wildlavender

Không Nước Không Trăng

37 bài viết trong chủ đề này

CHUYỆN TRONG ĐỜI

Thưa Thầy, cho phép tôi được hỏi:Tôi đang đi tìm Phật,nhưng không biết Phật có ở trong chùa chăng?- ---- Không.

- Phật có trong chợ chăng?- Không.

- Phật có trong nhà chăng?- Không.

- Phật có trong kinh điển chăng?- Không.

- Phật có trong tâm chăng?- Không.

- Phật có trong hang động, sông biển, non núi chăng?- Không.

- Vậy Phật ở đâu?- Phật ở ngay trước mắt, trước mặt ông đó.

- Sao tôi không thấy? À, chắc là Thầy ngụ ý: Thầy là Phật chứ gì? Sao Thầy cống cao ngã mạn quá vậy hử?Chán quá!

Đời nay khó kiếm vị chân tu! Thôi! Tôi phải về nhà lạy Phật trên bàn thờ nhà tôi thôi!

- Sở dĩ ông không thấy, bởi ông thường dùng cặp mắt trần đời,cặp mắt bằng thịt (nhục nhãn).

Muốn “thấy” Phật, ông phải dùng con mắt thứ ba.- Thế nào là con mắt thứ ba?

- Khi nào tâm con người bình thường,không nổi cơn tham, không nổi cơn sân, không nổi cơn si, ý nghĩ, hành động, lời nói đầy đủ từ bi & trí tuệ không kẹt bên trái, không kẹt bên phải,lúc đó con người sẽ thấy PHẬT HIỆN TIỀN.

- Con đã ngộ rồi. Con đã hiểu rồi. Kính đảnh lễ Thầy đã từ bi khai thị cho con mở được con mắt trí tuệ. Thành tâm sám hối đã xúc phạm đến bậc chân tu Ngay trước mắt mà con không nhận ra.

SUY NGẪM:

Từ dung (gương mặt từ bi) củacác tôn tượng Phật và Bồ Tát,đều có viên kim cương ở giửa cặp mắt thiền định. Đó chính là tượng trưng cho con mắt thứ ba

- con mắt trí tuệ (tuệ nhãn)

Nghĩa là: người tu theo Phật không cần phải đi chùa, không cần phải tụng kinh gỏ mõ cho chuyên nghiệp,(để khỏi phô trương, hay chỉ đi cúng đám kiếm tiền) không cần phải thần tượng cá nhân một vị Thầy nào,(để khỏi u mê) chỉ cần phát triển: TÂM TỪ BI & ÁNH SÁNG TRÍ TUỆ

Share this post


Link to post
Share on other sites

Chiếc bè

Một người đang đi trên con đường xa dài, đến một vùng nước rộng, bờ bên này nguy hiểm và hãi hùng, bờ bên kia an ổn và không kinh hãi. Vùng nước dài rộng, nhưng không có thuyền để vượt qua, và cũng không có cầu bắc từ bờ này qua bờ bên kia.

Posted Image

Anh ta suy nghĩ: “Ðây là vùng nước rộng, bờ bên này nguy hiểm và hãi hùng, bờ bên kia an ổn và không kinh hãi, nhưng không có thuyền để vượt qua hay không có cầu bắc qua từ bờ này đến bờ kia. Nay ta hãy thâu góp cỏ, cây, nhánh, lá, cột lại thành chiếc bè, và dựa trên chiếc bè này, tinh tấn dùng tay chân, có thể vượt qua bờ bên kia một cách an toàn”.

Nghĩ rồi, rồi anh ta bèn thâu góp cỏ, cây, nhánh, lá cột lại thành chiếc bè, và nhờ chiếc bè này, tinh tấn dùng tay chân vượt qua bờ bên kia một cách an toàn. Khi qua bờ bên kia rồi, anh ta suy nghĩ: “Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn. Nay ta hãy đội chiếc bè này trên đầu hay vác nó trên vai, và đi đến chỗ nào ta muốn”.

Và, tri ân chiếc bè như thế, không ngần ngại, anh ta đội chiếc bè trên đầu và tiếp tục cuộc hành trình của mình, mặc người đời xì xào, bàn tán!

(Kinh Trung bộ, tập I, kinh Ví dụ con rắn - Alagaddùpama sutta. HT.Thích Minh Châu Việt dịch)

========================================================================

Bàn thêm:

Tri ân là điều đáng quý, nhưng tri ân theo kiểu anh chàng trong câu chuyện kể trên thì thật ngốc. Bởi, sở dụng của chiếc bè là đưa người qua sông, qua vùng nước để đến bờ bên kia - đáo bỉ ngạn.

Bờ bên này là chỉ cho thân kiến, sự chấp chặt vào bản ngã, tham đắm các dục - các dục vui ít, khổ nhiều, đầy chướng ngại, hiểm nguy và kinh hãi. Bờ bên kia là Niết bàn, tịch tịnh an vui, đoạn trừ tham ái chấp thủ. Chiếc bè là pháp tu, là Bát chính đạo.

Người tu tập rõ biết vô minh, tham ái, chấp thủ chính là đầu mối của khổ, là nguyên nhân của sinh tử luân hồi. Cần phải chân chính nhận rõ cái “tôi”, cái “của tôi” và “tự ngã của tôi”, diệt trừ tham ái, chấp thủ. Các pháp tu chính là phương tiện giúp chúng ta có được cái nhìn chân chính ấy. Nhưng khi chúng ta đạt được mục đích cũng chính là lúc chúng ta từ bỏ phương tiện, vì còn nắm giữ (dù là pháp hay phi pháp), cũng đều là trạng thái chấp thủ, bất an và kinh hãi như Đức Phật đã dạy.

Trong nhà thiền phân biệt hai cách tu: một là dùng pháp, và hai là pháp dùng.

Dùng pháp tức là nương vào các phương pháp tu tập (phương tiện) để tu trì, như tụng kinh, ngồi thiền, niệm Phật, ăn chay, giữ giới v.v… để đoạn trừ tham ái, chấp thủ, vô minh, thấu rõ được các pháp vốn là giả hợp, tự tại trước vô thường, trút sạch được cái “tôi”, đạt đến cứu cánh niết bàn. Cái tôi và cái của tôi được trút sạch, không còn bám giữ, tức “xả pháp”, thì cũng đâu còn bám vào phương tiện.

