wildlavender

Không Nước Không Trăng

37 bài viết trong chủ đề này

Mẩu truyện Thiền số 1

KHÔNG NƯỚC - KHÔNG TRĂNG

Ni cô Chiyono đã tu học nhiều năm, nhưng vẫn chưa đạt được gì cả. Một đêm, cô quẩy đôi thùng xuống suối múc nước. Khi cô gánh nước trở về tu viện, cô vừa đi vừa ngắm ánh trăng soi rọi xuống mặt nước trong thùng. Bất thình lình, đòn gánh gãy đôi, giây thùng đứt và thùng nước rơi xuống. Nước đổ ào ra, bóng trăng tan biến, không còn gì nữa và Chiyono hoát nhiên giác ngộ tâm linh. Cô đã viết bài thơ:

Bằng cách này hay cách khác, tôi đã kềm giữ đôi thùng nước,

Mong rằng chiếc đòn gánh giòn yếu kia sẽ không gãy

Bất chợt, dây đứt thùng văng,

Không còn nước trong thùng, không còn trăng trong nước,

Tay tôi rỗng không, chẳng có vật gì,

Tâm tôi rỗng không, chẳng có vật gì!".

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

TRANH LUẬN TÌM CHỖ TRỌ QUA ĐÊM

Theo truyền thống Thiền Nhật Bản ngày xưa, những tăng sĩ đi vân du khắp nơi, nếu muốn ngủ trọ qua đêm ở một ngôi chùa hay tịnh xá nào đều phải thắng cuộc tranh luận tay đôi với vị sư thường trụ ở đó. Nếu không thắng được, vị du tăng đó phải đi, không được phép ở lại, dù chỉ một đêm.

Câu chuyện xảy ra tại một ngôi cổ tự phía bắc Nhật Bản. Trụ trì ngôi chùa là hai anh em nhà sư. Người anh rất thông thái, biện luận vô cùng thiện xảo, còn người em lại ngớ ngẩn, lù khù và còn chột một mắt nữa.

Một đêm nọ, có vị du tăng đi ngang qua, muốn xin vào nghỉ tạm qua đêm. Nhà sư anh quá mệt mỏi vì đã học hành suốt ngày, nên sai nhà sư em ra tiếp khách và tranh luận với vị du tăng theo truyền thống. Trước khi nhà sư em đi ra ngoài, sư anh dặn dò:

- Này, đệ đòi hỏi là phải tranh luận trong im lặng nhé. Đừng có nói, kẻo đấu không lại người ta đâu.

- Huynh yên tâm, để đó cho em!

Sau một thời gian ngắn, vị du tăng xin gặp nhà sư anh, vái chào và ra đi. Ông ta đã bị khuất phục và hết sức tán thán tài hùng biện của nhà sư em.

Nhà sư anh nói:

- Trước khi đi, xin Ngài thuật lại cho tôi nghe cuộc tranh luận xảy ra thế nào?

- Rất hay, tuyệt! Vị du tăng trả lời và kể lại như sau:

- Này nhé, trước hết tôi giơ một ngón tay lên ngụ ý tượng trưng Đức Phật. Sư đệ của Ngài đưa 2 ngón tay lên có nghĩa là Đức Phật và Phật pháp. Tôi lại đưa 3 ngón tay lên có ý nói Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng) số một. Sư đệ thông minh của Ngài đưa nắm tay lên dứ vào mặt tôi có ý nói là cả 3 (Tam Bảo) đều qui về một. Một là tất cả, tất cả là Một. Tuyệt! Tuyệt! Sâu xa! Sâu xa! Đại Thừa! lý rốt ráo, Đại Thừa đấy! Tôi cam lòng bái phục!

Vị du tăng ra đi, rất hể hả như đã học được một điều gì tuyệt diệu.

Lát sau, nhà sư em vào gặp nhà sư anh, dáng điệu còn có vẻ bực bội vô cùng.

Vị sư anh nói:

- Ta biết là đệ đã thắng cuộc tranh luận này.

- Thắng cái gì? Cái tên du tăng đó thật là thô lỗ hết sức, nếu đệ không nhớ lời sư huynh dặn là phải cố gắng nhẫn nại, nhã nhặn và lễ độ với khách, thì em đã cho hắn một bài học thích đáng rồi!

- Sao thế? Đệ thuật lại cho ta nghe sự việc như thế nào?

- Này nhé, khi hắn ta vừa thấy em, hắn liền đưa một ngón tay lên có ý chế diễu em chột một mắt; em cố dằn cơn giận, đưa 2 ngón tay lên khen là hắn có phước, đầy đủ 2 con mắt. Thế mà hắn lại có ý trêu ngươi em nữa chứ! Hắn lại đưa 3 ngón tay lên, có ý nói là em và hắn ta, hai người nhưng chỉ có 3 con mắt thôi. Em bực quá, dơ nắm đấm lên dứ dứ vào mặt hắn, có ý nói cho hắn biết là vừa phải thôi, lộn xộn là ăn đấm đấy! Hắn chột dạ, có vẻ ngán nên vái chào rút lui có trật tự. Thiệt là tăng sĩ gì mà thô lỗ hết sức!

Nhà sư anh trợn mắt, lắc đầu và ôm bụng lăn ra cười ngất.

- Ha ha ha! Ha ha ha!...

Share this post


Link to post
Share on other sites

Một vị thiền sư phát biểu:

"Khi mới tu thì tôi thấy núi không phải là núi, trăng không phải là trăng". Nhưng khi tu chứng ngộ rồi thì tôi lại thấy núi là núi, trăng là trăng".

Bởi vậy, khi chưa tu thì nhận thức trực quan và đặt tên sự vật "Núi là núi, trăng là trăng". Khi mới tu thì hiểu bản chất sự vật như mình nhận thức - "Núi không phải là núi, trăng không phải là trăng" - (Giống như cô tu sĩ trong câu chuyện trên) mà chỉ là nhân duyên giả hợp. Nhưng khi giác ngộ, quán xét hết quy luật tự nhiên, hiểu bản chất của sự vận động tương tác với các nhân tố khi tan, khi tụ, thì tất yếu lại thấy "núi là núi, trăng là trăng". Khi đạt đến đây có hai khả năng xảy ra - Mà Đức Văn Thù Bồ Tát đã viết - Đại ý: "Hoặc lên Thiên đường, hay xuống Địa ngục cấp kỳ". Người đạt đạo là người không chấp vào các thứ đó. Giải thoát tức là hiểu được bản chất của Thái Cực - tính thấy - Đấy là tự do cuối cùng.

Share this post


Link to post
Share on other sites

TRANH LUẬN TÌM CHỖ TRỌ QUA ĐÊM

Theo truyền thống Thiền Nhật Bản ngày xưa, những tăng sĩ đi vân du khắp nơi, nếu muốn ngủ trọ qua đêm ở một ngôi chùa hay tịnh xá nào đều phải thắng cuộc tranh luận tay đôi với vị sư thường trụ ở đó. Nếu không thắng được, vị du tăng đó phải đi, không được phép ở lại, dù chỉ một đêm.

Câu chuyện xảy ra tại một ngôi cổ tự phía bắc Nhật Bản. Trụ trì ngôi chùa là hai anh em nhà sư. Người anh rất thông thái, biện luận vô cùng thiện xảo, còn người em lại ngớ ngẩn, lù khù và còn chột một mắt nữa.

Một đêm nọ, có vị du tăng đi ngang qua, muốn xin vào nghỉ tạm qua đêm. Nhà sư anh quá mệt mỏi vì đã học hành suốt ngày, nên sai nhà sư em ra tiếp khách và tranh luận với vị du tăng theo truyền thống. Trước khi nhà sư em đi ra ngoài, sư anh dặn dò:

- Này, đệ đòi hỏi là phải tranh luận trong im lặng nhé. Đừng có nói, kẻo đấu không lại người ta đâu.

- Huynh yên tâm, để đó cho em!

Sau một thời gian ngắn, vị du tăng xin gặp nhà sư anh, vái chào và ra đi. Ông ta đã bị khuất phục và hết sức tán thán tài hùng biện của nhà sư em.

Nhà sư anh nói:

- Trước khi đi, xin Ngài thuật lại cho tôi nghe cuộc tranh luận xảy ra thế nào?

- Rất hay, tuyệt! Vị du tăng trả lời và kể lại như sau:

- Này nhé, trước hết tôi giơ một ngón tay lên ngụ ý tượng trưng Đức Phật. Sư đệ của Ngài đưa 2 ngón tay lên có nghĩa là Đức Phật và Phật pháp. Tôi lại đưa 3 ngón tay lên có ý nói Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng) số một. Sư đệ thông minh của Ngài đưa nắm tay lên dứ vào mặt tôi có ý nói là cả 3 (Tam Bảo) đều qui về một. Một là tất cả, tất cả là Một. Tuyệt! Tuyệt! Sâu xa! Sâu xa! Đại Thừa! lý rốt ráo, Đại Thừa đấy! Tôi cam lòng bái phục!

Vị du tăng ra đi, rất hể hả như đã học được một điều gì tuyệt diệu.

Lát sau, nhà sư em vào gặp nhà sư anh, dáng điệu còn có vẻ bực bội vô cùng.

Vị sư anh nói:

- Ta biết là đệ đã thắng cuộc tranh luận này.

- Thắng cái gì? Cái tên du tăng đó thật là thô lỗ hết sức, nếu đệ không nhớ lời sư huynh dặn là phải cố gắng nhẫn nại, nhã nhặn và lễ độ với khách, thì em đã cho hắn một bài học thích đáng rồi!

- Sao thế? Đệ thuật lại cho ta nghe sự việc như thế nào?

- Này nhé, khi hắn ta vừa thấy em, hắn liền đưa một ngón tay lên có ý chế diễu em chột một mắt; em cố dằn cơn giận, đưa 2 ngón tay lên khen là hắn có phước, đầy đủ 2 con mắt. Thế mà hắn lại có ý trêu ngươi em nữa chứ! Hắn lại đưa 3 ngón tay lên, có ý nói là em và hắn ta, hai người nhưng chỉ có 3 con mắt thôi. Em bực quá, dơ nắm đấm lên dứ dứ vào mặt hắn, có ý nói cho hắn biết là vừa phải thôi, lộn xộn là ăn đấm đấy! Hắn chột dạ, có vẻ ngán nên vái chào rút lui có trật tự. Thiệt là tăng sĩ gì mà thô lỗ hết sức!

Nhà sư anh trợn mắt, lắc đầu và ôm bụng lăn ra cười ngất.

- Ha ha ha! Ha ha ha!...

Bởi vậy, "Hiện tượng là khách quan, nhưng cách hiểu bản chất vấn đề khác nhau". Đôi khi "một trời một vực".

Cũng là hiện tượng ngoại cảm. Người bảo "mê tín", không có "cơ sở khoa học"; người bảo "khoa học tâm linh". Vấn đề là nhận thức sự việc quyết định nội dung chính nhận thức đó đúng hay sai chứ không phải hiện tượng đó không có.

Share this post


Link to post
Share on other sites

THẾ À!

Thiền sư Hakuin rất được mọi người trọng vọng kính nể vì phong cách đạo đức thánh thiện của ông.

Một ngày kia, có người con gái trẻ đẹp ở gần chùa của thiền sư bỗng bị chửa hoang. Người ta không biết cha đứa bé là ai. Bố mẹ cô gái vô cùng tức giận và xấu hổ, nên đánh đập tra khảo cô con gái về lai lịch tình nhân của cô. Ban đầu cô con gái không chịu nói gì cả, nhưng sau cùng vì bị đánh đập dữ dội, cô tiết lộ đó là thiền sư Hakuin.

Tin xấu đồn ra nhanh chóng. Cha mẹ cô gái giận dữ, đùng đùng lên chùa và mắng xối xả vào mặt Hakuin. Khi họ dứt lời, Hakuin chỉ thốt hai tiếng "Thế à!"

Sau khi đứa bé chào đời, gia đình cô gái mang đứa bé quẳng cho Hakuin nuôi. Thời gian đó, Hakuin bị tai tiếng và nhiều người chê bai trách móc ông đủ điều; nhưng Hakuin vẫn thản nhiên như không, dường như câu chuyện kia chẳng có dính líu gì đến ông cả.

Hakuin chăm sóc đứa bé thật tử tế và bế nó đi xin sữa khắp nơi.

Một năm sau, cô gái vì cảm thấy ray rứt hối hận nên đã thú thực với cha mẹ là người cha đứa bé không phải là Hakuin, mà là một chàng thanh niên làm ở chợ cá. Cha mẹ cô ta vội chạy lên chùa dập đầu tạ lỗi với Hakuin và xin mang đứa bé về.

Thiền sư Hakuin thốt lên hai tiếng "Thế à!" và vẫn thản nhiên như không.

Share this post


Link to post
Share on other sites

NGƯỜI CHẾT KHÔNG TRẢ LỜI

Thiền Sư Mamiya là một đạo sư nổi tiếng. Nhưng trước kia khi ngài còn cầu pháp dưới sự chỉ đạo của Sư phụ, ngài đã bị chất vấn phải giải đáp thế nào là ‘tiếng vỗ một bàn tay?’ Mặc dù Mamiya đã ngày đêm gia công thiền quán về câu hỏi đó, Sư phụ vẫn không hài lòng và đã rầy la Mamiya: "Ngươi không chuyên tâm cần cầu tu học gì cả. Ngươi dính mắc nhiều quá vào lợi dưỡng, danh vọng, và nhất là vào 'tiếng vỗ một bàn tay'. Tốt hơn hết là ngươi nên chết quách đi cho xong!".

Lần khác, Mamiya lên gặp Sư phụ và khi được hỏi về công án đó, Mamiya lăn quay ra đất, thẳng cẳng giả bộ như người chết.
Sư phụ hé mắt nhìn hỏi:
- Ừ, ngươi đã chết rồi, vậy ‘tiếng vỗ một bàn tay’ là thế nào?
Mở mắt ra, Mamiya trả lời:
- Ồ, con vẫn chưa giải đáp được!
Sư phụ hét lớn:
- Cái gì? Người chết không trả lời! Cút ngay!"

Share this post


Link to post
Share on other sites

(Luận)

Thiền có một đường lối chỉ dạy rất độc đáo, riêng biệt gọi là công án. Công án là một câu đố tối nghĩa, vô lý. Bạn không thể nào giải đáp nó được. Càng cố công giải đáp công án, bạn càng đi vào bí đạo. Vị Sư phụ cứ nói: "Cố lên, cố lên, ngươi không chịu cố công tìm hiểu gì cả!". Song, ông ấy đang phỉnh gạt bạn đấy. Làm sao mà bạn có thể giải đáp được một câu đố vô nghĩa. Công án là một bài toán không đáp số, một trò chơi chữ vô nghĩa mà các Thiền sư dùng để thử tài trí đồ đệ của mình. Công án không tùy thuộc vào sự nổ lực của thiền sinh. Dù bạn có chạy theo công án đó đến hụt hơi, chết ngất đi nữa thì bạn cũng không bao giờ tìm được ẩn số của nó. Nhưng nếu bạn an nhiên bình thản nghiền ngẫm nó như một trò chơi thú vị với tất cả tổng thể con người bạn, bất chợt bạn sẽ loé lên ý thức về nó.

Tiếng vỗ một bàn tay...

Âm thanh chỉ phát ra khi có hai vật chạm vào nhau, chứ chỉ có một vật thì làm sao gây ra tiếng động được? Do đó, ngay trong câu hỏi ‘Tiếng vỗ một bàn tay?’, ta đã hiểu ngay đó là một điều vô lý vô nghĩa, nhưng thói thường người ta hay dùng tri thức để khám phá, suy luận vấn đề. Vì thế đệ tử đã rơi vào cái bẫy của Sư phụ.

Mamiya cũng vậy, ông đã gắng sức suy tư nghiền ngẫm về câu hỏi của Sư phụ, vì cho rằng phải có ẩn ý gì sâu kín bên trong, phải có sự bí mật nào đó đằng sau câu hỏi; nhưng không ngờ công án đó chỉ là một xảo thuật mà Sư phụ của Mamiya (cũng như các vị Thiền sư khác) sử dụng để giúp đệ tử rạch toang lớp màn tri kiến, phá vỡ thành trì ngôn luận, chọc thủng mạng lưới vô minh để khai phóng nội tâm, thoát khỏi cái vỏ tự ngã to tướng.

Toàn thể sự văn minh của con người đều nằm trong phạm vi cái Tôi cả: văn hóa, quốc gia, dân tộc, phong tục, tập quán, tôn giáo v.v... Tất cả những giấc mơ vĩ đại, siêu quần đều quy tụ vào con người vì nó tự cho rằng, con người là loài tối linh duy nhất đứng thẳng trên hai chân. Con người không phải là thú vật, nó hoàn toàn khác hẳn thú vật, nó là duy nhất không thuộc vào thế giới loài thú. Vì thế, càng lúc cái Ngã càng bành trướng to ra, bao trùm lên tất cả và dẫn dắt con người xa rời thực tại, đánh mất tâm linh, khiến họ mơ màng, nhận thức sai lạc.

