Thiên Sứ

Lời Tiên Tri 2012

1.430 bài viết trong chủ đề này

9 lời tiên đoán cho nhân loại 100 năm tới

Posted Image

Hôn nhân đồng tính sẽ trở nên phổ biến hơn.

8. 80% các quốc gia trên thế giới sẽ chấp nhận hôn nhân đồng tính

Điều này là hiển nhiên khi mà hiện tại một số nước phương Tây đã chấp nhận điều này. Khi đó mỗi người đồng tính có thể lựa chọn người kết hôn với mình thoải mái, thậm chí là những người bình thường. Tuy nhiên tại một số khu vực, có thể điều này vẫn sẽ bị cấm do các quan niệm tôn giáo.

Khả năng xảy ra: 8/10

Theo Tùng Đinh. VTC News

Sự đồng tính là Ma Sự, nhân Đồng tính dẫn đến quả Liên Thể Anh (Liên là dính liền, Thể là Thân thể, Anh là anh nhi sơ sinh). Kiếp này có hiện tượng đồng tính thì kiếp sau dễ tái sinh sinh đôi, đầu dính liền nhau hoặc thân dính liền nhau. Cách giải thích này không phải không có lý. Ngoài ra sự chấp nhận hiện tượng đồng tính cũng ngầm để thế giới đồng tính tự thú giới tính của họ, ai chấp nhận thì đồng nghiệp, ai không chấp nhận thì biết mà tránh.

Tất nhiên, Ma sự đồng tính trái với Phật giáo và Đạo giáo, ngược với luân thường đạo lý.

Share this post


Link to post
Share on other sites

LỜI TIÊN TRI 2012

VIỆT NAM 2012

Phân tích dưới góc nhìn của Lý học

Khoa học kỹ thuật:

Trong tương lai xu hướng phát triển của thế giới sẽ hướng tới khai thác các tiềm năng của biển, như: lương thực biển, hải dương học, tài nguyên biển…

9 lời tiên đoán cho nhân loại 100 năm tới

Tuần trước chúng ta đã nhắc đến 10 điều dự đoán chính xác của một kỹ sư người Mỹ năm 1900 dành cho hiện tại; còn hôm nay chúng ta sẽ xem 9 điều dự đoán cho 100 năm tới.

Những tiên đoán thế kỷ thành sự thật

Sau khi 10 tiên đoán của kỹ sư Watkins người Mỹ biến thành sự thật, BBC đã có một cuộc tham khảo ý kiến độc giả để đưa ra những dự đoán về số phận con người trong 100 năm tới. Trải qua nhiều lần tổng kết, phân loại cùng với sự giúp đỡ của nhà nghiên cứu tương lai Pearson, BBC đã lọc ra được những dự đoán có xác suất cao nhất.

1. Đại dương sẽ trở thành một nông trại lớn không chỉ để nuôi cá

Đúng như vậy, tương lai cả thế giới sẽ có 10 tỉ người phải nuôi dưỡng và thiên nhiên trên mặt đất không theo kịp điều đó. Vì vậy đại dương sẽ là nơi canh tác mới với nhiều loại thực phẩm chứ không đơn giản là cá như hiện nay.

Một trong số đó là tảo và các loại rong biển, đây có thể là nguồn cung cấp thực phẩm quý giá và cũng có khả năng phục hồi các vùng nguyên liệu hóa thạch dưới đáy biển.

Khả năng xảy ra: 10/10

============================

Bởi vậy, cần có một chiến lược biển ngay từ bây giờ.

Share this post


Link to post
Share on other sites

LỜI TIÊN TRI

2011: Chứng khoán hết hơi.

2012: Chứng khoán lâm sàng.

Nên thay đổi nội dung trong mối quan hệ của thị trường chứng khoán. Sao cho nó là một kênh đầu tư thật sự, chứ không phải là chỗ để đầu cơ tiền tệ.

Ngôn từ dự báo chính thức của cá nhân tôi cho thị trường chứng khoán Việt Nam 2012 như sau:

Thị trường chứng khoán thoi thóp trong trạng thái chết lâm sàng

==========================

Dự cảm 1% cho chứng khoán năm 2012!

Tác giả: Việt Thắng

Bài đã được xuất bản: 17/01/2012 06:00 GMT+7

(VEF.VN) - Có lẽ phong trào "Chiếm phố Wall" trong năm 2011 với khẩu hiệu "Chúng ta là 99%" sẽ khó có thể hình dung ra cái xác suất 1% còn lại ở TTCK Việt Nam vào năm 2012. Khi đó, triết lý "Nhà nước không bỏ rơi thị trường nào cả" sẽ có thể được ứng nghiệm.

Thị trường đầu cơ sinh ra trong tận cùng bi quan

Không khí những ngày sát Tết Nhâm Thìn thật kỳ quặc. Đường phố dường như vắng vẻ hơn, nhịp điệu sinh hoạt cũng trở nên lãng đãng hơn. Còn các thị trường cũng bị lây vào cái không khí xao lãng ấy.

Tết năm nay, sự kỳ quặc nhất là chính thị trường được hy vọng nhất - hàng hóa tiêu dùng - lại ủ dột một cách khác thường. Tại nhiều trung tâm mua sắm, siêu thị, cửa hàng, lượng khách hàng có vẻ vẫn không nhỉnh hơn số nhân viên là bao nhiêu. Mãi đến ngày nghỉ tuần cuối cùng của năm, mới thấy không khí Tết hiển hiện ở những nơi này.

2011 có thể được xem là năm "suy thoái kép", tiếp sau thời khủng hoảng 2008. Hệ quả của năm qua là hàng tồn kho chất đống trong rất nhiều ngành nghề. Nhưng khác với đầu năm 2009, lần này lại chẳng thấy bóng dáng gói kích cầu nào. Cầu vì thế mà cũng gần như câm lặng. Bởi thế, chẳng có gì ngạc nhiên khi túi tiền của đa số bà con thường dân được đặt vào tình trạng "kiểm soát đặc biệt". Người ta đi vào siêu thị như một thói quen, nhưng chuyện mua sắm đã không còn theo cách truyền thống nữa.

Hai thị trường ngoại tệ và bất động sản còn tệ hơn thị trường hàng hóa nhiều. Riêng nhà đất thì gần như "không mua không bán". Vở kịch câm với các diễn viên dùng động tác thể hình hơn là thoại vẫn tiếp tục diễn ra. Thậm chí, diễn viên bất động sản còn không thể nhấc nổi cánh tay của mình lên để tạo nên một biểu đạt kêu cứu.

Posted Image

Chỉ còn lại hai thị trường vàng và chứng khoán là có "động đậy". Phải dùng đến từ ngữ ủ ê này là bởi dù có động đậy thì cũng như không, bởi thanh khoản giao dịch, chẳng khác mấy với "khó khăn thanh khoản" mà thống đốc Ngân hàng nhà nước mới đây đã nêu ra như một lý do hợp lý để chưa thể giảm lãi suất, lại chẳng có gì vui vẻ.

Vàng, vốn là diễn viên hoạt náo duy nhất trong năm 2011, đã được cho nghỉ ở phía sau hậu trường. Như một hiệu ứng không tránh khỏi của người diễn viên sau chuỗi ngày liên tục căng cứng cơ bắp, vàng cần được tĩnh dưỡng trong một thời gian dài. Vì thế, những ai quan tâm đến chuyện mua bán diễn viên này có lẽ sẽ hoài công. Kể cả những tay đầu cơ thượng thặng cũng khó tạo được sóng tăng để làm giá vàng. Mà nếu có sóng đi nữa thì đào đâu ra thanh khoản để kiếm lời?

Trong bối cảnh ủ ê toàn diện ấy, thị trường chứng khoán vẫn mệt mỏi lê lết chuỗi ngày cuối cùng của nó để chấm dứt một năm cũ.

Thực ra, năm cũ của chứng khoán đã kết thúc vào cuối tháng 12 vừa rồi, cũng bởi thị trường này là "Tây" nên phải tính theo lịch Tây. Để ngay sau đó, chứng khoán đã mở đầu một năm mới bằng một tín hiệu không thể "rông" hơn: cả hai sàn đều tràn sắc đỏ.

Nhưng vào Tết nguyên đán năm nay, cũng không khác với 4 năm gần nhất, thị trường lại "bất ngờ" được khoác cho cái áo màu xanh.

Lẽ dĩ nhiên, cái áo xanh đó vẫn chỉ là lớp vỏ bề ngoài, còn thực chất bên trong vẫn là cái ruột bị làm giá của thị trường. Chừng nào các "diễn viên" MSN, BVH... còn lên tiếng, thì nói như một nhà văn, "con chó" không thể sủa được.

Với cách tăng điểm thuộc vào loại độc nhất trên thế giới như thế, nhà đầu tư có thể cầm chắc là sau Tết nguyên đán, thị trường sẽ bị giáng cho một đòn đau. Kinh nghiệm xương máu của không biết bao nhiêu lần đổ xương máu đã đúc kết nên bài học xương máu như vậy.

Nhưng cú bổ nhào, rất có thể sẽ diễn ra sau Tết nguyên đán, có phải là sự tiếp nối cho những tiếp nối, hay sẽ là hình ảnh đổ vỡ cuối cùng của TTCK?

Trong không khí ảm đạm hệt như cuối năm 2008 và đầu năm 2009, đã bắt đầu xuất hiện những ý kiến chuyên gia về khả năng tạo lập vùng đáy của TTCK.

Tất nhiên, từ tháng 6/2011 đến nay, đã có khá nhiều chuyên gia luân phiên nhau "tạo đáy" cho thị trường, tuy không một vị nào đúng.

Nhưng hy vọng thì vẫn cứ phải hy vọng. Lần cố gắng cuối cùng biết đâu lại không sai. Thị trường đầu cơ vẫn thường sinh ra trong sự hoài nghi mà...

Dự cảm 1% hy vọng

Trong "dự cảm" của chúng tôi, thật chẳng mong gì hơn là thị trường sẽ chỉ bị thử thách thêm một lần nữa - lần chót trong chu kỳ đổ dốc hơn hai năm qua. Cũng đã quá chán ngán vì cứ phải nhận định và dự báo về sự đi xuống không ngừng nghỉ của cái thị trường không ai đoán biết được này.

Thế nhưng ngay cả "dự cảm" vẫn có thể đúng, dù nó chỉ mang xác suất 1%.

Có lẽ dự cảm như thế chỉ chớm hiện ra từ sự xuất hiện của một "triết lý" có tính cách như một lời tuyên ngôn về vận mệnh: "Nhà nước sẽ không bỏ rơi thị trường nào cả".

Lời tuyên ngôn trên được khởi đầu từ Thủ tướng, sau đó được nhắc lại bởi các bộ trưởng, đặc biệt là "bộ trưởng" của ngành ngân hàng.

Một trong những vị chuyên gia nặng lòng với thị trường bất động sản - ông Lê Xuân Nghĩa, Phó chủ tịch Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia - vào đầu năm 2012 đã lại nêu ra một dự báo đáng chú ý: TTCK cùng với thị trường bất động sản có thể bắt đầu hồi phục từ giữa quý 2/2012.

Vì sao lại có một dự báo giống như lời khẳng định như thế, trong khi chính sách về lãi suất của Ngân hàng nhà nước vẫn "mờ mờ ảo ảo"?

Cũng như tình trạng vô vọng của thị trường bất động sản cho đến ít nhất cuối năm 2011, TTCK sẽ tìm đâu ra những nguồn lực tài chính thực chất để tự cứu vớt nó?

Tuy vậy, trong mọi cái khó đều ló ra cái khôn. Bài học đó - người ta đã nhận ra tính xác nghiệm của nó vào năm 2009. Trước đó, TTCK đã từng bị coi là sụp đổ, thậm chí sụp đổ hoàn toàn, và cũng không có bất cứ kỳ vọng nào cho sự phục hồi mạnh mẽ của nó vào năm 2009.

Nhưng thực tế đã thường ngược lại với tâm trạng. Khi tất cả mọi người đều bi quan thì đó chính là lúc mà thị trường, chứ không phải là nhà đầu tư nhỏ lẻ, trở thành kẻ tham lam nhất. Không những phục hồi, mà chỉ số chứng khoán còn tăng gấp hơn hai lần so với đáy khủng hoảng - một tốc độ tăng vượt xa chỉ số Dow Jones của Mỹ, và chỉ kém thua đôi chút so với chỉ số chứng khoán Micex của Nga.

Còn giờ đây, trong không khí lão nhão của những trò tung hứng và giả mạo vẫn liên tục tái diễn, TTCK Việt Nam sẽ như thế nào?

Có lẽ phong trào "Chiếm phố Wall" với khẩu hiệu "Chúng ta là 99%" trong năm 2011 sẽ khó có thể hình dung ra cái xác suất 1% còn lại ở TTCK Việt Nam vào năm 2012.

Khi đó, triết lý "Nhà nước không bỏ rơi thị trường nào cả" sẽ có thể được ứng nghiệm.

Share this post


Link to post
Share on other sites

TƯ LIỆU THAM KHẢO

Nguy cơ tấn công Iran đến gần

Thứ Ba, 17/01/2012, 07:36 (GMT+7)

TT - Chính phủ các nước phát đi hàng loạt cảnh báo về căng thẳng tại eo biển Hormuz. Mỹ và Israel còn bất đồng về thời điểm và kế hoạch hành động.

Posted Image

Người biểu tình với các biểu ngữ vẽ trên mặt phản đối Mỹ ở Tehran - Ảnh: AFP

Giá dầu tại châu Á ngày 16-1 vượt ngưỡng 99 USD/thùng trước lo ngại về căng thẳng ở Trung Đông sẽ đe dọa nguồn cung dầu thô. Giá dầu giao tháng 2-2012 tăng lên mức 99,24 USD/thùng trên sàn giao dịch New York. Giá dầu Brent tại châu Âu có lúc đạt 111,45 USD/thùng. “Thị trường dầu đang xáo trộn do những bất ổn từ Trung Đông và châu Âu” - AP dẫn lời chuyên gia phân tích Natalie Robertson của Ngân hàng ANZ tại Melbourne (Úc) nhận định.

Căng thẳng gia tăng từ nhiều phía

Căng thẳng giữa Mỹ, châu Âu và Iran tiếp tục tăng. Phát biểu trên kênh Press TV ngày 16-1, tướng Massoud Jazayeri - phó tổng tham mưu trưởng các lực lượng vũ trang Iran - khẳng định Mỹ không có khả năng ngăn Iran đóng cửa eo biển Hormuz. Tuyên bố này đáp trả bức thư Washington đã gửi Tehran để bày tỏ quan ngại về nguy cơ Iran đóng cửa eo biển Hormuz. Bức thư được gửi thông qua đại sứ Mỹ tại Liên Hiệp Quốc và sứ quán Thụy Sĩ tại Tehran, cơ quan đại diện cho quyền lợi của Mỹ ở Iran.

Các ngoại trưởng Liên minh châu Âu dự kiến gặp nhau ngày 23-1 để quyết định việc cấm mua dầu từ Iran, nước sản xuất dầu lớn thứ hai OPEC sau Saudi Arabia. Ngoại trưởng Anh William nói với Reuters ông tin châu Âu sẽ ra lệnh trừng phạt không chỉ đối với ngành dầu mỏ, mà có thể còn với các ngành khác của Iran.

Căng thẳng cũng gia tăng giữa Iran và các nước Ả Rập. Iran đã cảnh cáo các nước láng giềng về ý định ủng hộ lệnh trừng phạt của phương Tây và chiếm chỗ của nước này trong việc xuất khẩu dầu mỏ. Tuy nhiên, có vẻ Saudi Arabia đang trở thành nhà cung cấp năng lượng thay thế các nước châu Á. AFP đưa tin hàng loạt thỏa thuận hợp tác năng lượng được ký kết trong chuyến thăm của Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo ở Saudi Arbia ngày 15-1.

Trang al Arabiya đưa tin Liên đoàn Ả Rập trong tuần này sẽ thảo luận ý tưởng về một cuộc can thiệp quân sự của Qatar bằng việc gửi quân đến Iran. Tuy nhiên, Tổng thống Tunisia Moncef Marzouki cảnh báo sự can thiệp quân sự có thể khiến cả khu vực bùng nổ.

Israel nên chờ thời điểm

Cuối tuần này, Chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng liên quân Mỹ - tướng Martin Demsey sẽ đến Israel gặp Bộ trưởng Quốc phòng Ehud Barak, Tổng tham mưu trưởng Benny Gantz cùng các quan chức quốc phòng, tình báo của Israel. Theo giới phân tích, mục đích chuyến thăm nhằm thảo luận về hợp tác chiến lược giữa hai nước xung quanh vấn đề hạt nhân của Iran.

Israel liên tục dọa sẽ tấn công quân sự Iran nếu cộng đồng quốc tế không thể ngăn Tehran ngừng phát triển hạt nhân, bất chấp Washington khuyên nước này không nên hành động một mình. Tổng thống Barack Obama và hàng loạt quan chức Mỹ đã khuyến cáo Israel kiên nhẫn chờ đợi hiệu quả của các biện pháp trừng phạt kinh tế.

Trong lúc này, Israel và Mỹ đã hoãn cuộc tập trận chung tại Trung Đông do “eo hẹp ngân sách”. Cuộc tập trận quốc phòng tên lửa Austere Challenge 12 dự kiến diễn ra tháng 4-2012 với sự tham gia của hàng ngàn binh sĩ hai nước sẽ được dời đến cuối năm.

Israel tuyên bố “thất vọng” trước sự lưỡng lự của Mỹ trong các hành động chống Iran. “Có vẻ Nhà Trắng ngần ngại vì lo sợ giá dầu sẽ tăng” - Phó thủ tướng Israel Moshe Yaalon chỉ trích và khẳng định Israel có quyền tự bảo vệ mình. Thủ tướng Benjamin Netanyahu nhận định trên báo Haaretz là “nếu không có các biện pháp hiệu quả trừng phạt ngân hàng trung ương và ngành dầu mỏ Iran thì chương trình hạt nhân sẽ không bị ảnh hưởng”.

Dù vậy, câu hỏi lớn hiện nay là liệu ông Obama và ông Netanyahu có thật sự muốn tấn công Iran hay Israel chỉ muốn gây sức ép buộc phương Tây hành động mạnh mẽ hơn. Dù Mỹ và châu Âu cho biết không loại trừ khả năng tấn công quân sự, nhưng các chuyên gia nhận định phương Tây đang thực hiện mọi nỗ lực, gồm việc trừng phạt kinh tế, để tránh phải động quân.

TRẦN PHƯƠNG

Iran-Mỹ, xung đột và bầu cử

Đây không phải lần đầu Iran đôi co với Mỹ. Không phải “tình cờ” mà Iran lần này thách đố Mỹ bước vào eo biển Hormuz, đáp lại những trừng phạt của Mỹ.

Cục diện đôi co Mỹ - Iran lần này càng mang tính bức bách, do lẽ cái giá của canh bạc sát phạt này chính là cuộc bầu cử quốc hội ở Iran vào tháng 3 và cuộc bầu cử tổng thống Mỹ vào tháng 11. Chính đại giáo chủ Ali Khamenei thừa nhận “bầu cử luôn là một thách thức cho đất nước. Cần cẩn thận để đừng làm phương hại đến an ninh quốc gia”. Bộ trưởng An ninh Heydar Moslehi cho rằng “đây là cuộc bầu cử nhạy cảm nhất trong lịch sử Cộng hòa Hồi giáo Iran”. Tại sao lại cảnh giác? Số là ở Iran, các đảng đối lập không theo thần quyền vẫn luôn hi vọng giành chính quyền từ tay giới tăng lữ. Cuộc bầu cử tổng thống năm 2009 là một thí dụ “nóng sốt”, cựu tổng thống “thường dân” Rafsanjani từ năm 1989-1997 là một thí dụ cầm quyền thế tục sau 10 năm thần quyền của cố giáo chủ Khomeny. Trong bối cảnh đó, một chiến thắng trong vụ eo biển Hormuz sẽ ghi điểm cho ban lãnh đạo Iran hiện tại.

Ngược lại, một sự xuống nước hay lưỡng lự của ông Obama sẽ kết liễu số phận chính trị của ông. Tất nhiên, không loại trừ êkip cầm trịch ở Washington đã “căng dây cót” cuộc đôi co này trước cuộc bầu cử để “nắn gân” ban lãnh đạo Iran cũng vì mục tiêu đó.

Còn chuyện “đánh đấm”, quân lực Mỹ vẫn đang dẫn đầu thế giới trong kỹ thuật “cách không chiến” với tên lửa hành trình, bom siêu nặng... Bởi thế, Iran đã ráo riết thử nghiệm các loại tên lửa mới. Một cuộc tỉ thí từ xa bằng tên lửa sẽ có nhiều cơ sở hơn là một trận chiến trên bộ.

DANH ĐỨC

Share this post


Link to post
Share on other sites

=====================

LỜI DỰ BÁO TOÀN CẢNH THẾ GIỚI & VIỆT NAM 2012

Nguyễn Vũ Tuấn Anh

Giám đốc Trung tâm nghiên cứu Lý Học Đông phương.

Posted Image

THẾ GIỚI NĂM 2012

Về kinh tế toàn cầu

Năm 2008, tôi đã dự báo về một sự suy thoái kinh tế toàn cầu và lời dự báo này đã được đăng trên số báo Xuân Gia Đình & Xã hội - thì đó là năm mà nhiều đại Cty đã sụp đổ trên thế giới.

Qua năm 2010 tôi cũng xác định và dự báo cho rằng đây là năm mà sự khủng hoảng kinh tế mang tầm cỡ quốc gia. Thực tế đã cho thấy nhiều quốc gia nợ công cao ngất ngưởng và họ phải có những gói cứu trợ và tiếp tục vay nợ của nước ngoài.

Từ đầu năm 2011 tôi đã dự báo rằng: Đây là một năm chịu hậu quả tiếp tục của sự suy thoái kinh tế toàn cầu từ năm 2008 và sẽ ảnh hướng đến đời sống, an sinh xã hội, dẫn tới khủng hoảng xã hội ở nhiều quốc gia.

Năm 2012 chúng tôi cho rằng: Nền kinh tế thế giới tiếp tục suy thoái ở cấp quốc gia, nối tiếp của sự tiếp tục suy thoái kinh tế thế giới năm 2011 nhưng ở mức độ trầm trọng hơn. Nếu như ở giai đoạn đầu của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới bắt đầu từ năm 2008 tôi đã dự báo những công ty tầm cỡ quốc tế bị phá sản thì năm 2011 và 2012 sẽ có nhiều doanh nghiệp bậc trung và thấp phá sản. Đương nhiên hệ quả của nó là kéo theo số người thất nghiệp đông đảo. Những ngành nghề mang tính truyền thống như: sản xuất hàng tiêu dùng, điện tử dân dụng, xây dựng, bất động sản, du lịch… sẽ bị ảnh hưởng nặng nề và đình trệ. Thị trường chứng khoán thế giới suy thoái nặng. Có thời điểm xuống dốc rất bất ngờ nhất là cuối Xuân, đầu Hè. Ở nhiều quốc gia có thể nói kinh tế suy thoái nặng nề, gây nhiều hậu quả nghiêm trọng. Nhiều quốc gia xuất hiện sự lạm phát trầm trọng và tất nhiên đẩy giá cả tăng vọt và làm khủng hoảng thêm trầm trọng vì mất cân đối giữa các khu vực kinh tế và an sinh xã hội.

Bất động sản trên toàn thế giới đều bị tình trạng khủng hoạng thừa, ở một số nước là sự bùng nổ của bong bong bất động sản, hậu quả của nó dẫn tới sự đổ vỡ của các ngành liên quan như: ngân hàng, vật liệu xây dựng, ngành xây dựng....

Thị trường chứng khoán thế giới suy thoái nặng. Có thời điểm xuống dốc rất bất ngờ nhất là cuối Xuân đầu Hè.

Bất động sản tiếp tục ảm đạm, suy thoái.

Vàng và giá dầu thế giới bắt đầu tăng đáng kể bắt đầu từ tháng Hai Việt lịch.

Ngành ngân hàng lao đao.

Thế giới đang bên bờ vực suy thoái mới

Thứ Tư, 18/01/2012 - 11:56

(Dân trí) - Kinh tế thế giới đang đứng trước bờ vực suy thoái mạnh và sẽ chứng kiến sự tăng trưởng yếu ớt trong hai năm tới. Liên hợp quốc đưa ra cảnh báo trên trong báo cáo nhan đề "Tình hình và triển vọng kinh tế thế giới năm 2012” công bố ngày 17/1.

Posted Image

Kinh tế thế giới chưa thể phục hồi trong nay mai Báo cáo cho biết kinh tế toàn cầu chỉ đạt tốc độ tăng trưởng 2,6% trong năm 2012 và 3,2% trong năm 2013, so với 4% của năm 2010. Tuy nhiên, những mốc tăng trưởng này cũng chỉ có thể đạt được khi châu Âu ngăn chặn thành công căn bệnh nợ công trầm kha trong khi các nước phát triển ngừng áp dụng các biện pháp "thắt lưng buộc bụng".

