải mã như là một luận cứ để minh chứng cho luận điểm của ông ta.

Đương nhiên với những luận cứ "Pha học" này thì những đoan viết sau đây chỉ là cho vui và chẳng có căn cứ nào cả:

Hai tộc người lớn hòa nhập với nhau, không chỉ về mặt quân sự, mà dần dần cả về mặt văn hóa, huyết thống…Trong khoảng thời gian của văn hóa Gò Mun, Quỳ Chử (400 năm – từ năm 1100 đến năm 700 TCN), là quãng thời gian để hai bên hòa nhập và dần trở thành một tộc người mới. Trong 400 năm ấy, khi nắm trong tay đất đai rộng lớn do sự sáp nhập lãnh thổ của hai bên, có sự nhảy vọt về chất trong thể chất, trong đời sống văn hóa tâm linh, tinh thần, tiếp thu được cả những ưu điểm, tính trội của hai tộc người cũ, nên tộc người mới này năng động hơn, phát triển hơn.

Là người Việt Nam, ai cũng thuộc lòng câu chuyện Sơn Tinh Thủy tinh được truyền lại rất rõ rằng: Vào cuối thời Hùng Vương thứ 18. Mà theo nhưng luận cứ "khoa học" phủ nhận văn hóa sử truyền thống thì thời Hùng Vương thứ 18 kết thúc vào năm 208. Nhưng ở đây ông P.Gs Đặng Việt Bích lại cho nó kết thúc vào năm 1100 trước Cn với việc giải mã truyền thuyết Sơn Tinh Thủy Tinh - vào cuối thời Hùng Vương thứ 18 kể trên.

Giai đoạn hợp nhất được cho là vào thời kỳ văn hóa Gò Mun (1100 TCN), trùng với thời điểm xuất hiện các cuộc tấn công của người Nam Đảo.

Đoạn cuối của bài viết có lẽ do người khác thêm vào:

Tộc người mới này được gọi là người Việt cổ, PGS. Đặng Việt Bích gọi họ là người Mường cổ, vì những điểm tương đồng của người Mường sau này với văn hóa đồng Đông Sơn (chúng ta sẽ khảo cứu ở những bài sau: Sự phát triển của người Việt cổ và người Kinh xuất hiện như thế nào?).

Và sau 400 năm chiến đấu chống giặc ngoại xâm và phát triển kinh tế, xã hội, người Việt cổ đã đạt được sự nhảy vọt thần kỳ: sáng tạo ra văn hóa đồng thau Đông Sơn.

Chán quá! Như vậy là vào cuối thời Hùng Vương thứ 18 - Thủy Tinh đại diện người Nam Đảo - theo P.Gs Đặng Việt Bích giải mã truyền thuyết đã kết thúc vào từ 1100 đến 700 trước Cn. Để rồi sau đó cái mà họ gọi là:"đạt được sự nhảy vọt thần kỳ: sáng tạo ra văn hóa đồng thau Đông Sơn".

Thật hơi ngạc nhiên khi mà luận điểm sử học mới phủ nhận những giá trị văn hóa truyền thống lại cho rằng: Chính nền văn hóa đồng thau là cơ sở kinh tế xã hội để sinh ra một "liên minh gồm 15 bộ lạc" hoặc cùng lắm là "một nhà nước sơ khai" mà họ gán cho cội nguồn dân. Nhưng ở bài viết này thì thời Hùng Vương kết thúc sau khi hóa nhập với người Nam Đảo, để rồi sau đó lại sản sinh một thời Hùng Vương khác với nền văn hóa Đông thau.

Tôi chỉ hơi ngạc nhiên. Bởi vì tôi quen với những lập luận tự nhận là khoa học kiểu này.

Xin chào Phó giáo sư Đặng Việt Bích trên tinh thần phản biện khoa học.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Kính thưa quí vị quan tâm.

Đây là bài thứ hai theo thuận tự từ topic "SƯU TẦM LUẬN ĐIỂM PHỦ NHẬN VĂN HÓA SỬ TRUYỀN THỐNG". Để bào đảm tính khách quan, Thiên Sứ tôi cũng xin kính mời quí vị xem lại toàn văn bài viết này. Sau đó, tôi cũng sẽ xin chứng minh tính phi lý và chủ quan của bài viết này.

Bài viết này tuy rất dài. Nhưng tôi hy vọng phần phản biện của tôi sẽ không quá 400 chữ và có thể ít hơn.

***

Khảo cổ Việt Nam soi sáng văn minh Đông Sơn

Nguyễn Ðức Hiệp

Nguồn: http://vannghesongcuulong.org

Bài này viết để giới thiệu về nền văn minh Đông Sơn và sự liên hệ của văn minh Đông Sơn với các văn minh khác trong vùng (như Sa Huỳnh). Sự hiểu biết về văn hóa Đông Sơn còn được nhiều đóng góp về sau này nên sẽ không ngạc nhiên khi có những thuyết và tranh luận giừa các nhà khoa học nghiên cứu về nguồn gốc, biểu tượng, văn hóa Đông Sơn.

Từ các thập niên 50 đến 80, các nhà học giả Việt nam đã khai quật khám phá và đóng góp nhiều hiểu biết quan trọng về văn hóa Đông Sơn và công bố trong các tạp chí Khảo cổ học, Lịch Sử, Xã hội, các hội nghị khoa học trong và ngoài nước. Nhiều nghiên cứu có giá trị của Hà Văn Tấn, Chử Văn Tần, Phạm Văn Kỉnh, Diệp Đình Hoa, Phạm Minh Huyền.. bằng quốc ngữ chưa được biết nhiều ở các học giả nước ngoài .

Đáng chú ý, là từ các di chỉ tiền Đông Sơn khám phá ở các vùng trung du và đồng bằng Bắc bộ đến các nghiên cứu về dân tộc và xã hội học, ta có thể thấy sự phát triển liên tục của văn hoá, văn minh Đông Sơn và cho thấy tính chất nội sinh và bản địa của nó. Các yếu tố ảnh hưởng từ ngoài, mà nguồn chính là từ vùng thảo nguyên Trung Á, thể hiện ở một số nhỏ hoa văn động vật và phong cách, cho thấy sự trao đổi văn hoá, kinh tế qua con đường từ trung du Bắc bộ đến Vân Nam và Tứ Xuyên qua sự trung gian của văn hoá Điền ở vùng Hoa nam.

Các điều kiện nghiên cứu tuy không đầy đủ như ở các nước khác, nhưng phẩm chất và nội dung rất phong phú. Ông Tạ Chí Đại Trường, một sử gia miền Nam trước 1975, trong một bài báo gần đây ở Mỹ, đã chỉ trích các nghiên cứu khảo cổ học ở Việt Nam là quá thiên về sự tự hào dân tộc và hoài nghi về các kết quả nghiên cứu. Ông ngay cả chỉ trích nhà sử học Mỹ Keith Taylor đã đến Việt Nam học hỏi và nghiên cứu các kết quả cùng với các nhà khảo cổ và sử học trong nước để kết thúc luận án tiến sĩ của ông mà sau này ông xuất bản cuốn sách với tựa đề “The birth of Vietnam”. Dĩ nhiên ngoài các công bố ít nội dung và có tính chất “diễn văn” mà ta có thể thấy dễ dàng và gạn lọc được ở các tạp chí khoa học trong nước, các nhà nghiên cứu vẫn biết được và trân trọng đa số các kết quả nghiên cứu có giá trị trong nước. Ông Tạ Chí Đại Trường đã có chút khách quan khi nhận định về khảo cổ học ở Việt Nam, nhưng khác với ông, tôi cho rằng các kết quả nghiên cứu ở Việt Nam cũng có giá trị và đáng trân trọng.

Vừa đây Viện Khảo cổ học với đã xuất bản quyển sách "Văn hóa Đông Sơn ở Việt Nam" (Nxb Khoa Học Xã hội, Hà Nội, 1994, với sự tài trợ của Toyota Foundation tổng hợp một phần sự hiểu biết về văn hóa Đông Sơn từ các học giả Việt Nam. Đây là một bước nhỏ trong công việc tổng quan về vấn đề tìm hiểu văn hoá Đông Sơn ở Việt Nam.

(1) Sơ lược về khám phá và nghiên cứu văn hóa Đông Sơn

Năm 1924, một nông dân làng Đông Sơn (Thanh Hóa), sau cơn nước lũ, đi câu cá ở bờ sông Mã, ngẫu nhiên phát hiện một số đồ đồng nằm trong lòng đất nơi bờ sông bị lỡ. Khi viên thương chính người Pháp, L. Pajot, thích chơi đồ cổ, mua được số đồ đồng trên và phát hiện sự tình, đã vội vàng báo cho trường Viễn Đông Bác cổ. L. Pajot được uỷ nhiệm tiến hành những cuộc đào bới ở địa điểm trên. Thế là tên làng Đông Sơn trở thành nổi tiếng dành cho "thời đại đồng thau ở Bắc kỳ và Bắc Trung kỳ" khi Victor Goloubew ở trường Viễn đông Bác cổ công bố về các di vật đào được ở Đông Sơn trên tạp chí khoa học.

Trường Viễn đông bác cổ (Ecole Francais d'Extreme-Orient), thành lập năm 1900, trước đó đã sưu tập được một số đồ đồng như trống đồng Ngọc Lũ lấy từ chùa Long Đọi Sơn, Hà Nam (1903) và mua lại từ bộ sưu tập của Demange và D'Argence (1913 và 1927) mà trước đó họ đã thâu lượm và mua lại từ dân ở các vùng từ Bắc Ninh, Hà Đông, Sơn Tây tới Ninh Bình và Thanh Hóa.

Năm 1918, H. Parmentier đã công bố sự giống nhau kỳ lạ giữa hoa văn trên trống Ngọc Lũ với hoa văn trên các đồ đồng khác trong bộ sưu tập D'Argence. Trước đó, năm 1902, F. Heger, nhà nghiên cứu người Đức về các trống đồng ở Đông Nam Á đã xếp trống loại Ngọc Lũ (Đông Sơn) là trống đẹp và cao thuộc loại I (Heger I) trong 4 loại trống.

Sự khám phá ở Đông Sơn đã khởi động cho các cuộc tìm hiểu và nghiên cứu có hệ thống về thời đồng và văn hóa Đông Sơn của các học giả nhiều nơi trên thế giới. Năm 1934, nhà học giả người Áo, R. Heine-Geldern đã đề nghị gọi nền văn hóa đồ đồng ở Việt nam là "văn hóa Đông Sơn". Từ đó về sau các nhà nghiên cứu về văn hoá đồ đồng ở Đông Nam Á và Nam Trung quốc đã gọi chung nền văn hoá này là văn hóa Đông Sơn.

Sau năm 1954, các nhà khảo cổ Việt Nam đã khám phá ra nhiều di tích thuộc văn hóa Đông Sơn. Cho đến nay, 125 di tích đã được phát hiện ở khu vực Sông Hồng, Sông Cả và Sông Mã ở Việt Nam không kể các di tích Tiền Đông Sơn (Hà Văn Tấn, "Văn hóa Đông Sơn ở Việt Nam", 1994). Riêng số trống đồng loại I Heger (tức trống Đông Sơn) đã lên tới 143 chiếc. Trong đó có những trống đẹp, trang trí gần giống trống Ngọc Lũ, Hoàng Hạ như trống Cổ Loa phát hiện năm 1982 và trống Hy Cương phát hiện ở Đền Hùng mới đây. Trong năm 1997, các trống trên và nhiều trống khác đã được trưng dụng ở khắp nơi trong cuộc triển lãm đặc biệt về Thăng Long truyền thống tại Viện Bảo tàng Lịch sử, Hà Nội

Trong thư tịch lịch sử Việt Nam cũng có nói đến trống đồng trong sinh hoạt đời sống như lễ đông cô thời Lý, sứ Nguyên nghe trống đồng nhiều nơi khi sang Đại Việt dưới đời Trần. Đáng chú ý là ở chùa Đồng Cổ, Thanh Hoá có một tấm bảng gỗ khắc năm Bảo Hưng thứ 2 Tây Sơn (1802) của Tuyên Công Nguyễn Quang Bàn, con trai Nguyễn Huệ, ghi chép khá tỉ mỉ về trường hợp phát hiện và đo đạc khảo tả chiếc trống đồng cổ đặt trong chùa (1). Về sau chiếc trống này được người Pháp đưa vào trường Viễn đông Bác cổ. Trong luật Hồng Đức thờ Lê cũng có nói đến điều lệ trừng phạt lấy cắp hay phá hỏng tượng Phật và chuông dồng cổ. Có thể nói việc sử dụng trống đồng dần dần biến đi sau đời Trần cùng với các trống đồng.

(2) Niên đại và nguồn gốc Đông Sơn

Thuyết cho rằng kỹ thuật làm trống đồng được truyền từ các các bộ tộc ấn-Âu (Indo-european) sang Nam Trung quốc rồi từ đó xuống Bắc Việt Nam lúc đầu đã được nhiều học giả như Parmentier, Finot, Maspero .. chấp nhận. Giả thuyết này được nghiên cứu từ sự giống nhau giữa các hoa văn, kỹ thuật của trống Đông Sơn và trống đồng của các bộ tộc indo-european. Cách đây vài năm và gần đây (đầu năm 1998), các nhà khảo cổ Trung quốc và phương Tây đã khám phá và công bố một vài mộ chôn của các người bộ tộc indo-european, Tochara, ở miền Tây TQ và cho thấy họ đã đi đến vùng này và gần hơn ở Nam và Bắc Trung Quốc. Những người này sau đó bị tuyệt chủng. Sự khám phá này cho thấy giả thuyết trên có thể đúng nhưng cần có sự nghiên cưú kỷ lưỡng hơn.

Mặc dầu không thống nhất trong sự xác định về niên đại của trống đống và văn hoá Đồng ở Đông Nam Á và Nam Trung Quốc, hiện nay các nhà khảo cổ cho rằng thời gian này kéo dài từ khoảng thế kỷ 9BC đến thế kỷ 1 sau công nguyên. Thời gian này tương đương với thời Hùng Vương đến giai đoạn đầu của Bắc thuộc trong lịch sử Việt Nam.

Theo Đào Duy Anh, căn cứ vào thư tịch cổ Trung Quốc và Việt Nam, thi văn hoá Đông Sơn khởi từ thế kỷ 8BC đến thế kỷ 1 sau công nguyên. Ông chia ra làm 3 giai đoạn phát triển: giai đoạn 1 là giai đoạn hưng thịnh điển hình với các trống Ngọc Lũ, Hoàng Hạ tương đương với thời kỳ hưng thịnh Hùng Vương. Giai đoạn 2 là giai đoạn tiến triển với trống Việt Khê, thạp Đào Thịnh, tương đương với cuối thời Hùng Vương và An Dương Vương. Giai đoạn 3 là giai đoạn suy vi, tương đương với thời kỳ đầu Bắc thuộc, Tây Hán và Đông Hán. Trần Mạnh Phú dựa vào diển biến hoa văn trên trống đồng cũng chia văn hoá Đông Sơn ra 3 giai đoạn như trên của Đào Duy Anh với giai đoạn 3 thuộc thời đại dồ sắt từ thế kỷ 2 trước công nguyên đến đầu thế kỷ 1 sau công nguyên.

Nhà khảo cổ Phạm Văn Kỉnh và Lê Văn Lan chia văn hoá Đông Sơn theo thời đại khảo cổ: giai đoạn đầu (sơ kỳ) của thời đồng thau với di tích của văn hoá Gò Mun, giai đoạn trung kỳ thuộc vào thời kỳ hưng thịnh đồng Đông Sơn và giai đoạn cuối là thời đại sắt cũng là mạt vận của văn hoá đồng Đông Sơn với đồ Tần-Hán có mặt bên cạnh đồ bản địa Đông Sơn, từ thế kỷ 3 trước công nguyên đến thế kỷ 1 sau công nguyên.

Hà Văn Tấn thì cho văn hoá Đông Sơn ở 2 giai đoạn: giai đoạn đồng thau và giai đoạn sắt. Nguyễn Linh thì không chia văn hoá theo giai đoạn mà nhìn tổng quan văn hoá Đông Sơn nằm trong thời hưng thinh và suy vong của thời đại đồng thau, từ thế kỷ 7 trước công nguyên đến khi nhà Hán sang cai trị cũng là lúc mạt vận của văn hoá Đông Sơn .Chử Văn Tần cũng như Nguyễn Linh coi văn hoá Đông Sơn tổng quan trong giai đọan cuối của một nền văn minh Đông Sơn khởi từ văn hoá Phùng Nguyên.

Phạm Minh Huyền chứng minh trong nền văn hoá Đông Sơn có sự phát triển khác nhau ở các địa phương, sớm nhất ở vùng sông Hồng rồi đến sông Mã. Sự kết thúc cũng khác nhau đánh giấu sự xuất hiện của đồ minh khí và tăng trưởng của đồ ngoại lai. Ông chia văn hoá Đông Sơn thành ba loại hình cơ bản: loại hình sông Hồng, loại hình sông Mã và loại hình sông Cả. Các loại hình có một số nét phong cách địa phương.

Cũng nên nhắc lại là từ miền Nam Trung Quốc xưa kia ở vào khoảng niên đại của trống đồng (thế kỷ 9 BC đến thế kỷ 2 AD) là vùng cư ngụ của các bộ tộc Bách Việt trước khi bị Hán hoá. Ở đây, văn hoá Đông Sơn cũng phát triển ở các bộ tộc vùng Hoa Hạ. Các lễ nghi, sinh hoạt của các dân trong thời này đã cho thấy rõ ràng tính chất của văn hoá Đông Sơn.

Bửu Cầm (2), trong bài triển khai từ nghiên cứu của Lăng Thuần Thanh “Đồng cổ đồ văn dữ Sở từ Cửu ca” (đăng trong Quốc lập trung ương nghiên cứu viện viện san đệ nhất tập, Đài bắc 1954, tr. 403-417) cho thấy họ Lăng dùng bài Đông quân trong Cửu ca của người dân Sở và những tài liệu dân tộc học về người A-Mi ở Đài Loan, người Nagas ở Assam cùng người Dayak ở Borneo để giải thích hình chạm trên trống đồng. Theo Bửu Cầm, Cửu ca của dân tộc Sở chẳng khác gì những bài “văn chầu” của đạo “thờ chư vị” ở nước ta. Nước Sở ngày xưa tuy rộng lớn nhưng dân tộc Sở không quá phức tạp, phần nhiều là giống Bộc, Lão tức Việt tộc, hoặc nói theo ngôn ngữ đời nay là giống Indonesian. Chính Sở vương Hùng Cừ đã nói: “Ta là man di, không cùng hiệu thụy với Trung quốc”.

Đồ đồng và trống đồng khám phá ở khu vực đông Nam Trung quốc được chia ra ba nhóm (3b) nằm trên 3 khu vực Tả Giang, Hữu Giang (giáp ranh với biên giới Việt Nam hiện nay) và Quế Giang-Tương Giang (giữa tỉnh Hồ Nam và Quý Châu). Đây cũng là vùng của các nhóm bộ tộc Việt: Lạc Việt, Câu Đinh, và Tây Âu. Các hoa văn trên một số trống đồng và rìu đồng giống hoa văn của nhóm Lạc Việt ở Bắc Việt Nam nhất là các rìu đồng hình hia tìm được ở vùng bộ tộc Tây Âu. Vùng Quế Giang của nước Tây Âu giáp với Hồ Nam bên kia Ngũ Lĩnh là địa phận xưa của văn hoá Sở..

Từ thập niên 60 đến nay, các học giả Việt Nam đã khai quật nhiều di tích Tiền Đông Sơn và Đông Sơn và đã công bố nhiều công trình nghiên cứu gần đây cho thấy có sự liên tục của các nền văn hoá. Từ đó đã khẳng định là nguồn gốc kỹ thuật và trống đồng Đông Sơn là nội sinh từ bản địa chứ không phải di từ bên ngoài vào (1). Tuy không phủ định là có sự giao lưu văn hoá giữa Đông Sơn ở Việt Nam, Nam Trung Quốc và vùng đồng cỏ phía Tây cho đến văn hoá Hallstatt Châu Âu, nhất là sự tương quan của một số hoa văn như các hoa văn ngôi sao trung tâm, xoắn ốc, thừng tết.. nhưng có rất nhiều hoa văn đặc biệt bản địa mà chỉ có ở Đông Sơn Việt Nam như nhà sàn, thuyền, người mặc áo lông chim, chim, cá, voi, hổ, hươu, cóc ... . Đặc biệt “thần thái Đông Sơn” trên trống đồng có tính chất bản địa Lạc Việt và khác xa với thần thái của trống đồng và đồ đồng của các văn hoá khác.

Với nhiều địa điểm dã được khai quật và nghiên cứu, như Gò Bông, Gò Mun, Gò Chiền, Đồng Dậu, Đường Cổ (Vĩnh Phú), Thiệu Dương, Quỳ Chử, Núi Nấp, Hoa Lộc (Thanh Hoá), Rú Trăn (Nghệ Tỉnh).., các nhà khảo cổ học Việt Nam đã đem lại sự hiểu biết sâu rộng hơn về các giai đoạn phát triển của văn minh Đông Sơn từ đồng thau đến sắt từ vùng trung du và đồng bằng Bắc bộ tới lưu vực sông Mã . Giai đoạn Đông Sơn mà chúng ta thường biết từ khi Đông Sơn được khám phá chỉ là tiêu biểu cho một nền văn hoá phát triển từ khoảng thế kỷ 2BC đến các thế kỷ sau công nguyên. Những nghiên cứu trên phương diện địa tầng cũng như di vật tại các di tích cho biết sự liên hệ của các tầng văn hoá, như di tích Đồng Đậu chứa 3 tầng văn hoá từ Phùng Nguyên đến Gò Mun. Các hoa văn của Phùng Nguyên cũng đã được tìm thấy ở văn hoá Đông Sơn, cũng như sự chuyển tiêp của các loại hình đồ gốm, hoa văn trên đồ gốm cho thấy sự kế tiếp của các truyền thống văn hoá (1)(Chương VI, Hà Văn Phùng).

Văn minh và văn hoá Đông Sơn có thể được hiểu rộng hơn bao gồm bắt đầu từ giai đọan văn hoá Đồng Đậu, Gò Mun, Gò Chiền cho đến giai đoạn Đường Cổ ở vùng Trung du Bắc Việt tương đương với giai đoạn Đồng Ngầm, Quì Chử tới Đông Sơn ở vùng sông Mã, Thanh Hoá (3a). Có thể tóm tắt văn hoá Đông Sơn là sự liên tục của nền văn minh Đông Sơn bắt đầu từ giai đoạn văn hoá Phùng Nguyên ở sông Hồng, văn hoá Quỳ Chữ ở sông Mã và Rú Trăn ở sông Cả.

Văn hoá

Sông Hồng

sông Mã

Sông Cả

Niên đại

Thời đại khảo cổ

Văn hoá Tiền Đông Sơn

Văn hoá Phùng Nguyên

Văn hoá Hoa Lộc

Nhóm di tích Đền Đồi-Rú Ta

800-700

Sơ Đồng

Văn hoá Đông Đậu

Nhóm di tích Đồng Ngầm

?

600-500

Trung Đồng

Văn hoá Gò Mun

Văn hoá Quỳ Chử

Nhóm di tích Rú Trăn

400-300

Hậu Đồng

Văn hoá Đông Sơn

Loại hình Đường Cồ

Loại hình Núi Nấp

Loại hình làng Vạc

200-100, CN100-200

Đồng - sơ Sắt

Khi nói tới văn minh Đông Sơn ở Việt Nam, ta có thể hiểu nó bao trùm thời gian và không gian nói trên ở Bắc Việt Nam. Đặc trưng nhất của văn minh Đông Sơn là đồ đồng mà nổi bật là trống đồng. Các nhà khảo cổ Việt nam đã tìm được rất nhiều trống đồng kể cả trống đồng loại Heger I đẹp nhất như trống Hoàng Hạ, Cổ Loa, Hy Cương.. tương đương với trống Ngọc Lũ tìm được trước đó . Riêng trống đồng loại Heger I đã lên đến 143 chiếc, chưa kể hơn 100 trống minh khí (1).

(3) Các di tích và di vật văn hóa Đông Sơn

Di tích

Di tích Đông Sơn được phát hiện ở khắp Đông Nam Á (Việt Nam, Lào, Thái Lan, Indonesia) và Nam Trung Quốc. Việt Nam là nơi có mật độ và số lượng di chỉ nhiều nhất, tập trung ở lưu vực sông Hồng và lưu vực sông Cả, sông Mã. Di tích cư trú, di tích mộ thuyền được phát hiện dọc sông Hồng đến Vĩnh Phú, các tỉnh đồng bằng sông Hồng, sông Đuống, Thanh Hoá, Nghệ An. Đa số các di tích được khảo sát chi tiết và bảo tồn (một số như Đông Sơn, Thiệu Dương được khai quật và khảo sát nhiều lần), ngoài ra còn một số được khai quật “chữa cháy” khi được khám phá tình cờ ở các công trường, nhà máy, thuỷ lợi.. các hiện vật được lưu giữ nhưng không còn di tích bảo tồn .

Ngoài ra ở Hoa Sơn, Quảng Tây, gần biên giới Trung -Việt hiện nay, giáp Lạng Sơn là di tích nghệ thuật trên đá lớn nhất của văn minh con người, với khổ 200m x 40 m các hình vẽ chạm trên triền núi dọc sông Zuo. Trong các hình người (phù thuỷ hay chiến sĩ cầm gươm có vòng ở cán), có các hình trống với mặt trời ở giữa.

Đồ đồng Đông Sơn

Đồ đồng Đông Sơn gồm giáo, riều, mủi tên, chậu đồng, thố đồng.. nhưng nổi bật nhất là trống đồng . Nghề luyện kim đồ đồng và làm trống đống của người xưa đạt đến cao độ mà ngay cả gần đây vào các thập niên 60, 70 các chuyên gia ở Viện Khảo cổ Việt Nam đã bao lần tìm cách đúc lại các trống đồng mà không thành công.

Công cụ sản xuất gồm lưỡi cày, lưỡi cuốc, thuổng, xẻng.. dùng trong nông nghiệp . Đã có hơn 200 lưỡi cày đông Đông Sơn đã được tìm thấy. Các loại vũ khí gồm có giáo, lao, tên, nỏ, rìu, dao, kiếm ngắn, tấm che ngực. Mũi tên có nơi tìm được tới vạn chiếc như ở kho Cầu Vực. Trong vùng Cổ Loa, mủi tên đã được phát hiện ở nhiều nơi.

Các đồ dùng sinh hoạt thì có thạp đồng, thố đồng, bình, lọ, chậu, nồi, ấm, bát đĩa, thìa ... Một số thạp đồng Đông Sơn có hoa văn và hình tượng trang trí tỉ mỉ và đẹp như trống đồng. Thạp đồng nổi tiếng như thạp Đào Thịnh tượng trưng và thể hiện cao điểm của nghệ thuật văn hoá Đông Sơn.

Trống đồng Đông Sơn (Heger 1) cũng đã được phát hiện ở Gia Lai-Kontum (1921), Thủ Dầu Một, Sông Bé (1934) (3) và gần đây ở Bình Định (1998) cho thấy ảnh hưởng và sự liên lạc giữa khu văn mình Đông Sơn và Sa Huỳnh ở Trung Nam Bộ cho tới khu vực văn hoá Đồng Nai (di chỉ Dốc Chùa, Sông Bé khai quật năm 1977 đã cho thấy thời kỳ đồng thau phát triển bản địa tại khu văn hoá Đồng Nai)..

Đồ gốm và thủy tinh

Trong đợt khai quật ở Đông Sơn năm 1967, các nhà khảo cổ Việt Nam đã tìm đưọc bình gốm cổ cao, vai khép thân thấp, đặc trưng của loại hình gốm Sa Huỳnh. Trước đây, các loại hình gốm loại đèn và vịt nước cũng được biết ở các di chỉ Đông Sơn (7). Đặc biệt có sự tương quan của các hoa văn trên gốm và hoa văn trên đồ đồng Đông Sơn.

Rất nhiều đồ trang sức thủy tinh được khám phá ở các di tích mộ táng Đông Sơn. Tuy vậy số lượg và chất lượng không bằng các vật thủy tinh ở các di tích Sa Huỳnh từ Bình Trị Thiên tới Đồng Nai (trong các mộ chum, điển hình của văn hoá Sa Huỳnh) nhất là khuyên tai có mấu và khuyên tai hai đầu thú. Di vật đồ thủy tinh là chứng cớ khảo cổ cho thấy sự liên lạc và ảnh hưởng giữa hai văn hoá Sa Huỳnh và Đông Sơn. Mật độ các đồ thuỷ tinh tìm thấy ở các di chỉ Đông Sơn càng ngày càng nhiều đi từ đồng bằng sông Hồng xuống phía Nam và nhiều nhất là ở Làng Vạc vùng sông Cả, Nghệ An.

Trong sự liên hệ giữa Đông Sơn và Sa Huỳnh, ta nhận thấy đồ đồng Đông Sơn được khám phá rãi rác ở khu văn hoá Sa Huỳnh (đồ đồng tìm được rất ít ở di chỉ mộ chum Sa Huỳnh) ngược lại các đồ gốm và dồ trang sức thủy tinh mang đặc sắc của Sa Huỳnh được tìm thấy ở các mộ táng và di chỉ Đông Sơn. Các di chỉ mộ chum Sa Huỳnh ở Hàng Gòn, Dầu Giây, Đập Suối (Xuân Lộc, Đồng Nai) được xác định bằng C14 vào khoảng cách đây 2300 năm, tức là vào khoảng của niên đại đồng Đông Sơn ở Bắc Việt Nam và Nam Trung Quốc.

Về màu sắc và thành phần hoá học, thuỷ tinh Sa Huỳnh và Đông Sơn tương tự như nhaụ Vòng tai và tay đa số là maù xanh lá cây già, xanh lơ, xanh lá mạ. Ngoài thành phần hoá học cơ bản của thuỷ tinh là oxid silic (SiO2), thuỷ tinh Sa Huỳnh và Đông Sơn không có oxid chì (PbO). Trong thời đại muộn hơn (vaì thế kỷ sau Công nguyên), thuỷ tinh tìm được ở Trà Kiệu, Lâm Đồng có chì. Đây là điều chứng tỏ có sự thay đổ kỹ thuật nấu thuỷ tinh so với giai đoạn sớm hơn thuộc văn hoá Sa Huỳnh và Đông Sơn (1).

Ngoài những di vật đồng và gốm, thủy tinh nói lên sự trao đổi giữa 2 văn hóa, Hà Văn Tấn (5) đã nghiên cứu những đồ gốm khai quật ở các di chỉ văn hóa Phùng Nguyên (mà cư dân thuộc nhóm ngôn ngữ Tiền Việt Mường có niên đại trước Đông Sơn) và cho thấy có sự liên hệ với các đồ gốm Lapita khám phá ở các di chỉ các đảo Nam Thái Bình Dương (New Caledonia, Solomons, Tonga, New Britain, New Hebrides..). Theo Chử Văn Tần (6), có sự tương quan rất nhiều giữa loại hình gốm và hoa văn ở gốm Sa Huỳnh với các gốm ở di chỉ văn hoá Gò Bông-Hoa Lộc (Thanh Hoá) ở đầu thời đại đồng thau, trước Đông Sơn.

(4) Đời sống vật chất, văn hóa và tâm linh người Đông Sơn

Để tìm hiểu đời sống và văn hoá Đông Sơn, ngoài các thông tin và tư liệu từ các di chỉ khảo cổ khai quật được, các nhà học giả Việt Nam còn dựa vào các thư tịch cổ của Trung Quốc như Thủy Kinh Chú, Quảng Chí, Hậu Hán thư, Giao Châu ngoại vực ký.. và Việt Nam như Lĩnh Nam Chích quái, Việt Điện U Linh, Vân Đài Loại Ngữ (Lê Quý Đôn). Các nguồn tư liệu qui giá khác là dân tộc học và văn hoá dân gian Việt Nam.

Con người Đông Sơn

Các cảnh tượng sinh hoạt trên mặt trống đồng cho ta thấy người Đông Sơn có đời sống gắn liền với sông, nước. Các di chỉ mộ thuyền được tìm thấy rất nhiều ở các tỉnh ven biển như Thái Bình, Hải Dương, Nam Định, Ninh Bình mà cách nay hơn 2 ngàn năm nằm giáp với biển Bắc Bộ, cho thấy họ có nguồn gốc và liên hệ mật thiết với biển. Mộ thuyền cũng đã được tìm thấy ở nhiều nơi ở Đông Nam Á (Kalimantan, Thái Lan, Phi Luật Tân). Đối với cư dân gần nước, khi sống họ dùng thuyền khi mất chiếc thuyền cũng đưa họ đi qua thế giới bên kia. Theo Goboulew, trong buổi lễ chiêu hồn Tiwah của người Dayak ở Borneo, khi có người mất, họ có “thuyền vàng” đưa linh hồn người mất đến thiên đường giữa hồ mây.

Theo ông Trịnh Cao Tưởng (8) nghiên cứu về đình làng Việt Nam, vị trí và địa thế lành hướng về sông nước của đình làng và kiến trúc đình Việt Nam mang hình tượng của một con thuyền hay cái lầu thuyền cho thấy âm hưởng của tâm thức người xưa vẫn còn để lại ảnh hưởng trong cuộc sống của người Việt Nam.

Về phương diện chủng tộc, có thể biết được giống người Đông Sơn qua các xương để lại trong các di tích. Rất nhiều đã bị mũn nát nhưng từ các năm 70, đã tìm được một số xương sọ ở các di tích như Núi Nấp, Quỳ Chử. Lê Văn Cường đã so sánh sọ các cư dân hiện đại trong vùng Đông Nam Á đến Papua, Úc và Eskimo để đưa đến dạng chủng tộc của con người Đông Sơn. Có hai loại hình đã được phân tích: loại hình Indonesien và loại hình Đông Nam Á. Loại hình Indonesien thuộc ngành Mongoloid với nhiều đặc điểm Australoid, trong khi loại hình Đông Nam Á mang đậm yếu tố Mongoloid nằm trong chủng tộc Nam Á của ngành Mongoloid. Các sọ tìm ở Việt Nam trong thời đại đá giữa và đá mới không hề thấy có sọ thuần Mogoloid, cho thấy nhóm loại hình Indonesien cổ được hình thành ngay từ thời đá mới bên cạnh các loại hình khác như Australoid và các loại hình hổn chủng khác. Cư dân Đông Sơn là hậu duệ của loại hình Indonesien do hổn chủng tăng mạnh vào thời đại kim khí.

Trong các mộ thuyền khai quật, các nhà khảo cổ Việt Nam đã thấy các người Đông Sơn đều nhuộm răng đen. Tục nhuộm răng đen và ăn trầu là tục xưa ở các dân tục vùng Đông Nam Á, và các đảo Thái Bình Dương. Tục này vẫn còn phổ biến ở Việt Nam đầu thế kỷ 20.

Người Đông Sơn là các bộ tộc vùng trung du giao thoa với các bộ tộc vùng bờ biển và đồng bằng gốc Malaỵ Hai nguồn này là gốc Âu Việt và Lạc Việt mà sử sách và truyền thuyết đã để lại. Mối giây liên lạc giữa vùng núi và vùng biển đã được thể hiện ở truyền thuyết Âu Cơ, Lạc Long Quân và Sơn Tinh, Thuỷ Tinh. Các mộ thuyền Đông Sơn được tìm thấy ở dọc các vùng trũng ven sông: từ Việt Khê, Hải Phòng, qua Hải Dương, Hưng Yên, Hà Nội (cầu Giấy, sông Tô) đến Hà Sơn Bình. Đặc biệt các mộ thuyền khám phá ở vùng sông Châu, Hà Nam đều quay đầu về hướng núi Đọi. Mộ thuyền bắt nguồn từ vùng Đông Nam Á hải đảo với truyền thống không ít hơn 2,500 năm lịch sử. Từ vùng ven biển nó hội nhập vào văn hoá Đông Sơn, ngược theo các sông vào các vùng trũng hai bên tả ngạn sông Hồng. Cùng với nó là sự hội nhập hàng ngàn từ gốc ngữ hệ Malayo-Polynesian vào tiếng Việt. (9)

Không những thế trong thời gian này, vùng Bắc Việt Nam cũng là nơi các thuyền nhân từ phương xa đến. Theo Trần Quốc Vượng (9), thì truyền thuyết An Tiêm và quả dưa đỏ từ Tây qua thì An Tiêm là người đến nước Văn Lang của vua Hùng là người từ xứ Ấn.

Tây Vu - biến âm của Tây Âu - bao gồm miền Đông Anh và Tiên Du là một bộ lạc lớn Âu Việt, là mủi nhọn đi xuống vùng đồng bằng Lạc Việt . Người Tây Âu cũng là hậu duệ của chủ nhân văn hoá Phùng Nguyên, Đồng Đậu là kết hợp của người trung du và vùng Quảng Ninh gốc hải đảo. Những cư dân Tày, Thái cổ, vừa gần gủi Nam Á vừa gần gủi Nam Đảo mà học giả Karl P. Benedict gọi là Kadai hay Nam Thái (austro-Thai) có lẻ là chủ nhân chính của văn hoá Phùng Nguyên (9).

Nói tóm lại con người Đông Sơn, mà hậu duệ là người Việt hiện nay ở bán đảo Đông Dương, là giao chủng của các giống dân từ bờ biển, đồng bằng và miền trung du Bắc phần. Tiếng Việt hiện nay đã mang di sản của sự giao thoa trên với gốc từ Mon-Khmer, Tày-Thái, Malay và Tạng Miến.

Môi trường sống

Ta có thể biết chút ít về thế giới động vật, thực vật và môi trường sống ở thời đại Đông Sơn qua các di tích đông, thực vật ở các di chỉ, mặc dầu chúng có ít và không được bảo quản tốt. Ngoài ra còn có các hình tượng, hình vẽ.. ở các di vật, các tư liệu, thư tịch cổ của Trung quốc ở giai đọan muộn của văn hoá Đông Sơn hoặc thời Hán sau này.

Đã có những di tích động vật nuôi phổ biến: voi thuần, chó nhà, lợn nhà và trâu bò. Các di tích này được tìm thấy trong các di trỉ và được thể hiện trên các hình khắc và tượng (thí dụ các hình vẽ trên đá vách núi Hoa Sơn, Quảng Tây giáp Lạng Sơn biên giới hiện nay, cho thấy có chó nhà).

Trong di tích Đông Sơn ở Làng Vạc, cũng tìm thấy những hạt thóc luá, trấu. Lúa thuộc loại hạt tròn, gần giống lúa chim hoặc lúa nếp. Nông nghiệp là hoạt động chính yếu của cư dân Đông Sơn. Theo Thuỷ Kinh Chú và Nam Phương thảo mộc trạng, thì vùng Giao Chỉ, Cửu Chân trồng nhiều nếp và dùng nếp nấu rượu. Cũng trong “Nam phương thảo mộc trạng” của Kê Hàm (xuất bản năm 304) về thực vật ở khu vực nhiệt đới Quảng Tây, Quảng Đông và Bắc Việt Nam, ta có thể thấy được môi trường thực vật như sau: cây bầu, cây chuối, cây tre, lúa, tùng bách, dương sĩ, xoan, dâm bụt, hoa nhài, hoa súng, mía, hạt tiêu, trầm hương, nhãn, vãi, dừa, chà là, nho, khế, chanh, rau muống, rau cải..

Qua một ít các di tích xương răng ở các di chỉ Đông Sơn và trên các hình tượng, ta chỉ thấy hình ảnh hạn hẹp của thế giới động vật. Loài thú thì có hổ, voi, tê giác, huơu sao, bò bưóu, cá sấu. Ngoài ra còn có loại chim thuộc bộ cò (cò, vạc, bồ nông..) thường đến miền Bắc Việt nam khi di cư về phương Bắc .

Theo Lĩnh Nam Chích Quái, thì người Việt xưa thường ăn canh cá, biết dùng cá tôm làm mắm. Theo truyền thống người Việt ít ăn thịt trừ những dịp lễ tết, hội hè. Như vậy ta có thể cho rằng thức ăn của người Đông Sơn xưa chủ yếu là gạo, bột và hải sản.

Các di chỉ trong mộ thuyền cho thấy dân cư Đông Sơn biết làm chiếu cói, vải. Vải mặc dầu mũn nát, đã cho thấy có nghề se sợi, dệt vải. Ngoài ra đồ gổ đều có lớp sơn, chứng tỏ nghề sơn đã xuất hiện từ vài ba thế kỷ trước Công nguyên.

Văn hoá và đời sống Đông Sơn

Heger cho rằng các hình ảnh trên trống Sông Đà là ngày hội khánh thành trống với các thuyền chở người đi dự, họ là những khách cầm thoa để đánh trống. Ngày khánh thành trống là một ngày hội lớn cho cả cộng đồng. Theo Loofs-Wissoma, trống đồng là vật tượng trưng cho quyền lực của người cầm quyền. Một thứ quyền uy kiểu tôn giáo ở Bắc Việt Nam mà các tù trưởng ở khắp mọi nơi, kể cả vùng Đông Nam Á, tìm đến để xin ban cho trống đồng, để làm vua một cách hợp pháp (1). Tuy nhiên thuyết này không đựợc tán thành vì không những chỉ ở Việt Nam mới có đúc trống mà ở miền Nam Trung Quốc, và các vùng lân cận ở Đông Nam Á cũng có đúc trống. Sự có mặt khắp nơi của trống đồng là do sự giao thoa văn hoá trong vùng (Trịnh Sinh trong “Văn hoá Đông Sơn ở Việt Nam”).

Theo nhiều nhà khảo cổ thì nhiều hình ảnh trên trống đồng phản ảnh ngày hội mùa để gặt lúa nước và thu thập mùa màng. Đoàn người vừa đi vừa múa tay cầm giáo, lao, rìu hay nhạc cụ. Họ mặc trang phục lông chim, mũ chim. Một số người mặc áo choàng lông chim mà chỉ ngày lễ hội lớn mới mang ra mặc. Người Dayak ở Borneo vẫn còn phong tục mặc áo và mũ lông chim trong các buổi lễ. Như ta biết, trong truyền thuyết Trọng Thủy, Mỵ Châu, cũng có đề cập đến áo choàng lông ngỗng dành cho công chúa.

Ngày hội mùa cũng mang tính chất tín ngưỡng phồn thực mong cho mùa màng tốt tươị Hình ảnh trên tang trống của đôi trai gái trên mặt trống cầm chày giã vào cối phản ảnh tính chất trên. Trên thạp đồng Đào Thịnh còn có các cặp trai gái đang giao phối. Ngày nay, tục lệ trai gái giao duyên ngày hội mùa mong cho mùa mang tốt tươi là vết tích của tín ngưỡng phồn thực còn lại ngày nay trong dân gian Việt Nam. Trên trống đồng Ngọc Lũ, ta cũng thấy trong một ngôi nhà sàn, một đôi nam nữ ngồi với tay và chân giao vào nhau, đang hát đối đáp trong lúc ở góc có người đang ngồi đánh trống đồng.

Nghi lễ đâm trâu, đâm bò cùng có phản ảnh trên trống đồng như trên trống đồng Làng Vạc, với hình bò và các chiến binh cầm rìu, giáo nhảy múa. Tục này vẫn còn phổ biến ở các dân tộc Đông Nam Á và các dân tộc sống ở Tây Nguyên Việt Nam.

Ngày hội cầu mưa, cầu nước lên hay rút là những ngày hội mà nhiều xã hội nông hay ngư nghiệp coi trọng để thời tiết mưa thuận gió hoà. Nhiều trống Đông Sơn có tượng cóc trên mặt trống gần mép trống, ngoài các vòng tròn đồng tâm. Có khi có cóc mẹ cõng cóc con như trên trống Hữu Chung . Hình tượng cóc thường gắn với sự cầu mưa vì “con cóc là cậu ông Trời” như dân gian Việt thường nói. Tiếng trống đồng cũng biểu hiện cho tiếng sấm. Người xưa trong hội cầu mưa đánh trống để thức tỉnh thiên nhiên mang lại mưa cho vạn vật. Trống vì vậy có mục đích quan trọng trong đời sống dân Đông Sơn.

Trên các tang trống Đông Sơn như Sông Đà, Làng Vạc, Miếu Môn.. ta có thể thấy nhiều hình thuyền diển tả cảnh bơi chải. Tục bơi chải (bơi thuyền dưới nước và bơi thuyền tượng trưng trên cạn) thường thấy trong hội đua thuyền ở các làng thờ thần nước ở Bắc bộ và Bắc Trung bộ.

Ngay cả trong thơ văn đời Đường, cũng có bài nhắc đến tục dùng trống trong lễ nghi về thần sông. Mặc dù vào thời Đường đã là 5 thế kỷ sau khi văn minh Đông Sơn tàn lụi, như dư âm các dân tộc Việt vùng Hoa nam vẫn còn vọng lại ở kinh đô Trường An. Kinh đô Trường An có vị trí đặc biệt là nằm giữa vùng ranh giới của hai vùng văn hóa Hoa Nam và Hoa Bắc.