Còn pháp dùng, tức cũng giống kẻ ngu đội chiếc bè trên đầu kia, bị phương tiện trói buộc, không thể đạt đến cứu cánh. Bởi tự thân các phương pháp tu tập không phải là mục đích, nó là “ngón tay chỉ trăng” chứ không phải “mặt trăng”. Người tụng kinh, niệm Phật, ngồi thiền… mà còn nghĩ mình làm thế để được làm Phật là người bị pháp dùng chứ không phải dùng pháp.Người dùng pháp phải hiểu rõ rằng đó chỉ là những phương tiện để chúng ta thấy rõ được bản tâm của mình. Một khi còn bị cái “tôi” sai sử trói buộc, tức chúng ta còn đầy dẫy những sự mê lầm, không thể có được cái nhìn chân chính.

Chúng tôi xin mở ngoặc để đưa ra một ví dụ dễ hiểu. Như ở đời, người ta dùng tiền làm phương tiện trao đổi. Nỗ lực "chính mạng" làm ra tiền để phục vụ cho đời sống là dùng tiền. Còn khi vì bất chấp thủ đoạn, lường gạt, chèn ép để đạt được tiền bằng mọi cách, hay vì tiền mà làm bất kỳ điều gì là bị tiền dùng, bị sai sử bởi đồng tiền. Người như thế thật đáng thương!

Chúng ta vẫn thuờng nghe: Được cá thì quên nơm, được ý thì quên lời, nên phải nương nơi lời mà đạt ý. Đạt ý mà vẫn còn chấp lời thì chưa thể gọi là liễu ngộ. Đức Phật vì muốn diễn bày thật nghĩa nên phải dùng vô số phương tiện; chúng ta phải nương theo phương tiện để ngộ lẽ chân thật chứ không phải khư khư ôm lấy phương tiện và mắc kẹt vào đó. Những người chỉ biết đem phương tiện (pháp) ra để hý luận, tranh cãi mà không biết nương vào đó để tu tập thì không những không đạt được chút ích lợi nào, mà ngược lại còn bị vướng vào muộn phiền, khổ não.

Do đó, Phật dạy: Pháp còn phải bỏ huống hồ phi pháp!

Share this post


Link to post
Share on other sites

Lỗ cây và con rùa mù

Có một người quăng một khúc cây xuống biển. Trên khúc cây ấy có một cái lỗ. Một ngọn gió từ phương Đông thổi nó trôi qua hướng Tây; một ngọn gió từ phương Tây thổi nó trôi qua hướng Đông. Và một ngọn gió từ phía Bắc thổi nó trôi qua phía Nam; một ngọn gió từ phía Nam thổi nó trôi qua phía Bắc. Cứ thế, khúc cây bị gió thổi trôi lênh đênh trên biển.

Trong biển lớn ấy có một con rùa mù. Một trăm năm rùa mù mới trồi đầu lên mặt nước một lần. Nhiều, rất nhiều lần của một trăm năm, rùa trồi lên để đút đầu vào đúng cái lỗ cây ấy!

Câu hỏi được đặt ra là: đến bao giờ thì rùa mù mới có thể làm được cái việc cực kỳ hy hữu ấy?

(Theo kinh Trung bộ, tập III, kinh Hiền ngu - Bàlapandita Sutta. HT. Thích Minh Châu Việt dịch)

Bàn thêm:

Lỗ cây và con rùa mù là một ẩn dụ nổi tiếng bậc nhất trong kinh điển Phật giáo. Ẩn dụ này được Đức Phật ví cho cái sự khó của việc được sinh làm người, một khi bị rơi vào đọa xứ.

Các Tỷ kheo trả lời câu hỏi trên như sau: “Nếu có được chăng nữa, bạch Thế Tôn, thời chỉ được một lần, sau một thời gian rất lâu dài”.

Tuy vậy, Đức Phật dạy rằng: “Còn mau hơn, này các Tỷ kheo, con rùa mù ấy có thể chui cổ vào khúc cây có lỗ hổng kia; nhưng này các Tỷ kheo, ta tuyên bố rằng còn khó hơn được làm người trở lại, một khi người ngu bị rơi vào đọa xứ. Vì sao vậy? Vì ở đấy, này các Tỷ kheo, không có pháp hành, an tịnh hành, thiện hành, phước hành. Này các Tỷ kheo, ở đây chỉ có ăn lẫn nhau và ăn thịt kẻ yếu”.

Người ngu, theo lời Phật, là người: “tư duy ác tư duy, nói lời ác ngữ và hành các ác hạnh”, tức thân khẩu ý người ấy đi ngược với chánh đạo. Theo đó, một người thông minh, có tri thức, có địa vị… cũng có thể bị xem là người ngu, nếu người ấy không tư duy, hành xử và nói lời chân chánh!

Phật dạy: “Người ngu ấy, này các Tỷ kheo, ngay trong hiện tại cảm thọ ba loại khổ ưu”. Ba loại khổ ấy là: 1. Khi nghe ai đó nói về những việc ác mình làm, như: sát sanh, lấy của không cho, theo tà hạnh trong dâm dục, nói láo, say rượu…, người ấy liền cảm thấy ưu khổ. 2. Cảm thấy khổ não, lo sợ khi thấy những kẻ có tội như mình bị pháp luật trừng phạt bằng các loại cực hình. 3. Khi đi đứng, lúc nằm ngồi, kẻ ấy thấy những việc ác mình làm như treo ép, đè nặng lên người, bị ám ảnh, lòng khổ sở khôn khuây.

Người ngu ấy khi chết sẽ bị rơi vào cõi dữ như địa ngục, súc sinh.

Ở đây, Đức Phật mô tả cảnh địa ngục là nơi có vô vàn sự khổ: “hoàn toàn không tốt đẹp, hoàn toàn không khả ái, hoàn toàn không thích ý”. Ví như một người bị trừng phạt, chịu ba trăm mũi giáo đâm vào người mỗi buổi sáng, trưa, chiều; sự khổ ở địa ngục còn ngàn vạn lần nhiều hơn thế nữa.