Cũng theo báo cáo, các nước phát triển có nguy cơ rơi vào vòng xoáy suy thoái mới do tiếp tục chịu tác động nghiêm trọng từ những khoản nợ công khổng lồ, thị trường tài chính bấp bênh, nhu cầu tiêu dùng thấp và sự tê liệt về chính sách. Tất cả những vấn đề này đều đang hiện hữu và chỉ cần một trong số đó xấu đi cũng đủ gây ra sự hỗn loạn nghiêm trọng về tài chính và sụt giảm tăng trưởng kinh tế.

Trong khi đó, các nước đang phát triển và các nền kinh tế mới nổi vẫn tiếp tục là động lực thúc đẩy kinh tế toàn cầu với tốc độ tăng trưởng trung bình 5,4% năm 2012 và 5,8% năm 2013, mặc dù thấp hơn nhiều so với tốc độ 7,1% của năm 2010. Trong số những nền kinh tế mới nổi, Trung Quốc và Ấn Độ được đánh giá sẽ tiếp tục đạt tốc độ tăng trưởng mạnh với biên độ giảm dần trong các năm 2012 và 2013. Cụ thể, tăng trưởng Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Trung Quốc giảm từ 10,3% năm 2010 xuống còn 9,2% năm 2011 và dưới 9% trong 2 năm tiếp theo. Tỷ lệ này ở Ấn Độ được dự báo dao động trong khoảng 7,7 - 7,9% trong năm nay và năm tới, so với 8,5% năm 2010. Về vấn đề việc làm, LHQ ước tính thế giới thiếu 64 triệu việc làm trong năm 2011. Trong đó, tỷ lệ thất nghiệp ở các nước phát triển trung bình lên đến 8,3%, cao hơn nhiều so với 5,8% thời kỳ tiền khủng hoảng. Gần 1/3 trong đội quân thất nghiệp - tương đương 15 triệu lao động - phải chịu cảnh "ăn không ngồi rồi" từ hơn một năm nay và tình trạng này sẽ còn kéo dài, tác động bất lợi tới người lao động nói riêng và nền kinh tế nói chung. Ở những nước đang phát triển và hầu hết khu vực Mỹ Latinh, mức tăng việc làm có phần mạnh hơn nhưng rất nhiều người vẫn đang đối mặt với nguy cơ tái thất nghiệp bất cứ lúc nào. LHQ dự báo nếu các nước phát triển tiếp tục tăng trưởng chậm như dự báo thì hết năm 2015, thế giới vẫn chưa thể trở lại tỷ lệ người có việc làm như thời kỳ tiền khủng hoảng.

Trong báo cáo, LHQ cũng cho rằng việc các nhà hoạch định chính sách, đặc biệt ở châu Âu và Mỹ, không giải quyết được vấn đề nợ công và không ổn định được khu vực tài chính sẽ tạo nguy cơ nghiêm trọng cho kinh tế toàn cầu trong năm 2012 và 2013. Vi vậy, LHQ hối thúc các nước phát triển không áp dụng các biện pháp "thắt lưng buộc bụng" một cách vội vàng, đồng thời kêu gọi thế giới tăng cường phối hợp các biện pháp kích thích kinh tế nhằm tạo việc làm, đẩy mạnh đầu tư cơ sở hạ tầng, sử dụng năng lượng hiệu quả, đảm bảo nguồn cung năng lượng ổn định và an ninh lương thực.

Vũ Anh

Theo Reuters, AFP, AP

Share this post


Link to post
Share on other sites

Một nghề được dự đoán vô cùng hot trong năm 2012

Phong thủy, tử vi hốt bạc

Tobias Chong sẽ dành nhiều thời gian trong tuần này để sửa sang lại đầu sư tử và chuẩn bị cho tiết mục múa lân sư với những pha nhào lộn trong tiếng chiêng, trống chói tai. Công việc của anh được tin là sẽ giúp trừ tà.

Đội múa lân sư của anh sẽ biểu diễn đến ba lần một ngày trong dịp tết con rồng sắp tới này. Múa lân sư được xem là cách xua đuổi xui xẻo và mang lại may mắn mà các trung tâm mua sắm, văn phòng và khách sạn Hong Kong rất "chuộng". Các công ty luôn muốn "tối đa hóa" may mắn trong năm con rồng, một trong các con giáp được tin là mang lại nhiều phúc lộc nhất.

"Đây là mùa biểu diễn cao điểm của chúng tôi", anh nói. "Trong dịp tết này, chúng tôi sẽ diễn khoảng 100 nơi".

/Files/Subject/3b/bd/18/fa/mua-su-tu.jpg

Đội múa lân sư của Tobias Chong đã biểu diễn cho nhiều thương hiệu lớn của phương Tây tại Trung Quốc trong dịp năm mới. Ảnh: BBC

Có thể thấy rằng không riêng gì Hong Kong mà trên khắp châu Á, những truyền thống và tín ngưỡng từ xa xưa đã hòa quyện với lối sống hiện đại để tạo ra lợi nhuận. Các công ty hiện nay rất chú trọng đến phong thủy - một phương thức chiêu tài lộc và sức khỏe nhờ cách bài trí nhà cửa và bày biện nội thất. Người ta cũng xem ngày tốt xấu thông qua chữ Trung truyền thống. Xu hướng tâm linh ngày một phổ biến ở các công ty đa quốc gia hoạt động ở khu vực châu Á khi họ nhận ra tầm quan trọng của khía cạnh này trong đời sống và kinh doanh.

Kerby Kuek, một người Trung Quốc gốc Malaysia đang sống ở Hong Kong đã rất thành công trong việc kết hợp giữa cái cũ và cái mới của văn hóa để làm kinh doanh. Anh đã lấy bằng thạc sĩ Quản trị kinh doanh MBA và đang làm môi giới chứng khoán tại một ngân hàng Trung Quốc. Tuy nhiên, Kuek cũng là một "thầy" phong thủy nổi tiếng với các bài đăng báo hàng tuần và 5 cuốn sách đã xuất bản về chủ đề này. Không ai trong số các đồng nghiệp của anh ở ngân hàng cho rằng nghề tay trái của Kuek là bất thường cả.

"Hầu hết mọi người đều chấp nhận điều đó", anh nói. "Khi có vấn đề gì, họ đều xin tôi lời khuyên". 50% khách hàng xem phong thủy của Kuek là các công ty. Điển hình là tháng trước, Kuek đã tư vấn cho một chủ nhà máy ở Thâm Quyến, miền nam Trung Quốc, chuyển văn phòng đến một địa điểm khác để cải thiện quan hệ với các công nhân và thúc đẩy việc kinh doanh.

"Chúng tôi đã chuyển văn phòng họ đến miền tây nam, nơi có nguồn tài nguyên kim loại và bây giờ các nhân viên của họ đã đoàn kết với nhau hơn, họ cũng đang có thêm những khách hàng tiềm năng", Kuek kể.

Thuật phong thủy bắt nguồn từ cách đây hàng nghìn năm. Quy tắc phong thủy đã đượcnhiều thành phố châu Á áp dụng. Cavs chuyên gia phong thủy tin rằng năm 2012 sẽ là một năm đầy biến động. Kerby Kuek dự đoán rằng châu Âu sẽ phải chứng kiến một vụ tai nạn hàng không và khách du lịch nên tránh đi Bangladesh, Syria, Afghanistan và Iran vì các khu vực phía tây nam có phong thủy không tốt trong năm 2012. Keuk cho biết kinh tế thế giới sẽ suy yếu trong hai năm tới và thị trường chứng khoán sẽ biến động mạnh. Tại Trung Quốc, nhiều trường hợp tham nhũng sẽ bị phát giác khiến chính phủ phải có biện pháp cứng rắn.

Ở Hong Kong, một công ty môi giới đã phát hành tử vi tài chính năm Nhâm Thìn dựa trên tử vi truyền thống của Trung Quốc. Nhiều công ty cũng xem ngày lành tháng tốt để tổ chức họp hay tuyên bố các quyết định quan trọng, để lấy biển số hay mã cổ phiếu. Các ngày đẹp thường là những ngày có số 8, chữ số có cách phát âm tương đồng với từ "phát" tức là thịnh vượng trong tiếng Trung. Ngược lại, thang máy trong các tòa nhà văn phòng và chung cư thì lại không có nút bấm tầng 4 vì cách phát âm số 4 trong tiếng Trung gần giống với chữ "tử", nghĩa là chết.

/Files/Subject/3b/bd/18/fa/trung-quoc.jpg

Rồng được xem là một trong những con giáp mang lại nhiều phước lộc. Trong hình là mô hình rồng khổng lồ tại trung tâm thành phố Thượng Hải, Trung Quốc. Ảnh: China daily

Kuek kể rằng các công ty đa quốc gia từ Mỹ, Canada và Anh cũng tìm đến dịch vụ tư vấn phong thủy của anh. Anh thậm chí còn nhận được những lời mời từ Cuba và Nam Phi.

"Để làm cho các nhân viên của họ ở đây cảm thấy thoải mái, họ sẽ xin tư vấn phong thủy. Họ không nhất thiết phải tin vào phong thủy nhưng họ vẫn cân nhắc nó", Kuek nói. Chi phí cho một cuộc tư vấn cũng không hề rẻ, dao động từ khoảng 0,60 USD đến 0,18 USD trên một mét vuông. Các vấn đề phong thủy lớn thì tốn kém hơn.

Đội múa lân sư của Chong cũng thu hút nhiều khách hàng là các thương hiệu lớn của phương Tây, trong đó có hãng trang sức Cartier, nhãn hiệu thời trang Dolce&Gabbana, Coach - những nhãn hiệu muốn phát triển lâu dài ở Trung Quốc. Chong nói những nhãn hiệu này thích cách múa lân sư hiện đại của nhóm anh với sự pha trộn âm nhạc và các động tác hiphop.

"Đôi khi tôi nghĩ người nước ngoài thích múa lân sư vì niềm vui mà điệu múa mang lại", Chong nói.

Trong khi luật phong thủy vẫn rất được coi trọng ở Hong Kong thì lĩnh vực này gần đây cũng xảy ra không ít tai tiếng. Vụ việc ầm ĩ nhất liên quan đến một nữ tỷ phú châu Á đã qua đời năm 2007, Nina Wang. Bà được cho là đã trả cho "thầy" phong thủy của mình 6 tỷ USD để "rước lộc" về nhà.

"Đó là phong thủy "rởm". Ông ta có thể chẳng biết tí gì về phong thủy", Raymond Lo, một tư vấn viên phong thủy địa phương nổi tiếng nói. "Có nhiều người rất nhẹ dạ nên bị lừa. Tốt nhất là hãy nghiên cứu kỹ lưỡng".

Trong một vụ bê bối khác, một "thầy" phong thủy tự xưng đã bị buộc tội cưỡng hiếp một cô gái 20 tuổi sau khi tô đỏ cơ thể cô để "xua đuổi tà ma". Chính quyền Hong Kong hồi năm 2010 cũng phải khốn đốn vì đền bù hàng triệu đô cho người dân vì các công trình công cộng phá vỡ thế phong thủy của nhà họ.

Kuek nói rằng yêu cầu cao nhất trong nghề xem phong thủy là "đối phó" với các khách hàng thiếu thực tế.

"Họ muốn nhìn thấy kết quả ngay lập tức", Kuek nói. "Bạn có thể tạo ra thay đổi nhưng bạn phải chủ động, không thể chỉ ngồi chờ cơ hội đến".

Anh Ngọc (theo BBC

Share this post


Link to post
Share on other sites

Thế giới chìm trong “khói lửa” khi thiếu nước Mỹ

Không có sự tham gia của nước Mỹ trong các nỗ lực giải cứu chấm dứt khủng hoảng châu Âu, khủng hoảng vì thế mãi không thể chấm dứt. Năm 1947, phải cần đến tận một cuộc khủng hoảng kinh tế tại Hy Lạp, nước Mỹ mới chịu đảm nhận trách nhiệm cường quốc lãnh đạo thế giới. Nay, hơn 60 năm sau, một cuộc khủng hoảng khác tại Hy Lạp cho thấy thế giới sẽ thế nào nếu không có nước Mỹ.

Posted Image

Tháng 2/1947, chính phủ Anh, phá sản bởi chiến tranh và mùa đông khắc nghiệt, tuyên bố với Mỹ rằng họ không thể tiếp tục hỗ trợ Hy Lạp, nước đang bên bờ vực sụp đổ kinh tế và nội chiến.

Tổng thống Mỹ Truman khi đó đã đệ trình trước Quốc hội Mỹ và đề nghị hỗ trợ Hy Lạp 400 triệu USD. Vài tuần sau đó, chính phủ Mỹ công bố kế hoạch Marshall, chương trình hỗ trợ tài chính quy mô lớn, để bình ổn toàn bộ khu vực Tây Âu.

Sự khác biệt giữa thời điểm đó và thời điểm hiện nay rất lớn. Một lần nữa, cuộc khủng hoảng kinh tế khởi nguồn từ Hy Lạp đang đe dọa châu Âu. Tuy nhiên lần này không ai nói đến việc Mỹ sẽ phải ở vị trí trung tâm để giải quyết khủng hoảng.

Hai thời kỳ cũng khác nhau căn bản. Châu Âu không còn là châu lục khốn khổ về kinh tế như thời kỳ năm 1947. Hơn thế nữa, Quốc hội Mỹ không còn phải đối đầu với mối lo như trước đây.

Tuy nhiên năm 2012 cũng giống như năm 1947, quyền lợi của Mỹ và thế giới đều bị đe dọa sẽ chịu tác động từ những vấn đề tại Hy Lạp. Năm 1047, khi công bố kế hoạch hỗ trợ Hy Lạp, Bộ trưởng Quốc phòng George C. Marshall khẳng định sức mạnh kinh tế của Mỹ bị đe dọa bởi biến động tại châu Âu và rằng nước Mỹ cần làm tất cả những gì có thể để mang đến “sức khỏe” kinh tế cho thế giới.

Từ đó đến nay, chính phủ Mỹ luôn áp dụng nguyên tắc này. Nhóm quan chức kinh tế Mỹ chịu trách nhiệm đưa ra chính sách cứu kinh tế toàn cầu khỏi khủng hoảng tại châu Á và Nga cuối thập niên 1990 được coi như “ủy ban cứu thế giới”. Tên gọi đó có phần nghe quá to tát nhưng thực tế thế giới cần đến nước Mỹ và đã từng có được điều này.

Vậy nay điều gì đã thay đổi? Nguyên nhân: thiếu tiền. Chính phủ Mỹ xưa kia tiêu tốn tới 5% GDP vào kế hoạch Marshall. Khả năng này hiện không khả thi. Ông Tim Geithner, Bộ trưởng Tài chính Mỹ, thường hối thúc các nhà đồng cấp châu Âu đưa ra nhiều biện pháp để chấm dứt khủng hoảng nợ. Thế nhưng ông cũng chỉ có thể nói mà chẳng thể ký được bất kỳ tấm séc nào.

Sự lãnh đạo của nước Mỹ đối với thế giới không phải lúc nào cũng trên phương diện tài chính. Ủy ban chính sách hỗ trợ các nước không chi tiêu quá nhiều tiền nhưng hoạt động tại nhiều thời điểm khác nhau. Trước đây khi Liên minh Xôviết sụp đổ, các nhà hoạch định chính sách kinh tế Mỹ có đủ tín nhiệm và khả năng lãnh đạo, thế nhưng nay điều đó không còn nữa. Khủng hoảng tài chính toàn cầu đã lấy đi khả năng thuyết phục thế giới của các nhà hoạch định chính sách Mỹ cũng như làm yếu đi khả năng tài chính của nước này.

Chính quyền Tổng thống Obama đã quan tâm đến việc tập trung vào tăng tầm ảnh hưởng tại châu Á. Vì vậy chắc chắn châu Âu hay Trung Đông cũng không khiến nước Mỹ dành nhiều thời gian, tiền và sự quan tâm như trước.

Sự chuyển hướng trọng tâm của Mỹ có thể thấy rõ qua những gì chính phủ nước này đã làm trong năm qua. Khi Nato can thiệp vào Lybia vào năm 2010, Mỹ đóng vai trò không nhỏ.

Và trong khi quan chức chính phủ châu Âu đến Athens rất nhiều lần trong năm nay, quan chức chính phủ Mỹ chỉ quan tâm ở mức độ vừa phải. Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ đi công tác nước ngoài một năm không biết bao nhiêu lần nhưng bà chỉ đến Hy Lạp có 1 lần trong cùng chuyến đi đến Ấn Độ.

Việc chính phủ Mỹ chuyển hướng trọng tâm chính sách cũng hoàn toàn hợp lý, châu Á là khu vực kinh tế năng động nhất thế giới và Trung Quốc đang là cường quốc mới nổi lên. Trên lý thuyết, sự quan tâm của Mỹ chuyển từ châu Âu sang châu Á cũng không quá khó hiểu.

Nước Mỹ cho rằng việc giải quyết khủng hoảng châu Âu cần đến chính phủ Đức là đủ. Nếu châu Âu giải quyết được khủng hoảng nợ, châu Âu có thể giải quyết được nhiều vấn đề toàn cầu. Đáng tiếc, cho đến nay chính phủ Đức luôn khiến người ta thất vọng không chỉ với vấn đề khủng hoảng nợ mà còn nhiều vấn đề khác.

Năm 1947, khi Hy Lạp gặp hỏa hoạn, xe cứu hỏa đến từ Washington. Năm 2012, xe cứu hỏa đến từ Berlin và Brussels một cách muộn mằn và thiếu trang thiết bị cần thiết. Lửa vì thế cứ lan rộng mãi.

Ngọc Diệp

Theo TTVN

Share this post


Link to post
Share on other sites

Chưa phai tàn

Phản biện huyền thoại về sự suy tàn của Mỹ

Robert Kagan

Nguyên văn tiếng Anh: Not Fade Away, The New Republic, 2/2/2012

Bản dịch và chú thích của Phạm Vũ Lửa Hạ

I. Phải chăng Mỹ đang suy tàn, như quá nhiều người tin hiện nay? Hay liệu có phải người Mỹ có nguy cơ nhanh nhảu tự kết liễu vị thế siêu cường quốc vì nỗi lo sợ huyễn hoặc về sức mạnh đang suy giảm của mình? Rất nhiều điều tùy thuộc vào câu trả lời cho những câu hỏi này. Trật tự thế giới hiện nay – với đặc trưng là số lượng nhiều chưa từng thấy các quốc gia dân chủ; thậm chí với cuộc khủng hoảng hiện nay, thế giới ngày nay thịnh vượng nhất trong lịch sử; và các đại cường quốc hòa bình với nhau trong thời gian dài – phản ánh những nguyên tắc và sở thích của Mỹ, và được xây dựng và duy trì bằng sức mạnh của Mỹ trong tất cả các khía cạnh chính trị, kinh tế, và quân sự. Nếu sức mạnh Mỹ suy tàn, trật tự thế giới này sẽ suy tàn theo nó. Trật tự này sẽ bị thay thế bằng một kiểu trật tự khác nào đó, phản ánh những ước muốn và những phẩm chất của những cường quốc thế giới khác. Hay có lẽ trật tự này chỉ đơn thuần sụp đổ, như trật tự thế giới của Châu Âu đã sụp đổ trong nửa đầu của thế kỷ 20.

Nhiều người tin rằng ngay cả khi sức mạnh Mỹ suy giảm, “những nền tảng cơ sở của trật tự quốc tế tự do sẽ trường tồn”, như nhà chính trị học G. John Ikenberry nhận định; niềm tin đó quả là một ảo tưởng thú vị. Sự suy tàn của Mỹ, nếu có thực, sẽ đồng nghĩa với một thế giới khác cho tất cả mọi người.

Nhưng thực hư ra sao? Phần lớn những bình luận về sự suy tàn của Mỹ hiện nay dựa trên phân tích sơ sài, trên những cảm tưởng cho rằng Mỹ đã lạc lối, rằng Mỹ đã từ bỏ những đức tính giúp họ thành công trong quá khứ, rằng Mỹ thiếu ý chí giải quyết những vấn đề họ đang đối mặt. Người Mỹ nhìn những quốc gia khác có nền kinh tế hiện nay ổn định hơn kinh tế Mỹ, và dường như có tính năng động mà nước Mỹ từng có, và họ ta thán rằng “trước đây chúng ta cũng vậy”, như trong tựa đề cuốn sách mới nhất của Thomas Friedman, “That Used To Be Us.”

Cảm nghĩ suy tàn hiện này đương nhiên dễ hiểu, với tình hình kinh tế ảm đạm từ năm 2008 và những khoản thâm hụt tài khóa lớn của Mỹ mà nếu kết hợp với mức tăng trưởng liên tục của Trung Quốc, Ấn Độ, Brazil, Thổ Nhĩ Kỳ và các nền kinh tế khác thì dường như báo trước một sự dịch chuyển quan trọng và không thể đảo ngược của sức mạnh kinh tế toàn cầu. Tâm lý bi quan này một phần cũng là do niềm tin cho rằng Mỹ đã thất sủng, và do vậy đánh mất tầm ảnh hưởng, ở nhiều nơi trên thế giới, do những phản ứng khác nhau của Mỹ đối với những vụ khủng bố 11/9. Những nhà tù ở Guantánamo, việc tra tấn những kẻ bị tình nghi khủng bố, và cuộc xâm lược Iraq hồi năm 2003 bị nhiều nước lên án, tất thảy đều làm hoen ố “nhãn hiệu” Mỹ và làm suy suyển “sức mạnh mềm” của nước Mỹ – tức là khả năng thuyết phục những nước khác chú ý đến quan điểm của Mỹ. Nước Mỹ đã tham gia những cuộc chiến gian truân ở Iraq và Afghanistan, mà nhiều người nhận định đã chứng tỏ những hạn chế về sức mạnh quân sự, khiến Mỹ oằn mình gồng gánh gánh nặng quá sức của mình, và làm suy yếu rường cột quốc gia. Có người so sánh Mỹ với Đế chế Anh vào cuối thế kỷ 19, với những cuộc chiến khó khăn ở Iraq và Afghanistan tương đương như Chiến tranh Boer gian truân và làm nản lòng quốc gia của Anh.

Trong bối cảnh nhiều người cảm nhận về ngày tàn của nước Mỹ, mỗi thất bại của Mỹ trong việc gây ảnh hưởng trên thế giới thường khẳng định ấn tượng này. Người Ả rập và người Israel không chịu giảng hòa với nhau, mặc cho người Mỹ nhiều lần khẩn nài. Iran và Bắc Triều Tiên coi thường những yêu sách của Mỹ đòi hai nước này ngừng các chương trình vũ khí hạt nhân của họ. Trung Quốc không chịu để cho đồng nhân dân tệ lên giá. Tình hình biến động ở thế giới Ả rập xoay chuyển vượt ra khỏi tầm kiểm soát của Mỹ. Dường như mỗi ngày lại có thêm bằng chứng cho thấy đã qua rồi cái thời Mỹ có thể dẫn dắt thế giới và buộc các nước khác làm theo chỉ đạo của mình.

Tuy nhiên, bất kể cảm tưởng về ngày tàn của nước Mỹ có mạnh đến đâu, cảm tưởng đó đáng được suy xét thấu đáo hơn. Đo lường những thay đổi về sức mạnh tương đối của một quốc gia là điều khó, nhưng có một số chỉ số cơ bản: quy mô và ảnh hưởng của nền kinh tế nước đó so với nền kinh tế của những cường quốc khác; tầm cỡ của sức mạnh quân sự so với những kẻ thù khả dĩ; mức độ ảnh hưởng chính trị mà nước đó tạo được trong hệ thống quốc tế – tất cả những điều đó làm nên điều mà người Trung Quốc gọi là “sức mạnh quốc gia toàn diện”. Rồi còn chuyện thời gian nữa. Nếu phán xét chỉ dựa vào bằng chứng của một vài năm thì chưa ổn. Sự suy tàn của một đại cường quốc là sản phẩm của những thay đổi căn bản về sự phân phối quốc tế của nhiều hình thức sức mạnh khác nhau, mà những thay đổi đó thường xảy ra trong những quãng thời gian dài. Những đại cường quốc hiếm khi đột ngột suy tàn. Một cuộc chiến tranh có thể khiến họ sụp đổ, nhưng ngay cả điều đó thường là một triệu chứng, và là cực điểm, của một quá trình lâu dài hơn.