Điểm thứ hai, chúng ta là những kẻ chỉ biết bắt chước như con vẹt mà thôi. Bắt chước thì dễ dàng hơn là phải có tính xác thực và có lập trường riêng. Chúng ta bắt chước người này, tập theo phong cách người nọ; cả cái xã hội này và những con người, văn hóa tập tục đều lặp đi lặp lại, tái diễn liên tục. Tất cả đều bắt chước lẫn nhau. Chúng ta được chỉ bày phải xử sự thế này thế nọ, chúng ta phải sống theo hướng này hướng kia, chúng ta phải suy nghĩ, phải ăn nói theo cách mà những người khác đang hành động v.v... Những con người tôn giáo (thực chất là mang danh tôn giáo) những tu sĩ, những nhà thần học, tất cả họ cũng chỉ dẫn, bắt buộc chúng ta phải bắt chước làm theo như Chúa, như Phật, như Krishna; không có một ai bảo chúng ta là "Hãy là chúng ta!". Không một ai cả! Không một ai cho phép chúng ta sống theo chính mình, là tự chính mình. Không một ai cho chúng ta cái tự do đó cả. Chúng ta không thể sống theo chúng ta được. Chúng ta là một phần tử của xã hội, là một phần tử của thế giới, chúng ta phải bắt chước người khác, chúng ta phải sống y như người khác đang sống. Chúng ta không còn và cũng không có tự do cá nhân để hành xử theo ý mình. Chúng ta không còn là chúng ta nữa!

Thật kỳ cục và ngớ ngẩn làm sao! Ngày xưa, chính Phật Thích Ca cũng đã bị thiên hạ nói phải bắt chước giống như Rama, như Krishna. Nhưng Đức Phật đã không làm theo ý họ, vì thế Ngài đã thành vị Phật. Đức Phật giác ngộ vì Ngài không muốn trở thành nạn nhân của sự bắt chước ngu xuẩn, không muốn trở thành nạn nhân của tư tưởng, tập tục, lề thói và xã hội. Nếu chúng ta bắt chước người khác, chúng ta đánh mất mình rồi còn gì! Tuy nhiên, chúng ta có dám cách mạng như Đức Phật không? Có dám sống, dám nghĩ, dám làm như Ngài không?

Từ lúc chúng ta bắt đầu biết nhận thức, chúng ta đã bị uốn nắn theo khuôn mẫu mà người lớn đặt ra cho chúng ta, và đó là cái mà người ta gọi là nhân cách. Nếu đứa trẻ nào sống đúng quy tắc khuôn mẫu như vậy, nó sẽ đựơc ban thưởng xứng đáng; ngựơc lại, nó sẽ là đứa trẻ bất trị, có vấn đề.

Thực sự, chúng ta đã bị tước đoạt quyền sống ngay từ lúc mới chào đời. Cái gọi là “Tự Do” chỉ là một danh từ suông, rỗng tuếch và giả dối.

Người vợ không muốn người chồng sống theo ý muốn của anh ta. Người chồng không cho phép người vợ tự do có ý kiến, tự do phát biểu, tự do sống. Không một ai muốn người khác sống cho họ, sống đúng theo ý họ cả; bởi vì nếu người nào dám sống theo ý mình, người đó rất nguy hiểm.

Những quy ước, luật lệ, những phong tục, tập quán, lối xử thế, cách suy nghĩ đều bị rập khuôn - mọi người đều phải đi đúng khuôn mòn lối cũ; không được đi trệch hướng. Người trước ta đi một bước trái, một bước phải, ta cũng phải đi một bước trái, một bước phải. Người trước ta rớt xuống hố, ta cũng phải lăn tòm theo. Ta đã được huấn luyện phải trở thành con cừu kêu be be lê lết theo vết chân đằng trước. Không dám có ý kiến, không dám làm khác đi; ta chỉ biết cúi đầu và phục tùng, cúi đầu và phục tùng thật tội nghiệp đáng thương!

Dồn nén! Con người bị dồn nén; xã hội bị dồn nén; cả một thế giới bị ức chế; và sự ức chế tâm lý đó đã tạo ra những bi kịch cùng bệnh tật cho con người. Không một ai có được hạnh phúc thực sự cả; con người chỉ có đau khổ, ray rứt và suy sụp toàn diện.

Freud, một triết gia người Áo, đã nói rằng: "Nhân loại không còn và cũng không có khả năng lĩnh hội; và cũng không có hy vọng đựơc cứu độ!". Ông ta đã nhận xét đúng, cái phương cách, con đường mà nhân loại đang đi tới, chỉ có đau khổ, ức chế và vô vọng. Không thấy một dấu hiệu sống nào; không có một chút sinh lực nào; không có đến một tia sáng hy vọng cỏn con nào. Và rồi những con người máy móc đó, những con người giả hiệu đó, sau khi đến tận cùng bờ vực thẳm của cái gọi là khuôn mẫu xã hội, sau khi bị dồn nén quá độ, đã bùng nổ ra như trái bom và chống trả lại. Có kẻ bùng nổ và tìm cách hủy diệt người khác. Có người đi theo các đạo sư hầu mong tìm ra một lối thoát; nhưng đáng buồn thay, trong những đền thờ, thánh đường, chùa miễu v.v... họ lại gặp những con người rập khuôn. Những nơi tôn nghiêm đó chỉ là những nấm mồ hoang lạnh. Với Chúa, ta là con người thực sự; nhưng đứng trước Đức Giáo Hoàng của Tòa thánh Vatican, ta phải là một con chiên biết bắt chước và phục tùng.

Chúa Giê Su không bao giờ là một phần tử của xã hội. Ngài vẫn là một người đứng ngoài vòng xã hội. Tất cả những bậc Chân sư, những người tôn giáo thực thụ luôn là những người lạ mặt, đứng ngoài vòng xã hội. Nhưng các thánh đường, các chùa miếu, đền thờ là một phần của xã hội, và các tu sĩ không còn là người đại diện cho Tôn giáo nữa, đại diện cho sự thánh thiện linh thiêng nữa; họ bây giờ đại diện cho tiền bạc và danh vọng; họ đại diện cho nền kinh tế của xã hội. Càng xây những ngôi thánh đường nguy nga vĩ đại, càng xây những đền đài chạm trỗ tinh vi, càng bộc lộ cho người ta thấy nền kinh tế phồn vinh của đất nước đó, xã hội đó, và như một Thiền sư đã nói: "Điện Phật to lớn nhưng Phật trong đó không linh".

Karl Marx đã đúng khi ông ta nói tôn giáo đang nằm trong tay những nhà tư bản hay những người trưởng giả phong kiến, những người khuynh loát và có quyền lực. Tôn giáo giờ chỉ còn là một công cụ cho sự khuynh loát thống trị. Marx đã nói đúng về bộ máy quyền hành của Tòa thánh La Mã Vatican hay tôn giáo của Mecca và Medina; nhưng Marx đã sai lầm về Mohammed, về Chúa Giê Su. Marx đã sai lầm vì không thấu triệt hoàn toàn phong cách đạo đức của các bậc Chân sư. Các đấng Giáo chủ khác xa với cái gọi là tôn giáo của xã hội.

Mamiya sau này trở thành một vị đạo sư nổi tiếng...

Nhưng hãy nhớ kỹ điều này: chỉ những người nào là đệ tử chân chính thì mới trở thành những đạo sư chân chính được. Người nào chưa bao giờ làm đệ tử, chưa bao giờ là người cầu đạo, chưa bao giờ học hỏi hiểu biết giới luật kinh điển là gì, thì không bao giờ có thể thành thầy dạy người khác được. Trước khi ta muốn dạy người, ta phải học cho chính mình trước đã. Nhưng mọi người đều muốn làm thầy người khác, muốn dạy bảo người khác trước, muốn chứng tỏ cho mọi người biết ta đây hiểu biết, tài giỏi hơn người chứ không muốn làm đệ tử, cho nên trên đời này có quá nhiều những người thầy rỗng tuếch, bịp bợm. Bạn cũng vậy, cái tự ngã của bạn cũng muốn một bước thành thầy người khác, thành vĩ nhân, thành thánh, nên bạn cũng trở thành một người thầy kém tài đức, nhưng không những chỉ riêng mình bạn gặp nguy hiểm mà bạn còn dẫn dắt nhiều kẻ khác vào đường cùng nữa. Một người mù dắt những kẻ mù khác rơi tõm xuống hố.

Hãy nhớ rằng, cái bản ngã của ta bao giờ cũng muốn bành trướng. Ta không thể để mất một dịp may nào có thể lên mặt dạy dỗ kẻ khác; ta có thể mất hàng ngàn cơ duyên học hỏi, nhưng ta không thể mất một dịp may được dạy bảo kẻ khác. Có người nào đó hỏi ta một câu, có khi ta cũng chẳng hiểu hoàn toàn ý câu hỏi đó, nhưng ta vẫn gân cổ lên trả lời (sợ gì cơ chứ, chắc gì kẻ hỏi ta đã giỏi hơn ta!). Cho nên, cái bãn ngã của ta được vuốt ve, được khoái chí khi chứng tỏ ta đây là kẻ hiểu biết, đầy kiến thức. Đó là lý do trên đời này có lắm kẻ dạy người, nhưng rất hiếm các bậc Chân sư. Những người thầy có thể nói, có thể giảng đạo, thuyết pháp, có thể tranh luận rất thiện xảo; họ có thể tạo ảnh hưởng đến mọi người, nhưng họ không phải là những bậc Chân sư có tu chứng thực, có kinh nghiệm sống thực.

Muốn trở thành một bậc Đạo sư thực thụ, muốn trở thành một vị Thánh, một Vĩ nhân, một bậc Chân sư, ta cần phải triệt để xả bỏ và khai phóng toàn diện chấp Ngã và chấp Pháp - có nghĩa không thấy cái ta đang dạy người, đang thuyết pháp, không thấy có người để học, cũng không thấy có những pháp môn, phương tiện thuyết giáo. Cái Thực chỉ hiển hiện khi cái Giả đã bị hủy bỏ.

Mamiya sau này trở thành một vị đạo sư nổi tiếng; nhưng khi ông ta còn tu học dưới sự hướng dẫn của Sư phụ, ông bị buộc phải giải thích thế nào là ‘Tiếng vỗ một bàn tay?’

Lúc đó, Mamiya đã không thể thấu suốt được ẩn ý của Sư phụ khi ra một câu hỏi vô lý như vậy. Mamiya cứ miệt mài vào công án đó như con dê húc đầu vào tường đá, ngày này qua tháng nọ. Sư phụ cũng không giải thích cho ông, vì có gì mà giải thích; nhưng Mamiya vẫn không nản chí bỏ cuộc vì Mamiya tuyệt đối tin tưởng vào Sư phụ mình. Khi Sư phụ đưa ra công án ‘Tiếng vỗ một bàn tay’, chắc chắn phải có gì trong đó. Dù công án khó giải thích, khó hiểu, vô nghĩa, phi lý đến đâu đi nữa nhưng khi Sư phụ nói thì chắc chắn có cái gì mà ta không hiểu nổi. Mamiya tự nghĩ như vậy và miệt mài tư duy hành trì công án mà Sư phụ đã đề ra. Niềm tin mãnh liệt và sắt đá của Mamiya đối với Sư phụ chính là động lực giúp Mamiya nhẫn nại hành trì công án. Nhưng Sư phụ Mamiya vẫn không hài lòng, ông la rầy Mamiya: "Ngươi không cố công tu học gì cả. Ngươi còn đắm nhiễm quá nhiều vào tiền bạc, vào những lạc thú trần tục, nhất là vào ‘Tiếng vỗ một bàn tay’. Có thể may ra ngươi chết đi, lúc đó ngươi mới thấy đựơc lời giải đáp!”

Sư phụ của Mamiya nói thế có ý nghĩa gì? Vị thầy cố ý chỉ dẫn cho đệ tử thấu đáo rằng không những ăn uống, tiền bạc, danh vọng là những thứ vật chất cám dỗ đầy nguy hiểm mà cái tư tưởng bám víu, ôm giữ những thứ đó cũng là trở ngại trên con đường cầu tìm giải thoát.

Mamiya đã bỏ nhà cửa, gia đình, vào tự viện sống đời tu sĩ, chỉ có ba tấm cà sa, một bình bát khất thực, một cái túi lọc nước và một manh chiếu nhỏ ngủ qua đêm. Không còn gì quý báu xa hoa cả, thật quá đơn giản, phải không? Nhưng nếu Mamiya chưa xả bỏ được cái tư tưởng bám víu vào cái Không đó thì cũng vẫn còn là chấp thủ. Vị Sư phụ nói: "Ngươi vẫn còn chấp vào tài sản, vật chất..." (sự thực các tu sĩ đâu có vật chất tài sản gì), song ông ta đâu có nói cái vật chất tầm thường bên ngoài, mà muốn nói đến cái tâm niệm, cái tư tưởng bám víu vào ba tấm cà sa, vào cái chùa, vào cái danh hiệu tu sĩ v.v... Nếu ta tham đắm vào thiền định; thiền định từ phương tiện trở thành cứu cánh. Nếu ta bám víu vào cầu nguyện, tụng kinh; kinh điển trở thành chướng ngại, hàng rào bao bọc lấy ta. Dù ham ngồi thiền, ham tụng kinh, ham làm việc thiện, ham tu hành v.v... vẫn còn là tâm tham. Dù ham thiện khác xa với ham bất thiện, tham vẫn là tham. Chính cái tâm tham đắm đó đưa ta trở lại luân hồi trong ba cõi sáu đường. Chính cái tâm tham đắm đó cản ngăn ta chứng Đạo.

Vì thế, vị Sư phụ đã nói: "Tiếng vỗ một bàn tay đã ràng buộc ngươi. Ngươi đã cố công tìm cách giải thích nó cho bằng được. Đừng tham đắm, bám giữ như vậy. Chính ngươi đã ràng buộc ngươi. Có thể may ra ngươi chết đi, lúc đó ngươi mới thấy được lời giải đáp."

Nhưng Mamiya đã hiểu lầm câu nói của thầy mình. Thực ra, lời Sư phụ ‘Tốt hơn hết là ngươi nên chết đi’ chỉ ngụ ý chết cái tâm niệm ràng buộc, chết cái tư tưởng bám víu, chết cái Tôi, cái Tự ngã. Chính vào lúc mà chết cái Tự ngã của ta thì ta sẽ hiểu được thế nào là ‘Tiếng vỗ một bàn tay’.

Đó là cái chết của Đức Phật, cái chết của các bậc Thánh. Chết đi và không bao giờ tái sinh lại. Đức Phật đã tận diệt, đã chết đi cái tâm tham luyến vô minh; các bậc A La Hán cũng đã xả ly hoàn toàn tâm khát ái đắm nhiễm. Một khi tâm niệm chấp thủ đã vắng bóng, ai sẽ là người tái sanh do nghiệp quả?

Nhưng Mamiya, lúc ấy chưa thấu triệt được nên đã giả bộ thẳng cẳng ra chết, và còn ngóc cổ lên nói: "Ồ, con chưa giải được Tiếng vỗ một bàn tay".

Vì thế, vị Sư phụ đã hét lớn: "Cái gì? Người chết không trả lời! Hãy đứng dậy cuốn xéo khỏi nơi đây!"

Đúng vậy. Người chết rồi làm sao trả lời đựơc? Nếu Mamiya đã chuyển hóa được vô minh thì cần gì phải giải đáp công án ‘Tiếng vỗ một bàn tay?’

Chỗ vướng mắc của chúng ta là cái tâm chấp trước. Ta cứ đi tìm những cái xa xôi, mờ ảo mà quên đi cái thường hằng. Ta cứ lo lấp đầy khoảng trống tri thức mà quên nuôi dưỡng Chân tâm. Vì thế, ta đã tu tập bao nhiêu năm mà vẫn còn cách Đạo xa lắm, xa lắm!

Share this post


Link to post
Share on other sites

THẾ À!

Thiền sư Hakuin rất được mọi người trọng vọng kính nể vì phong cách đạo đức thánh thiện của ông.

Một ngày kia, có người con gái trẻ đẹp ở gần chùa của thiền sư bỗng bị chửa hoang. Người ta không biết cha đứa bé là ai. Bố mẹ cô gái vô cùng tức giận và xấu hổ, nên đánh đập tra khảo cô con gái về lai lịch tình nhân của cô. Ban đầu cô con gái không chịu nói gì cả, nhưng sau cùng vì bị đánh đập dữ dội, cô tiết lộ đó là thiền sư Hakuin.

Tin xấu đồn ra nhanh chóng. Cha mẹ cô gái giận dữ, đùng đùng lên chùa và mắng xối xả vào mặt Hakuin. Khi họ dứt lời, Hakuin chỉ thốt hai tiếng "Thế à!"

Sau khi đứa bé chào đời, gia đình cô gái mang đứa bé quẳng cho Hakuin nuôi. Thời gian đó, Hakuin bị tai tiếng và nhiều người chê bai trách móc ông đủ điều; nhưng Hakuin vẫn thản nhiên như không, dường như câu chuyện kia chẳng có dính líu gì đến ông cả.

Hakuin chăm sóc đứa bé thật tử tế và bế nó đi xin sữa khắp nơi.

Một năm sau, cô gái vì cảm thấy ray rứt hối hận nên đã thú thực với cha mẹ là người cha đứa bé không phải là Hakuin, mà là một chàng thanh niên làm ở chợ cá. Cha mẹ cô ta vội chạy lên chùa dập đầu tạ lỗi với Hakuin và xin mang đứa bé về.

Thiền sư Hakuin thốt lên hai tiếng "Thế à!" và vẫn thản nhiên như không.

Nếu cô gái kia không hối hận thì sẽ ra sao nhỉ? Tất nhiên người đời sẽ chẳng chịu hiểu rằng: Ông Thiền Sư kia thật sự oan và cam chịu với đức Nhẫn cao cả, mà cho rằng" Sư cũng ân ái như người thường mà thôi". Và lúc đó sẽ là một ví dụ tuyệt vời để dục vọng thỏa mãn. Vì chính sư cũng thế!

