Thiên Sứ

SƯU TẦM LUẬN ĐIỂM PHỦ NHẬN VĂN HÓA SỬ TRUYỀN THỐNG

30 bài viết trong chủ đề này

Bài này cũng thuộc loại "phủ nhận" tuy mức độ có nhẹ và đa chiều hơn. Người viết là chủ nhân blog 5xu - nhà báo Nguyễn Phương Văn, người cộng tác với GS Ngô Bảo Châu viết sách Ai và Ky ở xứ sở tàng hình. Ngoài bài bàn về ngày giổ tổ dưới đây, Blog 5xu này cũng có nhiều bài liên quan cổ sử, quan điểm cũng hơi ...linh tinh. Nêu ở đây để sư phụ và mọi người tham khảo

http://5xublog.org/2010/04/16/ngay-gi%E1%BB%97-t%E1%BB%95-%E1%BB%9F-dau-ra/

Ngày Giỗ Tổ ở đâu ra?

Trong entry trước tôi có thắc mắc liệu là cái ngày Giỗ Tổ mùng 10 tháng 3 ở đâu ra. Cái thắc mắc nho nhỏ của tôi là vì ngày 10 tháng 3 là ngày vua Khải Định dùng công văn để quy định. Năm vua Khải Định ra cái công văn này là năm 1917. Đồng thời ca dao có câu “nhớ ngày Giỗ Tổ mùng 10 tháng 3″.

Trong cái entry này bác 3 có nói rằng cái câu ca dao kia thực ra là rất mới, có tác giả đàng hoàng, và đăng báo vào năm 193x. Tức là cái câu ca dao ấy thực ra là để tuyên truyền cho cái ngày Giỗ Tổ mà vua Khải Định ấn định cho cả nước. Còn ngày Giỗ Tổ thực, mà nhân dân địa phương khu vực Đền Hùng, vẫn tiến hành cả ngàn (?) năm nay là ngày 11 tháng 3 âm lịch. (Vua cho cả nước làm sớm lên 1 ngày, ngay tại đền Hùng, để sau đấy một ngày thì dân địa phương có thời gian và địa điểm làm lễ của riêng mình). Qua đây cũng thấy cái giải thích của Kim Định về ngày 10 tháng 3 (Tam Miêu – Bách Việt) là bị đổ gãy hoàn toàn.

Thế nhưng, cuối cùng, thì cái ngày 11 tháng 3 âm lịch ấy phải ở đâu ra chứ? Nó phải có ý nghĩa (cho dù là gán ghép) hoặc tốt hơn cả, là nó phải có nguồn gốc thực sự từ đâu đó cội nguồn dân tộc. Thực ra tôi có câu trả lời riêng của mình, nhưng từ từ đã, lát sẽ nói. Thế mới gọi là câu view.

***

Đền Hùng, thực ra không cũ lắm, mới chỉ được xây dựng từ đời nhà Đinh. Điều này dễ hiểu vì trước đó là cả ngàn năm Bắc Thuộc.

Mã Viện sau khi cướp nước ta đã đốt sách, nung chảy hầu hết trống đồng, tịch thu mang về Tàu hầu hết các tác phẩm và sản phẩm tinh hoa của chúng ta, để rồi sau cả ngàn năm bắc thuộc, chúng ta mù mờ về tổ tiên nhà mình. Nghiên cứu sử theo sách sử (chép) thì dựa nhiều vào sách Tàu (ví dụ như Hậu Hán Thư) và sách ta, bắt đầu từ An Nam Quốc Vương kiêm hoàng tộc nhà Trần đầu hàng theo giặc (hehehe). Ngoài ra chỉ còn huyền sử với Lĩnh Nam Chích Quái là những câu chuyện nổi tiếng nhất.

***

Nếu chịu khó đọc tài liệu, hoặc đơn giản hơn là google, mọi người sẽ thấy cả chục thuyết khác nhau về cội nguồn dân tộc. Từ mê tín dị đoan Nho Việt, Hà Đồ, Kinh Thi, Kinh Dịch (Kim Định và những người theo phái này), đến văn hóa Đông Sơn, Hòa Bình (các nhà lịch sử khảo cổ Hà Văn Tấn đến Trần Quốc Vượng). Từ nhân chủng học (Bình Nguyên Lộc, cho rằng tổ tiên chúng ta có chủng Malai) đến Lê Mạnh Thát nghiên cứu sử dựa vào văn bản phật giáo và qua đó khước từ cả Triệu Đà lẫn An Dương Vương là vua của người Việt. Sau đây là tóm tắt một chút về các thuyết để các bạn thích món nào thì tự xào internet món đấy.

1. Trường phái Huyền Sử và sau này các môn đệ thêm cả mê tín vào (hay gọi luôn là phái Kim Định cho dễ) thì cho rằng Viêm Việt (Bách Việt, Cửu Lê, Lạc Việt…) ngày xưa làm chủ đất và văn minh Hoa Hạ. Sau này bị Hán Tộc vốn là dân du mục, thiện chiến hơn, oánh cho tơi bời, chạy toé khói về phương nam. Rồi lại bị đô hộ, chỉ có một nhóm nhỏ tồn tại đến bây giờ chính là người Việt chúng ta đang lướt web hiện nay. Rồi từ đó nhận hết Nho học, Kinh Thi, Kinh Dịch này nọ là có nguồn gốc từ dân ta mà ra hết. Tuy thường xuyên đẽo chân cho vừa giày, ông Kim Định có một điểm rất thuyết phục đó là họ của người xưa, bọn du mục thì lấy tên của tướng, họ của dân nông nghiệp lấy theo đất. Ông Tạ Chí Đại Trường cũng có nói Hùng là từ Hùng Điền mà ra.