Tống khách nam quy hữu hoài

Lục thủy noãn thanh tần

Tương đàm vạn lý xuân

Ngõa tôn nghinh hải khách

Đồng cổ trại giang thần

Tỵ vũ tùng phong ngạn

Khán vân dương liễu tân

Trường An nhất bôi tửu

Toà thượng hữu quy nhân

(Hứa Hồn)

(Tiễn khách trở về Nam - Nuớc biếc làm ấm cỏ lau xanh, Hồ Tương vẻ xuân vạn lý, Bình rượu gạch nằm đón khách đi biển, Trống Đồng cúng thần sông, Núp mưa bên bờ có tùng và phong, Ngắm mây bến sông có dương liễu, Một ly rượu ở Trường An, Trên tiệc có người về quê)

Bát phách Man

Khổng tước đuôi kim tuyến trường

Phạ nhân phi khởi nhập Đinh Hương

Việt nữ sa đầu tranh thập thúy

Tương hô quy khứ bội tà dương

(Tôn Quang Hiến)

(Tám điệu gõ người Man - Chim tước đuôi kim tuyến dài lê thê, Sợ người bay lên đậu ở Đinh Hương, Cô gái Việt đầu bãi cát tranh nhau nhặt sỏi, Kêu nhau trở về nhà lưng quay lại ánh tà dương)

Bồ Tát Man từ

Mộc thiên hoa ánh tùng từ tiểu

Việt cầm thanh lý xuân quang hiểu

Đồng cổ dữ Man ca

Nam nhân kỳ trại đa

(Tôn Quang Hiển)

(Đền bồ tát người Man - Ngôi đền nhỏ trong bụi cây toả ánh hoa mộc miên, Trong tiếng hót chim Việt thấy ánh sáng ban mai mùa xuân, Trống Đồng và bài hát Man, Người Nam cầu cúng nhiều)

Ngoài ra còn các bài thơ của Ôn Đình Quân hay Đổ Mục (9)

Độc thần từ

Đồng cổ trại thần lai

Mãn đình phan cái bồi hồi

Thuỷ đối giang phố quá phong lôi

Sở sơn như haọ yên khai

(Ôn Đình Quân)

(Đền thần bến sông - Trống đồng cầu cúng thần, Đầy sân cờ lọng bồi hồi, Gió sấm lướt trên mặt nước bến sông, Khói mây mờ núi Sở như tranh vẽ)

Trên trống đồng Ngọc Lũ và Hoàng Hạ, ta còn thấy hình người ở trần, bị trói quặt tay sau lưng ngồi trên sàn thuyền, trước mặt là những người cầm vũ khí. Có thể đây là lễ hiến tế cho thần nước, nạn nhận bị giết rồi quẳng xác xuống sông cho thuỷ thần. Theo tài liệu dân tộc học thì trong lễ cầu nước có lễ hiến tế để cống và chiều lòng thuỷ thần. Ngay cả gần đây ở vùng ven sông Hồng, sông Đáy và sông Mã vẫn còn tục bắt con gái hoặc con trai ném xuống sông cống Hà Bá trong khi nước lụt lội (1)

Trên trống cũng có hình các loại nhà sàn: nhà sàn mái cong hình thuyền với hai đầu vểnh trang trí hình chim và nhà sàn mái tròn. Trong nhà sàn hình tròn có chia làm hai gian chứa lương thực. Các vết tích của nhà sàn như cọc, gỗ.. đã được khai quật và khám phá trong những đợt khai quật đầu tiên của người Pháp ở Đông Sơn. Cư dân Đông Sơn sống gần sông nước xây nhà sàn để tránh nước lên và thú dữ.

Ngoài ra mặc dầu chưa có chứng cớ trực tiếp từ khảo cổ học, người Đông Sơn còn có thể có tục xâm mình, tục ăn đất, tục uống nước bằng mũi qua tư liệu sử học (như trong Hán thư, Lĩnh Nam chích quái), dân tộc học hay dân gian.

Các hình tượng và cấu trúc trên mặt trống biểu hiện thêm gì? . Ngoài các thuyết cho rằng là biểu tượng ngày hội trống, tục bái vật (totem), nghi lễ cầu mưa... Cấu trúc trên trống có thể cho ta biết về triết lý và quan niệm sống của chủ nhân trống đồng.

Theo Trần Quốc Vượng thì quan niệm sống của chủ nhân trống đồng đã được ghi và kết tinh trong các hình tượng và mô hình trên tang trống. Ông đã dùng kết quả nghiên cứu liên ngành từ dân tộc học và xã hội học để cho thấy quan niệm lưỡng hợp và lưỡng phân trong đời sống tâm linh của người Đông Sơn.

N.I Nicolin trong bài “Trống đồng Đông Sơn và quan niệm cây thế giới” (4) (dịch từ nguyên tác Nga đăng trên tạp chí Khoa học Xã hội) đã so sánh rất hay và lý thú về truyền thuyết người Mường và biểu tượng trên trống đồng Đông Sơn.

Dựa vào các khám phá và nhiều ý kiến về biểu tương trên trống đồng của các nhà khảo cổ Việt Nam gần đây (như Lê Văn Lan) cho rằng trống đồng Đông Sơn biểu hiện mô hình thế giới: mặt trống phía trên là thiên giới và trần giới, phần tang trống là thuỷ quốc và mặt dưới là âm phủ, Nicolin cho rằng có sự liên hệ mật thiết giữa trống đồng, biểu tượng trên mặt trống và huyền thuyết của người Mường, một dân tộc rất gần với người Việt.

Trong tâm linh và thần thoại người Mường về sáng tạo vũ trụ, con người, “cây cuộc sống” biểu hiện nguyên lý về trật tự thế giới đối nghịch với trạng thái hỗn mang khi thế giới tạo lập. Trong truyền thuyết sử thi “Đẻ đất đẻ nước”, một văn bản chính yếu của văn hoá Mường

Ngày xưa sinh đời trước

Dưới đất chưa có đất

Trên trời chưa có trời,

Trên trời chưa có ngôi sao đỏ đỏ

Dưới đất chưa có ngọn cỏ xanh xanh

Con nhà, con người muốn dậy

Chưa có mặt mủi

“Cây cuộc sống” xuất hiện chấm dứt tình trạng hổn mang

Mọc lên một cây xanh xanh

Cây xanh có chín mươi cành

Cành mọc lên trời lá xanh biết cựa

Thân trên mặt đất thân cây biết rung

Cành bung xung có tiếng đàn bà con gái

Cành chọc trời biến nên cật đứa cái

Là ông Thu Tha

Cành bung xung biến nên cật đứa con maí

Là bà Thu Thiên

Ra truyền: làm nên đất nên trời

Tâm linh về “cây cuộc sống” cũng có ở các dân tộc Việt, Lào (4). Cây là hiện thân số phận của con người trong dân tộc người Ê Đê. Tục thờ cây cối là một tín ngưỡng xưa của người Việt. Truyền thuyết trầu cau thể hiện tục thờ cây (10). Theo Trần Quốc Vượng (9), thì tục thờ mẫu Liểu Hạnh, một trong Tứ Bất Tử, thì Liễu Hạnh, cùng hai đàn em trong Phủ là chầu Quỳnh, chầu Quế cũng như tên chồng của Mẫu là Đào lang, đều là tên cây, hoa. Ông cho rằng tục thờ mẫu Liễu Hạnh có liên hệ cội nguồn với tục thờ cây cối.

Cây cũng đdại diện cho bộ tộc người Chàm trong truyền thuyết lịch sử: bộ tộc dừa, bộ tộc cau. Cùng với cái chết của cây crêc (cây sắt) thì đất nước cũng diệt vong. Cũng vậy trống đồng biểu hiện “cây thế giới” cũng có thể biến thành cây chết, với sự khám phá trong một ngôi mộ cổ: trống bị lật ngược với mặt trên bị thủng.

Ở thế kỷ 1 sau công nguyên, Mã Viện nhà Hán sau khi chinh phục dân tộc Lạc Việt đã thu thập và nấu hết các trống đồng “cây sống” tượng trưng cho sức mạnh dân Việt. Mã Viện cũng dựng lên một “cây chết” trụ đồng với dòng chữ: “Đồng trụ triết, Giao chỉ triệt”. Theo Minh sử thì “Trống mất thì vận người Man cũng mất” cho thấy vị trí của trống đồng trong sự sống còn của bộ tục chủ nhân làm trống.

Giữa mặt trống ở trung tâm là hình “ngôi sao” mặt trời với 14 tia sáng, tượng trưng cho tục thờ Mặt trời. Sau các vòng tròn đồng tâm trang trí, là vòng thứ 6 mô tả xã hội loài người, các hội hè nghi lễ, các hình vẽ nhà sàn, các hình người đánh trống, đánh cồng. Cồng sử dụng trong ngày hội tượng trưng cho sự sinh sản thịnh vượng. Người Mường theo tập tục mẫu hệ, chiếc cồng biểu hiệu cho bộ ngực người phụ nữ và chiếc cồng với những quả bí ngô liên kết với nhau biểu tượng cho sự phồn thực.

Trên trống đồng, ta thấy có nhiều mo-típ về chim, và người ăn mặc dưới dạng chim. Sự phồn thực cũng có thể liên quan đến nhóm hình trên trống Ngọc Lũ: hình một người đàn bà và một người đàn ông dùng chày giã gạo trong cối đá. Phía trên nhóm hình này là bầy chim bay liệng - đó là linh hồn trẻ nhỏ chuẩn bị đầu thai vào lòng phụ nữ. Cũng như chim Lạc của bộ tộc người Lạc Việt, theo người Mường thì thuỷ tổ của họ được coi là loài chim.

Thế giới trên vòng tròn đồng tâm thứ 8 thể hiện thế giới loài vật. Thế giới này được thể hiện bởi hai đàn chim và hai bầy hươu (hoẵng). Trong “Đẻ đất đẻ nước”, bên cạnh cây thế giới ta cũng thấy hoẵng và chim

Đàn hoẵng chầu ở giữa

Lũ phượng hoàng chầu ở trên

Lũ chim nên chầu ở cành si, cành đa.

Trên vòng đồng tâm thứ 10, vẽ 18 con chim bay và 18 con chim đậu. Các con chim bay giống như những tia mặt trời liên kết thiên giới với trần giới. Những con chim đậu ở nước (thuỷ điểu) liên kết trần giới, thiên giới với thuỷ quốc. Đằng sau các thuỷ điểu là những con ếc đúc nổi bằng đồng. Các loài ếch này coi là trung gian giữa thiên giới và trần giới với tiếng kêu báo hiệu mưa từ trời. Trong dân gian Việt nam, con cóc ếch vẫn còn được gọi là “cậu ông Trời”.

Như vậy trên “cây thế giới” trống đồng, ta thấy cả những biểu tượng thể hiện tâm linh và văn hoá của chủ nhân trống đồng. Nó liên kết thiên giới, trần giới, xã hội loài người và thuỷ quốc.

Tham khảo

(1) Hà Văn Tấn chủ biên - Văn hóa Đông Sơn ở Việt Nam, Viện khảo cổ học, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1994

(2) Bửu Cầm - Tương quan giữa những hình chạm trên trống đồng Việt tộc và bài “Đồng Quân” trong Sở từ, Tập san Sử Địa, Số 25, 1973, Saigon, trang 49-80.

(3) Phạm Minh Huyền, Diệp Đình Hoa - Vị trí địa điểm khảo cổ học Thiệu Dương (Thanh Hóa) trong văn minh Đông Sơn, Khảo cổ học, 2/1981, trang 19-34.

(3b) Nguyễn Duy Hinh - Đồ đồng vùng Đông Nam Trung Quốc, Khảo cổ học, 2/1982, trang 29-33.

(3) Phan Đức Mạnh - Lịch sử nghiên cứu khảo cổ học thời tiền sử Đông Nam Bộ, Tạp chí Khoa học Xã hội, Tp. HCM, 13 (III/92), 1992, trang 47-52

(4) N.Ị Nicolin - Trống đồng Đông Sơn và quan niệm cây thế giới, Tạp chí Khoa học xã hội, Tp Hồ Chí Minh, 12, II/92, trang 60-68.

(5) Ha Văn Tấn - Văn hoá Phùng Nguyên, nhận thức mới và vấn đề, Khảo cổ học, 1/1978, trang 5-22

(6) Chử Văn Tần - Về văn hoá Sa Huỳnh, Khảo cổ học, 1/1978, trang 52-60.

(7) Diệp Đình Hoa - Người Việt cổ phương Nam vào buổi bình minh dựng nước, Khảo cổ học, 1/1978, trang 61-69.

(8) Trịnh Cao Tưởng - Kiến trúc đình làng, Khảo cổ học, 2/1981, trang 56-64.

(9) Trần Quốc Vượng - Theo dòng lịch sử, những vùng đất, thần và tâm thức người Việt, Nxb Văn Hoá, Hà Nội, 1996.

(10) Nguyễn Đăng Thục - Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Tập 1, Nxb Tp HCM, 1992.

Nguồn: http://vannghesongcuulong.org

NGUYỄN ĐỨC HIỆP

Share this post


Link to post
Share on other sites

Kính thưa quí vị quan tâm.

Nguyên văn bài viết tôi đã trình bày lại ở trên trong topic này. Vì nó quá dài, để tiết kiệm diễn tích, tôi không chép lại nguyên văn xuống đây. Nội dung bài viết này của tác giả Nguyễn Ðức Hiệp mới nhìn thoáng qua thì có vẻ như chỉ giới thiệu những tư liệu phản ánh hiện tượng khảo cổ - tức có vẻ như hoàn toàn khách quan. Nhưng sở dĩ Thiên Sứ tôi xếp nó vào loại phủ nhận giá trị văn hóa sử truyền thống chính bởi những lập luận hoàn toàn chủ quan mà tôi sẽ trích dẫn và phân tích sau đây.

Tác giả Nguyễn Đức Hiệp viết:

Đáng chú ý, là từ các di chỉ tiền Đông Sơn khám phá ở các vùng trung du và đồng bằng Bắc bộ đến các nghiên cứu về dân tộc và xã hội học, ta có thể thấy sự phát triển liên tục của văn hoá, văn minh Đông Sơn và cho thấy tính chất nội sinh và bản địa của nó. Các yếu tố ảnh hưởng từ ngoài, mà nguồn chính là từ vùng thảo nguyên Trung Á, thể hiện ở một số nhỏ hoa văn động vật và phong cách, cho thấy sự trao đổi văn hoá, kinh tế qua con đường từ trung du Bắc bộ đến Vân Nam và Tứ Xuyên qua sự trung gian của văn hoá Điền ở vùng Hoa nam.

Qua đoạn trích dẫn trên thì quí vị quan tâm cũng thấy rằng: Tác giả đã khoanh vùng văn hóa Đông Sơn giới hạn ở đồng bẳng Bắc bộ so với các vùng văn hóa lân cận là: Điền ở Hoa Nam, Vân Nam, Tứ Xuyên. Sự khoanh vùng văn hóa này là nguyên nhận trực tiếp dẫn tới tách rời văn hóa đông bằng sông Hồng với lịch sử Bách Việt dưới quyền trị vì của các vua Hùng theo truyền thuyết và cổ sử ghi nhận:

Bắc giáp Động Đình Hồ, Nam giáp Hồ Tôn, Đông Giáp Đông Hải, Tây giáp Ba Thục.

Tất nhiên đây là quan điểm hoàn toàn chú quan của tác giả. Ông ta không thể chứng minh được tính đặc trưng của văn hóa đồng bằng sông Hồng với văn hóa các vùng lân cận nói trên.

Chính ông ta cũng thừa nhận:

Mặc dầu không thống nhất trong sự xác định về niên đại của trống đống và văn hoá Đồng ở Đông Nam Á và Nam Trung Quốc, hiện nay các nhà khảo cổ cho rằng thời gian này kéo dài từ khoảng thế kỷ 9BC đến thế kỷ 1 sau công nguyên. Thời gian này tương đương với thời Hùng Vương đến giai đoạn đầu của Bắc thuộc trong lịch sử Việt Nam.

Đã chưa thống nhất tất nhiên là có những mâu thuẫn trong việc lý giải niên đại. Nhưng tác giả đã vội vã kết luận về niên đại Hùng Vương tương đươc với niên đại xác định của những di vật khảo cổ tìm thấy. Cho rằng hiện vật khảo cổ xưa nhất tìm thấy có niện đại không quá 9BC. Nhưng điều đó không có nghĩa là thời Hùng Vương chỉ có từ thế kỷ thứ 9BC.

Di vật khảo cổ không phải là bằng chứng duy nhất chứng minh cho lịch sử, mà nó chỉ có thể là sự biện minh sắc sảo cho những luận cứ lịch sử.

Ông ta dẫn chứng những công trình nghiên cứu của Đào Duy Anh như sau:

Theo Đào Duy Anh, căn cứ vào thư tịch cổ Trung Quốc và Việt Nam, thi văn hoá Đông Sơn khởi từ thế kỷ 8BC đến thế kỷ 1 sau công nguyên. Ông chia ra làm 3 giai đoạn phát triển: giai đoạn 1 là giai đoạn hưng thịnh điển hình với các trống Ngọc Lũ, Hoàng Hạ tương đương với thời kỳ hưng thịnh Hùng Vương. Giai đoạn 2 là giai đoạn tiến triển với trống Việt Khê, thạp Đào Thịnh, tương đương với cuối thời Hùng Vương và An Dương Vương. Giai đoạn 3 là giai đoạn suy vi, tương đương với thời kỳ đầu Bắc thuộc, Tây Hán và Đông Hán. Trần Mạnh Phú dựa vào diển biến hoa văn trên trống đồng cũng chia văn hoá Đông Sơn ra 3 giai đoạn như trên của Đào Duy Anh với giai đoạn 3 thuộc thời đại dồ sắt từ thế kỷ 2 trước công nguyên đến đầu thế kỷ 1 sau công nguyên.

Nhưng chúng ta cũng thấy rằng: Cái "theo Đào Duy Anh" đó hoàn toàn khập khiễng khi ông này căn cứ vào thư tịch Trung Quốc, mà thực tế những thư tịch này xuất hiện rất muôn sau khi thời đại Hùng Vương Kết thúc từ thế kỷ thứ IIIBC. Cũng ông Đào Duy Anh cũng căn cứ theo thư tịch Trung Quốc để kết luận "Thục Phán là con vua Thục" và tôi đã chỉ ra sai lầm của ông từ năm 1999 trong cuốn "Thời Hùng Vương và bí ẩn Lục thập hoa giáp". Vậy chứng tỏ rằng: Đào Duy Anh và những tư liệu của ông ta dẫn chứng không đủ cơ sở để tin cậy.

Đối với bài viết này, có những tư liệu có giá trị có thể góp phần minh chứng cho nền văn hiến Việt, như những đoạn sau đây:

Cũng nên nhắc lại là từ miền Nam Trung Quốc xưa kia ở vào khoảng niên đại của trống đồng (thế kỷ 9 BC đến thế kỷ 2 AD) là vùng cư ngụ của các bộ tộc Bách Việt trước khi bị Hán hoá. Ở đây, văn hoá Đông Sơn cũng phát triển ở các bộ tộc vùng Hoa Hạ. Các lễ nghi, sinh hoạt của các dân trong thời này đã cho thấy rõ ràng tính chất của văn hoá Đông Sơn.

Bửu Cầm (2), trong bài triển khai từ nghiên cứu của Lăng Thuần Thanh “Đồng cổ đồ văn dữ Sở từ Cửu ca” (đăng trong Quốc lập trung ương nghiên cứu viện viện san đệ nhất tập, Đài bắc 1954, tr. 403-417) cho thấy họ Lăng dùng bài Đông quân trong Cửu ca của người dân Sở và những tài liệu dân tộc học về người A-Mi ở Đài Loan, người Nagas ở Assam cùng người Dayak ở Borneo để giải thích hình chạm trên trống đồng. Theo Bửu Cầm, Cửu ca của dân tộc Sở chẳng khác gì những bài “văn chầu” của đạo “thờ chư vị” ở nước ta. Nước Sở ngày xưa tuy rộng lớn nhưng dân tộc Sở không quá phức tạp, phần nhiều là giống Bộc, Lão tức Việt tộc, hoặc nói theo ngôn ngữ đời nay là giống Indonesian. Chính Sở vương Hùng Cừ đã nói: “Ta là man di, không cùng hiệu thụy với Trung quốc”.

Tuy nhiên tác giả lại không có một tư duy hợp lý với những vấn đề mà chính tác giả đề cập đến trong bài viết như trên, mà lại phân biệt những giá trị văn hóa giữa Bách Việt và Lạc Việt khí mà chúng có những nét đặc thù văn hóa giống nhau:

Đồ đồng và trống đồng khám phá ở khu vực đông Nam Trung quốc được chia ra ba nhóm (3b) nằm trên 3 khu vực Tả Giang, Hữu Giang (giáp ranh với biên giới Việt Nam hiện nay) và Quế Giang-Tương Giang (giữa tỉnh Hồ Nam và Quý Châu). Đây cũng là vùng của các nhóm bộ tộc Việt: Lạc Việt, Câu Đinh, và Tây Âu. Các hoa văn trên một số trống đồng và rìu đồng giống hoa văn của nhóm Lạc Việt ở Bắc Việt Nam nhất là các rìu đồng hình hia tìm được ở vùng bộ tộc Tây Âu. Vùng Quế Giang của nước Tây Âu giáp với Hồ Nam bên kia Ngũ Lĩnh là địa phận xưa của văn hoá Sở..

Tức là chính tác giả cũng thừa nhận: Trống đồng là một biểu tượng văn hóa của Nam Trung Hoa và Việt Nam ngày nay. Điều này chúng tỏ từ BC đã có một sự thống nhất văn hóa ở vùng này và đó là một minh chứng sẵc sảo cho một dân tộc và một quốc gia thống nhất đã tồn tại ở đây.

Nhưng tác giả lại tách rời những giá trị văn hóa chung Nam Dương Tử - gồm Bắc Việt Nam - ra thành một loại hình văn hóa trống đồng riêng của người Lạc Việt với giới hạn ở Bắc Việt Nam, những nét chung thì họ cho rằng đó chỉ là sự giao lưu văn hóa.

Từ thập niên 60 đến nay, các học giả Việt Nam đã khai quật nhiều di tích Tiền Đông Sơn và Đông Sơn và đã công bố nhiều công trình nghiên cứu gần đây cho thấy có sự liên tục của các nền văn hoá. Từ đó đã khẳng định là nguồn gốc kỹ thuật và trống đồng Đông Sơn là nội sinh từ bản địa chứ không phải di từ bên ngoài vào (1). Tuy không phủ định là có sự giao lưu văn hoá giữa Đông Sơn ở Việt Nam, Nam Trung Quốc và vùng đồng cỏ phía Tây cho đến văn hoá Hallstatt Châu Âu, nhất là sự tương quan của một số hoa văn như các hoa văn ngôi sao trung tâm, xoắn ốc, thừng tết.. nhưng có rất nhiều hoa văn đặc biệt bản địa mà chỉ có ở Đông Sơn Việt Nam như nhà sàn, thuyền, người mặc áo lông chim, chim, cá, voi, hổ, hươu, cóc ... . Đặc biệt “thần thái Đông Sơn” trên trống đồng có tính chất bản địa Lạc Việt và khác xa với thần thái của trống đồng và đồ đồng của các văn hoá khác.

Chính vì sự chia tách hoàn toàn chủ quan cho văn hóa Đông Sơn với các vùng miền lân cận ở Nam Dương Tử, nên tác giả đã kết luận văn hóa Đông Sơn chỉ có ở đồng bắng Bắc bộ với các địa danh trong đoạn trích dẫn sau đây:

Văn minh và văn hoá Đông Sơn có thể được hiểu rộng hơn bao gồm bắt đầu từ giai đọan văn hoá Đồng Đậu, Gò Mun, Gò Chiền cho đến giai đoạn Đường Cổ ở vùng Trung du Bắc Việt tương đương với giai đoạn Đồng Ngầm, Quì Chử tới Đông Sơn ở vùng sông Mã, Thanh Hoá (3a). Có thể tóm tắt văn hoá Đông Sơn là sự liên tục của nền văn minh Đông Sơn bắt đầu từ giai đoạn văn hoá Phùng Nguyên ở sông Hồng, văn hoá Quỳ Chữ ở sông Mã và Rú Trăn ở sông Cả.

Đến đây thì quí vị quan tâm cũng nhận thấy tính chủ quan trên cơ sở phân tích các hiện tượng khảo cổ của tác giả bài viết này khi ông ta khoanh vùng văn hóa Đông Sơn chỉ giới hạn ở vùng đồng bằng Bắc Bộ và phủ nhận mối liên hệ với những giá trị văn hóa trồng Đồng phổ biến tận miền Nam Dương Tử. Trồng đồng - một biểu tượng và đặc trưng văn hóa Bách Việt có ở khắp miền nam Trung Hoa Hiện nay và rải rác ở các vùng Đông Nam Á và cả Nhật Bản. Tất nhiên không thể nói rằng Trồng Đồng Đông Sơn và Trồng đồng ở các vùng miền khác ở Đông Nam Á và Nam Trung Hoa hiện nay là thuộc những vùng văn hóa khác nhau trong thời đại của nó được. Khi chính tác giả và những đồng nghiệp của ông thừa nhận thuần túy yếu tố bản địa.

Chính bởi sự chủ quan này và tính giới hạn nghiên cứu cổ sử Việt chỉ ở trong vùng Bắc Việt Nam ngày nay, nên nó không thể là bằng chứng khoa học phủ nhận những giá trị truyền thống văn hóa sử xác định thởi Hùng Vương có lãnh thổ ở Nam Dương Tử.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Kính thưa quí vị quan tâm.

Đây là bài thứ ba theo thuận tự sưu tầm được về những bài viết có luận điểm phủ nhận giá trị văn hóa sử truyền thống Việt. Thiên Sứ tôi đưa lên đây toàn văn bài viết để quí vị quan tâm tham khảo trước khi phản biện. Để bảo đảm tính công bằng và dân chủ, tôi sẽ phản biện theo thuận tự không phân biệt bằng cấp và chức vụ học thuật. Bài của ai sưu tầm trước sẽ phản biện trước, ai sau sẽ phản biện sau.

Cảm ơn sự quan tâm của quí vị.

*

Thiên nhiên nước ta ở buổi đầu của dân tộc

Lê Văn Hảo
Trích Hành trình về thời đại Hùng Vương dựng nước

Tổ tiên ta đã khéo chọn cho mình một miền đất độc đáo ở vào vị trí tiếp xúc của nhiều hệ thống địa lý: nước Văn Lang nằm trong vòng đai nhiệt đới mà lại không đơn thuần là một nước nhiệt đới. Từ ngàn xưa, gió mùa đã ảnh hưởng sâu sắc đến thiên nhiên nước ta, một thiên nhiên muôn màu muôn vẻ với nhiều rừng rậm núi cao, sông dài biển rộng, với vùng cao, vùng trung du và miền đồng bằng.

Ngày nay rừng rậm đã lùi dần lên vùng cao về phía tây, sau một quá trình đấu tranh dài hàng nghìn năm giữa con người với thiên nhiên, nhưng ở thời đại dựng nước, rừng còn lan khắp vùng trung du và cả một phần lớn đồng bằng. Nhiều vùng gò đồi trọc hiện nay xưa kia đã phủ rừng dày đặc. Ngay tại đồng bằng còn giữ được nhiều di tích của rừng: mỏ than bùn thấy ở nhiều nơi như Thạch Thất (Hà Tây), Lỗ Khê (ngoại thành Hà Nội); rừng gỗ tứ thiết ở Sặt (Tráng Liệt, Bắc Giang), rừng Báng (Đình Bảng, Bắc Ninh), đồi Lim, làng Lim, phà Rừng... Trong các di tích khảo cổ ở đồng bằng, đã tìm thấy xương cốt nhiều loại thú rừng.

Cư dân nước Văn Lang sống tập trung trên những đồng bằng ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ; quá trình kiến tạo đồng bằng chưa hoàn thành thì bàn tay con người đã sớm dựng lên những công trình thủy lợi để khai thác trồng trọt trong những điều kiện thổ nhưỡng và khí hậu thích hợp với nghề trồng lúa nước. Chiến thắng của Sơn Tinh chính là chiến thắng lũ lụt của những người Việt cổ trị thủy tài giỏi, đã gây dựng nên những cánh đồng màu mỡ ven những dòng sông lớn.

Nhìn chung, mọi người đều nhất trí là tổ tiên ta đã dựng nước trong một khung cảnh thiên nhiên thích hợp, thuận lợi, trên một dải đất nhiều núi rừng, nhiều sông ngòi, hồ ao, đường giao thông thuận tiện, giàu khoáng sản, lâm sản, hải sản, trên những đồng bằng màu mỡ thích hợp với nghề nông. Những yếu tố thiên nhiên tích cực này đã góp phần đẩy mạnh quá trình tiến bộ kinh tế và văn hoá, đưa đến việc dựng nước Văn Lang, một nước có đủ sức chống ngoại xâm, có nền văn minh nông nghiệp phát triển rực rỡ ở vùng Đông Nam Á cổ đại.

Thế giới thực vật thời đại dựng nước

Nghề trồng trọt đã giữ một địa vị quan trọng trong đời sống kinh tế của cư dân Việt cổ từ buổi đầu dựng nước. Di tích thực vật thu thập được từ các địa điểm khảo cổ tuy chưa được nhiều lắm như cũng đủ cho thấy sự phát triển của nghề trồng trọt.

Con người thời đó đã quen với những loại cây dương xỉ, tùng bách... Trên nương rẫy, vườn ruộng của họ đã có mặt những loại cây thiết thân với các cư dân nông nghiệp cổ đại. Đó là những cây na, cây trám, cây đậu, cây dâu tằm, cây bầu, cây bí, cây cải cúc, cây tre, và nhất là cây lúa.

Ở di chỉ Đồng ĐẬu, đã tìm thấy những hạt thóc đã cháy thành than cách đây trên dưới 3300 năm. Ở di chỉ Gò Mun đã phát hiện được cả một hầm chứa ngũ cốc. Ở di chỉ Gò Chiền, dấu vết của những vỏ trấu, than trấu còn thấy khá rõ. Đặc biệt ở di chỉ Hoàng Ngô còn tìm thấy một hạt đậu nguyên vẹn. Người Việt cổ còn biết trồng khoai, trồng bông, trồng dưa, trồng trầu và cau. Các sách cổ của Trung Quốc như Nam Phương thảo mộc trạng, Giao châu ký, Tam đô phủ, Thủy kinh chú, Tề dân yếu thuật, Ngô lục địa lý chí... đều có ghi chép về việc người Lạc Việt biết trồng khoai, đậu, dưa, bông, trồng dâu nuôi tằm, mặc dù sách ghi chép những sự việc trong thời Bắc thuộc nhưng chắc chắn những loại cây trồng này đã có từ trước.

Truyền thuyết của nhân dân ta về thời đại Hùng Vương có nói đến một vài loại cây trồng như cây lúa trong truyện Bánh chưng bánh giầy, cây cau trong truyện Trầu cau, cây dưa dấu trong truyện An Tiêm. Hình ảnh sống động của cây lúa còn thấy ở nhiều truyền thuyết, cổ tích của các dân tộc anh em như truyện Nàng tiên trứng của đồng bào Tày, truyện Khả Sắc Sia của đồng bào Thái, truyện Nam A-lách của đồng bào Gia-rai, truyện Đum Đú với nàng tiên của đồng bào Ê-đê, truyện Cô gái thứ mười của đồng bào Hơ-rê, truyện Phu-man của đồng bào Ba-na...

Nông nghiệp thời đại Hùng Vương là nông nghiệp trồng lúa trong đó việc trồng lúa nước chiếm vị trí chủ đạo. Nghề trồng lúa xuất hiện ở nước ta khá sớm và có thể coi đó là một truyền thống của dân tộc ta. Cho đến nay nguồn gốc cây lúa còn là một vấn đề đang được tranh luận sôi nổi trên thế giới. Ý kiến của các nhà nghiên cứu rất khác nhau, trong đó có một số người cho cây lúa có nguồn gốc từ Việt Nam, ví dụ như Cô-xven (Liên Xô) trong tác phẩm Sơ yếu lịch sử văn hoá nguyên thủy hay như Tùng Vinh Hiếu Linh (Trung Quốc) trong công trình Nghiên cứu tổng hợp về cây lúa.

Các sách cổ của Trung Quốc và của ta đã nói đến nhiều giống lúa có ở Việt Nam. Đặc biệt là nhà bác học Lê Quý Đôn ở thế kỷ 18, trong bộ bách khoa toàn thư Vân đài loại ngữ đã kê ra hơn 100 giống lúa tẻ và lúa nếp, đồng thời ông đã mô tả một cách tương đối chi tiết đặc tính của các giống lúa, những kinh nghiệm gieo trồng và năng suất. Không phải ngẫu nhiên mà có thể kể ra một số lượng phong phú các giống lúa và đặc tính của giống lúa như thế. Bởi vậy, rất có khả năng là từ thời Hùng Vương đã có một số giống lúa khác nhau. Điều này đã được phản ánh trong phong tục tập quán cổ ở vùng đất Tổ: Tại Đền Hùng, hàng năm vào ngày hội đều có giữ tục cúng các vua Hùng bằng xôi nhiều màu: xôi trắng, xôi nhuộm đỏ, xôi nhuộm tím có ý nghĩa tượng trưng cho nhiều giống lúa khác nhau đã trồng được ở thời đấy, đánh dấu những tiến bộ vượt bực của nền nông nghiệp Việt cổ.

Sách cổ của ta đều thống nhất ghi lại sự kiện trồng lúa hai vụ từ xưa ở nước ta: "Lúa ở Giao Chỉ chín hai mùa". Dựa vào địa bàn phân bố của những nơi cư trú thời Hùng Vương, có thể nói cư dân thời này trồng lúa chủ yếu trên 3 loại ruộng: ruộng phù sa ven sông, ruộng trũng quanh các đầm hồ, ruộng rộc trên các gò đồi miền trung du. Kinh tế nông nghiệp đã trở thành một truyền thống của dân tộc ta. Chính truyền thống ấy đã ảnh hưởng và chi phối mọi hình thái ý thức, và ngay cả tâm tư tình cảm của dân tộc ta và đã là cơ sở cho sự phát triển của nông nghiệp sau này. Để trở thành những người nông dân trồng lúa giỏi, tổ tiên ta đã phải khai sơn phá thạch, đấu tranh gian khổ với cái thiên nhiên vừa thuận lợi vừa khắc nghiệt đã được hình tượng hoá trong câu chuyện Sơn Tinh-Thuỷ Tinh. Trong cuộc đấu tranh đó, phần thắng đã về phía tổ tiên ta.

Thế giới động vật thời đại dựng nước

Trong các di chỉ khảo cổ thuộc thời đại dựng nước, chúng ta đã tìm thấy di tích của vài loại động vật không xương sống như cua đồng, ốc vặn, và của hàng chục loài động vật có xương sống từ những con cá chép, cá quả, rùa vàng, ba ba, những con gia súc bạn thân của người như gà, lợn, chó, trâu, bò, đến những thú rừng như: hươu, hươu sao, nai, hoẵng, khỉ, tê giác, voi, hổ, lợn rừng, nhím, cầy hương, rái cá... và nhiều loại chim (1)

Trên trống đồng và đồ đồng Đông Sơn chúng ta còn thấy hình ảnh của cóc, ếch, nhái, thằn lằn, cá sấu, cá nhám, cáo, sóc, hươu, bò u, voi, chó săn...

Trong giới động vật phong phú của thời đại dựng nước nổi bật lên các loài chim mà hình ảnh đã trở nên rất phổ biến trên các trống đồng, thạp đồng, những văn vật tiêu biểu cho văn minh thời đại. Ví dụ như:

Posted Image

Trên mặt và thân trống Ngọc Lũ có đến 50 hình chim.

"Trống Hoàng Hạ (Phú Xuyên, Hà Tây) 34"
"Trống Sông Đà (Khai Hóa, Hòa Bình) 24"
"Trống Miếu Môn (Mĩ Đức, Hà Tây) 32"
"Trống Vũ Bị (Bình Lục, Hà Nam) 22"
"Trống Pha Long (Mười Khương, Lào Cai) 19"
"Trống Duy Tiên (Hà Nam) 18" v.v...


Những con số trên đây nói lên sự quen thuộc của các loài chim đối với thế giới quan của người Việt cổ. Hình ảnh của chim trong thiên nhiên đã được nhào nặn qua tư duy mỹ thuật và trí tưởng tượng của ngưởi xưa và được thể hiện với những nét cách điệu cao. Từ những hình nét cách điệu đó chúng ta vẫn có thể tìm lại được bóng dáng hiện thực của các loài chim.

Dạng phổ biến nhất là những con chim bay có mỏ dài, nhọn, chân dài, cổ thanh và nhỏ, đầu có mào, lông xuôi về phía sau. Đây là những con chim thuộc loài cò, vạc, diệc...

Trên trống đồng, chúng ta còn gặp một dạng chim giống như loài cò thìa, đang đứng tư lự, chân cao, đôi cánh khép lại, chiếc mỏ dài mềm mại hơi cong xuống phía dưới và bè ra ở phần cuối mỏ thành một hình thoi. Loài cò thìa này ngày nay vẫn thấy ở một số vùng đồng bằng và trung du miền Bắc nước ta.

Một dạng chim khác cũng thường được trang trí trên trống đồng là loài bồ nông mỏ rất to, chân ngắn, đang trong tư thế bắt một con cá từ dưới nước lên. Những con chim bơi theo thuyền trên thạp Đào Thịnh là loài xít, mỏ tù, thân tròn, trên thân có điểm các chấm nhỏ, khi bơi chỉ thấy phần đầu và thân nổi lên mặt nước, loài này hiện nay vẫn thường sống ở những vùng đồng lầy và cửa sông.

Trên mái nhà sàn ở trống Ngọc Lũ và Hoàng Hạ thấy khắc những con gà lôi mỏ ngắn, mào nhỏ, chân ngắn, trên thân có những vạch nhỏ, ngắn; những con gà lôi lớn thì có bộ lông đuôi to và dài, đó là những con trống, còn con nhỏ trong mỗi đôi là con mái. Riêng trên mái nhà kho (nhà cầu mùa) ở trống Hoàng Hạ lại có một đôi gà: một trống một mái đang quay đầu vào nhau.

Trên trống Ngọc Lũ có một dạng chim khá đặc biệt đó là loài công, mỏ tù, dạng mỏ của loài ăn hạt, trên đầu có hai mào, lông khá lớn dựng đứng, đuôi dài, chân cao. Công là một loài chim quý có khắp nơi ở nước ta trước đây. Đền vua Thục An Dương Vương ở Diễn Châu (Nghệ An) được xây dựng cạnh một khu rừng có nhiều công gọi là rừng Cuông (tiếng địa phương đọc trại công thành cuông) và đền vua Thục quen được gọi là đền Cuông. Trên trống Ngọc Lũ còn có hình đôi chim công lớn nhỏ đang cõng nhau.

Trên một cán dao găm đồng tìm thấy ở di chỉ Đông Sơn có hình một con chim gõ kiến có mỏ to, chân đang bám chắc vào thân cây ở tư thế đặc biệt của những loài chim thuộc họ gõ kiến.

Trong những hình thú vật thể hiện trên trống đồng và đồ đồng, phổ biến hơn cả là hình hươu. Những đặc điểm của loài hươu được thể hiện khá đầy đủ ở những con đi đầu đàn trên mặt trống đồng với cặp sừng mỗi bên 4 nhánh và những đốm nhỏ rải rác trên thân. Đó là những con hươu sao đực. Trong đàn hươu đang thong thả nhịp bước, người nghệ sĩ Việt cổ đã cố ý sắp thanh từng cặp: một đực một cái, và hươu cái cũng có cặp sừng như hươu đực. Như chúng ta đã biết, trong họ hươu chỉ có những con đực mới có sừng, những con cái không có, phải chăng nghệ sĩ xưa đã cho mỗi con hươu cái thêm một cặp sừng để làm tăng thêm vẻ đẹp trang trí của tác phẩm?

Thêm các trống đồng Đồi Ro, Làng Vạc có hình những con bò nhà thuộc loại bò u (hay bò Ấn Độ) với thân hình cân đối, cặp sừng cong vút khỏe, cổ có yếm mỏng, trên lưng có một bướu nhô lên ở phần vai khá rõ. Loài bò u này có mặt ở Việt Nam từ 2000 đến 3000 năm trước đây.

Trên trống đồng và đồ đồng Đông Sơn có khắc nhiều dạng chó ở những tư thế và trạng thái khác nhau: đó là loài chó nhà, con thì đang đuổi theo con mồi (chó săn hươu, nai...), con thì đang cùng người vượt qua muôn trùng sóng gió trên những con thuyền lớn (như trên trống Ngọc Lũ). Trên nắp thạp Vạn Thắng (Chí Linh, Hải Dương), trên lưỡi đồng Sơn Tây, ta thấy hình hổ và báo trong tư thế đang vồ mồi. Ở một lưỡi qua đồng khác, dễ dàng nhận ra hình dáng một con voi với thân hình to khỏe, đặc biệt là chiếc vòi dài thả xuống phía dưới, đầu vòi cuộn tròn lại. Ở một lưỡi giáo đồng Đông Sơn có khắc hình hai con cáo đối xứng nhau, mõm dài, tai to, đuôi dài và cuộn tròn lại, toàn thân và 4 chân đều có vẻ hình rất linh hoạt. Trên thạp đồng Đào Thịnh có hai con cá sấu đang giao nhau.

Những kiến thức đầu tiên về thế giới tự nhiên của người Việt cổ

Posted Image


Nhìn ngắm những hình thú, hình chim khác nhau khắc trên đồ đồng Đông Sơn, chúng ta hẳn phải ngạc nhiên trước tài mô tả hiện thực của người xưa. Ví dụ, chim luôn luôn được thể hiện với nhiều hình dạng và tư thế khác nhau. Những con chim đang nối nhau lượn vòng trên mặt trống, trên thân thạp gợi cho ta cảm giác về đàn cò trắng đang thẳng cánh bay về những phương trời xa thẳm. Trên hình thuyền trang trí ở thạp Đào Thịnh có cả một bầy chim đang bay lượn: con đang lao vút từ mặt nước lên, con đang vùn vụt bay về phía trước, con đang đập cánh chơi vơi trên không, con đang từ từ đỗ nhẹ nhàng xuống khoang thuyền... chỉ trong một khoảng không gian nhỏ bé giới hạn trong một khoang thuyền mà chúng ta đã chứng kiến một cách đầy đủ những dáng bay cơ bản của loài chim. Những dạng chim đậu cũng được thể hiện công phu: con đang co ro chăm chú rình mồi dưới nước, con đậu trên nóc nhà, có chỗ thành từng đôi chụm đầu vào nhau như đôi bạn tri kỷ, con đậu trước mũi thuyền đang bập bềnh trên sóng nước. Chim còn được thể hiện linh hoạt trong lúc đang bắt mồi hay đang ghép đôi (2).

Chim được thể hiện ở nhiều nơi, nhiều chỗ trên bầu trời, trên mặt nước, chim sà vào đậu trên nóc nhà, đậu xuống khoang thuyền hay bay lượn bên người đang giã gạo, đánh chiêng... Chim và người, người và chim, cùng với nhiều sinh vật quen thuộc khác: chó, hươu, bò, voi, cóc, ếch nhái... nói lên cuộc sống gần gũi, hài hoà, gắn bó với thiên nhiên của tổ tiên ta. Hiểu biết được tự nhiên chính là nguồn sức mạnh to lớn khiến con người có thể chinh phục và tiến tới làm chủ tự nhiên. Người Việt cổ đã ghi lại sự hiểu biết về tự nhiên của mình một cách cụ thể sinh động và sự khái quát hoá nhận thức của mình bằng những hình tượng nghệ thuật tài tình. Tác phẩm nghệ thuật của người xưa giúp chúng ta sống lại với thiên nhiên từ buổi đầu dựng nước, một thiên nhiên giàu có và tươi đẹp trong đó thiên nhiên với con người, con người với thiên nhiên chan hoà làm một. Những kiến thức phong phú của tổ tiên ta về thiên nhiên, về giới thực vật và động vật là một phần trong toàn bộ kho tàng nhận thức về tự nhiên mà tổ tiên đã có được và đã tạo nên sức mạnh vĩ đại khiến người xưa viết nên những trang sử văn minh rực rỡ đầu tiên mà ngày nay chúng ta còn thắm thiết tự hào.

-----------------------------
(1) Vũ Thế Long và Trịnh Cao Tưởng, Tìm hiểu những di tích động vật và thực vật thuộc thời kỳ Hùng Vương, trong Hùng Vương dựng nước tập IV. tr. 169-71.
(2) Vũ Thế Long , Hình và tượng động vật trên trống và các đồ đồng Đông Sơn, tạp chí Khảo cổ học, số 14 (1974) tr. 9-17.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Kính thưa quí vị quan tâm.

Mới đọc toàn bộ bài viết trên chúng ta thấy tác giả có vẻ rất ca ngợi sự huyền vĩ của thời Hùng Vương. Nhưng nếu chúng ta loại bỏ những câu chữ ca ngợi chung chung và những đoạn có tính tư liệu trong bài viết thì tính chất phủ nhận truyền thống văn hóa sử Việt chính ở đoạn sau đây:

Cư dân nước Văn Lang sống tập trung trên những đồng bằng ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ; quá trình kiến tạo đồng bằng chưa hoàn thành thì bàn tay con người đã sớm dựng lên những công trình thủy lợi để khai thác trồng trọt trong những điều kiện thổ nhưỡng và khí hậu thích hợp với nghề trồng lúa nước. Chiến thắng của Sơn Tinh chính là chiến thắng lũ lụt của những người Việt cổ trị thủy tài giỏi, đã gây dựng nên những cánh đồng màu mỡ ven những dòng sông lớn.

Chính vì những giới hạn địa lý nói trên trong cổ sử dân tộc Việt là cơ sở lý luận cho quan điểm phủ nhận giá trị văn hóa truyền thống. Lịch sử và truyền thống ghi nhận mà tôi nghĩ rằng - tất cả những người Việt đứng tuổi hiện nay đều biết rất rõ là:

Nước Văn Lang: Bắc Giáp Động Đình Hồ, Nam giáp Hồ Tôn, Tây giáp Ba thục, Đông giáp Đông Hải.

Việc giới hạn địa lý vùng đồng bằng Bắc bộ và Bắc Trung bộ đã phủ nhận giá trị truyền thống văn hóa sử và những tư liệu liên quan. Nếu cho rằng: Căn cứ vào biên giới nước Việt như hiên nay và không bàn tới lịch sử ngoài biên giới thì không phải là căn cứ phủ nhận giá trị văn hóa truyền thống. Và điều này không phù hợp với tiêu chí lịch sử của một dân tộc là:

Lịch sử của một dân tộc được xác định khi dân tộc đó lập quốc.

Do đó khi ông Lê Văn Hảo xác định giới hạn địa lý cho cổ sử dân tộc Việt "Cư dân nước Văn Lang sống tập trung trên những đồng bằng ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ" thì mặc nhiên mọi vấn đề phải xem xét lại. Sự chủ quan và tính bất hợp lý của bài viết này chính từ giới hạn địa lý cho cổ sử dân tộc không có cơ sở.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Kính thưa quí vị quan tâm.

Đây là bài viết thứ 4 theo thuận tự của tác giả Techno.