Share this post


Link to post
Share on other sites

NGƯỜI CHẾT KHÔNG TRẢ LỜI

Thiền Sư Mamiya là một đạo sư nổi tiếng. Nhưng trước kia khi ngài còn cầu pháp dưới sự chỉ đạo của Sư phụ, ngài đã bị chất vấn phải giải đáp thế nào là ‘tiếng vỗ một bàn tay?’ Mặc dù Mamiya đã ngày đêm gia công thiền quán về câu hỏi đó, Sư phụ vẫn không hài lòng và đã rầy la Mamiya: "Ngươi không chuyên tâm cần cầu tu học gì cả. Ngươi dính mắc nhiều quá vào lợi dưỡng, danh vọng, và nhất là vào 'tiếng vỗ một bàn tay'. Tốt hơn hết là ngươi nên chết quách đi cho xong!".

Lần khác, Mamiya lên gặp Sư phụ và khi được hỏi về công án đó, Mamiya lăn quay ra đất, thẳng cẳng giả bộ như người chết.

Sư phụ hé mắt nhìn hỏi:

- Ừ, ngươi đã chết rồi, vậy ‘tiếng vỗ một bàn tay’ là thế nào?

Mở mắt ra, Mamiya trả lời:

- Ồ, con vẫn chưa giải đáp được!

Sư phụ hét lớn:

- Cái gì? Người chết không trả lời! Cút ngay!"

Thái Cực/ "Tính thấy" không hai - đó là "một bàn tay". Thái cực động.....chính là "Tiếng vỗ tay của một bàn tay".

Hiểu được điều này chính là giải thoát!

Thiền Sư Thích Nhất Hạnh không hiểu được câu này.

Trong một cuốn sách xuất bản trước 75 (Nhà xuất bản Lá Bối). Ông ta cũng đề cập đến công án này. Và giải thích bằng một hình tượng như sau (Đại ý):

Vị thiền sinh sau khi chiệm nghiệm mãi cũng ko hiểu. Một lần cuốc vườn , lưỡi cuốc vấp vào viên sỏi, kêu một tiếng cạch. Viên sỏi văng vào gốc tre, phát ra tiếng "Cộc". Vị thiền sư này chợt ngộ ra thế nào là tiếng vỗ tay của một bàn tay....

Tóm lại giải thích mơ hồ.

"Tiếng vỗ tay của một bàn tay" là một công án nổi tiếng của Phật giáo. Đã được đưa vào một bộ phim cũng rất nổi tiếng "Con voi trắng".

. Bài luận ở trên đã xác định "

Chưa ai giải thích được điều này".

Tôi giải thích như trên.

Các trí giả suy nghiệm.

Xin cảm ơn.

Thuyết Âm Dương Ngũ hành là lý thuyết thống nhất vũ trụ.

Share this post


Link to post
Share on other sites

NGÓN TAY GUTEI


Thiền sư Gutei hay giơ ngón tay trỏ lên mỗi lần Sư giảng về Thiền.


Một thiền sinh trẻ khi thấy Sư giơ ngón tay trỏ lên thì cũng bắt chước giơ theo, lâu dần thành quen. Một hôm, Sư Gutei nghe nói đến chuyện này, liền đến ngay thiền sinh đó nhằm lúc chàng đang đưa ngón trỏ lên. Sư liền nắm lấy ngón tay của thiền sinh rồi chặt nghiến, vứt đi. Thiền sinh đó la hét vang trời, chạy tưởng chết. Sư quát lớn: ‘Đứng lại!’. Chàng đứng sững, quay đầu lại. Sư giơ ngón tay trỏ lên. Thiền sinh bất giác theo thói quen, cũng định giơ ngón tay trỏ của mình lên. Nhưng khi nhìn xuống thì... thiền sinh đại ngộ. Chàng sụp xuống lễ Thầy".

(Luận)
Đây là câu truyện Thiền thật lạ và bạn có thể hiểu sai, méo mó về ý nghĩa của nó vì cái khó hiểu nhất của cốt truyện là phong cách xử trí độc đáo của vị Thầy giác ngộ.

Chúng ta thường có thói quen nhận xét và đánh giá người khác hay một sự vật theo cảm tính của mình. Nhưng vị Thầy giác ngộ thì hoàn toàn khác. Người đó đứng ở một góc độ khác chúng ta, những con người phàm tục. Nơi nào người đó có mặt, nơi nào người đó đặt chân tới, nơi đó hoàn toàn mất dấu những khái niệm ta-người, có-không, được-mất, hơn-thua... Những thước đo giá trị, những bảng luân lý đạo đức, những bình phẩm khen chê v.v... đều vắng bóng bởi vì tất cả những thứ đó đều lồng cái "tôi" ở bên trong, một cái "tôi" được tô màu và đánh bóng. Người đạt Đạo không màng những thứ phù phiếm đó và cũng không để tâm mình dính bụi. Người đạt Đạo sống thật đơn giản, không cầu mong, không trông đợi. Người đó không có nơi nào để đi, không có một mục tiêu để đạt tới. Còn một nơi nào để đến, còn một mục tiêu nào để đạt tới thì tâm hành giả vẫn còn dính mắc và tham cầu. Như khúc gỗ giữa dòng sông, người đạt Đạo không tắp vào bờ bên này, không trôi về bờ bên kia; không có gì “tốt” cũng không có gì “xấu” đối với người đã giác ngộ. Người đó sống trọn vẹn hồn nhiên, phóng khoáng trong cái chân-thiện-mỹ của dòng đời, nhưng chúng ta thì không thể sống trọn vẹn được như vậy. Tật xấu của con người tầm thường là luôn đánh giá sự vật. “chúa” khác với “quỷ”, “thiện” khác với “ác”, “trong sạch” khác với “tội lỗi” v.v... Luôn luôn có sẵn hai trận tuyến, hai bến bờ mà trong đó dòng sông đời đang tuôn chảỵ.

Tôi có nghe một câu chuyện ý nhị như sau:
"Ngày kia, có một họa sĩ tài ba danh tiếng gặp lại người bạn bác sĩ và mời ông ta đến phòng triển lãm tranh của mình để bạn đánh giá một tác phẩm vừa mới hoàn thành. Họa sĩ đã nghĩ rằng tác phẩm này đúng thật là tuyệt tác, là đỉnh cao nghệ thuật hội hoạ của ông. Vì thế, với tài trí của bạn bác sĩ, chắc chắn ông sẽ được nghe những lời khen thích đáng, bổ ích.
Ông bác sĩ đó đến phòng triển lãm tranh, ngắm bức tranh, ngắm tới, ngắm lui, ngắm xuôi, ngắm ngựợc, hết bên này tới bên kia, gật gù, nhíu mày suy nghĩ, rồi lại quan sát. Mười phút trôi qua, mười lăm phút trôi qua, rồi hai mươi phút. Họa sĩ hơi sốt ruột, chần chừ và cuối cùng lên tiếng hỏi:

- Thế nào bạn? Anh nghĩ sao về tác phẩm này?

Ông bạn bác sĩ trả lời, giọng chắc nịch đắc ý:

- Tôi nghĩ là người vẽ tranh đã mắc bệnh phổi cấp hai rồi !

Ông họa sĩ: ...! ! !”.

Như thế đó, không riêng gì chúng ta mà cả ông bác sĩ học thức kia cũng mắc cái bệnh đánh giá sự vật qua trung gian khái niệm giá trị.

Ông bác sĩ là người sống trong phòng thực nghiệm, bên cạnh những thuốc men và bệnh tật. Trong đầu ông ta luôn luôn có sẵn những công thức hoá học, những căn bệnh phải tìm hiểu, những vi trùng, vi khuẩn... Nhìn ở đâu ông ta cũng thấy vi trùng và bệnh tật; những vi trùng và bệnh tật đó đã trở thành máu xương trong ông, môt nửa con người của ông. Vì thế, khi nhìn bức tranh, ông bác sĩ cũng phân tích, mổ xẻ, định bệnh. Ông ta đã bị méo mó do nghề nghiệp! Thiên nhiên trước mắt ông với trời xanh, lá đỏ hoa vàng, nhưng ông ta không còn khả năng thưởng thức cái đẹp thiên nhiên được nữa. Cái khiếu thẩm mỹ trong ông đã mất, nhường chỗ cho một đầu óc xơ cứng vì khái niệm phân biệt chia chẻ.

Điều thứ hai khác biệt là người đạt Đạo trực chỉ Chân tâm, chứ không mất thì giờ với những cái bên ngoài. Còn chúng ta lại quan tâm đến cái vỏ bên ngoài. Đó là thứ vô giá trị. Chúng ta đã giết chết linh hồn mình và giữ gìn cái thân xác. Nhưng người giác ngộ thì hy sinh thân xác và không thể đánh mất linh hồn. Người đó sẵn sàng cho chết cái thân tướng giả hợp đó, không một chút luyến tiếc và luôn trân trọng chú tâm gìn giữ chánh niệm từng giây từng phút.

Đối với vị Thầy giác ngộ, thân tướng bề ngoài chỉ là một phương tiện hành đạo. Khi nào cần phải xả lỵ, người đó sẵn sàng từ bỏ. Ngay cả phải cắt bỏ cái đầu để chứng Đạo, người đó cũng sẵn sàng làm thế.

Krishna đã từng nói với Arjuna trong Phạm thư rằng: “Đừng quan tâm tới thân xác. Chúng ta sinh ra và chết đi không biết bao nhiêu lần rồi. Cái chết không là gì cả; chẳng qua chỉ là sự thay đổi cũng như một người nào đó cởi bỏ bộ quần áo cũ hay rời căn nhà cũ để mặc tấm áo mới hay vào căn nhà mới mà thôi".

Đừng quan tâm tới cái thân tướng giả tạm bên ngoài. Hãy quay ngược vào bên trong nội tâm; hãy chú tâm nhìn vào bên trong con người của ngươi! Nhưng liệu Arjuna có hiểu đựơc ý tứ lời nói của Krishna không?

Thiền sư Gutei còn hơn thế. Krishna nói, chứ Gutei thì hành động ngay mà không nói, còn đệ tử Arjuna của Krishna cũng khác xa đệ tử của Gutei.

Hãy nhớ kỹ điều này: người Thầy chỉ có thể hành động mau lẹ, chớp nhoáng khi nhận xét kỹ đệ tử mình đã đạt tới một trình độ có thể lãnh hội được sự huấn thị đột xuất, và cơ duyên học hỏi cũng đã chín muồi để có thể truyền dạy; người Thầy phải ra tay hành động ngay, xuất kỳ bất ý, không để cho cơ duyên may mắn đó vuột mất. Thầy có thể tát một cái thật mạnh, đạp một cú đau điếng hay thậm chí chặt nghiến đi ngón tay của đệ tử như Thiền sư Gutei để giúp trò bước cuối cùng nhảy vọt vào chân không-giác ngộ.

Nhưng không phải ai cũng lãnh hội được như vậy. Thầy chỉ ra tay khi đệ tử đã thuần thục; nếu không, ông ta phải dùng lời nói để dạy bảo. Hành động chỉ phát xuất khi cả hai đều sẵn sàng; không một chút sơ hở, không được vuột mất, chớp nhoáng, cấp kỳ, đúng thời điểm. Tâm niệm của Thầy và tâm niệm của đệ tử phải hợp nhất, thông tri nhau; nếu không, chỉ hoài công vô ích. Thầy truyền trao hết tâm huyết cho trò, đệ tử cũng gửi trọn mạng sống của mình và niềm tin tuyệt đối cho Thầỵ. Nếu Thầy bảo chết, đệ tử sẵn sàng chết ngay, không do dự. Nếu cả hai được như thế thì mới có kết quả mỹ mãn.

Ngày xưa có rất nhiều người đã chứng ngộ vì họ có niềm tin vững chắc vào Sư phụ của họ. Chính niềm tin sắt đá và nghị lực bền bỉ tham thiền công án đã giúp họ đắc quả. Còn ngày nay, con người sinh ra trong nghi kỵ, trưởng thành trong do dự, hiềm khích nên khó lòng đặt chân tới ngưỡng cửa của Chân lý, chứ chưa nói đến nắm bắt được Chân lý. Trong Đạo thì Thầy không tin trò, trò nghi ngờ Thầy, huynh đệ hiềm khích báng bổ nhau, các tông phái chống đối lẫn nhau, sát phạt lẫn nhau; còn ngoài thế gian thì cha mẹ, chồng vợ, con cái, anh chị em xúc xiểm nhau, tàn hại nhau để tranh đoạt lợi lộc. Nét đẹp nhân bản đã biến mất. Cả một thế giới điên đảo vì quyền lực, danh lợi. Ngay từ ngày đầu tiên con người bú dòng sữa mẹ, chúng ta đã được nuôi dưỡng bằng tham vọng, nghi ngờ, sân hận và si mê. Bị ấp ủ, nuôi dưỡng và trưởng thành trong một môi trường như vậy, thử hỏi làm sao chúng ta tránh khỏi sự hoen ố tinh thần?

Nhưng đường hướng tôn giáo thì ngược lại. Chúng ta phải tin tưởng tuyệt đối và cũng được người khác tin tưởng lại như vậy. Đệ tử của Gutei thuộc hạng người tin tưởng tuyệt đối này, vì thế anh ta đã giác ngộ.

Bây giờ chúng ta đi vào mẩu truyện Thiền khác thường ở trên. Từng cử chỉ, từng câu nói trong cốt truyện thật kỳ thú, thật đặc biệt.

"Thiền Sư Gutei hay giơ ngón tay trỏ lên mỗi lần Sư giảng về Thiền".

Các Thiền sư không bao giờ làm một chuyện gì đó vô ích, ngay cả khi chỉ giơ một ngón tay lên. Từng cử chỉ, từng lời nói của các Thiền sư đều toát lên một ý nghĩa nhất định, một giá trị nào đó. Các Thiền sư không bao giờ làm một cử chỉ hay nói một lời nói vô bổ thừa thãi, phí thì giờ vô ích cả. Tại sao Thiền sư Gutei giơ một ngón tay lên mỗi lần ông giảng về Thiền hay có ai hỏi về Thiền? Nhưng không phải lúc nào Sư Gutei cũng làm như vậy, chỉ khi giảng về Thiền hay có ai hỏi về Thiền thì Sư mới làm như thế. Đó là tại vì Sư muốn chỉ bảo cho chúng ta nhận thức ‘Vạn pháp quy tâm’ (‘Một là tất cả, tất cả là Một’).

Mọi vấn đề khơi mào cũng vì chúng ta không thể là Một, không phải là Một. Mọi rắc rối xảy ra chỉ vì chúng ta còn chia chẻ phân biệt quá. Sự vật nào cũng bị chúng ta đem ra mổ xẻ cân đong, đo lường. Chúng ta là sự phân tán, không hài hòa kết hợp.

Thiền sư Gutei giảng về Thiền; những lời nói chỉ là phụ, cái chính là ngón tay. Nếu ai nhận thức được, kẻ đó bước chân vào Đạo; ai không nhận thức ra thì dù có lễ lạy nhiều cũng cách xa Chân lý vạn dặm.

Cũng như Phật Thích Ca trên núi Linh Thứu giơ cành hoa sen lên cao và im lặng. Tất cả hội chúng đều ngơ ngác, duy chỉ có ngài Ma Ha Ca Diếp mỉm cười thông ý. Đạo là vô lời, không thể dùng ngôn ngữ để diễn tả Đạo, để lý giải Chân lý được.

‘Đạo khả đạo phi thường Đạo; Danh khả Danh phi thường Danh’ (‘Đạo mà còn diễn tả thành lời được thì không phải Đạo, Danh mà còn gọi tên được thì không phải Danh’ - lời của Lão Tử). Nếu bạn nhìn thấu được thì ngôn ngữ đạo đoạn, không cần đến lời nói nữa. Nhưng nếu bạn không có khả năng thẩm thấu đó thì dù có nói vạn lời cũng vô ích.

Có nhiều tôn giáo, đạo phái khác nhau; có nhiều pháp môn, nhiều cách thức hành đạo khác nhau nhưng phải tựu trung lại một điểm là: Vạn pháp quy về Một, tức là quay về tìm lại cái Bản tính chân thật thường hằng, cái Bản lai diện mục, cái Vô sinh, cái Chân không thường hữu của chúng sinh thì đó mới chính là Đạo.

Tụng kinh, lễ bái, tu thiền, trì chú, niệm Phật, niệm Chúa v.v... đều quy về nhất tâm thì mới mong chứng đạt. Hành giả phải thực nghiệm rằng người tu, pháp môn tu, quả vị để chứng đều là giả danh, giả hợp; phải thấy vạn pháp giai không, do nhân duyên hợp thì mới rốt ráo Ba-la-mật, mới đáo bỉ ngạn, đạt tới bờ bên kia của giác ngộ.

Ý nghĩa đoạn văn ở trên được thể hiện rõ nét nhất trong bài tán tụng Đức Phật mà một Phật tử thường lễ bái, đại ý: "Con lễ Phật nhưng không thấy Phật là đối tượng đang được lễ, không thấy con là người đang lễ; cả hai đều vắng bóng cái Ngã".

Khi đạt được cái Tính không vẳng lặng rốt ráo thì mối đạo vốn vô ngôn vô tướng mới tỏ hằng, mới giao lưu cảm ứng. Lúc đó, trong ta có Phật, trong Phật có ta; không biên giới, không rào cản. Người tu đến một mức nào đó sẽ nắm bắt được cái tinh túy, cái cốt tủy của suối nguồn Chân tâm trung trinh thường hằng.

"Có một thiền sinh trẻ hay bắt chước Sư Gutei, giơ một ngón tay lên... "

Dĩ nhiên, thiền sinh đó còn rất trẻ nên mới bắt chước người khác. Thường thì trẻ con hay bắt chước người lớn. Người đã trưởng thành đâu còn bắt chước người khác? Thực tế không phải vậy. Sự chín muồi của tâm trí không đặt trên số lượng tuổi tác. Có rất nhiều người đã lớn tuổi nhưng vẫn chẳng có kinh nghiệm gì nhiều. Nếu còn bắt chước người khác thì mãi mãi họ vẫn như đứa bé, có hiểu biết nông cạn, khờ khạo đến tội nghiệp.