“… Này các Tỷ kheo, các người giữ địa ngục dựng ngược người ấy chân phía trên, đầu phía dưới và quăng người ấy vào một vạc dầu bằng đồng nung đỏ, cháy đỏ, cháy thành ngọn, cháy đỏ rực. Người ấy ở đây bị nấu với bọt nước sôi sùng sục…; khi thì nổi lên trên, khi thì chìm xuống đáy, khi thì trôi dạt ngang. Người ấy ở đây thọ lãnh các cảm giác đau đớn, thống khổ, khốc liệt. Nhưng người ấy không có thể mệnh chung cho đến khi ác nghiệp của người ấy chưa được tiêu trừ…”.

Hoặc người ngu ấy bị sinh vào các loài bàng sinh, phải ăn phân, ăn cỏ, ăn xác chết…; sinh ra trong chỗ hôi thối, bẩn thỉu, tăm tối và cũng chết đi trong chỗ bất tịnh, thực khó thể nào kể hết được những đọa đày, thống khổ.

Một khi bị rơi vào đọa xứ, người ngu rất khó để được sinh lại làm người, cũng giống như con rùa mù trăm năm một lần trồi lên và đút cổ vào lỗ cây nổi lênh đênh trên biển. Sau một thời gian lâu dài, người ngu đó nếu được sinh trở lại làm người, thì cũng sinh trong gia đình hèn kém, nghèo nàn, “không đủ để uống hay để ăn, cho đến miếng vải che lưng cũng khó tìm được. Lại nữa, người ấy thô xấu, khó nhìn, lùn thấp, hay bệnh, mù hay có tật, què hay bị bại, người ấy không có thể được các đồ ăn, đồ uống, vải xa, vòng hoa, hương liệu, giường nằm, chỗ trú xứ và ánh sáng”.

… Đọc ẩn dụ lỗ cây và con rùa mù, chúng ta thấy mình quá đỗi hạnh phúc và may mắn khi có được thân người - nhân thân nan đắc; và càng hạnh phúc hơn khi được học hỏi Chánh pháp - Phật pháp nan văn. Có được thân người, theo lời Phật dạy, là do chúng ta biết giữ gìn ngũ giới. Vậy mà phần đông chúng ta, dù mang được thân người, nhưng từ khi sinh ra cho đến khi chết đi, đều vô cùng bận rộn với cái ăn cái mặc, với những mối quan hệ, với những sự vui chơi giải trí, với những thứ hư danh phù phiếm và với những nỗi lo buồn, hỷ nộ ái ố… Khổ đau vì thế cũng đoanh vây trùng trùng.

Ta lấy cái nhân đau khổ này để giải quyết cái quả đau khổ kia, chẳng biết vui là nguyên nhân của khổ - bất tri lạc thị khổ nhân! Trong khi đó, “vô thường, già, bệnh, chẳng hẹn cùng ai! Sáng còn, chiều mất, chỉ trong sát na đã qua đời khác.

Ví như sương xuân, móc sớm, chốc lát thành không; như cây ven sông, giây leo thành giếng, há được lâu dài. Niệm niệm qua nhanh, chỉ trong chốc lát, hơi thở chợt tắt, đã ra đời sau… (Văn cảnh sách - Thiền sư Quy Sơn). Và cổ đức cũng nói: “Thiên niên thiết thọ khai hoa dị/ Nhất thất nhân thân vạn kiếp nan” - (Ngàn năm cây sắt trổ hoa dễ/ Thân người mất đi được lại khó).

Bồ tát sợ nhân, chúng sinh sợ quả - người ta cứ sợ, cứ trách cái khổ hiện tại mà không biết gieo trồng những hạt giống an lạc, hạnh phúc cho tương lai.

Phật dạy, trong sáu cõi, cõi người là nơi dễ tu tập nhất. Dễ, nhưng chúng ta phải kiên định vững chãi. Phải chọn con đường chuyển hóa đích thực và tinh tấn theo con đường ấy; lại phải biết khước từ, kiên quyết không tiếp tục gieo những hạt giống khổ đau. Ta mừng vui vì có được thân người. Mừng vui nhưng đừng như một kẻ tay bưng bát mật mà chuyển động chạy nhảy, chỉ thấy bát mật chứ không thấy hố sâu… (kinh Di giáo).

Cái hố sâu đọa xứ ấy, rơi xuống thì dễ mà bước lên thì khó, nói chi đến thành tựu đạo nghiệp, chấm dứt sinh tử luân hồi!

A Lan Nhã

Share this post


Link to post
Share on other sites

BÀI HỌC TỊNH TÂM

Một thiền sinh hỏi: “ Thưa sư phụ, con đau khổ vì cha mẹ tàn nhẫn, vợ con ruồng bỏ, anh em phản bội, bạn bè phá hoại… Con phải làm sao để rũ bỏ được oán hờn và thù ghét đây? ”/Vị sư phụ đáp: “ Con ngồi xuống tịnh tâm, tha thứ hết cho họ ”.

Vài hôm sau, người đệ tử trở lại: “ Con đã tha thứ cho họ sư phụ ạ. Nhẹ cả người! Coi như xong ”.

Sư phụ đáp: “ Chưa xong, con về tịnh tâm, mở hết lòng ra và thương yêu họ ”.

Người đệ tử gãi đầu: “ Tha thứ thôi cũng đã quá khó, lại phải thương họ thì...Thôi được con sẽ làm ”

Một tuần sau, người đệ tử trở lại, mặt vui vẻ hẳn, khoe với sư phụ là đã làm được việc thương những người mà trước đây đã từng đối xử tệ bạc với mình. Sư phụ gật gù bảo: “ Tốt! Bây giờ con về tịnh tâm, ghi ơn họ. Nếu không có họ đóng những vai trò đó thì con đâu có cơ hội tiến hóa tâm linh như vậy ”.

Lần sau người đệ tử trở lại, lần này tin tưởng rằng mình đã học xong bài vở. Người đệ tử hớn hở thưa rằng mình đã ghi ơn hết mọi người vì nhờ họ mà anh đã học được sự tha thứ!

Sư phụ cười: “ Vậy thì con về tịnh tâm lại đi nhé. Họ đã đóng đúng vai trò của họ chứ họ có lầm lỗi gì mà con tha thứ hay không tha thứ? ”.

Sưu Tầm & Chia Sẻ

Share this post


Link to post
Share on other sites

Không vướng bụi trần

Thiền sư Thiền Nguyệt, sống vào đời Đường, đã viết những lời khuyên sau đây cho các đệ tử của ngài:

¨ Sống giữa thế gian nhưng không để vướng mắc bụi trần mới là một thiền sinh chân chính.