Lược Sử Cổ Đại Việt Nam

Tác giả: Tranghuyendo_Techno

http://www.lyhocdongphuong.org.vn/diendan/...da_i/t1280.html

Ghi chú: Một phần của bài này đã được Techno trình bày tại CLB VHNT Quận 4, TP HCM, tháng 9 năm 2001.

Dựa vào truyền thuyết, truyện huyền ảo hay thần thoại mà dựng sử, gọi là huyền sử. Dựa vào những thêu dệt, thậm chí phóng đại để dựng sử, gọi là dã sử. Dựa vào quan điểm của chế độ cai trị, chính trị đương thời thì goi là chính sử. v.v… Các loại sử liệu như thế thường có độ tin cậy rất hạn chế, thậm chí còn đi ngược lại thực chứng khoa học … Thế mà nó vẫn được dùng rất phổ biến ở nước ta và một số nước chưa phát triển khác. Tầm ứng dụng của các loại sử này rất lớn, thậm chí được dùng làm tài liệu giảng dạy và học tập chính thức, gây ra bức tranh sai lệch về lịch sử và đánh giá sai từ bạn bè năm Châu.

Một học giả nước ngoài đã hỏi Techno : "Người Việt hiện đại và thông minh của các anh vẫn còn tin chuyện đẻ ra một bọc trăm trứng, nở ra trăm con hay sao ?" Techno : "Đó là truyền thuyết, nó được sáng tác để giải thích chứ không có mục tiêu phổ hiện sự thật, giống như tín đồ Công giáo tin vào Đức Mẹ Đồng trinh đó thôi". Anh ta : "Nhưng đây không phải là đức tin, mà lại là tài liệu giảng dạy chính thức cho cả nước các anh kia mà".

Đến đây thì Techno đành … đánh trống lảng …

Xin lật lại vấn đề một chút : chúng ta dùng từ "lịch sử" đã nhiều, nhưng bản than từ lịch sử thì ít ai muốn động tới. Nói khác đi, bản chất ngữ nghĩa của từ lịch sử chúng ta thường né tránh, đơn giản là do chúng ta … không biết nó là gì, hoặc là chỉ biết một cách mơ hồ, không đủ để phát biểu. Ngay cả trong wikipedia tiếng Việt, trích dẫn cả Bách Khoa toàn thư cũng chỉ mơ hồ:

Nội dung trích dẫnLịch sử là môn học về nghiên cứu và phân tích những sự kiện đã xảy ra. Trong thực tế, chỉ có một số sự kiện lịch sử được xem là "thật". Đa số các nhà nghiên cứu các tường thuật lịch sử này, hay sử gia, tin rằng quan điểm hiện tại của chúng ta có thể đổi cách hiểu những sự kiện xưa. Vì thế cách giải thích những sự kiện xưa thay đổi thường xuyên qua các thời kỳ. Những giải thích dựa theo các nguồn gốc "căn bản" – những văn kiện được viết ra vào lúc đó hay gần sau lúc đó – thường được xem là có giá trị nhất.

http://vi.wikipedia.org/wiki/L%E1%BB%8Bch_s%E1%BB%AD

Vậy, ngữ nguyên của từ "lịch sử" là gì ?

Lịch, là diễn biến đã thật sự xảy ra trong không gian và thời gian, không chịu sự tác động của tri giác và nhận thức của con người. Sử là dấu vết của quá khứ còn lưu lại cho hiện tại và tương lai thông qua nhận thức có tính thời đại của con người.

Chúng ta có thể tóm tắt ý nghĩa ngữ nguyên của từ lịch sử như sau :

1- Lịch sử là diễn tiến khách quan với mốc không gian và thời gian cụ thể của nó.

2- Diễn tiến lịch sử là nằm ngoài tác động của ý thức của con người.

3- Lịch sử được con người ghi nhận (thành văn hoặc không thành văn).

4- Lịch sử mang trong nó tri thức của thời đại.

Vì vậy, mà quan điểm và phương thức luận lịch sử hiện đại cần phải có những tiêu chí nào ?

1- Cần phải khách quan ở mức độ cao nhất có thể có để tránh sai lầm hay bóp méo sự thật một cách chủ quan trong nhận thực, ghi nhận và giảng dạy lịch sử.

2- Lịch sử mang hơi thở của thời đại, nên nó cần được liên tục nghiên cứu theo dữ liệu và phương pháp khoa học mà thời đại chúng ta đang có.

3- Trung thành với nhận thức và tư duy khoa học, tiếp cận sự thật lịch sử đã xảy ra trong quá khứ từ mọi hướng, bằng mọi biện pháp khoa học mà toàn cảnh khoa học – kỹ thuật đương đại cho phép, bổ sung thậm chí phủ định các ghi nhận trước đó về lịch sử khi cần thiết.

Chúng ta quay lại với lịch sử cổ đại Việt Nam …

Posted Image

Trống đồng : Biểu tượng văn hoá và quyền lực của người Việt cổ đại.

Thời kỳ Hồng Bàng theo truyền thuyết và dã sử cho rằng bắt đầu từ năm 2879 TCN, là niên đại vua Kinh Dương Vương, với quốc hiệu Xích Quỷ. Địa bàn của quốc gia dưới thời vua Kinh Dương rất rộng lớn : phía bắc tới sông Dương Tử (cả vùng hồ Động Đình), phía nam tới nước Hồ Tôn (Chiêm Thành), phía đông là Đông Hải (một phần của Thái Bình Dương), phía tây là Ba Thục (Tứ Xuyên, Trung Quốc ngày nay).

Chúng ta sẽ bắt đầu nghiên cứu … trong bài sau.

Lược Sử Cổ Đại Việt Nam

Tác giả:Tranghuyendo_Techno

(tiếp theo)

Nội dung trích dẫnThời kỳ Hồng Bàng theo truyền thuyết và dã sử cho rằng bắt đầu từ năm 2879 TCN, là niên đại vua Kinh Dương Vương, với quốc hiệu Xích Quỷ. . .

Sử theo truyền thuyết của người Kinh - Việt Nam:

Đế Minh là cháu ba đời của vua Thần Nông, đi tuần thú phương nam đến núi Ngũ Lĩnh (thuộc tỉnh Hồ Nam bây giờ) gặp một nàng tiên, lấy nhau sinh ra Lộc Tục. Đế Minh truyền ngôi lại cho con là Đế Nghi làm vua phương bắc, và phong cho Lộc Tục làm vua phương nam, xưng là Kinh Dương Vương, quốc hiệu là Xích Quỷ. Con của Kinh Dương Vương với Long nữ là Sùng Lãm lấy hiệu là Lạc Long Quân nối ngôi, lấy tiên nữ Âu Cơ là con gái của vua Đế Lai, đẻ ra một bọc 100 trứng và nở ra 100 người con. Những người con sinh ra cùng một bọc gọi là "cùng bọc" (hay còn gọi là Đồng bào) để nói rằng tất cả người Việt Nam đều cùng có chung một nguồn gốc... Con cả của thần Rồng Lạc Long Quân và tiên nữ Âu Cơ trị vì dưới tên Hùng Vương, và là vị vua đầu tiên của người Việt. Vì thế, người Việt thường tự xưng là con rồng cháu tiên. Từ đó người Việt đã di cư từ miền nam Trung Quốc hiện giờ đến đồng bằng sông Hồng và hòa nhập với người dân bản xứ. Vào năm 258 TCN An Dương Vương thành lập vương quốc Âu Lạc, tại miền Bắc Việt Nam bây giờ.

Sự thật lịch sử

Cách đây hơn 4.800 năm, toàn bộ vùng nam bắc đại giang Dương Tử chưa hề có chế độ phong kiến, do đó cũng chẳng có nước, có vua nào hết. Thể chế xã hội lúc bấy giờ là cát cứ theo nhóm cộng đồng cư dân có cùng một phong tục, ngôn ngữ, cách sinh sống và làm lụng v.v…

Khu vực đại giang Dương Tử lúc bấy giờ có nhiều nhóm cát cứ như vậy, và họ có các chỉ tiêu nhân trắc gần giống nhau. Người Trung Hoa xưa gọi cư dân phía nam nói chung là Bách Việt, với nghĩa là một trăm bộ tộc Việt. Các sách xưa ghi chép nhiều nhóm người Việt, trong đó có Câu Ngô (句吳), Ư Việt (於越), Dương Việt (揚越), Mân Việt (閩越), Nam Việt (南越), Đông Việt (東越), Sơn Việt (山越), Lạc Việt (雒越, người Kinh ở Việt Nam ngày nay) Âu Việt (甌越, hay còn gọi là Tây Âu - 西甌) v.v... Sách Hán thư (漢書) viết: "Trong vòng bảy hoặc tám nghìn dặm từ Giao Chỉ tới Cối Kê (thuộc vùng Bắc Chiết Giang), ở đâu cũng có Bách Việt, mỗi nhóm có các thị tộc của mình…".

Như vậy chúng ta có thể đính chính sai lầm nhận thức lịch sử quan trọng : đó là không có dân tộc Bách Việt mà chỉ có nhiều thị tộc (tộc người với các thể chế và quan hệ riêng có) Việt được gom chung thành một danh xưng xã hội là Bách Việt.

Theo tập quán kết giao để tránh chiến tranh, người Trung Quốc xưa thường nhận các địch thủ có thế mạnh tiềm tàng làm con, hoặc gả con để kết thân. Ta có thể thấy rằng việc "vua lấy tiên nữ sinh con" là để giải thích việc nhận con nuôi một cách thánh hoá. Người Lạc Việt (*) sinh sống chủ yếu bằng nghề chài lưới trên các lưu vực đại giang, mạnh mẽ và nhiều tham vọng, dưới sự dẫn dắt của Sùng Lãm trẻ trung và hiếu chiến, buộc Lộc Tục phải nhận Sùng Lãm làm con nuôi, ban cho quyền hạn, hiệu là Lạc Long Quân, để tránh phải đối đầu.

Cách đây gần 3.000 năm, trận nhiệt hà dai dẳng và khắc nghiệt đã làm đại giang Dương Tử và các chi – phụ lưu của nó dần dần khô cạn. Các tộc người trong Bách Việt sinh sống bằng chài lưới và cả canh tác lúa nước đều khốn đốn, bắt buộc phải ra đi tìm đất sống. Lạc Long Quân với tư cách là đại thống lĩnh các tộc Việt phải dẫn trên dưới 100 bộ tướng chọn lọc trong Bách Việt (cùng quân lính và vợ con họ) tiến xuống phía nam trù phú.

Vượt qua rặng Hoàng Liên Sơn, tiến đến khu vực Piaya (Phi mã Yên Sơn) và Piaouac (Phi mã Ác Sơn) thì đoàn tinh binh của Lạc Long Quân chạm trán với lực lượng của Cửu Thiên Huyền Nữ và ác chiến nổ ra. Một bên là tinh binh hăm hở với áp lực tìm đất sống nếu không muốn diệt vong, một bên là bảo vệ chủ quyền và nguồn sống của cộng đồng các dân tộc thượng du Bắc Bộ, được đông đảo cư dân bản địa phục tòng và ủng hộ hết lòng . . .

Cửu Thiên Huyền Nữ là ai, cuộc ác chiến lịch sử diễn ra như thế nào, xin các bạn đón xem trong bài tiếp theo.

===============================

(*) Theo truyền thuyết của Việt Nam, tổ của người Lạc Việt bắt nguồn từ vùng Động Đình Hồ, nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc, và địa bàn sinh sống lan rộng xuống tận vùng Bắc Trung Bộ của Việt Nam ngày nay. Sử sách của Việt Nam cũng chỉ trích dẫn từ các truyền thuyết này. Nguồn cổ sử duy nhất có nói đến Lạc Việt là một số rất ít các sách cổ của Trung Quốc, và các sách này cũng chỉ ghi lai rất ít thông tin.

Tài liệu cổ nhất viết về Lạc Việt là Giao Châu Ngoại Vực Ký (thế kỷ 4) viết như sau:

Nội dung trích dẫn"Thời xưa khi Giao Chỉ chưa có quận huyện, thì đất đai có Lạc Điền, ruộng ấy là ruộng (cầy cấy) theo con nước thủy triều. Dân khai khẩn ruộng ấy mà ăn nên gọi là Lạc Dân. Có Lạc Vương, Lạc Hầu làm chủ các quận huyện. Ở huyện phần đông có Lạc Tướng. Lạc Tướng có ấn bằng đồng, (đeo) giải (vải mầu) xanh.

Lược Sử Cổ Đại Việt Nam

Tác giả: Tranghuyendo_Techno

(tiếp theo)

Nội dung trích dẫnVượt qua rặng Hoàng Liên Sơn, tiến đến khu vực Piaya (Phi mã Yên Sơn) và Piaouac (Phi mã Ác Sơn) thì đoàn tinh binh của Lạc Long Quân chạm trán với lực lượng của Cửu Thiên Huyền Nữ và ác chiến nổ ra….

Cửu Thiên Huyền Nữ là đại thống lĩnh các tộc người Thượng Du Bắc bộ, còn có danh xưng là bà Chúa Thượng Ngàn. Người Việt hiện nay trong lễ cúng đất đai thần thánh và nhất là tục lên đồng vẫn tôn thờ vái van bà, cả hai danh hiệu Cửu Thiên Huyền Nữ và bà Chúa Thượng Ngàn được tuyên xướng và xem là hai nhân vật thần thánh.

Bà sinh hạ cô con gái Uhr Ka (U – ca) chưa đầy tháng đã phải lãnh đạo chuộc chiến đấu bảo vệ lãnh thổ. Được sự hỗ trợ của hơn 30 bộ tộc, bà tiến hành chiến tranh dai dẳng nhằm làm suy giảm nhuệ khí và uy thế tấn công của đoàn quân Việt. Cuộc chiến tranh kéo dài 16 năm trời, hai bên đều hao tổn cả về lực lượng quân sự lẫn khả năng kinh tế mà không có dấu hiệu dừng lại.

Công nương U ca ngày nào còn ẵm ngửa, nay đã trở thành mỹ nhân xinh đẹp, được xem như là nữ tiên đại biểu cho cái đẹp thượng du Bắc Bộ. Một ngày nọ, nàng bỗng xin phép mẹ là Cửu Thiên Huyền Nữ cầm binh ra trận. Người mẹ không thể nào đồng ý, vì địch quân thì mạnh bạo, còn cô con gái mình thì xinh non như ngọc như ngà, có thể nào đương cự được. Mỹ nhân biểu diễn thần võ của mình trước mặt mẹ, và người mẹ kiêu dũng bị thuyết phục vì thấy nàng không những xinh đẹp tuyệt trần mà còn có binh tài xuất chúng.

U ca diện bạch – kim bào ra trận, đoàn quân với đa số là nữ binh áo trắng xinh đẹp làm ngơ ngẩn cả núi rừng….

Hai đoàn quân kiêu dũng gặp nhau, hai chiến tướng ghìm ngựa nhìn nhau hồi lâu mà không có ý định xua quân tiến đánh. Tiếng sét ái tình đã nổ ra trước đầu chiến mã, đổi thay tất cả quan niệm và cuộc diện chiến tranh.

Dũng lược và tài năng lãnh đạo của Cửu Thiên Huyền Nữ cho phép Bà nhận ra ngay tính chất quyết định của cuộc hôn nhân kỳ lạ này : nó cho phép giải quyết cuộc chiến dai dẳng và hao tốn binh lực của cải, thêm bạn bớt thù mà còn làm tăng năng lực và nhuệ khí của núi rừng Bắc Bộ.

Cuộc hôn nhân của hai người được thần thánh hoá thành cuộc giao phối giữa thần Rồng Lạc Long Quân Và Tiên nữ Âu Cơ (U à Âu như chu sa à châu sa; Ca à Cơ như rà và rờ). Trên dưới 100 bộ tướng thành con nuôi của họ và trở thành 100 người con thánh hoá từ cuộc sinh nở phi thường ra chiếc bọc 100 trứng.(*)

Đất trời như cũng vang tiếng ngợi ca một dân tộc Việt vĩ đại ra đời, là hợp thể của nhiều tộc người từ thượng du cho đến trung du, đến tận đồng bằng và duyên hải Bắc bộ, mà sức mạnh của họ chinh phục mãi đến tận chót mũi Cà Mau như ngày hôm nay …

(còn tiếp)

========================

Chú thích :

(*) Danh sách 100 người con trai từ bọc trăm trứng

Lân Lang làm vua

49 người con theo cha Lạc Long Quân là:

Xích Lang, Quynh Lang, Mật Lang, Thái Lang, Vĩ Lang, Huân Lang, Yên Lang, Tiên Lang, Diên Lang, Tích Lang, Tập Lang, Ngọ Lang, Cấp Lang, Tiếu Lang, Hộ Lang, Thục Lang, Khuyến Lang, Chiêm Lang, Vân Lang, Khương Lang, La Lang, Tuần Lang, Tân Lang, Quyền Lang, Đường Lang, Kiều Lang, Dũng Lang, Aác Lang, Tảo Lang, Liệt Lang, Ưu Lang, Nhiễu Lang, Lý Lang, Châm Lang, Tường Lang, Chóc Lang, Sáp Lang, Cốc Lang, Nhật Lang, Sái Lang, Chiêu Lang, Hoạt Lang, Điển Lang, Thành Lang, Thuận Lang, Tâm Lang, Thái Lang, Triệu Lang, Iích Lang.

50 người con trai theo mẹ Âu Cơ là:

Hương Lang, Kiểm Lang, Thần Lang, Văn Lang, Vũ Lang, Linh Lang, Hắc Lang, Thịnh Lang, Quân Lang, Kiêm Lang, Tế Lang, Mã Lang, Chiến Lang, Khang Lang, Chinh Lang, Đào Lang, Nguyên Lang, Phiên Lang, Xuyến Lang, Yến Lang, Thiếp Lang, Bảo Lang, Chừng Lang, Tài Lang, Triệu Lang, Cố Lang, Lưu Lang, Lô Lang, Quế Lang, Diêm Lang, Huyền Lang, Nhị Lang, Tào Lang, Ngyuệt Lang, Sâm Lang, Lâm Lang, Triều Lang, Quán Lang, Cánh Lang, Ôốc Lang, Lôi Lang, Châu Lang, Việt Lang, Vệ Lang, Mãn Lang, Long Lang, Trình Lang, Tòng Lang, Tuấn Lang, Thanh Lang.

Trích theo http://www.binhthuan.gov.vn/khtt/vanhoa/0005/0001/DTDH1.htm

Nội dung trích dẫnĐất trời như cũng vang tiếng ngợi ca một dân tộc Việt vĩ đại ra đời, là hợp thể của nhiều tộc người từ thượng du cho đến trung du, đến tận đồng bằng và duyên hải Bắc bộ, mà sức mạnh của họ chinh phục mãi đến tận chót mũi Cà Mau như ngày hôm nay …

Như 3 bài trên đã phân tích, chúng ta thấy rõ ràng là người Việt chúng ta không hề có huyết thống gì với Lộc Tục (Kinh Dương Vương) và cả Lạc Long Quân, mà chỉ có giống nòi Lạc Việt mới là căn cứ đáng tin cậy nhất.

Những dữ liệu lịch sử từ Sử Ký Tư Mã Thiên (1) hay Đại Việt Sử Ký (1272) của Lê Văn Hưu không chép gì về đời Hồng Bàng. An Nam Chí Lược của Lê Tắc, viết tại Trung Hoa khoảng 1333, cũng không viết gì về đời Hồng Bàng. Phải đến khoảng 1377, trong Việt Sử Lược, một cuốn sách không rõ tác giả, mới có nhắc sơ qua đến đời Hồng Bàng. Một số thần phả còn bịa ra thụy hiệu của các vua Hùng (như Hùng Hy vương, Hùng Duệ vương...) nhưng tất cả đều không có dữ liệu đáng tin. Có thuyết còn tính một cách võ đoán rằng Kinh Dương Vương là Hùng Vương đầu tiên và Lạc Long Quân là Hùng vương thứ hai, sau đó chỉ có 16 Hùng Vương là hết thời Hồng Bàng.

Trong Việt Sử Tiêu Án (1775), Ngô Thì Sĩ (2) đã đặt nghi vấn về Kinh Dương Vương, Xích Quỷ, và nhiều truyền thuyết liên quan.

Niên đại của đời Hồng Bàng có bắt đầu từ 2879 trước công nguyên? Sử gia đặt nghi vấn này (như Trần Trọng Kim) tính từ con số truyền thuyết về vua Kinh Dương Vương (2879 trước CN), qua Lạc Long Quân và 18 vua Hùng (kết thúc 257 trước CN), tính ra 2322 năm cho 20 ông vua, trung bình mỗi người 121 năm. Một con số có tính ly kỳ và không có giá trị tham chiếu khoa học lịch sử.Nhiều người chấp nhận niên đại khoảng 600 trước CN là năm bắt đầu đời Hồng Bàng vì Việt Sử Lược ghi rằng nước Văn Lang bắt đầu từ đời vua Chu Trang Vương (696-682 trước CN). Nhưng lại cũng chẳng có bằng chứng xác đáng nào cả.

Về xác định niên đại của Lạc Long Quân, chúng ta thấy rõ ràng là Người chỉ phải tiến xuống phía nam khi nạn khô hạn kéo dài trên lưu vực đại giang Dương Tử tiến đến cao trào. Theo dữ liệu Địa Vật lý và thiên văn học cho thấy tại đây, vào năm 922 TCN đã có một trận hạn hán rất lớn kéo dài gần 5 năm trời, đến tận 917 TCN mới chấm dứt. Nghĩa là Lạc Long Quân dẫn đoàn quân nam tiến vào khoảng năm 921 đến 920 TCN (lấy mốc 920). Cộng với 16 năm chinh chiến và 10 năm chung sống không con cái với Âu Cơ rồi phân chia quân ngũ, thì Vua Hùng đầu tiên xuất hiện không sớm hơn năm 920 - 26 = 894 TCN. Xét thời điểm vua Hùng thứ 18 nhảy xuống sông tự tử khi thua trận và An Dương Vương (3) lập nước Âu Lạc năm 227 TCN thì thời gian trị vì trung bình của mỗi đời vua Hùng là (894 – 227) / 18 = 37 năm.

Đây là con số rất phù hợp với tuổi trị vì trung bình của vua chúa một thời hoà bình thịnh vượng.

Như vậy, có thể nói rằng không có thời đại Hồng Bàng, mà nó chỉ là sản phẩm tưởng tượng của một tác giả không rõ danh tánh thế kỷ XIV chăng ? Đó chỉ còn là vấn đề quan điểm của chúng ta đối với lịch sử mà thôi, vì mọi vấn đề chứng lý khoa học đã được phơi bày.

Lược sử cổ đại Việt Nam – những điều cần nói thêm :

1/. Người Lạc Việt sau cuộc hôn nhân vĩ đại Lạc Long Quân – Âu Cơ, đã hùng cứ phương Nam, trở thành người Kinh (4) và duy trì được sự tồn tại bản sắc văn hoá riêng trong khi những người đồng chủng của họ ở lại lưu vực đại giang Dương Tử đều bị đồng hoá trở thành một bộ phận của 56 dân tộc Trung Hoa ngày nay.

2/. Cho đến nay nhiều người vẫn nghĩ rằng người Kinh thuộc giống dòng Giao Chỉ (5). Nhưng chỉ cần xét đến anh em đồng hệ tộc thuộc Bách Việt (còn ở lại trên đất Trung Quốc) không hề có tài liệu nào ghi nhận tính trạng giao chỉ, cho thấy đó là một nhận thức lịch sử tai sai lầm. Sự thật là tính trạng giao chỉ rất phổ biến trong một số tộc người thượng du Bắc và Bắc Trung bộ Việt Nam. Như vậy có thể xác định rằng người Giao chỉ là cư dân bản địa – bà con huyết thống với chúng ta ngày nay trước khi người Lạc Việt đến phương Nam.

3/. Chữ Lạc (trong Lạc Việt) có nghĩa là nước, còn là tên một loài chim huyền thoại giống trĩ, hót hay và bay cao, lông trắng hay hoàng hồng. Việt: Nước - Bana: Đák - Sơ Đăng: Đák - Cua: Đaák - Xi Tiêng: Đaác - Mường: Rác - Tiếng địa phương bắc Trung Bộ: Nác đều là biến thể ngữ âm của từ Lạc còn lại đến ngày nay.

Lạc Việt là dân tộc đầu tiên trên thế giới biết trồng lúa nước, cuộc khai quật của Wilheim G. Solheim, thuộc đại học Hawaii lại cho thấy sau khi thử phóng xa C-14, mẫu lúa của người Hòa Bình, cho niên đại là khoảng 3500 trước Tây Lịch, sớm hơn ở Ấn Độ và Trung Quốc khoảng 1000 năm, nơi mà người ta vẫn cho là quê hương của loại lúa trồng này.

Chữ Lạc, về sau viết nhầm thành chữ Hùng (Ngô Sĩ Liên: trước là Lạc Tướng sau lầm ra Hùng Tướng - Lạc Tướng hậu ngọa vi Hùng Tướng), nhưng do ý nghĩa của chữ Hùng quá đẹp nên được dùng đến ngày nay. Lạc Vương --> Hùng Vượng

Chữ Việt ngoài nghĩa thông dụng Hán ngữ là vượt qua, còn có nghĩa là cái rìu lớn (phủ việt = búa rìu), một biểu hiện sức mạnh và uy quyền của các Lạc tướng, Lạc vương. Rìu đá trong các di chỉ thuộc đồ đá mới tại VN đã cho thấy rìu lớn là phát minh đặc sắc của cư dân Lạc Việt mà các anh em hệ tộc bách việt phía bắc không hề có.

=========================

Chú thích

1- Sử Ký (史記/史记; Shǐjì) của Tư Mã Thiên được viết từ năm 109 TCN đến 91 TCN, là kiệt tác của Tư Mã Thiên, trong đó ông ghi lại lịch sử Trung Quốc từ thời Hoàng Đế thần thoại cho tới thời ông. Vì là văn bản lịch sử Trung Quốc có hệ thống đầu tiên, nó ảnh hưởng cực lớn tới việc chép sử và văn chương Trung Quốc sau này.

2- Ngô Thì Sĩ (吳時士), hiệu là Ngọ Phong (午風) 1726-1780 - là một nhà sử học, nhà thơ thuộc tầng lớp nho sĩ trí trức . Quê ông là làng Tả Thanh Oai, trấn Sơn Nam (nay thuộc tỉnh Hà Tây). Ông đóng vai trò là người sáng lập Ngô Gia Văn Phái. Tác phẩm : Tác phẩm tiêu biểu nhất có sự tham gia của ông là Hoàng Lê Nhất Thống Chí (của Ngô Gia Văn Phái) sáng tác đầu thế kỷ thứ 19. Các tác phẩm sử học: Việt sử tiêu án, Đại Việt sử ký tiền biên, một phần Đại Việt sử ký tục biên.

3- Cho tới đầu công nguyên thời Hai Bà Trưng, người Việt vẫn chưa có họ. Do đó họ Thục của An Dương Vương là một nghi vấn. Nước Thục (ở Tứ Xuyên ngày nay) mất năm 316 TCN. Chống Tần thất bại, con cháu họ chạy xuống phía bắc nước Văn Lang, sống với người Âu Việt. Sau một thời gian đứng vững, thủ lĩnh Âu Việt thôn tính Lạc Việt. Không hẳn thủ lĩnh Âu Việt đã là dòng dõi nước Thục cũ mà có thể chỉ là con cháu của tướng lĩnh, quan lại cũ của Thục, xưng làm họ Thục để thu phục nhân tâm vùng Âu Việt.

Bộ sử lâu đời nhất và gần thời An Dương Vương nhất là Sử ký Tư Mã Thiên chỉ nhắc tới nước Âu Lạc mà không nhắc tới An Dương Vương họ Thục.

4- Người Kinh, hay dân tộc Kinh (京族; jīngzú, Kinh tộc) là tên gọi của người Việt sống tại Trung Quốc. Vào khoảng thế kỷ 16, có một số lượng người Việt di cư lên phía bắc vào lãnh thổ Trung Quốc. Tuy đã bị ảnh hưởng Trung Hoa nhiều hơn, con cháu những người này vẫn còn nói tiếng Việt và được công nhận là một dân tộc thiểu số tại Trung Quốc. Họ tạo thành một trong số 56 dân tộc được chính thức công nhận tại Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Họ nói tiếng Việt và sinh sống chủ yếu trên 3 đảo ngoài khơi khu tự trị người Choang Quảng Tây, nhưng tiếng Việt của họ đã pha trộn nhiều với tiếng Trung và có nhiều từ cổ của tiếng Việt. Về chữ viết, ngày nay họ sử dụng Hán tự. Năm 2000 ước tính có khoảng 22.000 người Kinh tại Trung Quốc.

5- Tính trạng Giao Chỉ : đó là tính trạng di truyền thể hiện bằng hai ngón chân cái của bàn chân chìa ra, chạm nhau khi người đứng thẳng. Sử liệu Trung Hoa chưa từng ghi nhận tính trạng giao chỉ trong cộng đồng bách việt từ ngàn xưa đến nay.

Quốc Gia đầu tiên của người Việt và Hiến Pháp đầu tiên của Nhân Loại.

Quốc Gia đầu tiên của người Việt

Năm 1221 TCN, đoàn người Âu (甌), còn gọi là Tây Âu (西甌) thuộc chủng Arriane trên đại bình nguyên lưỡng hà Ấn - Hằng từ phía Tây Trung Hoa tràn vào đất Lĩnh Nam của cư dân Bách Việt. Họ nhập vào các nhóm Bách Việt và dần dần trở thành một bộ phận của Bách Việt và càng ngày càng xa rời phong tục tập quán của lưu vực Ấn - Hằng, nên được gọi là Âu Việt (甌越). Họ cao lớn, có năng lực thể chất và thể trạng hơn hẳn các nhóm dân Bách Việt khác, ưu thế trong chiến đấu và xây dựng của họ nhanh chóng được khẳng định và trở thành một đầu tàu, một ngòi nổ mạnh trong cuộc chiến không ngừng giành quyền sống của cộng đồng bách Việt trong thời mông muội của lịch sử.

Khi đoàn người Bách Việt tràn xuống phương Nam tìm đất sống thì đại bộ phận Âu Việt lang thang qua các vùng đất lửa Trung Hoa. Họ dần dà quay lại đất Lĩnh Nam, theo chân đoàn di dân cơ học Bách Việt về đất Giao Châu và quần cư với người Lạc Việt trên dải đất lưu vực sông Hồng phì nhiêu màu mỡ. Năm 227 TCN, thủ lĩnh Âu Lạc mượn tiếng họ Thục để giành lấy quyền làm chủ phương Nam và lập ra Vương Quốc Âu Lạc đầu tiên trong lịch sử Giao Châu.

Nội dung trích dẫnCho tới đầu công nguyên thời Hai Bà Trưng, người Việt vẫn chưa có họ. Do đó họ Thục của An Dương Vương là một nghi vấn. Nước Thục (ở Tứ Xuyên ngày nay) mất năm 316 TCN. Chống Tần thất bại, con cháu họ chạy xuống phía bắc nước Văn Lang, sống với người Âu Việt. Sau một thời gian đứng vững, thủ lĩnh Âu Việt thôn tính Lạc Việt. Không hẳn thủ lĩnh Âu Việt đã là dòng dõi nước Thục cũ mà có thể chỉ là con cháu của tướng lĩnh, quan lại cũ của Thục, xưng làm họ Thục để thu phục nhân tâm vùng Âu Việt.

Bộ sử lâu đời nhất và gần thời An Dương Vương nhất là Sử ký Tư Mã Thiên chỉ nhắc tới nước Âu Lạc mà không nhắc tới An Dương Vương họ Thục.

Không còn nghi ngờ gì nữa, chính An Dương Vương mới là người xây dựng nên cường quốc Âu Lạc , 227 TCN. Một cuộc giao hoà rất đẹp giữa hai nguồn GEN : Lạc Việt có ưu thế khéo léo và khả năng ngôn ngữ cộng với Âu Việt có tính trạng tuyệt vời, hiếu chiến và giàu tính phấn đầu (*)

Hiến pháp đầu tiên của Nhân loại.

Thế giới công nhiên thừa nhận Hiến Chương Octavius - Hoàng Đế La Mã - công bố khoảng năm 240 là hiến pháp đầu tiên của nhân loại.

Nhưng chú ý rằng Chiếu "Lịch Dân Lập Quốc" của An Dương Vương nhằm khẳng định vương quyền Âu Lạc công bố trước Hiến Chương Octavius gần 500 năm (chính xác là 467 năm) mới là Hiến Pháp đầu tiên của Nhân Loại. Niềm tự hào của người Việt là từ niềm kiêu hãnh Âu Lạc chứ không phải là Con Rồng Cháu Tiên hay gì gì đó đầy ảo ảnh. Tiếc là vào thời đó (227 TCN), người Việt chưa có chữ viết, chưa có cả chữ Nôm nên Hiến Pháp đầu tiên của người Việt và Nhân loại phải viết bằng chữ Hán cổ, trúc trắc và đầy dị bản.

TrangHuyenDo-Techno

=============================================

(*) Từ nguyên nhân này mà trong cộng đồng người Việt, thậm chí trong một gia đình, thường có 2 nhóm tính trạng khá tương phản thể hiện 2 nhóm GEN : chị (anh) cao lớn kiểu Âu và em (trai, gái) đậm người kiểu Lạc.

Ví dụ : Hai chị em Thuý Kiều - Thuý Vân được Nguyễn Du diễn tả rất tinh tế các xu thế tính trạng :

Vân xem trang trọng khác vời

Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang

.......

Kiều càng sắc sảo mặn mà

So bề tài sắc lại là phần hơn

Làn thu thuỷ nét xuân sơn

Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh

Phân tích ngữ nghĩa cho thấy Vân đẹp kiểu đầy đặn, sung mãn kiểu Lạc, còn Kiều thì lại cao gầy, ẻo lả kiểu Âu, như dáng vẻ cái đẹp hiện đại...

*** Xin khẳng định lại một lần nữa là ở đây chỉ có vấn đề GEN trội, GEN lặn trong một dân tộc Việt Nam thống nhất và duy nhất chứ không có bất cứ vấn đề chủng tộc hay sắc tộc nào khác. Mọi luận điệu khác đi là hoàn toàn sai lạc với lịch sử thật sự đáng tự hào của Dân Tộc Việt Nam.

Tranghuyendo_Techno

Share this post


Link to post
Share on other sites

Xin phép sư phụ cho đệ tử có ý kiến, coi như là cách nghĩ của thế hệ trẻ về việc các nhà được mệnh danh là khoa học nhưng lại sử dụng các phương pháp chứng minh phi khoa học.

1. Các vị hay căn cứ vào cổ thư, mà cổ thư của người Việt cổ thì đã bị mất do thời gian hoặc chủ tâm của kẻ xâm chiếm. Còn cổ thư của Trung Hoa thì đã bị chỉnh sửa theo mục đích đồng hóa người Bách Việt. Qua hàng ngàn thế hệ, loại chứng cứ đó không còn là bằng chứng đáng tin cậy để nói về thời cổ sử của người Việt.

Chứng minh cho điều này, gần đây nhất, vụ việc Trường Sa, Hoàng Sa, về luận cứ khoa học thì đến 99% là thuộc về VN, nhưng họ đã sử dụng các nghiên cứu và phương pháp, kể cả ngụy tạo bằng chứng để chứng minh thuộc về họ. Họ có đến 60 công trình nghiên cứu khoa học bề thế và liên tục truyền bá trong và ngoài nước, trong khi ta chỉ là những mảng nghiên cứu rời rạc và đôi khi còn không thống nhất. Nguồn xin quý vị xem ở đây http://www.tuanvietnam.net/vn/tulieusuyngam/5518/index.aspx.

Dẫn chứng trên cho thấy, không nên tin hoàn toàn vào những cổ thư của kẻ chiếm đất.

2. Các vị coi khảo cổ học là bằng chứng quan trọng, nhưng khổ nỗi có đến 3/4 diện tích cần đào bới thì các vị lại không được đào bới. Còn họ có quyền đào bới và khi có được những bằng chứng bất lợi cho họ thì họ sẽ giấu tiệt đi hoặc hủy hoại, hoặc ngụy tạo ra bằng chứng mới. Dẫn chứng là khi họ tìm ra loại trống đồng ở khu vực sâu hơn trong nội địa của họ (trống Vạn Ba Giá tìm thấy năm 1976) thì họ một mực khẳng định loại trống đó là trước Heger I (tiền Heger ) tức là tổ của các trống của VN và TQ, trong khi các nhà khoa học cả Ta và của Tây đều coi là ở giai đoạn cuối của Heger I. Chưa kể khi họ tìm ra những ngôi mộ táng có hình thái giống văn hóa Hòa Bình thì họ chỉ đưa những đoạn tin rất sơ sài.

Bằng chứng khảo cổ mới đây về con đường đi của người tiền sử (xem ở đây) là một phát hiện khá quan trọng để chứng minh lịch sử hơn 4000 năm của ta.

3. Các vị sử học quên mất một bằng chứng rất khoa học khác đó là bằng chứng nhân chủng học, con đường di truyền đã được các nhà khoa học Phương Tây chứng minh là di chuyển qua VN rồi đến khu vực Nam sông Dương tử trước khi lên phía bắc và Hàn Quốc, Nhật Bản. Xin quý vị xem ảnh dưới

Posted Image

Đường màu cam là theo phương pháp nghiên cứu gen ti thể mtDNA di truyền theo dòng mẹ. Đường màu lam là nghiên cứu qua nhiễm sắc thể Y, di truyền theo dòng bố.

4. Giải mã qua truyền thuyết và các thần phả tại các khu di tích tuy không phải là phương pháp hoàn toàn tin cậy nhưng nó gợi ý rất nhiều điều. Nguồn cơ sở thông tin này thường bị địa phương hóa và có nhiều dị bản. Khi nghiên cứu, giải mã, không thể giải mã đơn phương mà phải có những đối chiếu toàn diện. Tuy nhiên, không thể đối chiếu cho dù là có vẻ có cơ sở khoa học nhưng lại đảo lộn cả trật tự thời gian được. Ví dụ như cho rằng sự xâm nhập của người Nam đảo tương ứng với khảo cổ Gò Mun và tương ứng với truyền thuyết là Sơn Tinh - Thủy Tinh rồi mới cho ra đời thời Hùng Vương. Trong khi các hệ thống (xin nhấn mạnh là hệ thống) các truyền thuyết đều nói rằng Sơn Tinh -Thủy Tinh xuất hiện rất muộn sau thời Hùng Vương, ít nhất là thời Hùng Vương 18.

5. Các vị khi nghiên cứu vẫn ngại công nhận một điều rằng người Việt cổ đã bị mất đất và đồng hóa một phần. Chính vì vậy sự dẫn chứng, chứng minh chỉ thu hẹp trong phạm vi lãnh thổ hiện nay. Mặt khác, nền văn minh Lạc Việt cổ không phải là hoàn toàn chỉ của người Việt hiện nay. Rất có thể khi nên văn minh đó bị sụp đổ, các nhánh của nó đã được kế thừa một cách rời rạc, phân bố rộng khắp, đan xen. Chỉ có một bộ phận nhỏ do khác biệt về mặt địa lý, và tồn tại trong một thể chế lâu dài mới còn giữ lại được một phần nào tinh hoa của nền văn minh đó.

6. Có một vấn đề là khi nghiên cứu, các vị luôn muốn chứng minh tính kế thừa liên tục của nền văn minh bản địa. Trong khi đó có rất nhiều dẫn chứng thời cận đại một bộ phận di cư từ Bắc xuống Nam. Nhưng theo bản đồ di truyền ở mục 3, những điều đã nói ở mục 5 và bằng chứng con đường đi của người việt cổ (đã dẫn link ở mục 2) rằng lối đi cổ có 2 lớp cách đây 21 ngàn năm và 9 ngàn năm. Điều này minh chứng cho luận thuyết rằng thời xa xưa, một nhánh tổ tiên của tộc Bách Việt đã di cư lên phía bắc và định cư tại Nam sông Dương tử. Sau đó bị kẻ thù phía bắc hùng mạnh đẩy lùi, một phần bị đồng hóa, một phần tiếp tục di cư sang các vùng khác lân cận, một phận di cư ngược lại trở về khu họ đã ra đi và hòa đồng với nhánh cùng tổ tiên của họ. Chính những người trở về, do tương đồng ngôn ngữ, văn hóa nên họ sớm hòa nhập và gìn giữ được nguyên vẹn tiếng nói riêng. Sự trở về còn mang theo cả những điều họ học được ở khu đất mới. Nếu chỉ ngắt đoạn ở khoảng thời gian trở về, thì ai chẳng cho rằng tổ tiên chúng ta người di cư (chỉ xét giai đoạn 60.000 năm đổ lại, vì xét xa hơn thì toàn bộ loài người đều là di cư). Như vậy sự kết nối văn hóa Hòa Bình là liên tục và có sự giao thoa với các nền văn hóa muộn hơn.

Share this post


Link to post
Share on other sites

nncuong thân mến.

Những kẻ xúm xít phủ nhận giá trị văn hóa sử truyền thống Việt rất đông. Theo như họ quảng cáo là "Hầu hết những nhà khoa học trong nước" "cộng đồng khoa học thế giới". Đã vậy lại được các phương tiện truyền thông nước ngoài và cả trong nước lăng xê ủng hộ. Còn chúng ta, tiếng nói yếu ớt, không vượt quá giới hạn của một trang web. Bởi vậy, những bằng chứng của chúng ta phải rất chắc chắn, khoa học. Không được phép sai lầm và cũng phải rất thân trọng trong các âm mưu khiêu khích và phá hoại. Kể cả những kẻ bề ngoài ủng hộ chúng ta rất nhiệt tình, nhưng lại đưa ra những bằng chứng giả để chúng ta bị phản biện.

Chúng ta phải rất, rất thận trọng, nhưng kiên quyết vì chân lý.

Riêng cá nhân tôi sẽ im lặng hoàn toàn - Thậm chí im lặng đột ngột - nếu phát hiện - việc phủ nhận những giá trị văn hóa sử truyền thống Việt có âm mưu chính trị.

Nếu mọi chuyện thật sự sòng phẳng, khách quan khoa học theo đúng nghĩa của nó thì Hội sử học Việt Nam và TT nghiên cứu Lý học Đông phương phải cùng tổ chức hội thảo đặt lại vấn đề cội nguồn dân tộc Việt và có các phương tiện truyền thông phát bài và sóng một cách khách quan, trung thực.

.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Kính thưa quí vị quan tâm.

Đây là bài viết thứ tư theo thuận tự được trưng bày ở topic "Sưu tầm những quan điểm phủ nhận giá trị văn hóa sử truyền thống Việt". Toàn văn bài viết đã được trình bày ở trên trong ngay topic này để quí vị tiện tham khảo.

Lược Sử Cổ Đại Việt Nam

Tác giả: Tranghuyendo_Techno (*)

http://www.lyhocdongphuong.org.vn/diendan/...da_i/t1280.html

Tác giả Techno viết:

Ghi chú: Một phần của bài này đã được Techno trình bày tại CLB VHNT Quận 4, TP HCM, tháng 9 năm 2001.

Hôm nào Thiên Sứ tôi cũng xin một nhà văn hóa nào đó ở Thành phố tạo điều kiện thuận lợi và khách quan cho một buổi nói chuyện về "Y phục thời Hùng Vương". Nếu có một hội thảo càng tốt. Tất nhiên đây là mơ ước đã lâu của Thiên Sứ tôi và tôi còn tiếp tục mơ ước cho đến khi ước mơ thành hiện thực.

Chúng ta xem tiếp ông viết:

Dựa vào truyền thuyết, truyện huyền ảo hay thần thoại mà dựng sử, gọi là huyền sử. Dựa vào những thêu dệt, thậm chí phóng đại để dựng sử, gọi là dã sử. Dựa vào quan điểm của chế độ cai trị, chính trị đương thời thì goi là chính sử. v.v… Các loại sử liệu như thế thường có độ tin cậy rất hạn chế, thậm chí còn đi ngược lại thực chứng khoa học … Thế mà nó vẫn được dùng rất phổ biến ở nước ta và một số nước chưa phát triển khác. Tầm ứng dụng của các loại sử này rất lớn, thậm chí được dùng làm tài liệu giảng dạy và học tập chính thức, gây ra bức tranh sai lệch về lịch sử và đánh giá sai từ bạn bè năm Châu.

Chúng ta chở xem tác giả nói gì, tôi sẽ quay trở lại đoạn này.

Tác giả viết tiếp:

Một học giả nước ngoài đã hỏi Techno : "Người Việt hiện đại và thông minh của các anh vẫn còn tin chuyện đẻ ra một bọc trăm trứng, nở ra trăm con hay sao ?" Techno : "Đó là truyền thuyết, nó được sáng tác để giải thích chứ không có mục tiêu phổ hiện sự thật, giống như tín đồ Công giáo tin vào Đức Mẹ Đồng trinh đó thôi". Anh ta : "Nhưng đây không phải là đức tin, mà lại là tài liệu giảng dạy chính thức cho cả nước các anh kia mà".

Đến đây thì Techno đành … đánh trống lảng …

Một giáo sư sử học Nhật Bản cũng bày dặt nhân danh "Pha học" giảng cho học sinh rằng: "Người Nhật Bản không phải con của Thái Dương Thần nữ", rằng: "Đó là truyền thuyết không có cơ sở "pha học". Ông này đã bị chính phủ Nhật cho về đuổi gà. Theo Thiên Sứ tui, nếu vị giáo sư Nhật kia - hoặc các vị giáo sư tiến sĩ Việt có quan điểm phủ nhận lịch sử văn hóa truyền thống Việt sang Trung Quốc bảo rằng: "Các ngài không phải con của Hoàng đế. Đấy chỉ là truyền thuyết không có cơ sở khoa học"; hoặc sang Mỹ nói rằng: Đảng Cộng Hòa không phải là con voi. Đảng Dân chủ không phải con Lừa.. hay sang Pháp bảo rằng: "Dân tộc Pháp văn minh không phải do con gà trống đẻ ra" thì mới khách quan chứ! Sao chỉ phủ nhận truyền thuyết của riêng Việt Nam vậy?