Vậy ‘trưởng thành’ là gì? Đó là sự nhận thức để biết rõ chính mình, chứ không phải là một kẻ bắt chước. Trưởng thành có nghĩa là ta phải là ta, ta chính thực là ta, một con người trần trụi, không một lớp sơn che phủ, không là cái bóng của kẻ khác. Không nên thế này: người bạn của ta có cái xe mới, ta cũng vội tìm mua cái xe khác; ông hàng xóm xây lại nhà, ta cũng cố kiếm tiền xây lại nhà của mình lớn hơn v.v...

Hãy sống thật với mình. Hãy sống trung thực với cảm nghĩ của chính ta, không nên che giấu, không nên dồn nén, không nên ức chế. Cái quý nhất của con người là bản tính trung thực và lòng can đảm. Chính hai đức tính đó sẽ giúp con người thăng hoa đời sống và chuyển đổi ngoại giới.

Bạn có sẵn hạt giống giác ngộ trong mình. Nếu bạn chuyên tâm tưới tẩm chăm bón nó, hạt giống đó sẽ đâm chồi nẩy lộc cao lớn thành cây, rồi bạn sẽ hưởng được quả vị thơm ngon. Vậy tại sao bạn không lo chăm bón hạt giống của chính mình mà lại đi bắt chước người khác, đi chăm bón hạt giống của người khác?

"Có chàng thiền sinh trẻ thấy Sư Gutei giơ ngón tay trỏ lên mỗi lần giảng về Thiền, cũng bắt chước giơ ngón tay trỏ lên..."

Chàng thiền sinh kia thấy Sư Gutei nổi tiếng được mọi người kính trọng, cũng muốn được như vậy nên bắt chước Sư phụ để được tiếng thơm; nhưng chính Phật Thích Ca, Chúa Jesus hay Krishna cũng không hề dạy chúng sinh phải trở thành bản sao của các Ngài mà phải trở thành chính mình, phải là chính mình, không là hình bóng của ai khác, dù người đó là Phật, là Chúa hay là các vị Thánh nhân gì đi nữa.

Tìm một vị Minh sư, đến với vị Minh sư đó, hiểu những gì Minh sư dạy, uống cạn sự hiện hữu của Minh sư, ăn trọn sự có mặt của Minh sư càng nhiều càng tốt, nhưng chớ có bắt chước ông ta, đừng làm kẻ bắt chước, đừng làm điều ngu xuẩn đó, vì thật nguy hiểm. Sự bắt chước người khác không giúp ta đuợc gì mà trái lại còn gây nguy hiểm cho ta nữa.

"Sư Gutei nghe chuyện, đến gặp thiền sinh đó nhằm lúc anh chàng đang giơ ngón trỏ lên, Sư nắm lấy chặt nghiến vứt đi..."

Kinh khủng quá, tàn nhẫn quá, phải không? Sư phụ gì mà ác độc quá vậy, nỡ cầm tay đệ tử chặt cụt đi một ngón? Nhưng thực ra, Sư Gutei là một vị Thầy đầy lòng bi mẫn.

Phương pháp giáo huấn đệ tử trong Thiền tông độc đáo quái chiêu là ở chỗ đó. Không tài nào hiểu thấu được nếu chính chúng ta không tu tập, không tư duy quán chiếu tự tâm. Phát xuất từ tâm đại từ, đại bi, đại trí, những cú đấm, những cây gậy hay những câu la hét của các Thiền sư đều là những phương tiện thiện xảo giúp đệ tử chóng khai ngộ.

Thiền Sư Gutei đã sử dụng độc chiêu cuối cùng để đẩy đệ tử một bước nhảy vọt vào vùng không gian bao la của tâm thức. Đệ tử không kịp phản ứng, không kịp suy nghĩ gì hết, chỉ một tích tắc thôi, ngón tay đã rơi xuống đất... Cái đau thể xác đó thật tê tái điếng hồn, cái đau tinh thần cũng to lớn không ngần và đột xuất thần kỳ, trong một giây phút, hai nỗi đau đó hòa nhập vào nhau và chuyển hóa. Đệ tử đã liễu đạo, anh ta đã trưởng thành, không còn là một đứa bé bắt chước người khác nữa. Giây phút ngộ Đạo đến chớp nhoáng, mau lẹ và cũng có thể không xảy ra dù trải qua nhiều đời nhiều kiếp.

Ngón tay chỉ là một biểu tượng, một ví dụ điển hình. Chàng thiền sinh đó bị một cú xốc bất ngờ; ngay lúc ý niệm chưa thành hình thì chàng ngộ Đạo, tâm niệm được tịnh hóa. Khi chúng ta còn kịp suy nghĩ, còn phản ứng thì lúc đó ý thức trong chúng ta vẫn còn năng lực hoạt động và chi phối, ví dụ như khi chúng ta nhìn một đóa hoa là mắt tiếp xúc với cảnh trần, tức thì thức thứ 6 là Ý thức xen vào phân biệt đây là hoa hồng chứ không phải là hoa cúc, hoa huệ, màu đỏ này đẹp hơn màu vàng kia v.v... và thức thứ 7 là Mạt na thức chấp trước dính mắc liền "hoa hồng này trong vườn ta đẹp hơn hoa của ông bà hàng xóm kia" hoặc chúng ta sẽ khởi niệm "hoa này đẹp quá, ta phải hái về cắm trong phòng" v.v..., nghĩa là một khi sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) tiếp xúc với sáu trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) là ý thức khởi lên phân biệt dính mắc ngay và đưa đến tâm Ái, Thủ, Hữu (yêu thích cái gì là muốn chiếm đoạt ngay để làm của riêng). Vì thế, Sư Gutei đã đánh ngay một đòn chí mạng dù phải chặt đứt ngón tay của đệ tử hay thậm chí giết chết đệ tử để giúp anh ta liễu đạo được cũng có giá trị gấp vạn lần sống cả một đời người mà ngu ngơ, sống không lợi ích cho đời, không đạt được gì cho mình thì kiếp sống đó dư thừa vô vị.

Đệ tử bị một nhát dao chém tay đó của Sư phụ trong lúc không kịp đề phòng, không chuẩn bị, bất ngờ nhất, nên dòng ý thức ngưng hoạt động - giữa cái cự ly mong manh ngắn ngủi đó, tâm trí chàng thiền sinh như một tờ giấy trắng tinh, vô niệm - và chính cái trạng thái vô niệm đó là Chân tâm, là Đại ngã.

"Chàng thiền sinh chạy tưởng chết. Sư Gutei quát lớn: ‘Đứng lại!’ Thiền sinh đứng sững quay đầu lại, Sư Gutei giơ ngón trỏ lên. Thiền sinh bất giác, theo thói quen cũng định giơ ngón trỏ lên, nhưng nhìn xuống thì... thiền sinh đại ngộ, sụp xuống lễ Thầy."

Chàng thiền sinh đau điếng, chạy trốn; nhưng giật bắn người vì tiếng quát lớn đầy uy mãnh của Sư phụ ‘Đứng lại’.

Khi chàng thiền sinh bất thần dừng phắt lại, toàn thể sự chú tâm của anh ta quay hẳn về âm thanh ‘Đứng lại’. Ngón tay bị chặt đứt, máu vẫn chảy, cái đau vẫn còn đó, nhưng tiếng quát ‘Đứng lại’ đã thu hút tất cả sự chú tâm của thiền sinh nên anh ta đã quên phắt ngón tay bị chặt, quên cả máu và cái đau. Một khi tâm phân biệt vắng bóng thì cái đau thể xác mất dấu. Ta cảm thấy đau vì ý thức khởi lên phân biệt. Cái đau hiện hữu không phải trong thể xác mà chính do ý thức cấu tạo nên.

Nếu bạn bị đau, phải nằm trên giường bệnh, bạn sẽ làm gì? Bạn sẽ tiếp tục nghĩ về căn bệnh đang hoành hành cơ thể mình. Bạn đang nuôi dưỡng nó đấy! Bạn chú tâm về nó, lo lắng, suy nghĩ về nó. Chính cái tâm trạng khắc khoải lo sợ đó đã nuôi lớn căn bệnh!

Tôi nghe nói như thế này: "Có một người bị bệnh bại liệt; ông ta đã không đi đứng được suốt 15 năm. Một đêm kia, bỗng căn nhà ông bị bốc cháy dữ dội, mọi người kêu la, cầu cứu om sòm, chạy ào ra cửa. Người đàn ông bại liệt đó trong lúc sợ hãi nhất đã quên bẵng là mình không đi được, theo bản năng ông đã đứng bật dậy chạy bay ra cửa. Ra đến ngoài đường, người nhà ông ta sau phút hãi hùng, hoàn hồn, chợt sững sờ: ‘Ủa, sao ông chạy ra đây được vậy? Ông bị bại liệt mà!’. Vừa nghe đến đây, ông ta té quỵ xuống đất”.

Chuyện gì vậy? Ngay trong lúc tai nạn xảy đến bất ngờ, không kịp phản ứng, người đàn ông đã quên hẳn đi căn bệnh của mình nên toàn thân ông ta đã nghe theo lời sai khiến của tâm trí ‘Đứng lên chạy ngay!’ và ông ta đã chạy được, nhưng khi người nhà nhắc lại căn bệnh thì ông ta lại chuyển dòng ý thức về cơ thể nên không còn sức chống đỡ nữa.

Cũng vậy, đệ tử của Gutei bị tiếng quát lớn ‘Đứng lại’ của Sư phụ, dừng phắt lại, dòng tâm niệm dừng lại, cái đau dừng lại, hơi thở dừng lại - ngay trong tích tắc đó, anh ta đã thoát khỏi sức chi phối của thể xác và tiếng quát lớn đó là một phép lạ nhiệm mầu giúp chàng thiền sinh tỉnh thức. Đây là lần đầu tiên, đệ tử thấu triệt được tâm trí và thân tướng giống như căn nhà và ánh đèn sáng bên trong. Thân xác này giống như căn nhà tối om, nếu không có ánh sáng ngọn đèn thì ta không thấy được gì bên trong căn nhà; cũng vậy, nếu không tịnh hóa được nguồn tâm thì mây mù vô minh vẫn còn che phủ bản tâm. Vì thế, đệ tử kia đã sụp xuống lễ Sư phụ: ‘Thầy đã cho con cơ hội nhìn thấu được tầng lớp sâu kín nhất của bản thân con; cái Bất tử vĩnh hằng".

"Ngay lúc đó, đệ tử ngộ Đạo..."

Giác ngộ là gì? Đó là sự liễu tri không thân, không tâm, là sự rỗng rang tự tại không bị ràng buộc, không bị ý thức chi phốị. Một khi thẩm thấu được câu hỏi ‘Ta là ai?’ thì bạn đã giác ngộ.

Thiền sư Gutei đã chờ đợi cái giây phút tỉnh thức của đệ tử này nhiều năm rồi. Cũng đã nhiều năm, đệ tử này đã từng giơ ngón tay lên như vậy. Thiền sư đã đợi, đã đợi cơ duyên chín muồi, căn cơ đệ tử phải thuần thục mới hạ thủ công phu để chém một nhát cuối cùng.

Vậy là giây đứt, thùng rơi, không còn nước trong thùng, không còn trăng trong nước. Ảo ảnh tan biến, đệ tử ngước nhìn vành trăng thực thụ trên trời, chàng ta đã ngộ Đạo. Giác ngộ chính là ta biết được chính ta, ta tìm lại được chính ta!



Share this post


Link to post
Share on other sites

NGÓN TAY GUTEI

Thiền sư Gutei hay giơ ngón tay trỏ lên mỗi lần Sư giảng về Thiền.

Một thiền sinh trẻ khi thấy Sư giơ ngón tay trỏ lên thì cũng bắt chước giơ theo, lâu dần thành quen. Một hôm, Sư Gutei nghe nói đến chuyện này, liền đến ngay thiền sinh đó nhằm lúc chàng đang đưa ngón trỏ lên. Sư liền nắm lấy ngón tay của thiền sinh rồi chặt nghiến, vứt đi. Thiền sinh đó la hét vang trời, chạy tưởng chết. Sư quát lớn: ‘Đứng lại!’. Chàng đứng sững, quay đầu lại. Sư giơ ngón tay trỏ lên. Thiền sinh bất giác theo thói quen, cũng định giơ ngón tay trỏ của mình lên. Nhưng khi nhìn xuống thì... thiền sinh đại ngộ. Chàng sụp xuống lễ Thầy".

Đây là câu chuyện mang tính ẩn dụ và không có thật. Chẳng vị thầy nào chặt ngón tay của đệ tử mình cả.

Nhưng rất tiếc, ai đó lại coi là câu chuyện thật và giảng như bài trên, nên mơ hồ về nội dung. Còn nghĩa thật của câu chuyện thì lại....không biết mà giảng!

Đức Phật nói: "Lời nói của ta như ngón tay chỉ mặt trăng. Các người hãy nhìn lên mặt trăng, chứ đừng nhìn ngón tay của ta".

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Một vị thiền sư phát biểu:

"Khi mới tu thì tôi thấy núi không phải là núi, trăng không phải là trăng". Nhưng khi tu chứng ngộ rồi thì tôi lại thấy núi là núi, trăng là trăng".

Bởi vậy, khi chưa tu thì nhận thức trực quan và đặt tên sự vật "Núi là núi, trăng là trăng". Khi mới tu thì hiểu bản chất sự vật như mình nhận thức - "Núi không phải là núi, trăng không phải là trăng" - (Giống như cô tu sĩ trong câu chuyện trên) mà chỉ là nhân duyên giả hợp. Nhưng khi giác ngộ, quán xét hết quy luật tự nhiên, hiểu bản chất của sự vận động tương tác với các nhân tố khi tan, khi tụ, thì tất yếu lại thấy "núi là núi, trăng là trăng". Khi đạt đến đây có hai khả năng xảy ra - Mà Đức Văn Thù Bồ Tát đã viết - Đại ý: "Hoặc lên Thiên đường, hay xuống Địa ngục cấp kỳ". Người đạt đạo là người không chấp vào các thứ đó. Giải thoát tức là hiểu được bản chất của Thái Cực - tính thấy - Đấy là tự do cuối cùng.

Để đạt đến trạng thái tự do cuối cùng còn phải qua 1 phương pháp tu tập của Đạo Phật nữa, bởi vì mặc dù ta hiểu nhưng vẫn chưa thoát ra khỏi ràng buộc xung quanh mang tính quy luật.

Tu tập nhằm điều chỉnh và giảm thiểu các tương tác bất lợi và tập trung năng lực vào mục tiêu giải thoát = tự do cuối cùng. Dĩ nhiên tùy vào giai đoạn sống của mỗi người.

Hoangnt hiểu như vậy.

* Phúc Lộc Thọ mãn đường *

Share this post


Link to post
Share on other sites

[/color]

[/left]

Đây là câu chuyện mang tính ẩn dụ và không có thật. Chẳng vị thầy nào chặt ngón tay của đệ tử mình cả.

Nhưng rất tiếc, ai đó lại coi là câu chuyện thật và giảng như bài trên, nên mơ hồ về nội dung. Còn nghĩa thật của câu chuyện thì lại....không biết mà giảng!

Đức Phật nói: "Lời nói của ta như ngón tay chỉ mặt trăng. Các người hãy nhìn lên mặt trăng, chứ đừng nhìn ngón tay của ta".

Kính Sư phụ!

Con đồng tình với ý của Sư phụ là "Câu chuyện mang tính ẩn dụ"

Câu thứ 2: Đức Phật nói: "Lời nói của ta như ngón tay chỉ mặt trăng. Các người hãy nhìn lên mặt trăng, chứ đừng nhìn ngón tay của ta". câu này hay quá Sư phụ ạ. Con sẽ lưu ý anh em trong lớp học mỗi khi Sư phụ giảng bài là phải biết nhận kiến thức theo ý này ạ.

Cám ơn Sư phụ!

Share this post


Link to post
Share on other sites

Kính Sư phụ!

Con đồng tình với ý của Sư phụ là "Câu chuyện mang tính ẩn dụ"

Câu thứ 2: Đức Phật nói: "Lời nói của ta như ngón tay chỉ mặt trăng. Các người hãy nhìn lên mặt trăng, chứ đừng nhìn ngón tay của ta". câu này hay quá Sư phụ ạ. Con sẽ lưu ý anh em trong lớp học mỗi khi Sư phụ giảng bài là phải biết nhận kiến thức theo ý này ạ.

Cám ơn Sư phụ!

Có những vấn đề tôi giảng trực tiếp: Khái niệm này miêu tả vấn đề này. Có những hiện tượng phải tiếp tục suy nghiệm. Thí dụ: Khi tương tác từ vũ trụ là Dương khí. Trái Đất là Âm khí. Nhưng cấu trúc vũ trụ thay đổi do sự vận động của các hành tính - thì tính chất tương tác cũng thay đổi. Đó là tính quy luật có thể tiên tri. Đây là điều anh chị em phải suy luận và tiếp tục suy luận.

Để đạt đến trạng thái tự do cuối cùng còn phải qua 1 phương pháp tu tập của Đạo Phật nữa, bởi vì mặc dù ta hiểu nhưng vẫn chưa thoát ra khỏi ràng buộc xung quanh mang tính quy luật.

Tu tập nhằm điều chỉnh và giảm thiểu các tương tác bất lợi và tập trung năng lực vào mục tiêu giải thoát = tự do cuối cùng. Dĩ nhiên tùy vào giai đoạn sống của mỗi người.