¨ Khi thấy người khác làm điều tốt, hãy tự khuyến khích mình noi gương; nghe biết lỗi lầm của người khác, hãy tự nhắc nhở mình chớ nên làm theo.

¨ Dù ở một mình trong phòng tối, hãy giữ mình như đang tiếp khách quý.

¨ Bày tỏ cảm xúc, nhưng không vượt quá bản chất tự nhiên của mình.

¨ Sự nghèo khó là tài sản quý giá, đừng bao giờ đổi nó để lấy một cuộc sống dễ dàng.

¨ Một người có thể tỏ ra ngốc nghếch nhưng không phải vậy. Có thể người ấy chỉ đang giữ gìn cẩn thận sự khôn ngoan của mình.

¨ Đức hạnh là thành quả của sự nghiêm trì giới luật chứ không phải tự nhiên từ trên trời rơi xuống như mưa hay tuyết.

¨ Khiêm hạ là nền tảng của tất cả đức hạnh. Hãy để những người chung quanh tự họ nhận biết được ta trước khi ta tự mình phô bày.

¨ Một tâm hồn cao quý không bao giờ tự đề cao mình. Mỗi lời nói xuất phát từ tâm hồn đó đều là châu ngọc quý hiếm, không mấy khi biểu lộ và luôn có giá trị lớn lao.

¨ Với một thiền sinh chân thật thì mỗi ngày đều là một ngày may mắn. Thời gian trôi qua nhưng người ấy không bao giờ tụt lại phía sau. Những sự vinh nhục đều không thể làm cho người ấy động lòng.

¨ Hãy tự trách mình, đừng bao giờ chê trách người khác.

¨ Đừng bàn luận những việc đúng sai. Có những điều dù đúng nhưng vẫn bị xem là sai trong nhiều thế hệ. Vì giá trị của sự thật có thể được nhận biết sau nhiều thế kỷ nên không cần thiết phải đòi hỏi một sự chấp nhận ngay tức khắc.

¨ Hãy sống hết lòng với việc gieo nhân và để mặc kết quả tự nhiên diễn ra theo quy luật chung. Hãy để mỗi ngày đều trôi qua trong sự suy ngẫm thật bình lặng.

Share this post


Link to post
Share on other sites

KẺ CHIẾN THẮNG

Vào thời Vỏ Sỉ Đạo tại Nhật, có một kiếm khách nổi tiếng với đường kiếm tuyệt luân của mình. Ngoài ra, Ông còn có tài đánh cờ thuộc hàng thượng thặng.Sau một quãng đời tung hoành ngang dọc trong chốn giang hồ, vị kiếm khách nầy đã ngộ ra lý Thiền nên đã “ rửa tay gác kiếm “, khoác áo tu hành.

Qua nhiều năm dài tu hành tinh tấn Ông đã trở thành một Thiền Sư được nhiều người biết đến về đạo hạnh. Trong suốt thời gian đó, Ông cũng đã đem hết tâm huyết để nâng khả năng về Kiếm và Cờ của Ông lên hàng Kiếm Đạo và Kỳ Đạo. Vì vậy, tên tuổi của Ông ngày càng thêm lừng lẫy.Nhiều người đã đến xin học đạo với Ông và do đó Ông đã có nhiều môn đệ.

Một ngày kia, có một chàng thanh niên đến ra mắt Ông để xin theo học Đạo. Vị Thiền Sư đã nhìn kỷ chàng thanh niên và nói :- “ Ta chỉ nhận làm đệ tử những ai có đạo hạnh cao hoặc có khả năng khá về Kiếm hoặc Cờ. Ngươi tự xét thấy có khả năng nào trong các thứ ấy để có thể được ta thu nhận đây ?

“Sau một thoáng suy nghĩ, chàng thanh niên vội đáp : - “ Con có khả năng chơi Cờ; mặc dù không phải là hạng cao thủ nhưng con cũng đã từng hạ nhiều tay chơi Cờ giỏi có hạng.

“ Liền đấy vị Thiền Sư lại hỏi : - “ Vậy, bây giờ ngươi có muốn thi đấu về Cờ không ? “ -

“ Dạ, thưa ! Con muốn thử. “ Chàng thanh niên đáp.

Nghe vậy, vị Thiền Sư vội đi vào phía sau Thiền viện và trong khoảnh khắc lại trở ra với một thiền sinh. Đó là một nhà sư đã có tuổi vẻ mặt hiền lành, phúc hậu và là một trong những thiền sinh rất giỏi về Cờ trong Thiền viện.

Sau khi giới thiệu thiền sinh nầy với chàng thanh niên để thi đấu với nhau, ông đã nghiêm nghị nói : “ Trước khi bắt đầu cuôc đấu, Ta cần phải nói rỏ: đây sẽ là một ván cờ “sinh tử“, người thua cuộc sẽ phải chết dưới lưởi kiếm của ta. Các ngươi có đồng ý nguyên tắc nầy không ?

” Cả hai đều tỏ vẻ đồng ý và ngồi xuống chiếc bàn có đặt sẵn bàn cờ để bắt đầu thi đấu, trong khi vị Thiền Sư đặt thanh kiếm trên chiếc bàn nhỏ trước mặt rồi ngồi xuống chiếc ghế cạnh bên để giám sát cuộc đấu.

Thoạt tiên, khi bắt đầu cuộc đấu cả hai đều rất thận trọng khi đi cờ như để dò ý và tìm hiểu về khả năng cũng như lối chơi cờ của đối phương. Khoảng một lúc sau, với những bước vững chắc về thủ và linh động về công vị thiền sinh đã đưa chàng thanh niên vào trạng thái bị động, phải lui về thế thủ.

Chàng thanh niên đã tỏ ra bối rối trước sự tiến công dũng mành của đối phương. Chàng thanh niên bổng đâm ra lo ngại là sẽ bị thua cuộc và mất dịp được theo học Đạo mà còn bị mất mạng nửa.

Do đó, chàng ta cố vận dụng trí óc để moi ra từ ký ức những thế cờ đã từng đánh và từng học được trước đây để mong chận bớt những nước cờ tấn công rất hiệu lực của đối phương. Nhưng chàng ta chẳng nhớ ra được điều gì có thể xử dụng để thay đổi tình thế.