Cần phải khẳng định rằng: Với các dân tộc có nền văn hóa sử lâu đời đều có những truyền thuyết, huyền thoại về sự khởi nguyên của dân tộc mình. Bởi vậy, việc giảng dạy những truyền thuyết huyền thoại sử đó trong nhà trường hoàn toàn mang một nội dung giữ gìn những giá trị văn hóa sử truyền thống. Nhưng tác giả Techno lại cho rằng đó là một sự giải thích nguồn gốc. Chính cách hiểu sai và chủ quan này là một nguyên nhân dẫn đến xóa bỏ nội dung truyền thuyết trong giáo dục. Tác giả Techno không giải thích được với vị học giả nước ngoài thì đấy chỉ là mối tương quan giữa khả năng nhận thức của tác giả Techno với một câu hỏi. Căn cứ gì mà lại được - khoe ầm ĩ ở hẳn câu lạc bộ văn hóa hẳn ở Quận nhỉ? Hay là ông ta muốn nói rằng: Hẳn như một nhà nghiên cứu có hạng như ông ta - Phát biểu hẳn ở câu lạc bộ văn hóa Quận - mà còn chưa trả lời được thì đấy là vấn đề cần đặt ra (Tức là tác giả loại suy mối tương quan giữa nhận thức của tác giả với khả năng trả lời một câu hỏi). Thôi thì cứ coi như một cách đặt vấn đề. Chúng ta xem ông ta giải quyết như thế nào?

Tác giả Techno viết:

Xin lật lại vấn đề một chút : chúng ta dùng từ "lịch sử" đã nhiều, nhưng bản than từ lịch sử thì ít ai muốn động tới. Nói khác đi, bản chất ngữ nghĩa của từ lịch sử chúng ta thường né tránh, đơn giản là do chúng ta … không biết nó là gì, hoặc là chỉ biết một cách mơ hồ, không đủ để phát biểu. Ngay cả trong wikipedia tiếng Việt, trích dẫn cả Bách Khoa toàn thư cũng chỉ mơ hồ:

Nội dung trích dẫn: Lịch sử là môn học về nghiên cứu và phân tích những sự kiện đã xảy ra. Trong thực tế, chỉ có một số sự kiện lịch sử được xem là "thật". Đa số các nhà nghiên cứu các tường thuật lịch sử này, hay sử gia, tin rằng quan điểm hiện tại của chúng ta có thể đổi cách hiểu những sự kiện xưa. Vì thế cách giải thích những sự kiện xưa thay đổi thường xuyên qua các thời kỳ. Những giải thích dựa theo các nguồn gốc "căn bản" – những văn kiện được viết ra vào lúc đó hay gần sau lúc đó – thường được xem là có giá trị nhất.

http://vi.wikipedia.org/wiki/L%E1%BB%8Bch_s%E1%BB%AD

Như vậy, tác giả đã dẫn chứng chính những nhà nghiên cứu lịch sử hoàn toàn chỉ nhận thức chủ quan về ngay khái niệm lịch sử: "Đa số các nhà nghiên cứu các tường thuật lịch sử này, hay sử gia, tin rằng quan điểm hiện tại của chúng ta có thể đổi cách hiểu những sự kiện xưa" do chẳng hiểu lịch sử là gì: "bản chất ngữ nghĩa của từ lịch sử chúng ta thường né tránh, đơn giản là do chúng ta … không biết nó là gì, hoặc là chỉ biết một cách mơ hồ, không đủ để phát biểu".

Bởi vậy, tác giả Techno phải tự đặt ra tiêu chí để chứng minh những luận cứ của ông ta:

Vậy, ngữ nguyên của từ "lịch sử" là gì ?

Lịch, là diễn biến đã thật sự xảy ra trong không gian và thời gian, không chịu sự tác động của tri giác và nhận thức của con người. Sử là dấu vết của quá khứ còn lưu lại cho hiện tại và tương lai thông qua nhận thức có tính thời đại của con người.

Chúng ta có thể tóm tắt ý nghĩa ngữ nguyên của từ lịch sử như sau :

1- Lịch sử là diễn tiến khách quan với mốc không gian và thời gian cụ thể của nó.

2- Diễn tiến lịch sử là nằm ngoài tác động của ý thức của con người.

3- Lịch sử được con người ghi nhận (thành văn hoặc không thành văn).

4- Lịch sử mang trong nó tri thức của thời đại.

Vì vậy, mà quan điểm và phương thức luận lịch sử hiện đại cần phải có những tiêu chí nào ?

1- Cần phải khách quan ở mức độ cao nhất có thể có để tránh sai lầm hay bóp méo sự thật một cách chủ quan trong nhận thực, ghi nhận và giảng dạy lịch sử.

2- Lịch sử mang hơi thở của thời đại, nên nó cần được liên tục nghiên cứu theo dữ liệu và phương pháp khoa học mà thời đại chúng ta đang có.

3- Trung thành với nhận thức và tư duy khoa học, tiếp cận sự thật lịch sử đã xảy ra trong quá khứ từ mọi hướng, bằng mọi biện pháp khoa học mà toàn cảnh khoa học – kỹ thuật đương đại cho phép, bổ sung thậm chí phủ định các ghi nhận trước đó về lịch sử khi cần thiết.

Trên cơ sở này, ông Techno mới: "Chúng ta quay lại với lịch sử cổ đại Việt Nam …"

Ông ta viết tóm lược truyền thuyết và huyền thoại về cội nguồi sử Việt:

Thời kỳ Hồng Bàng theo truyền thuyết và dã sử cho rằng bắt đầu từ năm 2879 TCN, là niên đại vua Kinh Dương Vương, với quốc hiệu Xích Quỷ. Địa bàn của quốc gia dưới thời vua Kinh Dương rất rộng lớn : phía bắc tới sông Dương Tử (cả vùng hồ Động Đình), phía nam tới nước Hồ Tôn (Chiêm Thành), phía đông là Đông Hải (một phần của Thái Bình Dương), phía tây là Ba Thục (Tứ Xuyên, Trung Quốc ngày nay).

Sử theo truyền thuyết của người Kinh - Việt Nam:

Đế Minh là cháu ba đời của vua Thần Nông, đi tuần thú phương nam đến núi Ngũ Lĩnh (thuộc tỉnh Hồ Nam bây giờ) gặp một nàng tiên, lấy nhau sinh ra Lộc Tục. Đế Minh truyền ngôi lại cho con là Đế Nghi làm vua phương bắc, và phong cho Lộc Tục làm vua phương nam, xưng là Kinh Dương Vương, quốc hiệu là Xích Quỷ. Con của Kinh Dương Vương với Long nữ là Sùng Lãm lấy hiệu là Lạc Long Quân nối ngôi, lấy tiên nữ Âu Cơ là con gái của vua Đế Lai, đẻ ra một bọc 100 trứng và nở ra 100 người con. Những người con sinh ra cùng một bọc gọi là "cùng bọc" (hay còn gọi là Đồng bào) để nói rằng tất cả người Việt Nam đều cùng có chung một nguồn gốc... Con cả của thần Rồng Lạc Long Quân và tiên nữ Âu Cơ trị vì dưới tên Hùng Vương, và là vị vua đầu tiên của người Việt. Vì thế, người Việt thường tự xưng là con rồng cháu tiên.

Nhưng ông ta lại đá vào truyền thuyết được tóm lược đoạn sau đây hoàn toàn không ghi nhận trong truyền thuyết:

Từ đó người Việt đã di cư từ miền nam Trung Quốc hiện giờ đến đồng bằng sông Hồng và hòa nhập với người dân bản xứ. Vào năm 258 TCN An Dương Vương thành lập vương quốc Âu Lạc, tại miền Bắc Việt Nam bây giờ.

Tạm thời hay để vậy đi, chúng ta sẽ phân tích sau.

Và bây giờ là những phân tích của ông Techno. Chúng ta xem nó có phù hợp với những tiêu chí lịch sử của chính ông ta đưa ra không:

Sự thật lịch sử

Cách đây hơn 4.800 năm, toàn bộ vùng nam bắc đại giang Dương Tử chưa hề có chế độ phong kiến, do đó cũng chẳng có nước, có vua nào hết. Thể chế xã hội lúc bấy giờ là cát cứ theo nhóm cộng đồng cư dân có cùng một phong tục, ngôn ngữ, cách sinh sống và làm lụng v.v…

Ơ! Híc!

Quí vị chắc cũng nhận ra ngay mâu thuẫn cực kỳ nghiêm trọng trong đoạn này của tác giả:"Thể chế xã hội lúc bấy giờ là cát cứ theo nhóm cộng đồng cư dân có cùng một phong tục, ngôn ngữ, cách sinh sống và làm lụng v.v…"

Vậy xin hỏi: Cái gì làm ra những phong tục, ngôn ngữ, cách sinh sống và làm lụng giống nhau của những con người sống ở một vùng rộng khắp trài "toàn bộ vùng nam bắc đại giang Dương Tử"? Hay nói một cách rõ hơn: Điều gì tạo nên sự thống nhất về văn hóa (Phong tục) và cách làm việc, sinh sống của họ mà chính tác giả thừa nhận; khi mà tác giả phát biểu: "Cách đây hơn 4.800 năm, toàn bộ vùng nam bắc đại giang Dương Tử chưa hề có chế độ phong kiến, do đó cũng chẳng có nước, có vua nào hết".

Từ cách đặt vấn đề trên một cơ sở không hề có căn cứ minh chứng này, chúng ta có thể thấy được sự khập khiễng trong lập luận ở đoạn sau:

Khu vực đại giang Dương Tử lúc bấy giờ có nhiều nhóm cát cứ như vậy, và họ có các chỉ tiêu nhân trắc gần giống nhau. Người Trung Hoa xưa gọi cư dân phía nam nói chung là Bách Việt, với nghĩa là một trăm bộ tộc Việt. Các sách xưa ghi chép nhiều nhóm người Việt, trong đó có Câu Ngô (句吳), Ư Việt (於越), Dương Việt (揚越), Mân Việt (閩越), Nam Việt (南越), Đông Việt (東越), Sơn Việt (山越), Lạc Việt (雒越, người Kinh ở Việt Nam ngày nay) Âu Việt (甌越, hay còn gọi là Tây Âu - 西甌) v.v... Sách Hán thư (漢書) viết: "Trong vòng bảy hoặc tám nghìn dặm từ Giao Chỉ tới Cối Kê (thuộc vùng Bắc Chiết Giang), ở đâu cũng có Bách Việt, mỗi nhóm có các thị tộc của mình…".

Như vậy, tác giả chỉ căn cứ vào "Người Trung Hoa xưa gọi..." và dẫn chứng sách "Sách Hán thư (漢書) viết: "Trong vòng bảy hoặc tám nghìn dặm từ Giao Chỉ tới Cối Kê (thuộc vùng Bắc Chiết Giang), ở đâu cũng có Bách Việt, mỗi nhóm có các thị tộc của mình…". Nhưng có lẽ tất cả quí vị cũng đều biết rằng cái sách Hán thư ấy ra đời sau cái "Cách đây hơn 4.800 năm" ngót nghét khoảng 2600 năm vậy. Và sách đó chỉ phản ánh hiện thực lịch sử vào thời gian ra đời của cuốn sách đó là: Sách Hán thư (漢書) viết: "Trong vòng bảy hoặc tám nghìn dặm từ Giao Chỉ tới Cối Kê (thuộc vùng Bắc Chiết Giang), ở đâu cũng có Bách Việt, mỗi nhóm có các thị tộc của mình…"

Nhưng tác giả Techno lại khẳng định rằng:

Như vậy chúng ta có thể đính chính sai lầm nhận thức lịch sử quan trọng : đó là không có dân tộc Bách Việt mà chỉ có nhiều thị tộc (tộc người với các thể chế và quan hệ riêng có) Việt được gom chung thành một danh xưng xã hội là Bách Việt.

Quí vị cũng đã xem rõ chính câu trích dẫn của tác giả trong sách Hán thư: "ở đâu cũng có Bách Việt" vậy chúng ta hiểu câu này như thế nào? Nếu không gọi là dân tộc Bách Việt thì gọi là gì? Quí vị cũng lưu ý rằng: Sách Hán thư viết khi nhà nước Văn Lang đã sụp đổ và tan rã từ lâu (Theo chính sử và truyền thuyết). Bởi vậy không thể căn cứ vào một cuốn sách chỉ ghi nhận hiện tượng thực tại vào thời điểm của cuốn sách đó phản ánh để kết luận về một hiện trạng lịch sử trước đó mà không hề chứng minh. Còn câu "mỗi nhóm có các thị tộc của mình…" thì nên hiểu thế nào? Nếu theo ông Techno thì những thị tộc này là những dân tộc khác nhau chăng khi ông viết: "không có dân tộc Bách Việt mà chỉ có nhiều thị tộc (tộc người với các thể chế và quan hệ riêng có) Việt"? Như vậy giữa các thị tộc mà ông cũng phải hạ bút viết là "Việt" và dân tộc Việt là khái niệm như thế nào? Cũng chưa thấy ông đưa ra tiêu chỉ này để minh chứng cho lập luận của ông! Có lẽ không cần bàn sâu thêm. Xin để quí vị độc giả tự suy ngẫm. Ở đây, tôi chỉ phân tích trên chính những lập luận và dẫn chứng của tác giả để vạch ra tính mâu thuẫn và lập luận hoàn toàn chủ quan của ông ta, mà chưa hề so sánh với những bằng chứng khác liên quan.

Bây giờ chúng ta xem tác giả Techno phân tích truyền thuyết và huyền thoại lịch sử cội nguồn Việt:

Theo tập quán kết giao để tránh chiến tranh, người Trung Quốc xưa thường nhận các địch thủ có thế mạnh tiềm tàng làm con, hoặc gả con để kết thân. Ta có thể thấy rằng việc "vua lấy tiên nữ sinh con" là để giải thích việc nhận con nuôi một cách thánh hoá. Người Lạc Việt (*) sinh sống chủ yếu bằng nghề chài lưới trên các lưu vực đại giang, mạnh mẽ và nhiều tham vọng, dưới sự dẫn dắt của Sùng Lãm trẻ trung và hiếu chiến, buộc Lộc Tục phải nhận Sùng Lãm làm con nuôi, ban cho quyền hạn, hiệu là Lạc Long Quân, để tránh phải đối đầu.

Cách đây gần 3.000 năm, trận nhiệt hà dai dẳng và khắc nghiệt đã làm đại giang Dương Tử và các chi – phụ lưu của nó dần dần khô cạn. Các tộc người trong Bách Việt sinh sống bằng chài lưới và cả canh tác lúa nước đều khốn đốn, bắt buộc phải ra đi tìm đất sống. Lạc Long Quân với tư cách là đại thống lĩnh các tộc Việt phải dẫn trên dưới 100 bộ tướng chọn lọc trong Bách Việt (cùng quân lính và vợ con họ) tiến xuống phía nam trù phú.

Vượt qua rặng Hoàng Liên Sơn, tiến đến khu vực Piaya (Phi mã Yên Sơn) và Piaouac (Phi mã Ác Sơn) thì đoàn tinh binh của Lạc Long Quân chạm trán với lực lượng của Cửu Thiên Huyền Nữ và ác chiến nổ ra. Một bên là tinh binh hăm hở với áp lực tìm đất sống nếu không muốn diệt vong, một bên là bảo vệ chủ quyền và nguồn sống của cộng đồng các dân tộc thượng du Bắc Bộ, được đông đảo cư dân bản địa phục tòng và ủng hộ hết lòng . . .

Cửu Thiên Huyền Nữ là ai, cuộc ác chiến lịch sử diễn ra như thế nào, xin các bạn đón xem trong bài tiếp theo.

===============================

(*) Theo truyền thuyết của Việt Nam, tổ của người Lạc Việt bắt nguồn từ vùng Động Đình Hồ, nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc, và địa bàn sinh sống lan rộng xuống tận vùng Bắc Trung Bộ của Việt Nam ngày nay. Sử sách của Việt Nam cũng chỉ trích dẫn từ các truyền thuyết này. Nguồn cổ sử duy nhất có nói đến Lạc Việt là một số rất ít các sách cổ của Trung Quốc, và các sách này cũng chỉ ghi lai rất ít thông tin.

Tài liệu cổ nhất viết về Lạc Việt là Giao Châu Ngoại Vực Ký (thế kỷ 4) viết như sau:

Nội dung trích dẫn"Thời xưa khi Giao Chỉ chưa có quận huyện, thì đất đai có Lạc Điền, ruộng ấy là ruộng (cầy cấy) theo con nước thủy triều. Dân khai khẩn ruộng ấy mà ăn nên gọi là Lạc Dân. Có Lạc Vương, Lạc Hầu làm chủ các quận huyện. Ở huyện phần đông có Lạc Tướng. Lạc Tướng có ấn bằng đồng, (đeo) giải (vải mầu) xanh.

Như vậy tác giả Techno cũng tham gia giải mã truyền thuyết để minh chứng cho tính "Khách quan lịch sử" và tinh thần "khoa học" đấy chứ nhỉ? Thiên Sứ tôi xin nhắc lại rằng:

Tất cả những sự giải mã truyền thuyết và văn hóa dân gian của Thiên Sứ tôi không bao giờ tôi coi đó là bằng chứng khoa học nhằm minh chứng cho lịch sử văn hiến Việt - ít nhất trong trình độ hiểu biết của tri thức nhân loại hiện nay. Nhưng tiếc thay! Những người gọi là phản biện Thiên Sứ tôi - cả trước mặt và sau lưng (Phần lớn đều là sau lưng), đều căn cứ vào việc giải mã của Thiên Sứ tôi - cái mà tôi đưa vào cho hấp dẫn cuốn sách và không thừa nhận là bằng chứng khoa học - để minh chứng Thiên Sứ sai.

Nhưng ngược lại thì chính họ lại bày đặt giải mã truyền thuyết lịch sử Việt khi mà - cả cái tri thức nhân loại hiện đại chưa có nổi một tiêu chí xác định việc giải mã thế nào là đúng - Thí dụ như ngay trong topich này đã có một vị PGS và ông Techno này đang bày đặt giải mã.

Bây giờ chúng ta chịu khó xem ông Techno này giải mã truyền thuyết sử Việt này như thế nào ở phần tiếp theo bài viết của ông ta, khi chính ông ta viết - quí xem lại đoạn sau đây:

Dựa vào truyền thuyết, truyện huyền ảo hay thần thoại mà dựng sử, gọi là huyền sử. Dựa vào những thêu dệt, thậm chí phóng đại để dựng sử, gọi là dã sử. Dựa vào quan điểm của chế độ cai trị, chính trị đương thời thì goi là chính sử. v.v… Các loại sử liệu như thế thường có độ tin cậy rất hạn chế, thậm chí còn đi ngược lại thực chứng khoa học … Thế mà nó vẫn được dùng rất phổ biến ở nước ta và một số nước chưa phát triển khác. Tầm ứng dụng của các loại sử này rất lớn, thậm chí được dùng làm tài liệu giảng dạy và học tập chính thức, gây ra bức tranh sai lệch về lịch sử và đánh giá sai từ bạn bè năm Châu.

Híc!

Còn tiếp

----------------

Chú thích:

Techno là ký danh của người tham gia diễn đàn lyhocdongphuong.org.vn. Bởi vậy, sau khi Thiên Sứ tôi phản biện xong, nếu tác giả quan tâm có thể tham gia tranh luận ở một topic khác trong muc - Nghiên cứu cổ sử này.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Phản biện bài viết của tác giả Techno

Tiếp theo.

Có lẽ tôi cần trích lại đoạn văn của ông Techno ở bài trên để quí vị độc giả khỏi phải kéo lên kéo xuống màn hình xem lại sự giải mã truyền thuyết của ông Techno khi chính ông cho rằng:

Dựa vào truyền thuyết, truyện huyền ảo hay thần thoại mà dựng sử, gọi là huyền sử. Dựa vào những thêu dệt, thậm chí phóng đại để dựng sử, gọi là dã sử. Dựa vào quan điểm của chế độ cai trị, chính trị đương thời thì goi là chính sử. v.v… Các loại sử liệu như thế thường có độ tin cậy rất hạn chế, thậm chí còn đi ngược lại thực chứng khoa học … Thế mà nó vẫn được dùng rất phổ biến ở nước ta và một số nước chưa phát triển khác. Tầm ứng dụng của các loại sử này rất lớn, thậm chí được dùng làm tài liệu giảng dạy và học tập chính thức, gây ra bức tranh sai lệch về lịch sử và đánh giá sai từ bạn bè năm Châu.

Đấy là phần đầu của bài viết của tác giả Techno. Nhưng phần cuối bài trên thì như sau:

Theo tập quán kết giao để tránh chiến tranh, người Trung Quốc xưa thường nhận các địch thủ có thế mạnh tiềm tàng làm con, hoặc gả con để kết thân. Ta có thể thấy rằng việc "vua lấy tiên nữ sinh con" là để giải thích việc nhận con nuôi một cách thánh hoá. Người Lạc Việt (*) sinh sống chủ yếu bằng nghề chài lưới trên các lưu vực đại giang, mạnh mẽ và nhiều tham vọng, dưới sự dẫn dắt của Sùng Lãm trẻ trung và hiếu chiến, buộc Lộc Tục phải nhận Sùng Lãm làm con nuôi, ban cho quyền hạn, hiệu là Lạc Long Quân, để tránh phải đối đầu.

Cách đây gần 3.000 năm, trận nhiệt hà dai dẳng và khắc nghiệt đã làm đại giang Dương Tử và các chi – phụ lưu của nó dần dần khô cạn. Các tộc người trong Bách Việt sinh sống bằng chài lưới và cả canh tác lúa nước đều khốn đốn, bắt buộc phải ra đi tìm đất sống. Lạc Long Quân với tư cách là đại thống lĩnh các tộc Việt phải dẫn trên dưới 100 bộ tướng chọn lọc trong Bách Việt (cùng quân lính và vợ con họ) tiến xuống phía nam trù phú.

Vượt qua rặng Hoàng Liên Sơn, tiến đến khu vực Piaya (Phi mã Yên Sơn) và Piaouac (Phi mã Ác Sơn) thì đoàn tinh binh của Lạc Long Quân chạm trán với lực lượng của Cửu Thiên Huyền Nữ và ác chiến nổ ra. Một bên là tinh binh hăm hở với áp lực tìm đất sống nếu không muốn diệt vong, một bên là bảo vệ chủ quyền và nguồn sống của cộng đồng các dân tộc thượng du Bắc Bộ, được đông đảo cư dân bản địa phục tòng và ủng hộ hết lòng . . .

Bây giờ chúng ta xem tiếp những luận cứ của tác giả:

Lược Sử Cổ Đại Việt Nam

Tác giả: Tranghuyendo_Techno

(tiếp theo)

Nội dung trích dẫn:

Vượt qua rặng Hoàng Liên Sơn, tiến đến khu vực Piaya (Phi mã Yên Sơn) và Piaouac (Phi mã Ác Sơn) thì đoàn tinh binh của Lạc Long Quân chạm trán với lực lượng của Cửu Thiên Huyền Nữ và ác chiến nổ ra….

Cửu Thiên Huyền Nữ là đại thống lĩnh các tộc người Thượng Du Bắc bộ, còn có danh xưng là bà Chúa Thượng Ngàn. Người Việt hiện nay trong lễ cúng đất đai thần thánh và nhất là tục lên đồng vẫn tôn thờ vái van bà, cả hai danh hiệu Cửu Thiên Huyền Nữ và bà Chúa Thượng Ngàn được tuyên xướng và xem là hai nhân vật thần thánh.

Bà sinh hạ cô con gái Uhr Ka (U – ca) chưa đầy tháng đã phải lãnh đạo chuộc chiến đấu bảo vệ lãnh thổ. Được sự hỗ trợ của hơn 30 bộ tộc, bà tiến hành chiến tranh dai dẳng nhằm làm suy giảm nhuệ khí và uy thế tấn công của đoàn quân Việt. Cuộc chiến tranh kéo dài 16 năm trời, hai bên đều hao tổn cả về lực lượng quân sự lẫn khả năng kinh tế mà không có dấu hiệu dừng lại.

Công nương U ca ngày nào còn ẵm ngửa, nay đã trở thành mỹ nhân xinh đẹp, được xem như là nữ tiên đại biểu cho cái đẹp thượng du Bắc Bộ. Một ngày nọ, nàng bỗng xin phép mẹ là Cửu Thiên Huyền Nữ cầm binh ra trận. Người mẹ không thể nào đồng ý, vì địch quân thì mạnh bạo, còn cô con gái mình thì xinh non như ngọc như ngà, có thể nào đương cự được. Mỹ nhân biểu diễn thần võ của mình trước mặt mẹ, và người mẹ kiêu dũng bị thuyết phục vì thấy nàng không những xinh đẹp tuyệt trần mà còn có binh tài xuất chúng.

U ca diện bạch – kim bào ra trận, đoàn quân với đa số là nữ binh áo trắng xinh đẹp làm ngơ ngẩn cả núi rừng….

Hai đoàn quân kiêu dũng gặp nhau, hai chiến tướng ghìm ngựa nhìn nhau hồi lâu mà không có ý định xua quân tiến đánh. Tiếng sét ái tình đã nổ ra trước đầu chiến mã, đổi thay tất cả quan niệm và cuộc diện chiến tranh.

Dũng lược và tài năng lãnh đạo của Cửu Thiên Huyền Nữ cho phép Bà nhận ra ngay tính chất quyết định của cuộc hôn nhân kỳ lạ này : nó cho phép giải quyết cuộc chiến dai dẳng và hao tốn binh lực của cải, thêm bạn bớt thù mà còn làm tăng năng lực và nhuệ khí của núi rừng Bắc Bộ.

Cuộc hôn nhân của hai người được thần thánh hoá thành cuộc giao phối giữa thần Rồng Lạc Long Quân Và Tiên nữ Âu Cơ (U à Âu như chu sa à châu sa; Ca à Cơ như rà và rờ). Trên dưới 100 bộ tướng thành con nuôi của họ và trở thành 100 người con thánh hoá từ cuộc sinh nở phi thường ra chiếc bọc 100 trứng.(*)

Quí vị chắc không thể coi một câu chuyện tình y như trong phim được ông Techno kể lại theo chủ quan của ông là một bằng chứng khoa học cho cội nguồn dân tộc Việt. Xin lỗi - Nếu Thiên Sứ viết lại theo đơn đặt hàng của ông thì viết câu chuyện trên còn giầu chất trữ tình và lâm li bi bét hơn nhiều. Nhưng qua đoạn trích dẫn trên, chúng ta đã thấy rõ ràng rằng: Tác giả Techno đã lấy chất liệu về truyền thuyết dân tộc Việt mà chính ông cho rằng - không có căn cứ khoa học - để viết lại cội nguồn lịch sử dân tộc Việt. Đây phải chăng chính là cái gọi là "tinh thần khoa học" của cái mà họ thường quảng cao "Hầu hết những nhà khoa học trong nước" và "công đồng khoa học thế giới " công nhận quan điểm phủ nhận những giá trị truyền thống của nền văn hiến Việt trải gần 5000 năm?

Ông Techno viết:

Đất trời như cũng vang tiếng ngợi ca một dân tộc Việt vĩ đại ra đời, là hợp thể của nhiều tộc người từ thượng du cho đến trung du, đến tận đồng bằng và duyên hải Bắc bộ, mà sức mạnh của họ chinh phục mãi đến tận chót mũi Cà Mau như ngày hôm nay …

Đúng là dân tộc Việt huyền vĩ thật. Nhưng sự huyền vĩ này trải gần 5000 năm lịch sử một thời hoàng kim ở miền nam sông Dương Tử và là cội nguồn của nền văn hóa Đông phương đang thách đố tri thức nhân loại. Chứ không phải thời Hùng Vương là "một liên minh gồm 15 bộ lạc" với những người dân "ở trần đóng khố" như những người phủ nhận văn hóa sử dân tộc quan niêm, rồi che mắt bằng những câu sáo rỗng.

Bây giờ chúng ta xem tiếp những luận chứng của tác giả Techno trong phần chú thích của ông ta:

========================

Chú thích :

(*) Danh sách 100 người con trai từ bọc trăm trứng

Lân Lang làm vua

49 người con theo cha Lạc Long Quân là:

Xích Lang, Quynh Lang, Mật Lang, Thái Lang, Vĩ Lang, Huân Lang, Yên Lang, Tiên Lang, Diên Lang, Tích Lang, Tập Lang, Ngọ Lang, Cấp Lang, Tiếu Lang, Hộ Lang, Thục Lang, Khuyến Lang, Chiêm Lang, Vân Lang, Khương Lang, La Lang, Tuần Lang, Tân Lang, Quyền Lang, Đường Lang, Kiều Lang, Dũng Lang, Aác Lang, Tảo Lang, Liệt Lang, Ưu Lang, Nhiễu Lang, Lý Lang, Châm Lang, Tường Lang, Chóc Lang, Sáp Lang, Cốc Lang, Nhật Lang, Sái Lang, Chiêu Lang, Hoạt Lang, Điển Lang, Thành Lang, Thuận Lang, Tâm Lang, Thái Lang, Triệu Lang, Iích Lang.

50 người con trai theo mẹ Âu Cơ là:

Hương Lang, Kiểm Lang, Thần Lang, Văn Lang, Vũ Lang, Linh Lang, Hắc Lang, Thịnh Lang, Quân Lang, Kiêm Lang, Tế Lang, Mã Lang, Chiến Lang, Khang Lang, Chinh Lang, Đào Lang, Nguyên Lang, Phiên Lang, Xuyến Lang, Yến Lang, Thiếp Lang, Bảo Lang, Chừng Lang, Tài Lang, Triệu Lang, Cố Lang, Lưu Lang, Lô Lang, Quế Lang, Diêm Lang, Huyền Lang, Nhị Lang, Tào Lang, Ngyuệt Lang, Sâm Lang, Lâm Lang, Triều Lang, Quán Lang, Cánh Lang, Ôốc Lang, Lôi Lang, Châu Lang, Việt Lang, Vệ Lang, Mãn Lang, Long Lang, Trình Lang, Tòng Lang, Tuấn Lang, Thanh Lang.

Trích theo http://www.binhthuan.gov.vn/khtt/vanhoa/0005/0001/DTDH1.htm

Như vậy phần chú thích này muốn nói điều gì? 100 người con của Tổ Phụ Lạc Long quân và Tổ Mẫu Âu cơ theo truyền thuyết huyền sử Việt là có thật chăng? Không thật thì ông đưa danh sách của họ vào đây làm gì? Nếu thật thì truyền thuyết cũng phản ánh sự thật đấy chứ! Chính ông chứng minh mà! Nếu không thật thì tất cả những luận cứ của ông ở trên chăng có giá trị gì! Bây giờ ông chọn cách lập luận nào?

Tại sao ông không trả lời cái ông học giả nước ngoài hỏi ông như ông đang thuyết minh ở đây. Có đủ tên tuổi của 100 người con. Lạ nhỉ? Khoa học của cái "Hầu hết những nhà khoa học trong nước " và cái "cộng đồng khoa học thế giới" phủ nhận văn hiến sử Việt là vậy chăng?

Bây giờ chung ta xem tiếp những luận cứ của ông Techno:

Nội dung trích dẫn:

Đất trời như cũng vang tiếng ngợi ca một dân tộc Việt vĩ đại ra đời, là hợp thể của nhiều tộc người từ thượng du cho đến trung du, đến tận đồng bằng và duyên hải Bắc bộ, mà sức mạnh của họ chinh phục mãi đến tận chót mũi Cà Mau như ngày hôm nay …

Như 3 bài trên đã phân tích, chúng ta thấy rõ ràng là người Việt chúng ta không hề có huyết thống gì với Lộc Tục (Kinh Dương Vương) và cả Lạc Long Quân, mà chỉ có giống nòi Lạc Việt mới là căn cứ đáng tin cậy nhất.

Ơ! Híc!

Chính ông vừa mới viết ở trên:

Vượt qua rặng Hoàng Liên Sơn, tiến đến khu vực Piaya (Phi mã Yên Sơn) và Piaouac (Phi mã Ác Sơn) thì đoàn tinh binh của Lạc Long Quân chạm trán với lực lượng của Cửu Thiên Huyền Nữ và ác chiến nổ ra….

và sau đó là một cuộc tình sét đánh để tạo ra dân tộc Việt vĩ đại. Nay thì ở đoạn này ông lại viết:

Như 3 bài trên đã phân tích, chúng ta thấy rõ ràng là người Việt chúng ta không hề có huyết thống gì với Lộc Tục (Kinh Dương Vương) và cả Lạc Long Quân,

Thế là thế nào nhỉ? Chắc quí vị quan tâm cũng đủ khả năng để thấy được sự mâu thuẫn cao độ của những lập luận của tác giả Techno, khiến những lập luận tự phủ nhận. Ít nhất cũng đến đoạn này của bài viết.

Chúng ta xem tác giả viết tiếp như sau:

Những dữ liệu lịch sử từ Sử Ký Tư Mã Thiên (1) hay Đại Việt Sử Ký (1272) của Lê Văn Hưu không chép gì về đời Hồng Bàng. An Nam Chí Lược của Lê Tắc, viết tại Trung Hoa khoảng 1333, cũng không viết gì về đời Hồng Bàng. Phải đến khoảng 1377, trong Việt Sử Lược, một cuốn sách không rõ tác giả, mới có nhắc sơ qua đến đời Hồng Bàng. Một số thần phả còn bịa ra thụy hiệu của các vua Hùng (như Hùng Hy vương, Hùng Duệ vương...) nhưng tất cả đều không có dữ liệu đáng tin. Có thuyết còn tính một cách võ đoán rằng Kinh Dương Vương là Hùng Vương đầu tiên và Lạc Long Quân là Hùng vương thứ hai, sau đó chỉ có 16 Hùng Vương là hết thời Hồng Bàng.

Ơ! Thế thì cái đoạn văn mà ông ca ngợi là dân tộc Việt vĩ đại - do hôn nhân sét đánh - y như phim - là thế nào?

Sử ký Tư Mã Thiên không nhắc đến thì ông bảo thời Hùng Vương là không có thật - Xin lưu ý ông là - Tư Mã Thiên Sử ký không phải là cuốn sử Việt ông ạ. Hình như lịch sử Hoa Kỳ cũng chẳng có chữ nào nói đến thời Hùng Vương thì phải. Cả sử Anh , Pháp, Triều Tiên, Nhật Bản ...vv..đều không nhắc đến thời Hùng Vương vì nó không phải là sử Việt. Nếu thực sự khách quan khoa học thì những tư liệu như: Thần Phả, Ngọc phả đều phải được xem xét một cách khách quan, sao ông lại nỡ phũ phàng mà công nhận tư liệu này và chấp nhận tư liêu kia vậy?

Thời Hùng Vương đã thực sự tồn tại thì nó sẽ không chỉ ở trong sử liệu, mà nó còn ngay trong đời sông văn hóa , phong tục tập quán của người Việt hiện nay. Thí dụ như sự tồn tại của cái bánh chưng bánh dầy - dù Trần Quốc Vương có nói cái bánh chưng tròn hay méo thì nó vẫn là cái bánh chưng . Vậy nó từ đâu mà ra? Đấy chỉ là một sự nhắc nhở sơ sơ vậy thôi để tác giả suy ngẫm.

Chúng ta xem tiếp đoạn sau:

Trong Việt Sử Tiêu Án (1775), Ngô Thì Sĩ (2) đã đặt nghi vấn về Kinh Dương Vương, Xích Quỷ, và nhiều truyền thuyết liên quan.

Niên đại của đời Hồng Bàng có bắt đầu từ 2879 trước công nguyên? Sử gia đặt nghi vấn này (như Trần Trọng Kim) tính từ con số truyền thuyết về vua Kinh Dương Vương (2879 trước CN), qua Lạc Long Quân và 18 vua Hùng (kết thúc 257 trước CN), tính ra 2322 năm cho 20 ông vua, trung bình mỗi người 121 năm. Một con số có tính ly kỳ và không có giá trị tham chiếu khoa học lịch sử. Nhiều người chấp nhận niên đại khoảng 600 trước CN là năm bắt đầu đời Hồng Bàng vì Việt Sử Lược ghi rằng nước Văn Lang bắt đầu từ đời vua Chu Trang Vương (696-682 trước CN). Nhưng lại cũng chẳng có bằng chứng xác đáng nào cả.

Như vậy thì theo tác giả thời Hùng Vương không có thật chăng? 2879 không phải! 600 năm BC cũng không phải! Vậy là thế nào? Trước khi chúng ta xem tác giả kết luận thế nào, Thiên Sứ tôi xin lưu ý cái luận cứ lấy 2622 năm (Tác giả viết là 2322 năm) chia cho 18 để ra trung bình mỗi người gần 145 năm (Tác giả chia là 121) là một sai lầm ấu trĩ về mặt toán học. Xin lỗi các vị giáo sư tiến sĩ trong cái "Hầu hết""cộng đồng" trong nước và thế giới: Thằng con tôi mà lấy 4 quả cà chua trừ đi 2 quả cam còn 2 quả cà chua thì chắc cô giáo dạy lớp 2 của nó bắt nó quỳ và học lại bài từ lâu rồi.

Hay là các vị cao siêu quá quên mất cả tính tối thiểu trong toán học là các đại lượng phải đồng đẳng?

Nếu các ngài "pha học" kia lấy 2622 năm là con số thời gian thật mà lại chia cho con số 18 huyền sử thì có hai vấn đề xảy ra:

1 - Hoặc là các ngài công nhận thời Hùng Vương có 18 đời vua là có thật và không phải huyền sử . Như vậy thì các giáo sư tiến sĩ học vấn đầy mình mới chia được chứ? Nếu các ngài cho là có thật thì các ngài phải chứng minh. Nhưng tiếc thay, cái bằng cấp giáo sư đó lại đang phủ nhận những giá trị cội nguồn văn hóa sử truyền thống Việt cho rằng truyền thuyết 18 đời Hùng Vương là không có cơ sở "pha học". Hay nói cách khác: Các ngài không đủ khả năng làm việc này.

2 - Hoặc các ngài giáo sư tiến sĩ khả kính cho rằng 18 đời Hùng Vương chỉ là huyền thoại không đáng tin cậy thì các ngài làm sao chia 2622 năm trị vì của thời Hùng Vương cho con số 18?

Qua đó cũng đủ chứng tỏ cái gọi là "tinh thần khoa học" của cái đám phủ nhận giá trị văn hóa sử truyền thống Việt , mà họ quảng cáo là

"Được hầu hết những nhà khoa học trong nước" "công đồng khoa học quốc tế ủng hộ". Nhưng họ vẫn la lối về quan điểm gọi là "pha học" của họ.

Quay trở lại tiếp tục quán xét phần còn lại của bài viết của tác giả Techno. Ông ta viết:

Về xác định niên đại của Lạc Long Quân, chúng ta thấy rõ ràng là Người chỉ phải tiến xuống phía nam khi nạn khô hạn kéo dài trên lưu vực đại giang Dương Tử tiến đến cao trào. Theo dữ liệu Địa Vật lý và thiên văn học cho thấy tại đây, vào năm 922 TCN đã có một trận hạn hán rất lớn kéo dài gần 5 năm trời, đến tận 917 TCN mới chấm dứt. Nghĩa là Lạc Long Quân dẫn đoàn quân nam tiến vào khoảng năm 921 đến 920 TCN (lấy mốc 920). Cộng với 16 năm chinh chiến và 10 năm chung sống không con cái với Âu Cơ rồi phân chia quân ngũ, thì Vua Hùng đầu tiên xuất hiện không sớm hơn năm 920 - 26 = 894 TCN. Xét thời điểm vua Hùng thứ 18 nhảy xuống sông tự tử khi thua trận và An Dương Vương (3) lập nước Âu Lạc năm 227 TCN thì thời gian trị vì trung bình của mỗi đời vua Hùng là (894 – 227) / 18 = 37 năm.

Đến đây, ông Techno lại nhắc đến Lạc Long Quân. Và bây giờ chúng ta lại xem lại chính ông ta viết ở trên:

Như 3 bài trên đã phân tích, chúng ta thấy rõ ràng là người Việt chúng ta không hề có huyết thống gì với Lộc Tục (Kinh Dương Vương) và cả Lạc Long Quân,

Thế là thế nào nhỉ?

Chúng ta xem ông ta viết tiếp:

Đây là con số rất phù hợp với tuổi trị vì trung bình của vua chúa một thời hoà bình thịnh vượng.

Tức là ông ta thừa nhận bài toán chia trên là vô lý và ông ta thừa nhận thời Hùng Vương có thật với 18 đời vua - nếu theo ông ta mỗi vị thọ 37 năm!? Bây giờ chúng ta giả thiết rằng ông Techno đúng thì thời Hùng Vương là có thật với niên đại của ông. Nhưng tiếc thay. Ngay đoạn văn tiếp theo ông lại tự phủ nhận luôn cả thời đại mà ông dẫn chứng ở trên qua một trận hạn hán lịch sử. Chúng ta xem ông ta viết gì:

Như vậy, có thể nói rằng không có thời đại Hồng Bàng, mà nó chỉ là sản phẩm tưởng tượng của một tác giả không rõ danh tánh thế kỷ XIV chăng ? Đó chỉ còn là vấn đề quan điểm của chúng ta đối với lịch sử mà thôi, vì mọi vấn đề chứng lý khoa học đã được phơi bày.

Như vậy thì với ông Thời Hùng Vương - tức thời Hồng Bàng là không có luôn. Híc! Vậy thì ông cần quái gì phải nhọc sức lý luận Lạc long Quân vào lúc Nam Dương Tử bị hạn vào năm 922 TCN kéo quân xuống gặp Cửu Thiên Huyền Nữ và Bà Chúa Thượng Ngàn rồi bị con gái bà đá lông nheo thành dân tộc Việt vĩ đại làm gì?!

Híc! Nhưng quí vị độc giả cũng thấy: Ông ta vẫn "khoa học" như thường khi viết:

"mọi vấn đề chứng lý khoa học đã được phơi bày".

Đoạn sau còn nữa. Nhưng thực sự Thiên Sứ tôi phải nghỉ một tý để tịnh tâm, không thì tẩu hỏa nhập ma vì va chạm với cái "tinh thần pha học" của những nhà ngâm cứu phủ nhận giá trị văn hóa sử truyền thống Việt.

Còn tiếp

Share this post


Link to post
Share on other sites

Kính thưa quí vị quan tâm.

Như vậy, chúng ta đã quán xét phần trên bài viết của tác giả Techno về những luận cứ gọi là khoa học của ông. Và chúng ta đã thấy chúng thực sự không hề có cơ sở khoa học khi tự mâu thuẫn và tự phủ nhận.

Dưới đây là phần cuối bài viết của tác giả Techno và chúng ta cùng quán xét.

Tác giả Techno viết:

Lược sử cổ đại Việt Nam – những điều cần nói thêm :

1/. Người Lạc Việt sau cuộc hôn nhân vĩ đại Lạc Long Quân – Âu Cơ, đã hùng cứ phương Nam, trở thành người Kinh (4) và duy trì được sự tồn tại bản sắc văn hoá riêng trong khi những người đồng chủng của họ ở lại lưu vực đại giang Dương Tử đều bị đồng hoá trở thành một bộ phận của 56 dân tộc Trung Hoa ngày nay.

Như vậy, chúng ta lại thấy ở đoạn này tác giả vẫn thừa nhận Lạc Long Quân là tổ tiên của người Kinh và những người đồng chủng Việt khác thì bị Hán hóa. Điều này tác giả một lần nữa tự mâu thuẫn với chính minh khi viết ở trên với nội dung phủ nhận Lạc Long Quân. Xin trích lại như sau:

Như 3 bài trên đã phân tích, chúng ta thấy rõ ràng là người Việt chúng ta không hề có huyết thống gì với Lộc Tục (Kinh Dương Vương) và cả Lạc Long Quân, mà chỉ có giống nòi Lạc Việt mới là căn cứ đáng tin cậy nhất.

Với hai đoạn văn của chínhbb ông Techno thì cái nào là cái rõ ràng và cái nào là cái thực sự khoa học trong luận cứ của tác giả.

Tác giả Techno viết:

2/. Cho đến nay nhiều người vẫn nghĩ rằng người Kinh thuộc giống dòng Giao Chỉ (5). Nhưng chỉ cần xét đến anh em đồng hệ tộc thuộc Bách Việt (còn ở lại trên đất Trung Quốc) không hề có tài liệu nào ghi nhận tính trạng giao chỉ, cho thấy đó là một nhận thức lịch sử tai sai lầm. Sự thật là tính trạng giao chỉ rất phổ biến trong một số tộc người thượng du Bắc và Bắc Trung bộ Việt Nam. Như vậy có thể xác định rằng người Giao chỉ là cư dân bản địa – bà con huyết thống với chúng ta ngày nay trước khi người Lạc Việt đến phương Nam.

Kết luận này là hệ quả của những luận cứ tự mâu thuẫn và sự lý giải chủ quan truyền thuyết mà chính ông ta cho là không có cơ sở đáng tin cậy. Bởi vậy nó không có một giá trị khoa học.

Riêng phần tác giả Techno ghi là điều 3 trong nguyên văn, tôi chia làm nhiều phần để chúng ta cùng quán xét:

3 - 0:

3/. Chữ Lạc (trong Lạc Việt) có nghĩa là nước, còn là tên một loài chim huyền thoại giống trĩ, hót hay và bay cao, lông trắng hay hoàng hồng. Việt: Nước - Bana: Đák - Sơ Đăng: Đák - Cua: Đaák - Xi Tiêng: Đaác - Mường: Rác - Tiếng địa phương bắc Trung Bộ: Nác đều là biến thể ngữ âm của từ Lạc còn lại đến ngày nay.

Vậy thì xin hỏi tác giả: Trong Kinh Thư có câu: Chim Việt đậu cành Nam" thì giữa chim Việt và chim Lạc khác nhau như thế nào?

3 - 1:

Lạc Việt là dân tộc đầu tiên trên thế giới biết trồng lúa nước, cuộc khai quật của Wilheim G. Solheim, thuộc đại học Hawaii lại cho thấy sau khi thử phóng xa C-14, mẫu lúa của người Hòa Bình, cho niên đại là khoảng 3500 trước Tây Lịch, sớm hơn ở Ấn Độ và Trung Quốc khoảng 1000 năm, nơi mà người ta vẫn cho là quê hương của loại lúa trồng này.