Ví dụ, sự suy tàn của Đế chế Anh diễn ra trong mấy chục năm. Năm 1870, người Anh chiếm hơn 30 phần trăm sản xuất công nghiệp toàn cầu. Năm 1900, tỉ phần đó là 20 phần trăm. Đến năm 1910 là dưới 15 phần trăm – thấp hơn nhiều so với Mỹ đang vươn lên với tỉ phần tăng từ hơn 20 phần trăm lên đến hơn 25 phần trăm trong cùng thời kỳ; và cũng ít hơn Đức, vốn tụt hậu khá xa so với Anh trong suốt thế kỷ 19 nhưng đã bắt kịp và qua mặt Anh trong thập niên đầu tiên của thế kỷ 20. Trong cùng thời kỳ đó, hải quân Anh đi từ vị thế thống lĩnh vô song của các vùng biển đến chỗ phải chia sẻ quyền kiểm soát các đại dương với những cường quốc hải quân đang vươn lên. Năm 1883, Anh có nhiều tàu chiến hơn tất cả các cường quốc khác cộng lại. Đến năm 1897, sự thống lĩnh của Anh đã suy giảm. Giới chức Anh nhận định hải quân của mình “hoàn toàn thua xa” Mỹ ở Tây bán cầu, Nhật ở Đông Á, và sức mạnh hải quân của Nga và Pháp cộng lại ngay tại Châu Âu – và đó là trước khi có sự lớn mạnh đầy hăm dọa của hải quân Đức. Đây là những trường hợp suy tàn rõ rệt, có thể đo lường được và diễn ra từ từ của hai trong số những thước đo quan trọng nhất về sức mạnh trong quá trình nửa thế kỷ.

MỘT SỐ LẬP LUẬN hiện nay về sự suy tàn tương đối của nước Mỹ sẽ có tính thuyết phục hơn nếu đã không xuất hiện ngay sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008. Cũng như một con én không làm nên mùa xuân, một đợt suy thoái, hay thậm chí một cuộc khủng hoảng kinh tế trầm trọng, không nhất thiết đồng nghĩa với việc khởi đầu của sự kết liễu một đại cường quốc. Mỹ đã chịu những cuộc khủng hoảng nặng nề và kéo dài trong những thập niên 1890, 1930, và 1970. Mỗi lần như thế, nước Mỹ hồi phục trong thập niên tiếp theo và thực sự lại đạt đến vị thế mạnh hơn so với các cường quốc khác hơn trước thời khủng hoảng. Những thập niên 1910, 1940, và 1980 đều là những cao điểm của sức mạnh và ảnh hưởng của Mỹ trên toàn cầu.

Cách đây chưa đầy mười năm, phần lớn giới quan sát không phải bàn về sự suy tàn của Mỹ mà là về thế độc tôn bền bỉ của Mỹ. Năm 2002, sử gia Paul Kennedy, người đã viết vào cuối thập niên 1980 một cuốn sách được bàn luận nhiều về “sự hưng thịnh và suy vong của những đại cường quốc” trong đó có Mỹ, đã tuyên bố rằng trong lịch sử chưa bao giờ có “sự chênh lệch sức mạnh” lớn như vậy giữa Mỹ và phần còn lại của thế giới. Ikenberry đồng ý rằng “không có đại cường quốc nào khác” đã có “những ưu thế đáng nể như vậy về năng lực quân sự, kinh tế, công nghệ, văn hóa, hay chính trị … Sự vượt trội của sức mạnh Mỹ” là “vô tiền khoáng hậu”. Năm 2004, nhà bình luận Fareed Zakaria nhận định Mỹ đang tận hưởng “thế đơn cực (uni-polarity) toàn diện” chưa từng thấy kể từ thời La Mã. Nhưng chỉ bốn năm sau Zakaria lại viết về “thế giới hậu Mỹ” và “sự vươn lên của phần còn lại [của thế giới]”, còn Kennedy thuyết giảng về sự suy tàn tất yếu của nước Mỹ. Chẳng lẽ những yếu tố căn bản của sức mạnh tương đối của nước Mỹ lại thay đổi quá lớn như vậy chỉ trong vài năm ngắn ngủi?

Câu trả lời là không. Ta hãy bắt đầu bằng những chỉ số cơ bản. Về kinh tế, và thậm chí bất chấp những năm suy thoái và tăng trưởng chậm hiện thời, vị thế của Mỹ trên thế giới chưa thay đổi. Tỉ phần của Mỹ trong GDP thế giới vẫn ổn định đáng kể, không chỉ trong thập niên vừa qua mà cả trong bốn thập niên qua. Năm 1969, Mỹ sản xuất khoảng một phần tư sản lượng kinh tế của thế giới. Ngay nay tỉ phần đó vẫn là khoảng một phần tư, và Mỹ vẫn giữ vị trí nền kinh tế không chỉ lớn nhất mà còn giàu nhất thế giới. Cũng hợp lý khi thiên hạ bị mê hoặc bởi sự vươn lên của Trung Quốc, Ấn Độ, và những nước Châu Á khác với tỉ phần sản lượng kinh tế toàn cầu đã và đang tăng đều đặn, nhưng đến nay điều đó xảy ra gần như hoàn toàn chỉ thiệt hại cho Châu Âu và Nhật với tỉ phần giảm dần trong nền kinh tế thế giới.

Giới lạc quan về sự phát triển của Trung Quốc tiên đoán rằng Trung Quốc sẽ qua mặt Mỹ để chiếm vị trí nền kinh tế lớn nhất thế giới vào một thời điểm nào đó trong hai thập niên đến. Điều này có nghĩa là Mỹ sẽ đối mặt với một thách thức ngày càng lớn về vị thế kinh tế của mình trong tương lai. Nhưng chỉ riêng quy mô của một nền kinh tế tự than nó không phải là một thước đo chính xác về sức mạnh tổng quát trong hệ thống quốc tế. Nếu quả vậy, thì Trung Quốc vào đầu thế kỷ 19, với nền kinh tế lớn nhất thế giới lúc đó, đã là cường quốc thống lĩnh thế giới, chứ không phải là nạn nhân kiệt quệ phủ phục trước những nước Châu Âu nhỏ hơn. Cho dù Trung Quốc có thực sự vươn lên đỉnh cao này một lần nữa – và giới lãnh đạo Trung Quốc đối mặt với những chướng ngại vật lớn lao trong việc duy trì mãi mãi mức tăng trưởng của đất nước – Trung Quốc sẽ vẫn còn tụt hậu khá xa so với cả Mỹ và Châu Âu về GDP bình quân đầu người.

Năng lực quân sự cũng quan trọng, như Trung Quốc vào thế kỷ 19 đã hiểu và giới lãnh đạo Trung Quốc ngày nay biết. Như Diêm Học Thông (Yan Xuetong) nhận định gần đây, “sức mạnh quân sự là nền tảng cho bá quyền”. Về mặt này, Mỹ vẫn không ai sánh bằng. Mỹ chắc chắn là quốc gia hùng mạnh nhất mà thế giới từng biết, và năng lực quân sự tương đối của Mỹ không suy tàn – ít nhất là chưa. Người Mỹ hiện nay chi tiêu chưa đến 600 tỉ đô-la mỗi năm cho quốc phòng, nhiều hơn những đại cường quốc khác cộng lại. (Con số này chưa tính đến việc đưa quân sang Iraq, mà hoạt động này đang kết thúc, hay các lực lượng tham chiến ở Afghanistan, mà có thể giảm từ từ trong vài năm đến.) Ngoài ra, chi tiêu quốc phòng đó ở mức xấp xỉ 4 phần trăm GDP hàng năm – tỉ lệ cao hơn những đại cường quốc khác, nhưng xét về lịch sử thì thấp hơn tỉ lệ 10 phần trăm GDP mà Mỹ chi tiêu cho quốc phòng vào giữa thập niên 1950 và 7 phần trăm vào cuối thập niên 1980. Những khoản chi tiêu cao hơn chưa đánh giá đúng tính ưu việt thực sự của Mỹ về năng lực quân sự. Các lực lượng trên bộ và trên không của Mỹ được trang bị vũ khí tối tân nhất và dày dạn kinh nghiệm nhất về tham chiến thực sự. Họ có thể đánh bại bất kỳ đối thủ nào trong một trận đánh đối đầu. Sức mạnh hải quân Mỹ vẫn chiếm ưu thế vượt trội ở mọi khu vực trên thế giới.

Theo những thước đo quân sự và kinh tế này, Mỹ ngày nay ít ra cũng chẳng giống gì với nước Anh khoảng năm 1900, khi sự suy tàn tương đối của đế chế đó bắt đầu lộ rõ. Nước Mỹ ngày nay giống với nước Anh khoảng năm 1870 hơn, khi đế chế đó đang ở đỉnh cao sức mạnh. Có thể tưởng tượng ra một thời điểm khi mà điều này không còn đúng nữa, nhưng thời khắc đó hiện chưa đến.

II. NHƯNG CÒN “sự vươn lên của phần còn lại [của thế giới]” – tầm ảnh hưởng kinh tế ngày càng tăng của các quốc gia như Trung Quốc, Ấn Độ, Brazil, và Thổ Nhĩ Kỳ – thì sao? Chẳng phải điều đó giảm bớt sức mạnh và ảnh hưởng của Mỹ hay sao? Câu trả lời là: còn tùy. Việc các quốc gia khác trên thế giới đang tận hưởng những thời kỳ tăng trưởng cao không có nghĩa là vị thế cường quốc thống lĩnh của Mỹ đang suy tàn, hay thậm chí nghĩa là “phần còn lại của thế giới” đang đuổi kịp về sức mạnh và ảnh hưởng tổng quát. Tỉ phần của Brazil trong GDP toàn cầu chỉ hơn 2 phần trăm vào năm 1990 và hiện nay vẫn chỉ ở mức hơn 2 phần trăm. Tỉ phần của Thổ Nhĩ Kỳ là dưới 1 phần trăm vào năm và hiện nay vẫn ở mức dưới 1 phần trăm. Người ta, và đặc biệt là giới doanh nhân, hẳn nhiên phấn khích về những thị trường mới trỗi dậy này, nhưng chỉ vì một quốc gia là một cơ hội đầu tư hấp dẫn không có nghĩa là quốc gia đó là một đại cường quốc đang vươn lên. Của cải có ý nghĩa quan trọng trong chính trị quốc tế, nhưng không có mối tương quan đơn giản giữa tăng trưởng kinh tế và ảnh hưởng quốc tế. Chưa rõ là liệu một nước Ấn Độ ngày nay giàu có hơn gây ảnh hưởng trên trường quốc tế lớn hơn một nước Ấn Độ nghèo vào thập niên 1950 dưới thời Nehru, khi Ấn Độ là lãnh tụ của Phong trào Không Liên kết, hoặc liệu Thổ Nhĩ Kỳ, bất chấp tính độc lập và kiểu phô trương của Thủ tướng Recep Tayyip Erdoğan, có thực sự gây ảnh hưởng nhiều hơn cách đây một thập niên hay không.

Về tác động của những nền kinh tế đang lớn mạnh này đối với vị thế của Mỹ, điều đó tùy thuộc vào việc ai đang lớn mạnh. Vấn đề của Đế chế Anh vào đầu thế kỷ 20 không phải là sự suy tàn đáng kể của họ so với Mỹ, một cường quốc nhìn chung hữu hảo có những lợi ích không mâu thuẫn về căn bản với những lợi ích của Anh. Thậm chí ở Tây bán cầu, thương mại của Anh tăng lên khi họ nhường vị thế thống lĩnh cho Mỹ. Vấn đề là sự suy tàn của Anh so với Đức vốn muốn giành ưu thế trên lục địa Châu Âu, và tìm cách cạnh tranh với Anh trên biển cả, và ở cả hai khía cạnh này đều tỏ ra đe dọa an ninh cốt lõi của Anh. Trong trường hợp của Mỹ, sự vươn lên mạnh mẽ và nhanh chóng của kinh tế Đức và Nhật trong thời Chiến tranh Lạnh đã giảm thế độc tôn của Mỹ trên thế giới nhiều hơn “sự vươn lên của phần còn lại [của thế giới]” gần đây. Tỉ phần của Mỹ trong GDP thế giới từ mức gần 50 phần trăm sau Chiến tranh Thế giới thứ hai đã giảm xuống còn khoảng 25 phần trăm vào đầu thập niên 1970, và giữ nguyên ở mức ấy từ đó cho đến nay. Nhưng “sự vươn lên của phần còn lại” đã không làm suy yếu Mỹ. Thậm chí điều đó còn củng cố nước Mỹ. Đức và Nhật đã và đang là những đồng minh dân chủ thân thiết, những cột trụ chủ chốt của trật tự thế giới kiểu Mỹ. Sự tăng trưởng của nền kinh tế hai nước đó thực sự đã dịch chuyển một cách không thể đảo ngược cán cân theo hướng bất lợi cho khối Xô viết và góp phần làm sụp đổ khối đó.

Khi đo lường tác động của những kinh tế đang lớn mạnh của những nước khác hiện nay, ta phải làm những phép tính toán kiểu tương tự. Liệu sự tăng trưởng của kinh tế Brazil, hay của kinh tế Ấn Độ, có làm suy giảm sức mạnh toàn cầu của Mỹ hay không? Cả hai quốc gia này đều thân thiện, và Ấn Độ đang ngày càng là một đối tác chiến lược của Mỹ. Nếu đối thủ cạnh tranh tương lai của Mỹ trên thế giới có khả năng là Trung Quốc, thì một nước Ấn Độ giàu hơn và mạnh hơn sẽ là một thế mạnh, chứ không phải một tác hại, cho Mỹ. Nhìn chung, việc Brazil, Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ, và Nam Phi đang tận hưởng thời kỳ tăng trưởng kinh tế – mà có thể hoặc không thể kéo dài mãi – hoặc chẳng can hệ gì đến hoặc chỉ có lợi cho vị thế chiến lược của Mỹ. Hiện tại, chỉ có sự tăng trưởng của kinh tế Trung Quốc có thể được xem là có tác động đến sức mạnh của Mỹ trong tương lai, và chỉ trong chừng mực mà người Trung Quốc biến đủ sức mạnh kinh tế đang gia tăng của họ thành sức mạnh quân sự.

NẾU MỸ không đang bị suy tàn về những thước đo cơ bản này của quyền lực, chẳng phải ảnh hưởng của họ đã giảm sút, họ gặp khó khăn hơn trong việc thuyết phục thế giới theo ý mình hay sao? Giả định gần như của mọi người là Mỹ quả thực đã mất ảnh hưởng. Bất luận lý giải cách nào – sự suy tàn của Mỹ, “sự vươn lên của phần còn lại”, thất bại rành rành của mô hình tư bản Mỹ, bản chất lệch lạc của chính trị Mỹ, tính phức tạp ngày càng tăng của hệ thống quốc tế – nhìn chung người ta chấp nhận rằng Mỹ không còn khả năng định hình thế giới để thỏa mãn những lợi ích và lý tưởng của mình như trước kia. Mỗi ngày dường như lại có thêm bằng chứng, với diễn biến tình hình trên thế giới dường như đi ngược lại các lợi ích của Mỹ và vượt ra khỏi tầm kiểm soát của Mỹ.

Và hẳn nhiên Mỹ không thể đạt điều mình muốn trong phần lớn các trường hợp. Nhưng xưa nay Mỹ có bao giờ làm được như thế đâu. Hầu hết những cảm tưởng hiện nay về ảnh hưởng Mỹ đang giảm sút đều dựa vào một ảo tưởng hoài niệm quá khứ: rằng đã có thời nước Mỹ có thể định hình cả thế giới để thỏa mãn những ước muốn của mình, và có thể khiến những nước khác làm những gì Mỹ muốn họ làm, và, như nhà chính trị học Stephen M. Walt nhận xét, “cai quản những dàn xếp chính trị, kinh tế và an ninh cho gần như toàn địa cầu.”

Nếu muốn đánh giá vị thế tương đối của Mỹ ngày nay, ta cần công nhận rằng hình ảnh quá khứ là một ảo tưởng. Chưa bao giờ có một thời như thế. Ta thường có khuynh hướng nhớ lại những năm đầu của Chiến tranh Lạnh như một thời điểm Mỹ hoàn toàn thống lĩnh thế giới. Không hề có chuyện đó. Mỹ đã đạt những thành tựu phi thường trong kỷ nguyên đó: Kế hoạch Marshall, liên minh NATO, Liên Hiệp Quốc, và hệ thống kinh tế Bretton Woods tất thảy đã định hình thế giới mà ta biết hiện nay. Tuy nhiên với mỗi thành tựu lớn lao trong thời gian đầu của Chiến tranh Lạnh, luôn có ít nhất một thất bại cũng ê chề không kém.

Trong thời tổng thống Truman, Cách mạng Cộng sản thắng lợi ở Trung Quốc vào năm 1949, mà giới chức Mỹ xem là thảm họa cho những lợi ích của Mỹ trong khu vực và quả thực sự kiện đó đã tỏ ra tai hại cho Mỹ; nếu không phải gì khác, đó chính là yếu tố quan trọng khiến Bắc Triều Tiên tấn công Nam Triều Tiên vào năm 1950. Nhưng như Dean Acheson[1] kết luận, “kết quả đáng ngại của cuộc nội chiến ở Trung Quốc” đã tỏ ra “nằm ngoài tầm kiểm soát của … Mỹ”, đó là sản phẩm của “những thế lực mà nước này cố gắng gây ảnh hưởng nhưng không thể”. Một năm sau đó xảy ra cuộc tấn công bất ngờ và không ai chuẩn bị trước của Bắc Triều Tiên đánh vào Nam Triều Tiên, và sự can thiệp của Mỹ mà sau khi 35.000 lính Mỹ chết và gần 100.000 bị thương đã để lại tình hình gần như giống hệt trước khi xảy ra cuộc chiến này. Diễn biến thời sự trong năm 1949 có lẽ thuộc hàng xấu nhấu: Liên Xô có được bom nguyên tử và chấm dứt sự độc quyền hạt nhân từng là nền tảng của chiến lược quân sự và hoạch định ngân sách quốc phòng của Mỹ.

Một năm sau, báo cáo chiến lược nổi tiếng NSC-68[2] cảnh báo về khoảng cách ngày càng tăng sức mạnh quân sự và những cam kết chiến lược toàn cầu của Mỹ. Theo tuyên bố của báo cáo đó, nếu những xu hướng hiện tại tiếp diễn, kết quả sẽ là “sự sút giảm trầm trọng về sức mạnh của thế giới tự do so với Liên Xô và những nước chư hầu của Liên Xô”. “Tính toàn vẹn và khả năng sống còn của hệ thống của chúng ta,” báo cáo đó nhận định, “gặp nguy hiểm hơn bao giờ hết trong lịch sử của chúng ta”. Trong bài phát biểu chính tại Hội nghị Toàn quốc Đảng Cộng hòa vào năm 1952, Douglas MacArthur[3] ta thán về “thay đổi đáng báo động về cán cân sức mạnh thế giới”, “gánh nặng ngày càng tăng của những cam kết tài khóa của chúng ta”, sức mạnh đang tăng lên của Liên Xô, “và sự suy tàn tương đối của chính chúng ta”. Năm 1957, Ủy ban Gaither báo cáo[4] rằng nền kinh tế Nga đang tăng trưởng với tốc độ nhanh hơn kinh tế Mỹ và đến năm 1959 Nga sẽ có thể đánh trúng Mỹ với một trăm tên lửa đạn đạo liên lục địa, khiến Sam Rayburn, chủ tịch Hạ viện, đặt câu hỏi: “Một nền kinh tế vững vàng và ngân sách cân bằng thì ích gì nếu chúng ta để đồng bào mất mạng và đồng rúp Nga thành đồng tiền của đất nước?”

Mỹ cũng không luôn luôn thuyết phục được các nước khác, kể cả những đồng minh gần gũi nhất của mình, làm điều mình muốn, hoặc kiềm chế không làm điều mình không muốn. Năm 1949, Acheson cố gắng và thất bại trong việc ngăn cản các đồng minh Châu Âu, trong đó có Anh, công nhận Trung Quốc cộng sản. Năm 1954, chính quyền Eisenhower không đạt được ý định của mình tại Hội nghị Geneva về Việt Nam và không chịu ký các thỏa ước cuối cùng. Hai năm sau, Mỹ cố gắng ngăn cản Anh, Pháp và Israel xâm lăng Ai Cập do nước này đóng Kênh đào Suez, nhưng vô ích, để rồi ba nước đó tiến hành một cuộc xâm lược mà không thèm báo trước với Washington. Khi Mỹ đối đầu với Trung Quốc về các quần đảo Kim Môn và Mã Tổ[5], chính quyền Eisenhower đã cố gắng nhưng không đạt được sự ủng hộ của các đồng minh Châu Âu, khiến John Foster Dulles[6] lo ngại rằng NATO “đang bắt đầu tan rã”. Đến cuối thập niên 1950, Mao tin rằng Mỹ là một siêu cường quốc đang suy tàn, “e ngại không dám tham gia và những công cuộc ở Thế giới Thứ ba và ngày càng không có khả năng duy trì bá quyền của họ đối với các nước tư bản”.

THẾ CÒN “sức mạnh mềm” thì sao? Chẳng phải đúng như nhà chính trị học Joseph S. Nye Jr.[7] đã nhận định rằng Mỹ trước đây đã có thể “đạt điều mình muốn trên thế giới” nhờ “những giá trị được biểu hiện” bằng văn hóa Mỹ như phản ánh qua truyền hình, điện ảnh và âm nhạc, và nhờ tính hấp dẫn của những chính sách đối nội và đối ngoại của Mỹ hay sao? Những yếu tố này của sức mạnh mềm đã khiến những dân tộc khác trên thế giới muốn theo gương Mỹ, “ngưỡng mộ những giá trị của Mỹ, noi gương Mỹ, mong ước đạt được mức độ thịnh vượng và cởi mở của Mỹ”.

Một lần nữa, sự thật lịch sử phức tạp hơn thế. Trong ba thập niên đầu tiên sau Chiến tranh Thế giới Thứ hai, nhiều nơi trên thế giới không ngưỡng mộ Mỹ mà cũng không muốn noi gương Mỹ, và không đặc biệt hài lòng với cách hành xử của Mỹ trong các vấn đề quốc tế. Phải, đúng là truyền thông Mỹ truyền bá văn hóa Mỹ, nhưng họ truyền bá những hình ảnh không phải lúc nào cũng tâng bốc Mỹ. Trong những năm 1950, thế giới có thể xem những hình ảnh được truyền hình về chuyện Joseph McCarthy[8] và cuộc truy lùng người cộng sản trong Bộ Ngoại giao và Hollywood. Phim Mỹ mô tả kiểu tuân thủ tư bản cứng nhắc đến ngột ngạt của văn hóa doanh nghiệp Mỹ mới. Những tiểu thuyết ăn khách nhất như The Ugly American (Người Mỹ xấu xí) khắc họa tính cách hung hăng và thô lỗ của người Mỹ. Trong thập niên 1950 và 1960 có những cuộc đấu tranh về nạn phân biệt chủng tộc, những hình ảnh được truyền đi khắp thế giới cho thấy người da trắng nhổ nước bọt vào học sinh da đen và cảnh sát thả chó tấn công những người da đen biểu tình. (Cái này cũng là “trước đây chúng ta cũng vậy”.) Nạn phân biệt chủng tộc của nước Mỹ đã thực sự “hủy hoại” hình ảnh Mỹ trên toàn cầu, như Dulles lo ngại, đặc biệt ở những nước gọi là Thế giới Thứ ba. Cuối thập niên 1960 và đầu thập niên 1970 có những cuộc bạo động Watts[9], các vụ ám sát Martin Luther King Jr. và Robert Kennedy, vụ bắn người ở Đại học Kent State[10], rồi vụ xì căng đan Watergate làm rúng chuyển chính quyền. Đó không phải là những kiểu hình ảnh có thể khiến thế giới yêu mến Mỹ, bất luận có bao nhiêu bộ phim Jerry Lewis và Woody Allen được chiếu tại những rạp chiếu bóng ở Paris.

Phần lớn thế giới cũng không thấy chính sách đối ngoại của Mỹ đặc biệt hấp dẫn trong những năm đó. Eisenhower mong ước “khiến một số người ở những quốc gia bị áp bức này yên mến chúng ta, chứ không phải thù ghét chúng ta”, nhưng những vụ lật đổ Mohammed Mossadegh ở Iran và Jacobo Arbenz ở Guatemala với bàn tay đạo diễn của CIA không giúp ích gì. Năm 1957, người biểu tình tấn công đoàn xe hộ tống phó tổng thống Mỹ ở Venezuela, hô lớn “Nixon, cút về nước!” “Đồ chó, xéo đi!” “Chúng tôi sẽ không quên Guatemala!” Năm 1960, Khrushchev hạ nhục Eisenhower bằng cách hủy bỏ một hội nghị thượng đỉnh khi một máy bay do thám của Mỹ bị bắn hạ trên bầu trời Nga. Cuối năm đó, trên đường đi thăm “thiện chí” Tokyo, Eisenhower buộc phải cho máy bay quay về giữa chừng khi chính quyền Nhật cảnh báo là họ không thể đảm bảo cho an ninh của ông trước những sinh viên biểu tình chống “chủ nghĩa đế quốc” Mỹ.