Trong cơn lo lắng miên man, bất chợt chàng có ý nghĩ: hay là xử dụng những nước cờ “liều”, biết đâu sẽ chẳng có kết quả tốt. Nghĩ xong chàng liền áp dụng ngay. Đang ở trong thế thủ, bổng bất thình lình chàng vùng lên tấn công quyết liệt. Những nước cờ “liều mạng” của chàng vừa đánh ra chẳng có một quy tắc căn bản nào cả, chỉ toàn là những nước cờ ”thí” không ai dám xử dụng hay nghĩ đến trong khi chơi Cờ, nhất là trong một ván cờ sinh tử như thế nầy.

Chỉ trong vài nước, thế cờ liều đột nhiên có kết quả. Nước cờ đang ở vào thế thủ bổng chuyển sang thành thế công, bắt buộc đối thủ phải lui về chống đở. Người thiền sinh cao cờ giờ đây bị đưa vào thế bị động vì những bước đi cờ lạ lùng, kỳ dị không thể tiên đoán được của chàng thanh niên liều mạng nầy.

Chàng thanh niên đang ở vào thế “thượng phong”, chàng tấn công tới tấp để mong chiến thắng. Trong lúc hăng say để đạt chiến thắng đó, từ trong nội tâm của chàng bổng nổi lên ý nghĩ: “ Hôm nay, đến nơi nầy để xin học Đạo, phải đánh ván Cờ “sinh tử” để được nhập môn, rồi trong lúc nguy khốn vì bị tấn công dồn dập đã phải dùng thế cờ “liều mạng” để chuyển bại thành thắng, đưa đối phương vào thế thúc thủ.

Trong chốc lát đây ván cờ sẽ kết thúc, người thiền sinh phúc hậu kia sẽ phải chết dưới lưỡi kiếm của Thầy. Người Thiền sinh đã mất gần suốt cuộc đời để học Đạo, tu hành tinh tấn, có được đạo hạnh cao; nay lại phải trở thành “cây thước” để đo tài người đến xin học Đạo, để rồi phải bỏ mạng vì kết quả của ván cờ. Thật là oan uổng ... “

Trong khi những ý niệm đó hiện ra và đưa chàng thanh niên vào suy tư thì nước cờ của chàng đang đi bổng nhiên có vẻ chậm lại và mất phần kiến hiệu. Và vì vậy, chỉ trong năm, ba nước cờ nguời thiền sinh đã tiến dần đến thế quân bình, rồi trong khoảnh khắc đã nắm lại được thế chủ động. Bây giờ đến lượt chàng thanh niên mất thế “thượng phong”.

Chỉ thêm vài nước, người thiền sinh đã đưa chàng thanh niên vào thế gần như không có lối thoát. Nhưng bất chợt, đột nhiên thế cờ của người thiền sinh bổng như chậm lại và có vẻ hòa hoản, ngập ngừng trong khi thế cờ của chàng thanh niên lại có phần chần chừ, bất định. Do đó, ván cờ đang ở vào giai đoạn tiến công để kết thúc bổng nhiên như dừng hẳn lại.

Cả hai bên đều có vẻ ngập ngừng, do dự. Nhưng cuối cùng, dù muốn dù không, ván Cờ cũng phải đi đến chỗ kết thúc. Vì vậy, người thiền sinh nhân hậu kia bắt buộc phải ra tay hạ thủ để kết thúc ván Cờ. Thế thắng, bại đã bày đã hiện bày ra trước mắt.

Đột nhiên, vị Thiền Sư bổng vụt đứng phắt dậy, hét lên một tiếng thật to và rút kiếm ra khỏi vỏ. Mủi kiếm được chĩa ngay vào đỉnh đầu của chàng thanh niên.

Nghe tiếng hét của Sư phụ, người thiền sinh vội cúi đầu, chấp tay niệm Phật. Với một đương kiếm tuyệt luân và thần tốc không thể ngờ được, thoáng một cái lưỡi kiếm của vị Thiền sư đã cạo nhẵn mái tóc trên đỉnh đầu của chàng thanh niên.

Giờ đây, trông chàng thanh niên chẳng khác nào một người vừa được “thí phát” để “quy y”. Và vị Thiền sư đã cất tiếng nói với chàng thanh niên: - “ Hôm nay, ta chính thức nhận con làm môn đệ “. Ván Cờ đã kết thúc trước khi nước cờ cuối cùng được đánh ra để quyết định việc thắng bại mà chiến thắng đang nằm trong tay của vị thiền sinh nhân hậu.

Chàng thanh niên với một lòng dốc tâm học Đạo đã can đảm nhận cuộc thi đấu với một đấu thủ mà chàng thừa biết là tài nghệ sẽ cao hơn mình. Mặc dù, không có khả năng chơi Cờ ngang hàng với người thiền sinh kia, nhưng nhờ có căn cơ lanh lợi, kinh nghiệm từng trải nên chàng thanh niên đã chuyển nuớc cờ từ thế “hạ’ lên thế “thượng phong” và đoạt nhiều thuận lợi đưa đến chiến thắng. Cũng như người thiền sinh, chàng thanh niên cũng có tính nhân hậu và lòng từ bi nên đã không nhân cơ hội thuận lợi để tiến lên đoạt chiến thắng, thõa mãn ước vọng của mình và đưa người vào chỗ chết.

Là một bậc Thầy về Kiếm và Cờ, vị Thiền Sư trong khi ngồi giám sát cuộc thi đấu đã thấy và hiểu rỏ khả năng và lối chơi Cờ của đôi bên. Ngoài ra, là một Thiền Sư đắc đạo,

Ông đã đọc được từng tâm niệm khởi nghĩ cũa hai kẻ ngồi trước mặt, nên hiểu được tánh ý và đức hạnh của người môn đệ của mình và thấy rỏ tâm hạnh của người thanh niên xa lạ kia va sau cùng Ông đã đi đến quyết định. Dưới mắt vị Thiền Sư: ván cờ đang sắp sửa được kết thúc mà phần thắng lợi đang nghiêng về phía người thiền sinh, môn đệ của Ông, nhưng chàng thanh niên lại là kẻ chiến thắng.

Chàng trở thành kẻ chiến thắng vì đã đánh bại được cái ước vọng nhiều tham muốn và lòng háo thắng của chính mình, dẹp bỏ được cái “ngã” riêng tư để nghĩ đến người mà không màng đến sự an nguy của chính bản thân. Chàng đã tự chiến thắng mình bằng lòng nhân ái.