Chữ Lạc, về sau viết nhầm thành chữ Hùng (Ngô Sĩ Liên: trước là Lạc Tướng sau lầm ra Hùng Tướng - Lạc Tướng hậu ngọa vi Hùng Tướng), nhưng do ý nghĩa của chữ Hùng quá đẹp nên được dùng đến ngày nay. Lạc Vương --> Hùng Vượng

Điều này thì hoàn toàn chính xác: Cư dân Đông Nam Á biết trồng lúa nước đầu tiên và dân Việt không phải đợi tới Sĩ Nhiếp sang dạy mới biết trồng lúa. Nhưng điều đó không có nghĩa là chỉ ở Hòa Bình mới tìm thấy di vật lúa mà còn ở Đông Bắc Thái Lan tức là rất gần với vùng đất Văn Lang xưa ông WG. Solheim cũng tìm thấy di vật lúa và cả đồ sắt có niên đại vào khoảng 1500BC.

3 -2:

Chữ Việt ngoài nghĩa thông dụng Hán ngữ là vượt qua, còn có nghĩa là cái rìu lớn (phủ việt = búa rìu), một biểu hiện sức mạnh và uy quyền của các Lạc tướng, Lạc vương. Rìu đá trong các di chỉ thuộc đồ đá mới tại VN đã cho thấy rìu lớn là phát minh đặc sắc của cư dân Lạc Việt mà các anh em hệ tộc bách việt phía bắc không hề có.

Rìu đá không phải sản phẩm riêng của người Bách Việt. Mà chúng ta thấy rằng: Rìu đá là một công cụ khá phổ biến trong các cư dân cổ trên thế giới. Và đặc biệt Trương Phi - thời Hậu Hán - cũng dùng một cái rìu và gọi là búa vì cán dài làm vũ khí.

Còn đây là phần chú thích của ông Techno:

=========================

Chú thích

1- Sử Ký (史記/史记; Shǐjì) của Tư Mã Thiên được viết từ năm 109 TCN đến 91 TCN, là kiệt tác của Tư Mã Thiên, trong đó ông ghi lại lịch sử Trung Quốc từ thời Hoàng Đế thần thoại cho tới thời ông. Vì là văn bản lịch sử Trung Quốc có hệ thống đầu tiên, nó ảnh hưởng cực lớn tới việc chép sử và văn chương Trung Quốc sau này.

Tôi đồng ý với ông Techno là cuốn Sử Ký Tư Mã Thiên rất vĩ đại. Nhưng tôi cũng lưu ý quí vị độc giả là đây không phải cuốn sử Việt và tôi cũng lưu ý là: Cuốn Sử Ký ra đời 100 năm sau khi nước Văn Lang đã tan rã.

2- Ngô Thì Sĩ (吳時士), hiệu là Ngọ Phong (午風) 1726-1780 - là một nhà sử học, nhà thơ thuộc tầng lớp nho sĩ trí trức . Quê ông là làng Tả Thanh Oai, trấn Sơn Nam (nay thuộc tỉnh Hà Tây). Ông đóng vai trò là người sáng lập Ngô Gia Văn Phái. Tác phẩm : Tác phẩm tiêu biểu nhất có sự tham gia của ông là Hoàng Lê Nhất Thống Chí (của Ngô Gia Văn Phái) sáng tác đầu thế kỷ thứ 19. Các tác phẩm sử học: Việt sử tiêu án, Đại Việt sử ký tiền biên, một phần Đại Việt sử ký tục biên.

Vấn đề này không có gì để bàn, vì nó chỉ liên quan đến tiểu sử của ông Ngô Thì Sĩ

3- Cho tới đầu công nguyên thời Hai Bà Trưng, người Việt vẫn chưa có họ. Do đó họ Thục của An Dương Vương là một nghi vấn. Nước Thục (ở Tứ Xuyên ngày nay) mất năm 316 TCN. Chống Tần thất bại, con cháu họ chạy xuống phía bắc nước Văn Lang, sống với người Âu Việt. Sau một thời gian đứng vững, thủ lĩnh Âu Việt thôn tính Lạc Việt. Không hẳn thủ lĩnh Âu Việt đã là dòng dõi nước Thục cũ mà có thể chỉ là con cháu của tướng lĩnh, quan lại cũ của Thục, xưng làm họ Thục để thu phục nhân tâm vùng Âu Việt.

Bộ sử lâu đời nhất và gần thời An Dương Vương nhất là Sử ký Tư Mã Thiên chỉ nhắc tới nước Âu Lạc mà không nhắc tới An Dương Vương họ Thục.

Căn cứ vào đâu để ông Techno khẳng định rằng "Cho tới đầu thời Hai Bà Trưng , người Việt vẫn chưa có họ"? Còn việc Thục An Dương Vương là con cháu nước Thục là quan điểm của Đào Duy Anh đã bị Thiên Sứ phản bác trong "Thời Hùng Vương và bí ẩn Lục Thập hoa giáp" - Nxb Thanh Niên 1999.

4- Người Kinh, hay dân tộc Kinh (京族; jīngzú, Kinh tộc) là tên gọi của người Việt sống tại Trung Quốc. Vào khoảng thế kỷ 16, có một số lượng người Việt di cư lên phía bắc vào lãnh thổ Trung Quốc. Tuy đã bị ảnh hưởng Trung Hoa nhiều hơn, con cháu những người này vẫn còn nói tiếng Việt và được công nhận là một dân tộc thiểu số tại Trung Quốc. Họ tạo thành một trong số 56 dân tộc được chính thức công nhận tại Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Họ nói tiếng Việt và sinh sống chủ yếu trên 3 đảo ngoài khơi khu tự trị người Choang Quảng Tây, nhưng tiếng Việt của họ đã pha trộn nhiều với tiếng Trung và có nhiều từ cổ của tiếng Việt. Về chữ viết, ngày nay họ sử dụng Hán tự. Năm 2000 ước tính có khoảng 22.000 người Kinh tại Trung Quốc.

Thế là thế nào nhỉ? Chính ông Techno vừa viết ở trên là

"Người Lạc Việt sau cuộc hôn nhân vĩ đại Lạc Long Quân – Âu Cơ, đã hùng cứ phương Nam, trở thành người Kinh" .

Nhưng đến đây thì ông lại viết:

Người Kinh, hay dân tộc Kinh (京族; jīngzú, Kinh tộc) là tên gọi của người Việt sống tại Trung Quốc.

.

Người Việt lên Trung Quốc vào thế kỷ 16 thì gọi là người Kinh. Vậy người Việt ở Việt Nam gọi là người gì?

5- Tính trạng Giao Chỉ : đó là tính trạng di truyền thể hiện bằng hai ngón chân cái của bàn chân chìa ra, chạm nhau khi người đứng thẳng. Sử liệu Trung Hoa chưa từng ghi nhận tính trạng giao chỉ trong cộng đồng bách việt từ ngàn xưa đến nay.

Lại dẫn sử Trung Hoa. Sao ông không dẫn sử Hy Lạp để minh chứng rằng người Hy Lạp cổ chẳng viết gì đến sử Việt cả. Hay ông dẫn sử Việt để minh chứng rằng không hề nói đến thời Đông Chu Liệt quốc?

Bây giờ chúng ta quan xét tiếp lập luận của ông Techno:

Quốc Gia đầu tiên của người Việt và Hiến Pháp đầu tiên của Nhân Loại.

Quốc Gia đầu tiên của người Việt

Năm 1221 TCN, đoàn người Âu (甌), còn gọi là Tây Âu (西甌) thuộc chủng Arriane trên đại bình nguyên lưỡng hà Ấn - Hằng từ phía Tây Trung Hoa tràn vào đất Lĩnh Nam của cư dân Bách Việt. Họ nhập vào các nhóm Bách Việt và dần dần trở thành một bộ phận của Bách Việt và càng ngày càng xa rời phong tục tập quán của lưu vực Ấn - Hằng, nên được gọi là Âu Việt (甌越). Họ cao lớn, có năng lực thể chất và thể trạng hơn hẳn các nhóm dân Bách Việt khác, ưu thế trong chiến đấu và xây dựng của họ nhanh chóng được khẳng định và trở thành một đầu tàu, một ngòi nổ mạnh trong cuộc chiến không ngừng giành quyền sống của cộng đồng bách Việt trong thời mông muội của lịch sử.

Khi đoàn người Bách Việt tràn xuống phương Nam tìm đất sống thì đại bộ phận Âu Việt lang thang qua các vùng đất lửa Trung Hoa. Họ dần dà quay lại đất Lĩnh Nam, theo chân đoàn di dân cơ học Bách Việt về đất Giao Châu và quần cư với người Lạc Việt trên dải đất lưu vực sông Hồng phì nhiêu màu mỡ. Năm 227 TCN, thủ lĩnh Âu Lạc mượn tiếng họ Thục để giành lấy quyền làm chủ phương Nam và lập ra Vương Quốc Âu Lạc đầu tiên trong lịch sử Giao Châu.

Thật đáng tiếc! Ông Techno không chứng minh được rằng:

Năm 1221 TCN, đoàn người Âu (甌), còn gọi là Tây Âu (西甌) thuộc chủng Arriane trên đại bình nguyên lưỡng hà Ấn - Hằng từ phía Tây Trung Hoa tràn vào đất Lĩnh Nam của cư dân Bách Việt. Họ nhập vào các nhóm Bách Việt và dần dần trở thành một bộ phận của Bách Việt và càng ngày càng xa rời phong tục tập quán của lưu vực Ấn - Hằng, nên được gọi là Âu Việt (甌越). Họ cao lớn, có năng lực thể chất và thể trạng hơn hẳn các nhóm dân Bách Việt khác, ưu thế trong chiến đấu và xây dựng của họ nhanh chóng được khẳng định và trở thành một đầu tàu, một ngòi nổ mạnh trong cuộc chiến không ngừng giành quyền sống của cộng đồng bách Việt trong thời mông muội của lịch sử.

Ông căn cứ vào đâu để nói lên điều này? Sử Tàu viết chăng? Tại sao người Tây Âu đó không ở lại với nền văn minh Trung Hoa vĩ đại vào năm 1221 BC mà bò xuống Lĩnh Nam với - nói theo cách của ông Tẻcchhnno - cộng đồng bách Việt trong thời mông muội của lịch sử.

Chưa hết - chính đoạn trên ông viết:

Cho tới đầu công nguyên thời Hai Bà Trưng, người Việt vẫn chưa có họ. Do đó họ Thục của An Dương Vương là một nghi vấn. Nước Thục (ở Tứ Xuyên ngày nay) mất năm 316 TCN. Chống Tần thất bại, con cháu họ chạy xuống phía bắc nước Văn Lang, sống với người Âu Việt. Sau một thời gian đứng vững, thủ lĩnh Âu Việt thôn tính Lạc Việt. Không hẳn thủ lĩnh Âu Việt đã là dòng dõi nước Thục cũ mà có thể chỉ là con cháu của tướng lĩnh, quan lại cũ của Thục, xưng làm họ Thục để thu phục nhân tâm vùng Âu Việt.

Bộ sử lâu đời nhất và gần thời An Dương Vương nhất là Sử ký Tư Mã Thiên chỉ nhắc tới nước Âu Lạc mà không nhắc tới An Dương Vương họ Thục.

Nhưng ở đoạn này thì lại là:

Năm 227 TCN, thủ lĩnh Âu Lạc mượn tiếng họ Thục để giành lấy quyền làm chủ phương Nam và lập ra Vương Quốc Âu Lạc đầu tiên trong lịch sử Giao Châu

Thế là thế nào nhỉ? Trong hai luận điểm gần giống nhau đó cái nào gọi là có cơ sở khoa học?

Rồi ông Techno viết:

Không còn nghi ngờ gì nữa, chính An Dương Vương mới là người xây dựng nên cường quốc Âu Lạc , 227 TCN. Một cuộc giao hoà rất đẹp giữa hai nguồn GEN : Lạc Việt có ưu thế khéo léo và khả năng ngôn ngữ cộng với Âu Việt có tính trạng tuyệt vời, hiếu chiến và giàu tính phấn đầu (*)

Chẳng ai nghi ngờ điều này cả. Từ ngàn xưa lịch sử truyền thống Việt vẫn xác định vào cuối thời vua Hùng Vương thứ 18 đã trao quyền cho Thục Phán chấm dứt triều đại của các vua Hùng và thánh lập nước Âu Lạc. Chỉ có ông Techno với cái "hầu hết những nhà khoa học trong nước " được "cộng đồng khoa học quốc tế" ủng hộ quan điểm phủ nhận giá trị văn hóa sử truyền thống của dân tộc Việt trài gần 5000 năm văn hiến đã đặt lại nghi vấn lịch sử thôi.

Còn đây là đoạn kết của ông Techno:

Hiến pháp đầu tiên của Nhân loại.

Thế giới công nhiên thừa nhận Hiến Chương Octavius - Hoàng Đế La Mã - công bố khoảng năm 240 là hiến pháp đầu tiên của nhân loại.

Nhưng chú ý rằng Chiếu "Lịch Dân Lập Quốc" của An Dương Vương nhằm khẳng định vương quyền Âu Lạc công bố trước Hiến Chương Octavius gần 500 năm (chính xác là 467 năm) mới là Hiến Pháp đầu tiên của Nhân Loại. Niềm tự hào của người Việt là từ niềm kiêu hãnh Âu Lạc chứ không phải là Con Rồng Cháu Tiên hay gì gì đó đầy ảo ảnh. Tiếc là vào thời đó (227 TCN), người Việt chưa có chữ viết, chưa có cả chữ Nôm nên Hiến Pháp đầu tiên của người Việt và Nhân loại phải viết bằng chữ Hán cổ, trúc trắc và đầy dị bản.

TrangHuyenDo-Techno

Người Việt chưa có chữ Viết? Vậy nền văn minh Trống đồng đặc trưng của người Việt - so với các dân tộc trên thế giới - lưu truyền hàng ngàn năm qua truyền khẩu chăng? Để có được một cái Trồng đồng là cả một hệ thống kỹ thuật từ khai thác quăng, pha chế kim loại đến nghệ thuật và kỹ năng đúc trống - tức là nó phải có một sự phân công lao động xã hội hoàn chỉnh và một nền kinh tế phát triển. Chưa nói đến nền nông nghiệp đầu tiên của thế giới mà chính ông phải công nhận trải gần 1500 năm trước khi bị đô hộ cũng chỉ duy trì nền văn minh của họ bằng truyền khẩu chăng? Tất yếu người Việt phải có chữ viết của họ mới duy trì và phát triển được nền văn minh của mình. Hàng ngàn năn đô hộ - tất nhiên trong một đế quốc toàn trị, tất yếu phải dùng một ngôn ngữ và chữ viết chính thống. Một ngàn năm Hán hóa chứ không phải vài ba mươi năm, tất nhiên chữ Việt sẽ không thể tiếp tục lưu truyền khi nó không còn là chữ viết chính thống của một đế quốc đô hộ. Không tìm thấy văn bản chữ Việt cổ điều đó không có nghĩa dân tộc Việt không có chữ Viết, khi mà nền văn minh ấy đã có đầy đủ chứng cứ trong mối quan hệ xã hội để chữ viết phải tồn tại.

Chưa hết. Ông Techno còn viết - quí vị xem lại đoạn sau:

Niềm tự hào của người Việt là từ niềm kiêu hãnh Âu Lạc chứ không phải là Con Rồng Cháu Tiên hay gì gì đó đầy ảo ảnh. Tiếc là vào thời đó (227 TCN), người Việt chưa có chữ viết, chưa có cả chữ Nôm nên Hiến Pháp đầu tiên của người Việt và Nhân loại phải viết bằng chữ Hán cổ, trúc trắc và đầy dị bản.

Tại sao lại con Rồng cháu Tiên đầy ảo ảnh? Trong khi chính ông phải suy luận từ hình ảnh Lạc Long quân do hạn hán kéo về phía Nam bị con cháu Cửu Thiên huyền nữ và Mẫu Thượng Ngàn đá lông nheo lấy vợ và là cội nguồn của người Lạc Việt. Nay ở đây đã thành ảo ảnh? Thế là thế nào?

Xem xong bài viết của ông và của những cái "hầu hết" tôi chẳng thấy lòng tự hào dân tộc được khơi dậy, mà chỉ thấy một màu xám ảm đạm trong cội nguồn dân tộc Việt với "Thời Hùng Vương là một liên minh gồm 15 bộ lạc ""những người dân ở trần đóng khố".

Kính thưa quí vị quan tâm.

Trên đây là toàn văn bài viết của ông Techno đã được minh chứng tính phi lý và mâu thuân phản khoa học của luận điểm phủ nhận những giá trị văn hóa truyền thống Việt. Tất yếu những bài viết của luận điểm này - dù họ quảng cáo là - được "cộng đồng khoa học thế giới ủng hộ" thì cũng không nằm ngoài góc nhìn và cái gọi là "cơ sở khoa học" của họ. Thiên Sứ tôi tuy tài hèn, những cũng xin tiếp tục vạch ra những sai trái của họ theo lần lượt thứ tự bài viết sưu tầm được.

Nếu quý vị nào dù có bẳng cấp giáo sư, nhưng được sưu tầm sau thì cũng sẽ được Thiên Sứ phản biện sau. Tôi không quan tâm lắm đến bằng cấp giáo sư hay trình độ lớp ba trường làng trong những bài viết được sưu tầm. Vì có lẽ họ cũng na ná như nhau về cách nhìn phủ nhận giá trị văn hóa sử truyền thống Việt.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Kính thưa quí vị quan tâm.

Đây là bài viết thứ 5 trong topic "Sưu tầm luận điểm phủ nhận văn hóa sử truyền thống" của tác giả Trần Quốc Vượng.Theo thông lệ, Thiên Sứ tôi cũng chép lại nguyên văn vào topic này để quí vị tiện tham khảo trước khi phản biện, nhằm tiện lợi cho quý vị và tính khách quan khi trích dẫn.

Xin trân trọng cảm ơn sự quan tâm.

Bánh Chưng Bánh Dầy...GS Trần Quốc Vượng

http://www.lyhocdongphuong.org.vn/diendan/...vuong/t656.html

một vài đô thị Việt Nam hiện đại, như thủ đô Hà Nội, người ta đã làm và bán bánh chưng, bánh dầy hằng ngày, như một thứ hàng quà, để phục vụ cho thị hiếu thích ăn quà của người dân đô thị. Quà là để ăn chơi, tất nhiên cũng có thể "ăn no quà", nhưng về bản thể luận, quà là món ăn chơi, ăn qua loa thôi, chứ không phải là thứ lương thực thực phẩm chủ yếu, hằng ngày...

Trong phong tục học và tâm (lý) học, người ta thường phân biệt hai cặp phạm trù:

Posted Image Cái thiêng liêng/cái thông thường (hay cái thiêng và cái tục).

Posted Image Cái nghi lễ/cái hằng ngày.

Giữa hai phạm trù này, có một phép biện chứng chuyển hóa lẫn nhau.

Ví như xôi, vốn là lương thực hằng ngày của người Việt cổ thời đại Đông Sơn - Âu Lạc trở về trước (trong nhiều di chỉ Phùng Nguyên - Bàu Tró đã tìm thấy chõ đồ xôi bằng đất nung) cũng như của các cư dân Thái-Mường miền thung lũng trước Cách mạng Tháng Tám

Với xu hướng "tẻ hóa" của nhà nông trồng lúa nước (do áp lực dân số và nhu cầu tăng năng suất lúa), dần dà người Việt thời Lý, Trần và người Thái người Mường hôm nay hằng ngày đều dùng cơm tẻ. Người ta dành chỗ xôi cho những ngày giỗ chạp, tết nhất, cưới xin, ma chay... nghĩa là chuyển hóa xôi thành món ăn nghi lễ.

Bánh chưng bánh dầy ở đô thị thời hiện đại đã thuộc phạm trù cái hằng ngày, hay nói cách khác, đã được giải thiêng.

Nhưng ở thời đại Việt cổ truyền, và chừng nào đó, ở nông thôn Việt Nam cho đến Tết xuân này, bánh chưng bánh dầy vẫn thuộc phạm trù nghi lễ. Người ta chỉ làm và dùng nó (dùng để cúng, để ăn, để làm quà biếu tặng nhưng thường không để bán) trong ngày Tết hay trong những ngày lễ hội (nhiều làng đồng bằng Bắc Bộ có tập tục Tết, rằm tháng Giêng cúng và dùng bánh chưng, lễ hội tháng Ba lịch trăng (Mồng 3, mồng 6, mồng 10...) cúng và dùng bánh dầy, chè kho).

Ngày trước, bánh dầy, bánh chưng là những lễ vật và món ăn dân tộc. Bây giờ nó vẫn còn là món ăn dân tộc đáng cho ta gìn giữ và trân trọng. Nhưng xin nhận thức lại cho đúng mức hơn: Nó không phải là lễ vật và món ăn độc đáo Việt Nam theo nghĩa chỉ Việt Nam mới có, mới dùng.

Bà Á Linh, giảng viên trường Đại học Sư phạm Ngoại ngữ Hà Nội là người Việt gốc Hoa, quê gốc ở Tứ Xuyên, theo chồng Việt Nam sang sinh sống và công tác ở Hà Nội từ mấy chục năm nay, nhân ngày tết cổ truyền năm con Khỉ (1980) đã cho tôi biết là ở Tứ Xuyên quê bà có loại bánh lễ gần giống như "bánh Tét" (bánh chưng gói tròn như cái giò) và được gọi âm Hán Việt đọc là "tông bính" nhưng âm Hán Tứ Xuyên đọc gần như Téung pính.

Ông Ohayashi Taryo, giáo sư nhân học văn hóa trường Đại học Tokyo trong bài báo cô đúc "Vị thần lấy trộm giống lúa" (Xem thông báo UNESCO tháng 12-1984, số chuyên đề về "Những nền văn minh lúa gạo") lại cho ta biết món bánh mochi rất phổ biến và quan trọng của bếp ăn Nhật Bản "được làm bằng gạo nếp hạt ngắn đem đồ lên đến khi chín mềm rồi đem giã nóng bằng chầy cho đến khi thành bột dính trong đó không còn phân biệt được hạt nữa... Mochi đóng vai trò quan trọng trong lễ tết, đầu năm mới ?

Đó chính là bánh dầy với các loại hình to nhỏ khác nhau, được bày thành hàng trên bàn thờ cúng tổ tiên và sau đó được ăn với thứ cháo đặc biệt gọi là ojoni trong bữa ăn nghi thức sáng mồng một Tết của người Nhật.

Cho nên, xin nói lại cho chính xác hơn là bánh chưng - bánh dầy là sản phẩm độc đáo của một vùng văn minh lúa gạo rộng lớn ở Đông á và Đông - Nam Á. Tất nhiên Giáo sư viện sĩ Đào Thế Tuấn cho ta biết là lúa nếp có loại hình đa dạng nhất và điển hình nhất là ở lưu vực sông Hồng. Bởi vậy, nơi đây phong phú các lễ vật và món ăn được chế tạo từ gạo nếp. Dù sao, bánh chưng vẫn là lễ vật và món ăn cổ truyền điển hình nhất của ngày Tết Việt Nam.

Tôi xin đưa ra một minh giải văn chương: Bà con cô bác miền nam gọi bánh chưng là bánh tét, chữ bánh tét này là tiếng đọc chạnh kiểu miền nam của bánh tết. Và nhân đây xin thanh toán một "ngộ nhận văn hóa". Thoạt kỳ thủy, bánh chưng không được gói vuông như bây giờ mà gói tròn như bánh Nam Bộ, gọi là đòn bánh tét là hoàn toàn chính xác. Ngay giờ đây, xin các bạn chỉ quá bộ sang Cổ Loa, Đông Anh ngoại thành Hà Nội thôi, vẫn thấy bà con cố đô Cổ Loa gói bánh chưng như đòn bánh tét và vẫn gọi nó là bánh chưng, thảng hoặc mới gói thêm bánh chưng vuông. Thế cho nên, cái triết lý gán bánh chưng vuông tượng Đất, bánh dầy tròn tượng Trời là một "ngộ sự văn hóa". Trời tròn đất vuông là một triết lý Trung Hoa muộn màng được hội nhập vào triết lý Việt Nam. Đó không phải là triết lý dân gian Việt Nam. Nó không phải là Folklore (nguyên nghĩa: trí tuệ dân gian) mà là Fakelore (trí tuệ giả dân gian).

Bánh chưng tròn dài tượng Dương vật, như cái chày, cái nõ. Bánh dầy tròn dẹt tựa Âm vật, như cái cối, cái nường.

Đó là tín ngưỡng và triết lý nõ-nường-chày-cối-chưng-dầy của dân gian, của tín ngưỡng phồn thực dân gian. Ngay như khi đã gói bánh chưng vuông, dân gian ngày trước vẫn có tục lệ buộc hay ấp hai chiếc bánh một sấp một ngửa đặt trên bàn thờ và khi biếu họ hàng khách khứa ngày trước dân gian cũng giữ tục biếu một cặp bánh chưng (cũng như trước đấy bao giờ dân ta cũng mua một đôi chiếu) chứ không bao giờ tặng một chiếc bánh chưng (cũng như không bao giờ mua một chiếc chiếu). Nhân tiện nói thêm: việc mua hay chặt cây mía cả gốc cả ngọn đặt bên bàn thờ với giải thích hữu thức ngày sau đó là "gậy chống của ông vải" về nguyên ủy cũng thuộc về tín ngưỡng phồn thực.

Bánh chưng gói ghém trong nó cả một nền văn minh nông nghiệp lúa gạo. Trong bầu khí văn minh đó, người Việt Nam sống vừa hòa hợp (thích nghi tối đa và tối ưu) vừa đấu tranh (biến đổi) với tự nhiên. Lá dong gói bánh là lá dong riềng lấy sẵn của thiên nhiên. Cái bánh chưng, là sản phẩm của trồng trọt và chăn nuôi Việt Nam: gạo nếp, đỗ xanh, hành, thịt lợn... Cái đặc sắc, độc đáo của bánh chưng không phải chỉ là, thậm chí không phải chủ yếu là ở từng yếu tố họp thành cái bánh mà là ở cơ cấu của bánh, nó tạo nên nét khác biệt trong hình khối, mầu sắc, hương vị của bánh chưng so với các loại xôi đỗ và bánh nếp khác. Với gạo nếp, đỗ xanh, thịt lợn... có thể tạo nên mấy chục loại bánh xôi Việt Nam dùng hằng ngày như quà và trong các dịp cưới xin, giỗ, tết như lễ phẩm.

Huyền thoại quy công sáng tạo bánh chưng bánh dầy cho Lang Liêu, một người con thứ của vua Hùng, tổ dựng nước Việt Nam. Cũng như "vua Hùng", "Lang Liêu" là một "anh hùng văn hóa", nó không hề hiện hữu như một cá thể (cá nhân) nhưng chỉ tồn tại trong công thể (cộng đồng) của nhân dân, dân tộc Việt Nam. Lang Liêu có tài sáng tạo, làm ra bánh chưng bánh dầy cho nên được nhường ngôi, trở thành "vua Hùng" mới. Tuy cũng là cha truyền con nối như xu hướng phổ quát của lịch sử loài người, nhưng không truyền cho con trai trưởng (trước thế kỷ 19, dường như Việt Nam không có tập tục này và sau đó cho mãi đến thế kỷ 14, 15 (Hồ Quý Ly cũng không nhường ngôi cho con trai trưởng là Hồ Nguyên Trừng mà cho con thứ là Hồ Hán Thương) nó vẫn là một truyền thống yếu, có xu hướng ngoại sinh) theo lý, cũng không truyền ngôi cho con trai của một bà ái phi nào theo tình, mà truyền ngôi cho con nào hiền tài, đó là sự kết hợp giữa truyền tử và truyền hiền, đó là sự hòa hợp lý tính thời cổ đại...

Trong các cuộc thi tài thuở trước, mà ở đây là thi nấu cỗ, có biết bao người con của "vua Hùng" đã làm ra biết bao nhiêu món lạ, lạ mắt, lạ miệng... những sơn hào hải vị kiếm tận đâu đâu... Cái giỏi của "Lang Liêu", cái con mắt tinh đời của "vua Hùng" cũng là cái sáng giá trong bảng giá trị văn hóa của dân tộc dân gian là tìm cái phi thường trong cái thường thường. Trong tâm lý thường nghiệm, có thói quen chuộng lạ, ưa của lạ. Cái hằng ngày thân quen, nếu không biết cách nhìn, cách thưởng thức, cách biến đổi thành cơ cấu mới từ những nhân tố quen thuộc thì dễ trở thành nhàm chán.

Tìm cái đặc biệt trong những của lạ thì nào có khó khăn gì! Có khả năng diễn tả cái phi thường bằng những cái bình thường mới là một tài năng đặc biệt không dễ nhận ngay được giá trị vì cứ tưởng là không khó mà thật ra rất khó, vì nó đòi hỏi sự thấu hiểu, sự đi sâu tìm hiểu, sự nhập thể rất sâu trong lòng văn hóa và nhân dân...

Trần Quốc Vượng

Share this post


Link to post
Share on other sites

Kính thưa quí vị quan tâm.

Trước khi phản biện bài viết của Trần Quốc Vương, có lẽ tôi nên kể lại vài ba kỷ niệm của tôi liên quan đến ông ta. Kỷ niệm đầu tiên liên quan đến cuốn sách đầu tay của tôi "Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại". Tôi viết cuốn này vào khoảng hè năm 1998 thì xong. Tôi đem đến Nxb quen trước đây tôi có dịp in truyện tranh thì được tư vấn cần có một người có bằng cấp chuyên ngành viết lời giới thiệu. Lúc ấy tôi mới lên Sài Gòn, bơ vơ chẳng quen ai, toàn bạn thơ và bạn nhậu. Tôi nghĩ đến ông Trần Quốc Vương - với hy vọng một nhà sử học thuộc lão làng sẽ còn giữ trong ý tưởng của ông về cội nguồn Hoàng Kim của dân tộc Việt. Nhưng cũng chẳng biết ông ta ở đâu mà tìm. Sẵn tờ Nguồn Sáng ghi ông ta là chủ biên hay phó tổng biên tập gì đó, tôi bèn gửi thư và bản thảo đến tòa sọan, hy vọng ông ta sẽ quan tâm và viết cho vài lời giới thiệu. Chẳng thấy hồi âm. Gọi điện thoại thì nhân viên trực điện thoại luôn luôn cho biết là "Bác Vượng đi vắng"; hoặc "Đi công tác". Lúc ấy tôi vẫn chưa có ấn tượng gì với ông ta, mà chỉ coi là mình không có duyên mà thôi. Tôi còn nhớ mang máng - tòa soạn Báo Nguồn Sáng ở nhà số 4 đường gì đó thuộc Quận Tây Hồ - Hình như Xuân Diệu thì phải? Nhưng phải nói là như có bàn tay của Định mệnh an bài. Nếu như ông ta quan tâm và viết cho vài lời giới thiệu thì bây giờ mọi chuyện sẽ có thể ở một góc độ khác.

Sau này khi tôi biết ông có quan điểm lịch sử mà tôi xếp vào đám "hầu hết" phủ nhận giá trị văn hóa sử truyền thống và được "công đồng khoa học thế giới" ủng hộ thì tôi khinh bỉ ông ta. Có một lần đến thăm mẹ tôi - Nữ sĩ Ngân Giang - Mẹ tôi nói: "Mẹ vừa mới có vài bài viết về thơ Đường gửi in sách cùng vài tác giả cũng có tên tuổi". "Ai đấy mẹ?". "Mẹ không nhớ hết, chỉ biết trong đó có Trần Quốc Vương!". Tôi giật mình vội nói: "Trời! Mẹ đừng bao giờ làm cái gì dính đến người này. Ông ta có quan điểm phủ nhận giá trị văn hóa cội nguồn của dân tộc Việt đấy mẹ ạ! Con chắc chắn với mẹ là ông ta đã sai lầm và sẽ bị lịch sử lên án. Dính đến người này có thể bị tai tiếng mẹ ạ!". Mẹ tôi nói: "Mẹ không biết chuyên này. Nếu con nói thế thì từ nay mẹ không tham gia viết chung với ông ta nữa!". Cho đến lúc mẹ tôi mất, tôi không thấy bà nhắc đến cuốn sách này và tôi cũng không thấy mặt mũi nó ra sao cả. Hy vọng nó chưa được in. Thực ra giữa mẹ tôi chuyên làm thơ với ông Vương làm nghề viết sử thì chắc cũng chẳng có dịp nào cùng tham gia một đề tài được.

Lần cuối cùng là lúc nghe tin ông ta bị ung thư vòm họng. Tôi cũng có một người anh mà tôi kính trọng trong gần 40 năm, làm ở ngành liên quan đến văn hóa xã hội thường gặp Trần Quốc Vượng, vốn được ông Vương vì nể. Tôi nhờ ông nhắn với Trần Quốc Vương là: "Nếu ông Trần Quốc Vương lên một phương tiện thông tin đại chúng nào đó - kể cả trong hay ngoài nước - xác nhận quan điểm phủ nhận những giá trị truyền thống của ông là sai. Tôi hứa sẽ chữa khỏi bệnh ung thư vòm họng cho ông ta. Còn nếu tôi không chữa khỏi thì tôi sẽ ngưng tất cả những gì tôi đang làm liên quan đến cổ sử Việt". Không biết người anh tôi có truyền đạt lại với ông Vương không, nhưng mọi việc vẫn tiếp tục diễn ra.

Định mệnh đã trả lời tôi rằng: Để làm sáng tỏ được cội nguồn văn hiến Việt trải gần 5000 năm văn hiến sẽ còn cam go và không thể đơn giản chỉ cần một mình ông Vương tự phủ nhận mình.

Tôi chấp nhận Định mệnh đã an bài cho tôi.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Kính thưa quí vị quan tâm

Những người thuộc nhóm "Hầu hết những nhà khoa học trong nước " và "công đồng khoa học thế giới" ủng hộ quan điểm phủ nhận những giá trị văn hóa sử truyền thống Việt, không chỉ phủ nhận giá trị lịch sử của một thời đại, mà họ còn phủ nhận luôn từng chi tiết của nền văn hóa truyền thống Việt một cách rất phản khoa học. Họ khoanh vùng biên giới Văn Lang - quốc gia đầu tiên của người Việt chỉ trong giới hạn Bắc Việt Nam và Bắc Trung bộ Việt Nam ngày nay. Họ cho rằng thời Hùng Vương chỉ là một liên minh 15 bộ Lạc và không phải là một quốc gia. Họ gán cho những người dân ở trần đóng khố là y phục dân tộc thời Hùng Vương. Với bài viết này của Trần Quốc Vương, ông ta đã tấn công vào linh vật của nền văn hiến Việt được tổ tiên trân trọng từ hàng ngàn năm trước trong thời Hoàng Kim của nó.

Nhưng phải nói rằng: Những luận điểm của họ trong cái đám "Hầu hết những nhà khoa học trong nước" được "Cộng đồng khoa học thế giới thừa nhận" đó đều hoàn toàn chủ quan và phi khoa học.

Bài viết này tiếp tục chứng minh điều đó.

Ông Vượng viết:

một vài đô thị Việt Nam hiện đại, như thủ đô Hà Nội, người ta đã làm và bán bánh chưng, bánh dầy hằng ngày, như một thứ hàng quà, để phục vụ cho thị hiếu thích ăn quà của người dân đô thị. Quà là để ăn chơi, tất nhiên cũng có thể "ăn no quà", nhưng về bản thể luận, quà là món ăn chơi, ăn qua loa thôi, chứ không phải là thứ lương thực thực phẩm chủ yếu, hằng ngày...

Trong phong tục học và tâm (lý) học, người ta thường phân biệt hai cặp phạm trù:

Posted Image Cái thiêng liêng/cái thông thường (hay cái thiêng và cái tục).

Posted Image Cái nghi lễ/cái hằng ngày.

Giữa hai phạm trù này, có một phép biện chứng chuyển hóa lẫn nhau.

Ví như xôi, vốn là lương thực hằng ngày của người Việt cổ thời đại Đông Sơn - Âu Lạc trở về trước (trong nhiều di chỉ Phùng Nguyên - Bàu Tró đã tìm thấy chõ đồ xôi bằng đất nung) cũng như của các cư dân Thái-Mường miền thung lũng trước Cách mạng Tháng Tám

Với xu hướng "tẻ hóa" của nhà nông trồng lúa nước (do áp lực dân số và nhu cầu tăng năng suất lúa), dần dà người Việt thời Lý, Trần và người Thái người Mường hôm nay hằng ngày đều dùng cơm tẻ. Người ta dành chỗ xôi cho những ngày giỗ chạp, tết nhất, cưới xin, ma chay... nghĩa là chuyển hóa xôi thành món ăn nghi lễ.

Bánh chưng bánh dầy ở đô thị thời hiện đại đã thuộc phạm trù cái hằng ngày, hay nói cách khác, đã được giải thiêng.

Vấn đề là tại sao nó bị giải thiêng? Chúng ta cũng thấy rằng: Trong cuộc đời dâu bể này, có những cái được trân trọng ở thế hệ này thì lại bị - nói theo Trần Quốc Vương - "giải thiêng" ở thế hệ khác.

Con vua thì lại làm vua.

Con sãi ở chùa thì quét lá đa.

Bao giờ dân nổi can qua.

Con vua thất thế lại ra quét chùa.

Trong trường hợp này - cái thiêng liêng của "con vua cháu chúa" một thời đã bị "giải thiêng". Huống chi dân tộc Việt bị hơn 1000 năm đô hộ và Hán hóa thì làm sao những giá trị "thiêng liêng" một thời của dân tộc Việt được người Hán tôn thờ. (Họ chỉ tôn thờ những giá trị của dân tộc Việt khí họ tưởng là của họ thôi - Thí dụ như Kinh Dịch). Nhưng quí vị cũng thấy rằng:

Trải hơn hàng ngàn năm Bắc thuộc và tiếp theo hàng ngàn năm sau đó với bao thăng trầm của lịch sử Việt mà chiếc Bánh chưng bánh dầy vẫn được bao thế hệ trân trọng trong những ngày lễ Tết đến tận bây giờ. Điều này đã chứng tỏ sức mạnh huyền vĩ của nền văn hiến Việt.

Bánh chưng bánh dầy - linh vật của nền văn hiến Việt - một trong những bằng chứng rất rõ nét chứng tỏ một thời huyền vĩ của dân tộc Việt ở Nam Dương Tử. Đấy chính là sản phẩm văn hóa thuần Việt mà không thể một người nào minh chứng được rằng nó là sản phẩm của Nhâm Quang Sĩ Nhiếp từ văn hóa Hán đem lại. Nó mang dấu ấn của vua Hùng qua truyền thuyết của dân tộc Việt và truyền thuyết ấy lại được bảo chứng bằng tính nghi lễ của Bánh Chưng bánh dầy trong những lễ lớn nhất của dân tộc Việt - Đó chính là ngày Tết.

Nền văn hiến Việt tan rã ở Nam Dương tử từ hàng ngàn năm trước. Tất nhiên - "Con vua thất thế lại ra quét chùa". Bởi vậy Trần Quốc Vượng mới thấy hiện tượng nó bị bày bán ở chợ đời mà ông ta nói là nó bị "giải thiêng". Nhưng ông ta lại không thể giải thích vì sao nó vẫn được trân trọng trong tâm linh người Việt. Ông chỉ nhìn thấy cái tục của nó, nhưng ông không đủ tầm để nhìn thấy cái thiêng liêng huyền vĩ của nó. Tức là ông chỉ thấy được một vế tục trong cái mà ông gọi là "cặp phạm trù" - Thiêng/ Tục.

Chưa hết, Trần Quốc Vượng còn viết:

Nhưng ở thời đại Việt cổ truyền, và chừng nào đó, ở nông thôn Việt Nam cho đến Tết xuân này, bánh chưng bánh dầy vẫn thuộc phạm trù nghi lễ. Người ta chỉ làm và dùng nó (dùng để cúng, để ăn, để làm quà biếu tặng nhưng thường không để bán) trong ngày Tết hay trong những ngày lễ hội (nhiều làng đồng bằng Bắc Bộ có tập tục Tết, rằm tháng Giêng cúng và dùng bánh chưng, lễ hội tháng Ba lịch trăng (Mồng 3, mồng 6, mồng 10...) cúng và dùng bánh dầy, chè kho).

Ngày trước, bánh dầy, bánh chưng là những lễ vật và món ăn dân tộc. Bây giờ nó vẫn còn là món ăn dân tộc đáng cho ta gìn giữ và trân trọng. Nhưng xin nhận thức lại cho đúng mức hơn: Nó không phải là lễ vật và món ăn độc đáo Việt Nam theo nghĩa chỉ Việt Nam mới có, mới dùng.

Bà Á Linh, giảng viên trường Đại học Sư phạm Ngoại ngữ Hà Nội là người Việt gốc Hoa, quê gốc ở Tứ Xuyên, theo chồng Việt Nam sang sinh sống và công tác ở Hà Nội từ mấy chục năm nay, nhân ngày tết cổ truyền năm con Khỉ (1980) đã cho tôi biết là ở Tứ Xuyên quê bà có loại bánh lễ gần giống như "bánh Tét" (bánh chưng gói tròn như cái giò) và được gọi âm Hán Việt đọc là "tông bính" nhưng âm Hán Tứ Xuyên đọc gần như Téung pính.

Ông Ohayashi Taryo, giáo sư nhân học văn hóa trường Đại học Tokyo trong bài báo cô đúc "Vị thần lấy trộm giống lúa" (Xem thông báo UNESCO tháng 12-1984, số chuyên đề về "Những nền văn minh lúa gạo") lại cho ta biết món bánh mochi rất phổ biến và quan trọng của bếp ăn Nhật Bản "được làm bằng gạo nếp hạt ngắn đem đồ lên đến khi chín mềm rồi đem giã nóng bằng chầy cho đến khi thành bột dính trong đó không còn phân biệt được hạt nữa... Mochi đóng vai trò quan trọng trong lễ tết, đầu năm mới ?

Đó chính là bánh dầy với các loại hình to nhỏ khác nhau, được bày thành hàng trên bàn thờ cúng tổ tiên và sau đó được ăn với thứ cháo đặc biệt gọi là ojoni trong bữa ăn nghi thức sáng mồng một Tết của người Nhật.

Cho nên, xin nói lại cho chính xác hơn là bánh chưng - bánh dầy là sản phẩm độc đáo của một vùng văn minh lúa gạo rộng lớn ở Đông á và Đông - Nam Á.

Đoạn trên cho chúng ta thấy rằng: Ông Vương cố tình dẫn chứng hòng xóa nhòa giá trị độc đáo của chiếc bánh chưng, bánh dầy như là một sản phẩm duy nhất của riêng người Việt, bằng cách minh chứng các dân tộc khác cũng có sản phẩm tương tự. Trong địa vị của ông với tư cách là giáo sư Sử học hàng đầu - tất nhiên ông có điều kiện hơn gấp rất nhiều lần một phó thường dân dự khuyết hạng hai Nam Bộ như tôi - để có thể sưu tầm những tư liệu lịch sử. Nên ông có vẻ như có nhiều bằng chứng mà ông đã dẫn để minh chứng cái bánh chưng, bánh dầy không phải là sản phẩm duy nhất của dân tộc Việt. Nhưng rất tiếc cho ông, ông không có đủ khả năng tư duy để tổng hợp lại những gì mà ông biết qua những hiện tượng mà ông sưu tầm được. Cho nên ông không thể chỉ ra được cái vế thứ hai của cặp phạm trù là tính thiêng liêng của cái bánh chưng, bánh dầy.

Cho nên, mặc dù ông rất nổi tiếng, được tung hê trên các phương tiên thông tin cả trong và ngoài nước, thí dụ như BBC. Nhưng người dân Việt vẫn trân trọng tổ tiên và bảo vệ nền văn hóa Việt khi họ vẫn dùng bánh chưng, bánh dầy thành kính dâng lên tổ tiên trong ngày lễ Tết.

Ông chỉ có khả năng nhận thức hiện tượng, nên ông cứ tưởng những hiện tượng mà ông sưu tầm được ở Tứ Xuyên qua bà Á Linh, Ở Nhất Bản qua ngài giáo sư Ohayashi Taryo khả kính, là ông có thể xóa được giá trị của chiếcbánh chưng bánh dầy trong tâm thức Việt. Ông đã nhầm, hiện tượng là một chuyện. Lý giải hiện tượng lại là một chuyện khác mà Thiên Sứ tôi cho rằng: Ông không đủ khả năng tư duy. Chính những hiện tượng mà ông dẫn chứng đó lại minh chứng cho một luận điểm khác: Luận điểm minh chứng hoàn toàn khoa học - với tiêu chí khoa học rằng: Nước Văn lang một thời huyền vĩ ở bờ Nam sông Dương Tử. Bắc giáp Động Đình hồ, Nam giáp Hồ Tôn, Tấy giáp Ba thục, Đông giáp Đông hải. Bởi vậy mà trài hàng ngàn năm sau đó người dân Tứ Xuyên vẫn còn giữlại những dấu ấn Việt như chính bà Á linh nói, Và cũng chính qua hiện tượng mà giáo sư Ohayashi Taryo nói lại là một bằng chứng săcsảo chứng tỏ rằng: Cội nguồn lịch sử dân tộc Nhật Bản ngày này xuất phát từ đất nước Văn Lang xưa, khi nền văn minh này bị tàn phá vào thòi Hai Bà Trưng khởi nghĩa. Họ đã di tản đến đảo Phù Tang và lập quốc ở đó. Nhưng tôi sẽ không cần dùng đến bằng chứng của ông để chứng minh cho một luận đề lích sử "Văn Minh Văn Lang và cội nguồn lịch sử Nhật Bản" (Bài viết trong mục "Cổ văn hóa sử"- lyhocdongphuong.org.vn hoặc vanhienlacviet.org.vn).

Chính bởi không đủ khả năng phủ nhận tính thiêng liêng của chiếcbánh chưng bánh dày trong tâm linh người Việt, nên ông phải thừa nhận trong ngay đoạn tiếp theo:

Tất nhiên Giáo sư viện sĩ Đào Thế Tuấn cho ta biết là lúa nếp có loại hình đa dạng nhất và điển hình nhất là ở lưu vực sông Hồng. Bởi vậy, nơi đây phong phú các lễ vật và món ăn được chế tạo từ gạo nếp. Dù sao, bánh chưng vẫn là lễ vật và món ăn cổ truyền điển hình nhất của ngày Tết Việt Nam.