Những đảng viên Đảng Dân chủ kế tục Eisenhower cũng chẳng khá hơn. John F. Kennedy và vợ ông được yêu mến một thời gian, nhưng hào quang của Mỹ phai tàn sau khi ông bị ám sát. Việc Lyndon Johnson xâm lăng Cộng hòa Dominic vào năm 1965 bị nhiều người lên án không chỉ ở Mỹ La tinh mà còn bởi các đồng minh Châu Âu. De Gaulle cảnh báo giới chức Mỹ rằng Mỹ, giống như “tất cả những nước đã có sức mạnh vượt trội”, đã đi đến chỗ “tin rằng vũ lực sẽ giải quyết mọi thứ” và sẽ sớm hiểu ra rằng “không đúng” như vậy. Rồi sau đó tất nhiên phải kể đến Việt Nam – sự tàn phá, những cảnh bom napan, vụ thảm sát Mỹ Lai, cuộc xâm nhập bí mật vào Campuchia, đợt đánh bom Hà Nội, và cảm nhận chung về một siêu cường quốc thực dân phương Tây trấn áp buộc một quốc gia nhỏ nhưng ngang ngạnh ở Thế giới Thứ ba quy phục. Khi Hubert Humphrey, phó tổng thống của Johnson thăm Tây Berlin vào năm 1967, trung tâm văn hóa Mỹ bị tấn công, hàng ngàn sinh viên biểu tình phản đối những chính sách của Mỹ, và có nhiều tin đồn về những âm mưu ám sát. Năm 1968, khi hàng triệu thanh niên Châu Âu xuống đường, họ không bày tỏ lòng ngưỡng mộ văn hóa Mỹ.

Đại đa số các quốc gia trên thế giới cũng đã không cố gắng noi gương hệ thống Mỹ. Trong những thập niên đầu sau Chiến tranh Lạnh, nhiều người thích thú những nền kinh tế do nhà nước kiểm soát của Liên Xô và Trung Quốc, những nền kinh tế đó dường như hứa hẹn tăng trưởng mà không có những vấn đề rối beng của dân chủ. Nền kinh tế của các nước khối Xô Viết đã có tỉ lệ tăng trưởng cao bằng tỉ lệ ở phương Tây trong phần lớn thời kỳ này, chủ yếu là nhờ việc phát triển mạnh công nghiệp nặng do nhà nước chỉ đạo. Theo Allen Dulles, giám đốc CIA, nhiều lãnh tụ ở Thế giới Thứ ba tin rằng hệ thống Xô Viết “có thể mang lại nhiều kết quả nhanh chóng hơn hệ thống Mỹ”. Những nhà độc tài như Nasser của Ai Cập và Sukarno của Indonesia thấy mô hình nhà nước đóng vai trò chủ đạo đặc biệt hấp dẫn, mà cả Nehru của Ấn Độ cũng thấy vậy. Giới lãnh đạo Phong trào Không Liên kết mới nổi lên – gồm Nehru, Nasser, Tito, Sukarno, Nkrumah – chẳng hề tỏ vẻ khâm phục những đường lối của Mỹ.

Tuy nhiên, sau khi Stalin chết, cả Liên Xô và Trung Quốc đua tranh khốc liệt với nhau để thu phục Thế giới Thứ ba, tiến hành “những chuyến công du thiện chí” và thực hiện những chương trình viện trợ của chính họ. Eisenhower nghĩ rằng “đường lối mới của Cộng sản tỏ vẻ hữu hảo thân thiện có lẽ nguy hiểm hơn sự tuyên truyền của họ dưới thời Stalin”. Các chính quyền Eisenhower, Kennedy, và Johnson thường xuyên lo lắng về chiều hướng thiên tả của những nước này, và vung tiền viện trợ phát triển cho họ với hy vọng giành được cảm tình của họ. Các vị tổng thống này hiểu ra rằng viện trợ tuy được các nước hồ hởi đón nhận nhưng chẳng bảo đảm rằng họ sẽ trung thành hay cảm kích. Một kết quả của tình trạng thù địch của Thế giới Thứ ba là Mỹ dần dần đánh mất ảnh hưởng ở Liên Hiệp Quốc sau năm 1960. Từng là nơi cuộc chiến của Mỹ ở Triều Tiên được hợp thức hóa, từ thập niên 1960 đến lúc kết thúc Chiến tranh Lạnh, Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc trở thành một diễn đàn để các nước bày tỏ tinh thần bài Mỹ.

Vào cuối thập niên 1960, Henry Kissinger tuyệt vọng về tương lai. “Tình trạng sức mạnh ngày càng chia nhỏ, sự phân tán ngày càng rộng của hoạt động chính trị, và những mẫu hình phức tạp hơn của xung đột và liên kết quốc tế”, ông viết cho Nixon, đã giảm đáng kể năng lực của cả hai siêu cường quốc trong việc gây ảnh hưởng đến “những hành động của các chính phủ khác”. Và trong thập niên 1970 tình hình chỉ dường như càng khó khăn hơn. Mỹ bại trận rút lui khỏi Việt Nam, và thế giới theo dõi sự từ chức đầu tiên trong lịch sử của một tổng thống Mỹ sa lầy trong xì căng đan. Và rồi, có lẽ cũng quan trọng như tất cả những biến cố khác, giá dầu thế giới tăng cao ngất ngưỡng.

VẤN ĐỀ GIÁ DẦU TĂNG CAO cho thấy một khó khăn mới: Mỹ không có khả năng gây ảnh hưởng thực sự ở Trung Đông. Hiện nay người ta xem việc Mỹ không giúp được người Israel và người Palestine đi đến một cách dàn xếp thông qua đàm phán, hoặc không quản được làn sóng nổi dậy Mùa xuân Ả rập đầy biến động, như một dấu hiệu thể hiện sự yếu kém và suy tàn. Nhưng vào năm 1973, Mỹ thậm chí không thể ngăn chặn các cường quốc ở Trung Đông tham gia vào chiến tranh toàn lực. Khi Ai Cập và Syria bất ngờ tấn công Israel, Washington cũng bị bất ngờ. Mỹ rốt cuộc phải vào tình trạng báo động hạt nhân để ngăn cản sự can thiệp của Liên Xô vào cuộc xung đột này. Cuộc chiến tranh đó đã dẫn đến cấm vận dầu hỏa, sự thành lập OPEC như một thế lực quan trọng trong các vấn đề quốc tế, và sự đột ngột khám phá ra rằng, theo lời của sử gia Daniel Yergin, “bản thân Mỹ giờ đây rốt cuộc cũng dễ bị tổn thương”. “Siêu cường quốc hàng đầu của thế giới” đã bị “một vài nước nhỏ đẩy vào thế phòng thủ và hạ nhục”. Nhiều người Mỹ “lo sợ rằng sắp đến hồi kết thúc của một kỷ nguyên”.

Trong thập niên 1970, giá dầu tăng mạnh, cộng với những chính sách kinh tế của Mỹ trong Chiến tranh Việt Nam, đã đẩy nền kinh tế Mỹ vào một cuộc khủng hoảng trầm trọng. Tổng sản phẩm quốc dân giảm 6 phần trăm từ năm 1973 đến 1975. Tỉ lệ thất nghiệp tăng gấp đôi từ 4,5 phần trăm lên đến 9 phần trăm. Người Mỹ lâm cảnh khốn khổ phải xếp hàng mua xăng, và chịu đựng hiện tượng kinh tế mới gọi là đình lạm (stagflation), tức là kinh tế vừa đình trệ vừa có lạm phát cao. Nền kinh tế Mỹ trải qua ba cuộc suy thoái trong thời kỳ từ 1973 đến 1982. “Cuộc khủng hoảng năng lượng” đối với người Mỹ thời đó cũng như “cuộc khủng hoảng tài khóa” hiện nay. Trong bài phát biểu với nước Mỹ được truyền hình đầu tiên của mình, tổng thống Jimmy Carter gọi đó là “thách thức lớn nhất mà đất nước chúng ta đối mặt trong cuộc đời chúng ta”. Điều đặc biệt đáng tủi nhục là cuộc khủng hoảng này bị gây ra một phần bởi hai đồng minh thân thiết của Mỹ là hoàng gia Ả rập Saudi và Quốc vương Iran. Như Carter kể lại trong hồi ký của ông, người Mỹ “vô cùng phẫn nộ vì quốc gia vĩ đại nhất trên thế giới đã bị một vài nhà nước sa mạc lật lọng”.

Thời điểm xấu nhất của Mỹ là năm 1979, khi Quốc vương Iran bị lật đổ, cách mạng Hồi giáo cực đoan do Ayatollah Khomeini lãnh đạo lên cầm quyền, và năm mươi hai người Mỹ bị bắt làm con tin và bị giam giữ trong hơn một năm. Theo quan sát của Yergin, cuộc khủng hoảng con tin “đã truyền đạt một thông điệp mạnh mẽ: rằng sự dịch chuyển sức mạnh trong thị trường dầu thế giới vào thập niên 1970 chỉ là một phần trong một màn kịch lớn hơn đang diễn ra trong sân khấu chính trị thế giới. Thông điệp đó dường như muốn nói rằng Mỹ và phương Tây quả thực đang suy tàn, đang ở thế phòng thủ, và có vẻ như không thể làm được gì để bảo vệ những lợi ích của họ, dù là lợi ích kinh tế hay chính trị”.

NẾU AI MUỐN đưa ra luận cứ chứng minh Mỹ suy tàn, thì thập niên 1970 có lẽ là thời điểm để làm điều đó; và nhiều người đã làm vậy. Theo Kissinger, Mỹ rõ ràng “đã qua đỉnh cao lịch sử của mình giống như quá nhiều nền văn minh trước kia … Mỗi nền văn minh từng tồn tại rốt cuộc rồi cũng sụp đổ. Lịch sử là một câu chuyện về những nỗ lực đã thất bại”. Chính thập niên 1970 là thời kỳ nền kinh tế Mỹ đánh mất vị thế hàng đầu áp đảo của mình, khi thặng dư thương mại của Mỹ bắt đầu biến thành thâm hụt thương mại, khi chi tiêu cho các khoản trợ cấp chính phủ và các chương trình phúc lợi xã hội đã tăng vọt, khi dự trữ vàng và tiền tệ của Mỹ cạn kiệt.

Những khó khăn kinh tế đưa đến tình trạng mất an ninh về chính trị và chiến lược. Thứ nhất là xuất hiện niềm tin cho rằng trào lưu lịch sử đang thuận cho Liên Xô. Bản thân giới lãnh đạo Liên Xô tin rằng “sự tương quan của các thế lực” thuận lợi cho chủ nghĩa cộng sản; việc Mỹ bại trận và rút quân khỏi Việt Nam khiến giới chức Liên Xô, lần đầu tiên, tin rằng họ có thể thực sự “thắng lợi” trong cuộc đấu tranh Chiến tranh Lạnh dai dẳng. Một thập niên sau, vào năm 1987, Paul Kennedy mô tả cả hai siêu cường quốc này đang chịu tác hại của “tầm ảnh hưởng đế quốc dàn trải quá rộng” (imperial overstretch), nhưng cho rằng hoàn toàn có khả năng Mỹ sẽ sụp đổ trước, tiếp nối một truyền thống lịch sử lâu đời của những đế chế kiệt quệ và khánh tận. Mỹ là tự làm mình lụn bại do chi tiêu quá nhiều vào quốc phòng và đảm nhận quá nhiều trách nhiệm toàn cầu ở những nơi xa xăm. Nhưng chỉ trong vòng hai năm Bức tường Berlin sập đổ, và hai năm sau đó đến lượt Liên Xô sụp đổ. Sự suy tàn hóa ra lại diễn ra ở nơi khác.

RỒI PHẢI KỂ ĐẾN nền kinh tế kỳ diệu của Nhật. “Sự vươn lên của phần còn lại” bắt đầu vào cuối thập niên 1970 và tiếp tục trong một thâp niên rưỡi tiếp theo, khi Nhật, cùng với “những con hổ Châu Á” khác (Nam Triều Tiên, Singapore, và Đài Loan) dường như bắt đầu làm lu mờ Mỹ về mặt kinh tế. Năm 1989, nhà báo James Fallows nhận định rằng nền kinh tế do nhà nước chỉ đạo của Nhật rõ ràng ưu việt hơn chủ nghĩa tư bản thị thường tự do của Mỹ, và chắc chắn sẽ qua mặt kinh tế Mỹ. Nhật có triển vọng thành siêu cường quốc tiếp theo. Trong khi Mỹ tự làm mình khánh tận do tham gia Chiến tranh Lạnh, người Nhật bận rộn với việc gom hết mọi món lợi. Như nhà phân tích Chalmers Johnson nhận định vào năm 1995, “Chiến tranh Lạnh đã kết thúc, và Nhật đã thắng”. Thậm chí ngay khi Johnson viết những lời này, kinh tế Nhật đang sa vào vòng xoáy trượt dài vào một thời kỳ đình trệ mà đến nay Nhật vẫn chưa hồi phục được.

Liên Xô nay đã biến mất, còn Trung Quốc chưa thể hiện được sức mạnh lâu bền của sự bùng nổ kinh tế, Mỹ bỗng nhiên dường như là “siêu cường quốc độc nhất” của thế giới”. Tuy nhiên, ngay cả khi đó, thật đáng lưu ý là Mỹ cũng không thành công khi xử lý nhiều vấn đề toàn cầu nghiêm trọng. Người Mỹ thắng Chiến tranh Vùng Vịnh, mở rộng NATO về hướng đông, cuối cùng đã mang lại hòa bình cho vùng Balkan, sau khi quá nhiều máu đã đổ, và, trong phần lớn thập niên 1990, khiến nhiều nước trên thế giới chấp nhận “đồng thuận Washington” về kinh tế học – nhưng một số thành công này bắt đầu hết tác dụng, và đi kèm với những thất bại cũng không kém phần quan trọng. Đồng thuận Washington bắt đầu sụp đổ với cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997, trong đó những toa thuốc của Mỹ bị nhiều người xem là sai lầm và gây tác hại. Mỹ thất bại trong việc ngừng hay thậm chí trì hoãn đáng kể những chương trình vũ khí hạt nhân của bắc Triều Tiên và Iran, dù nhiền lần tuyên bố ý định làm như vậy. Chế độ trừng phạt áp đặt lên Iraq của Saddam Hussein tỏ ra vô ích, và đến cuối thập niên đó đã sụp đổ. Mỹ, và thế giới, chẳng làm gì để ngăn chặn nạn diệt chủng ở Rwanda, một phần là do một năm trước đó Mỹ đã bị đẩy ra khỏi Somalia sau một đợt can thiệp quân sự thất bại. Một trong những công cuộc quan trọng nhất của Mỹ trong thập niên 1990 là nỗ lực hỗ trợ tiến trình chuyển tiếp sang dân chủ và chủ nghĩa tư bản thị trường tự do ở nước Nga hậu Xô viết. Nhưng mặc dù cấp hàng tỉ đô-la và đóng góp vô vàn lời tư vấn và ý kiến chuyên môn, Mỹ thấy diễn biến tình hình ở Nga một lần nữa vuột ra khỏi tầm kiểm soát của mình.

Ngay cả trong giai đoạn được xem là thời hoàng kim của vị thế thống lĩnh thế giới, giới lãnh đạo Mỹ cũng chẳng thành công trong việc giải quyết vấn đề Israel-Palestine hơn là bao so với hiện nay. Thậm chí với một nền kinh tế bùng nổ và một tổng thống được nhiều người yêu mến nỗ lực hết mình để đạt được một giải pháp, chính quyền Clinton cũng trắng tay. Như cựu chuyên gia đàm phán hòa bình Trung Đông Aaron David Miller nhớ lại, Bill Clinton “quan tâm đến và đầu tư nhiều thời gian và sức lực cho hòa bình Ả rập-Israel trong thời gian dài hơn bất cứ vị tiền nhiệm nào”, và được cả Israel lẫn Palestine khâm phục và đánh giá cao – thế nhưng ông đã tổ chức “ba hội nghị thượng đỉnh trong vòng sáu tháng và lần nào cũng thất bại”. Nhiệm kỳ của Clinton kết thúc với sự sụp đổ của những cuộc thương thảo hòa bình và sự bắt đầu của cuộc khởi nghĩa Palestine lần thứ hai [chống Israel].

Thậm chí trong thập niên 1990 Mỹ cũng chưa chắc chiếm được cảm tình của thế giới. Năm 1999, Samuel P. Huntington gán cho Mỹ danh hiệu “siêu cường quốc đơn độc”, bị thù ghét ở nhiều nơi trên địa cầu vì hành vi “có tính xâm phạm, can thiệp, lợi dụng, đơn phương, bá quyền, đạo đức giả”. Ngoại trưởng Pháp lên án “siêu cường quốc cực đoan”(hyperpower) và công khai mong ước một thế giới “đa cực” trong đó Mỹ không còn thống lĩnh nữa. Một nhà ngoại giao Anh nói với Huntington: “Chỉ ở Mỹ người ta mới thấy thế giới mong muốn vai trò lãnh đạo của Mỹ. Ở tất cả những nơi khác người ta thấy Mỹ ngạo mạn và hành động đơn phương.”

ĐIỀU ĐÓ HẲN NHIÊN là vô lý. Trái với nhận định của nhà ngoại giao Anh, nhiều nước khác quả thực đã mong Mỹ đóng vai trò lãnh đạo, mong được Mỹ bảo vệ và ủng hộ, trong thập niên 1990 và trong suốt thời Chiến tranh Lạnh. Vấn đề không phải là Mỹ luôn luôn thiếu ảnh hưởng toàn cầu. Kể từ sau Chiến tranh Thế giới Thứ hai, Mỹ quả thực là cường quốc thống lĩnh trên thế giới. Mỹ gây ảnh hưởng lớn lao, lớn hơn bất cứ cường quốc nào kể từ thời La Mã, và Mỹ đã đạt nhiều thành tựu. Nhưng Mỹ không phải là toàn năng – còn lâu mới được vậy. Nếu muốn đánh giá chính xác liệu Mỹ hiện có đang suy tàn hay không, ta cần có một chuẩn mực hợp lý để dựa vào đó mà đo lường. So sánh ảnh hưởng của Mỹ ngày nay với vị thế thống lĩnh vượt trội trong một quá khứ hoang đường chỉ có thể khiến ta lầm lạc mà thôi.

Ngày nay Mỹ thiếu khả năng đạt được ý muốn của mình về nhiều vấn đề, nhưng điều này cũng không ngăn cản Mỹ đạt nhiều thành công, cũng như chịu nhiều thất bại, như trong quá khứ. Tuy còn gây tranh cãi, Mỹ đã thành công ở Iraq hơn ở Việt Nam trước đây. Mỹ xưa nay không thể kiềm chế những tham vọng hạt nhân của Iran, hiện nay cũng như trong thập niên 1990, nhưng bằng nỗ lực của hai đời tổng thống, Mỹ đã thiết lập một mạng lưới chống phổ biến hạt nhân toàn cầu hữu hiệu hơn. Những nỗ lực của Mỹ nhằm loại trừ và tiêu diệt Al Qaeda đã thành công đáng kể, đặc biệt nếu so với những thất bại trong việc tiêu diệt những mạng lưới khủng bố và ngăn chặn những vụ tấn công khủng bố trong thập niên 1990 – những thất bại với đỉnh điểm là các vụ khủng bố 11/9. Khả năng sử dụng máy bay không người lái là một bước tiến về các loại vũ khí – tên lửa tầm thấp điều khiển từ xa và các vụ oanh tạc – đã được dùng để tấn công bọn khủng bố và các cơ sở của chúng trong những thập niên trước. Trong khi các liên minh của Mỹ ở Châu Âu vẫn còn vững vàng, chắc chắn không phải lỗi của Mỹ khi bản thân Châu Âu dường như yếu hơn trước đây. Các liên minh của Mỹ ở Châu Á có thể nói lớn mạnh hơn trong vài năm qua, và Mỹ củng cố được quan hệ với Ấn Độ vốn trước đây có căng thẳng.

Vậy là có thành có bại, nhưng xưa nay vẫn có thành có bại như vậy. Mỹ có lúc có ảnh hưởng nhiều hơn hiện nay, có lúc có ít ảnh hưởng hơn. Việc gây ảnh hưởng luôn là một cuộc đấu tranh; điều đó có thể giải thích tại sao trong từng thập niên kể từ khi kết thúc Chiến tranh Thế giới Thứ hai, người Mỹ lại lo lắng về ảnh hưởng giảm sút của họ và bồn chồn theo dõi khi những cường quốc khác dường như đang vươn lên làm ảnh hưởng tới vị thế của Mỹ. Việc định hình môi trường quốc tế ở bất kỳ thời kỳ nào cũng vô cùng gian truân. Hiếm có cường quốc nào thậm chí cố gắng làm điều đó, và ngay cả quốc gia hùng mạnh nhất ít khi đạt được tất cả hay thậm chí phần lớn những mục tiêu của họ. Chính sách đối ngoại giống như đánh bóng chày: nếu ta đánh 10 lần mà trật 7 lần, thì cũng đủ để tên tuổi ta được đưa vào Nhà Lưu Danh.

III. Những thách thức hiện nay rất lớn, và sự vươn lên của Trung Quốc là thách thức hiển nhiên nhất. Nhưng chúng cũng không lớn hơn những thách thức mà Mỹ gặp phải trong Chiến tranh Lạnh. Chỉ khi hồi tưởng lại mới thấy Chiến tranh Lạnh có vẻ dễ dàng. Người Mỹ vào cuối Chiến Tranh Thế giới Thứ hai đối mặt với một cuộc khủng hoảng chiến lược quan trọng. Liên Xô, nếu chỉ xét về quy mô và địa thế của họ, dường như đe dọa những trung tâm chiến lược ở Châu Âu, Trung Đông, và Đông Á. Ở tất cả những vùng này, Liên Xô đối đầu với những quốc gia điêu tàn và kiệt quệ vì chiến tranh. Để giải quyết thách thức này, Mỹ đã phải vận dụng sức mạnh của chính mình, tuy lớn nhưng cũng hạn chế, vào mỗi vùng đó. Mỹ đã phải thành lập các liên minh với những quyền lực địa phương, một số trong đó là kẻ thù cũ, và hỗ trợ về kinh tế, chính trị, và quân sự để giúp họ đứng vững trên đôi chân của mình và chống lại sức ép của Liên Xô. Trong Chiến tranh Lạnh, Liên Xô gây ảnh hưởng và tạo áp lực đối với những lợi ích của Mỹ chỉ bằng cách ngồi yên, trong khi Mỹ phải tất tả ngược xuôi. Nên nhớ rằng chiến lược “ngăn chặn” (containment) này tuy hiện nay được đề cao nhờ thành công rõ rệt của nó nhưng vào thời đó bị một số nhà quan sát có ảnh hưởng chê là hoàn toàn không có tác dụng. Walter Lippmann chỉ trích chiến lược đó là “sai lầm”, dựa trên “hy vọng”, nhường “thế chủ động chiến lược” cho Liên Xô trong khi Mỹ dốc hết nguồn lực của mình để cố gắng thiết lập “những nhà nước chư hầu, những chính phủ bù nhìn” yếu kém, không hữu hiệu, và không đáng tin cậy.

Hiện nay, trong trường hợp Trung Quốc, tình thế đã đảo ngược. Mặc dù Trung Quốc hiện đang và sẽ giàu hơn nhiều, và sẽ gây ảnh hưởng kinh tế trên thế giới lớn hơn ảnh hưởng mà Liên Xô từng có. Chiến tranh Thế giới Thứ hai đã đẩy Trung Quốc vào một vị thế tương đối yếu mà từ đó Trung Quốc đã và đang cố gắng hết sức để hồi phục. Nhiều nước láng giềng của Trung Quốc là những quốc gia mạnh có quan hệ gần gũi với Mỹ. Trung Quốc sẽ khó trở thành một nước bá quyền trong khu vực chừng nào Đài Loan vẫn còn độc lập và có quan hệ chiến lược với Mỹ, và chừng nào những cường quốc trong khu vực như Nhật, Hàn Quốc và Úc tiếp tục có quân Mỹ đồn trú và còn căn cứ quân sự của Mỹ. Trung Quốc sẽ cần ít nhất vài đồng minh mới mong có cơ hội đẩy Mỹ ra khỏi thành trì của Mỹ ở tây Thái Bình Dương, nhưng ngay bây giờ chính Mỹ mới là nước có những đồng minh đó. Chính Mỹ hiện có quân triển khai ở những căn cứ tiền đồn. Chính Mỹ hiện chiếm thế thống lĩnh hải quân ở những vùng biển và đường thủy mà hoạt động thương mại của Trung Quốc phải đi qua. Nhìn tổng thể, với tư cách là một đại cường quốc đang vươn lên, nhiệm vụ của Trung Quốc (đẩy Mỹ ra khỏi vị thế hiện tại), khó khăn hơn nhiều so với nhiệm vụ của Mỹ (chỉ cần duy trì vị thế mình đang có).