Hoangnt hiểu như vậy.

* Phúc Lộc Thọ mãn đường *

Nội dung câu này không thuộc vấn đề nếu trên.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Cuộc sống là niềm vui

Đôi khi những áp lực cuộc sống, những thất bại lắm lúc làm đôi chân ta bỗng dưng chún bước. Ta muốn buông xuôi tất cả và tự hỏi “Ta sống để làm gì? Liệu cuộc sống của ta lúc này có là vô ích?” Nếu vậy thì bạn ơi, xin nghe tôi nói: Nếu như có lần nào đó bạn muốn giã từ cuộc sống này, hãy nghĩ rằng chỉ cần sống thêm một ngày nữa thôi, bạn sẽ biết cuộc sống của chúng ta có những điều kì diệu như thế nào.

Posted Image

Sống thêm một ngày, tình yêu của bạn sẽ ngày thêm trọn vẹn.

*Sống thêm một ngày bạn sẽ biết có những mảnh đời còn bất hạnh hơn ta, và ta biết ta vẫn còn may mắn hơn nhiều người khác.

*Sống thêm một ngày, bạn sẽ biết khóc không phải là cách duy nhất để thể hiện sự thất bại, mà người ta biết biến thất bại thành chiến thắng

.*Sống thêm một ngày, bạn sẽ biết trong niềm vui còn có nỗi buồn và trong nỗi buồn vẫn loé lên một tia hy vọng.

*Sống thêm một ngày, bạn sẽ có thể yêu thêm một ai đó.

*Sống thêm một ngày, bạn sẽ biết rằng trên thế gian này vẫn có một người nào đó yêu thương mình.

*Sống thêm một ngày, bạn biết có những sợi tóc bạc cứ lớn dần theo năm tháng, vì chính bản thân bạn. Và bạn biết rằng bạn cần phải sống và sống thật xứng đáng hơn ngày hôm qua để sự hy sinh là không uổng phí.

*Sống thêm một ngày, bạn sẽ khám phá ra rằng đôi tay của mình không chỉ để cầm viết, để làm đẹp mà còn đem lại niềm vui, niềm hạnh phúc cho những người xung quanh ta.

*Và cuối cùng, sống thêm một ngày, bạn sẽ có thêm một cơ hội để biết mình vẫn là người hạnh phúc nhất thế gian.

Vậy là bạn đã biết rồi đó, có những niềm vui - chưa - xuất - hiện - trong - hiện - tại, mà chúng đang vẫy tay gọi bạn hướng về phía trước. Hãy can đảm lên nếu lúc này bạn đang chán nản, đang tuyệt vọng, và trái tim bạn đang đau đớn mà muốn ngừng đập, thì hãy nghĩ đến những niềm vui mà bạn sẽ có được trong tương lai. Và chúng rất xứng đáng để bạn nỗ lực bước tiếp trên cuộc đời này.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Ăn Trộm Dạy Con


Xưa có một tên đạo chích rất lành nghề. Một hôm, con trai ngỏ ý muốn học nghề của cha. Tên ăn trộm liền dẫn con đi thực tập. Hai cha con đến một nhà giàu có, đánh bã cho lũ chó chết mê mệt xong, đạo chích đào ngạch, khoét vách dắt con chun vào nhà. Cả nhà ngủ say như chết. Tên trộm thấy một cái rương to còn trống bèn giở nắp rương bảo con:

-

Con chun vào đây, hốt hết đồ đạc bỏ vào bao cho cha.

Thằng con y lời, đạo chích liền đóng nắp gài khoen lại... rồi lẻn ra khỏi nhà, hô hoán lên ầm ĩ:

- Ăn trộm! Ăn trộm!Chủ nhà bừng tỉnh, thấy nhà bị khoét vách, dáo dác tìm kiếm hồi lâu, không thấy động tịnh liền đi ngủ lại. Thằng con lão đạo chích nằm chết điếng trong rương, tái tê vì sợ và hận cha khôn tả. Hồi lâu hắn nghĩ ra một kế thoát thân, bèn lấy tay cào sột soạt vào thành rương và giả tiếng chuột kêu "chí... chí..." để đánh lừa chủ nhà. Nghe chuột kêu, chủ nhà vội thức giấc, đốt đèn mở rương đuổi chuột. Thằng bé liền nhỏm dậy, tắt đèn, xô té chủ nhà, tông cửa chạy một mạch. Chủ nhà lục tục kéo nhau, vừa chửi vừa đuổi theo.

Thằng bé chạy đến đường cùng thì gặp một cái giếng, nó vội vàng ôm một cục đá to liệng xuống giếng và tri hô:

- Thằng ăn trộm rớt xuống giếng rồi... Làng xóm ơi!

Mọi người đổ xô nhau kéo đến giếng để bắt trộm. Thằng bé chạy thẳng về nhà. Gặp cha, thằng bé oà lên khóc. Và không tiếc lời để oán trách cha. Lão đạo chích mĩm cười nói:

- Khoan đã... Con hãy kể cho cha nghe con đã thoát thân bằng cách nào?

Cậu con thuật lại từ đầu chí đuôi. Lão đạo chích vỗ tay cười ha hả:

- Hay quá, con tôi đã thành nghề rồi!



Lời Bàn

Em thân mến! Hốt của báu bỏ vô bao và vác về nhà xài khi có người dắt đi, đào ngạch, khoét vách sẵn... là một điều mà bất cứ thằng cu con nào cũng làm được, nhưng phải tìm cách thoát thân một mình thì chỉ có thằng Cu này. Vì vậy mà lão đạo chích mới cười ha hả khi nghe con mình thuật lại đầu đuôi câu chuyện. Còn chúng ta, nhờ nghiệp lực dẫn dắt chui vào thế gian này, tôi và em giống như thằng Cu con đang lúi húi hốt ngũ dục nhét cho đầy túi tham của mình thì “ầm” một cái, cửa rương khoá chặt. Đó là lúc chúng ta bị vây bủa và phải đối diện với bát phong: Lợi, suy, mắng nhiếc, khen tặng, vinh nhục, vui buồn .v.v... Oà lên khóc than và không tiếc lời oán trách mẹ cha, thượng đế... thì ai làm cũng được. Nhưng làm sao để tự tại trước bát phong thì... tùy theo sự khéo léo của từng người. Nghệ thuật ăn trộm, nghệ thuật sống hay nghệ thuật thiền chỉ là một thôi em ạ!

Như Thủy

http://www.lebichson...nnhathien01.htm


Share this post


Link to post
Share on other sites

Bắt Chước Thầy

Thuở xưa, tại một vùng biên địa hạ tiện, dân chúng đều mù chữ. Mãi cho đến một hôm, có một ông thầy giáo đến thăm làng và dõng dạc tuyên bố:-

Mọi người ai ai cũng có khả năng biết chữ hết ... Nhiệm vụ của tôi khi xuất hiện ở ngôi làng này là giúp cho bà con cô bác phát triển khả năng đó ... để thành một người biết chữ như tôi không khác.

Mọi người nghe nói đều phấn khởi. Với sự hướng dẫn của thầy giáo, một lớp học được thành lập. Nhiều người đến lớp học. Thầy giáo phát cho mỗi người một quyển vần ABC. Trong nhóm người tụ hội nơi lớp học, người ta ghi nhận có những hiện tượng sau:

Một số người cho rằng khả năng biết chữ chỉ là một ân sủng thiêng liêng dành cho hạng người ưu tú nhất trong nhân loại, nên sau khi trêu chọc số người ghi danh học, họ bỏ ra về.

Riêng phần học trò, với chút ít niềm tin rằng mình có thể biết chữ, đã tìm cách phát triển khả năng ấy bằng những cách như sau:

1. Những người vì cảm kích trước tấm lòng của thầy giáo đã khổ công lặn lội đến đây, đã xin ảnh của thầy giáo đem về thờ chung với quyển vần ABC, sớm hôm lễ bái, dâng hương hoa không hề chểnh mảng.

2. Hạng người kế tiếp vì vô cùng cảm phục tài năng của thầy giáo nên cùng nhau rắp tâm bắt chước thầy, từ cách đi đứng, nói năng, ăn mặc, đến nếp sống sinh hoạt hằng ngày ... Họ bắt chước tài tình đến độ giống thầy giáo như đúc, có khác chăng là họ hoàn toàn không biết chữ ...

Dĩ nhiên, bằng những lối học trên, chúng ta dư đoán được kết quả là sau bao nhiêu cố gắng không anh học trò nào biết chữ cả!

Lời Bàn

Em thân mến! Câu chuyện được ngừng lại nơi đây vì trên thế giới này không có một lớp học nào kỳ quặc như thế cả. Các học trò đi học dần dần đều được biết chữ hết. May mắn biết là dường nào. Nhưng còn chúng ta, những người học Phật và chưa giác ngộ như Phật, có nên xét lại lối học của mình hay không?

Như ông thầy giáo kia, chư Phật đều tuyên bố: "Tất cả mọi chúng sanh đều có Phật tánh và chư Phật ra đời đều vì lý do duy nhất: Chỉ cho chúng sanh nhận ra và hằng sống với Tri Kiến Phật của chính mình". Và chúng ta đã học đạo giác ngộ bằng cách nào?

Nếu chúng ta chỉ tôn thờ, lễ bái, và cúng dường kinh tượng bên ngoài thì coi chừng, ta sẽ vấp phải lỗi lầm của hạng học trò thờ cuốn vần ABC như trên. Hoặc chúng ta chỉ hâm mộ tôn kính Thầy Tổ Chư Phật ... rồi rập khuôn cuộc đời ta y hệt như cuộc sống của những người mà ta hâm mộ thì ... có lẽ ... bề ngoài chúng ta sẽ được một cái vỏ đỉnh đạt nghiêm trang, nhưng bên trong lại dẫy đầy phiền não, tương tự như hạng học trò bắt chước thầy trên không khác.

Vậy thì chúng ta nên học Phật bằng cách nào đây?

2 people like this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Ở một ngôi chùa cổ miền Đông Nam Bộ nước ta, chẳng biết từ thưở nào, ghi trên cột 2 câu liễn đối:

Quân phi quân, thần phi thần, quân thân giai công lạc.

Phụ bất phụ, tử bất tử, phụ tử công đồng hoan.

tạm dịch:

Vua không phải vua, tôi không phải tôi, vua tôi đều vui cả.

Cha không phải cha, con không phải con, cha con cùng đều vui.

Lời bàn của Thiên Đồng:

Khổng Tử nếu có đến nơi đây, thấy câu này, chắc cũng phải "thuật nhi" thêm một dòng phụ lục.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Bát cơm cúng Phật

Ngày xưa, ngoài thành Xá Vệ, có một nữ Phật tử thuần thành, nhưng cô ta lại gặp một người chồng, không tin có đạo đức, nhân quả, tội phước dù cô ta đã nhiều lần giảng giải.

Một hôm, đức Thế Tôn mang y, ôm bát đến nhà cô khất thực, gặp lúc chồng vắng nhà, cô mang đồ ăn ra cúng dường đức Thế Tôn, rồi đảnh lễ dưới chân Ngài, đức Phật chú nguyện cho cô: “Gieo một gặt mười, gieo mười gặt trăm, gieo trăm gặt ngàn. Nhờ công đức bố thí bát cơm này, thí chủ sẽ được vô lượng phước báu!”.

Trong lúc Thế Tôn đang chú nguyện, thì người chồng từ thành Vương Xá trở về. Nghe đức Phật nói như vậy, chẳng hiểu nghĩa lý gì cả, anh sấn tới trước đức Phật:

- Này Sa-môn Cù Đàm, làm gì mà được nhiều như vậy? Sa-môn nói láo? Sa-môn nói không thật! Sa-môn hãy đi khỏi chỗ này đi!

Dù anh ta nói lỗ mãng, nhưng đức Thế Tôn vẫn mỉm cười.Ngài ôn tồn bảo:

- Này anh, anh từ đâu mà đi về đây?

- Từ trong thành về!

- Anh đi ngang qua khu rừng, có thấy cây Ni Câu Loại không?

- Thấy!

- Anh thấy nó cao bao nhiêu?

- Cả hàng mấy chục thước.

- Mỗi năm nó được bao nhiêu trái?

- Ồ không kể hết, chỉ có đem thúng mà lường thôi!

- Này anh, đầu tiên chỉ có một hạt bé tí mà sanh ra cây Ni Câu Loại cao hàng mấy chục thước, cành lá sum suê chiếm một khoảng rừng rộng lớn, mỗi năm nó cho ta hàng trăm ngàn quả. Này anh, đó là loài vô tri còn như vậy, huống là thí chủ hoan hỷ cúng dường cho Như Lai một bữa ăn, phước đức ấy không thể đo lường được!

Nghe đức Thế Tôn thuyết giảng, anh chàng hồ đồ ấy trong tâm bừng tỉnh, rất lấy làm ăn năn về hành động thô lỗ của mình vừa rồi, liền đến quỳ dưới chân Thế Tôn cầu xin sám hối:

- Kính bạch Thế Tôn! Kính mong Thế Tôn từ bi tha lỗi cho con, từ đây con xin quy y Phật, Pháp và Tăng mong Thế Tôn nhận con làm đệ tử!

- Lành thay cư sĩ!

Share this post


Link to post
Share on other sites

NGƯỜI QUÉT CHỢ

"Nhớ dâng trà cúng sư thúc và dì Linh nghe con?" thầy nhắc chú tiểu khi thấy chú sửa soạn lên chánh điện để cúng ngọ.

"Bạch thầy, con nhớ," chú đáp. Đó là câu mà thầy cứ nhắc chú mỗi ngày trước mỗi thời kinh. Chú chẳng biết sư thúc là ai, dì Linh là ai. Trên chiếc bàn thờ nhỏ đặt cạnh bàn Tổ, chú chỉ thấy hai cái bài vị được viết bằng chữ Hán chứ chẳng có hình ảnh gì cả. Vì thầy nhắc mãi nên chú không lúc nào quên, vậy mà thầy cứ nhắc. Nghe nhắc hoài, ban đầu chú hơi bực mình, nhưng riết rồi cũng quen. Và khi chú rót trà cúng cho hai người đó, chú cũng làm như một cái máy chứ không suy nghĩ gì. Chùa chỉ có một thầy một trò, nên thầy thương chú lắm và chú cũng quí kính thầy vừa như cha mẹ, vừa như thầy, và thỉnh thoảng như một người bạn đạo. Chú không có tên thế tục. Chú chẳng hiểu lý do vì sao. Có lẽ vì chú sống ở chùa từ nhỏ nên thầy đã không đặt tên thế tục cho chú mà chỉ đặt cho chú một pháp danh là Thanh Thị. Chú lớn lên ở trong chùa, quen với tên gọi mà thầy đặt cho, chẳng thắc mắc gì. Nhưng đến khi được thầy dạy cho học chữ Hán, chú mới hiểu được cái tên đọc nghe như tên con gái của mình lại có một ý nghĩa kỳ cục, không được thanh nhã cho lắm. Nó có vẻ như được đặt ra để đánh dấu một kỷ niệm nào đó của thầy, hoặc cho chính chú. Chú băn khoăn suy nghĩ mãi về ý nghĩa của cái tên mà mình đeo mang. Nhân lúc cùng thầy nhổ cỏ sau vườn chùa, chú hỏi: "Bạch thầy, tại sao thầy đặt tên con là Thanh Thị?" "Vì thầy thích đặt như vậy," thầy chú thản nhiên trả lời. "Lâu nay con tưởng rằng chữ thị có nghĩa là đây, như vầy, giống như chữ thị trong như thị, đích thị hoặc chữ thị như trong biểu thị, thị hiện... nhưng mới hôm qua, thầy viết tên con bằng chữ thị có nghĩa là chợ. Con không rõ là tên con sao lại có cái nghĩa không được hay. Xin thầy giải thích cho con." Thầy nghiêm giọng nói: "Chỉ là tên gọi thôi, có gì mà phải bận tâm, nhổ cỏ đi." Chú cúi xuống nhổ cỏ tiếp, nhưng được một lúc, chú lại hỏi: "Con biết đó chỉ là tên gọi thôi, nhưng tên gọi cũng phải nói lên một cái gì, một ý nghĩa gì chứ." "Thì chợ cũng là một cái gì, một ý nghĩa gì rồi đó," thầy đáp. "Con thấy chợ chỉ có ý nghĩa là dơ, ồn ào, phức tạp... toàn là xấu không à. Con không tìm ra được ý nghĩa nào hay đẹp ở trong nó. Khi thầy đặt tên con, chắc chắn là thầy có nghĩ đến một ý tưởng hay một hình ảnh gì đó về cái chợ, phải không, bạch thầy?" "Nhiều chuyện quá," thầy nói, "nhổ cỏ đi." Chú im lặng nhổ cỏ, không dám hỏi nữa. Nhưng trong đầu óc chú bắt đầu nẩy ra những suy tưởng, những phán đoán về sự đặt tên của thầy. Chú nghĩ, năm nay chú đã mười sáu tuổi rồi, có thể nói là chú đủ trưởng thành để nghe thầy kể về lai lịch của chú. Lâu nay mỗi lần chú hỏi đến vấn đề đó, thầy chỉ nói là chú chưa trưởng thành, chưa đến lúc cần biết. Nhưng dù thầy chẳng nói ra, chú cũng không đến nỗi ngu độn để không biết rằng chú là một đứa bé mồ côi. Ai cũng có cha mẹ, riêng chú không có. Cái thực tế đó làm gì thầy che giấu được. Nhưng tại sao lại đặt tên là Thị, có nghĩa là chợ? Có lẽ... có lẽ cha hay mẹ của chú là người bán hàng ngoài chợ, hoặc là người chủ chợ. Nhưng ba mẹ chú đâu mà để cho thầy phải đặt tên? Cũng có thể mẹ chú đi ngang chợ thì sinh ra chú. Không, nếu mẹ chú sinh ra chú ở chợ thì cũng đem về nhà, và chú vẫn còn người mẹ đó chứ chú đâu có mồ côi để cho thầy phải đặt tên! Hay là... hay là thầy lượm được chú ngoài chợ, đem về chùa nuôi cho đến ngày hôm nay? Chính vì kỷ niệm đó mà thầy đặt tên cho chú là Thị (chợ)? "Bạch thầy..." chú không ngăn được nỗi háo hức tìm hiểu thân phận mình, lại mở miệng hỏi. "Gì nữa đây?" thầy không nhìn chú. "Có phải... có phải con là đứa con rơi thầy lượm ở ngoài chợ đem về hay không?" Thầy ngưng tay nhổ cỏ. Im lặng một lúc, thầy tiếp tục nhổ, vừa nói: "Nhổ cỏ." Đến chiều, sau giờ ăn cháo, thầy gọi chú cùng dạo sân với thầy. Hai thầy trò tản bộ cho đến vườn sau, nơi có hai ngôi mộ mà thỉnh thoảng chú thấy thầy ra thắp hương. Một cái mộ thì chú biết là của sư thúc chú, còn cái còn lại chú chẳng biết của ai và cũng không để ý lắm. "Con đã dâng trà cho sư thúc và dì Linh lúc công phu chiều rồi hả?" thầy hỏi. "Bạch thầy, rồi," chú trả lời như máy. Thầy nhặt mấy chiếc lá nằm trên mộ sư thúc, nhổ vài bụi cỏ mới mọc quanh hai ngôi mộ. Rồi thầy bắt đầu kể chuyện cho chú nghe.