Tuy nhiên ông vẫn cứ cố tính dùng hiện tượng để lập lờ đánh lận con đen (Chỉ lận được con đen thôi). Ông viết:

Tôi xin đưa ra một minh giải văn chương: Bà con cô bác miền nam gọi bánh chưng là bánh tét, chữ bánh tét này là tiếng đọc chạnh kiểu miền nam của bánh tết. Và nhân đây xin thanh toán một "ngộ nhận văn hóa". Thoạt kỳ thủy, bánh chưng không được gói vuông như bây giờ mà gói tròn như bánh Nam Bộ, gọi là đòn bánh tét là hoàn toàn chính xác. Ngay giờ đây, xin các bạn chỉ quá bộ sang Cổ Loa, Đông Anh ngoại thành Hà Nội thôi, vẫn thấy bà con cố đô Cổ Loa gói bánh chưng như đòn bánh tét và vẫn gọi nó là bánh chưng, thảng hoặc mới gói thêm bánh chưng vuông. Thế cho nên, cái triết lý gán bánh chưng vuông tượng Đất, bánh dầy tròn tượng Trời là một "ngộ sự văn hóa". Trời tròn đất vuông là một triết lý Trung Hoa muộn màng được hội nhập vào triết lý Việt Nam. Đó không phải là triết lý dân gian Việt Nam. Nó không phải là Folklore (nguyên nghĩa: trí tuệ dân gian) mà là Fakelore (trí tuệ giả dân gian).

Híc! Bởi vậy! Khả năng của Trần Quóc Vương đâu thể xóa sổ nổi những giá trị văn hóa Việt. Này tôi nói cho các người biết: Khi Trương Phụ vâng mệnh Tuyên Đức sang Việt Nam với sứ mệnh xóa sổ văn hiến Việt, đập hết văn bia, đốt hết chữ viết dù là sách vở học trò, bắt dân ta theo phong tục Trung Quốc trải gần 20 năm còn chưa xóa sổ được nền văn hiến huyền vĩ Việt. Cỡ ông và tất cả cái "hầu hết" và "cộng đồng khoa học thế giới" chưa là cái đinh gì. Ông ta nói "Trời tròn đất vuông là một triết lý Trung Hoa muộn màng được hội nhập vào triết lý Việt Nam. Đó không phải là triết lý dân gian Việt Nam". Vậy cái bánh chưng bánh dầy có từ bao giờ trong quá trình Hán hóa nền văn hiến Việt?

Xin lỗi ông. Ông và tất cả cái "hầu hết" và "công đồng thế giới" ủng hộ không đủ khả năng minh chứng điều này!

Những cái biến thể của chiếc bánh chưng miền Nam tất yếu phải có sau chiếc bánh chưng miền Bắc, biến thể của chiếc bánh chưng Cổ Loa mà ông nói đến có thể giải thích do những thăng trầm của sử Việt. Cũng như biến thể của bánh chưng bánh dầy ở Nhật và Tứ Xuyên mà chính ông đề cập đến. Tất nhiên cách giải thích của ông nó chỉ giới hạn trong ý thức chủ quan của ông.

Chính ông Vượng đã tự mâu thuẫn với mình ngay trong đoạn trích dẫn tiếp theo trong bài viết của ông sau đây:

Bánh chưng tròn dài tượng Dương vật, như cái chày, cái nõ. Bánh dầy tròn dẹt tựa Âm vật, như cái cối, cái nường.

Đó là tín ngưỡng và triết lý nõ-nường-chày-cối-chưng-dầy của dân gian, của tín ngưỡng phồn thực dân gian. Ngay như khi đã gói bánh chưng vuông, dân gian ngày trước vẫn có tục lệ buộc hay ấp hai chiếc bánh một sấp một ngửa đặt trên bàn thờ và khi biếu họ hàng khách khứa ngày trước dân gian cũng giữ tục biếu một cặp bánh chưng (cũng như trước đấy bao giờ dân ta cũng mua một đôi chiếu) chứ không bao giờ tặng một chiếc bánh chưng (cũng như không bao giờ mua một chiếc chiếu). Nhân tiện nói thêm: việc mua hay chặt cây mía cả gốc cả ngọn đặt bên bàn thờ với giải thích hữu thức ngày sau đó là "gậy chống của ông vải" về nguyên ủy cũng thuộc về tín ngưỡng phồn thực.

Như vậy ông cho rằng cái tín ngưỡng phồn thực này có từ bao giờ? Sản phẩm của Hán hóa chăng? Do nền văn minh Hán vĩ đại đem vào dân tộc Việt chăng? Nếu ông và tất cả cái "hầu hết" với cái "cộng đồng" không thể chứng minh được văn hóa phồn thực đó là sản phẩm từ văn hóa Hán thì có nghĩa là ông thừa nhận Bánh Chưng , bánh dầy có từ trước văn hóa Hán xâm nhập văn hóa Việt. Cho dù chiếcbánh chưng bánh dầy đó tròn hay vuông. Như vậy, cho dù hiện tượng mà ông dùng đôi mắt thật của ông nhìn thấy cũng không thể phủ nhận sự tồn tại của khái niệm Bánh chưng bánh dầy trong tâm thức Việt. Vấn đề còn lại là tính thiêng liêng của nó trong tâm thức Việt thì vì ông không đề cập (Làm gì mà ông Vượng có đủ khả năng đề cập), nên tôi cũng không cần thiết viết ở đây.

Đoạn sau đây của ông Vượng thì không có gì để bàn. Nhưng tôi vẫn để nguyên vì không muốn chừa ra vài chữ trong bài viết của ông ta. ơộ những kẻ xấu miệng lại bảo tôi cắt xén.

Bánh chưng gói ghém trong nó cả một nền văn minh nông nghiệp lúa gạo. Trong bầu khí văn minh đó, người Việt Nam sống vừa hòa hợp (thích nghi tối đa và tối ưu) vừa đấu tranh (biến đổi) với tự nhiên. Lá dong gói bánh là lá dong riềng lấy sẵn của thiên nhiên. Cái bánh chưng, là sản phẩm của trồng trọt và chăn nuôi Việt Nam: gạo nếp, đỗ xanh, hành, thịt lợn... Cái đặc sắc, độc đáo của bánh chưng không phải chỉ là, thậm chí không phải chủ yếu là ở từng yếu tố họp thành cái bánh mà là ở cơ cấu của bánh, nó tạo nên nét khác biệt trong hình khối, mầu sắc, hương vị của bánh chưng so với các loại xôi đỗ và bánh nếp khác. Với gạo nếp, đỗ xanh, thịt lợn... có thể tạo nên mấy chục loại bánh xôi Việt Nam dùng hằng ngày như quà và trong các dịp cưới xin, giỗ, tết như lễ phẩm.

Nhưng đoạn say đây của Trần Quốc Vương thì cần phải bàn:

Huyền thoại quy công sáng tạo bánh chưng bánh dầy cho Lang Liêu, một người con thứ của vua Hùng, tổ dựng nước Việt Nam. Cũng như "vua Hùng", "Lang Liêu" là một "anh hùng văn hóa", nó không hề hiện hữu như một cá thể (cá nhân) nhưng chỉ tồn tại trong công thể (cộng đồng) của nhân dân, dân tộc Việt Nam. Lang Liêu có tài sáng tạo, làm ra bánh chưng bánh dầy cho nên được nhường ngôi, trở thành "vua Hùng" mới. Tuy cũng là cha truyền con nối như xu hướng phổ quát của lịch sử loài người, nhưng không truyền cho con trai trưởng (trước thế kỷ 19, dường như Việt Nam không có tập tục này và sau đó cho mãi đến thế kỷ 14, 15 (Hồ Quý Ly cũng không nhường ngôi cho con trai trưởng là Hồ Nguyên Trừng mà cho con thứ là Hồ Hán Thương) nó vẫn là một truyền thống yếu, có xu hướng ngoại sinh) theo lý, cũng không truyền ngôi cho con trai của một bà ái phi nào theo tình, mà truyền ngôi cho con nào hiền tài, đó là sự kết hợp giữa truyền tử và truyền hiền, đó là sự hòa hợp lý tính thời cổ đại...

Ông Vượng muốn nói gì trong đoạn này? Ông ta muốn phủ nhận tác giả Lang Liêu là người sáng tạo ra chiếc bánh chưng bánh dầy. Ông ta viết: Huyền thoại quy công sáng tạo bánh chưng bánh dầy cho Lang Liêu, một người con thứ của vua Hùng, tổ dựng nước Việt Nam. Cũng như "vua Hùng", "Lang Liêu" là một "anh hùng văn hóa", nó không hề hiện hữu như một cá thể (cá nhân) nhưng chỉ tồn tại trong công thể (cộng đồng) của nhân dân, dân tộc Việt Nam. Nhưng ông ta không đủ khả năng chứng minh cho ý tưởng của ông, nên ông nói trớ theo một đoạn vớ vẩn mà chẳng ăn nhập gì đến câu trên cả.

Cuối cùng, Trần Quốc Vượng kết thúc bài viết bằng đoạn đây:

Trong các cuộc thi tài thuở trước, mà ở đây là thi nấu cỗ, có biết bao người con của "vua Hùng" đã làm ra biết bao nhiêu món lạ, lạ mắt, lạ miệng... những sơn hào hải vị kiếm tận đâu đâu... Cái giỏi của "Lang Liêu", cái con mắt tinh đời của "vua Hùng" cũng là cái sáng giá trong bảng giá trị văn hóa của dân tộc dân gian là tìm cái phi thường trong cái thường thường. Trong tâm lý thường nghiệm, có thói quen chuộng lạ, ưa của lạ. Cái hằng ngày thân quen, nếu không biết cách nhìn, cách thưởng thức, cách biến đổi thành cơ cấu mới từ những nhân tố quen thuộc thì dễ trở thành nhàm chán.

Tìm cái đặc biệt trong những của lạ thì nào có khó khăn gì! Có khả năng diễn tả cái phi thường bằng những cái bình thường mới là một tài năng đặc biệt không dễ nhận ngay được giá trị vì cứ tưởng là không khó mà thật ra rất khó, vì nó đòi hỏi sự thấu hiểu, sự đi sâu tìm hiểu, sự nhập thể rất sâu trong lòng văn hóa và nhân dân...

Trần Quốc Vượng

Với đoạn kết thúc này thì lại chẳng phải là sự tổng hợp những điều ông ta muốn nói ở nội dung bài viết của ông nhằm tầm thường hóa chiếc bánh chưng bánh dầy trong tâm thức người Việt khi ông đặt vấn đề về cái tục và cái thiêng, Cái mà ông gọi là "cặp phạm trù".

Share this post


Link to post
Share on other sites

Kính thưa quí vị quan tâm.

Bài viết này tôi phản biện ông Trần Quốc Vương đã lâu rồi - từ năm 2005. Tôi cũng quên mất bài này. Trong lúc lang thang trên mạng để sưu tầm các bài viết thuộc loại phủ nhận truyền thống văn hóa sử Việt với mục đích vạch ra những sai lầm phi khoa học của nó, tôi tính cờ tìm được lại bài của tôi và cả của ông Vương. Nó được một sinh viên đưa lên mạng để nhờ các bậc "Đứccao vọng trọng" chỉ ra cái đúng và cái sai giữa bài của tôi và của Trần Quốc Vượng. Nhưng thật đau cổ vì viêm họng. Chẳng có bậc nào lên tiếng cả. Nếu có ai lên tiếng bảo vệ quan điểm phủ nhận giá trị vắn hóa sử Việt xin đưa vào topic: "Sưu tầm những bài viết phủ nhận văn hóa sử Việt" và cứ xếp hàng đợi đấy. Thiên Sứ tôi rất trân trọng và khâm phục những bậc trí thức tài hoa, Nhưng với cái "hầu hết" và "cộng đồng" thì Thiên Sứ tôi không có ưu tiên bằng cấp.

Xin cảm ơn sự quan tâm.

*

MỘT BÀI VIẾT PHẢN BIỆN THÀY TRẦN QUỐC VƯỢNG

Người giới thiệu: 50qhx103

Nguồn: svnv.org

Trong một lần lang thang trên những diễn đàn về lịch sử, em tình cờ đọc được một bài viết của ông Nguyễn Vũ Tuấn Anh, dưới tên Thiên Sứ viết với nhan đề "Phản Biện Trần Quốc Vượng", hôm nay em xin post lên diễn đàn bài viết đó, đồng thời cũng post cả bài của GS Trần. Chắc có bác đã đọc qua, nhưng chắc cũng nhiều người chưa biết. Tự nhận thấy mình còn non trình quá nên không dám đưa ra ý kiến thảo luận, kính mong các bậc "đức cao vọng trọng" đưa ra những ý kiến chỉ rõ hay dở để chúng em được mở mang thêm kiến thức. Vô cùng cảm ơn! Chúc các bác an lành

TỪ HOA LƯ ĐẾN THĂNG LONG

Gs. Trần Quốc Vượng

Những thủ lĩnh địa phương và lãnh địa.

Thời đại văn hoá Đông Sơn, thời đại các Vua Hùng không nên xem là một thời đại của vương triều thống nhất. Văn Lang là cái tên xuất hiện trong sử một cách muộn mằn (thời nhà Đường, thế kỷ thứ VII đến thứ IX). Tôi đã chứng minh rằng Vua hùng là một Po Khun – thũ lĩnh mạnh nhất cũa một phức thể Khun (Vua = Bua = Pò; Hùng = Khun) tức hệ các thủ lĩnh địa phương chiếm cứ các vùng từ đỉnh châu Thổ sông Hồng (Việt Trì) đến các vùng bãi biển. Theo truyền thuyết và theo sử cũ thì lúc bấy giờ có 15 bộ. Ông Giáo sư Tiến sĩ Mỹ Keith Taylor đã dịch một cách tài hoa và lạnh lùng các Lạc tướng là “Lord” và vua Hùng là “Overlord”.

Cuối đời Hùng nổi lên nhân vật Thục Phán (An Dương Vương) và nước Âu Lạc, thành Cổ Loa.

Cổ Loa (nay thuộc Đông Anh, ngoại thành Hà Nội)nằm gần ngã ba Dâu Canh, được giới địa lý học coi là đỉnh thứ hai của tam giác châu Bắc Bộ, sau cái đỉnh thứ nhât là ngã ba Hạc - Việt Trì.

Sự dịch chuyển đỉnh châu thổ sông Cái (Nhị - Hồng) từ trung du tới vùng châu thổ cao (địa) khéo theo sự chuyển di trung tâm phức thể Việt với một tổ chức nhà nước Âu Việt sơ khai (Chính tri). Điều đó là đúng với quy luật địa chính trị, địa chiến lược, địa văn hoá.

Tôi và Cầm Trọng đã chứng giải “Thục Phán” không phải là một tên riêng (nhân danh) mà là một từ - chức năng : “Túc Phắn” chỉ thủ lĩnh đi “mở đất mở mường”.

Đất nước trải ngàn năm Bắc thuộc. Nhưng Nam Việt Triệu Đà (180-137tr.CN) rồi Tây Hán Vũ Đế (111tr.CN-8 năm sau CN) cũng chỉ phái “sứ giả” (Triệu) hay thứ sử , thái thú (Hán) cùng một số đạo quan binh sang đóng giữ các miền ở Mê Linh, ở Luy Lâu rồi Long Biên……(tại xứ Đoài, xứ Bắc ngày sau) và thu cống nạp chứ bên dưới vẫn “để Lạc tướng trị dân như cũ”, “dĩ kỳ cố tục trị” (Tiền Hán thư). Và Hai bà Trưng vẫn được ghi là “con gái Lạc tướng Mê Linh” và Thi (hay Thi Sách) là “con trai Lạc tướng Chu Diên”. Thái thú Tô Định tàn ngược định dùng pháp chế Hán thắt buộc hạn chế thế lực thủ lĩnh địa phương cũ (“dĩ pháp thằng chi”- Hậu Hán thư) thì lập tức con cái Lạc tướng và các thủ lĩnh cổ truyền đã vì oán giận, nổi dậy chống Hán. Không nên xem Khởi Nghĩa Bà trưng là biểu hiện cũa sự trỗi dậy của tinh thần dân tộc, cùng lắm nên xem đó là một ý thức đòi cách sống riêng của người Việt cổ, không chấp nhận lấy lối sống Hán- Hoa, làm một khuôn mẫu phổ biến. Tôi đề nghị giới khảo cổ sử học Việt Nam nên coi khởi nghỉa Hai Bà Trưng là một phản ứng văn hoá - chính trị.

Dù sau năm 43-44, Mã Viện và chính quyền Đông Hán có can thiệp sâu hơn xuống cấp huyện (vùng), nhưng cuối thời Đông Hán đầu thời Tam quốc, đất Việt - với Sĩ Nhiếp và các em ông, tuy tổ tiên 6 dời là ở nước Lỗ (Sơn Đông) nhu8ng7 sang Nam Việt – Giao Chỉ đã lâu và đã nhiều phần bản địa hoá - về thực chất vẫn là một dất tự trị, tự quản.

Thời Lục triều (Nguỵ Tấn Nam Bắc triều) cũng như vậy. Triều đình trung ương Trung Hoa thì suy yếu, các thế lực địa phương vẫn mạnh mẽ. Nhiều quan lại Tống, Tề, Lư

ơng, Trần (Nam triều Trung Hoa, mà phần Hoa bắc đã bị Ngũ Hồ loạn Hoa chiếm giữ) cử sang Giao Châu chỉ là “hữu danh vô thực”, rất chông chiêng. Chúng ta, giới sử học Việt Nam nên đặt cuộc khởi nghĩa Lý Bí giữa thế kỷ VI và việc thành lập nước Vạn Xuân với danh hiệu Lý Nam Đế (Tiền, Hậu) trong bối cảnh đó.

Nên chăng cần ghi nhận, với Lý Nam Đế và nước Vạn Xuân, người Việt sau 600 năm Hán hoá đã bắt đầu có ý thức quốc gia và tinh thần “vô tốn (không thua kém, không lùi bước) Trung Hoa”. (Kháiniệm “vô tốn” và “ bất dị” (không khác) Trung Hoa là do Lê Quý Đôn khái quát lại về sau, ở thế kỷ XVIII). Đằng sau Lý Nam Đế là thế lực tinh thần Phật Giáo , thế cho nên lột Lý Xuân nào đó của tịch thư Trung Hoa thì lại tự xưng là Lý Phật Tử (Con Phật).

Cuối đời Tuỳ (605-617), đế quyền Trung Hoa suy yếu thì các thế lực địa phương lại trỗi lên, diển hình là cha con Lê Cốc (Lê Ngọc) ở Ái Châu (Thanh), và Hoan Châu (Nghệ An) - tức là vùng ngoại biên của không gian xã hội Việt – mà nàh Đường tuy lên ngôi ở Trường An năm 618 nhưng phải đến 622 mới tạm dẹp yên được để có được một An Nam đô hộ phủ với trung âm là Tống Bình – Hà Nội ngày nay.

Từ Cổ Loa xuống Luy Lâu – Long Biên nửa đầu thời thuộc Bắc 600 năm là sự dịch chuyển từ vùng cao xuống vùng thấp châu thổ sông Hồng và (sông Thái Bình) đã khẩn trương hơn do áp lực dân số ngày càng tăng và cũng do kỹ thuật đồ sắt hậu Đông Sơn, kỹ thuật thuỷ lợi tưới tiêu nước ruộng đồng Lạc điền ngày càng tiến bộ và phát huy rộng rãi (Phong Khê; vùng Cổ Loa – Đông Ngàn cũ đã có đê) (Hậu Hán thư) , một phần do hội nhạp kỹ thuật thuỷ lợi và trị thuỷ Trung Hoa vùng ven biển từ Phúc Kiến đến Quảng Đông ngày nay ( Mã Viện do sử chép ( Hậu Hán thư) đã đào sông khơi ngòi …sinh lợi cho dân”). Đấy vẫn là những hệ thuỷ lợi và trị thuỷ cổ truyền của người Bách Việt cũ được người Hán tiếp thu và truyền dạy lại. Và Luy Lâu là trung tâm buôn bán, trung tâm truyền bá Phật giáo, Nho Giáo, Đạo giáo. Ở thời đó Phật giáo còn nhiều chất pha trộn Bà-la-môn giáo .

Sử sách nhà Đường và nhà Tống chép hồi cố về nhà Đường như Cựu Đường thư, Tân Đường thư và Man thư, Nguyên Hoà quận huyện chí, Thái Bình hoàn vũ ký , Đường hội yếu ..v…v .. kể cả Tuỳ thư cho ta biết nhà Đường và nhà Tuỳ đã từng bước đổi mới cơ cấu chính trị - hành chính ở đất Việt khá ổn định. Với các cấp An Nam đô hộ phủ, Châu (12 châu như Giao, Trường, Ái, Hoan, Lục (Hoàng) và kể cả các châu “ki mi” (ràng buộc lỏng lẻo ở miền núi Việt Bắc và một phần Tây Bắc hiện nay) rồi xuống Huyện, Hương và Xã nữa (đơn vị xã có ở đất Việt từ thời thuộc Đường (VII - đầu X), rất nhiều quan cấp sử An Nam đô hộ, Tiết độ sứ…) là người phi Hoa hay chỉ nửa Hoa như Khang Thái. Y như thời Tam Quốc Nam Bắc triều, có rất nhiều thái thú Cửu Chân ( Thanh Nghệ) có họ Mạnh của Mạnh Hoạch hay họ Thoán người gốc Di (Tạng Miến) Vân Nam như Thoán Cốc, Mạnh Thống v..v.. Đây là vấn đề rất lý thú để hiểu thêm về ảnh hưởng Tạng Miến, ảnh hưởng thảo nguyên trung Á đến nền văn hoá việt nam như MậtGiáo , Sa Man giáo… Đồ làng Vạc Đông Sơn muộn cũng như trống đồng Hưng Yên , Quảng Trị có nhiều mô típ trong trang trí kiểu Điền (Vân Nam) . Song, Tuỳ Đường thư vẫn không chối cãi được một sự thật là chính quyền Trung ương Trung Hoa chỉ cử quan được đến cấp châu “còn ở bên dưới, cấp huyện, thì tuỳ tiện tuyển bổ “bọn cừ suý Lý Lão Man” làm huyện quan và ràng buộc chúng lỏng lẻo mà thôi”

Cho nên ta đừng nhìn thấy cơ cấu chính trị - tư tưởng Trung Hoa quá mạnh xuống tới cơ sở. Nó chỉ là một lớp sơn mỏng – dày tuỳ nơi, tuỳ lúc phết lên cái lõi văn hoá Việt. Và thật chính xác, khi nói cái làng Việt luôn là cứ điểm chống Hoa hoá cả về chính trị và văn hoá. Làng Việt là nơi lưu giữ bản sắc dân tộc và dân gian lâu dài nhất.

Từ Lục triều Tuỳ Đường trở đi, sư sãi đã trở thành lớp trí thức Việt đầu tiên (chứ không phải là nho sĩ, còn lẻ tẽ lắm và thiếu tổ chức lại, ưa vọng ngoại “Nam nhân Bắc hướng”). Và trớ trêu thay, hay nghịch lý thay, thực ra là thuận lý khi lớp sư sãi Việt bản địa và cả gốc Hoa lâu đời, nhiều người đã đi hành hương sang Thiên Trúc, nhiều bậc cao tăng đã sang tận kinh đô Trường An giảng kinh cho vua Đường, có người sang cả kinh đô Nara (Nại Lương) của Nhật Bản nữa, họ đủ chất kinh lịch, từng trải vượt lên trên lớp tiểu nông Phật tử “sống ở làng”, họ hội tụ và kết tinh tinh hoa đất thần linh - người Việt và họ trở thành đại diện của tinh thần quốc gia dân tôc Việt, họ trở thành kẻ tiên tri của nền tự chủ Việt và bằng thế lực tinh thần - vật chất của tự viện, họ trở thành người lãnh đạo tinh thần cho phong trào tự chủ Khúc – Ngô – Đinh – Lê ở thế kỷ thứ X,cái “I An Mil” làm bước ngoặt lịch sử cho cả nước ta, nước Tàu và thế giới Phương Tây.

12 sứ quân:

Sự hoài cổ tiền Bắc thuộc:

Thế kỷ X là một sự đảo lộn chính trị, một sự lộn xộn nữa, nhưng khuynh hướng chính là tiến bộ, tiến tới nền tự chủ của nước nhà.

Tôi rất thích thú về lời ca thán của nhiều sử sách Trung Hoa: “Dân Việt rất khó cai trị, rất thích làm loạn”. Tiếp cận văn hoá học thì “thông điệp” đó có nghĩa là người Việt thích lối sống riêng, không thích sự áp đặt chuyên quyền độc đoán của khuôn mẫu Trung Hoa. Đấy là quan điểm đầy nhân tính, cận nhân tình và do vậy cũng là một số hằng số văn hoá rất hiện đại và luôn có tính thời sự. Quan điểm đó được kết tinh ở tầng lớp Thiền sư và hào trưởng địa phương.

Chính quyền trung ương quân chủ nhà Đường suy yếu và chết hẳn vào năm 907 để Trung Hoa mở ra cục diện “Ngũ đại thập quốc” kéo dài hơn nửa thế kỷ X. Đấy là thời cơ thuận tiện để dân ta nổi dậy dành chính quyền tự chủ.

Sự nghiệp xây dựng tự chủ đầu tiên là họ Khúc ở Hồng Châu (Bình Giang, Hải Dương) vốn là một hào trưởng địa phương. Lợi dụng sự trống chỗ của Tiết độ sứ cai quản an toàn An nam, Khúc Thừa Dụ đã nổi dậy kéo quân về đô hộ phủ (An Nam, Tống Bình, Hà Nội) và tự xưng Tiết độ sứ năm 905. Đấy là một mưu mẹo chính trị hay và mềm dẻo. Ông đã vạch ngay được một phương hướng chiến lược chính trị mà mấy trăm năm sau vua chúa Đại Việt còn áp dụng:

“Chính sự cốt chuộng Khoan Dung - Giản Dị để cho dân chúng được An Cư - Lạc nghiệp” (Cương Mục). Khúc Thừa Dụ mất năm 907, con ông là Khúc Hạo chỉ để tang cha có 7 ngày (một ứng sử phi Nho) đã bắt tay cầm quyền trị nước , cải cách hành chính, đổi hương làm xã và đặt chức xã quan (củng cố chính quuyền cơ sở ), giảm tô thuế (so với định mức tô – dung - điệu của nhà Đường trước) để sinh lợi cho dân. Nhưng con ông, Khúc Thừa Mỹ hèn yếu, bất lực và thần phục nhà Hậu Lương là một trong ngũ đại ở Trung Hoa (do bị áp lực của Nam Hán, bấy giờ là Nam Hán chứ không còn là Nam Việt thời Triệu Đà nữa, có sự bàn bạc của triều đình Quảng Châu ngàn năm sau Triệu Đà, trải Hán - Đường thống trị và di dân đồng bào hoá đã hoàn toàn Hán hoá rồi, còn Giao Chỉ - Cửu Châu, mức độ Hán hoá thấp, vẫn là đất Việt, dân Việt tuy sống lối sống đã khác với người Việt cổ Đông Sơn)

Khúc Thừa Mỹ đã đi bước lùi của lịch sử hẳn vì dù đã có Đại La (Hà Nội) vẫn không khống chế nổi các hào trưởng địa phương, phải cầu viện ngoại viện (nhà Lương). Quân Nam Hán tiến sang, bắt Khúc Thừa Mỹ và đem về Quảng Châu. Ông này chết mất tích ở Quảng Châu. ?

Nhưng lại có hào trưởng ở Ái Châu là Dương Đình Nghệ (nha tướng cũ của Khúc Hạo) diệt tướng nam Hán , xung Tiết độ sứ. Xứ Thanh bước vào vũ đài lịch sử là bắt đầu từ đây, cho dù, hay chính vì, xứ Thanh là miền “ngoại biên” của đất Việt.

Hào trưởng Châu Phong (mạn Phúc Thọ) là một thế lực lớn ngoại biên gần châu thổ sông cái đã kéo quân giết Dương Đình Nghệ. Ngô Quyền – con Ngô Mân tướng quân “Thứ sử châu Phong đời đời là nhà quý tộc quê Đường Lâm”, và là con rể Dương Đình Nghệ - đã kết liễu Kiều Công Tiễn rồi dẹp giặc bên Nam Hán ở Bạch Đằng, dựng lại quyền từ chủ (châu Thao gồm 2 nửa ở hai bên sông Thao,hữu ngạn (Sơn Tây sau) là phạm vi thế lực của Ngô, tả ngạn (Vĩnh Phúc, Phú Thọ sau) là phạm vi thế lực của họ Kiều.

Sử cũ ghi chép chuyện đánh lẫn nhau rồi bên yếu cầu ngoại viện.Thực chất của cuộc nội chiến này, theo tôi, là sự đấu tranh giành quyền lực tối cao trên đất Việt của các thủ lĩnh địa phương (mà GS O.W. Woleters gọi là các “man of proess” = người dũng mãnh)

Chính quyền quân chủ Trung ương Đường suy tàn rồi biến mất tạo ra một khoảng trống quyền lực ở đất Việt (An Nam đô hộ phủ), một cái “hẫng hụt trung ương” mà nhiều hào trưởng địa phương có tham vọng điền vào chỗ trống ấy.

Do vậy theo tôi không nên nhìn thời kỳ “Thập nhị sứ tướng quân” chỉ như một cuộc loạn sau thời Ngô Vương Quyền mất.

“Hoạ phúc hữu môi phi nhất nhật”

(Hoạ phúc có mầm đâu chốc lát)

Ức Trai

Cái “loạn” ấy có mầm mống ngay sau năm 905, hay còn từ trước đó nữa như tôi đã dẫn giải ở trên và không nên lấy làm lạ là trong số 12 sứ quân mà sử cũ chép theo nhau ta thấy đến 2 ông sứ quân họ Kiều là cháu nội của Kiều Công Tiễn ở Phong Châu, 2 ông sứ quân họ Ngô thuộc dòng dõi Ngô Quyền, và ông sứ quân họ Đỗ - Đỗ Cảnh Thạc – thì từ đời Đỗ Viện - Đỗ Tuệ Độ thế kỷ thứ IV đã là một thế lực lớn ở Đỗ Động Giang (Thanh Oai – Hà Tây) ..v…v..

Họ Đinh ở Hoa Lư mà một thế lực thủ lĩnh địa phương ở ngoại biên châu thổ sông Cái, nơi ấy sự phân hoá Mường - Việt chưa diễn ra mạnh mẽ. Dễ hiểu là cho đến nay vùng sát dải núi 99 ngọn dọc sông Đáy thì sườn phía Đông dải núi này là Việt còn sườn phía Tây dải núi này (mạn Hoà Bình nay) vẫn là Mường và dòng họ Đinh quý tộc Mường vẫn tự nhận mình là gốc gác Đinh Tiên Hoàng “nhất thế vi vương, vạn đại phi nhất vương tù trưởng” (nhà Đang mường Động). Hoa Lư – sau đổi thành Trường Yên là đất Trường Châu cũ của An Nam đô hộ phủ đời Đường kéo dài hai bên bờ sông Đáy từ Hà Nam tới Ninh Bình nay (Hà Nam là quê Lê Hoàn, Ninh Bình là quê Đinh Bộ Lĩnh). Trong viên gạch có in chữ “Giang tây quân” là một phiên hiệu của quân sĩ phong thu, phong đông ở thời Đường. Ở đôi bờ sông Cái mạn Nam Định- Thái Bình nay (bố hải Khẩu nay là vùng Cầu Bo, Vũ Thư, Thái Bình) là thế lực của sứ quân Trần Lâm - Gốc Mông Phúc Kiến đã sang khai thác miền ven biển rồi Việt hoá. Hai thế lực Đinh - Trần liên kết với nhau, chiếm cứ cả dải phù sa mới ven biển từ cửa sông Đáy (Độc bộ) đến cửa sông Cái Đại Hoàng Giang - tiểu Hoàng Giang là sông Châu - sông Đáy. Vùng ấy có đất đai phì nhiêu, lại có buôn bán bằng đường biển, có đánh cá, tài lực dồi dào, Phật Giáo pha trộn với Thần Giáo cũng phát triển ở vùng Giao Thuỷ (Giao Thuỷ là vùng nước ngọt - nước mặn giao nhau mà theo luật địa - kinh tế, địa - văn hoá là nơi thuyền bè tụ họp chờ nước triều lên xuống để ngược sông ra biển) nên thường hình thành các thị tứ như vùng non nước Đáy – Vân Sàng (Ninh Bình), vùng giao nước Châu Giang – sông Cái Tức Mặc (Nam Định), vùng giao nước sông Cái – sông Trà Lý (Trà Lý là một địa danh gốc Melayu – Trà = Ea = nước, sông nước) (Thái Bình nay). Hai thế lực liên kết Đinh – Lê đó đã ngược sông dần dà chinh phục hay khống chế được các sứ quân khác từ Hưng Yên (Đằng Châu - Phạm Phòng Át, Tế Giang (Văn Giang) Lã Đường), Bắc Ninh (Siêu Loại Lý Khuê, Tiên Du Nguyễn Thủ Tiệp, Phù Liệt - Nguyễn Siêu (Phù Liệt – vùng Sét – Thanh trì nay) rồi Đỗ Động Giang - Đỗ Cảnh Thạc (Thanh Oai), Đường Lâm (Sơn Tây) Ngô Nhật Khánh, rồi anh em họ Kiều (Cẩm Khê - Bạch Hạc Phú Thọ) Nguyễn Khoan - Nguyễn Gia Loan – Yên lạc – Vĩnh Phúc). Nghĩa là kiểm soát được toàn vùng tam giác châu sông Cái - Nhị - Hồng). Cái lãnh thổ cốt lõi của nước Đại Việt ta thời Đinh – Lê là đó. Song Đinh Lê chưa thể ra đóng đô ở thành Đại La cũ “giữa cõi bờ đất nước” được, mà vẫn thủ thế ở vùng Hoa Lư - Trường Yên “quê nhà”. Nhà Đinh nên được xem là một nhà vua quân chủ tập quyền.

Sao chăng nữa, cũng đã có một hình mẫu quôc gia ở Hoa Lư, giới khảo cổ Việt Nam đã phát hiện được ngày càng nhiều viên gạch xây thành, xây cung điện có in dòng chữ “Đại Việt quốc quân thành chuyên” (gạch xây thành của vua nước Đại Việt – Do vậy cần xem lại cái quốc hiệu “Đại Cồ Việt”của sử cũ. Nhiều nhà nghiên cứu ngờ Cồ Việt là tên nôm : Kẻ chỉ Việt, Không gian xã hội văn hoá của người Việt)

Theo tôi nhìn, cái nhìn địa - văn hoá thì Hoa lư – Trường Yên nghĩa hẹp là một bồn địa giữa núi được lấp đầy dần bởi phù sa sông biển (qua các bài thơ của Nguyễn Trãi thì cho đến thế kỷ XV Thần Phù (Yên Mô – Ninh Bình nay) vẫn là vùng “hải khẩu” và vùng non nước (thị xã Ninh Bình ) vẫn rất gần cửa biển.

Còn Hoa lư nghĩa rộng là một vùng tứ giác nước bao bọc bởi các sông Hoàng Long, Đáy, Vân Sàng.

Từ Hoa Lư thế lực Đinh Lê vươn tới được Cửu Châu = Kẻ (xứ) Thanh nhưng vẫn phải nhân nhượng các thế lực địa phương như Lê Lương ở Đông Sơn chẳng hạn. Và nên chú ý tới thế lực họ Dương ở vùng ngã ba Dàng (Dương Xã). Dương Đình Nghệ không còn như Dương Tam Kha còn “quậy” dưới thời Ngô. Và trong năm bà hoàng hậu của Đinh Tiên Hoàng (và cả họ Lê - Lý sau này) vẫn có bà hoàng hậu (sau là thái hậu) họ Dương. Sau lưng mỗi bà hậu là một thế lực địa phương. Hôn nhân cung đình thực chất là một cuộc liên minh chính trị, nhà Nho sau không hiểu cho là Đinh – Lê – Lý làm trái lễ Nho, chỉ một “hậu” thôi chứ! Thế lực sĩ phu Nho gia thời đó đâu đã mạnh bằng thế lực Phật giáo.

Lê Hoàn sau khi phá tan Tống Bình Chiêm, uy danh có lớn hơn song biên niên sử chép đầy dẫy việc ông phải đi đánh “giặc”, “kẻ làm loạn” ở các xứ Ái, Hoan, Diễn (có vai trò kích động của họ Dương – Dương Tiến Lộc 989), Đỗ Động Giang, Phong Châu… và phải chia đất cho các con cai quản ở các vùng trọng yếu: Đằng Châu (Hưng Yên), Phong Châu (Sơn Tây – Phú Thọ - Vĩnh Phúc), Ngũ huyện giang (xứ Thanh), Đỗ Động (Hà Đông), Cổ Lãm (Bắc Ninh), Phù Đái Hải Dương)… Lại đến lượt các con ông trở thành các thế lực địa phương, sau khi ông mất (1005), lại đánh lẫn nhau trong 8-9 tháng trời để tranh lập các thế lực địa phương khác.

Nhà Lý lên ngôi và dời đô ra thành Đại La cũ (Thăng Long)

Ông Nguyễn Thiệu Lâu đã nêu một ý tưởng địa lý rất hay: Hà Nội là thủ đô thiên nhiên của Đại Việt: trăm núi, trăm sông đều hội tụ về đây, rồi từ đây lan toả.

Sau này theo thuyết phong thuỷ người ta nói đến thế long bàn (rồng cuộn - bên tả, tả thanh long là dải Tam Đảo), hổ cứ (hổ ngồi – bên hữu - hữu bạch hổ - là dải 99 ngọn) với cái chẩm (Gối – Ba Vì) ở sau cái đai (dải nước Nhị Hà) ở trước và trung tâm là Long đồ, (rốn rồng) nơi có trục trung tâm nối trời với đất, rồi sông Tô Lịch với thần Long Đỗ, thần Tô Lịch v..v.. Đặc biệt Hà Nội là xứ sở của rất nhiều huyền thoại - huyền tích, huyền tích bản địa và huyền tích vay mượn và biến đổi từ Trung Hoa, từ Ấn Độ:

- Nào là huyền tích “Cửu vĩ hồ tinh” với Long Vương dâng nước phá hang cáo, tạo ra đầm xác cáo (làng Cáo đỉnh bên bờ Hồ Tây – Xuân Đỉnh nay).

- Nào là huyền tích hồ Trâu Vàng và sông Kim Ngưu - mượn từ huyền tích Hồ Tây bên Hàng Châu, Trung Quốc.

- Nào là huyền tích hồ trả Gươm với nghi thức thần thoại nhúng thanh gươm (dương - lửa sấm sét) xuống nứơc (âm – lũ lụt) được lịch sử hoá thành thanh thần kiếm “Thuận Thiên” thần ban cho Lê Lợi chống giặc Minh, thắng lợi rồi Trời sai thiên sứ Rùa Vàng - một hoài cố thần Kim Quy với thành cổ Loa hay Quy thành ở xứ Tứ Xuyên Trung Quốc - xuống xin lại thanh gươm (Hồ Hoàn Kiếm).

- Nào là huyền tích đức thánh Chèm – ông Khổng Lồ xoạc chân đôi bờ sông Cái giết giải - thuồng luồng trả thù cho mẹ bị thuỷ quái nuốt ở thời sơ cổ (Lý Ông Trọng).

- Rồi đến huyền tích Khổng Lồ - Không Lộ - Minh Không, đi thuyền như bay về Kinh sư chữa bệnh hoá hổ của vua Lý Thần Tông bằng việc nhúng tay vào vạc dầu sôi sùng sục rồi tắm vuốt cho thân thể nhà vua (đây là ma thuật chữa trị của các nhà Yoga).

- Và trước đó Từ Đạo Hạnh vứt gậy ở Yên Quyết (Cót). Gậy trôi ngược dòng đến cầu Tây Dương (Cầu Giấy) mới dứng lại và thiền sư (kiêm một pháp sư) dùng gậy đó đập chết pháp sư Đại Điên, trả thù cho bố… Sau đó là chuyện Từ Đạo Hạnh đập dầu vào đá hang núi chùa Thầy đầu thai làm Lý Thần Tông.

Trước đó là huyền tích Pháp sư Đại Điên xui Nguyễn Bông nấp trong buồng tắm Ỷ Lan nguyên phi để đầu thai làm Lý Nhân Tông v..v. và v..v..

Kho di sản văn hoá vô thể đó của Hà Nội cần được nghiên cứu, giải mã, giữ gìn và phát huy.

Để kết thúc bài viết này, tôi xin quay trở lại với bài văn thường được gọi là Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn. Chiếu là một thể văn của Trung Hoa chỉ một người (Vua) được dùng và nhằm hạ lệnh. Bài Chiếu của Lý Công Uẩn (do ai đó soạn thảo, có thể là theo ý tưởng của thiền sư Vạn Hạnh). Theo tôi là một tuyên ngôn địa – chính trị, địa chiến lựơc về vùng đất Đại La “ở giữa Đông Tây Nam Bắc, tiện hình thế núi sau, sông trước, xứng đáng là thượng đô của muôn đời” và Lý Công Uẩn bày tỏ khát vọng “Đóng nơi trung tâm, mưu toan việc lớn cho muôn đời con cháu mai sau”. Bài chiếu lại kết thúc bằng một câu phá cách văn chiếu Trung Hoa mang đậm đà bản sắc văn hoá Việt “Trẫm nghĩ như vậy, nhưng ý các khanh thế nào?”. Tôi đã nói nhiều lần đây là bài chiếu hỏi ý kiến quần thần về việc dời đô đầy ý vị Việt Nam. Được viết ở Hoa Lư vào tháng 2 và tới tháng 7 mới bắt đầu cuộc dời đô bằng thuyền, từ Hoa Lư theo dòng Hoàng Giang ra sông Đáy, sông Nhị để tiến lên Đại La.

Huyền tích Rồng Bay và cái tên mới của kinh thành Thăng Long xưa nay vẫn được cắt nghĩa như là biểu hiện sức vươn lên mới của dân tộc thì cũng không sai. Song nếu tôn trọng tâm thức lịch sử đương thời thì theo tôi cần giải thích theo Quẻ Càn (Trời – Vua) của Dịch học:

Tiềm long vu thuỷ

Hiện long tại điền

Phi long tại thiên

TRẦN QUỐC VƯỢNG

Theo báo Nguồn Sáng: Tháng 8 năm 99.

Còn đây là bài viết của ông Thiên Sứ - Nguyễn Vũ Tuấn Anh

PHẢN BIỆN TRẦN QUỐC VƯỢNG

(Nguồn Tuvilyso.com)

Bài viết ngày 18/ 5- 2005

Thiên Sứ Trên báo Nguồn Sáng số tháng 8 năm 1999, có bài “Từ Hoa Lư đến Thăng Long” của ông Trần Quốc Vượng. Đọc qua cái tựa, người đọc hy vọng tìm thấy những dấu ấn lịch sử huy hoàng của dân tộc Việt trong giai đoạn đầu giành lại độc lập sau hơn 1000 năm chịu ách đô hộ của các triều đại phong kiến Bắc phương. Nhưng toàn bộ bài viết là một sự phủ định giá trị lịch sử dân tộc qua cái nhìn của một người được coi là Giáo sư sử học.

Mặc dù với tựa đề là “Từ Hoa Lư đến Thăng Long” ,nhưng để dễ dàng chứng minh những luận điểm của mình, tác giả bài báo đã bắt đầu từ thời Hùng Vương là một thời kỳ khuyết sử của dân tộc Việt Nam. Thời Hùng Vương chính là khởi điểm quan trọng để dẫn đến sự khẳng định hoặc phủ định giá trị lịch sử Việt. Cho nên ngay những dòng đầu tiên của bài báo, ông Trần Quốc Vượng đã viết:

“Thời đại văn hoá Đông Sơn, thời đại các vua Hùng không nên xem là một thời đại của vương triều thống nhất. Văn Lang là cái tên xuất hiện trong sử một cách muộn mằn (Thời nhà Đường, thế kỷ thứ VII - IX). Tôi đã chứng minh rằng vua Hùng là một Pò Khun - thủ lĩnh mạnh nhất của một phức thể Khun (Vua = Bua = Pò, Hùng = Khun) tức hệ thủ lĩnh địa phương chiếm cứ các vùng từ đỉnh châu thổ sông Hồng (Việt Trì) đến các vùng bãi biển. Theo truyền thuyết và sử cũ thì lúc bấy giờ có khoảng 15 bộ. Ông Giáo sư Tiến sĩ Mỹ Keith - Taylor đã dịch một cách tài hoa và lạnh lùng các Lạc tướng là “Lord” và vua Hùng là “Overlord””.

Đối với An Dương Vương và Âu Lạc, ông Trần Quốc Vượng chỉ cho rằng đó là:

“Một tổ chức nhà nước Âu Lạc sơ khai”.

Để chứng minh cho luận điểm của mình, ông Trần Quốc Vượng viết:

“Tôi và Cẩm Trọng đã chứng giải “Thục Phán” không phải là một tên riêng (nhân danh) mà là một từ chức năng - “Túc Phắn” chỉ thủ lĩnh đi “mở đất mở mường”.

Những luận điểm trên đây của ông Trần Quốc Vượng chính là cơ sở để từ đó dẫn đến sự phủ định hàng loạt những giá trị lịch sử dân tộc. Bởi vì, một khi đã coi thời Hùng Vương không phải là một vương triều thống nhất, Âu Lạc chỉ là một nhà nước sơ khai (tức là chưa đủ tư cách là một quốc gia) thì toàn bộ diễn biến lịch sử đầy máu và nước mắt của người Lạc Việt khởi nghĩa giành lại độc lập dân tộc trong con mắt của ông Trần Quốc Vượng chỉ còn là những cuộc nổi dậy và phản ứng của dân chúng với vương triều Hán. Do đó, về cuộc khởi nghĩa Hai bà Trưng, ông Trần Quốc Vượng viết:

“Không nên coi cuộc khởi nghĩa Hai bà Trưng là biểu hiện của sự trổi dậy của tinh thần dân tộc, cùng lắm nên coi đó là một ý thức đòi cách sống riêng của người Việt cổ, không chấp nhận lấy lối sống Hán Hoa là một khuôn mẫu phổ biến. Tôi (Trần Quốc Vượng) đề nghị giới cổ sử học Việt Nam nên coi cuộc khởi nghĩa Hai bà Trưng là một phản ứng văn hoá - chính trị”.