Liệu Mỹ có thể làm vậy hay không? Với tâm trạng bi quan hiện nay, một số người Mỹ nghi ngờ khả năng đó. Thực vậy, họ ngờ vực liệu Mỹ có đủ khả năng tiếp tục đóng vai trò thống lĩnh ở bất cứ nơi nào trên thế giới như đã từng trong quá khứ. Có người lập luận rằng tuy có thể đã không đúng hồi năm 1987, lời cảnh báo của Paul Kennedy về “tầm ảnh hưởng đế quốc dàn trải quá rộng” (imperial overstretch) mô tả chính xác hiện trạng bất ổn của Mỹ. Cuộc khủng hoảng tài khóa, hệ thống chính trị bế tắc, những vấn nạn khác nhau của xã hội Mỹ (trong đó có tình trạng mức lương dậm chân tại chỗ, bất bình đẳng thu nhập), những nhược điểm của hệ thống giáo dục, cơ sở hạ tầng xuống cấp – tất cả những vấn đề này hiện nay được xem là những nguyên nhân tại sao Mỹ cần cắt giảm hoạt động quốc tế, rút lui bớt từ một số cam kết ở nước ngoài, tập trung vào việc “xây dựng đất nước ở quốc nội”, chứ đừng cố gắng tiếp tục định hình thế giới như đã từng trong quá khứ.

MỘT LẦN NỮA, những giả định phổ biến này gần được cân nhắc ít nhiều. Trước hết, Mỹ đã “dàn trải quá rộng” đến đâu? Câu trả lời là, xét về mặt lịch sử, không hề quá rộng như thoạt tưởng. Thử xét đến vấn đề dễ hiểu là số quân mà Mỹ triển khai ở nước ngoài. Theo dõi cuộc tranh luận hiện nay, ta có thể tưởng rằng số quân Mỹ tham gia các hoạt động ở nước ngoài nhiều hơn bao giờ hết. Nhưng còn lâu mới đúng như vậy. Năm 1953, Mỹ có gần một triệu quân triển khai ở nước ngoài – 325.000 tham chiến ở Triều Tiên và 600.000 đồn trú ở Châu Âu, Châu Á, và những vùng khác. Năm 1968, Mỹ có hơn một triệu quân ở nước ngoài – 537.000 ở Việt Nam và thêm một nửa triệu quân đóng ở những nơi khác. Trái lại, vào mùa hè 2011, vào lúc cao trào của số quân triển khai trong hai cuộc chiến của Mỹ, có khoảng 200.000 quân tham chiến ở Iraq và Afghanistan tính chung, và khoảng 160.000 quân đóng ở Châu Âu và Đông Á. Tính chung, và bao gồm những lực lượng khác đóng trên khắp thế giới, có khoảng 500.000 triển khai ở nước ngoài. Con số này thậm chí còn thấp hơn những đợt triển khai thời bình trong Chiến tranh Lạnh. Ví dụ, năm 1957, có hơn 750.000 quân đóng ở nước ngoài. Thời gian mười năm từ khi đế chế Xô viết sụp đổ cho đến lúc xảy ra những vụ khủng bố 11/9 là giai đoạn duy nhất mà con số những lực lượng triển khai ở nước ngoài thấp hơn hiện nay. Phép so sánh này càng tương phản hơn nếu ta xét đến mức gia tăng dân số của Mỹ. Khi Mỹ có một triệu quân triển khai ở nước ngoài vào năm 1953, tổng dân số của Mỹ chỉ là 160 triệu. Hiện nay, khi có nửa triệu quân triển khai ở nước ngoài, dân số Mỹ là 313 triệu. Đất nước có số dân đông gấp đôi, với số quân triển chỉ bằng một nửa so với 50 năm trước.

Vậy còn phí tổn tài chính thì sao? Nhiều người hình như tin rằng chi phí của những đợt triển khai này, và của các lực lượng vũ trang nói chung, là một yếu tố chính góp phần làm tăng vọt những khoản thâm hụt ngân sách đe dọa đến khả năng trả nợ của nền kinh tế quốc dân. Nhưng điều này cũng không đúng. Theo nhận định của nguyên giám đốc cơ quan ngân sách Mỹ Alice Rivlin, những dự báo đáng sợ về thâm hụt trong tương lai không phải là do “chi tiêu quốc phòng gia tăng”, huống gì là do chi tiêu cho viện trợ nước ngoài. Những khoản thâm hụt bất kham dự báo cho những năm sắp đến chủ yếu là kết quả của chi tiêu phân bổ bắt buộc theo luật định (entitlement spending) ngày càng nhiều. Ngay cả những khoản cắt giảm mạnh tay nhất về ngân sách quốc phòng cũng chỉ tiết kiệm được từ 50 tỉ đến 100 tỉ đô-la mỗi năm, một tỉ lệ nhỏ – từ 4 đến 8 phần trăm – trong con số 1,5 ngàn tỉ đô-la thâm hụt hàng năm mà Mỹ đang đương đầu.

Năm 2002, khi Paul Kennedy sửng sốt về việc Mỹ vẫn còn khả năng duy trì vị thế “siêu cường quốc độc nhất của thế giới với giá rẻ”, Mỹ chi tiêu khoảng 3,4 phần trăm GDP cho quốc phòng. Hiện nay, mức chi tiêu đó thấp hơn 4 phần trăm một chút, và trong những năm sắp đến, con số đó có thể lại giảm xuống – vẫn còn “rẻ” theo các chuẩn mực trong lịch sử. Chi phí cho việc duy trì sức mạnh thống lĩnh thế giới không đến nỗi đắt quá.

Ngoài ra, nếu ta thật sự nghiêm túc về chuyện hạch toán này, chi phí của việc duy trì vị thế đó không thể đo lường được nếu không xét đến chi phí của việc đánh mất vị thế đó. Tất nhiên, trong những chi phí của việc giảm vai trò của Mỹ trên thế giới, có những chi phí không thể định lượng được. Nếu người Mỹ được sống trong một thế giới với chủ yếu là các nước dân chủ, thay vì các chế độ chuyên quyền, thì điều đó có giá trị ra sao đối với người Mỹ? Nhưng một số trong những chi phí khả dĩ này có thể đo lường được, nếu như có người muốn thử. Nếu sự suy tàn của sức mạnh quân sự Mỹ dẫn đến sự tan rã trật tự kinh tế quốc tế mà sức mạnh Mỹ từ trước đến nay đã giúp duy trì; nếu những con đường mậu dịch và đường thủy không còn an toàn như trước, vì Hải quân Mỹ không còn khả năng bảo vệ chúng; nếu những cuộc chiến tranh khu vực bùng nổ giữa các đại cường quốc vì họ không còn bị siêu cường Mỹ chế ngự; nếu những đồng minh của Mỹ bị tấn công vì Mỹ tỏ ra không còn khả năng ứng cứu bảo vệ cho họ; nếu bản chất nhìn chung tự do và cởi mở của hệ thống quốc tế trở nên bớt tự do và cởi mở – nếu tất cả những điều này xảy ra, thì sẽ có những chi phí có thể đo lường được. Và cũng chẳng phải viển vông nếu hình dung rằng những chi phí này sẽ lớn hơn nhiều so với những khoản tiết kiệm thu được nhờ cắt giảm 100 tỉ đô-la mỗi năm trong ngân sách quốc phòng và ngân sách viện trợ nước ngoài. Ta có thể tiết kiệm bằng cách mua xe cũ không có bảo hành và không có một số đặc tính an toàn, nhưng chuyện gì xảy ra nếu ta bị tai nạn? Sức mạnh quân sự Mỹ giảm rủi ro xảy ra các tai nạn bằng cách ngăn cản xung đột, và giảm chi phí của các tai nạn thực sự xảy ra bằng cách giảm xác suất thua trận. Những khoản tiết kiệm này cũng cần được đưa vào phép tính. Chỉ riêng về khía cạnh tài chính, việc duy trì hoạt động quốc tế của Mỹ ở mức độ hiện tại có thể rẻ hơn nhiêu so với việc giảm bớt hoạt động đó.

CÓ LẼ MỐI QUAN NGẠI lớn nhất đằng sau tâm lý lo sợ suy tàn hiện diện trên khắp đất nước hiện nay không hẳn là liệu Mỹ có đủ khả năng đảm nhận vai trò của mình trên thế giới hay không. Mà là liệu người Mỹ có giải quyết được vấn đề nào trong những khó khăn kinh tế và xã hội cấp bách nhất của họ. Như nhiều chính khách và bình luận viên đã hỏi, liệu người Mỹ có thể làm điều cần phải làm để cạnh tranh hiệu quả trên thế giới trong thế kỷ 21 hay không?

Câu trả lời trung thực là: ai mà biết được? Tuy nhiên, nếu lấy lịch sử Mỹ làm chỉ dẫn, chí ít cũng có lý do để hy vọng. Người Mỹ trước kia từng có cảm giác bất an này, và nhiều thế hệ trước đây cũng đã có cảm tưởng đánh mất sức sống mãnh liệt và mất hiệu lực: như hồi năm 1788, Patrick Henry[11] than vãn về chuyện đất nước sa sút từ vinh quang trong quá khứ, “khi tinh thần Mỹ đang ở thời thanh xuân”. Trong hai thế kỷ qua đã có nhiều lần hệ thống chính trị trở nên vô dụng, bế tắc đến tuyệt vọng, và dường như không thể tìm ra các giải pháp những vấn nạn trầm trọng của quốc gia – từ nạn nô lệ và rồi thời kỳ Tái thiết sau Nội chiến, đến những xáo trộn về công nghiệp hóa vào cuối thế kỷ 19 và cuộc khủng hoảng phúc lợi xã hội trong cuộc Đại Khủng hoảng, đến những hỗn loạn và tâm lý hoang tưởng trong những năm đầu của Chiến tranh Lạnh. Bất cứ ai trung thực nhớ lại thập niên 1970, với vụ Watergate, cuộc chiến Việt Nam, kinh tế vừa đình trệ vừa lạm phát cao, và khủng hoảng năng lượng, không thể thực sự tin rằng những khó khăn hiện nay của chúng ta là không có gì sánh bằng.

Thành công trong quá khứ không bảo đảm thành công trong tương lai. Nhưng dường như bằng chứng lịch sử cho thấy rõ một điều: hệ thống Mỹ tuy có những đặc tính thường khiến nó vô dụng nhưng cũng đã chứng tỏ có khả năng thích ứng và hồi phục từ những khó khăn tốt hơn nhiều nước khác, trong đó có những đối thủ địa chính trị. Điều này hẳn nhiên có liên quan đến quyền tự do tương đối của xã hội Mỹ tưởng thưởng cho những người đổi mới sáng tạo, thường bên ngoài cơ cấu quyền lực hiện có, vì có công tạo ra những cách làm mới; và liên quan đến hệ thống chính trị tương đối cởi mở của Mỹ cho phép các phong trào có động lực tiến triển và tác động đến hành vi của giới chóp bu quyền lực chính trị. Hệ thống Mỹ chậm chạp và vụng về một phần bởi vì những vị Quốc phụ (Founding Fathers) thiết kế hệ thống theo cách đó, với một cơ cấu liên bang, tam quyền phân lập, và một Hiến Pháp và Tuyên Ngôn Dân Quyền thành văn – nhưng hệ thống đó cũng có năng lực đặc biệt để thực hiện những thay đổi ngay khi nồi nước sôi có vẻ như sắp sửa bật tung nắp. Thỉnh thoảng có “những cuộc bầu cử tới hạn”[12] tạo điều kiện diễn ra những chuyển biến [hệ trọng], mang lại những giải pháp chính trị mới cho những vấn đề cũ và dường như không thể giải quyết được. Dĩ nhiên không có gì bảo đảm cả: hệ thống chính trị đã không giải quyết được vấn đề nô lệ mà không có chiến tranh. Nhưng về nhiều vấn đề lớn trong suốt tiến trình lịch sử của mình, người Mỹ đã tìm ra cách đạt được và thực hiện một giải pháp đồng thuận quốc gia.

Khi Paul Kennedy trầm trồ thán phục thành công liên tục của siêu cường Mỹ hồi năm 2002, ông nhận xét rằng một trong những nguyên nhân chủ yếu là người Mỹ có khả năng vượt qua hoàn cảnh mà hồi năm 1987 ông cứ tưởng là một cuộc khủng hoảng kinh tế dài hạn không giải quyết được. Giới doanh nhân và giới chính khách Mỹ “đã phản ứng mạnh mẽ trước cuộc tranh luận về “suy tàn” bằng cách ra tay hành động: cắt giảm chi phí, tinh giản các công ty cho gọn nhẹ và hiệu quả hơn, đầu tư vào những công nghệ mới hơn, thúc đẩy cách mạng thông tin liên lạc, giảm thâm hụt chính phủ, tất thảy những việc đó đã giúp tạo nên những bước tiến đáng kể hàng năm về năng suất”. Có thể hình dung rằng người Mỹ cũng có thể đương đầu được với thách thức kinh tế mới đây nhất. Cũng hợp lý nếu nghĩ rằng giống như trong quá khứ, những quốc gia khác sẽ gặp phải những khó khăn của chính họ. Trong số những quốc gia hiện đang tận hưởng các phép lạ kinh tế, không có nước nào không có vấn đề. Brazil, Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ, và Nga đều có những lịch sử đầy gian truân cho thấy con đường trước mắt sẽ không phải là đường thăng hoa đơn giản và suôn sẻ. Có một câu hỏi thực sự: liệu mô hình chuyên quyền của Trung Quốc, vốn có thể rất hữu hiệu trong việc đưa ra một số quyết định chiến lược về nền kinh tế trong ngắn hạn, về dài hạn có thể đủ linh hoạt để thích ứng với một môi trường kinh tế, chính trị, và chiến lược quốc tế đang biến đổi hay không?

Tóm lại: không phải chỉ nhờ có may mắn mà trong quá khứ Mỹ đã vượt qua những cuộc khủng hoảng và trỗi dậy mạnh mẽ hơn và vững vàng hơn những nước khác trong khi nhiều đối thủ của Mỹ đã suy sụp. Và có thể chỉ bằng khấn nguyện thôi thì chưa đủ để tin rằng Mỹ lại có thể làm được như vậy.

NHƯNG một nguy cơ. Đó là trong lúc này, trong khi đất nước tiếp tục chật vật, người Mỹ có thể tự nhủ rằng suy tàn quả thực là điều tất yếu, hoặc tin rằng Mỹ có thể tạm rút lui khỏi những trách nhiệm toàn cầu trong khi xử lý những vấn đề nội địa. Đối với nhiều người Mỹ, chấp nhận suy tàn có thể là một lối thoát đáng hoan nghênh để trốn khỏi những gánh nặng đạo đức và vật chất đã đè lên vai họ kể từ Chiến tranh Thế giới Thứ hai. Nhiều người trong tiềm thức có thể mong ước trở lại với tình hình hồi năm 1900, khi Mỹ giàu có, hùng mạnh, nhưng không phải chịu trách nhiệm cho trật tự thế giới.

Giả định đằng sau một hướng đi như vậy là trật tự thế giới hiện tại dù sao sẽ vẫn tồn tại mà không cần sức mạnh Mỹ, hay ít ra là cần ít sức mạnh Mỹ hơn; hoặc những nước khác có thể điền khuyết vào những việc chưa có ai đảm nhận; hoặc đơn giản là những lợi ích của trật tự thế giới luôn hiện diện và chẳng cần hành động đặc biệt của bất cứ ai. Đáng tiếc là trật tự thế giới hiện tại – với những quyền tự do phổ biến rộng rãi, tình hình nhìn chung thịnh vượng, và không có xung đột giữa các đại cường quốc – vừa mỏng manh vừa độc nhất vô nhị. Gìn giữ trật tự đó xưa nay là một cuộc đấu tranh trong mỗi thập niên, và sẽ vẫn là một cuộc đấu tranh trong những thập niên sắp đến. Việc gìn giữ trật tự thế giới hiện tại đòi hỏi vai trò lãnh đạo thường xuyên của Mỹ và cam kết thường xuyên của Mỹ.

Suy cho cùng, quyết định nằm trong tay người Mỹ, Sự suy tàn, như Charles Krauthammer nhận xét, là một lựa chọn. Suy tàn không phải là một định mệnh không thể tránh khỏi – ít nhất là chưa phải vậy. Các đế chế và đại cường quốc hưng thịnh rồi suy vong, và câu hỏi duy nhất là khi nào. Nhưng câu hỏi “khi nào” quả thực rất quan trọng. Liệu Mỹ sẽ bắt đầu suy tàn trong hai thập niên sắp đến hay không sẽ có ý nghĩa rất hệ trọng trong hai thế kỷ đến, với cả người Mỹ lẫn bản chất của thế giới họ đang sống.

Robert Kagan là nghiên cứu viên cao cấp về chính sách đối ngoại ở Brookings Institution, và bình luận viên cho báo The Washington Post. Một phiên bản của tiểu luận này sẽ in trong cuốn sách mới của ông, The World America Made (Thế giới mà nước Mỹ tạo ra), sẽ được nhà Knopf xuất bản vào tháng này. Việc ấn hành tiểu luận này được sự hỗ trợ của Quỹ Phân tích Chính sách Hertog/Simon. Bài báo này đăng trong số ngày 2 tháng 2 năm 2012 của tạp chí The New Republic.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Về triển vọng kinh tế thế giới 2012, WB và Liên hiệp quốc khuyến cáo:

Chuẩn bị cho kịch bản xấu nhất

Thứ Năm, 19/01/2012, 09:06 (GMT+7)

TT - Ngân hàng Thế giới (WB) đã hạ mức dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2012-2013 khi nhận định “nền kinh tế thế giới đang bước vào giai đoạn đầy chông gai”.

Trong báo cáo “Triển vọng kinh tế toàn cầu” vừa được xuất bản (hai năm một lần), WB cho rằng thế giới sẽ tiếp tục chứng kiến cuộc khủng hoảng nợ công của khối đồng euro, cộng với triển vọng tăng trưởng chậm chạp của các nền kinh tế đang nổi lên.

WB: tâm chấn của cuộc suy thoái toàn cầu và cơn rúng động

Kinh tế toàn cầu sẽ tăng 2,5% trong năm 2012 và 3,1% trong năm 2013, giảm so với mức dự báo hồi tháng 6-2011 ở 3,6% cho cả hai năm 2012 và 2013. WB nhấn mạnh cuộc khủng hoảng nợ công của khối đồng euro sẽ gây ra hậu quả tiêu cực dây chuyền trong hệ thống tài chính toàn cầu và có thể đẩy thế giới trở lại cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008-2009. Báo cáo cho biết cuộc suy thoái toàn cầu sẽ lại diễn ra với tâm chấn là các nước giàu, nhưng các nước đang phát triển cũng cảm nhận được sự rúng động của nó thông qua giao thương, giá hàng hóa, kiều hối.

WB dự báo Mỹ, nền kinh tế lớn nhất thế giới, sẽ tăng trưởng 2,2% trong năm nay do đang dần phục hồi, còn Nhật Bản sẽ tăng 1,9%. Trung Quốc vẫn là động cơ tăng trưởng kinh tế toàn cầu, dù mức tăng trưởng sẽ giảm còn 8,4% so với ước tính 9,1% trong năm 2011.

Bức tranh suy giảm tương tự cũng có thể sẽ được Quỹ Tiền tệ quốc tế đưa ra khi tổ chức này công bố dự báo về kinh tế thế giới trong tuần tới.

WB khuyến cáo các chính phủ cần chuẩn bị cho một tương lai gần tương tự với thời kỳ sau vụ sụp đổ của ngân hàng tín dụng Lehman Brothers vào năm 2008. “Khủng hoảng sẽ gia tăng mà không chừa một ai” - Andrew Burns, giám đốc bộ phận kinh tế vĩ mô của WB, tác giả của bản báo cáo, nhấn mạnh và khuyến cáo các nước đang phát triển cần chuẩn bị cho điều xấu đến gần, bằng cách kiểm soát chặt chẽ các khoản chi từ ngân sách quốc gia và “sức khỏe” của các ngân hàng.

Với các nhà phong thủy, năm 2012 là năm không bền vững đối với kinh tế toàn cầu khi bóng ma khủng hoảng châu Âu vẫn còn lởn vởn, dịch bệnh, thảm họa thiên nhiên còn tràn lan. Thế nhưng, các cải cách chính trị sẽ diễn ra rộng khắp thế giới. Năm 2012, rồng kết hợp với yếu tố thủy (nước) trở thành một sức mạnh khống chế sức mạnh thiên nhiên cũng như chính trị và sẽ dập tắt ngọn lửa lạc quan về kinh tế.

Liên Hiệp Quốc: Thế giới đứng trước bờ vực suy thoái mạnh

Cũng như WB, trong báo cáo “Tình hình và triển vọng kinh tế thế giới năm 2012 (WESP)” của mình, Liên Hiệp Quốc cảnh báo kinh tế thế giới đang đứng trước bờ vực suy thoái mạnh trong năm 2012 và 2013. Theo WESP, kinh tế toàn cầu chỉ đạt tốc độ tăng trưởng 2,6% trong năm 2012 và 3,2% trong năm 2013, so với 4% năm 2010. Các nước phát triển có nguy cơ rơi vào vòng xoáy suy thoái vì những vấn đề như nợ công lớn, tài chính bấp bênh, nhu cầu thấp và chính sách yếu. Tất cả vấn đề này đã có sẵn và chỉ cần một yếu tố xấu đi cũng đủ gây ra sự hỗn loạn nghiêm trọng về tài chính, tăng trưởng kinh tế sụt giảm.

Liên Hiệp Quốc ước tính thế giới thiếu 64 triệu việc làm trong năm 2011. Tỉ lệ thất nghiệp ở các nước phát triển trung bình lên đến 8,3% trong năm 2011, cao hơn nhiều so với 5,8% thời kỳ tiền khủng hoảng tài chính toàn cầu. Tình trạng này sẽ kéo dài, tác động bất lợi tới người lao động nói riêng và nền kinh tế nói chung.

Châu Á: đầu tàu kinh tế thế giới

Theo Ngân hàng Natixis (Pháp), châu Á đã trở thành đầu tàu kinh tế của thế giới, kéo tỉ lệ tăng trưởng toàn cầu không là con số âm. Theo nhà nghiên cứu Pháp Christophe Jaffrelot tại Viện nghiên cứu quốc tế CERI, sáu trong số 25 nền kinh tế lớn nhất thế giới hiện nằm ở khu vực châu Á, và sáu nền kinh tế này chiếm tỉ trọng gần 1/4 GDP toàn cầu, tạo ra lượng của cải tương đương Mỹ và xấp xỉ 27 nước thành viên Liên minh châu Âu cộng lại.

Sau Chiến tranh thế giới thứ 2, xuất khẩu của châu Á chỉ tương đương 14% tổng trao đổi thương mại toàn cầu, nhưng đến năm 2009 tỉ lệ này đã tăng lên gấp đối, chiếm tới 30%. Thành công trong lĩnh vực thương mại đã giúp nhiều nước châu Á trở thành những “đại gia” tài chính với hơn 50% dự trữ ngoại tệ thế giới thuộc về châu Á, và đưa trung tâm kinh tế của thế giới dịch chuyển về khu vực.

KHỔNG LOAN

Share this post


Link to post
Share on other sites

TƯ LIỆU THAM KHẢO

Viễn cảnh nào cho kinh tế Việt Nam 2012

Phạm Chi Lan

Tia Sáng

03:09-16/01/2012

Năm 2012 đã đến và Rồng sắp tới cửa nhà, mà lòng người còn nặng trĩu lo âu đến nỗi không dám kỳ vọng gì nhiều vào năm của con vật thiêng ấy.Quả thực di sản cộng dồn từ 4 năm 2008-2011 và những căn bệnh kéo dài của cả hệ thống kinh tế ở nước ta đã và đang bộc phát, cùng đổ gánh nặng của chúng vào năm 2012. Lạm phát cao trong khi tăng trưởng giảm, những bất ổn kinh tế vĩ mô kéo dài, như bội chi ngân sách, nhập siêu cao, nợ công, nợ xấu của doanh nghiệp tăng với tốc độ đáng báo động, tỷ trọng hàng tồn kho không tiêu thụ được và số doanh nghiệp phải đóng cửa lên cao chưa từng có. Đời sống của người dân bị ảnh hưởng nặng nề khi thu nhập thực tế liên tục giảm theo đà vật giá leo thang, khi hàng triệu người lao động mất việc làm, mất nguồn sống hoặc bị giảm đáng kể thu nhập do hàng vạn doanh nghiệp ngừng hoạt động và không biết bao nhiêu doanh nghiệp khác liêu xiêu.

Bốn năm liên tục chèo chống với khó khăn vừa qua còn làm hao hụt đi không ít thành quả của hơn 20 năm cải cách, khi các biện pháp hành chính trở nên phổ biến hơn trong giải quyết các vấn đề kinh tế, khi năng lực thể chế và kỷ cương bị tham nhũng lấn át, khi nguồn lực bị phân bổ méo mó hơn theo sức mạnh tăng lên của các nhóm lợi ích, khi một lượng lớn của cải được tích tụ một cách không chính đáng trong tay số ít người giàu có, quyền uy và gây nên khoảng cách cùng sự bất bình ngày càng lớn trong xã hội, khi văn hóa, đạo đức xuống cấp nghiêm trọng và lòng tin sụt giảm nặng nề.