*

Thầy Hải Chấn đang ngồi đọc sách thì Hải Thanh, sư đệ của thầy, bước vào, mặt buồn dàu dàu. Hải Chấn hỏi: "Gì mà sư đệ có vẻ rầu lo vậy?" Hải Thanh buồn bã đứng nhìn ra cửa sổ một lúc rồi nói: "Đệ... đã phạm giới..." Hải Thanh nói đến đó thì rơi nước mắt. Hải Chấn kéo tay sư đệ ngồi xuống, vỗ về: "Có trầm trọng lắm không? Đệ đã sám hối chưa?" "Đã sám hối. Nhưng đó là cho tự tâm. Không giải quyết gì được cho hoàn cảnh." "Chuyện gì vậy? Nói đi, để xem huynh có thể giúp gì cho đệ không." "Huynh đừng trách mắng đệ nghe..." "Phạm tội thì sám hối; huynh trách mắng có thay đổi gì được đâu! Nói đi, đừng chất chứa trong lòng," Hải Chấn nói với giọng đầy cảm thương. Hải Thanh đưa hai tay ôm lấy đầu, mặt gục xuống bàn, nói: "Cô ấy đã có mang." Hải Chấn sửng sốt một lúc, rồi thở dài, hỏi: "Cô ấy là ai vậy?" "Sư huynh không biết đâu. Cô ấy không hề đến chùa mình." "Vậy làm sao đệ quen để đến nỗi..." "Thôi, huynh hỏi làm gì chuyện đó cho mệt. Bây giờ, đệ chỉ hỏi huynh một điều là đệ phải làm sao đây?" Hải Chấn nhíu mày, thấy khó xử. Theo luật, Hải Thanh đã phạm một trong các tội Ba-la-di, tức những trọng giới mà đương sự bị coi như mất cả giới thể, không còn là tỳ-kheo thanh tịnh nữa, không thể chữa được nữa—như cây dừa, cây cau, đã chặt đi khúc đầu (đoạn đầu) thì không thể mọc lại tàu lá mới. Đã tới nước đó thì Hải Chấn biết góp ý với Hải Thanh điều gì nữa. Hải Chấn thở dài nói: "Huynh cũng chẳng biết phải góp ý với đệ làm sao. Chuyện không đơn giản đâu. Đệ phải nói rõ sự việc may ra..." Hải Thanh ngập ngừng lúc lâu rồi kể: "Cũng vì cái hạnh quét chợ mà đệ vướng phải nghịch cảnh này. Huynh cũng biết mà, mỗi sáng đệ quét từ sân ra tới chợ, mặc ai cười ai chê, đệ quét thì cứ quét, vừa quét vừa quán niệm về sự cấu bẩn của thế gian và thanh tịnh của niết bàn... năm này qua năm nọ, mưa hay nắng, đệ cũng không bỏ ngày nào. Thế rồi... cô ấy lưu ý đến đệ. Và... một ngày nọ, đệ sa ngã." "Buồn thay cho đệ. Cô ấy bán ngoài chợ à?" "Không, cô chỉ đi ngang chợ thôi." "Vậy bây giờ gia đình cô ấy đã biết rằng chính đệ đã làm... cái chuyện gì đó chưa?" "Chưa, cô ấy không nói ra là ai. Nhưng... có lẽ có ngày họ cũng biết. Mà họ có biết hay không thì... mình cũng phải tự liệu." "Tự liệu?" "Ý đệ nói là mình phải giải quyết vấn đề đó bằng cách đến nói chuyện với gia đình cô ấy, xin hỏi cưới cô ấy, hoặc là... đệ cùng cô ấy trốn đi xa để khỏi mang tai tiếng cho gia đình cô ấy và cho chùa nữa." "Nghĩa là đệ sẽ hoàn tục?" "Chứ biết sao bây giờ. Huynh có cách gì hay hơn không?" Hải Chấn ứa nước mắt, thương sư đệ mình gặp nghịch duyên đến phải bỏ đường tu, nhưng chẳng biết phải giúp bằng cách nào. Hải Chấn ngồi lặng thinh. Một chặp, Hải Chấn nói: "Huynh chẳng biết cách nào hết, mong đệ tha thứ cho sự chậm lụt của huynh. Huynh nghĩ chắc phải làm theo một trong hai cách mà đệ nêu ra thôi. Mà cho dù chọn giải pháp nào, huynh cũng xin lưu ý đệ một điều rằng đệ nên giải bỏ hình thức tăng sĩ trước khi..." "Đệ hiểu." Hai huynh đệ im lặng, mỗi người một dòng suy tưởng. Hải Chấn nhớ lại bao kỷ niệm mà thầy cùng Hải Thanh trải qua nơi ngôi chùa này từ thuở còn để chóp đến nay. Hải Thanh thông minh, nhanh nhẹn mà lại siêng năng nên cái gì cũng vượt qua mặt sư huynh. Nhưng đến khi sư phụ sắp viên tịch, sư phụ lại giao trọng trách trụ trì cho Hải Chấn. Lúc đó Hải Chấn đã không nhận vì cho rằng sư đệ vượt trội hơn mình quá nhiều. Hải Thanh cũng không chịu nhận chức trụ trì, còn sư phụ thì nhất quyết phải giao chức ấy cho Hải Chấn dù Hải Chấn học hành chậm lụt. Rốt cuộc Hải Chấn phải nhận. Giờ ra đi, sư phụ không nói gì nhiều ngoài việc khuyên răn hai huynh đệ nương nhau tu tập, và những lời cuối cùng của sư phụ đều nhắm vào Hải Thanh, cảnh giác Hải Thanh là không nên chú trọng vào sở kiến sở văn mà bỏ quên phần tu tập. Sau khi sư phụ mất, Hải Thanh thức tỉnh, nỗ lực hành trì, không bao giờ chểnh mảng. Rồi một ngày đó, Hải Thanh bỗng phát nguyện quét luôn cả chợ thay vì chỉ quét sân chùa. Hải Chấn không ngăn cản chi hạnh nguyện của sư đệ mình vì nghĩ rằng đó cũng là hạnh tốt thôi. Hải Thanh cho rằng hình ảnh người tu sĩ hiền lành nhẫn nại có mặt nơi phố chợ đông người sẽ cảm hóa và gây được tín tâm cho nhiều người. Ngoài ra, quét chợ cũng là một cách tu luyện cho tâm được định tĩnh ngay giữa chốn náo động. Không ngờ, chính hạnh nguyện cao đẹp đó lại đốn ngã Hải Thanh trong một nghịch duyên đau xót. Hải Thanh không ôn lại kỷ niệm xưa mà chỉ ưu tư vấn đề xảy ra trước mắt. Hải Thanh nhớ đến Thùy Linh, cô gái đã có mang với mình. Cô ấy rất đẹp và là một tiểu thư con của quan huyện. Với sự thông minh vốn có, lại thêm sự giúp đỡ bày mưu của cô nữ tì, cô ấy đã tạo đủ điều kiện để lôi kéo Hải Thanh ngã vào vòng tay mình. Từ những phút đầu Hải Thanh đã biết mình rơi vào lưới tình, nếu không thức tỉnh quay lại ngay với thiền môn thì khó bề giữ gìn được đạo hạnh của mình, nhưng bóng sắc lộng lẫy kiêu sa của nàng đã không để cho Hải Thanh chùn bước mà còn kéo thầy lậm sâu thêm vào cơn men ái dục. Bây giờ chuyện đã lỡ rồi, không cưỡng lại được nữa. Hải Thanh muốn rủ Thùy Linh cùng bỏ huyện này trốn đi với mình qua xứ khác sinh sống và cũng để tránh tiếng cho cả đôi bên, nhưng Thùy Linh không dám. Nàng đã ở lại để rồi không che dấu được cái thai càng lúc càng lớn. Nàng đã bị cha đánh đập, mắng chửi dữ dội. Hải Thanh nghe nữ tì nói lại như vậy nhưng chẳng biết phải làm sao. Nhiều lúc Hải Thanh muốn lẻn vào tư dinh quan huyện để cứu nàng ra khỏi đó, nhưng lính gác canh phòng nghiêm mhặt, không cách gì vào được. Dù đã từng xem thế sự như một giấc mộng hư huyễn, trước tình cảnh đau xót mà Thùy Linh phải hứng chịu, Hải Thanh không khỏi nghe tan nát trong lòng. Đêm đó, hai huynh đệ ngồi thức trắng bên bàn sách. Đến lúc mờ sáng, Hải Thanh mới rời phòng sách vào phòng riêng, lấy khăn chít lấy đầu để che dấu cái đầu tròn tu sĩ của mình, thay đổi y phục như một người thế tục rồi từ giã Hải Chấn mà đi. Hải Chấn hỏi: "Đệ đi đâu vậy?" "Đến tư dinh quan huyện nói chuyện thẳng với cha cô ấy." "Sao huynh thấy ái ngại cho chuyến đi này của đệ quá. Thấy có gì không ổn. Đệ liệu có thể thuyết phục được cha mẹ cô ấy không?" Hải Thanh không đáp, chỉ nhún vai rồi đi. Hải Chấn níu lại, dúi vào bọc vải của sư đệ một túi tiền nhỏ: "Đó là tiền riêng của huynh, không phải của chùa đâu, đừng ngại. Đệ mang theo để có gì..." "Cám ơn huynh. Đệ đi đây. Nếu có tin tốt đẹp, đệ sẽ cùng Thùy Linh ghé thăm huynh trước khi rời xứ này." Và Hải Thanh đi luôn, không trở lại. Hải Chấn bồn chồn lo lắng suốt cả ngày và đêm hôm đó. Sáng hôm sau, khi Hải Chấn ra vườn thì thấy xác Hải Thanh nằm ở trước sân chùa, thân thể tím bầm vì bị đánh đập đến tắt thở. Hải Chấn đến khiếu nại với quan huyện nhưng huyện đường đóng cửa, lính gác xua thầy về. Thầy đành ngậm ngùi chôn xác sư đệ sau vườn chùa. Nghĩ rằng có làm to chuyện lên thì sư đệ nhắm mắt cũng không được yên. Hai tháng sau, Thùy Linh sinh hạ một bé trai. Nửa đêm nàng lẻn trốn khỏi dinh, mang con ra chợ, ngồi nơi sạp hàng mà ôn lại chuyện xưa khi nàng đi ngang đây và bắt gặp nhà sư quét chợ lạ kỳ. Nàng ngồi giữa trời sương cho đến sáng thì chết, tay vẫn còn ôm đứa bé sơ sinh đang khóc. Quan huyện lâu nay cố che dấu chuyện con gái mình nhưng nay, cái chết của Thùy Linh ngay giữa chợ đã làm cho câu chuyện nhanh chóng truyền đi; ông bực dọc và căm giận đến độ sai lính treo bảng thông báo rằng ông đã từ đứa con trắc nết phá hoại gia phong, rằng ông không chịu trách nhiệm về cái chết của Thùy Linh cũng như không chấp nhận đứa con của người quét chợ. Thông cáo của ông có vẻ như ngầm phán rằng đứa bé phải chịu chết giữa chợ đời, không ai được phép cứu nó. Vì uy quyền hống hách cũng như sự giận dữ của quan huyện, không ai dám mang đứa bé sơ sinh về nuôi. Người ta gỡ đứa bé khỏi vòng tay lạnh giá và cứng đờ của mẹ nó rồi đặt nó nằm trong một chiếc nôi, để giữa chợ để chờ kẻ nào động lòng trắc ẩn đến mang nó đi. Những người đàn bà bán hàng ngoài chợ đã chăm lo sữa cho đứa bé suốt ngày đó, nhưng cũng không ai chịu nhận đứa bé về. Còn xác Thùy Linh thì được quấn sơ sài bằng một cái chiếu, đặt ở gần đó. Đến chiều tối thì chuyện đến tai Hải Chấn. Thầy liền tức tốc ra chợ, ôm chiếc nôi nhỏ mang về chùa. Còn xác Thùy Linh, thầy bảo những người phật-tử bán hàng ở chợ giúp đem về chùa chôn. Ấy vậy mà quan huyện không dám động đến Hải Chấn vì cả nể đức hạnh và uy tín của thầy. Đứa bé được yên thân sống và lớn lên trong cửa chùa.