Chàng thực sự là một kẻ chiến thắng trong một chiến công vô cùng oanh liệt và quả cảm đúng như lời dạy của Đức Phật: “ Chiến thắng oanh liệt và dũng cảm nhất mà không gây đổ máu và thù hận là tự chiến thắng bản thân mình “. Chàng thanh niên thật vô cùng xứng đáng được thu nhận để bái sư học Đạo và có cơ duyên để trở thành huynh đệ với người thiền sinh nhân hậu kia.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Đến chùa chẳng biết đạo đâu

Chỉ mong cầu Phật rõ đầu lễ thôi

Cầu xin khỏe mạnh hơn người

Cầu quan, quan đậu, giàu thôi hơn làng…

Tham quan mũ áo xênh xang

Xe đưa đỏ gọng, mã hàng đốt đen

Lên chức, thôi phải xây đền

Hò nhau chạy chức, xây chùa cho mau…

Kiểu gì cũng được Phật…rầu…

Phật nào độ thế, cút chầu bỏ ngay!

Linh thần nhiễm lậu rõ đày

Chúa dẹp, thần quỉ cao bay đá nhào…

Hết thời Phật đạo rõ đời

Sau ngày thế chuyển, Trời rời vào tim…

Đình đền chùa miếu tan tên

Sư sãi lấy vợ, tu tiên ở nhà…

Share this post


Link to post
Share on other sites

Chân Tu thì chẳng mong cầu, cúng dường, bố thí, phóng sanh, cầu phước đức: ấy là đổ bát phước liền kề trở về không!

Share this post


Link to post
Share on other sites

Cà phê nông dân: Những nhận xét thú vị!

Posted Image

Có nhiều câu chuyện Thiền nho nhỏ, nhưng đã đúc kết cả một quá trình kinh nghiệm và nghiền ngẫm dài lâu, để sáng ra những bài học chân lý thẳm sâu. Ví như mấy câu chuyện Thiền đơn giản sau đây đã nở hoa những lắng đọng ấy.

1. “Sau khi Thiền sư Bankei qua đời, có một người mù thường sống cạnh thiền viện kể rằng: Bởi tôi mù nên không thể nào nhìn thấy rõ mặt ai, vì thế tôi đoán được tâm tánh của mỗi người qua tiếng nói. Thông thường khi tôi nghe ai khen ngợi kẻ khác hạnh phúc hay thành công, tôi còn nghe được cả cái giọng thầm kín của ganh tị. Khi nghe lời chia buồn kẻ khác gặp điều bất hạnh, tôi nghe có giọng khóai trá thỏa mãn, rõ là kẻ nói lời chia buồn mà lòng thì sung sướng vì có những món kẻ kia bỏ lại để cho mình chiếm đoạt. Chỉ riêng giọng nói của Thiền sư Bankei là luôn luôn thành thực. Khi ngài nói lời vui vẻ, tôi chỉ nghe độc có giọng vui vẻ. Khi ngài tỏ lòng buồn rầu, tôi chỉ nghe độc một giọng buôn rầu”. (Một trăm lẻ một câu chuyện Thiền - Trần Trúc Lâm dịch).

Nghe lời kể của người mù, chúng ta bỗng kính trọng Thiền sư Bankei vô cùng. Một kính trọng tự phát rất mạnh mẽ. Khi ngài nói lời vui, ngài nói lời buồn đều chân thật. Ngài là một bậc nhân đức lớn vì tâm của ngài trong sáng vô cùng. Trong khi thông thường những người khác thì không như thế vì tâm họ không trong sáng. Họ giả trá và che đậy rất giỏi nhưng người mù này vẫn phát hiện ra khi nghe giọng nói của họ không phù hợp với lời họ nói.

Đây là nhận xét của một người mù nhưng chắc gì những người sáng mắt đã bằng. Tâm tính con người len lỏi thấm vào trong lời nói, nên đã biến đổi giọng nói một cách tinh vi. Và người mù đã nhận ra.

2. “Mỗi thiền sinh phải sống cạnh thầy ít ra cũng phải 10 năm trước khi thu dạy kẻ khác. Tenno, vừa trải qua thời kỳ học tập và nay trở thành thiền sư, đã đến thăm Nan-in. Hôm ấy trời mưa, nên Tenno mang guốc và cặp một cái dù. Sau khi Tenno chào hỏi, Nan-in lên tiếng: Có lẽ ông đã để guốc trước tiền đường. Ta muốn biết chiếc dù của ông nằm bên phải hay bên trái của đôi guốc".

Tenno bối rối không đáp lại ngay được. Ông ta hiểu ra rằng mình chưa sống thiền trong từng phút. Ông ta trở thành đồ đệ của Nan-in, và học trong 6 năm nữa để đạt đến mức thiền trong từng phút. (Một trăm lẻ một câu chuyện Thiền - Trần Trúc Lâm dịch)”.

Khi đọc kỹ câu chuyện Thiền học này, tôi ngẫm nghĩ rất lâu. Tôi có cảm giác dường như có một ánh sáng Thiền dịu dàng rất gần nhưng không bao giờ biết. Lập tức tôi nhớ lại đứa cháu nội lên 10, đã nói với tôi khi trên đường đi chơi trở về: “Ông nội ơi, người ta đã bán chiếc xe ô tô màu đỏ rồi”. Tôi ngạc nhiên lắm, nhưng hóa ra là thế này. Trên đường ông cháu đi chơi, có ngang qua một sa-lông bán ô tô. Và khi trên đường về, sa-lông bán ô tô ấy đã mất đi một chiếc. Lúc ấy tôi hỏi tại sao cháu biết một chiếc bị bán. Nó trả lời: “Hồi sáng có 7 chiếc, chiếc màu đỏ nằm ngoài cùng, bên cạnh chiếc màu trắng. Giờ chỉ còn 6 chiếc, màu đỏ không có”.

Thằng cháu nhỏ thật tuyệt vời thật, trong khi tôi chẳng biết gì cả về cái sa-lông bán ô tô ấy, nói chi đến chiếc ô tô màu đỏ! Phải chăng thằng cháu bé bỏng đã sống Thiền trong từng phút mà nó không biết. Còn tôi thì có biết về Thiền nhưng chưa bao giờ sống được Thiền.