Nhìn ra thế giới, triển vọng kinh tế nói chung cũng không tốt đẹp gì. Bốn cuộc khủng hoảng tài chính, năng lượng, lương thực, môi trường vẫn đang phủ đám mây u ám lên bầu trời các quốc gia và châu lục, kể cả bốn trụ cột lớn của kinh tế thế giới - Mỹ, EU, Nhật , Trung Quốc. Vòng đàm phán Doha đổ vỡ, xu hướng tự do hóa thương mại bị đẩy lùi trước xu hướng bảo hộ tăng lên trên thực tế ở hầu hết các nền kinh tế. Mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung đổ vỡ hẳn (kể cả ở Cuba, dinh lũy cuối cùng), trong khi các mô hình phát triển như thị trường tự do, thị trường xã hội hay cách thức tăng trưởng dựa trên xuất khẩu, trên dòng vốn FDI đều bị thách thức phải điều chỉnh lại.

Vậy thì liệu có gì để vui không trong năm con Rồng này? Vẫn có chỗ cho niềm tin và hy vọng, điểm tựa trong cuộc sống của mọi người trên Trái đất này.

Trên thế giới, ngay từ đầu năm 2011 mùa xuân Ả Rập đã bừng lên thật đẹp, quét đi những đè nén ngự trị bao năm và tưởng như vĩnh cửu ở một số nước trong khu vực đặc biệt này của thế giới. Con đường của người dân nơi đây đi đến dân chủ, văn minh, thịnh vượng chắc chắn không hề dễ dàng, nhưng đã được mở ra rồi và không thế lực nào có thể chặn lại được nữa. Rồi nhân vật “Người biểu tình” mà tạp chí Times bình chọn cho năm 2011 xuất hiện ở Mỹ, ở Nga, ở một số nước khác, nói lên ý chí và sức mạnh của người dân đòi hỏi và sẵn sàng tham gia thay đổi những trật tự bất công - nguồn gốc của những bất ổn xưa nay trên thế giới - để xây dựng cuộc sống công bằng, bình đẳng hơn cho đông đảo người dân các nước đó. Mặt khác, cả thế giới đang chuyển mạnh sang hướng phát triển mới, phát huy sức sáng tạo bất tận của con người để phát triển khoa học, công nghệ, phát triển kinh tế một cách thân thiện với môi trường, tăng cường sự hợp tác và trách nhiệm chung của mọi quốc gia trong việc bảo vệ cuộc sống an bình lâu dài trên Trái đất. Những điều đó sẽ tạo sức mạnh cho con người vượt qua những trở ngại trước mắt để đi tới tương lai.

Trong nước, năm 2011 cũng cho thấy những điểm sáng giữa muôn trùng khó khăn. Đó là nông nghiệp, cũng với sức dẻo dai đã mấy lần cứu vãn tình hình kinh tế trong các cuộc khủng hoảng những năm trước đây, lại một lần nữa nổi trội với kỷ lục mới về xuất khẩu và xuất siêu để tự khẳng định lại vị thế của mình trong chiến lược phát triển của đất nước, khẳng định lợi thế cạnh tranh của nông nghiệp Việt Nam trong bản đồ nông nghiệp toàn cầu. Đó là các ngành xuất khẩu, với vai trò của dệt may, da giày, thủy sản, nông sản…, những sản phẩm tuy bị chê trách vì không tạo nhiều giá trị gia tăng nhưng vẫn vượt lên hơn hẳn những ngành được đầu tư rất lớn song lại không cạnh tranh được bằng chúng trên thị trường toàn cầu đầy sóng gió.

Về mặt thể chế, năm 2011 cũng để lại hy vọng cho năm 2012 với những bài học và quyết tâm thực hiện tiếp Nghị quyết 11 của Chính phủ về chống lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và với sự nhất trí cao về thay đổi mô hình tăng trưởng, tiến hành tái cấu trúc nền kinh tế. Đã thấy rõ đây là những việc phải làm và phải làm sớm, làm mạnh, làm tới nơi tới chốn, nên nếu được có một điều ước thì xin ước rằng những việc này sẽ được thực hiện thực sự nghiêm túc ngay trong năm 2012 để năm Rồng này có thể đánh dấu một bước chuyển tới tương lai tươi sáng cho đất nước ta, dân tộc ta.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Thế giới 24h: Phát ngôn... phát sốt

Cập nhật 20/01/2012 06:00:00 AM (GMT+7)

Posted Image - Hàng loạt phát ngôn gây "sốc toàn tập" do các quan chức quốc tế đưa ra xung quanh vấn đề Iran; Binh sỹ Triều Tiên trào nước mắt vì được ông Kim Jong-Un thăm hỏi... là các tin đáng chú ý trong 24 giờ qua.

Nổi bật trong ngày

Chỉ trong vòng vài ngày qua, hàng loạt chuyên gia, quan chức hàng đầu thế giới liên tục đưa ra phát biểu gây sốc xung quanh vấn đề Iran và khu vực Trung Đông.

Cựu trợ lý Bộ trưởng Tài chính Mỹ Paul Craig Roberts cho rằng, một cuộc chiến nhằm vào Cộng hòa Hồi giáo Iran sẽ đặt dấu chấm hết cho sự sống trên trái đất.

Xuất hiện trong một bài báo trên Global Search, cựu quan chức Mỹ cũng đã đưa một số bằng chứng cho thấy, Nhà Trắng đang chuẩn bị một cuộc chiến với Iran.

“Nếu Washington không muốn gây chiến với Iran thì sẽ không cung cấp các loại vũ khí cần thiết và không triển khai hàng nghìn binh sĩ tới Israel”, ông Roberts nói.

Trước đó, Ngoại trưởng Nga Lavrov cảnh báo, tấn công quân sự Iran sẽ gây ra hậu quả khủng khiếp, thổi bùng căng thẳng giữa người Hồi giáo Sunni và Shiite.

Posted Image

Iran thử tên lửa trong khuôn khổ cuộc tập trận ở eo biển Hormuz. (Ảnh: THX)

Theo ông Lavrov, cuộc tấn công quân sự vào Iran sẽ dẫn tới khủng hoảng về người tị nạn và kích động những căng thẳng giữa các cộng đồng trong khu vực này.

Song, theo ông Yevgeny Satanovsky của Viện Nghiên cứu Trung Đông, Nga chống lưng cho Iran vì lo Tehran sẽ hỗ trợ nhóm Hồi giáo cực đoan ở Bắc Caucasus.

“Chẳng ai muốn bom hạt nhân của Iran cả, nhưng chúng ta phải đảm bảo Iran không tấn công lực lượng của Nga ở Bắc Caucasus", nhà phân tích này nhận định.

Trong khi đó, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Leon Panetta cho hay, nước này hoàn toàn sẵn sàng đương đầu với đe dọa của Iran về việc đóng cửa eo biển Hormuz.

Ông Panetta nhấn mạnh, Mỹ duy trì một lực lượng quân sự hùng hậu quanh vùng Vịnh nhằm "thể hiện rõ rằng chúng tôi sẽ làm tất cả để bảo đảm hòa bình tại đây".

Tuy nhiên, gây sốc nhất là việc Tổng thống Iran Mahmoud Ahmadinejad tuyên bố rằng, những gì Israel đang thể hiện có thể khiến nước này bị xóa sổ khỏi bản đồ.

Ông nói, cuộc tấn công 11/9/2001 ở Mỹ được lên kế hoạch từ bên trong "nhằm đảo ngược kinh tế Mỹ đang suy giảm và kìm kẹp Trung Đông cứu chế độ Do Thái".

Ông còn cáo buộc các nước phương Tây tạo ra virus HIV, làm suy nhược thế giới thứ 3 và tạo ra thị trường kinh doanh cho các công ty dược phẩm phương Tây.

Share this post


Link to post
Share on other sites

TƯ LIỆU THAM KHẢO

Trung Quốc cứng rắn với Iran

Iran đang ngày càng bị đẩy vào thế cô lập khi đồng minh truyền thống là Trung Quốc cũng lên tiếng cảnh báo Tehran về chương trình vũ khí hạt nhân.

> Thủ tướng Trung Quốc thăm Trung Đông

> Trung Quốc: 'Tấn công Iran sẽ gây thảm họa'

Posted Image

Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo. Ảnh: EPA

Sau chuyến thăm đến vùng Vịnh và hội đàm với lãnh đạo các nước Arab, Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo đã trực tiếp bày tỏ sự lên án đối với quốc gia Hồi giáo.

"Trung Quốc kiến quyết phản đối Iran phát triển và chế tạo vũ khí hạt nhân", ông nói.

Thông điệp mà Trung Quốc muốn gửi đến Iran là Tehran không thể trông cậy vào sự ủng hộ hào phóng của Bắc Kinh nữa vào thời điểm Mỹ và châu Âu đang ra sức áp đặt lệnh cấm vận với ngành xuất khẩu dầu mỏ của Tehran. Washington Post cho hay Trung Quốc đã giảm nhập khẩu dầu từ Iran trong tháng một này, từ bình quân 550.000 thùng một ngày xuống còn 285.000 thùng một ngày.

Các chuyên gia về chính sách ngoại giao của Trung Quốc cho hay tuyên bố này đã thể hiện rằng Bắc Kinh sẽ không chấp nhận vị thế quốc tế của mình bị phụ thuộc vào Iran. Chuyến thăm của ông Ôn đến ba cường quốc dầu mỏ và khí đốt của thế giới được giới chuyên gia xem là chuyến tìm kiếm nguồn cung năng lượng thay thế cho Iran. Tuy nhiên, thủ tướng Trung Quốc khẳng định chuyến công du này chỉ nhằm mục đích hữu nghị.

"Iran không muốn Trung Quốc đưa ra tuyên bố trên nhưng Iran phải hiểu rằng đó là lựa chọn của Trung Quốc để không tách mình khỏi thế giới, vì lợi ích của quốc gia", ông Yu Guoqing, một nhà nghiên cứu về Trung Đông thuộc viện Khoa học Xã hội Trung Quốc nói.

Trước đó, Bắc Kinh khẳng định ủng hộ hệ thống chống phổ biến vũ khí hạt nhân nhưng việc Iran sử dụng nguồn năng lượng này vì mục đích hòa bình thì cần được tôn trọng. Trung Quốc cũng khuyến khích Iran nối lại đàm phán hạt nhân và yêu cầu các bên liên quan đảm hòa bình, ổn định của khu vực.

Ngoại trưởng Pháp Alain Juppe cho hay các Bộ trưởng Ngoại giao của Liên minh châu Âu (EU) sẽ thông qua lệnh cấm vận dầu mỏ với Iran và lệnh đóng băng tài sản ngân hàng trung ương nước này trong cuộc họp vào 23/1 tới. Các quan chức châu Âu tiết lộ rằng lệnh cấm vận này sẽ được áp đặt ngay lập tức nhưng các hợp đồng hiện tại với Tehran thì vẫn kéo dài đến 1/7. Lệnh cấm vận đầy đủ có thể được xem xét vào tháng 7 khi các quan chức cân nhắc những tác động đối với giá dầu. Nước thành viên của EU là Hy Lạp đang gặp khó khăn về tài chính và phải phụ thuộc vào nguồn dầu mỏ Iran.

Hiện Mỹ đã thông qua lệnh trừng phạt với các tổ chức có giao dịch dầu mỏ với ngân hàng trung ương Iran. Nhật Bản cũng bày tỏ sự ủng hộ với Mỹ bằng cách giảm nhập khẩu dầu từ Iran nhằm góp phần trừng phạt kinh tế Tehran do chương trình hạt nhân của quốc gia Hồi giáo. Mỹ cũng đang kêu gọi Hàn Quốc giảm phụ thuộc nguồn dầu Iran, trong khi Trung Quốc trước đó từ chối các nỗ lực đơn phương chống lại Iran vì cho rằng sẽ chỉ làm căng thẳng trong khu vực thêm leo thang.

Anh Ngọc

Share this post


Link to post
Share on other sites

LỜI DỰ BÁO TOÀN CẢNH THẾ GIỚI & VIỆT NAM 2012

Nguyễn Vũ Tuấn Anh

Giám đốc Trung tâm nghiên cứu Lý Học Đông phương.

VIỆT NAM 2012

Phân tích dưới góc nhìn của Lý học

Kinh tế

Nền kinh tế Việt Nam sẽ được sự đầu tư mạnh mẽ từ nhiều nước trên thế giới. Nhưng phải có một chính sách, định hướng cho sự đầu tư hướng tới tương lai. Ví dụ như: đầu tư hạ tầng cơ sở như cầu, đường giao thông... Cân đối về môi trường sinh thái, năng lượng của tương lai....Đặc biệt nên đầu tư vào các ngành khoa học mũi nhọn sẽ phát triển trong tương lai đó là Công nghệ thong tin, tự động hóa, đầu tư nghiên cứu khoa học cơ bản về lý thuyết... Theo tôi, Việt Nam nên cố gắng phát triển đồng bộ về mọi mặt, văn hóa, khoa học kỹ thuật, kinh tế... Nên khôi phục những giá trị văn hóa lịch sử để cân bằng những trạng thái tâm lý xã hội.
Những nền kinh tế xương sống của Nhà Nước mang tính đầu tầu như Doanh nghiệp lớn của Nhà nước cần củng cố lại về tổ chức lẫn định hướng phát triển.

================================

Phát triển xanh: Cơ hội sống của hành tinh 7 tỷ người

Tác giả: Hải Đăng

Bài đã được xuất bản.: 1 giờ trước

(VEF.VN) - Động đất, sóng thần làm Nhật Bản tan hoang, nhưng cũng chính động đất, sóng thần dẫn tới sự cố rò rỉ phóng xạ tại nhà máy điện nguyên tử Fukushima đã làm thay đổi sâu sắc quan điểm về xu hướng phát triển của nhiều nước trên thế giới. Đó chính là cơ hội cho những “dự định xanh” còn dang dở và cũng là cơ hội để cứu hành tinh đã chạm ngưỡng 7 tỷ người.

Fukushima, nỗi ám ảnh không chỉ của người Nhật

Sau hơn hai thập niên, kể từ khi sự cố Chernobyl xảy ra, người ta đã tạm thời quên đi nỗi ám ảnh của thảm hoạ hạt nhân, thì ngày 12/3, người dân thế giới và Nhật Bản lại bàng hoàng khi đón nhận thông tin về vụ nổ lò phản ứng số 1 của nhà máy điện hạt nhân Fukushima.

Mặc cho Chính phủ Nhật Bản tuyên bố "tình hình vẫn được kiểm soát", hãng tin Jiji, Nhật Bản thừa nhận: "Mức phóng xạ trong phòng điều khiển của nhà máy Fukushima số 1 ở mức cao gấp 1.000 lần thông thường, mức phóng xạ cách xa khu vực nhà máy 1,5 km cao gấp 20 lần bình thường". Không cần bình luận thêm, những thông tin đó khiến không chỉ người dân Nhật Bản mà hàng loạt các quốc gia láng giềng lo sợ về một thảm họa tàn khốc như Chernobyl sẽ lặp lại.

Bản tin thời sự của nhiều nước lân cận ngay lập tức dành một thời lượng lớn để thông báo cho người dân về mức độ ảnh hưởng của rò rỉ phóng xạ tại Nhật Bản tới đất nước mình. Các nước ở xa hơn cũng thể hiện sự lo lắng bằng cách ban bố lệnh tạm thời cấm nhập khẩu hàng hóa nông phẩm Nhật Bản do lo ngại nhiễm phóng xạ. Mỹ, đồng minh thân cận nhất của Nhật, trở thành quốc gia đầu tiên trên thế giới ngừng nhập khẩu một số thực phẩm Nhật. Pháp cùng nhiều quốc gia tại châu Âu cũng lên tiếng yêu cầu Ủy ban châu Âu kiểm soát ngặt nghèo hơn những hàng hoá có nguồn gốc từ Nhật Bản. Cả thế giới hướng về đất nước Mặt trời mọc với niềm cảm thông xen lẫn sự cảnh giác và sợ hãi.

Tuy nhiên, chính bầu không khí căng thẳng và sự lo ngại của cộng đồng quốc tế về sự cố rò rỉ phóng xạ tại Fukushima một lần nữa đã thổi bùng lên quyết tâm "phát triển xanh" tại nhiều quốc gia lâu nay vẫn ấp ủ. Sau sự cố tại Nhật Bản, câu hỏi: Phát triển năng lượng hạt nhân, hay đoạn tuyệt với nó? đã trở thành chủ đề gây ra nhiều tranh cãi trong các cuộc thảo luận từ trong nước cho tới quốc tế. Nhiều chính đảng tại các quốc gia châu Âu thậm chí còn lấy mục tiêu "phát triển xanh" làm thế mạnh khi tham gia tranh cử. Và chính làn sóng đó đã tạo ra một cơ hội mới cho những "giấc mơ xanh" tại nhiều quốc gia trên thế giới.

"Những điểm xanh" trên bản đồ thế giới

Mạnh mẽ nhất trong phong trào "phát triển xanh" sau thảm hoạ tại Nhật Bản phải kể tới nước Đức. Vốn đã nổi tiếng là một quốc gia đi đầu trong việc sử dụng năng lượng tái tạo trên thế giới, sau sự cố tại Fukushima, Đức tuyên bố ngừng hàng loạt các dự án phát triển nhà máy điện hạt nhân, đồng thời không ra hạn thêm cho một số nhà máy điện hạt nhân đang sử dụng.

Posted Image

Nước Đức quyết tâm sử dụng năng lượng sạch cho tất cả tàu điện ngầm vào năm 2050.

Bộ Môi trường Liên bang Đức thậm chí còn công bố bản lộ trình mới phác thảo tiến trình thực hiện các kế hoạch hướng tới một nền kinh tế sử dụng hoàn toàn năng lượng tái tạo. Theo đó, nếu như năm 2008, năng lượng tái tạo chỉ chiếm 7% tổng lượng tiêu thụ năng lượng của Đức, thì nay nó được đẩy lên mức 33% vào năm 2020. Và theo kế hoạch, năm 2030 sẽ có tới 50% nguồn điện của Đức được lấy từ các nguồn năng lượng tái tạo.

Bên cạnh Đức, nhiều quốc gia như Hàn Quốc, Nhật Bản, Anh, Pháp, Hà Lan... cũng không ngừng thúc đẩy tăng trưởng xanh với nhiều nội dung quan trọng thể hiện sự cam kết mạnh mẽ hướng tới nền kinh tế xanh. Trong đó Hàn Quốc nổi lên như một điểm sáng.

Chiến lược quốc gia về "tăng trưởng xanh, carbon thấp" của Hàn Quốc không chỉ được xác định sau khi thảm hoạ động đất sóng thần xảy ra, mà từ năm 2008, chính phủ nước này đã dành tới 80% trong các gói kích cầu kinh tế để ưu tiên cho nền "công nghiệp xanh". Cụ thể tỷ lệ năng lượng tái tạo trong tổng cung năng lượng của Hàn Quốc trong những năm qua không ngừng tăng. Nếu như năm 2009 tỷ lệ năng lượng sạch mới chỉ là 2,7%, thì theo kế hoạch tới năm 2013 sẽ là 3,78% và tới năm 2020 tỷ lệ năng lượng tái tạo sẽ lên tới 6,08% trong tổng nguồn cung năng lượng của Hàn Quốc..

Công viên World Cup dường như là một minh chứng rõ nét nhất cho quyết tâm "phát triển xanh" của xứ sở kim chi. Trước kia, nơi này là một bãi rác khổng lồ với hàng triệu tấn chất thải cao đến 98 m. Năm 1996, Hàn Quốc triển khai một dự án táo bạo để biến nơi đây thành một công viên với gần một ngàn loại cây và động vật các loại, thu hút hàng triệu du khách mỗi năm. "Tôi nghĩ chính phủ Hàn Quốc đã làm những điều rất tuyệt vời khi biến những nơi chứa rác ô nhiễm thành những công viên xanh", nhà báo Hugo Corzo Zanabria, Mexico cho biết.

Trong tương lai, Hàn Quốc dự kiến sẽ chi trên 1.200 tỷ won, tương đương 852 triệu USD trong 10 năm để đưa đất nước vào nhóm những "quốc gia xanh" hàng đầu thế giới. Hàn Quốc cũng sẽ tích cực theo đuổi chiến lược phát triển xanh bởi vấn đề này không chỉ liên quan đến tình trạng biến đổi khí hậu, mà còn là yếu tố sống còn đối với nền công nghiệp của Hàn Quốc thời kỳ hậu khủng hoảng.

Bên cạnh thúc đẩy kinh tế xanh trong nước, nhiều nước phát triển còn sử dụng kinh tế xanh như một công cụ để tạo lợi thế trong quan hệ kinh tế quốc tế. Việc đưa ra các yêu cầu về phương pháp sản xuất, khai thác và chế biến sản phẩm không gây ảnh hưởng đến môi trường, áp dụng chính sách bảo hộ đối với các ngành kinh tế sạch... đang trở thành một trong những điểu khoản không thể thiếu trong các thỏa thuận kinh tế giữa các nước phát triển với các nước đang phát triển.

Gần đây nhất, tại hội nghị Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) tại Hawaii, các nhà lãnh đạo APEC đã thông qua Tuyên bố Honolulu. Trong đó, APEC xác định cần phải giải quyết các thách thức môi trường và kinh tế của khu vực bằng cách hướng đến nền kinh tế xanh, carbon thấp, nâng cao an ninh năng lượng và tạo nguồn mới cho tăng trưởng kinh tế và việc làm. Để thúc đẩy các mục tiêu tăng trưởng xanh, APEC sẽ thực hiện các biện pháp như giảm 45% cường độ sử dụng năng lượng của APEC vào năm 2035 so với năm 2005, kết hợp các chiến lược phát triển về thải carbon thấp vào các kế hoạch tăng trưởng kinh tế thông qua dự án Thành phố carbon thấp.

Năm 2011 đã khép lại với dấu ấn về một năm của những thảm hoạ thiên nhiên gây thiệt hại nặng nề về vật chất cũng như con người cho nhiều quốc gia trên thế giới. Đó cũng là lời nhắc nhở của "mẹ thiên nhiên" trước sự tàn phá môi trường quá nhanh chóng của con người: Không còn nhiều thời gian, hãy bắt đầu ngay từ hôm nay trước khi mọi thứ trở nên quá muộn.

Những tham vọng xanh:

Nếu người Đức mơ ước năm 2050 tất cả tàu điện ngầm của nước này sẽ chạy bằng năng lượng mặt trời, thì Chính phủ Nhật Bản đã thể hiện quyết tâm theo đuổi mục tiêu phát triển năng lượng xanh khi tuyên bố thực hiện sáng kiến "Sunrise Plan".

Tiên phong trong kế hoạch này phải kể tới Masayoshi Son, Chủ tịch kiêm Giám đốc điều hành công ty viễn thông Softbank, người giàu nhất Nhật Bản với tài sản khoảng 8,1 tỷ USD. Ông đã công bố kế hoạch xây dựng 10 nhà máy quang năng với tham vọng thay thế năng lượng hạt nhân tại đất nước Mặt trời mọc.

Cụ thể, nếu "Sunrise Plan" được thực hiện, chính quyền địa phương nơi các nhà máy điện được lắp đặt tuyên bố sẽ hỗ trợ tượng trưng khoảng 100 triệu yên cho mỗi nhà máy, đồng thời tạo điều kiện về mặt bằng cho các dự án này, Softbank sẽ đóng góp 10% chi phí, phần còn lại Softbank sẽ vay mượn từ các ngân hàng.

Không chỉ dừng lại ở đó, các nhà khoa học thuộc tập đoàn xây dựng Shimizu của Nhật cũng tiết lộ kế hoạch đầy tham vọng khi tuyên bố sẽ sản xuất điện trên mặt trăng. Nếu trở thành hiện thực, dự án này có thể tạo ra 13.000 tỷ KW điện từ năng lượng mặt trời. Lượng điện khổng lồ này sẽ được truyền về trái đất bằng tia laser hoặc sóng ngắn.

Theo thiết kế của dự án trên, các tấm pin mặt trời sẽ được lắp đặt dọc đường quỹ đạo ở bề sáng của mặt trăng với tổng chiều dài gần 11.000 km và rộng 400 km. Để truyền lượng điện khổng lồ về trái đất, một hệ thống ăng ten dài 20 km cũng sẽ được xây dựng trên mặt trăng. "Việc chuyển đổi sử dụng các nguồn năng lượng có chi phí thấp nhưng có giới hạn sang những nguồn năng lượng sạch và vô tận là một giấc mơ của loài người. Các nhà máy điện mặt trời được đặt trên quỹ đạo của mặt trăng sẽ giúp biến giấc mơ của chúng ta thành hiện thực", đại diện của Shimizu cho biết.