*

Nước mắt ràn rụa trên hai gò má bầu bĩnh, chú tiểu Thanh Thị quì xuống chân thầy: "Tạ ơn thầy cứu sống và nuôi dưỡng con." Thầy đỡ chú dậy, nói tiếp: "Sư thúc của con có linh vị thờ trong chùa mà thầy thường nhắc con rót trà dâng cúng chính là Hải Thanh cha của con đó. Sư thúc với thầy tu học với nhau từ nhỏ nên ngoài tình đạo bạn còn coi nhau như anh em ruột. Chuyện của sư thúc khiến thầy đau lòng quá mà không biết giúp bằng cách nào. Nuôi dưỡng con chỉ là một chuyện nhỏ để biểu lộ sự mến tiếc của thầy đối với sư thúc thôi. Huống chi, làm sao thầy có thể bỏ mặc một đứa trẻ kêu khóc không người đoái hoài..." Chú tiểu Thanh Thị bây giờ đã hiểu vì sao chú có cái tên lạ kỳ đó: Thanh là tên của cha chú còn Thị chính là chợ, là nơi ghi lại kỷ niệm chua xót đầu đời của cha chú, mẹ chú, và cả chú nữa. "Vậy quan huyện hiện nay chính là ông ngoại của con hở, bạch thầy?" "Không. Ông và phu nhân đều đã qua đời. Quan huyện hiện nay là người mới được bổ nhiệm." "Vậy những người ở ngoài chợ... đều biết chuyện của con hở thầy?" "Mười sáu năm rồi, nhiều người đã dọn đi xứ khác, nhiều người đã chết, chỉ còn lại rất ít người là biết chuyện của con, nhưng chắc họ cũng quên khuấy đi rồi. Mà sao con hỏi vậy? Con không muốn người ta biết rằng con đã xuất thân từ đâu, phải vậy không?" "Bạch thầy không phải, không phải." "Như vậy thì tốt. Nhân cách không nằm ở chỗ xuất thân từ đâu mà từ chính giá trị thực có của mình." "Dạ, con biết," chú cúi mặt nói nhỏ. Theo như lời thầy kể, rồi nhìn hai ngôi mộ song song trước mặt, đọc những chữ Hán viết trên mộ bia, chú thấy rõ đó chính là song thân của mình. Chú quỳ xuống nhìn thật lâu nơi hai mộ bia, lặng người một lúc lâu, chú bật khóc thảm thiết. Vậy đó mà chú vẫn không sao tẩy xóa được nỗi mặc cảm đè nặng trong tâm khảm mình: rằng chú là một đứa trẻ vô thừa nhận, được sinh ra bởi một người cha tu sĩ phá giới, một người mẹ khuê các phá gia phong; rằng chú bị bỏ rơi giữa chợ đời như một tội nhân tử hình ngay từ lúc sơ sinh. Bao nhiêu ý nghĩ đó ám ảnh chú suốt mấy ngày kế tiếp sau khi nghe thầy kể rõ sự tình. Thầy theo dõi từng biến động tâm tư hiện trên mặt chú, bèn gọi chú hỏi chuyện: "Con sẽ mang buồn cho đến bao giờ? Có sinh tức có diệt, sao phải ôm mãi nỗi đau khổ biệt ly như thế!" Chú lặng thinh không đáp lời thầy. Thầy biểu lộ tình cảm, lấy tay xoa đầu chú: "Thương cha mẹ, con rán tu học để cha mẹ vui lòng. Cha con là một tu sĩ thông minh, có tuệ căn, làu thông kinh điển. Chỉ một phút yếu lòng mà đánh mất sự nghiệp cao cả. Con có thương cha thì nối tiếp sự nghiệp đó mới phải, sao cứ ôm lòng buồn rầu mãi. Con đến rót trà dâng ba đi, rồi lên tụng kinh." Chú cúi mặt bặm môi một chặp, bỗng ngước lên nói: "Chỉ có thầy mới là cha con thôi. Ông ấy không phải là cha con!" Nói rồi chú vụt đứng dậy, bỏ đi vào phòng riêng, đóng cửa lại. Thầy sững sờ ngồi nhìn theo, lắc đầu buồn bã. Chú bỏ tụng kinh chiều hôm đó. Thầy lặng lẽ đắp y áo, thắp hương, rót trà cho sư đệ Hải Thanh rồi thầy tụng kinh thay chú. Suốt mấy ngày, chú vẫn không ra khỏi phòng. Thầy đến gõ cửa, gọi mãi mà không được. Mọi việc trong chùa thầy làm thay chú hết. Chú không ra khỏi phòng nên cũng nhịn ăn luôn cả mấy ngày. Hai thầy trò sống bên nhau mười sáu năm rồi, chưa lần nào vào bữa ăn mà thiếu thầy hay thiếu trò. Cho nên, khi chú nhịn, thầy cũng nhịn theo, không buồn ăn nữa, chia xẻ nỗi đau khổ nặng nề của chú. Đến ngày thứ tư, chú mới mở cửa bước ra, phờ phạc, bệnh hoạn. Chú đến quỳ dưới chân thầy và khóc nức nở. Thầy chỉ lấy tay xoa đầu chú. Hai thầy trò bỗng dưng mà sống một cuộc sống lặng câm, buồn tẻ. Thầy để chú tự do trong những suy tưởng riêng tư chứ không gợi chuyện gì với chú cả. Không khí trong chùa vì vậy mà nặng nề. Cho đến một ngày nọ, sau khi cùng làm lễ sám hối với thầy xong, chú mới cất được gánh nặng trong lòng. Chú thưa với thầy: "Con đã sai lầm. Con không thể phủ nhận công ơn sanh thành của cha mẹ." "Tốt, con biết vậy là tốt. Mẹ con vì sinh mạng của con, vì muốn lưu giữ giọt máu và hình bóng của cha con mà nhẫn nhục sống giữa bao lời xỉ vả, bao trận đánh đập của gia đình để chờ ngày sinh ra con. Mẹ con tuy phá gia phong nhưng, theo thầy, bà là người tinh mắt, thông minh, một phụ nữ đức hạnh biết vượt lên cái hình thức bề ngoài để nhìn thấy được giá trị tinh thần nơi cha con. Còn cha con, tuy phạm cấm giới, nhưng biết ăn năn, biết trách nhiệm, đã can đảm bước vào tư dinh của ông ngoại con với ước mong là cứu được hai mẹ con ra ngoài... và cha con đã chết vì dám đứng ra đối đầu với nguy hiểm. Với truyền thống, với tập tục, cả hai đều bị lên án. Nhưng họ đã chết một cách cao cả, ít nhất là đối với sinh mạng của con, phải không? Ở một khía cạnh nào đó, một hoàn cảnh đặc biệt nào đó, con sẽ thấy rằng cái mà người ta gọi là truyền thống, tập tục, gia phong, lễ giáo v.v... thật ra chẳng là gì cả. Rỗng tuếch! Chỉ có những tấm chân tình mới thực sự là có ý nghĩa mà thôi." "Dạ, con hiểu," chú nói trong giọng xúc động và tri ân thầy đã chỉ giáo. Chú không dám coi thường cha mẹ mình nữa. Chú thăm mộ cha mẹ hàng ngày, chú rót trà dâng cha mẹ vào mỗi thời kinh. Sư thúc và dì Linh, chú không còn gọi hai tên đó nữa mà gọi bằng cha mẹ. Chú cảm thấy có cái gì ngọt ngào và khiến chú ấm lòng khi gọi lên hai tiếng cha mẹ đó. Tuy nhiên, trên thực tế, chú chỉ vui sướng sống trong tình cảm và vòng tay vô hình vô ảnh của cha mẹ; còn đối với những mặc cảm về thân phận mình, chú vẫn không sao tẩy xóa đi một cách thoải mái được. Đến nỗi khi đi ra đường với thầy, chú có cảm giác như mọi người đang nhìn mình, xầm xì, chỉ trỏ, bàn tán về "người quét chợ". Từ đó, chú hết muốn ra khỏi chùa. Và đôi lúc, chú muốn cải đổi cái tên Thanh Thị mà chú mang. Chú thấy cái tên đó chỉ nhắc nhở chú về thân phận buồn tủi của chú mà thôi. Vì thương chú, và vì chưa biết cách nào giải tỏa mặc cảm của chú một cách hữu hiệu, thầy cũng chiều lòng chú, không sai chú ra ngoài nhiều và cũng tránh cho chú những dịp phải ra trước đám đông. Trải qua bốn năm, với tuổi đời thêm lớn, với sự học hỏi giáo lý, với sự tu tập thiền định, và với sự tiếp thọ đại giới để trở thành một vị tỳ kheo, chú dần dần thấy vơi đi những tình cảm lưu luyến xót xa cho chuyện tình thương tâm của cha mẹ. Nhưng cái mặc cảm sợ người khác biết rõ thân phận mình vẫn cứ đeo bám mãi trong lòng chú, không sao gột bỏ. Thầy biết vậy, cố gắng tháo gỡ cái mặc cảm đó cho chú lần nữa bằng một cuộc nói chuyện sau thời tụng kinh khuya: "Thanh Thị, con đã trở thành một vị đại đức, một vị lãnh đạo tinh thần xứng đáng cho đồ chúng noi gương tu tập. Vậy mà thầy thấy con như vẫn còn ôm ấp cái mặc cảm rằng mình thấp hèn, phải vậy không? Con nói đi, cái gì khiến con nghĩ như thế? Con có biết rằng chỉ một cái phiền não nhỏ nhặt còn sót lại trong tâm cũng đủ ngăn trở con tiến đến giải thoát hay không?" Thanh Thị không nói không rằng, lặng lẽ bỏ vào phòng. Thầy đến gõ cửa, đứng ngoài cửa nói vọng vào: "Hãy nhìn kỹ những gì thầy làm. Nếu việc thầy làm khiến con thấy thầy không xứng đáng là thầy của con nữa thì con hãy rời thầy mà đi tìm một minh sư khác để tham vấn. Con không thay đổi thì suốt một đời ở bên thầy cũng chỉ vô ích mà thôi. Làm sao thấy được vòm trời giải thoát chứ!" Nói rồi thầy bỏ đi. Thanh Thị thấy không khí im quá, biết là thầy không còn đứng ngoài cửa phòng mình. Thanh Thị thắc mắc không hiểu thầy đi đâu và làm gì. Chú bước ra, tìm thầy. Thầy không có trong chùa. Thầy đã đi ra ngoài. Chú bước ra cổng chùa nhìn hai bên thì thấy thầy đang cầm chổi quét ở xa xa. Thầy quét về hướng chợ. Chú bặm môi, rồi cắn răng chạy vào phòng mình, ôm mặt khóc như một đứa trẻ. Thầy đã quét chợ như cha chú đã làm trước đây. Thầy muốn chứng minh cho chú thấy rằng việc quét chợ không có gì xấu mà còn là một hạnh nguyện cao cả chỉ có cha chú mới làm nổi. Nhưng, sự cố gắng của thầy không mang lại kết quả gì. Chú vẫn không sao chấp nhận được hành vi quét chợ cho dù thầy có khoác lên đó bao nhiêu ý nghĩa cao đẹp. Khi thầy quét chợ về, cất chổi dưới bếp, chú đón lạy thầy ngay ở thềm bếp, năn nỉ: "Lạy thầy, xin thầy đừng vì con mà phải nhọc đến thân tâm như thế. Xin thầy đừng làm vậy nữa, con không chịu nổi." Thầy không nói. Ngày mai thầy lại tiếp tục quét chợ. Chú lại lạy lục xin thầy chấm dứt. Thầy kiên quyết: "Ta chỉ ngưng khi nào con thực sự đốt cháy được cái mặc cảm và ý nghĩ cho rằng quét chợ là việc xấu hay thấp hèn. Con không thay đổi, sẽ không giải thoát, sẽ không tìm thấy an lạc cho dù đang khoác mặc tăng bào. Và nếu con không thay đổi, ta sẽ quét chợ cho đến khi nào ta nhắm mắt mới thôi." Thầy tiếp tục quét. Thanh Thị vẫn không thay đổi mà còn đau khổ hơn. Đến nỗi, chú bỏ thầy mà đi, chỉ ghi lại vài dòng vắn tắt rằng chú muốn đi tham học ở phương xa. Chú đi xa thật xa khỏi nơi chốn sinh ra và trưởng thành của mình để xóa đi bao hình ảnh, bao ý nghĩ đau buồn về thân phận. Chú tìm tới nhiều vị thầy để học hỏi, nhưng không vị thầy nào đả thông được những mặc cảm của chú. Một hôm, nghe đến danh tiếng của một vị thiền sư tên là Đại Ngốc, chú tức tốc tìm đến vị này để học đạo vì chú hy vọng rằng ông ta cũng mang một cái tên không được tao nhã, có thể ông ta sẽ có thuốc hay để chữa căn bệnh mặc cảm của chú. Chú nghĩ có lẽ đằng sau cái tên của vị thiền sư này cũng mang một quá khứ nếu không đau xót như chú thì cũng cay chua buồn cười chứ chẳng không. Thiền sư Đại Ngốc ẩn cư trong một am tranh trên núi cao. Khi lên tới nơi, chú thấy một cái bảng nhỏ treo trên một thân cây: "Đại Ngốc Am". Chú bước vào đảnh lễ thiền sư, hỏi ngay: "Bạch thầy, làm sao có thể gột bỏ được một danh từ chỉ đem lại cho mình những buồn phiền, khổ đau?" "Nó chỉ là một tên gọi giả tạo thì cần gì phải gột bỏ!" "Nhưng... rõ ràng là nó đeo bám và gợi lên bao điều đau xót cho con từ nhiều năm nay." "Đeo bám chỗ nào? Gợi lên cái gì? Ở đâu? Nói ta nghe!" Thanh Thị hốt nhiên giác ngộ lẽ sinh diệt huyễn hóa của muôn sự muôn vật, liền sụp lạy thiền sư mà về. Chú đi ngày đêm không dừng nghỉ, những mong về quỳ dưới chân thầy mà sám hối.

*

Từ hai năm rồi, khi Thanh Thị bỏ chùa mà đi, thầy Hải Chấn cứ mang chổi ra quét sân chùa rồi quét luôn tới chợ. Ban đầu thầy quét chỉ để thức tỉnh Thanh Thị, nhưng khi quét, thầy cảm nhận được nhiều ý nghĩa cũng như công dụng tu tập ngay trong chính sự việc quét chợ đó. Thầy tập trung tâm mình vào từng động tác quét, lắng nghe tiếng chổi khua nhẹ trên đất, nhìn ngọn chổi vờn trên cỏ rác... không phút giây nào mà không lắng lòng vào việc quét. Đến độ, thầy với cây chổi chỉ là một. Vì vậy, âm thanh náo loạn của chợ búa không ảnh hưởng, không tổn hại gì đến tự tâm thanh tịnh của thầy. Chính trong loạn động thầy tìm thấy sự tịch lặng. Và thầy có thể an lạc trong chính việc quét chợ tầm thường hàng ngày.

Trong khi đó, hình bóng của thầy, việc quét dọn của thầy giữa chợ đời cũng làm cho khu chợ sạch sẽ hơn, bớt huyên náo xô bồ, và người ta cũng bớt cạnh tranh cãi vả nhau. Mỗi lúc thấy thầy quét đến chợ, người ta bỗng dưng giảm chuyện nói năng, có nói thì nói nhỏ giọng xuống. Đức độ của thầy làm thay đổi không khí chợ một cách rõ rệt.

Hôm nay thầy đang quét đến giữa chợ, bỗng có người nắm lấy cây chổi của thầy, nói với giọng cung kính: "Bạch thầy, thầy hãy về nghỉ ngơi để con quét thay thầy." Thầy ngưng tay ngước nhìn và thấy Thanh Thị. Khuôn mặt của chú ấy không còn dấu vết của mặc cảm, khổ đau và phiền não. Thầy mỉm cười trao chổi cho chú quét, và thầy bước theo chú, từng bước chậm. Từ đó, cứ mỗi sáng, người ta thấy hai thầy trò tu sĩ cùng quét đường, quét chợ. Bóng dáng họ xuất hiện nơi đâu, sự an lạc lan tỏa ra đến đó.

Hai năm sau, thầy Hải Chấn viên tịch. Trước khi từ giã cuộc đời, thầy gọi Thanh Thị đến bên thiền sàng, trao cho Thanh Thị cây chổi mà thầy thường dùng để quét chợ hàng ngày: "Đời thầy mấy mươi năm học đạo không ngờ đến tuổi xế chiều mới tìm thấy được đạo lớn từ cây chổi tầm thường này. Đây là tất cả công phu và ý chỉ của thầy. Con hãy giữ lấy mà đi cho trọn con đường của con." Nói rồi thầy hóa. Thanh Thị cất cây chổi đó trong phòng riêng của mình như một kỷ vật ghi lại hình ảnh cao đẹp của cha, của mẹ, và nhất là của thầy mình. Sáng hôm sau, Thanh Thị vẫn cứ quét chợ. Người ở chợ thấy Thanh Thị quét một mình thì biết rằng thầy Hải Chấn đức độ khả kính của họ đã mất. Thanh Thị quét chợ cho đến tuổi già. Mấy mươi năm không hề xao lãng. Bây giờ Thanh Thị đã trở thành một vị hòa thượng đạo đức thanh cao, nổi tiếng với cây chổi và hạnh nguyện quét chợ. Hải Thanh quét chợ sáu năm. Hải Chấn quét chợ bốn năm. Riêng Thanh Thị thì quét chợ đến sáu mươi năm. Bao khuôn mặt mới có cũ có, thay nhau ngồi bán hoặc đi mua sắm ở khu chợ, không ai mà không biết đến Thanh Thị quét chợ. Hình ảnh Thanh Thị đã trở nên quen thuộc và gắn liền với khu chợ khiến cho mọi người nẩy ý lấy tên vị hòa thượng này để đặt cho khu chợ: chợ Thanh Thị—một cái chợ sạch. Ngày Thanh Thị ngưng quét thì tuổi đã tám mươi tư. Ngày ấy, bầu trời u ám. Ngoài khu chợ, cỏ rác đầy mà chẳng thấy tăm dạng Thanh Thị đâu. Chợt nghe chuông chùa vẳng lại ba hồi buồn bã. Mọi người ở khu chợ bỗng sa lệ vì biết rằng vị hòa thượng già mang tên Thanh Thị sẽ không bao giờ cầm chổi ra quét chợ này nữa. Cả người bán lẫn khách mua đều sụt sùi khóc.
1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

TRỞ VỀ CỐ HƯƠNG

HT Thích Thanh Từ

http://www.thuvienho...-217_14-1_15-1/

Posted Image

Chúng ta cứ ngỡ rằng vào Niết bàn là vào một cảnh giới rực rỡ, có đủ thứ sung sướng, tươi đẹp… Tưởng Niết bàn như vậy là Niết bàn tưởng tượng. Niết bàn là vô sanh, vô sanh mà hằng tri hằng giác, chứ không phải vô sanh mà vô tri vô giác. Cái hằng tri hằng giác đó cũng gọi là Phật tánh. Như vậy được cái vô sanh hằng tri giác đó là nhập được Phật tánh của mình. Nếu nhập được Phật tánh của mình thì gọi là Phật chứ gì! Chúng ta cứ mong thành Phật được ngồi trên tòa sen có hào quang rực rỡ, ông Phật đó là ông Phật gì? Ông Phật đó là ông Phật sinh tử, hoặc là báo thân, hoặc là hóa thân. Phật Pháp thân thì không có hình tướng.

Như vậy người có tu sẽ được kết quả rất cụ thể, còn người không biết tu hết nghĩ chuyện này đến nghĩ chuyện nọ liên miên. Trong khi cái biết thầm lặng luôn ở bên mình thì lại không hay, không nhớ tới. Do không nhận được cái hằng tri hằng giác thầm lặng ấy, nên chỉ nghĩ hơn nghĩ thua, nghĩ phải nghĩ quấy, cho đó là tâm. Chấp giữ khư khư thân sinh diệt và tâm sinh diệt là mình thì trách gì không đi trong luân hồi muôn kiếp sao được. Bởi cho cái sinh diệt là mình nên vừa mất cái sinh diệt này liền ôm cái sinh diệt khác, cứ liên miên như vậy, nên đi trong luân hồi vô số kiếp.

Nếu bây giờ biết rõ thân này là vô thường sinh diệt, tâm phân biệt hơn thua phải quấy cũng vô thường sinh diệt; chỉ có cái hằng tri hằng giác, không hình không tướng đó mới thật là mình. Cái đó có bị lửa đốt cháy không? Không. Vì vậy nên nói hoa sen trong lò lửa.

Nói thân vô thường vì thân bị lửa vô thường thiêu đốt, cháy mòn dần. Thí dụ như một cây củi tươi, đút vô lò lửa. Ban đầu củi tươi cháy chậm, lần lần củi khô cháy nhanh hơn, cuối cùng nó bắt cháy hết. Cũng như vậy, hồi ta sinh ra đến lớn lên năm mười tuổi, đầu tóc xanh. Năm tháng chất chồng, lửa vô thường đốt riết bây giờ đầu bạc trắng. Hồi xưa mặt mày no đầy, bây giờ bắt đầu nhăn nheo. Nó hiện tướng khô đó, khô rồi thì tới cháy rụi. Rõ ràng chúng ta mang thân vô thường, bị lửa vô thường đốt cháy. Có khi nó cháy gấp, có khi nó cháy muộn, nhưng nhất định phải cháy.