Đây là một đoạn văn gây xúc phạm mạnh mẽ trong tâm linh dòng dõi Lạc Việt. Cuộc khởi nghĩa của Hai bà Trưng trong lịch sử dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa vẫn được coi là biểu tượng của ý chí quật cường, sự trỗi dậy đầy khí phách của người Lạc Việt. Chưa hết, ông Trần Quốc Vượng còn đặt cuộc khởi nghĩa của Khúc Thừa Dụ với cục diện “Ngũ Đại Thập Quốc” của Trung Hoa vào cuối đời Đường. Phải chăng ông Trần Quốc Vượng muốn nói rằng cuộc khởi nghĩa của Khúc Thừa Dụ tạo nên nền tảng đầu tiên của nền độc lập Việt Nam chỉ là một cuộc ly khai may mắn hơn các thủ lĩnh của Trung Hoa cùng thời kỳ?

Những ý tưởng lạc lõng của ông Trần Quốc Vượng không chỉ dừng lại ở đấy mà có thể khẳng định rằng: toàn bộ nội dung của bài báo là một sự bôi nhọ trắng trợn giá trị lịch sử của dân tộc Việt Nam trong suốt hơn 1000 năm Bắc thuộc. Về văn hoá, Trần Quốc Vượng cho rằng hầu hết huyền thoại cổ tích liên quan đến thành Thăng Long - miền đất đế đô đầu tiên khi phục hồi nền độc lập quốc gia của người Lạc Việt - chỉ là sự vay mượn ý tưởng của nước ngoài. Ông đã lấy huyền thoại Rồng bay - Thăng Long - niềm tự hào về kinh đô chính thức và lâu đời của dân tộc, ông Trần Quốc Vượng cũng cho rằng huyền tích này mượn ý của văn hoá Trung Hoa cổ bằng cách viện dẫn Dịch học nói về quẻ Càn. Ông Trần Quốc Vượng viết:

“Huyền tích Rồng bay và cái tên mới của kinh thành Thăng Long xưa nay vẫn được cắt nghĩa như là biểu hiện sức vươn lên của một dân tộc thì cũng không sai. Song nếu tôn trọng tâm thức lịch sử đương thời thì theo tôi cần giải mã quẻ Càn (Trời vua) của Dịch học.

Tiềm Long vu Thuỷ

Hiện Long tại Điền

Phi Long tại Thiên

Đến đây ông Trần Quốc Vượng bỏ lửng coi như là đoạn kết của bài báo. Phải chăng ông Trần Quốc Vượng muốn chứng tỏ rằng - mặc dù với sự kiện thành lập kinh đô, sự khẳng định một quốc gia độc lập vững chắc của người Lạc Việt; đối với Trần Quốc Vượng thì nước Đại Việt vẫn nô lệ về văn hoá?

Để có cớ dẫn đến sự phản bác giá trị lịch sử văn hoá truyền thống của dân tộc, tất nhiên vị giáo sư khả kinh - vốn được một số người xếp vào hàng tứ trụ trong giới sử học Việt và dài phát thanh có tên tuổi BBC phỏng vấn – ông Trần Quốc Vượng phải nhân danh khoa học. Chúng ta xét xem những chứng cứ gọi là “khoa học” của ông Trần Quốc Vượng trong bài báo được thực hiện như thế nào? Căn cứ cụ thể trên bài báo mà ông Trần Quốc Vượng dựa vào bắt đầu từ danh xưng của vua Hùng và Thục Phán theo cách gọi của đồng bào các dân tộc. Đương nhiên, để phủ nhận những giá trị lịch sử dân tộc Việt Nam, Trần Quốc Vượng không thể chỉ căn cứ vào cách gọi và nội dung danh từ chỉ vua Hùng và Thục Phán; mà có thể còn phải căn cứ vào rất nhiều hiện tượng lịch sử khác. Nhưng việc đưa lên báo cách gọi vua Hùng và Thục Phán của đồng bào các dân tộc – để dẫn đến sự khẳng định thời Hùng Vương không phải là vương triều thống nhất, Âu Lạc chỉ là nhà nước sơ khai theo quan niệm của ông Trần Quốc Vượng – thì tất yếu đó phải là luận cứ quan trọng nhất. Đã có nhiều bài báo, công trình nghiên cứu liên quan đến danh xưng của vua Hùng và Thục Phán. Trước đây, ông Đào Duy Anh có quan điểm ngược lại với Trần Quốc Vượng về Thục Phán. Ông Đào Duy Anh cho rằng: Thục Phán là một từ nhân danh (Trần Quốc Vượng cho là một từ chức năng), là Thục Vương Tử và cố chứng minh rằng Thục Phán là con vua nước Ba Thục. Cho rằng Trần Quốc Vượng đã đúng so với Đào Duy Anh, tức là vua Hùng được gọi là Pò Khun và đúng luôn cả cái nghĩa là thủ lĩnh mạnh nhất; Thục Phán là Túc Phắn, là thủ lĩnh mở đất mở mường thì điều đó cũng không thể coi là luận cứ có sức thuyết phục để phủ nhận thời Hùng Vương là một vương triều và cho rằng Âu Lạc chỉ là nhà nước sơ khai. Ngược lại; hiện tượng mà chính ông Trần Quốc Vượng đưa ra lại có thể giải thích ngược lại rằng: Chính sự tồn tại của từ Pò Khun trong đồng bào các dân tộc để chỉ vua Hùng; đã chứng tỏ quyền lực của các vua Hùng không phải chỉ ảnh hưởng đến chủng tộc Lạc Việt, mà còn bao trùm trên các chủng tộc khác trên đất nước Văn Lang. Sự ảnh hưởng này chắc chắn phải rất mạnh; nên 2000 năm sau hình ảnh vua Hùng vẫn tồn tại trong lịch sử phát triển của đồng bào các dân tộc để ông Trần Quốc Vượng biết được Pò Khun là vua Hùng, là thủ lĩnh mạnh nhất. Ông Trần Quốc Vượng còn căn cứ vào sử sách của người Hoa hạ để chứng minh rằng quốc hiệu Văn Lang của Việt Nam xuất hiện vào đời Đường. Như vậy ông Trần Quốc Vượng gián tiếp phủ nhận luôn nội dung truyền thuyết cổ nhất của dân tộc Việt Nam - truyền thuyết Con Rồng Cháu Tiên, niềm tự hào của người Lạc Việt; khi truyền thuyết này khẳng định thời Hùng Vương quốc hiệu là Văn Lang. Nếu vậy - theo ông Trần Quốc Vượng – thì sẽ phải đặt lại vấn đề: Truyền thuyết này có từ bao giờ? Và tiếp theo đó sẽ là việc đặt lại thời điểm xuất hiện của hàng loạt những truyền thuyết lịch sử thời Hùng mà tuần tự thời gian được xác nhận ngay trong các truyền thuyết đó đều có sau truyền thuyết Con Rồng Cháu Tiên; như: Bánh Chưng , bánh Dầy; Trầu cau.... Đây là một việc mà khả năng của ông Trần Quốc Vượng và tất cả những học giả chung quan điểm với Trần Quốc Vượng - kể cả trong và ngoài nước (không loại trừ Giáo sư Tiến sĩ Mỹ Taylor) không bao giờ có thể làm được; để phủ nhận giá trị lịch sử của những truyền thuyết đó. Tổ tiên người Lạc Việt đã để lại một tổ hợp truyền thuyết lịch sử về thời Hùng Vương có một kết cấu chặt chẽ với những di ấn không thể phủ định. Đó là sức mạnh của nền văn hiến Việt Nam được chứng tỏ qua bao thăng trầm của lịch sử. Chỉ cần một hiện tượng đó cũng đủ chứng tỏ thời Hùng Vương là một quốc gia có tổ chức với một nền văn minh rực rỡ. Thời Hùng Vương không thể phủ định thì giá trị lịch sử đầy máu và nước mắt của dân tộc Việt Nam thể hiện trong các cuộc khởi nghĩa đầy khí phách dành độc lập của dân tộc trong hơn 1000 năm Bắc thuộc không thể phủ định. Tiêu biểu cho khí phách và tinh thần anh dũng đó chính là cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng.

Để chứng minh điều này; tôi trở lại với vấn đề quốc hiệu Văn Lang của các vua Hùng – nhà nước đầu tiên của dân tộc Việt và các dân tộc anh em. Hiện nay có không ít những nhà nghiên cứu cho rằng các truyền thuyết về thời Hùng Vương là nguỵ tạo từ thế kỷ XV. Họ căn cứ vào cuốn ”Lĩnh Nam trích quái “ được viết vào thế kỷ XV. Đúng là cuốn sách này được viết vào thế kỷ XV thật. Nhưng điều đó không có nghĩa những truyền thuyết này chỉ xuất hiện vào thời kỳ đó. Chính tác giả của cuốn sách cũng thừa nhận chỉ sư tầm chép lại từ dân gian. Ông Vũ Quỳnh - viết trong lời tựa:

Ôi! Lĩnh Nam liệt truyện có phải chỉ riêng khắc vào đá; viết vào tre mới là quí hơn bia miệng đâu? Từ đứa trẻ hoi sữa đến các cụ già tóc bạc đều truyền tụng để tỏ lòng yêu dấu..”

Nhưng chuyện tiêu biểu về thời Hùng Vương trong Lĩnh Nam trích quái chúng ta cũng thấy rằng: Truyện lập quốc Văn Lang là sớm nhất. Sau đó mới đến Trầu Cau và Bánh Chưng – Bánh Dầy . Ông Trần Quốc Vương và một số không ít các nhà nghiên cứu ủng hộ ông có thể chứng minh được tục làm bánh chưng bánh dầy trong ngày Tết cổ truyền của dân tộc vào thế kỷ XV chăng? Hay họ có thể chứng minh tục ăn trầu có từ thời Lý - Trần chăng? Ăn trầu là phong tục của người Trung Quốc chăng? Như vậy; chính những giá trị văn hoá phi vật thể là chiếc bánh chưng – bánh dầy trong ngày lễ Tết của dân tộc Việt và tục ăn trầu phổ biến khắp miền năm sông Dương Tử – và ngay bây giờ ở Đài Loan (vốn có vị trí vĩ tuyến ngang Đông Đình Hồ là biên giới Văn Lang xưa) – đã chứng tỏ tính thống nhất về văn hoá trong một cộng đồng sinh sống ở một vùng lãnh thổ rộng lớn Nam Đông Đình Hồ. Sự thống nhất về văn hoá này chứng tỏ đã có một quyền lực bảo trợ cho những giá trị văn hoá ấy . Đó là triều đại các vua Hùng mà chính các nhà nghiên cứu Trung Hoa hiện đại đã thừa nhận; họ gọi là nước Ba. Các truyền thuyết sau – “Trầu Cau” và “Bánh Chưng – Bánh Dầy” lại là sự bảo chứng cho truyền thuyết trước về một nước Văn Lang ở Nam Động Đình Hồ với những dấu ấn văn hoá phi vật thể tồn tại từ hàng ngàn năm trước.

Cho dù có một văn bản nào đấy nhắc tới một địa danh Văn Lang vào thời nhà Đường thì điều đó cũng không có nghĩa danh từ Văn Lang chỉ xuất hiện vào thời kỳ này.

Ông Trần Quốc Vượng muốn chứng minh rằng nước Đại Việt dù độc lập về chính trị nhưng vẫn lệ thuộc về văn hoá, bằng cách đưa lời Hào Từ của quẻ Thuần Càn trong Kinh Dịch về con Rồng trong văn hoá Han để liên hệ với Thăng Long trong chiếu dời đô của Hoàng đế Lý Thái Tổ. Nhưng Kinh Dịch vốn được người Hoa Hạ coi là sản phẩm của mình lại có nguồn gốc hết sức mơ hồ, cứ như từ trên trời rơi xuống. Đó là một cuốn sách không đầu không đuôi, ai muốn hiểu thế nào thì hiểu. Người coi Kinh Dịch là sách bói, người coi là sách triết và lịch sử Kinh Dịch thì đầy mâu thuẫn. Cho đến ngày nay, cả thế giới hiện đại xúm vào nghiên cứu Kinh Dịch vẫn còn ngơ ngác; thậm chí Kinh Dịch bí ẩn ngay cả với các học giả Trung Hoa hiện đại vốn tự nhận là hậu duệ của nền văn minh sản sinh ra Kinh Dịch.

Đã có những học giả Việt Nam khả kính đặt vấn đề cho rằng thuyết Âm Dương Ngũ hành và Kinh Dịch liên quan đến nền văn minh Bách Việt; đó là Giáo sư Bùi Văn Nguyên với tác phẩm “Kinh Dịch Phục Hy” và Lê Văn Sửu với tác phẩm “Học thuyết Âm Dương Ngũ Hành”. Đây là một giả thuyết rất có cơ sở khoa học.

Như vậy, nếu đứng về góc độ của khoa học và thực tiễn thì lý luận của ông Trần Quốc Vượng chưa đủ sức thuyết phục. Nhưng ông Trần Quốc Vượng đã vội vàng khẳng định quan điểm của mình có tính áp đặt; khi đề nghị:

“Không nên coi cuộc khởi nghĩa Hai bà Trưng là biểu hiện của sự trổi dậy của tinh thần dân tộc, cùng lắm nên coi đó là một ý thức đòi cách sống riêng của người Việt cổ, không chấp nhận lấy lối sống Hán Hoa là một khuôn mẫu phổ biến. Tôi (Trần Quốc Vượng) đề nghị giới cổ sử học Việt Nam nên coi cuộc khởi nghĩa Hai bà Trưng là một phản ứng văn hoá - chính trị”.

Chính lời đề nghị này đã chứng tỏ một tư duy phi khoa học, khi khoa học cần có sự đối thoại để tìm chân lý. Sự đề nghị có tính áp đặt của ông Trần Quốc Vương sẽ không cho phép những tư duy phản biện xuất hiện. Đấy không phải là tinh thần khoa học.

Không xuất phát từ một tư duy khoa học thì ông Trần Quốc Vượng nhân danh cái gì để phủ định những giá trị lịch sử của dân tộc Việt Nam? Nếu có sự nói thẳng ra điều này dưới bất cứ hình thức nào thì Thiên Sứ tôi sẽ im lặng. Vì Thiên Sứ tôi chỉ nhân danh khoa học.

Sắp tới ngày tưởng niệm hai vị liệt nữ anh hùng của dân tộc Việt. Hai vị đã giải phóng 64 thành trì và giành độc lập; gìn giữ lại những bản sắc văn hiến của dân tộc Việt. Xin có lời nhắc nhở đến những ai có quan niệm phủ định công lao của Hai Bà trong lịch sử dân tộc bằng cách cho rằng:

Lãnh thổ của nước Văn Lang chỉ vỏn vẹn ở đồng bằng Bắc bộ; nên làm gì có 64 thành để Hai Bà Trưng giành lại.

Nhưng chính Tô Đông Pha đã viết:

” ...Nước Nam Việt từ Tam Đại trở xuống, không đời nào dẹp yên cả. Đời Tần (246 - 207 tr.CN), tuy có đặt quan chức cai trị, xong rồi trở lại tình trạng man di. Bì Ly mới diệt được nước ấy và chia làm chín quận. Nhưng đến đời Đông Hán, lại có người con gái là Trưng Trắc, khởi binh rung động hơn 60 thành. Đương thời vua Thế Tổ mới dẹp yên thiên hạ, thấy dân đã mỏi mệt và chán việc dụng binh, bèn đóng cửa Ngọc Quan từ tạ Tây Vực. Phương chi Nam Việt là chỗ hoang viếng, không đáng phiền lụy đến quân đội nhà vua nếu không phải Tuân Tức Hầu (Mã Viện) chịu khó đánh dẹp thì dân chín quận vẫn khoác áo bên trái đến bây giờ.

-----------------------

* Chú thích: An Nam chí lược: Lê Tắc; Quyển đệ nhất; mục “Cổ Tích”. Viện ĐạI hoc Huế 1961. Giáo sư Linh mục Cao Văn Luận.

Qua đoạn trích dẫn trên thì dân Chín quân sẽ không thể chỉ là Nhật Nam và Cửu Chân; mà là bao trùm nam sông Dương Tử. Chính với vùng lãnh thổ rộng lớn này sẽ giải thích hơn 60 thành mà ông Tô Đông Pha nói tới.

Cảm ơn sự quan tâm của quý vị.

NGUYỄN VŨ TUẤN ANH

Share this post


Link to post
Share on other sites

Kính thưa quí vị quan tâm.

Sau khi phân tích tính mâu thuẫn trong từng bài viết của từng tác giả trong mục "sưu tầm những bài viết phủ nhân giá trị văn hóa sử Việt", Thiên Sứ tôi sẽ có mục tổng kết các bài viết để quí vị thấy tính mâu thuẫn khôi hài giữa những bài viết thuộc đám "hầu hết" và "cộng đồng" với nhau. Tôi rất hy vọng sẽ là phần giải trí thư giãn sau nhưng phút lao động mệt nhọc qua những bài viết của đủ các thứ bậc trong xã hội từ giáo sư sử học tên tuối đến những nhà nghiên cứu nghiệp dư vô danh tiểu tốt. Tôi thí dụ như hai đoạn sau đây của Phó giáo sư Đặng Ngọc Bích và tác giả Techno.

Phó giáo sư Đặng Ngọc Bích viết:.

Một điều mà cho đến nay người ta còn chưa biết rõ là người Nam Đảo tiến công vào Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ xuất phát từ đâu? Phải chăng họ từ quần đảo Philippin, Hải Nam đảo, Đài Loan hoặc duyên hải Quảng Đông…? Hay phải chăng họ xuất quân từ lãnh địa của văn hóa Sa Huỳnh, từ miền ven biển Trung Bộ từ nam sông Gianh tới Phan Rang mà họ Bắc tiến sau khi đã đóng vai kẻ chiến thắng tại đây?

Còn đây là ông Techno:

Quốc Gia đầu tiên của người Việt và Hiến Pháp đầu tiên của Nhân Loại.

Quốc Gia đầu tiên của người Việt

Năm 1221 TCN, đoàn người Âu (甌), còn gọi là Tây Âu (西甌) thuộc chủng Arriane trên đại bình nguyên lưỡng hà Ấn - Hằng từ phía Tây Trung Hoa tràn vào đất Lĩnh Nam của cư dân Bách Việt. Họ nhập vào các nhóm Bách Việt và dần dần trở thành một bộ phận của Bách Việt và càng ngày càng xa rời phong tục tập quán của lưu vực Ấn - Hằng, nên được gọi là Âu Việt (甌越). Họ cao lớn, có năng lực thể chất và thể trạng hơn hẳn các nhóm dân Bách Việt khác, ưu thế trong chiến đấu và xây dựng của họ nhanh chóng được khẳng định và trở thành một đầu tàu, một ngòi nổ mạnh trong cuộc chiến không ngừng giành quyền sống của cộng đồng bách Việt trong thời mông muội của lịch sử.

Khi đoàn người Bách Việt tràn xuống phương Nam tìm đất sống thì đại bộ phận Âu Việt lang thang qua các vùng đất lửa Trung Hoa. Họ dần dà quay lại đất Lĩnh Nam, theo chân đoàn di dân cơ học Bách Việt về đất Giao Châu và quần cư với người Lạc Việt trên dải đất lưu vực sông Hồng phì nhiêu màu mỡ. Năm 227 TCN, thủ lĩnh Âu Lạc mượn tiếng họ Thục để giành lấy quyền làm chủ phương Nam và lập ra Vương Quốc Âu Lạc đầu tiên trong lịch sử Giao Châu

Như vậy, quí vị cũng nhận thấy rằng:

Một người thì phân tích trên cơ sở pha học cho rằng: Dân tộc Việt là cư dân bản địa hòa nhập với người Nam Đảo, đâu từ ngoài bể kéo vào. Còn người kia cũng nhân danh cái pha học chứng minh rằng thì là cái tổ tiên người Việt lại từ giòng giống Ác Ri ăng nờ từ bình nguyên Ấn Hằng tới. Cả hai vị đều nhất trí hoan hô dân tộc Việt Nam vĩ đại và thống nhất với nội dung phủ nhận truyền thống "zăng góa" sử Việt. Nhưng lại chứng minh pha học với những cơ sở pha học "goàn tàng" khác nhau. Thế vị nào đúng đây nhể, để phó thường dân dự khuyết Nam bô như nhà Thiên Sứ đây biết đường mà lần mò tìm về cội nguồn dân tộc chứ nhể.

Tất nhiên hai vị này sẽ chẳng thể nhận là mình sai mà thằng kia lại đúng hơn được. Vì cái sĩ diện và cả cái bản mặt của các zdị thì tất nhiên hai vị sẽ phải tranh "nuận" pha học để tìm ra cái chơn ní ló thuộc về ai. Sư Thiến tui sẽ mần trọng tài cho các vị ấy tranh nuận. Hi.

Chưa đâu! Còn lắm trò buồn cười đến bể bụng khi so sánh những "nuận cứ pha học " của "hầu hết những nhà pha học trong nước" được cái "cộng đồng pha học thế giới" ủng hộ nữa cơ, Đấy mới chỉ là hai trong số.

Bởi vậy, chẳng bảo sao mà Sư Thiến tui khi va cham với cái "tính thần pha học " của cái đám "hầu hết" và "cộng đồng" này chẳng bị tẩu hỏa nhập ma. Vì cuối cùng chẳng hiểu thực chất cái khoa học mà các vị ấy quảng cáo nó là cái gì. Chắc vì các vị này lấy tinh thần không sợ ma làm tiêu chí xác định khoa học.

Thảo nào mà học sinh Việt Nam dốt sử thế. Chính báo chí nói đây nhá! Dẫn chứng hẳn hoi, chứ hổng phải Sư Thiên tui dựng chiện đâu ạ.

Giáo sư tiến sĩ còn dốt như thế kia thì làm sao mà bảo các cháu giỏi được. Hic.

Thôi, miễn bình nuận. Không sợ mất nòng quí zdị thì con cái nhà em phen này cứ gọi là chít chứ chẳng phải chiện chơi.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Thưa chú Thiên Sứ, cho phép con có chút ý kiến!

Chúng ta không thể phủ nhận: Con người là thực thể sinh vật - xã hội.

Do đó để minh chứng cho nền văn hóa huyền vĩ Lạc Việt chúng ta cần:

1> bằng chứng tiến hóa gene là một minh chứng, một sự thật không thể thay đổi; tuy nhiên, "người khác" sẽ có thể làm méo mó thông qua cách ngụy biện của họ (Trung Quốc hiện nay đang phát triển mạnh về việc nghiên cứu tiến hóa gene và quy những cá thể thời nay về một nhân vật lịch sử nổi tiếng của họ, trong khi Việt Nam chưa thấy bất kỳ công nghệ nào liên quan).

2> bằng chứng cổ vật minh chứng cho nền văn hóa cổ. Còn rất rất nhiều khó khăn cho con cháu Lạc Việt chúng ta vì phần cổ vật ở bờ Nam sông Dương Tử chúng ta khó lòng tiếp cận.

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Thưa chú Thiên Sứ, cho phép con có chút ý kiến!

Chúng ta không thể phủ nhận: Con người là thực thể sinh vật - xã hội.

Do đó để minh chứng cho nền văn hóa huyền vĩ Lạc Việt chúng ta cần:

1> bằng chứng tiến hóa gene là một minh chứng, một sự thật không thể thay đổi; tuy nhiên, "người khác" sẽ có thể làm méo mó thông qua cách ngụy biện của họ (Trung Quốc hiện nay đang phát triển mạnh về việc nghiên cứu tiến hóa gene và quy những cá thể thời nay về một nhân vật lịch sử nổi tiếng của họ, trong khi Việt Nam chưa thấy bất kỳ công nghệ nào liên quan).

2> bằng chứng cổ vật minh chứng cho nền văn hóa cổ. Còn rất rất nhiều khó khăn cho con cháu Lạc Việt chúng ta vì phần cổ vật ở bờ Nam sông Dương Tử chúng ta khó lòng tiếp cận.

Cảm ơn Thiên Huy nhắc nhở.

Thiên Huy hãy yên tâm. Chú đã cân nhắc nhiều mặt và đi trước những vấn đề này từ lâu. Nếu không như thế chú không thể một mình đương đầu với cái "hầu hết" và "cộng đồng". Chú sử dùng bằng chứng di sản văn hóa phi vật thể trước khi Liên hiệp quốc công nhận điều này 5 năm.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Theo con, bằng chứng văn hóa phi vật thể của dân tộc cũng là bằng chứng khách quan minh chứng cho tính chất xã hội của con người nhưng mấy trăm năm qua người ta lại không chấp nhận. Thật khó hiểu! Bởi một cá nhân không thể tự tạo nên bằng chứng di sản văn hóa phi vật thể của dân tộc.

Con tin chú làm được. Con tin rằng hậu duệ người Lạc Việt sẽ khẳng định trước thế giới nền văn hiến huyền vĩ của tổ tiên bằng tất cả những bằng chứng ở mọi khía cạnh mà trước tiên là bằng chứng di sản văn hóa phi vật thể.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Kính thưa quí vị quan tâm.

Theo thông lệ, để bảo đảm tính khách quan Thiên Sứ tôi lại đưa nguyên văn bài viết của ông Lê Văn Lan viết trong cuốn "Hùng Vương dựng nước - Tập IV - 7" do UBKHXHVN phối hợp với Viện Khảo cổ học xuất bản 1974 để quí vị tham khảo trước khi viết bài phản biện. Đây là bài viết đầu tiên sưu tầm được trong một cuốn sách in của một cơ quan chức năng là Viện Khảo cổ học. Những dòng chữ hiển thị màu xanh bleur là chú thích của bài viết trong trang.

*

Ủy ban khoa học xã hội Việt Nam - Viện khảo cổ học

Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội Hà Nội, 1974

Về khái niệm thời Hùng Vương

Lê Văn Lan

Posted Image

Thế nào và lúc nào là thời Hùng Vương? Thời gian vừa qua, các nhà nghiên cứu, mặc dù đã có nhiều suy nghĩ, nhưng chưa có dịp trực tiếp bàn bạc nhiều về vấn đề này, mà thường chỉ qua cách gọi tên cho quãng thời gian mà mình nghiên cứu, vắn tắt gọi quan điểm của mình, gián tiếp nói quan điểm của mình. Tẩn mẩn sa vào chuyện chữ nghĩa, chúng tôi đã thử thu nhặt những từ mà các nhà nghiên cứu đã chọn dùng để mệnh danh cho quãng thời gian lịch sử mà mình nghiên cứu.

Và kết quả là thấy xuất hiện khá nhiều cách mệnh danh khác nhau: thời đại Hùng Vương, thời kỳ Hùng Vương, giai đoạn Hùng Vương, thời kỳ Hùng Vương – An Dương Vương, thời kỳ Hùng Vương và An Dương Vương… Dĩ nhiên, như vừa trình bày, vì chưa có sự bàn bạc, càng chưa có sự quy định cụ thể, nên không thể có sự thống nhất chặt chẽ.

Cho nên, có thể dễ dàng thông cảm với một số nhà nghiên cứu đã chọn lấy một cách mệnh danh khá chung chung là “thời Hùng Vương”, với chữ “thời” thật là “cơ động” trong các công trình của mình.

*

* *

Một số không ít tác giả đã cho rằng cách dùng tên Hùng Vương để mệnh danh cho một thời gian lịch sử, với nội dung là toàn bộ “thời đại dựng nước và giữ nước đầu tiên” (1) là một cách gọi tên truyền thống, bây giờ chỉ việc dùng lại. Và cũng không ít người cho rằng cái quan niệm 4000 năm về niên đại của “thời Hùng Vương” như thế cũng là một quan niệm cổ truyền của nhân dân.

(1) Thuật ngữ của đồng chí Nguyễn Khánh Toàn. Chúng tôi tán thành cách dùng.

Ngẫm kỹ lại thì dường như không hẳn như thế. Chúng ta biết rằng cách tính tháng năm của thời gian lịch sử, phổ biến trong nhân dân thành một truyền thống, là cách tính theo đời, thậm chí cũng không thật cụ thể và chính xác đến con số của đời nữa (2), và ký ức dân gian về cổ sử, thường cũng chỉ tính theo các khái niệm: cổ, rất cổ, thượng cổ…, chứ không mấy khi tính cụ thể đến con số mấy trăm, mấy nghìn năm. Lối ghi nhớ thời gian có tính chất truyền thống dân gian như thế này, một ghi được văn bản phản ánh và ghi giữ, như trường hợp Lĩnh Nam chích quái chẳng hạn, cũng chỉ thấy áng thành một niên đại là “thời quốc sơ” mà thôi, chứ cũng không có con số tháng năm cụ thể. Thấy nói đến số năm tháng cụ thể, chỉ có sử sách. Như ở Đại Việt sử ký toàn thư chẳng hạn, dù Ngô Sĩ Liên đã theo công thức cổ của sử bút phong kiến, mà tính kỹ rằng quốc sử phần bản kỷ, đến đầu nhà Lê là 1634 năm, và ngoại kỷ, cộng 2672 năm, thì cũng chỏ mới gián tiếp gợi lên con số tháng năm chỉ “thời Hùng Vương, chứ chưa tạo nên một lối tính niên đại có giá trị cụ thể và phổ biến. Cho nên, những thơ văn vào loại cổ - thế kỷ thứ 15, thứ 17 chẳng hạn – đề vịnh Hùng Vương, cũng không thấy có việc tính toán đến con số cụ thể của sự lâu đời. Chỉ đến đầu thế kỷ này, với các tác giả như Hoàng Đức Trung, Nguyễn Đình Chuẩn, Lê Hữu Viện… và đặc biệt là Nguyễn Thuận Kế (3), mới thấy phổ biến sự tính toán cụ thể đến con số như “mấy nghìn năm trước” hoặc là “hai nghìn năm lẻ”, “hai nghìn năm sáu trăm năm có lẻ”, và rồi là “nước bốn nghìn năm” (4). (Những con số này hẳn là dựa vào việc phát hiện lại niêm điểm Nhâm Tuất 2879 trước Công Nguyên và sự gợi ý về cách tính niên đại từ thời Ngô Sĩ Liên. Chúng tôi ngờ rằng, theo những tài liệu đang nắm được như bây giờ, thì lối tính niên đại bốn nghìn năm cho “thời Hùng Vương” (5) có lẽ chỉ mới phổ biến vào thời gian đầu thế kỷ này, và cùng chung cái đà với các tác giả này. Đó là những điều kiện mới của trào lưu và sự chuyển hóa tư tưởng, văn hóa đầu thế kỷ 20 đặc biệt là sự phát triển của “tân thư”, “tân học”, “toán pháp” cùng với chủ nghĩa yêu nước đầu thế kỷ 20. Phổ biến mới từ đây, nhưng trong hoàn cảnh đấu tranh lấy lại nước bị mất, vì phù hợp và có lợi trước hết là cho những người yêu nước và cách mạng, rồi đến quảng đại quần chúng nhân dân, nên cách tính niên đại mở nước này mới nhanh chóng truyền bá đi, cho tới chúng ta ngày nay.

(2) “Việc ấy dễ đã đến mấy đời”, “Việc ấy đã có từ trước ông cụ mấy đời nhà tôi” – Chúng ta vẫn thường nghe nói thế trong dân gian.

(3) Với vế câu đối “Gây dựng trời Nam, nước bốn nghìn năm, nhà có nóc”.

(4) Xem thêm Lê Tư Lành: Văn thơ đề Vịnh đền Hùng – Khảo cổ học, Hà Nội, số 3-4, tháng 12-1969.

(5) Xin chú ý phân biệt lối tính cụ thể này với quan niệm hoàn toàn đúng đắn của nhân dân ta về sự lâu đời nói chung của thời Hùng Vương.

Cái tên Hùng Vương đang quen dùng với ý nghĩa hiện nay, cũng có vấn đề tương tự như thế. Hùng Vương có thể là một ông vua, những ông vua thực, nếu chúng ta biết tách rời cái khái niệm về ông vua thời phong kiến ra khỏi cái tên gọi “vua” đã được phóng từ đấy ngược lên thời Hùng Vương. Vương, Vua – Bua, Bô, Bố, những cái tên gọi đánh dấu từng chặng đường phát triển của khái niệm ấy, mặc dù cũng có lúc thấy được kết ngang lại với nhau, như ở thế kỷ 8 (6), nhưng, theo kết cấu về thực chất là chiều dọc của các chặng đường ngôn ngữ này mà lần lượt lên đến “thời Hùng Vương”, sẽ thấy rõ khái niệm “vua” trùng với “bố”: người đứng đầu một cộng đồng. Sách Lĩnh Nam chích quái cho chúng ta biết rằng người thời Hùng Vương, mỗi khi gặp khó khăn thì dùng tiếng “bố” để gọi người đứng đầu của mình cứu giúp.

(6) Trong trường hợp “Bố Cái đại vương”.

Từ Vương (Vua) trong Hùng Vương (Vua Hùng) có nghĩa ấy, mà từ Hùng cũng có nghĩa ấy. Suốt mấy chục năm trước đây, và ở diễn đàn sử học Sài Gòn thì tới cả những năm gần đây, người ta đã dẫn toàn bộ công cuộc nghiên cứu thời đại dựng nước và giữ nước dầu tiên của dân tộc vào một ngõ cụt, ngay sau khi mở các cửa của các cuộc tranh luận về chữ Hùng, chữ Lạc. Không theo cái rớp ấy, mấy năm nay, các nhà nghiên cứu chúng ta đã mở những khoảng vấn đề rộng lớn, đồng thời, vẫn tạt qua, xem lại cái cửa cũ về chữ và nghĩa của cái tên Hùng. Dường như là Hùng, gọn lại cũng như Khun, Cun…, đều là tên gọi người đứng đầu một cộng đồng. Hùng Vương, danh hiệu đó, như vậy vừa là phiên âm, vừa là phiên dịch sang chữ Hán, cách gọi tên của những người Việt Nam thời cổ về người đứng đầu, những người đứng đầu của mình (1). Người đó, những người đó, chúng ta đã tìm được những dấu vết gián tiếp và đang hy vọng tìm được những dấu vết trựa tiếp ở những di chỉ và mộ táng trên vùng đất Tổ Phong Châu (Văn Lang) cũ. Cần chú ý là trước khi đi được đến chỗ nhận thức về thực chất những người đó, như vừa trình bày, thì, một lớp mây mù và vàng son của truyền thuyết và thư tịch cổ đã trùm phủ lên những nhân vật ấy.

(1) Xem Trần Quốc Vượng: Về danh hiệu Hùng Vương – Khảo cổ học, Hà Nội, số 7-8, tháng 12-1970.

Nhưng bây giờ, hãy trở về cách dùng tên Hùng Vương để mệnh danh cho một thời gian lịch sử. Chúng tôi ngờ rằng, với khái niệm thời gian đang được hiểu là nội dung của các tên gọi “thời kỳ” – “thời đại” – “giai đoạn” Hùng Vương hoặc “Hùng Vương – An Dương Vương” như hiện nay, chúng ta đã thống nhất mở rộng cái khái niệm thời gian mà các nhà nghiên cứu trước đây đã hiểu về “thời Hùng Vương”. Mọi người đều biết, chính sử của ta, từ Đại Việt sử ký toàn thư trở đi, dù là đặt ở ngoại kỷ hay tiền biên, thì cũng đều mở đầu bằng một kỷ, gọi là kỷ Hồng Bàng thị. Chính trong cái kỷ đầu tiên dài đến hơn hai nghìn năm đó của quốc sử, nắm gọn một khúc thời gian là “thời Hùng Vương”. Người xưa, có đôi lúc lẫn cái “thời Hùng Vương” với cái kỷ Hồng Bàng kia (2), nhưng về cơ bản, “thời Hùng Vương” vẫn chỉ được coi là một phần sau của thời Hồng Bàng, thậm chí, có trường hợp còn được xác định rạch ròi tên gọi là “thời Á Hồng Bàng” như ở một câu đối cổ giữa Chùa Tổng, làng Tứ Xã (Vĩnh Phú) (3). Như thế, rõ ràng cái tên gọi “thời Hồng Bàng”, trước đây vẫn được hiểu là một thời lớn hơn, trùm lên “thời Hùng Vương”. Và cái “thời Hồng Bàng” đó mới là cái tên gọi của toàn bộ thời đại dựng nước vá giữ nước đầu tiên của chúng ta. Có thể thấy cái “truyền thống” gọi tên như thế vẫn tồn tại mãi cho đến năm 1967 (4). Còn việc dùng tên Hùng Vương để mệnh danh cho toàn bộ thợi đại dựng nước và giữ nước đầu tiên của lịch sử ta, dường như chỉ mới trở nên phổ biến trong vòng vài ba năm nay, do sự chuyển khái niệm, mở rộng nội dung, gần như là không tự giác của các nhà nghiên cứu bây giờ.

(2) Ví như các tác giả những bản thần phả thời Lê sơ, mà trong đó đã xác định được “vai trò quan trọng” của các nhà hàn lâm Nguyễn Bính, Nguyễn Cố, v.v… cố gắng tạo cho các vua Hùng những tuổi thọ hàng mấy trăm năm để khớp với cả cái thời Hồng Bàng mà chuyện gốc – cái niên điểm mở đầu: Nhâm Tuất 2879 – lại cũng do chính người cùng thời với họ tạo ra.

(3) “Thời Á Hồng Bàng, thiên dân hóa dân thành thịnh ấp”.

(4) Chẳng hạn như thấy ở lời kêu gọi: Nên nghiên cứu vấn đề hời đại Hồng Bàng của tạp chí Nghiên cứu lịch sử, cũng như ở Vài suy nghĩ về việc tìm hiểu thời đại Hồng Bàng của Nguyễn Linh.

*

* *

Cùng với việc mở rộng thời gian thực tế của “thời Hùng Vương”, hay đúng hơn là việc chuyển khái niệm “thời Hùng Vương” như vừa trình bày, các nhà nghiên cứu hiện nay còn làm một việc quan trọng hơn, là chuyển trọng tâm nghiên cứu, từ chỗ chỉ về những ông “vua”, thậm chí chỉ mới về những tên gọi của những ông vua đó, ra thành cả xã hội, con người và văn hóa (văn minh) của một thời đại mang tên những ông “vua” đó. Và như thế, vấn đề đầu tiên phải giải quyết là xác định thời gian tồn tại cụ thể của thời đại đó.

Như đã có dịp trình bày (1), trước hết là từ những tài liệu truyền thuyết và thư tịch mà chúng ra đã có một khung thời gian về “thời Hùng Vương” mà từ lâu, đã có không ít người – từ những sử quan trong Quốc sử quán triều Nguyễn đến Trần Trọng Kim và Nguyễn Phương – đều tỏ ý nghi ngại.

(1) Xem Lê Văn Lan: Tài liệu khảo cổ học và viện nghiên cứu thời đại các vua Hùng, - Nghiên cứu Lịch sử, Hà Nội, số 124, tháng 7-1969. – Trở lại vấn đề văn hóa Đông Sơn, - Khảo cổ học, Hà Nội, số 3-4, tháng 12-1969. – Về một khung niên đại hợp lý cho thời đại các vua Hùng, - Hùng Vương dựng nước, tập III, Hà Nội, 1973.

Thật ra thì không phải chỉ có một, mà là hai khung thời gian theo tài liệu thư tịch, nhưng sự quá tập trung chú ý vào cái khung thứ nhất của Đại Việt sử ký tòan thư đã khiến cho, một thời gian dài, người ta tưởng như không có cái khung thứ hai của Đại Việt sử lược.

Về cái khung niên đại bắt đầu từ năm 2879 trước Công nguyên cho “thời Hùng Vương” (tên gọi đúng, trong trường hợp này, là “thời Hồng Bàng”) của Đại Việt sử ký tòan thư, chúng ta đã thấy rằng chính là trong không khí tự cường thắng lợi giành lại độc lập ở thế kỷ thứ 15, muốn chứng minh về nguồn gốc lâu đời và ngang bằng với Trung Hoa phong kiến, tiền nhân ta ở thời Lê sơ đã tham bác sử sách đời Đường đời Tống với truyền thuyết dân gian của ta, dựa vào mối quan hệ thực tế đã có từ rất lâu đời giữa Việt Nam và miền Hoa Nam, nhào nặn theo ý muốn chủ quan của mình để tạo ra những sự kiện và niên đại của buổi đầu thời Hồng Bàng, mà rồi nối ngay sau đấy là thời Hùng Vương (1). Chúng ta lại cũng đã thấy rằng có một vạch cương giới thực tế đã ngăn đôi hai vấn đề và thời gian mà người thời Lê sơ đã gắng gượng nhập làm một. Sau và trước cái ranh giới đó: một bên là thời gian và những nhân vật nửa thần thoại nữa lịch sử là Hùng Vương mà bây giờ chúng ta đã làm cho tính lịch sử đè át tính thần thoại, và một bên là thời và nguồn gốc hoàn toàn thần thoại của những nhân vật nửa thần thoại nửa lịch sử đó (2). Ý nghĩa có thể khai thác của sự việc này là: nếu chúng ta chưa thể ghi nhận được phần đầu khung niên đại của Đại Việt sử ký tòan thư (tức là đầu thời Hồng Bàng) do chỗ thiếu cơ sở vững vàng ngay trên những tư liệu sử học, thì lại có thể tin được ở phần sau khung thời gian đó (cuối thời Hồng Bàng, tức chính là thời Hùng Vương).

(1) Xem thêm Nguyễn Linh: Phải chăng Hùng Vương thuộc giòng dõi Thần Nông? – Nghiên cứu Lịch sử, Hà Nội, số III, tháng 6-1968.

(2) Về quãng thời gian và vấn đề này, nếu trong dân gian còn lưu hành những mẫu đề văn học dân gian có tính chất truyền thống của dân tộc là “một bọc trăm trứng” và “mẹ chim (đất, núi, Âu Cơ) – bố rồng (nước, biển, Lạc Long)” thì các nhà trí thức phong kiến đã chuyển sang nói bằng ngôn ngữ của văn hóa phương Bắc (gồm chữ và hình tượng): Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân… Xem thêm Cao Huy Đĩnh: Hình tượng khổng lồ và tập thể anh hùng dựng nước giữ nước trong truyện cổ dân gian Việt Nam, trong Truyền thống anh hùng dân tộc trong loại hình tự sự dân gian Việt Nam, Hà Nội, 1971.

Có thể từ chỗ này mà nhận xét thêm về giá trị của khung niên đại bấy lâu vẫn chưa được nhiêu người chú ý, là khung niên đại của Đại Việt sử lược. Cuốn sách cổ hơn Đại Việt sử ký tòan thư ít nhất là 100 năm này đã không nói gì về thời Hồng Bàng, mà mở đầu ngay bằng việc xuất hiện của vua Hùng đầu tiên, với thời điểm gọn gàng là đời Chu Trang Vương: đầu thế kỷ thứ 7 trước Công nguyên (3). Vì cho đến nay, vẫn chưa có ai chỉ ra được cơ sở của trường hợp ghi chép như thế của tác giả, mà cũng cho đến nay vẫn còn là khuyết danh, của bộ sách có giá trị về nhiều mặt này, cho nên, nếu tin vào khung niên đại cho thời Hùng Vương của sách này, thì cũng không khác gì đã tin vào nhiều điều ghi chép quan trọng khác của cuốn sách đó.

(3) Năm 696 – 682 trước Công nguyên.

Tuy vậy, hiển nhiên là dù sao, những điều ghi chép của tài liệu thư tịch cũng chưa thể làm thỏa mãn người ta về thời gian tồn tại của “thời Hùng Vương” được. Nhưng bù lại chính là tử những tài liệu thư tịch này, những ấn tượng đầu tiên, bao quát và cơ bản, những hiểu biết đại thể về một không khí chung của “thời Hùng Vương” đã được ghi nhận. Và chính là cái diện mạo, cái thần sắc của một thời đại như thế đã là cơ sở, tạo điều kiện để động viên một nguồn tư liệu khác, có khả năng rất quyết định trong việc xác định những niện đại tuyệt đối, cụ thể, là tài liệu khảo cổ học. Sở dĩ có thể coi những niên đại tuyệt đối, chẳng hạn như 3405 ± 100 năm của di chỉ Tràng Kênh, 3328 ± 100 của di chỉ Vườn Chuối, 3046 ± 120 của di chỉ Vinh Quang hay 2350 ± 100 năm của di chỉ Chiền Vậy (1) là nằm trong niên đại chung của “thời Hùng Vương”, chính là vì ở các địa điểm khảo cổ đó, cũng thấy xuất hiện cái diện mạo, cái thần sắc, của một thời đại giống như cái diện mạo, cái thần sắc mà tài liệu thư tịch đã nói về “thời Hùng Vương”. Hơn thế nữa, chẳng phải là chỉ có cái không khí chung như vậy, mà còn có cả sự tương đồng đến những chi tiết cụ thể. Chẳng hạn như khi thư tịch về “thời Hùng Vương” nói có nhà sàn, thì khảo cổ học cũng tìm thấy di tích nhà sàn; khi thư tịch nói: có tục giã cối, thì hình ảnh khảo cổ học về cối chày xuất hiện; khi thư tịch nói: cắt tóc ngắn và ăn cơm nếp thì khảo cổ học cũng lại tìm thấy tượng người có mớ tóc ngắn và cái chõ đồ xôi!

(1) Tất cả đều trước năm 1950.