Cũng theo công ty Shimizu, ưu điểm của dự án là việc sản xuất điện trên mặt trăng sẽ không bị ảnh hưởng bởi điều kiện thời tiết xấu như trên trái đất nên việc sản xuất điện có thể diễn ra liên tục và đủ để đáp ứng nhu cầu sử dụng năng lượng của cả thế giới.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Suy ngẫm tâm sự đầu năm Nhâm Thìn

Năm nay theo sách Tàu thì vận khí thuộc Thủy, Nhâm cũng Thủy, Thìn Thổ mộ của Mộc. Riêng tôi - theo Lạc Thư Hoa giáp - xác định rằng: Năm nay vận khí thuộc Hỏa. Thiên can Nhâm thủy khắc vận khí Hỏa gọi là Thiên khắc Địa xung. Hóa giải điều này nên dùng màu xanh lá thuộc Mộc. Muốn phát tài dùng màu vàng theo Lạc Thư hoa giáp vì Hỏa sinh Thổ. Nhưng nếu ai tin sách Tàu thì chê màu này không dùng vì vàng Thổ khắc Thủy, cực vất vả. Nhưng tôi theo Lạc Thư hoa giáp nên năm nay dùng toàn màu vàng để trưng bông kiểng ngày Tết. Mai vàng đã đành, thược dược, hương dương, cúc vàng ....và tất cả hoa gì màu vàng bán rẻ là mua tất. Bà xã tôi đang đi mua. Mua hôm nay cho nó rẻ - 29 bắt làm 30 mà. Năm cùng tháng tận, ngày tàn, hoa rẻ như đem cho.Posted Image.

Nếu tôi đúng - Vận khí thuộc Hỏa - thì năm tới tôi sẽ có vài thành tựu nhất định. Nếu sai - Tức vận khí thuộc Thủy - thì tiêu luôn.

3 people like this

Share this post


Link to post
Share on other sites

TƯ LIỆU THAM KHẢO

'Nợ khủng', kinh tế Triều Tiên lao đao

Ngày 19-1, tờ Chosun Ilbo của Hàn Quốc cho biết, Triều Tiên đang phải đối mặt với khoản nợ khổng lồ, ngang với GDP năm 2010, chủ yếu phát sinh từ các khoản vay của các nước đồng minh dưới thời chiến tranh lạnh.

Posted Image

GDP năm 2010 của Triều Tiên là 21 tỷ USD (ảnh minh họa)

Seoul ước tính khoản nợ nước ngoài mà Bình Nhưỡng phải gánh đến nay đã lên tới 20 tỷ USD, chủ yếu là vay mượn từ Liên bang Xô Viết cũ và các nước đồng minh Đông Âu trước khi Bức tường Berlin sụp đổ năm 1989.

Kể từ thời điểm nền kinh tế lao dốc vào những năm 1990, Triều Tiên đã vấp phải hàng loạt khó khăn trong thanh toán nợ nần, bao gồm cả nợ gốc lẫn lãi đối với hầu hết các quốc gia chủ nợ.

Nước này cũng đã vay khoản tiền khổng lồ từ các ngân hàng châu Âu nhưng không thể trả hết nợ, và một số tổ chức tín dụng đã buộc vào đặt Triều Tiên vào danh sách đen, thậm chí từ chối nhận cả các khoản tiền gửi tiết kiệm.

Từ những năm 2000, Bình Nhưỡng đã từng tổ chức các cuộc đàm phán với các chủ nợ để được trả góp trong khoảng thời gian 30 năm.

Tờ báo Hàn Quốc cũng dẫn thông tin từ Finanical Times cho biết, do tình hình kinh tế đang ngày một xấu hơn, quốc gia láng giềng phía bắc đã đề nghị Hungary xóa tới 90% khoản dư nợ vào thời điểm khủng hoảng tài chính năm 2008. Tuy nhiên, Hungary chỉ đồng ý xóa một phần.

Ngoài ra, Triều Tiên cũng đề nghị Cộng hòa Séc xóa 95% trong khoản nợ 10 triệu USD và thanh toán 500.000 USD còn lại bằng nhân sâm.

Nga cũng được cho là đồng ý xóa khoảng 8 tỷ USD nợ cho Triều Tiên nhằm giữ quan hệ song phương và đổi lại Nga sẽ tham gia hợp tác trong lĩnh vực khai thác khoáng sản - thế mạnh của Triều Tiên.

Trong khi đó, nước này cũng đang đàm phán với Iran để trả khoản nợ hàng trăm triệu USD tiền chi mua các tàu ngầm cỡ nhỏ.

Trước đó, ngày 1-/1, cơ quan Thống kê Quốc gia Hàn Quốc vừa công bố số liệu tổng thu nhập quốc nội (GDP) Triều Tiên với con số khiêm tốn chỉ 21 tỷ USD so GDP Hàn Quốc trên 900 tỷ USD.

Nếu tính theo chỉ số tổng thu nhập quốc dân thì GNI ước tính của Triều Tiên năm 2010 chỉ đạt 26 tỷ USD so với 1.100 tỷ USD của Hàn Quốc.

Cơ quan này đồng thời cũng cho biết, nền kinh tế Triều Tiên đã suy giảm liên tiếp trong vòng 2 năm kể từ 2009 và suy thoái 0,5% trong năm 2010.

Theo Dân Trí

Share this post


Link to post
Share on other sites

Đánh bom đẫm máu tại Nigeria, 143 người chết

Chủ Nhật, 22/01/2012 --- cập nhật 08:15 GMT+7

Hãng tin AP dẫn lời một quan chức bệnh viện tại Kano, thành phố lớn nhất miền bắc Nigeria cho hay, các vụ tấn công phối hợp do một nhóm Hồi giáo cực đoan thực hiện đã làm ít nhất 143 người thiệt mạng.

Posted Image

Một nạn nhân trong vụ bạo lực tại Kano. (Ảnh: AP)

Bạo lực bùng phát từ hôm thứ 6 (20/1), khi trụ sở cảnh sát và nhiều chốt an ninh tại Kano bị tấn công. Người ta đã nghe thấy tiếng súng nổ ở khắp thành phố lớn thứ hai Nigeria này. Chính quyền sau đó đã áp đặt lệnh giới nghiêm.

Phát ngôn viên của nhóm Hồi giáo Boko Haram đã nhận trách nhiệm thực hiện các hành động bạo lực trên và tuyên bố rằng đây là hành động đáp trả việc chính quyền từ chối trả tự do cho các thành viên bị bắt giữ của tổ chức này.

Nigeria là quốc gia đông dân nhất ở lục địa đen. Hiện đất nước ở châu Phi này đang rơi vào tình trạng bị chia rẽ khá nghiêm trọng giữa miền Bắc với chủ yếu là người Hồi giáo và miền Nam với phần lớn là người theo đạo Thiên Chúa.

Theo VietNamNet

Share this post


Link to post
Share on other sites

TƯ LIỆU THAM KHẢO

Tàu chiến các nước rầm rập vào vùng Vịnh

VnMedia - 3 giờ trước 3677 lượt xem

Các tàu chiến của Anh và Pháp hôm qua (22/1) đã gia nhập vào nhóm tàu sân bay tấn công của Mỹ tạo thành một đội tàu hùng mạnh gồm 6 chiếc rầm rập đi qua Eo biển Hormuz nhạy cảm bất chấp những lời đe dọa gần đây của Iran. Thông tin này do Bộ Quốc phòng Anh tiết lộ.

Posted Image

Tàu sân bay Mỹ

Tàu sân bay USS Abraham Lincoln của Mỹ đã đi qua Eo biển Hormuz và vào vùng Vịnh mà không có sự cố xảy ra dù trước đó Tehran từng tuyên bố sẽ hành động nếu bất kỳ tàu chiến nào Mỹ quay trở lại khu vực.

Tàu USS Abraham Lincoln đã hoàn thành nhiệm vụ “định kỳ” ở Eo biển Hormuz “như kế hoạch đã định trước mà không gặp bất kỳ sự cố nào”, phát ngôn viên Hạm đội Thứ 5 của mỹ - bà Rebecca Rebarich cho biết.

Tàu Lincoln được hộ tống bởi một nhóm tàu chiến khác là tàu sân bay đầu tiên của Mỹ đi vào khu vực vùng Vịnh kể từ tháng 12 đến giờ. Con tàu này đến vùng Vịnh để thay thế cho tàu USS John C. Stennis vừa rời đi.

Cùng đi vào vùng Vịnh đợt này có cả các tàu chiến của Anh và Pháp. Theo Bộ Quốc phóng Anh hôm qua cho biết, tàu HMS Argyll thuộc Hài quân Hoàng gia Anh đã gia nhập vào nhóm tàu sân bay Lincoln của Mỹ.

Một phát ngôn viên Bộ Quốc phòng Anh cho hay: "tàu HMS Argyll và một tàu chiến Pháp đã cùng đi qua Eo biển Hormuz với nhóm tàu sân bay Mỹ để nhấn mạnh cam kết không thay đổi của cộng đồng quốc tế về việc duy trì quyền tự do đi lại ở đây theo luật quốc tế".

Theo phát ngôn viên trên, Anh đã duy trì “sự hiện diện liên tục trong khu vực như một phần của đóng góp không mệt mỏi cho an ninh vùng Vịnh".

Các tàu chiến Anh đã tham gia tuần tra khu vực Vùng Vịnh liên tục kể từ những năm 1980 đến giờ.

Tất cả những động thái điều động tàu chiến nói trên của các cường quốc là nhằm đáp trả các lời đe dọa liên tiếp gần đây của giới lãnh đạo Iran về việc đóng cửa Eo biển Hormuz – một trong những tuyến đường biển quan trọng nhất thế giới với khoảng 1/5 nguồn cung cấp dầu mỏ cho thế giới đi qua đây.

Chính vì tầm quan trọng chiến lược của Eo biển Hormuz nên Mỹ và các nước khác phản ứng rất mạnh với lời đe dọa đóng của eo biển này của Tehran. Washington tuyên bố sẽ không “dung thứ” cho bất kỳ hành động gây cản trở giao thông đi lại qua Eo biển Hormuz. Các cường quốc phương Tây cũng kịch liệt lên án động thái đe dọa đóng cửa Eo biển Hormuz. Ngay cả Trung Quốc – một đồng minh của Iran, cũng lên tiếng cảnh báo Tehran không được đóng cửa tuyến đường biển này.

Kiệt Linh - (theo AP, AFP)

Share this post


Link to post
Share on other sites

THÔNG TIN THAM KHẢO

"Gieo quẻ" đầu xuân Nhâm Thìn: Sóng to gió lớn!

Cập nhật lúc 06h52" , ngày 23/01/2012 -

(VnMedia) - Ngay đầu năm mới, người dân thế giới đã được đón nhận một tin rất vui là năm 2012 sẽ không phải là năm thế giới diệt vong như rất nhiều lời đồn đại trước đó. Tuy nhiên, bên cạnh niềm vui này, người ta bắt đầu lo lắng trước những dự báo về một năm đầy sóng gió trước mắt với vô vàn những nguy cơ và thách thức về cả kinh tế lẫn chính trị.

Không có Ngày Tận thế

Từ lâu, người ta đã đồn đại rằng, theo lịch của người Maya cổ, Ngày Tận thế của thế giới sẽ rơi vào ngày 21/12/2012. Nhiều người tin tưởng vào cách tính toán của người Maya bởi đây là một dân tộc dù sống cách đây hơn 5 nghìn năm nhưng đã có sự phát triển vượt bậc đến mức kinh ngạc. Họ đã từng tạo dựng nên một nền văn minh rực rỡ, đặc sắc với rất nhiều thành tựu trên nhiều lĩnh vực mà đến bây giờ thế giới vẫn phải ngưỡng mộ.

Niềm tin trên càng được củng cố khi thế giới ngày càng phải đối mặt với nhiều thảm họa thiên nhiên khủng khiếp, những căn bệnh lạ đáng sợ và hàng loạt nguy cơ về chiến tranh, khủng bố kinh hoàng...

Tuy nhiên, rất nhiều nhà lịch sử, nhà khoa học, nhà thiên văn học hiện nay tin rằng, người Maya không hề dự báo Ngày Tận thế vào năm nay. Ngày 21/12/2012 mà nhiều người vẫn thường nhắc đến đơn thuần chỉ là ngày đánh dấu sự chấm dứt một thời kì sáng tạo và bắt đầu một kỷ nguyên mới.

Bản thân người Maya cũng chẳng tin vào Ngày Tận thế 21/12/2012. Một bô lão người Maya - ông Apolinario Chile Pixtun và nhà khảo cổ học người Mexico - ông Guillermo Bernal đều khẳng định "Ngày Tận thế" chỉ là một khái niệm do phương Tây bóp méo, gán ghép mà ra.

Như vậy, năm 2012, người dân thế giới sẽ không phải sống trong lo âu, hồi hộp chờ đợi ngày thế giới bị hủy diệt. Điều mà họ cần quan tâm lúc này là năm 2012 sẽ diễn ra như thế nào?

Sau cảm xúc vui mừng về việc không có Ngày Tận thế là nỗi lo về một tương lai không phải màu hồng trong năm trước mắt. Theo dự báo của các chuyên gia và các nhà phân tích, năm 2012 sẽ có rất nhiều thay đổi lớn với nhiều sóng gió trên chính trường và trong lĩnh vực kinh tế.

Năm của những thay đổi lớn

Năm 2012 được dự báo sẽ có rất nhiều thay đổi lớn mang tính bước ngoặt bởi đây là năm của một loạt những cuộc bầu cử quan trọng ở các cường hàng đầu thế giới như Mỹ, Trung Quốc, Nga, Pháp.... Thế giới được cho sẽ đón chào một số gương mặt lãnh đạo hoàn toàn mới. Trong khi những nhà lãnh đạo cũ cũng sẽ phải thay đổi theo hướng mới nếu muốn tiếp tục duy trì vị thế của mình. Chính vì thế, thế giới được cho là sẽ có một diện mạo mới, bộ mặt mới trong năm 2012.

Nếu để ý kỹ một chút người ta có thể thấy năm 2012 có một đặc điểm rất đặc biệt. Đó là, năm nay sẽ chứng kiến các cuộc bầu cử quan trọng tại 4 trong 5 cường quốc hàng đầu thế giới cũng là 4 trong 5 thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc.

Có lẽ, cuộc bầu cử thu hút sự quan tâm lớn nhất trong năm nay sẽ là cuộc bầu cử ở cường quốc số 2 thế giới – Trung Quốc. Lý do là sau cuộc bầu cử này, Trung Quốc sẽ đón chào một bộ máy lãnh đạo mới. Đây là sự kiện vô cùng quan trọng có ảnh hưởng lớn đến tình hình phát triển kinh tế, chính trị, xã hội của Trung Quốc. Với vị thế và tầm ảnh hưởng ngày càng tăng của Trung Quốc trên trường quốc tế, lập trường và đường lối của giới lãnh đạo mới ở Trung Quốc còn tác động đến kinh tế và an ninh chung của thế giới.

Một cuộc bầu cử khác cũng thu hút sự chú ý của dư luận không kém gì cuộc bầu cử ở Trung Quốc là ở Nga. Mặc dù phải đến tháng 3 năm nay mới diễn ra nhưng cuộc bầu cử tổng thống ở xứ sở Bạch Dương đã trở thành đề tài “nóng bỏng” từ suốt cả năm ngoái chỉ vì có sự tham gia của Thủ tướng Vladimir Putin với tư cách là ứng cử viên. Là một chính khách được yêu mến nhất nước Nga, ông Putin dường như nắm chắc phần thắng trong tay. Tuy nhiên, cuộc bầu cử ở Nga vẫn được dự báo là sẽ hấp dẫn và kịch tính bởi Thủ tướng Putin đang vấp phải khá nhiều cản trở trên con đường quay trở lại điện Kremlin.

Ngoài hai cuộc bầu cử ở Trung Quốc và Nga, bầu cử ở Mỹ vào tháng 11 tới cũng sẽ rất hấp dẫn và hứa hẹn chứa đựng nhiều bất ngờ bởi Tổng thống đương nhiệm Barack Obama – một trong những ứng cử viên của cuộc đua được dự báo có thể thất bại. Ông Obama sẽ phải đối đầu với một đối thủ đáng gờm đến từ Đảng Cộng hòa. Hiện tại, đối thủ của ông Obama chưa lộ diện nhưng nhiều người tin đó sẽ là ông Mitt Romney – cựu Thống đốc bang Massachusetts.

Bão khủng hoảng kinh tế

Theo nhiều nhà phân tích, sóng gió mà thế giới phải chứng kiến nhiều nhất trong năm 2012 sẽ là trên lĩnh vực kinh tế. Triển vọng của nền kinh tế thế giới trong năm nay khá bi quan. Đứng đầu trong các nguy cơ năm 2012 là cuộc khủng hoảng nợ công chưa được giải quyết ở khu vực đồng euro.

Nếu 17 quốc gia thuộc khu vực sử dụng đồng tiền chung Châu Ấu có thể sống sót tiếp trong cơ chế này thì các thành viên sẽ phải đối mặt với những điều chỉnh rất đau đớn về kinh tế và cần có các cuộc cải cách lớn về chính trị.

Trong viễn cảnh u ám nhất, năm 2012 có thể phải chứng kiến sự sụp đổ của đồng euro và kèm theo đó là một chuỗi hậu quả dây chuyền đáng sợ có thể dẫn đến một cuộc khủng hoảng kinh tế còn tồi tệ hơn năm 2008.

Tuy nhiên, nhiều nhà phân tích vẫn lạc quan tin tưởng rằng, đồng euro vẫn có thể sống sót mặc dù các nước sử dụng đồng tiền này sẽ tiếp tục phải chịu những khó khăn chồng chất. Nền kinh tế các nước Châu Âu sẽ phát triển ở tốc độ rất thấp. Khó khăn về kinh tế sẽ kéo theo sự bất ổn về xã hội ở khu vực đồng euro phía nam nói riêng và trên khắp Châu Âu nói chung. Dù có lạc quan đến mấy thì năm 2012 đối với người dân Châu Âu chắc chắn là sẽ khó khăn.

Ngoài Châu Âu, khu vực Trung Đông cũng sẽ góp phần gây ra những khó khăn về kinh tế cho thế giới bởi những bất ổn về chính trị đang diễn ra tại nhiều nước ở đây.

Sóng gió chính trị

Khu vực Trung Đông đã là một điểm nóng của thế giới năm 2011 và tiếp tục sẽ là điểm nóng của thế giới trong năm 2012. Các nhà phân tích tin rằng, làn sóng của Mùa xuân Ả-rập sẽ tiếp tục trào lên dữ dội trong năm 2012 và không loại trừ khả năng sẽ xảy ra một loạt cuộc nội chiến ở Libya, Yemen, Syria và Ai Cập.

Ngoài ra, những căng thẳng xung quanh vấn đề hạt nhân Iran và điểm nóng ở Syria có thể sẽ leo thang thành một cuộc chiến khu vực với những hậu quả để lại được dự báo là sẽ vô cùng khủng khiếp. Quan hệ Pakistan và Mỹ sẽ ngày một xấu đi khiến khu vực Trung Đông đã nóng lại càng nóng hơn.

Một điểm nóng khác của thế giới trong năm 2012 sẽ là ở khu vực Châu Á-Thái Bình Dương. "Châu Á Thái Bình Dương sẽ trở thành một sân khấu chính trị quan trọng – nơi chứng kiến sự leo thang của cuộc đối đầu giữa các cường quốc ở đây”, một nhà phân tích Nga đã nhận định như vậy.

Diễn biến trên chính trường thế giới sẽ đi theo chiều hướng căng thẳng hay hòa dịu phụ thuộc rất nhiều vào chính phủ ở các nước đang đối mặt với cuộc Cách mạng Mùa xuân Ả-rập, vào những toan tính của Mỹ và Israel trong vấn đề hạt nhân Iran cũng như mức độ độc lập của Israel đối với Mỹ.

Châu Á nổi lên

Trong những dự báo có phần kém sắc về thế giới năm 2012 có một điểm sáng rất đáng chú ý. Đó là sự nổi lên của khu vực Châu Á.

Không phải vô cớ mà người ta gọi năm 2012 là “Năm Thái Bình Dương”. Các nhà phân tích dự đoán, do tầm quan trọng ngày càng tăng của Châu Á, các cường quốc như Nga, Mỹ sẽ tập trung nhiều hơn đến khu vực này.

Mỹ sẽ tiếp tục đối đầu với Trung Quốc trong cuộc đua tranh, giành giật ảnh hưởng ở khu vực năng động hàng đầu thế giới này. Trong khi đó, Nga sẽ tăng cường tiếp xúc, quan hệ với các nước trong khu vực Châu Á trong một nỗ lực nhằm tăng cường vị thế của nước này ở đây.

Kiệt Linh

Share this post


Link to post
Share on other sites

LỜI DỰ BÁO TOÀN CẢNH THẾ GIỚI & VIỆT NAM 2012

Nguyễn Vũ Tuấn Anh

Giám đốc Trung tâm nghiên cứu Lý Học Đông phương.

Posted Image

Chiến tranh

Nếu như năm 2011 chúng tôi chỉ đặt vấn đề "Thế giới nên đề phòng chiến tranh cấp quốc gia" thì năm 2012 sẽ có chiến tranh cấp quốc gia, điều này có thể xảy ra vào ngay đầu năm tới. Chậm không quá nửa đầu năm. Nơi xảy ra có thể là: Trung Đông hoặc Đông Bắc Á. Nhưng khả năng xảy ra ở Trung Đông nhiều hơn.

Vấn đề Biển Đông nói chung sẽ xảy ra nhiều tranh cãi, nhưng sẽ không có chiến tranh lớn xảy ra. Sẽ có nhiều dấu hiệu rất tốt đẹp cho chủ quyền của Việt Nam tại các vùng đảo Hoàng Sa. Trường Sa.

Ở đây tôi cần xác định rằng: Nếu ở Biền Đông không xảy ra chiến tranh thì điều này cũng đồng nghĩa với không có chiến tranh ở Đông Bắc Á.

Hàn Quốc mua 20 máy bay tấn công chớp nhoáng

VnMedia

Cập nhật lúc 22h58" , ngày 20/01/2012

Tình hình bán đảo Triều Tiên một lần nữa lại được đặt vào trạng thái “căng thẳng” kể từ khi Chủ tịch Kim Jong Il của Bắc Triều Tiền qua đời.

Posted Image

Đó là việc mới đây Seoul tiếp tục thể hiện quyết tâm xây dựng một lực lượng quân sự có khả năng đối phó với kẻ thù tiềm năng bằng bản hợp đồng trị giá 600 triệu đôla để mua 20 máy bay tấn công FA-50, loại máy bay được đánh giá là có tính năng tấn công chớp nhoáng và hết sức linh động. Chính phủ Hàn Quốc đã ký hợp đồng giá trị này với Tập đoàn công nghệ hàng không Hàn Quốc (KAI), công nghệ sản xuất 20 chiếc FA-50 đều dựa trên những tính năng chiến đấu của máy bay phản lực huấn luyện tiên tiến T-50.Theo thông tin từ KAI cho biết số lượng máy bay Chính phủ Hàn Quốc đặt mua sẽ được bàn giao từ năm 2013 đến 2014. FA-50 được đánh giá là một máy bay tấn công chớp nhoáng có trọng lượng nhẹ được phát triển dựa trên những công nghệ tiên tiến nhất hiện có của loại máy bay T-50 Golden Eagle.

KAI cũng tin tưởng rằng Chính phủ Hàn Quốc có thể sẽ tăng đơn đặt hàng thêm 60 chiếc FA-50 nữa để thay thế cho 150 chiếc F-5 đã xuống cấp đang thuộc biên chế trong lực lượng không quân nước này.

Máy bay FA-50 được trang bị hệ thống liên kết chiến thuật Elta Systems EL/M-2032, hệ thống cảnh báo radar và hệ thống nhận diện hình ảnh đêm. Ngoài ra FA-50 còn được trang bị thêm bộ phận quét radar điện tử (AESA) được sử dụng trong phiên bản nâng cấp máy bay F-16 của không quân Mỹ.

Bên cạnh khả năng “lẩn trốn” radar, FA-50 còn được thiết kế để có thể mang tới 4.504kg tải trọng vũ khí bao gồm các loại bom tấn công trực tiếp, bom tấn công cảm biến (điều khiển), rocket. Ngoài ra, FA-50 cũng được trang bị một khẩu pháo 20mm và các tên lửa không đối không.

Chính phủ Hàn Quốc còn dự kiến sẽ tiếp tục có những dự án mua thêm máy bay mới nhằm hiện đại hóa hơn nữa lực lượng không quân của nước này.

Trước mắt vào tháng 2 tới Hàn Quốc sẽ tiến hành nghiên cứu thay thế loại máy bay phản lực F-4 Phantom. Các “ứng cử viên” được đề xuất bao gồm: F-15 Eagle, Lockheed Martin F-35, Sukhoi PAK FA, và Eurofighter Typhoon.

(theo Defence Update/phunutoday)

Share this post


Link to post
Share on other sites

TƯ LIỆU THAM KHẢO

Lối thoát của Iran là chuẩn bị chiến tranh

Cập nhật lúc :6:26 AM, 22/01/2012

Được Mỹ và NATO bật đèn xanh, báo chí phương Tây đang tăng cường thổi phồng các chương trình hạt nhân và tên lửa của Iran.

(ĐVO) Tuy nhiên, trên thực tế giới lãnh đạo chính trị - quân sự tối cao Iran đã đẩy mạnh nghiên cứu phát triển các loại vũ khí cho tất cả các quân chủng và hầu như cho tất cả các binh chủng, kể cả vũ khí tiến công cũng như phòng thủ.