Song trong cái vô thường đó, ngầm có một cái chân thường, tức là cái không có hình tướng, hằng giác hằng tri. Không hình tướng nên đâu bị vô thường, hằng giác hằng tri nên đâu phải là không. Trong nhà Phật nói chỗ đó "không phải có, không phải không" (phi hữu, phi vô). Bởi vì nó không phải có theo hình tướng vô thường, không phải không vì nó hằng giác hằng tri.

Trên đường tu chúng ta nghiệm, nhận kỹ mới thấy, từng phút từng giây chúng ta đang tiến chứ không phải là vô ích. Nhưng vì lâu nay không ai giảng trạch cho mình biết, cứ cho rằng ngồi thiền phải yên, phải lặng; mà sao mình ngồi vọng tưởng hoài, chưa yên chưa lặng nên coi như mình tu chưa có kết quả. Năm năm, mười năm nhìn lại thấy cũng còn vọng tưởng, bèn than: Ôi, mười năm rồi mà tu vẫn không có kết quả gì, nên thối Bồ đề tâm.

Nếu quý vị ngồi thiền từ đầu giờ đến cuối giờ, chịu khó để ý ngày nay nghĩ mười lần, ngày mai còn chín lần, ngày khác còn tám lần… Như vậy là đã thấy bước tiến của mình. Niệm khởi là vô thường là điên đảo. Qua những cái đó chúng ta có những phút giây sống với cái chơn thường. Từ niệm điên đảo mà thức tỉnh, chúng ta sống lại với cái bình lặng vô thượng chánh giác. Như vậy là mình có giác, chứ đâu phải hoàn toàn mê.

Giả sử chúng ta còn vọng tưởng mà ông chủ vẫn hiện tiền hoài thì có thiệt thòi gì đâu. Mỗi niệm dấy lên ông chủ thấy quở nó, nó liền mất. Lát sau nó dấy lên niệm khác, ông chủ thấy lại quở nó, nó liền mất. Cứ như vậy, trong nhà có khách bước vô, chủ chào hỏi, xong khách bước ra. Đến người khác bước vô, chủ cũng chào hỏi… Cả ngày khách tới lui tấp nập, nhưng ông chủ vẫn có mặt để chào hỏi khách thì có thiệt thòi gì đâu! Chỉ sợ không có ông chủ, khách vô làm quyền ở trong nhà thì mới nguy. Chứ còn trong nhà có chủ, khách bước vô, chủ chào rồi đưa ra. Như vậy ông chủ có thiếu vắng lúc nào đâu?

Vậy mà nhiều người than thở hoài, "tu lâu mà không có kết quả", vì quên ông chủ của chính mình. Nên biết giờ ngồi thiền không phải thiệt thòi, mà chẳng những giờ ngồi thiền thôi, cho tới giờ đi tưới hoa, nhổ cỏ, nấu cơm, lặt rau v.v… quý vị cũng biết rõ từng niệm khởi. Đó là quý vị không thiếu ông chủ. Ông chủ vừa thấy dấy nghĩ liền đuổi đi, như vậy có gì mất mát đâu? Nếu giờ nào cũng có ông chủ, tức là giờ nào mình cũng có ông Phật. Tuy tu chưa thành Phật, mà lúc nào cũng có Phật hộ cho mình. Đó là Phật luôn luôn gia hộ cho mình không bị mấy đứa phàm tục chen vô.

Ngược lại cứ dong ruổi, thả trâu chạy cùng đường cùng sá, chiều lại thắp hương cầu Phật phù hộ cho con, mà không chịu nhận ông Phật thường trực gia hộ bên mình. Đó là lối tu quên gốc chạy theo ngọn ngành. Cái gốc đó không xa, ở gần bên mình. Nên chúng ta thường hay nói tu là cốt trở về cố hương. Cố hương ở đâu? Nếu nghĩ cố hương cách đây chừng năm trăm hay một ngàn cây số là sai lầm. Chúng ta phải nhớ cố hương ở ngay dưới gót chân mình chứ không ở đâu xa hết. Chúng ta đang đứng trên cố hương mà quên mình đang đứng trên cố hương, cứ nhìn đằng này đằng kia kiếm tìm cố hương. Đang đứng trên đất cố hương, mà cứ nhìn ra ngoài nên nói quê hương xa mù, không biết ở đâu.

Như vậy mới thấy chúng ta hết sức điên đảo. Cái thật hiện tiền lại quên, chỉ đuổi theo cái tưởng tượng, cái mình ước mơ. Bây giờ muốn trở về cố hương, chúng ta phải làm sao? Chúng ta phải chịu khó nhìn xuống chân mình thì thấy chớ gì. Vì muốn cho quý vị thấy cố hương nên tôi mới khuyên mỗi khuya mỗi tối, quý vị ngồi dòm xuống một chút. Đừng nhìn đi xa, nhìn xa thì quên bẵng quê mình. Nhìn xuống để thấy mình đang ngồi, đang đứng tại quê hương cũ của mình. Đó là chúng ta tỉnh, chúng ta giác. Còn nếu quên, chạy đi tìm đầu này góc nọ là chúng ta mê. Quên là mê. Mê cố hương hiện tiền nên chạy tìm nơi nọ nơi kia. Tất cả chúng tu hành là quay lại, nhận thẳng nơi mình, chứ không có ở đâu xa.

Như vậy ngay nơi thân phàm tục này cũng vẫn có Niết bàn. Nhưng Niết bàn đó chưa trọn vẹn, chỉ là Niết bàn từng chặng, từng khoảng thôi. Lát thì sinh tử, lát thì Niết bàn, còn chập chờn chứ chưa hoàn tất Niết bàn. Chừng nào như Tổ Huệ Khả, mọi duyên đều sạch, không còn một niệm nào nữa, lúc đó chúng ta vẫn sống, vẫn đi lại, mọi công tác chúng ta vẫn làm mà tâm hằng giác, hằng thanh tịnh, đó là Hữu dư y Niết bàn. Như vậy Niết bàn xa không? Kiếm ở đâu? Chúng ta có quyền được Niết bàn không? Có ai không có quyền đó không?

Lâu nay chúng ta cứ nghĩ Phật, Bồ tát mới có Niết bàn, còn mình là phàm phu ngu si nên vô phần. Bởi vì chúng ta cứ ngỡ Niết bàn chỉ có khi tu đến hoàn toàn viên mãn. Chúng ta biết mình có nhân Niết bàn rồi, thì quả Niết bàn sớm chầy gì cũng sẽ được. Như vậy ai cũng có khả năng, ai cũng có thể tu được quả Niết bàn. Khi niệm khởi là sanh tử, khi lặng lẽ hằng tri là vô sanh. Sanh tử với vô sanh ở cạnh bên, một giờ ngồi thiền ít ra cũng được phân nửa thời gian của vô sanh. Như vậy có buổi nào quý vị không có Niết bàn đâu. Ngày nào cũng có Niết bàn nhưng nhiều ít vậy thôi. Do đó trên đường tu không có chuyện luống công vô ích mà chỉ vì chúng ta không nhận ra.

HT Thích Thanh Từ

__._,_.___

Share this post


Link to post
Share on other sites

Trong kinh điển, Đức Phật có kể lại một ngụ ngôn như sau:

Một người băng qua cánh đồng và gặp một con cọp. Anh ta bỏ chạy, con cọp đuổi theo. Chạy đến một bờ vực sâu, anh ta nắm chặt lấy một cái rễ dây leo và buông mình xuống vực. Con cọp đứng trên bờ vực gầm gừ ngó xuống. Run rẩy, anh ta nhìn xuống đáy vực và thấy một con cọp khác đang chờ để đớp lấy anh! Anh chỉ còn bám víu duy nhất vào sợi dây leo.

Nhưng rồi hai con chuột xuất hiện, một trắng một đen, bắt đầu gặm đứt dần từng chút một vào sợi dây leo. Anh ta chợt nhìn thấy một trái dâu rừng chín mọng ngon lành ở gần đó. Một tay nắm chặt sợi dây leo, anh ta đưa tay kia với hái lấy trái dâu. Ôi trái dâu thơm ngọt biết bao!

Viết sau khi dịch

Không chỉ ở bên trên và bên dưới, mà cuộc sống quanh ta bốn phương tám hướng đều là những con cọp hung dữ, sẵn sàng đẩy ta vào địa ngục để nhận chịu những ác nghiệp đã tạo ra. Sợi dây leo mong manh mà ta đang nắm lấy là mạng sống được duy trì trong từng hơi thở này, vốn dĩ thở ra không hẹn thở vào! Nhưng hai con chuột thời gian ngày và đêm đang kiên trì gặm đứt dần mạng sống, vì mỗi ngày trôi qua ta càng đến gần hơn với cái chết. Thế mà trái dâu ngũ dục vẫn làm cho ta ngày ngày vui thích, say mê không thức tỉnh. Ăn ngon, mặc đẹp, sắc dục, tiền tài... Nếu biết đó chỉ là một trái dâu rừng trong lúc mạng sống đang nguy cấp, sao còn có thể say mê quên cả hiểm nguy?

nguồn: rongmotamhon.net

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Phật Độ Ông Gánh Phân

Khi Phật còn tại thế, ở thành Vương Xá có ông Ni Đề thuộc giai cấp hà tiện chuyên làm nghề gánh phân. Mỗi buổi sáng, ông gánh phân trong các nhà trong phố rồi đem ra ngoại ô mà đổ. Thân ông ốm gầy, quần áo rách nát.

Phật biết thời kỳ ông Ni Đề được độ. Hôm ấy, đức Phật cùng ngài A Nan đi du hành về phía ông Ni Đề. Ni Đề thấy Phật liền cố tránh né. Phật đi chận đầu và giáp mặt ông. Ông hổ thẹn, quay mặt vào tường và bạch Phật, “Bạch đức Thế Tôn, thân con nhơ uế, xin đức Thế Tôn đừng lại gần, mất sự thanh tịnh.”

Đức Phật đến gần bên nói, “Này con, Ni Đề, con có muốn xuất gia học đạo không?”

Ni Đề thưa, “Con muốn lắm, nhưng thân con ô uế, nếu xuất gia tu, sẽ làm mất thanh tịnh cho giáo đoàn.”

Phật dạy, “Giáo pháp của ta như nước, có thể rửa tất cả vật sạch, vật dơ, không có phân biệt. Giáo pháp của ta như lửa, có thể đốt tất cả vật thơm, vật hôi, không phân biệt. Con muốn xuất gia, ta sẽ độ cho.”

Rồi Phật sai A Nan dắt ông ra sông tắm sạch. Phật gọi “Thiện lai tỳ kheo,” râu tóc ông liền rụng, áo pháp mặc tại mình, đủ tướng tỳ kheo. Nghe Phật thuyết pháp, ông tinh tấn tu hành, chứng quả A La Hán.

Việc Phật độ tỳ kheo Ni Đề thuộc giai cấp hạ tiện, các nhà giàu có bàn tán với nhau rằng tại sao Phật độ ông Ni Đề làm trở ngại sự cúng dường, lễ bái của họ. Nếu khi họ trai tăng mà có tỳ kheo Ni Đề đến, họ sẽ mời ra. Nếu Ni Đề ngồi chỗ nào, họ sẽ lau quét chỗ đó.

Vua Ba Tư Nặc hay tin ấy, đến hỏi Phật. Khi vua đến trước cổng tịnh xá, thấy một vị tỳ kheo tướng hảo quang minh, oai nghi đĩnh đạc, đang ngồi vá y trên tảng đá, có đông chư thiên đứng hầu hai bên. Vua thưa với thầy tỳ kheo, “Nhờ thầy vào bạch Phật, có vua Ba Tư Nặc đến ra mắt đức Thế Tôn.”

Thầy tỳ kheo đi xuyên qua tảng đá, vào bạch Phật rồi trở ra lại đi qua tảng đá như đi qua khoảng không.

Vua Ba Tư Nặc vào đảnh lễ Phật và bạch Phật, “Vị tỳ kheo ngồi trên tảng đá vá y là ai mà có thần thông tự tại, có đông chư thiên theo hầu?”

Đức Phật mỉm cười nói, “Chính là người mà bệ hạ muốn đến hỏi ta, đó là tỳ kheo Ni Đề, đã chứng quả A La Hán.”

Phật dạy, “Ví như trong hồ có hoa sen tươi đẹp thơm ngát, bệ hạ có vì bùn nhơ mà bỏ hoa sen tươi đẹp đó không?”

Vua Ba Tư Nặc thưa, “Con sẽ nhận lấy hoa sen và xem bùn nhơ như chất liệu để sanh hoa Sen thơm ngát.” Vua sám hối quan niệm phân chia giai cấp và xin tứ sự cúng dường tỳ kheo Ni Đề.

Đây là câu chuyện nói lên đạo Phật là đạo bình đẳng không phân biệt giai cấp. Phật thường dạy: Không có giai cấp khi mọi người có nước mắt cùng mặn và máu cùng đỏ.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Bát nhã là gì

-Bát nhã là gì?

- Có cái thấy sự vật "như nó đang là"
- Đó chính là giác ngộ?
- Không phải thế.
- Tại sao không?
- Có cái biết như vậy, chứ không phải có cái kinh nghiệm như vậy.
- Như vậy là cái biết vay mượn.
- Không phải thế, nó là cái biết đích thực và là phát hiện của hành giả.
- Bát nhã chưa phải, vậy bát nhã ba la mật đa hay đại bát nhã có phải là giác ngộ?
- Đúng vậy.
- Gọi là "đại bát nhã" hay "bát nhã cùng cực" có phải để chỉ tính toàn diện của trạng thái "như thị".
- Không phải "bát nhã" là bộ phận và "bát nhã ba la mật đa" là toàn diện. Mà bát nhã là cái biết đỉnh cao của tâm trí sơ bộ về giác ngộ. Còn "bát nhã ba la mật đa" hay đại bát nhã là cái kinh nghiệm của sự thể nhập tánh.

- Xin cho một thí dụ?

- Như người đứng bên này sông muốn biết cảnh vật bên kia sông. Người ấy có thể leo lên một đỉnh núi cao để nhìn sang, khắc có cái thấy thật sự không vay mượn về cảnh vật bên kia bờ. Nó như là một phát hiện đích thực. Trường hợp này tương tự như trạng thái "bát nhã". Nhưng nếu người ấy qua sông đến bờ bên kia, khắc sẽ biết cảnh vật bên kia bờ bằng kinh nghiệm thật chứ không phải tầm nhìn. Đây là trường hợp của bát nhã ba la mật đa. Do vậy nên ba la mật đa ( paramita) được dịch là "sang bờ bên kia" là vậy.

- Cảm ơn ông về buổi nói chuyện hôm nay.
- Hề hề! . . tôi tưởng vậy chứ chưa chắc đã vậy. Xin ông vui lòng hỏi các vị thiện tri thức rồi bảo cho tôi biết với!

TƯỞNG VẬY/29.9.2004

Share this post


Link to post
Share on other sites

Pháp tùy hỷ

Này Cỏ May, ta có pháp Di Lặc. Rong chơi 4 mùa mà vẫn làm lợi lạc cho chúng sanh. Đi khắp nhân gian mà vẫn vô quái ngại, tùy duyên mà thọ hưởng cái thú vị ẩn tàng trong sự sự việc việc. Chẳng có việc chi là nghiêm trọng cả, đều là trò chơi của Thượng Đế sắp đặt để vui đùa đấy mà. Cho dù là Ma Quỉ vẫn theo ta nô đùa từ bỏ việc phá hại chúng sanh.

Hề hề. . .Vẫn có người ác, và Quỉ ác theo phá hoại nhưng chẳng qua chỉ để làm nổi rõ cái tâm thiện, tâm từ, cái lòng vị tha vô ngã chẳng chấp chẳng trụ của người tu. Thành bại, vinh nhục, được mất, có không. . . .đối với ta đều là vô nghĩa, bởi chẳng ích gì khi rong chơi vô sở cầu, tùy duyên mà nô đùa cùng loài người, Thánh Thần và Ma Quỉ. . . .hì hì. . . .

Ta chẳng cần phát công trị bệnh, chỉ cùng ta chơi đùa, uống trà, bỏ qua phiền giận, tùy hỷ với kẻ khác thì tự nhiên có được sức khỏe. . . .Ta chẳng cần kiếm tiền, vì chúng sanh luôn mời ta ăn, đi chơi và chỗ ở để được sức khỏe và niềm vui không nguyên nhân. . . .

Ta không bị bệnh. Mà dù có bệnh thì đi chơi tự nhiên hết, không hết thì luyện công sẽ hết, luyện công không hết thì uống thuốc, uống thuốc không hết thì kệ mẹ nó, chứ chẳng có chi mà buồn lo. Bởi ai mà không chết, không bệnh. . .vấn đề là không khổ vì nó thôi. Hề hề. . . Ta có pháp Di Lặc nên tự nhiên được vậy.

Cái gì mà chẳng là trò chơi

Nếu thấy công việc chỉ là công việc thì địa ngục

Nếu thấy công việc chỉ là trò chơi đầy thú vị, ngươi đang ở trên thiên đàng

Làm là chơi

Tu cũng chỉ là trò chơi

Mà thành Phật cũng để chơi thôi mà

Đừng nghiêm trọng hóa vấn đề

Hề hề. . .

Ông Mập /Ban Mê/9/3/2011

Share this post


Link to post
Share on other sites

Tạo một tài khoản hoặc đăng nhập để bình luận

Bạn phải là một thành viên để tham gia thảo luận.

Tạo một tài khoản

Đăng ký một tài khoản mới trong cộng đồng của chúng tôi. Dễ thôi!


Đăng ký tài khoản mới

Đăng nhập

Bạn đã có tài khoản? Đăng nhập tại đây.


Đăng nhập ngay