Ngô Phan Lưu (TT&VH)

Share this post


Link to post
Share on other sites

Bảo bối - Sợ mất cái gì?

Vào lúc đệ tử học sắp thành tài, sư phụ cho anh ta xuống núi để vượt qua 81 thử thách cuối cùng. Trước khi lên đường, sư phụ cho anh ta một bảo bối.

Bảo bối đó quả là hiệu nghiệm, nhờ có nó, anh ta đã vượt qua được 80 cửa ải như sông lớn, vực sâu hoặc đi qua sa mạc không người, chịu được mùa hè nóng như đổ lửa, mùa đông lạnh như cắt da... Cửa ải thứ 81 là một ngọn núi hiểm trở.

Nhờ bảo bối, anh ta đã vượt qua được những chặng đường dốc cao vực thẳm, nhưng khi đến lưng chừng núi thì anh ta gặp một vách đá dựng đứng, cao hơn tay với của anh ta một chút, nhưng mặc dù đã cố gắng hết sức anh ta vẫn không sao bám được vào gờ vách trên. Ba ngày ba đêm liền anh ta cứ quanh quẩn tại đó, trong lòng đã có chút nghi ngờ tác dụng của bảo bối.

Đúng lúc đó, vị sư phụ xuất hiện. Đệ tử vội vã thưa:

“Bảo bối không linh nghiệm nữa."

Sư phụ cười nói:

“Xem ra con vẫn chưa nắm được những điều kỳ diệu đã học. Bảo bối có thể lúc thế này, lúc thế khác, nhưng trong trường hợp này sao con không dùng nó làm hòn đá kê chân mà cứ khư khư ôm nó trên người như một gánh nặng?"

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Sợ nhất cái gì?

Chú tiểu hỏi hoà thượng:

- Thưa sư phụ, người ta sợ nhất cái gì?

- Thế con cho là cái gì? - Hoà thượng hỏi lại đồ đệ.

- Có phải là sự cô độc không ạ?

Hoà thượng lắc đầu:

- Không đúng!

- Thế thì là sự hiểu nhầm chăng?

- Cũng không đúng!

- Là sự tuyệt vọng?

- Không đúng!

...

Chú tiểu đưa ra liền mười mấy phương án, nhưng hoà thượng đều lắc đầu.

- Vậy thì sư phụ nói cho con xem, đó là cái gì? - Chú tiểu chưa chịu thôi.

- Là chính con? - Chú tiểu ngẩng đầu, mở to mắt dường như hiểu nhưng cũng dường như chưa hiểu, chú nhìn thẳng vào sư phụ như xin điểm hoá.

- Đúng vậy! - Hoà thượng cười nói - Thực ra những điều con vừa nói như sự cô độc, sự hiểu lầm, sự tuyệt vọng... đều là cái bóng của thế giới nội tâm của con, đều là cảm giác mà tự con gây ra cho con thôi. Nếu con tự nghĩ là những cái này thật đáng sợ thì đúng là con tự đánh bại con. Còn nếu con nghĩ là chẳng có gì đáng sợ cả, ta có thể chiến thắng thì chẳng cái gì có thể áp đảo con. Bởi vì một người mà ngay cả bản thân mình cũng không sợ thì còn sợ cái gì nữa. Cái làm cho ta sợ không phải là những suy nghĩ mà là chính bản thân ta.

Chú tiểu bỗng ngộ ra.

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

THA hay BT?