Mục đích của họ là đem lại cho lực lượng vũ trang của mình khả năng tiến hành các chiến dịch trong khu vực nhằm bảo vệ các lợi ích quốc gia, cũng như (và tính cấp thiết của nhiệm vụ này gần đây đang ngày càng gia tăng) đánh trả cuộc xâm lược từ các nước phương Tây.

Trong khi đó, vì những lý do dễ hiểu, chính các chương trình tên lửa của Iran tạo ra tiếng vang và mối quan tâm đặc biệt trên thế giới.

Nguyên nhân thậm chí không nằm ở khả năng Iran trở thành mối đe dọa đối với châu Âu và Mỹ (rõ ràng Iran không cố gắng làm điều đó nếu không để đáp trả sự xâm lược chống lại Tehran), mà ở chỗ chính các chương trình này đã trở thành cái cớ hình thức để triển khai hệ thống tên lửa ở châu Âu. Như ta đã biết, chính điều này đã gây căng thẳng nghiêm trọng trong quan hệ của Mỹ và NATO với Nga.

Bên cạnh đó, phương Tây đang tìm cách hợp nhất các vấn đề các chương trình tên lửa và hạt nhân Iran để cố chứng minh rằng, khả năng của cường quốc này chế tạo thiết bị nổ hạt nhân cùng với chế tạo các phương tiện mang phóng ở dạng tên lửa đường đạn xuyên lục địa (ICBM) là mối đe dọa nghiêm trọng đối với châu Âu và Mỹ. Dù trên thực tế, khả năng hạt nhân và khả năng của Iran tiến tới chế tạo ICBM mang đầu đạn hạt nhân trong thời gian rất ngắn rõ ràng là bị phóng đại.

Posted Image

Iran phóng thử tên lửa.

Còn bản thân các tên lửa đường đạn “khủng khiếp nhất” Sejil-2 (Tehran thông báo thử thành công tên lửa này vào năm 2009), cũng như các tên lửa đường đạn đang được phát triển là Shahab-5 và Shahab-6 với tầm bắn tương ứng 3.000 km và 5.000-6.000 km, ở giai đoạn này đúng hơn đang đóng vai trò một vũ khí chính trị - quân sự bởi lẽ không có đầu đạn hạt nhân thì sử dụng chúng chẳng thể có ý nghĩa lớn.

Về bản chất, phương Tây có những nỗ lực to lớn để dồn Iran vào thế bí về chính trị - quân sự. Một mặt, Mỹ và châu Âu (trước hết là Pháp) trực tiếp cũng như thông qua “cái loa” của mình trong khu vực là Israel đặt ra tối hậu thư đối với Tehran: Tiếp tục chương trình hạt nhân và phát triển vũ khí tên lửa sẽ dẫn đến các biện pháp trừng phạt, thậm chí đến tận can thiệp quân sự.

Mặt khác, Tehran hiểu rõ rằng (mà nước láng giềng Iraq là tấm gương tày liếp): kể cả chấm dứt tất cả các chương trình quân sự cũng không hề ảnh hưởng đến các kế hoạch xâm lược chống Iran, nếu như người ta đưa ra quyết định tương ứng.

Có nghĩa là Iran chỉ có một lối thoát: Toàn lực chuẩn bị cho chiến tranh. Và một lần nữa phương Tây lại điên cuồng cắt nghĩa sự chuẩn bị này như mối đe dọa để tạo dự luận rằng, với tất cả “lòng yêu chuộng hòa bình” của các nước phương Tây, chỉ có sức mạnh quân sự có thể chế ngự giới lãnh đạo Iran. Như vậy là vòng tròn khép kín lại.

Có nghĩa ta đã rõ, ý muốn của Iran bảo vệ mình bằng cách phô diễn các khả năng phòng thủ của mình cũng được diễn giả như một mối đe dọa.

Hơn nữa, tình hình còn thêm phần phức tạp bởi lẽ do những lý do dễ hiểu, Tehran không tiết lộ các tính năng kỹ - chiến thuật đầy đủ của các loại vũ khí của mình (cụ thể là các dự án nghiên cứu tiên tiến), và sự hình dung về chúng phần nhiều dựa trên các tính toán của các chuyên gia, và điều đó tạo ra không ít đất cho đủ loại đồn đoán, lợi dụng chính trị trong vấn đề này.

Nam Xương (theo Hvylya)

Share this post


Link to post
Share on other sites

Nguy cơ dậy sóng ở eo biển Hormuz

Vietnamnet.vn

Cập nhật 24/01/2012 10:00:00 AM (GMT+7)

Căng thẳng ở vùng Vịnh có thể bùng nổ khi một quan chức cấp cao của Iran chính thức nói rằng Iran có thể “hoàn toàn” đóng cửa eo biển Hormuz nếu như lệnh cấm vận xuất khẩu dầu lửa của EU làm gián đoạn việc kinh doanh dầu thô.

Posted Image

Tàu chiến Mỹ được điều đến eo biển Hormuz

Tuyên bố này được đưa ra nhằm đáp trả lại quyết định của Liên minh châu Âu vào hôm qua nhằm áp đặt lệnh cấm vận lên Iran vì nghi ngờ quốc gia này đang sản xuất vũ khí hạt nhân. Giám đốc đối ngoại của EU là Catherine Ashton nói rằng: “Sức ép của lệnh cấm vận này là nhằm cố gắng và đảm bảo rằng Iran nghiêm túc chấp thuận yêu cầu của chúng tôi để tiến hành đàm phán”.

Tuy nhiên, với việc Mỹ quyết định triển khai chiếc tàu sân bay thứ hai cùng nhóm tấn công vào vùng Vịnh, nỗ lực của EU nhằm gây sức ép về mặt kinh tế lên Iran có thể làm gia tăng khả năng chiến tranh toàn diện trong khu vực này.

Eo biển Hormuz là con đường kết nối mang tính sống còn từ Vịnh Ba Tư tới Vịnh Oman.

Đây cũng là một trong những tuyến hàng hải mang tính chiến lược quan trọng nhất trên thế giới trong việc vận tại dầu lửa.

Với sản lượng dầu ước tính vào khoảng 88 triệu thùng/ngày trong năm 2011, Cơ quan Tông tin Năng lượng của Mỹ ước lượng khoảng 17 triệu thùng trong số đó được vận chuyển qua eo Hormuz này.

Nếu như các lệnh trừng phạt kinh tế gây được sức ép thật sự lên Iran dẫn đến việc quốc gia này đóng cửa eo biển Hormuz, hậu quả xảy ra là 20% lượng dầu kinh doanh trên thế giới sẽ chịu tổn hại, và giá dầu thế giới có thể sẽ tăng vọt.

Hôm Chủ nhật vừa qua, hàng không mẫu hạm USS Abraham Lincoln đã được điều tới eo biển Hormuz ở Vịnh Ba Tư mà không báo trước. Giới chức Mỹ cho biết, đây chỉ là hoạt động bình thường của quân đội Mỹ.

Động thái này diễn ra chỉ một ngày sau khi Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Leo Panetta tuyên bố rằng Mỹ cam kết duy trì một hạm đội toàn cầu gồm có 11 hàng không mẫu hạm bất chấp sức ép buộc giảm quy mô của hạm đội này. Trong tuyên bố của mình, ông nói với các thủ thủy trên tàu USS Enterprise rằng con tàu này tiến thẳng tới eo biển Hormuz – một hành động nhằm gửi “thông điệp trực tiếp tới Iran”.

Lê Thu (Theo RT)

=====================================

Cảnh Lưu Niên: Đang rất căng thẳng trong nội các của Iran.

Tử Tôc Hỷ: Nếu chiến tranh xảy ra thì là cú đòn phủ đầu rất bất ngờ. Sau đó thì rất khó có thể tìm được những viên sỏi để rải đường. Chúng thành cát hết.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Cấm vận dầu mỏ Iran: châu Âu liều lĩnh, châu Á gánh hậu quả

Thứ Ba, 24/01/2012 - 16:30

(Dân trí) - Việc EU quyết định cấm vận dầu mỏ Iran sẽ phản tác dụng đối với châu Âu, còn các quốc gia châu Á- nơi an ninh năng lượng trở thành yếu tố quan trọng hàng đầu cho chiến lược tăng trưởng bền vững - sẽ phải chịu hậu quả nặng nề.

Posted Image

Trong khi các ngoại trưởng EU tuyên bố ở Brussels ngày 23/1/12 về lệnh trừng phạt với Iran, giá dầu mỏ thế giới đã tăng mạnh

Hy vọng của châu Âu

Bộ trưởng Ngoại giao các nước Liên minh châu Âu (EU) đã cấm các vụ mua dầu mới của Iran và phong tỏa những tài sản của Ngân hàng Trung ương Iran, trong một cuộc họp tại Brussels hôm qua, 23/1.

Một điểm đáng lưu ý là lệnh cấm này sẽ không thực hiện trước ngày 1/7/2012, để các quốc gia đang mua dầu thô của Iran, có thời gian chuẩn bị tìm nguồn cung cấp khác. Nhưng ngay sau tuyên bố của EU, giá dầu mỏ thế giới đã tăng mạnh, lên 100 USD/thùng vào cùng ngày 23/1.

Châu Âu bắt đầu cuộc đọ sức với Iran, và việc ngưng mua dầu thô của Iran từ đây đến Hè là nhằm mục tiêu buộc Iran từ bỏ mối đe dọa hạt nhân.

Nhưng giới phân tích phương Tây cho rằng châu Âu liều lĩnh đánh cuộc trên cấm vận dầu mỏ Iran. Cấm vận là vũ khí thương mại cuối cùng trước quốc gia sản xuất dầu mỏ thứ hai của tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC). Nhưng đó cũng là một quyết định liều lĩnh, với một chế độ không có vẻ gì là muốn thoái lui.

Nền kinh tế Iran phụ thuộc nặng nề vào lợi tức xuất khẩu dầu. EU là thị trường dầu mỏ lớn thứ hai của Iran sau Trung Quốc. Châu Âu chỉ mua khoảng 6% lượng dầu cần thiết từ Iran.

Cấm vận của châu Âu sẽ làm Iran mất đi 20% xuất khẩu của mình, trong lúc châu Âu mất 6% lượng dầu nhập. Nếu Nhật Bản và Hàn Quốc chịu theo gương châu Âu, thì Iran sẽ mất đi đến 40% nguồn ngoại tệ.

Hy vọng của châu Âu là lôi kéo thêm đồng minh, và do bị trừng phạt mạnh mẽ, Iran sẽ chấp nhận thảo luận nghiêm túc trên chương trình hạt nhân.

Thế nhưng nhiều ý kiến phân tích cho rằng căn cứ vào lịch trình hiện nay, các bên đang chạy đua với thời gian: Iran sẽ bầu lại quốc hội trong hai tháng tới đây, còn về phía Phương Tây, trên mặt chính trị, nỗ lực nhằm vào Iran có thể bị tê liệt vì Pháp và Mỹ lần lượt bước vào bầu cử tổng thống.

Mặt khác, cũng phải kể đến Italia, Tây Ban Nha và Hy Lạp, vốn bị lệ thuộc rất nhiều vào dầu mỏ Iran, cho nên đều muốn có thêm thời gian, ít ra là sáu tháng nữa, trước khi áp dụng biện pháp cấm vận. Đặc biệt là Hy Lạp đang gặp khó khăn tài chính và Iran lợi dụng tình thế này để chiêu dụ Athens: Tehran đồng ý bán dầu với một khoản tín dụng 60 ngày và không đòi bảo đảm gì cả.

Hậu quả nhìn thấy với Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản

Điểm lại những nước bị tác động của lệnh cấm trên sẽ thấy: Mỹ sẽ không bị ảnh hưởng gì, vì từ lâu nay không còn nhập dầu mỏ Iran. Tại châu Âu, thì Italia, Tây Ban Nha, Hy Lạp là những nước có thể bị ảnh hưởng, nhưng châu Âu chỉ mua khoảng 6% lượng dầu cần thiết từ Iran.

Ngược lại, các nước như Hàn Quốc, Nhật Bản, và nhất là Trung Quốc, Ấn Độ bị lệ thuộc nhiều hơn vào Iran, vì nhập từ 10 đến 11% nhu cầu dầu của mình. Cho nên các quốc gia này rất dè dặt.

Iran đóng vai trò quan trọng đối với Trung Quốc, Nhật Bản và Ấn Độ, khi các cường quốc đang trỗi dậy của châu Á tìm kiếm sự tăng trưởng bền vững và duy trì sự ổn định thì an ninh năng lượng đã trở thành yếu tố quan trọng hàng đầu trong địa chính trị ở khu vực.

Trung Quốc là đối tác thương mại hàng đầu của Iran, với kim ngạch thương mại song phương lên đến trên 40 tỷ USD trong năm 2011. Iran cũng là nhà cung cấp dầu mỏ lớn thứ ba của Trung Quốc.

Chuyến thăm gần đây của Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo tới Arập Xêút, Các tiểu vương quốc Arập thống nhất và Cata chủ yếu vì vấn đề bảo đảm an ninh năng lượng cho Trung Quốc. Chuyến thăm cũng diễn ra trên cơ sở đang gia tăng mối đe dọa có lệnh cấm vận xuất khẩu dầu lửa của Mỹ đối với Iran và bản thân Trung Quốc có nhu cầu bảo đảm các nguồn cung cấp dầu mỏ và khí đốt dự phòng.

Nhu cầu sử dụng dầu mỏ hiện nay của Trung Quốc là khoảng 8 triệu thùng/ngày và được dự báo sẽ tăng lên 11,3 triệu thùng/ngày vào năm 2015. Ngay cả khi Mỹ và châu Âu giảm sự phụ thuộc của họ vào nguồn dầu từ Vùng Vịnh thì Trung Quốc vẫn là nước phụ thuộc một cách chiến lược vào vùng Vịnh trong vực cung cấp năng lượng cho nước này.

Posted Image

Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo phản đối những biện pháp gay gắt chống Iran vì lo ngại căng thẳng lên đến cao độ có thể làm giá dầu toàn cầu gia tăng

Ấn Độ cũng vậy. Khi Cố vấn An ninh Quốc gia của Ấn Độ Shiv Shankar Menon đi thăm một loạt các nước vùng Vịnh gần đây như Arập Xêút, Cata và Côóet, mặc dù không được chú ý bằng chuyến thăm của ông Ôn Gia Bảo, nhưng lý do chính cũng là an ninh năng lượng. Cả hai nước Trung Quốc và Ấn Độ đều mua dầu của Iran (Trung Quốc chiếm 22% tổng lượng dầu xuất khẩu của Iran) và do vậy sẽ bị ảnh hưởng từ lệnh cấm vận của EU. Do vậy, các hoạt động ngoại giao của Trung Quốc và Ấn Độ như vậy rõ ràng phản ánh mối lo ngại chung của họ về nguồn cung cấp năng lượng.

Cả Trung Quốc và Ấn Độ sẽ tìm cách gây áp lực với Mỹ về bất kỳ hành động nào chống lại Iran để không được làm ảnh hưởng đến sự tăng trưởng kinh tế và an ninh năng lượng ở châu Á.

Còn Nhật Bản cũng đã gửi đi những thông điệp khá trái ngược nhau về việc ủng hộ biện pháp trừng phạt chưa từng thấy này.

Hiện dư luận đang nói về hai kịch bản: Thứ nhất, Trung Quốc có thể sẽ trở thành khách hàng đầu tiên đối với "dầu giảm giá" của Iran trong trường hợp EU cắt giảm việc mua dầu của Iran và các nước mua khác ở châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc và Ấn Độ sẽ hành động theo đề nghị của Mỹ.

Trung Quốc sẽ không cúi đầu trước áp lực của Mỹ và Trung Quốc sẵn sàng mua "dầu giảm giá" của Iran.

Thứ hai, nếu Arập Xêút tôn trọng cam kết bù đắp vào phần thiếu hụt dầu trên thị trường do cấm vận Iran, thì ảnh hưởng trên giá dầu sẽ hạn chế và chỉ Iran sẽ chịu hậu quả nghiêm trọng. Nhưng nếu mặt khác, Iran ngăn chận lưu thông ở eo biển Ormuz, nơi mà 35% lượng dầu mỏ chuyên chở bằng tàu biển trên thế giới đi qua, thì giá dầu sẽ tăng vọt thêm, vào lúc mà giá dầu trong tháng giêng này đã tăng cao do tình hình xã hội căng thẳng ở Nigeria một quốc gia dầu mỏ khác tại châu Phi.

Nguyễn Viết

Tổng hợp

===============================

Thế là lệnh cấm bắt đầu. Iran có thể cân nhắc thực hiện lời răn đe của mình: Đóng cửa eo biến Hormuz hoặc chấp nhận giải giáp chương trình hạt nhân. Chiến tranh hay giải giáp? Người Israel có thể trông chờ vào một cuộc đối thoại hạt nhân kéo dài bao lâu nữa trong sự sinh tồn của dân tộc họ?

Share this post


Link to post
Share on other sites

Tai nạn tăng nặng ........

======================

Cà Mau: Cháy chợ, thiệt hại gần 2 tỉ đồng

24/01/2012 18:39

(TNO) Chiều ngày 24.1, ông Dương Hữu Tản, Phó chủ tịch UBND H.Phú Tân (Cà Mau) cho biết, vụ hỏa hoạn xảy ra vào rạng sáng mùng 1 tết Nhâm Thìn tại chợ Phú Tân đã làm thiệt hại gần 2 tỉ đồng.

Khoảng 3 giờ sáng ngày 23.1, ngọn lửa đã thiêu rụi toàn bộ 3 căn nhà liền kề của ông Trần Anh Giàu (xã Phú Tân, H.Phú Tân) và 6 ki ốt của các tiểu thương, trong đó có 1 tiệm vàng.

Ông Tản cho biết thêm, do điều kiện địa hình của địa phương hiểm trở nên khi vụ cháy xảy ra, xe chữa cháy không đến được hiện trường.

UBND H.Phú Tân đã huy động lực lượng tại chỗ gồm: công an, quân đội, dân quân tự vệ và người dân địa phương tham gia chữa cháy.

Sau hơn 1 giờ đồng hồ, ngọn lửa mới được khống chế.

Ngay khi sự cố xảy ra, UBND huyện Phú Tân đã cử đoàn cán bộ đến thăm hỏi và trợ giúp mỗi gia đình bị nạn 1 triệu đồng.

Nguyên nhân ban đầu dẫn đến hỏa hoạn được xác định là do chập điện.

Hiện cơ quan chức năng đang điều tra nguyên nhân cháy.

Gia Bách

Share this post


Link to post
Share on other sites

Tai nạn tăng nặng.......

======================

Thái Lan: 4 người chết, 40 người bị thương do pháo hoa năm mới

Thứ Tư, 25/01/2012 - 09:16

(Dân trí) - 4 người đã thiệt mạng và khoảng 40 người khác bị thương hôm qua khi pháo hoa tại một hoạt động mừng năm mới của người Hoa ở Thái Lan gây ra vụ nổ lớn và khiến các ngôi nhà liền kề bị bắt lửa.

Posted Image

Đồ trang trí mừng năm mới tại khu phố của người Hoa ở Bangkok, Thái Lan.

Các mảnh giấy bốc cháy từ pháo hoa đã rơi xuống một khu vực dân cư phía sau ngôi chùa của người Hoa ở tỉnh Suphan Buri, phía bắc Bangkok, nơi sự kiện chính thức đang diễn ra. Một số ngôi nhà bằng gỗ đã bị bắt lửa. “Chúng tôi cho rằng vụ nổ là một tai nạn. Đám cháy đã được kiểm soát nhưng tôi sẽ tiếp tục giám sát tình hình”, cảnh sát Reera Butrpho cho hay.

Ông cho hay những người thiệt mạng và một số người bị thương nằm trong số các khán giả tới xem màn trình diễn pháo hoa khi vụ nổ xảy ra.

Những hình ảnh được chiếu trên kênh truyền hình Thái cho thấy các ngôi nhà và phương tiện chìm trong biển lửa và những người bị thương được khẩn trương đưa tới bệnh viện bằng cáng.

Còn kênh truyền hình TNN của Thái Lan đưa tin 3 người thiệt mạng thuộc nhóm bắn pháo hoa và một người bị thương trong tình trạng nguy kịch.

Các nguồn tin cho biết 20 ngôi nhà đã bị phá huỷ hoàn toàn và khoảng 30 ngôi nhà khác bị hư hại,

Buổi lễ mừng năm mới tại tỉnh Suphan Buri có sự tham gia của Phó thủ tướng Chumpol Silpa-archa và anh trai ông, cựu Thủ tướng Banharn Silpa-archa. Không ai trong số 2 người bị thương.

Thái Lan có nhiều người gốc Hoa sinh sống và các hoạt động mừng năm mới con rồng được tổ chức rộng rãi trên khắp cả nước.

An Bình

Theo AFP

================================

Tai nạn năm ngoái nhiều hơn năm kia. Năm nay nhiều hơn năm ngoái. Mọi người nên cẩn trọng với mọi hành vi của mình.

Share this post


Link to post
Share on other sites

LỜI TIÊN TRI 2012

Kinh tế suy thoái nặng nề.....

==========================

IMF: Kinh tế thế giới “lún sâu vào nguy hiểm”

(Tamnhin.net) - Theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), kinh tế thế giới hiện đang "lún sâu vào khu vực nguy hiểm" do rủi ro từ Khu vực dùng đồng euro (Eurozone).

Posted Image

Tổng Giám đốc IMF Christine Lagarde

Tổng Giám đốc IMF Christine Lagarde ngày 23/1 cảnh báo kinh tế toàn cầu có thể bị cuốn vào vòng xoáy chôn ốc khủng hoảng tựa như thập niên 1930 trừ khi có hành động tại khu vực có khủng hoảng là các nước dùng euro.

IMF dự đoán kinh tế toàn cầu sẽ tăng trưởng 3,25% vào năm 2012, giảm so với dự báo trước đó là 4%. Khu vực dùng đồng euro theo dự kiến sẽ bị "suy thoái nhẹ" vào năm 2012, với GDP dự kiến tăng trưởng âm (-0,5%) so với dự báo trước đó tăng trưởng dương 1,1%.

Ước tính tăng trưởng đã được điều chỉnh giảm xuống cho các nước chính trong dùng euro, trong đó có Đức, được coi là bàn đạp kinh tế chính của khu vực. IMF dự báo kinh tế Đức tăng trưởng 0,3% trong năm 2012, giảm so với mức 1,3% được dự đoán vào hồi tháng Chín năm ngoái. Pháp dự kiến sẽ tăng trưởng 0,2% trong năm 2012, giảm so với mức 1,4% được IMF dự báo trước đó.

Tuy nhiên, IMF duy trì dự báo tăng trưởng 1,8% đối với Mỹ , dựa trên dữ liệu khả quan gần đây từ trong nước về việc làm và chế tạo.

Ảnh hưởng lan truyền

Các thị trường mới nổi, chẳng hạn như Trung và Đông Âu cũng như Châu Á, cũng có thể bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng Khu vực dùng đồng euro. IMF cho biết: "Trong khi các thị trường này có khả năng đề kháng khá mạnh trước những cú sốc xảy ra tại các các nền kinh tế phát triển trong quá khứ, các chỉ số gần đây cho thấy sự suy yếu đáng kể và môi trường kinh doanh nói chung đã xấu đi."

IMF cho biết thách thức cấp bách nhất của Châu Âu là khôi phục lại niềm tin và giải quyết dứt điểm cuộc khủng hoảng ở Khu vực dùng đồng euro.

Tổ chức này nói thêm rằng nền kinh tế thế giới cần "có hành động quyết đoán và nhất quán về chính sách" nhằm cải thiện môi trường tài chính hiện thời. Có ba yêu cầu đối để phục hồi vững vàng hơn: đó là điều chỉnh dần dần và bình ổn, tăng tính thanh khoản và chính sách tiền tệ linh hoạt, tại các nền kinh tế tiên tiến, và phục hồi lòng tin trong việc hoạch định chính sách.

Ủy viên các vấn đề kinh tế EU Olli Rehn dự kiến sẽ có một "cuộc suy thoái vừa phải" ở khắp Châu Âu trong nửa đầu năm nay.

Trong bản cập nhật báo cáo tháng 9/2011, IMF cũng cảnh báo rằng "Mỹ và các nền kinh tế tiên tiến khác là dễ bị tác động dây chuyền từ thực trạng căng thẳng do khủng hoảng tại Khu vực dùng đồng euro".

Minh Châu (theo BBC)

==========================

Buồn nhỉ! Nói như ve sầu từ 2008, chẳng ai chịu nghe. Nếu thêm một yếu tố tương tác xấu nữa là "Chiến tranh" thì sang phim.

Muốn "Ở trần" được ở trần.

Thích "liên minh" thì sẽ được phần liên minh.

Xin chú thích rõ thêm là: Liên minh Nato, Hoa Kỳ và Isarael trong sách lược chống Iran không nằm trong câu trên.

Share this post


Link to post
Share on other sites