Dĩ nhiên, không phải lúc nào cũng vuông tròn, ràng rẽ như vậy. Từ ba năm nay, hàng chục cuộc tranh luận đã diễn ra, chính là để cho quan niệm của các nhà khảo cổ học và niên đại những di tích thuộc “thời Hùng Vương” có thể được làm sáng tỏ và tốt nhất là nhích lại gần nhau. 2 văn hóa hay 4 văn hóa hay chỉ 1 văn hóa là điều đã tranh luận và sẽ còn phải tranh luận. Cũng như, trong khi chưa hoàn toàn giải quyết được vấn đề này, thì một phương hướng “hòa hoãn” khác là tránh “văn hóa” mà tìm “giai đoạn”, lại cũng dẫn ngay đến sự tranh luận 4 giai đoạn hay 6 giai đọan. Những công việc thuần túy khảo cổ học này chính là nhằm đảm bảo tính chính xác và độ phong phú của những tài liệu khảo cổ học cho các nhà nghiên cứu có thể sử dụng rộng rãi trong việc nghiên cứu “thời Hùng Vương”. Và điều quan trọng rất đáng ghi nhận là đến lúc này, hầu hết các nhà khảo cổ học, tuy còn những “tiểu dị” nhưng đã “đại đồng” xác nhận hai cái mốc lớn cho thời gian đầu và cuối “thời Hùng Vương” về mặt khảo cổ học, là Phùng Nguyên và Đông Sơn. Chính vì vậy mà chúng tôi rất phấn khởi khi được đọc những dòng chữ cô đọng mà đầy đủ của Thủ tướng Phạm Văn Đồng, nói trực tiếp về vấn đề này: “Phát hiện một nền văn hóa lâu đời hơn văn hóa Đông Sơn, sản sinh trên đất nước ta, cùng với văn hóa Đông Sơn hình thành một sự diễn biến văn hóa và lịch sử liên tục từ khoảng cuối thời đại đồ đá mới, qua thời đại đồ đồng đến thời đại đồ sắt sớm” (2).

(2) Phạm Văn Đồng: Nhân ngày Giỗ tổ Vua Hùng, - Khảo cổ học, Hà Nội, số 1, tháng 6-1969, tra. 17.

Đối với những nền văn hóa với ý nghĩa như thế, những người làm công tác khảo cổ đã cố gắng tiến hành nhiệm vụ đầu tiên của mình là xác định niên đại.

Có nhiều người, từ năm 1960 cho tới bây giờ (3), đã đoán định niên đại tuyệt đối cho văn hóa Phùng Nguyên là khoảng thiên niên kỷ thứ 2 trước Công nguyên, cách ngày nay khoảng từ 3 đến 4 nghìn năm. Những kết quả phân tích các bon phóng xạ đồng vị (C14) mới đây đã góp phần xác nhận rằng điều đoán định này căn bản là chính xác.

(3) Đào Tử Khải (ý kiến đầu tiên), Nguyễn Linh, Hoàng Xuân Chinh, Trần Quốc Vượng, Lê Văn Lan…

Cũng có nhiều người làm công tác khảo cổ, ngay từ năm 1961 cho đến bây giờ (1) đã xác định niên đại tuyệt đối của văn hóa Đông Sơn là khoảng thiên niên kỷ thứ 1 trước Công nguyên, cách ngày nay khoảng từ 2 đến 3 nghìn năm.

(1) Lê Văn Lan (ý kiến đầu tiên), Nguyễn Linh, Hà Văn Tấn, Trần Quốc Vượng, Đào Duy Anh…

Với tính chất và ý nghĩa quan trọng của “một sự diễn biến văn hóa và lịch sử liên tục”, chúng ta có một khoảng thời gian liền hai thiên niên kỷ, từ Phùng Nguyên đến Đông Sơn, cách đây từ 4 đến 2 nghìn năm. Như đã trình bày ở trên, giới khảo cổ học nói chung thống nhất nhận thấy rằng từ Phùng Nguyên đến Đông Sơn là cơ sở khảo cổ học của “thời Hùng Vương”.

Vậy là, khảo cổ học, bằng những phương pháp của “một khoa học, gần như khoa học chính xác” đã đầu tiên xác định được một khung niên đại chắc chắn cho “thời Hùng Vương”. Khung niên đại này phù hợp, đúng hơn là trùng hợp, rõ hơn là ngẫu nhiên trùng hợp với khung niên đại phổ biến của thư tịch – khung niên đại còn mang nhiều nghi vấn, mà vì những lí do vừa trình bày ở trên, đã truyền lan rộng rãi từ trước tới nay về “thời Hùng Vương”. Một ý nghĩa rất đáng ghi nhận ở chỗ này là: nếu có thể nói đến một đóng góp, thì chính là khảo cổ học, bằng những thành tựu mới của mình, đã đem lại cái bộ xương, cái nền tảng khoa học cho những cách nhận thức và những tình cảm của chúng ta về niên đại lâu đời của “thời Hùng Vương”.

*

* *

Nhìn vào Phùng Nguyên với hiện trạng tư liệu như bây giờ về diện phân bố các di tích và các mặt phát triển kỹ thuật, kinh tế, văn hóa…, có thể nghĩ đến một cái mầm. Để cho cái mầm quý này nảy nở và mọc lên xanh tốt, những cư dân cổ ở đây đã phải mất khoảng 1000 năm lao động và đấu tranh. Và kết quả là những tiền đề cơ bản và trực tiếp đã được tạo ra cho một cái gốc vững vàng. Cảm nghĩ về cái gốc kỳ diệu này dễ dàng nảy ra khi nhìn vào Đông Sơn.

Từ lâu và nhiều người đã nói vê Đông Sơn. Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã đánh giá chính xác sự “nổi tiếng thế giới” của văn hóa này, kèm với lời biểu dương công tác khảo cổ thời gian gần đây đã “làm thêm rực rỡ” nền văn hóa đó. Và không phải ngẫu nhiên mà các nhà nghiên cứu chúng ta đã tập trung khai thác tư liệu về mọi mặt của văn hóa này để nghiên cứu về “thời Hùng Vương”. Việc đã hình thành một hệ thống các luận điểm về các mặt tự nhiên, con người, kinh tế, chính trị và nhất là văn hóa, xã hội của “thời Hùng Vương” dựa trên những tư liệu của Đông Sơn như hiện nay, cho thấy dường như rất đông đảo các nhà nghiên cứu đã mặc nhiên coi Đông Sơn là cơ sở khảo cổ học của bước phát triển đáng chú ý nhất của tòan bộ “thời Hùng Vương”, nếu không phải là chính ngay thời Hùng Vương – hiểu với nghĩa cụ thể, không mở rộng, của từ này.

Niên đại của văn hóa Đông Sơn đã được xác định là khỏang thiên niên kỷ thứ 1 trước Công nguyên, và bước phát triển cao nhất của bước văn hóa này là những thế kỷ giữa thiên niên kỷ đó. Chính ở đây đã có sự không thể gọi là “trùng hợp ngẫu nhiên” nữa mà phải gọi đúng là sự ăn khớp kỳ lạ giữa tài liệu khảo cổ học và tài liệu thư tịch. Như đã nói trên, Đại Việt sử lược đã chép về sự xuất hiện của các Vua Hùng, sự thành lập nước Văn Lang với những khẳng định về niên đại tuyệt đối là từ thế kỷ thứ 7 đến thế kỷ thứ 3 trước Công Nguyên.

Một cái gốc vững vàng đã hình thành để rồi chồi cây có thể mọc tiếp lên (1). Thời kỳ nước Âu Lạc và An Dương Vương cùng với những cuộc đấu tranh của nhân dân ta chống sự xâm lược và thống trị của nhà Triệu, nhà Hán, cho đến thời Hai Bà Trưng, đã được ghi chính thức trên sử sách giấy tờ từ lâu rồi. Ở bước phát triển này của lịch sử, chỉ có những Vua Hùng cụ thể là không thấy nữa, nhưng “thời Hùng Vương” với toàn bộ cấu trúc của nó vẫn còn. Khảo cổ học cũng cho thấy từ thế kỷ thứ 2 trước Công nguyên đến đầu Công nguyên, văn hóa Đông Sơn đang tồn tại ở bước phát triển cuối cùng.

(1) Đỗ Văn Ninh: Chồi Âu Lạc mọc từ gốc Văn Lang – Khảo cổ học, Hà Nội, số 3-4, tháng 12-1969, tr. 89.

Thế kỷ thứ 1 sau Công nguyên là niên đại báo hết của văn hóa Đông Sơn, đồng thời cũng là lúc mà cuộc khởi nghĩa và kháng chiến oanh liệt do Hai Bà Trưng lãnh đạo bị dìm trong máu. Cái chồi cây đến đây bị chém gãy, nhưng cũng chính từ đây, những hạt quả, rễ mầm, và ngay cái chồi của nó, cắm trở lại vào đất tổ, đã đối chọi với những thử thách khốc liệt để rồi lại vượt lên ngay trên gốc cũ, cả một rừng cây xanh tốt như đang thấy ngày nay.

Hình tượng về cái – cây – quý – Hùng Vương như vừa trình bày không có gì khác hơn là nhằm hình dung ra các bước phát triển của “thời Hùng Vương” từ mầm đến ngọn, từ đầu đến cuối của khoảng thời gian hai thiên niên kỷ trước Công nguyên, với bước phát triển quan trọng nhất là những thế kỷ giữa thiên niên kỷ thư 1 trước Công nguyên. Chúng tôi đã có lần dùng từ thời kỳ Hùng Vương (2) để mệnh danh cho bước phát triển quan trọng nhất này, so với các tên gọi thời kỳ tiền Hùng Vương và thời kỳ hậu Hùng Vương, mệnh danh một cách ước lệ cho các bước phát triển trước và sau của nó, gắn bó hữu cơ trong một chỉnh thể.

(2) Hiểu với nghĩa chặt chẽ và cụ thể từ: có thể có những Vua Hùng thật sự ở thời này, bởi nếu tính kỹ vào con số 18 đời vua của truyền thuyết thì cũng thấy họ vừa đủ sống trong khoảng thời gian mấy thế kỷ này.

Chỉnh thể đó chính là một thời đại, gồm nhiều thời kỳ, hết sức quan trọng của lịch sử nước ta, có nội dung là sự tan rã xã hội nguyên thủy và sự xuất hiện xã hội có giai cấp đầu tiên, là sự hình thành và tập hợp những mầm mống của dân tộc, là sự phát hiện và khẳng định con đường vượt qua những thử thách quyết liệt, là sự xây dựng vẻ cao đẹp của nền văn minh đầu tiên mang tính dân tộc của chúng ta ở miềng Đông Nam Á.

Chính Hồ Chủ tịch kính yêu là người đầu tiên đã, bằng ngôn ngữ đặc sắc của Người, gợi lên bản chất và cả tên gọi nữa của thời đại này, qua câu nói đã trở thành tiêu đề cho nhiều trường hợp và sự kiện: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Có lẽ đồng chí Nguyễn Khánh Tòan đã từ chỗ này mà đề nghị tạm gọi bằng một tên chung là “thời đại bắt đầu dựng nước và giữ nước” (1) cho “thời Hùng Vương” mà có lúc chúng tôi đã mệnh danh cho phổ cập là “thời đại các Vua Hùng”, và các nhà nghiên cứu khác thì gọi tên như các cách mà chúng tôi đã giới thiệu ở trên.

(1) Nguyễn Khánh Toàn: Vài gợi ý về việc biên sọan cuốn sử Việt Nam – Khảo cổ học, Hà Nội

Trở lại với chuyện chữ và nghĩa, chúng tôi muốn một lần nữa nhắc đến những ý kiến của Thủ tướng Phạm Văn Đồng ở Hội nghị lần thứ nhất nghiên cứu thời Hùng Vương năm 1968. Thủ tướng đã thận trọng “suy nghĩ không biết nên dùng tiếng “thời đại” hay “thời kỳ”, tuy vẫn cho rằng “những vấn đề này không quan trọng”. Lý do cân nhắc của Thủ tướng tức là “dùng “thời đại” thì nó có ý nghĩa và nội dung, về thực chất của cái thời gian đó” mà “về cái khoảng thời gian đó, ta chưa biết rõ nó ra sao mà gọi nó là “thời đại”.

Sau ba năm tập trung tìm tòi, suy nghĩ, những người làm công tác khoa học, như đã thấy, đã không chỉ khẳng định được rằng “thời Hùng Vương” là có thực, mà còn có thể bước đầu hiểu được một số điều về thời đó. Vì vậy mà có lẽ bây giờ, nếu chúng ta dùng thuật ngữ khoa học là “thời đại dựng nước và giữ nước đầu tiên” song song với cái tên “thời Hùng Vương”, và để cho cái tên này chủ yếu dùng trong các trường hợp phổ cập, thì chúng tôi nghĩ rằng đây cũng là một cách để những nhà nghiên cứu báo cáo với đồng chí Thủ tướng kính mến, với các đồng chí và bạn bè về những thành tựu bước đầu, sau ba năm nỗ lực làm việc của chúng ta, về một thời đại có ý nghĩa hết sức trọng đại của lịch sử dân tộc Việt Nam ta.

Ủy ban khoa học xã hội Việt Nam - Viện khảo cổ học

Share this post


Link to post
Share on other sites

ẤN TƯỢNG ĐỂ LẠI CỦA GIÁO SƯ LÊ VĂN LAN TRONG TÔI.

Chuyện giải trí thư giãn giữa giờ.

Kính thưa quí zdị phó thường dân như tôi và các bà nội trợ khà kính.

Với chức danh cao quý "Phó thường dân dự khuyết hạng hai Nam Bộ", được vợ trân trọng gọi bằng anh và các con gọi bằng bố như tôi thì tôi chưa có dịp làm quen và thật sự chưa quan tâm đến nhà sử học Lê Văn Lan. Tôi cũng chưa có tư liệu văn bản và các di vật khảo cổ nào để chứng minh một cách pha học sự liên hệ giữa ông Lê Văn Lan 1974 - tác giả bài viết trên - với Giáo sư sử học Lê Văn Lan ngồi ghế giám khảo trong chương trình "Đường lên đỉnh Olimpia" của nhà đài VTV3. Bởi vậy nhân danh tinh thần "pha học" được hầu hết những nhà khoa học trong nước và cộng đồng khoa học quốc tế thừa nhận là "phải rửa tay trước khi ăn cơm"; "không uống nước lã, không ăn quả xanh" thì tôi chưa thể kết luận gì về mối liên hệ giữa Lê Văn Lan 1974 trong bài viết nói trên và Giáo sư sử học Lê Văn Lan trên tàng hình VTV3. Đó chính là tính thận trọng trong pha học.

Bởi vậy, tôi phải nói lại cho rõ là tôi chỉ ấn tượng với hình ảnh của giáo sư Lê Văn Lan trong chương trình VTV3 mà thôi.

Kính thưa quí zdị phó thường dân như tôi và các bà nội trợ khà kính.

Có lẽ tôi cần phải nhắc lại hình ảnh rất ấn tượng về vị giáo sư này trên tàng hình VTV3. Hôm ấy, người dẫn chương trình - được gọi là cô giáo - hỏi một thí sinh là một cậu học trò với câu hỏi rất phổ thông:

- Ai là vị vua nữ đầu tiên ở Việt Nam?

thằng bé ngây ngô trả lời:

- Hai Bà Trưng.

Cô giáo quay lại hỏi ban giám khảo:

- Thưa giáo sư! Câu trả lời của em có đúng không ạ?

Giáo sư Lê Văn Lan trả lời:

- Sai! Hai Bà Trưng là Vương chứ không phải là vua! Người nữ đầu tiên là vua trong lịch sử Việt Nam là Lý Chiêu Hoàng.

Lạy Chúa! Thề có Thánh Ala! Nếu không có mặt bà vợ vĩ đại của tôi ngồi cạnh với bộ mặt lạnh như tiền mà tôi có trách nhiệm phải tôn trọng thì tôi đã nhảy dựng để gào lên: "Láo toét!".

Kính thưa các bà nội trợ khả kính.

Kinh thưa quí zdị.

Vâng! Đấy là lý do duy nhất mà tôi đã im lặng khi xem chương trinh này và ấm ức đến ngày hôm nay. Đấy cũng chính là "ấn tượng để lại của giáo sư Lê Văn Lan trong tôi".

Nhưng đến ngày hôm nay, khi "bốt" bài này của tác giả Lê Văn Lan cách đây vài phút, nên tôi có dịp xem kỹ hơn bài viết này thì lại thấy chính cái nhà ông Lê Văn Lan 1974 thừa nhận "Vương là vua"(?). Không tin xin quí zdị và các bà nội trợ khả kính xem lại dòng này:

Từ Vương (Vua) trong Hùng Vương (Vua Hùng) có nghĩa ấy, mà từ Hùng cũng có nghĩa ấy.

Zdâng! Thưa quí zdị. Vậy khái niệm "Vương - vua" được chính tác giả Lê Văn Lan xác nhận không chỉ một lần trong bài viết trên và được cơ quan có thẩm quyền chức năng là Ủy Ban Khoa học xã hội với Viện Khảo cổ học chính thức đăng tải - in thành sách hẳn hoi - với cách hiểu "Vương không phải là vua" - mà Hoàng mới là vua - của Giáo sư sử học Lê Văn Lan trong một trò giải trí của trẻ em cấp I ở chương trình "Đường lên đỉnh Olimpia" thì cái nào nên tin với hai người trùng tên? Và tôi cũng xin lưu ý để các quí bà cân nhắc giữa một cơ quan chức năng nhưng tác giả không chức danh với một trò chơi trẻ em nhưng lại được một giáo sư sử học bảo chứng.

Kính thưa các quí bà nội trợ khả kính.

Để giải quyết vấn đề này, chúng ta phải giải quyết một tồn nghi lịch sử:

* Lê Văn Lan tác giả bài viết và giáo sư sử học Lê Văn Lan trong chương trình VTV3 có phải là một người duy nhất hay không? Khi chúng ta chưa có văn bản tư liệu hoặc di vật khảo cổ chứng minh.

Dù các quí bà ở bất cứ thành phần nào trong xã hội và không phân biệt giai cấp, tôn giáo, đang bán ve chai đồ nát hay đang dắt chó tập thể dục mỗi buổi sáng ngoài công viên thì Thiên Sứ tui hy vọng với trí tuệ tập thể cùa các quí bà sẽ có nhận định sáng suốt để chúng ta có thể quyết định vấn đề.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Quí vị quan tâm thân mến

Bài viết này của ông Lê Văn Lan với chủ đề được xác định ngay từ cái tựa - Về khái niệm thời Hùng Vương. Nhưng tại sao Thiên Sứ tôi lại xếp vào loại" Những luận điểm phủ nhận văn hóa sử truyền thống Việt? Xin quý vị theo dõi bài phân tích phản biện dưới đây:

PHÂN TÍCH BÀI VIẾT CỦA ÔNG LÊ VĂN LAN

Về khái niệm thời Hùng Vương

Kính thưa quí vị quan tâm.

Có thể nói rằng: Truyền thống văn hóa sử Việt Nam đã khẳng định dân tộc Việt là một quốc gia văn hiến, mà thời lập quốc bắt đầu từ thời Hùng Vương. Khoa lịch sử hiện đại qui định rằng:

Lịch sử của một dân tộc được xác định từ thời điểm dân tộc đó lập quốc.

.

Như vậy, kể từ khi chưa hề tiếp xúc với những qui ước của lịch sử hiện đại, từ ngàn xưa ông cha ta đã khẳng định: Quốc gia Văn Lang là quốc gia đầu tiên của dân tộc Việt: Bắc giáp Động Đình Hồ, Nam Giáp Hồ Tôn, Tây giáp Ba Thục, Đông giáp Đông Hải. Tất nhiên khi qui ước của lịch sử hiện đại thành lập thì lịch sử dân tộc Việt phải bắt đầu từ thời Hùng Vương - theo chính sử ghi lại thì bắt đầu từ 2879 BC - đến nay trải gần 5000 năm và là một quốc gia văn hiến. Nhưng nhiều nhà nghiên cứu cổ sử hiện nay đã xét lại truyền thống lịch sử đó và dẫn tới phủ nhận những giá trị văn hóa sử truyền thống của dân tộc Việt. Chúng ta có thể thấy rõ điều này ngay lời mở đầu bài viết của ông Lê Văn Lan.Ông Lê Văn Lan viết ngay từ lời mở đầu bài viết của ông ta như sau:

Thế nào và lúc nào là thời Hùng Vương?

Thời gian vừa qua, các nhà nghiên cứu, mặc dù đã có nhiều suy nghĩ, nhưng chưa có dịp trực tiếp bàn bạc nhiều về vấn đề này, mà thường chỉ qua cách gọi tên cho quãng thời gian mà mình nghiên cứu, vắn tắt gọi quan điểm của mình, gián tiếp nói quan điểm của mình. Tẩn mẩn sa vào chuyện chữ nghĩa, chúng tôi đã thử thu nhặt những từ mà các nhà nghiên cứu đã chọn dùng để mệnh danh cho quãng thời gian lịch sử mà mình nghiên cứu.

Và kết quả là thấy xuất hiện khá nhiều cách mệnh danh khác nhau: thời đại Hùng Vương, thời kỳ Hùng Vương, giai đoạn Hùng Vương, thời kỳ Hùng Vương – An Dương Vương, thời kỳ Hùng Vương và An Dương Vương… Dĩ nhiên, như vừa trình bày, vì chưa có sự bàn bạc, càng chưa có sự quy định cụ thể, nên không thể có sự thống nhất chặt chẽ.

Cho nên, có thể dễ dàng thông cảm với một số nhà nghiên cứu đã chọn lấy một cách mệnh danh khá chung chung là “thời Hùng Vương”, với chữ “thời” thật là “cơ động” trong các công trình của mình.

*

Qua đoạn trích dẫn phần mở đầu bài viết trên của ông Lê Văn Lan, chúng ta đã thấy rất rõ rằng: Ông Lê Văn Lan đã đặt lại cội nguồn truyền thống lịch sử văn hiến Việt đã được ghi nhận trong chính sử qua câu: "Thế nào và lúc nào là thời Hùng Vương", khi mà chính sử đã ghi rõ như tôi đã trình bày ở trên. Nếu chúng ta tạm chưa xét tới những mối tương quan hình thái ý thức xã hội với dân tộc như: Văn hóa truyền thống, tâm linh, đạo lý dân tộc...và chỉ bàn đến khoa học thuần túy thì có thể nói ông Lê Văn Lan có quyền đặt vấn đề như vậy. Hay nói một cách khác - Ông Lê Văn Lan nhân danh khoa học để hoài nghi về sự tồn tại của thời đại lập quốc của dân tộc Việt. Tức là xét lại toàn bộ lịch sử hình thành dân tộc Việt. Tôi xin nhắc lại tiêu chí của lịch sử cho lịch sử của một dân tộc là:

Lịch sử của một dân tộc được xác định từ thời điểm dân tộc đó lập quốc.

Bởi vậy, khi đặt vấn đề "Thế nào và lúc nào là thời Hùng Vương" tức là trên thực tế ông Lê Văn Lan và những người đồng quan điểm với ông đã đặt lại vấn đề:

Lịch sử dân tộc Việt bắt đầu từ bao giờ?

Và như vậy sẽ phải viết lại truyền thống lịch sử - văn hóa Việt. Ông ta sẽ không thể nhân danh truyền thống văn hóa sử Việt để đạt vấn đề như vậy. Vì nền văn hóa sử truyền thống Việt thừa nhận thời Hùng Vương là vương triều lập quốc đầu tiên của dân tộc Việt. Ông ta cũng không thể nhân danh những giá trị đạo lý của dân tộc Việt vì những giá trị đó không cho phép phủ nhận cội nguồn dân tộc...vv...Ông ta phải nhân danh khoa học để như là một cứu cánh cho vấn đề ông đặt ra - Nhưng khi ông Lê Văn Lan và những người đồng quan điểm với ông nhân danh là khoa học thì chính tiêu chí khoa học lại buộc ông ta với những người đồng quan điểm với ông phải chứng minh điều đó - khi ông ta đặt vấn đề: "Thế nào và lúc nào là thời Hùng Vương?".

Có thể nói rằng: Tất cả những luận điểm phủ nhận cội nguồn truyền thống văn hóa sử của dân tộc Việt đều nhân danh khoa học như một cứu cánh cho vấn đề đặt ra. Họ cho rằng: Quan điểm của họ được "Hầu hết những nhà khoa học trong nước" và được "cộng đồng khoa học thế giới thừa nhận" (1) như là một bằng chứng cho tính chân lý thuộc về họ. Nhưng rất tiếc! Chân lý Khoa học không lệ thuộc vào số đông. Có thể khẳng định rằng: Tất cả những luận cứ của họ không vượt qua được chính vấn đề họ hoài nghi và đặt ra. Những luận cứ của họ rời rạc, không nhất quán. Người thì bảo thời Hùng Vương là "liên minh 15 bộ lạc", người bảo là "thời Hùng Vương là nhà nước sơ khai"; kẻ bảo thời Hùng Vương từ thế kỷ thứ VII BC, kẻ bảo thứ IX BC.... cũng cãi nhau, cũng tranh luận, nhưng không thể nhất quán. Và đây là điều kiện cần đầu tiên trong tiêu chí khoa học cho một giả thuyết nhân danh khoa học. Hay nói cách khác: Họ không minh chứng được cho giả thuyết của họ.

Có thể nói rằng: Chỉ cần như vậy thôi thì họ không có quyền gì phủ nhận những giá trị văn hóa sử truyền thống của dân tộc Việt trải gần 5000 năm văn hiến nhân danh khoa học và chưa cần phải phản biện khoa học. Nhưng rất tiếc! Cái gọi là nhân danh khoa học - mà chưa hề mang tính khoa học - lại được phổ biến đến mức xuất hiện cả trong sách giáo khoa và gần đây - Theo VnExpress - còn ra tận Đài Loan trong cuộc thi hình thể nam và xác định trước cộng đồng quốc tế rằng: "Ở trần đóng khố" là trang phục truyền thống của dân tộc Việt!

Bởi vậy, Thiên Sứ tôi chẳng quản tài hèn tập hợp một số bài viết của những người gọi là học giả trong số "Hầu hết những nhà khoa học trong nước" để chỉ ra nhưng sai lầm của họ. Thiên Sứ tôi cũng xin lưu ý quí vị độc giả rằng: Tôi cũng chỉ nhân danh khoa học trên cơ sở tiêu chí khoa học cho một giả thuyết khoa học và không nhân danh bất cứ một điều kiện nào khác.

Chân lý khoa học là khách quan và không phụ thuộc vào bất cứ một dân tộc và quốc gia nào.

Trên cơ sở này, tôi xin tiếp tục phân tích và phản biện bài viết của ông Lê Văn Lan.

Còn tiếp

Share this post


Link to post
Share on other sites

Kính thưa quí vị quan tâm.

Khi đặt lại vấn đề hoài nghi về sự tồn tại của thời Hùng Vương tức là đặt lại thời điểm lập quốc của dân tộc Việt. Nếu nhân danh tính khách quan khoa học thì có thể đặt lại vấn đề này. Nhưng cũng nhân danh tính khách quan khoa học thì những vấn đề được đặt ra cần phải chứng minh. Chúng ta ta xem ông Lê Văn lan chứng minh như thế nào?

Ông Lê Văn lan đặt vấn đề:

Một số không ít tác giả đã cho rằng cách dùng tên Hùng Vương để mệnh danh cho một thời gian lịch sử, với nội dung là toàn bộ “thời đại dựng nước và giữ nước đầu tiên” (1) là một cách gọi tên truyền thống, bây giờ chỉ việc dùng lại. Và cũng không ít người cho rằng cái quan niệm 4000 năm về niên đại của “thời Hùng Vương” như thế cũng là một quan niệm cổ truyền của nhân dân.

(1) Thuật ngữ của đồng chí Nguyễn Khánh Toàn. Chúng tôi tán thành cách dùng.

Đúng là trên thực tế truyền thống văn hóa sử Việt lưu truyền lại cho con cháu đời sau về một thời đại Hùng Vương - với quốc gia Văn Lang khởi nguyên của dân tộc Việt. Nhưng cũng truyền thống văn hóa sử đó cũng lưu truyền rằng: "Dân tộc Việt có hơn 1000 năm đô hộ của Bắc phương" và cũng không thể phủ nhận điều này. Và chính điều này giải thích vì sao có sự thất truyền của chính sử Việt trước thời Bắc thuộc. Một ngàn năm - đó không phải con số để đọc trong một giây - khi mà mới chỉ đến thứ hệ thứ ba của người Việt ở hải ngoại thì con dân Việt tộc có thể đã nói tiếng Việt không rành , nếu như không được tiếp tục học tiếng Việt trong mối liên hệ văn hóa Việt. Bởi vậy cách đặt vấn đề riêng rẽ về Thời Hùng Vương qua truyền thống, mà không khái quát luôn thời Bắc thuộc trải hàng ngàn năm là cách đặt vấn đề một chiều và không khách quan, khi chỉ đưa ra một hiện tượng hoài nghi duy nhất về thời đại Hùng Vương, mà không đặt vấn đề về nguyên nhân thất truyền của chính sử thời Hùng cũng do truyền thuyết văn hóa sử ghi nhận.

Trong hoàn cảnh lịch sử năm 1974 trước những học giả bậc thày như Nguyễn Khánh Toàn - ông Lê Văn Lan vẫn phải thừa nhận trong phần chú thích: Thời Hùng Vương là “thời đại dựng nước và giữ nước đầu tiên” - Nhưng ông ta lại phủ nhận gía trị nội dung của thời đại các vua Hùng với quốc gia Văn Lang. Chúng ta xem tiếp nhưng đoạn sau đây chứng tỏ điều này:

Ngẫm kỹ lại thì dường như không hẳn như thế. Chúng ta biết rằng cách tính tháng năm của thời gian lịch sử, phổ biến trong nhân dân thành một truyền thống, là cách tính theo đời, thậm chí cũng không thật cụ thể và chính xác đến con số của đời nữa (2), và ký ức dân gian về cổ sử, thường cũng chỉ tính theo các khái niệm: cổ, rất cổ, thượng cổ…, chứ không mấy khi tính cụ thể đến con số mấy trăm, mấy nghìn năm. Lối ghi nhớ thời gian có tính chất truyền thống dân gian như thế này, một ghi được văn bản phản ánh và ghi giữ, như trường hợp Lĩnh Nam chích quái chẳng hạn, cũng chỉ thấy áng thành một niên đại là “thời quốc sơ” mà thôi, chứ cũng không có con số tháng năm cụ thể. Thấy nói đến số năm tháng cụ thể, chỉ có sử sách. Như ở Đại Việt sử ký toàn thư chẳng hạn, dù Ngô Sĩ Liên đã theo công thức cổ của sử bút phong kiến, mà tính kỹ rằng quốc sử phần bản kỷ, đến đầu nhà Lê là 1634 năm, và ngoại kỷ, cộng 2672 năm, thì cũng chỏ mới gián tiếp gợi lên con số tháng năm chỉ “thời Hùng Vương, chứ chưa tạo nên một lối tính niên đại có giá trị cụ thể và phổ biến. Cho nên, những thơ văn vào loại cổ - thế kỷ thứ 15, thứ 17 chẳng hạn – đề vịnh Hùng Vương, cũng không thấy có việc tính toán đến con số cụ thể của sự lâu đời. Chỉ đến đầu thế kỷ này, với các tác giả như Hoàng Đức Trung, Nguyễn Đình Chuẩn, Lê Hữu Viện… và đặc biệt là Nguyễn Thuận Kế (3), mới thấy phổ biến sự tính toán cụ thể đến con số như “mấy nghìn năm trước” hoặc là “hai nghìn năm lẻ”, “hai nghìn năm sáu trăm năm có lẻ”, và rồi là “nước bốn nghìn năm” (4). (Những con số này hẳn là dựa vào việc phát hiện lại niên điểm Nhâm Tuất 2879 trước Công Nguyên và sự gợi ý về cách tính niên đại từ thời Ngô Sĩ Liên. Chúng tôi ngờ rằng, theo những tài liệu đang nắm được như bây giờ, thì lối tính niên đại bốn nghìn năm cho “thời Hùng Vương” (5) có lẽ chỉ mới phổ biến vào thời gian đầu thế kỷ này, và cùng chung cái đà với các tác giả này. Đó là những điều kiện mới của trào lưu và sự chuyển hóa tư tưởng, văn hóa đầu thế kỷ 20 đặc biệt là sự phát triển của “tân thư”, “tân học”, “toán pháp” cùng với chủ nghĩa yêu nước đầu thế kỷ 20. Phổ biến mới từ đây, nhưng trong hoàn cảnh đấu tranh lấy lại nước bị mất, vì phù hợp và có lợi trước hết là cho những người yêu nước và cách mạng, rồi đến quảng đại quần chúng nhân dân, nên cách tính niên đại mở nước này mới nhanh chóng truyền bá đi, cho tới chúng ta ngày nay.

(2) “Việc ấy dễ đã đến mấy đời”, “Việc ấy đã có từ trước ông cụ mấy đời nhà tôi” – Chúng ta vẫn thường nghe nói thế trong dân gian.

(3) Với vế câu đối “Gây dựng trời Nam, nước bốn nghìn năm, nhà có nóc”.

(4) Xem thêm Lê Tư Lành: Văn thơ đề Vịnh đền Hùng – Khảo cổ học, Hà Nội, số 3-4, tháng 12-1969.

(5) Xin chú ý phân biệt lối tính cụ thể này với quan niệm hoàn toàn đúng đắn của nhân dân ta về sự lâu đời nói chung của thời Hùng Vương.

Qua đoạn trích dẫn trên, chúng ta cũng thấy rằng:

Ông Lê Văn Lan chưa đưa được chứng lý nào để phủ nhận "thời đại Hùng Vương - thời đại dựng nước và giữ nước đầu tiên của dân tộc Việt". Mà ông ta chỉ đặt vấn đề hoài nghi rất lập lờ. Chúng ta xem lại đoạn trích dẫn sau đây:

Chúng tôi ngờ rằng, theo những tài liệu đang nắm được như bây giờ, thì lối tính niên đại bốn nghìn năm cho “thời Hùng Vương” (5) có lẽ chỉ mới phổ biến vào thời gian đầu thế kỷ này, và cùng chung cái đà với các tác giả này.

Điều này không có gì phải nghi ngờ cả - mà nó rõ như ban ngày. Tất nhiên chỉ đến thế kỷ XV thì lịch sử dân tộc Việt mới đủ thời gian để viết rằng: Lịch sử Việt trải 4000 năm và khái niệm hơn 4000 năm lịch sử mới được nhắc tới vào đầu thế kỷ XX. Chứ không lẽ dân tộc Việt nói sử Việt hơn 4000 năm từ thời Đinh và Tiền Lê? Cũng như phải cho đến ngày nay Thiên Sứ tôi với mạnh dạn nói rằng: Lịch sử văn hiến Việt trải gần 5000 năm. Mặc dù vẫn cùng dựa vào thời điểm lập quốc của dân tộc Việt do chính sử ghi nhận: Quốc gia Văn Lang - nhà nước đầu tiên của dân tộc Việt - dưới sự trị vì của các Vua Hùng thành lập ở thời điểm năm 2879 BC. Mọi việc rõ ràng như vậy, nhưng ông Lê Văn Lan vẫn lập lờ cho sự hoài nghi của ông để dẫn đến phủ nhận truyền thống văn hóa sử Việt. Cách viết của ông Lê Văn Lan không khác gì bảo rằng:"Tôi ngờ rằng bố mẹ thằng bé này nói nó lên 10 tuổi chỉ khi nó lên mười tuổi".

Trên cơ sở hoài nghi chủ quan và không căn cứ khoa học này - mà tôi đã chứng minh ở trên qua phần trích dẫn về thời điểm lập quốc - ông ta đặt lại vấn đề về nội dung khái niệm về Vua Hùng - người đứng đầu nhà nước Văn Lang - quốc gia khởi nguyên của dân tộc Việt. Ông Lê Văn Lan viết:

Cái tên Hùng Vương đang quen dùng với ý nghĩa hiện nay, cũng có vấn đề tương tự như thế. Hùng Vương có thể là một ông vua, những ông vua thực, nếu chúng ta biết tách rời cái khái niệm về ông vua thời phong kiến ra khỏi cái tên gọi “vua” đã được phóng từ đấy ngược lên thời Hùng Vương. Vương, Vua – Bua, Bô, Bố, những cái tên gọi đánh dấu từng chặng đường phát triển của khái niệm ấy, mặc dù cũng có lúc thấy được kết ngang lại với nhau, như ở thế kỷ 8 (6), nhưng, theo kết cấu về thực chất là chiều dọc của các chặng đường ngôn ngữ này mà lần lượt lên đến “thời Hùng Vương”, sẽ thấy rõ khái niệm “vua” trùng với “bố”: người đứng đầu một cộng đồng. Sách Lĩnh Nam chích quái cho chúng ta biết rằng người thời Hùng Vương, mỗi khi gặp khó khăn thì dùng tiếng “bố” để gọi người đứng đầu của mình cứu giúp.

(6) Trong trường hợp “Bố Cái đại vương”.

Từ Vương (Vua) trong Hùng Vương (Vua Hùng) có nghĩa ấy, mà từ Hùng cũng có nghĩa ấy. Suốt mấy chục năm trước đây, và ở diễn đàn sử học Sài Gòn thì tới cả những năm gần đây, người ta đã dẫn toàn bộ công cuộc nghiên cứu thời đại dựng nước và giữ nước dầu tiên của dân tộc vào một ngõ cụt, ngay sau khi mở các cửa của các cuộc tranh luận về chữ Hùng, chữ Lạc. Không theo cái rớp ấy, mấy năm nay, các nhà nghiên cứu chúng ta đã mở những khoảng vấn đề rộng lớn, đồng thời, vẫn tạt qua, xem lại cái cửa cũ về chữ và nghĩa của cái tên Hùng. Dường như là Hùng, gọn lại cũng như Khun, Cun…, đều là tên gọi người đứng đầu một cộng đồng. Hùng Vương, danh hiệu đó, như vậy vừa là phiên âm, vừa là phiên dịch sang chữ Hán, cách gọi tên của những người Việt Nam thời cổ về người đứng đầu, những người đứng đầu của mình (1). Người đó, những người đó, chúng ta đã tìm được những dấu vết gián tiếp và đang hy vọng tìm được những dấu vết trực tiếp ở những di chỉ và mộ táng trên vùng đất Tổ Phong Châu (Văn Lang) cũ. Cần chú ý là trước khi đi được đến chỗ nhận thức về thực chất những người đó, như vừa trình bày, thì, một lớp mây mù và vàng son của truyền thuyết và thư tịch cổ đã trùm phủ lên những nhân vật ấy.

(1) Xem Trần Quốc Vượng: Về danh hiệu Hùng Vương – Khảo cổ học, Hà Nội, số 7-8, tháng 12-1970.

Nhưng bây giờ, hãy trở về cách dùng tên Hùng Vương để mệnh danh cho một thời gian lịch sử. Chúng tôi ngờ rằng, với khái niệm thời gian đang được hiểu là nội dung của các tên gọi “thời kỳ” – “thời đại” – “giai đoạn” Hùng Vương hoặc “Hùng Vương – An Dương Vương” như hiện nay, chúng ta đã thống nhất mở rộng cái khái niệm thời gian mà các nhà nghiên cứu trước đây đã hiểu về “thời Hùng Vương”. Mọi người đều biết, chính sử của ta, từ Đại Việt sử ký toàn thư trở đi, dù là đặt ở ngoại kỷ hay tiền biên, thì cũng đều mở đầu bằng một kỷ, gọi là kỷ Hồng Bàng thị. Chính trong cái kỷ đầu tiên dài đến hơn hai nghìn năm đó của quốc sử, nắm gọn một khúc thời gian là “thời Hùng Vương”. Người xưa, có đôi lúc lẫn cái “thời Hùng Vương” với cái kỷ Hồng Bàng kia (2), nhưng về cơ bản, “thời Hùng Vương” vẫn chỉ được coi là một phần sau của thời Hồng Bàng, thậm chí, có trường hợp còn được xác định rạch ròi tên gọi là “thời Á Hồng Bàng” như ở một câu đối cổ giữa Chùa Tổng, làng Tứ Xã (Vĩnh Phú) (3). Như thế, rõ ràng cái tên gọi “thời Hồng Bàng”, trước đây vẫn được hiểu là một thời lớn hơn, trùm lên “thời Hùng Vương”. Và cái “thời Hồng Bàng” đó mới là cái tên gọi của toàn bộ thời đại dựng nước vá giữ nước đầu tiên của chúng ta. Có thể thấy cái “truyền thống” gọi tên như thế vẫn tồn tại mãi cho đến năm 1967 (4). Còn việc dùng tên Hùng Vương để mệnh danh cho toàn bộ thợi đại dựng nước và giữ nước đầu tiên của lịch sử ta, dường như chỉ mới trở nên phổ biến trong vòng vài ba năm nay, do sự chuyển khái niệm, mở rộng nội dung, gần như là không tự giác của các nhà nghiên cứu bây giờ.

(2) Ví như các tác giả những bản thần phả thời Lê sơ, mà trong đó đã xác định được “vai trò quan trọng” của các nhà hàn lâm Nguyễn Bính, Nguyễn Cố, v.v… cố gắng tạo cho các vua Hùng những tuổi thọ hàng mấy trăm năm để khớp với cả cái thời Hồng Bàng mà chuyện gốc – cái niên điểm mở đầu: Nhâm Tuất 2879 – lại cũng do chính người cùng thời với họ tạo ra.

(3) “Thời Á Hồng Bàng, thiên dân hóa dân thành thịnh ấp”.

(4) Chẳng hạn như thấy ở lời kêu gọi: Nên nghiên cứu vấn đề thời đại Hồng Bàng của tạp chí Nghiên cứu lịch sử, cũng như ở Vài suy nghĩ về việc tìm hiểu thời đại Hồng Bàng của Nguyễn Linh.

Như vậy chúng ta đã thấy bắt đầu từ việc lập lờ trong cách đặt vấn đề hoài nghi niên đại thời Hùng Vương, ông ta đã cùng Trần Quốc Vượng đặt lại vấn đề người đứng đầu quốc gia để phủ nhân quốc gia đầu tiên của dân tộc Việt. Chúng ta xem lại những đoạn sau đây:

* "sẽ thấy rõ khái niệm “vua” trùng với “bố”: người đứng đầu một cộng đồng."

* Dường như là Hùng, gọn lại cũng như Khun, Cun…, đều là tên gọi người đứng đầu một cộng đồng. Hùng Vương, danh hiệu đó, như vậy vừa là phiên âm, vừa là phiên dịch sang chữ Hán, cách gọi tên của những người Việt Nam thời cổ về người đứng đầu, những người đứng đầu của mình (1).

Như vậy, chúng ta đã thấy rằng: Ông Lê Văn Lan đã mượn sự liên hệ chưa được minh chứng rõ ràng giữa những khái niệm về Hùng Vương với các khái niệm đơn giàn hơn để dẫn đến phủ nhân quốc gia đầu tiên với vị lãnh đạo tối cao Hùng Vương - xuống đồng với khái niệm thủ lĩnh địa phương và chỉ coi quốc gia Văn Lang - theo cách gọi của ông là - "một cộng đồng". Rõ ràng đây không phải là những luận cứ khoa học.

Trong những luận cứ ngây ngô này, ông Lê Văn Lan lặp lại một sai lầm toán học sơ đẳng của học sinh cấp một - mà tôi đã nhiều lần chứng minh trên các diễn đàn và ngay trong bài viết trước - trong topic này là - chúng ta xem lại đoạn sau đây trong phần trích dẫn trên:

* (2) Ví như các tác giả những bản thần phả thời Lê sơ, mà trong đó đã xác định được “vai trò quan trọng” của các nhà hàn lâm Nguyễn Bính, Nguyễn Cố, v.v… cố gắng tạo cho các vua Hùng những tuổi thọ hàng mấy trăm năm để khớp với cả cái thời Hồng Bàng mà chuyện gốc – cái niên điểm mở đầu: Nhâm Tuất 2879 – lại cũng do chính người cùng thời với họ tạo ra.

Để có cái mà những giáo sư - tiến sĩ sử học trong cái nhóm "hầu hết những nhà khoa học trong nước" thường nói đến tuổi thọ mấy trăm năm của các vua Hùng chính là họ đã chia con số 2622 năm cho con số 18 vị vua Hùng . Khi mà họ chưa chứng minh được thời Hùng Vương chỉ có 18 đời vua. Có thể nói rằng:

Cái luận cứ gọi là "khoa học" này lặp đi lặp lại từ những kẻ dốt nát tới những bằng cấp giáo sư thuộc về khối "Hầu hết những nhà khoa học trong nước" phủ nhận truyền thống văn hóa sử Việt. Nếu những lập luận này cứ trơ cái mặt thớt để được coi là "khoa học" thì toàn bộ cơ sở giáo trình toán học thế giới này phải bãi bỏ, khi mà số gà có thể trừ đi số vịt mà không cần qui đổi ra một đại lượng đồng đẳng.

Tóm lại, trong đoạn trích dẫn trên - chúng ta đã thấy rất rõ ông Lê Văn lan hoàn toàn không đưa được một bằng chứng xác đáng nào để minh chứng cho vấn đề được đặt ra từ sự hoài nghi của ông ta. Bởi vì chính sự hoài nghi đó đã không xuất phát từ một sự nhận thức toàn diện về truyền thuyết văn hóa sử Việt.

Kính thưa quí vị quan tâm.

Sự tồn tại khách quan của một thời đại - cụ thể là một vương triểu hiển hách và quốc gia Văn Lang - sẽ không thể chỉ là vấn đề được ghi nhận trong văn bản cổ - khi mà quốc gia đó đã sụp đổ từ hàng ngàn năm trước và dân tộc trong quốc gia đó bị đô hộ trải hàng ngàn năm. Cũng không thể coi di vật khảo cổ là bằng chứng duy nhất để minh chứng cho lịch sử được ghi nhận về biên giới của quốc gia Văn Lang cổ sơ với địa bàn cư trú hiện nay của Việt Tộc - khi lịch sử đã đầy những biến cố thăng trầm của Việt tộc. Nhưng nhà nước Văn Lang với triều đại của các vua Hùng - xác định thời điểm lịch sử của dân tộc đã là một thực tại tồn tại khách quan thì nó phải tồn tại với những dấu ấn của nó trên nhiều phương diện ngoài văn bản lịch sử dù bị hủy diệt với biến cổ lịch sử.

Thiên Sứ tôi cũng trân trong lưu ý quý vị quan tâm là tôi chỉ nhân danh khoa học để minh chứng lịch sử huyền vĩ trải gần 5000 năm của dân tộc Việt, ngoài ra không sử dụng phương pháp luận nào khác.

Sự phân tích phản biện bài viết của Lê Văn Lan còn tiếp tục.

Cảm ơn sự quan tâm của quí vị.

(Còn tiếp)

Share this post


Link to post
Share on other sites