Có tiếng ồn ào ở phía trên rẫy, nhà sư vừa bước ra khỏi thiền thất thì chú Liễu Minh cũng vừa đi tới. - Bạch thầy! Rẫy mình vừa bị mất trộm, sáng nay lên nhổ sắn chúng con mới biết.- Thế à!- Dạ mất đâu khoảng chừng vài vồng.Nhà sư dừng lại, chậm rãi nói:- Con ạ! Mất sắn và trộm sắn không phải là vấn đề của chúng ta! Là kẻ tu hành, vấn đề của chúng ta là, nhân đó, ta thử lắng nghe lại lòng mình một cách trung thực hơn. Ta sẽ lắng nghe rằng: ta có thể rộng lượng tha thứ được cho người chăng? Ta có móng khởi một tiếc rẻ nào khi mất đi một ít vật chất, của cải? Ta có thể san sẻ cho người bằng cách nhịn ăn một vài bữa! Và, sau hết, trong ta có dậy mối bất bình, phiền não chăng? Chúng ta là người học hạnh giải thoát, có gì phải giải quyết ngoài những vấn đề tương tự? Liễu Minh sững lại, nhà sư mỉm cười nắm tay chú theo lối mòn lên rẫy.Liễu Minh nói:- Bạch thầy! Hồi nãy, con với chú Bất Đạt cãi nhau. Con thì nói tha. Chú Bất Đạt lại nói bắt. Con và chú ấy thường có quan niệm bất đồng.Bất Đạt và Bất Ác từ trong những lùm sắn bước ra, mỗi người tay xách mấy chùm sắn vụn. Thấy nhà sư, Bất Đạt cất giọng oang oang:- Bạch thầy! Cái lũ ăn trộm này, gặp con, chúng sẽ biết tay! Liễu Minh cãi lại:- Biết tay như thế nào? Chú bắt chăng? Ý thầy là thầy sẽ tha cho phù hợp tâm từ!Nhà sư nói:- Không, Liễu Minh con! Thầy không tha! Vì tâm từ nên thầy không tha! Bất Đạt reo lên:- Đó, chú Liễu Minh thấy chưa? Vì tâm từ nên thầy không tha, thầy sẽ bắt.">Nhà sư cười:- Không, Bất Đạt con! Thầy không bắt! Vì tâm từ nên thầy sẽ không bắt.Cả ba chú đều ngơ ngác:- Bạch thầy thế thì...Thấy vầng trán và cặp chân mày của Liễu Minh cau lại, nhà sư dịu dàng nói:- Liễu Minh! Con hiểu về tâm từ như thế nào mà bảo nên tha? Vì tâm từ là thương người, yêu chúng sanh, mong chúng sanh thảy đều yên vui, hạnh phúc!- Như vậy, vì tình thương mù quáng, con sẽ dung dưỡng kẻ trộm trên thế gian! Bất Đạt góp lời:- Vì không muốn dung dưỡng kẻ trộm trên thế gian, cho nên, con sẽ bắt mới đúng nghĩa tâm từ!- Như vậy, vì tâm từ nóng vội con sẽ nuôi dưỡng hận thù giữa cuộc đời! Im lặng một lúc, nhà sư tiếp:- Các con ạ! Tâm từ là vậy mà không phải vậy. Thật ra, trong các con, chưa ai hiểu tâm từ là gì! Biết là cả hai chú đều rơi vào hoài nghi to lớn, nhưng nhà sư vẫn chưa trả lời vội, người dẫn cả ba chú đến một lùm cây rậm, chỉ vào đám cỏ rạp.- Đêm kia, thầy thấy cậu ăn trộm rình núp ở đây. Người bạn ăn đêm kiên nhẫn đợi thầy tắt đèn và đi nghỉ, nên thầy đã tắt đèn và đi nghỉ! Không cưỡng được ý mình, Liễu Minh buột miệng:- Thế là thầy đã tha!- Ừ! Thầy đã tha nhưng cái tha của thầy khác với cái tha của con. Thầy tha mà không dung dưỡng kẻ trộm trên thế gian. Rồi con sẽ hiểu điều ấy. Im lặng một lúc, chú Liễu Minh lại nói:- Thế là con sai ít mà chú Bất Đạt sai nhiều. Thầy đã không bắt! - Không, không phải thế đâu con! Thầy có bắt, nhưng không nuôi dưỡng hận thù, nên cái bắt của thầy khác với cái bắt của Bất Đạt!Posted ImageĐầu óc của các đệ tử rối loạn như một mớ bòng bong, như tổ chim, chẳng biết đạo lý câu chuyện nó nằm ở đâu nữa! Buổi chiều, trong giờ học Đạo, nhà sư lấy trong túi ra một lá thư bằng giấy học trò, nét chữ cứng cáp, không thẳng hàng thẳng lối, chẳng có chấm phết, sai chính tả lung tung. Liễu Minh và Bất Đạt chăm chú đọc:"Thưa thầy,Thầy biết con là thằng ăn cắp không những hai vòng sắn mà còn ăn cắp một tượng Phật nhỏ bằng đồng đen, ăn cắp 10 giò phong lan trước đây nữa. Thầy biết mà thầy lặng lẽ không nói với ai, cũng không hề trả lời một câu khi lính lệ qua tra hỏi! Bây giờ thầy lại còn giúp con vốn liếng, tiền ăn tiêu mười ngày để con lên "đá bạc" khai thác đá là nghề cũ trước đây của con. Tiền thầy cho, con còn dư dả để sắm dụng cụ hành nghề. Ơn đức thầy thật là kể sao cho xiết. Con hứa từ nay cho đến trọn đời, con thề làm người lương thiện để khỏi phụ tấm lòng cao cả của thầy.Con...Lá thư bên dưới có ký tên nhưng nhà sư đã lấy kéo cắt đi rồi. Bất Ác bây giờ mới cất giọng nói:- Con nhận nhiệm vụ bí mật của thầy, con biết cả. Con nghe hai chú Liễu Minh và Bất Đạt cãi nhau, con chỉ cười. Nhà sư hỏi:- Con cười sao? Con cười vì cả hai chú đều sai!- Không đâu con! Cả hai chú đều không sai! Câu trả lời của nhà sư thật bất ngờ. Nhà sư lại phải giải thích:- Cả hai không sai, nhưng cả hai chú đều không đúng! Tại sao vậy? Vì trên sự tướng, tha hay bắt không quan trọng. Tha hay bắt chỉ quan trọng là khi tha để làm gì và bắt để làm gì? Tha rồi có giáo hóa được người và bắt thì có giáo hóa được người? Trên tất cả, đối với chúng ta, tha hay bắt là để học bài học giác ngộ mà thôi! Bất Đạt chợt nói:- Ý con cũng có thể là vậy lắm! Con bắt rồi con sẽ tìm cách giáo dục người ta nữa chứ!Liễu Minh nhíu mày:- Chú mà giáo dục! Chú thượng cẳng chân hạ cẳng tay thì có! Rồi chú còn bắt trói người ta mà giải qua huyện! Cái bắt đó là cái bắt của người đời, chỉ tăng thêm oán thù chứ không được tích sự gì! Bất Đạt không giận mà cười khì khì:- Còn chú thì sao hử? Chú tha rồi chú giáo dục người ta làm sao nào, nói đi? Tha trống không cái kiểu của chú thì chi bằng kêu ba thằng ăn trộm vô khiêng chùa chiền đi hết cho khỏe! Vậy là tha theo hạnh bố thí ba-la-mật đấy! Nhà sư khoát tay:- Các con tranh cãi hay tranh luận đấy? Các con đừng nghĩ rằng giải pháp của thầy là tối ưu, từ đó, lấy làm thước đo để xử sự ở đời! Các con có biết rằng, tha hay bắt chỉ là sự thể hiện bên ngoài? Tha hay bắt rồi sau đó tìm cách giáo hóa, cũng chỉ là sự khôn ngoan của sự thể hiện bên ngoài ấy mà thôi. Có một cái tâm, các con ạ! Khi biết cái tâm ấy, trú nơi cái tâm ấy, thì tha hay bắt đều trở nên đúng cả vậy. Tâm ấy là tâm gì, ai biết? Cả ba chú đồng đáp:- Dạ, tâm từ! Đúng thế! Vậy thì từ rày về sau, khi gặp bất cứ tình huống nào cũng phải sáng suốt, bình tĩnh. Sáng suốt là Tuệ, bình tĩnh là Định. Từ Tuệ, từ Định mà khởi tâm từ thì mọi hành động của các con đều phù hợp với giáo pháp cả, không sợ sai lầm đâu!- Chúng con đã hiểu cả rồi. Ôi! Thật tuyệt vời thay cái bài học hôm nay!

Nhà sư từ bi nhìn ba chú, tủm tỉm cười, thầm nghĩ: "Chỉ nên dẫn cho chúng lên ngang chỗ đó thôi! Chúng đâu có hiểu rằng, tâm từ còn có trước ý, dụng ý, còn vấn đề lợi và hại, hay và dở, tốt và xấu thì tâm từ ấy đâu đã được gọi là từ vô lượng? Posted ImagePosted Image

Share this post


Link to post
Share on other sites

Vui lòng đăng nhập để bình luận

Bạn sẽ có thể bình luận sau khi đăng nhập



Đăng nhập ngay