2. Ngoại trừ những người làm sử dựa nhiều vào khoa học, ví dụ dựa vào khảo cổ học như cụ Hà Văn Tấn, thì có hai người mà tôi rất khoái do họ sử dụng nhiều phương pháp suy luận kiểu điều tra phá án Sherlock Holmes, kết hợp khảo cổ và folklor học, lẫn nghiệp vụ hịên trường CSI: đó là Trần Quốc Vượng, Tạ Chí Đại Trường. Ví dụ tiêu biểu là cả hai ông này đều có những phát kiến về ảnh hưởng của tù binh Chăm ở đồng bằng Bắc Bộ. Hay ông Tạ chí Đại Trường nói “có tội thì lội xuống sông” là dấu vết văn hóa của tắm sông Hằng (do cách nào đó đã đến VN, ví dụ qua phật giáo Nam tông) còn sót lại. Ông này còn giải thích về các họ Lí-Lê (Việt Mường), Phan-Phạm (Chàm) và Trịnh (Thái).

3. Ông Bình Nguyên Lộc tuy nói dài và hay khiêu khích nhưng ông ấy sử dụng hai công cụ cực kỳ đáng tin cậy là Nhân chủng học và Ngôn ngữ. Tuy món nhân chủng học là món gây nhiều tranh cãi, nhưng ngôn ngữ học lại có sự đồng thuận cao. Ông Bình Nguyên Lộc chứng minh được (tuy còn nhiều dẫn chứng võ đoán) rằng tiếng Việt trước thời kỳ Mã Viện là tiếng đa âm. Tàn tích còn sót lại là các từ ghép như Biển Cả. Ông này có giải thích từ Văn Lang là từ chữ Nang Vlang (Cọ Sọc) mà ra (ngoài cái ông này thì chưa thấy ai giải thích Văn Lang từ đâu mà ra cả). Ông này cho rằng người Việt Cổ là hậu duệ của giống Proto-Australoid (Cổ-Phương Nam), chủng thì là chủng Mã Lai. Vua Hùng là một bộ tộc thuộc chủng này, chiến thắng hằng loạt bộ tộc khác (cũng cùng chủng ấy, có ngôn ngữ và văn hóa giống nhau) thành lập nước Văn Lang, du nhập công nghệ đúc trống đồng của người Mã Lai (cũng là cùng chủng). Người Mường là các chủng tiến hóa hơn (đời sau) của giống này và đến Việt Nam sau cùng cho nên văn hóa và ngôn ngữ của người Mường rất giống người Việt Cổ và có nét gần gũi văn hóa với một loạt dân tộc ở Cao Nguyên.

Ông Bình Nguyên Lộc có chỗ khớp với ông Lê Mạnh Thát ở chỗ Bắc Tiến (người Việt Cổ đi từ tít dưới phương nam lên Bắc, mang văn hóa và tôn giáo của Ấn, Khmer…). Cũng khớp với khảo cổ Hòa Bình, Phùng Nguyên, Đông Sơn, Sa Hùynh.

Để rồi sau này về Nam mở cõi, người Việt hiện đại lại gặp những bà con của tổ tiên mình.

***

Mặc dù Vua Hùng và Văn Lang xuất hiện lần đầu (trong văn bản) là cuốn Việt Sử Lược do một hàng binh nhà Trần được tàu phong vương (ta gọi là Việt gian hoặc phản quốc), cho nên phần xạo là nhiều (xạo là để lấy le với địch, và xạo vì ông này là tay háo danh, thông minh, học giỏi). Tuy nhiên dù xạo cũng cho thấy là vua Hùng không phải là người gốc gác bản địa mà là dân di cư nên có thể làm được những việc mà dân ở đấy không thể làm được (võ hoặc vật chẳng hạn) nên Việt Sử Lược mới nói là “ảo thuật gia” và nhờ đó thống nhất được các bộ lạc và thành lập nước Văn Lang.

Sau này Ngô Sĩ Liên dựa vào, rồi thêm cả huyền sử, để viết hẳn đọan dài về Hùng Vương Âu Lạc An Dương Vương. An Dương Vương đoạn cuối có chỗ sau khi giết Mỵ Châu đã cầm sừng Tê rẽ nước biển mà đi xuống như Moses trong Cựu ước. Có lẽ vì điểm này mà Linh mục Kim Định quyết định dùng Lĩnh Nam Chích Quái để làm Kinh Hùng.

Vua Hùng chắc chắn là có thật. Cho dù xuất phát điểm, hoặc sự thật, vua Hùng chỉ là một ông tướng đứng đầu bộ lạc. Hùng Tướng hoặc Lạc Tướng. Phân tích của Bình Nguyên Lộc là có vẻ thuyết phục nhất nếu chỉ xét đoán về lập luận khoa học.

Vào cái link này và link này sẽ thấy tiếng Việt cho thấy dù vay mượn từ vựng rất nhiều của tiếng Tàu nhưng bản chất vẫn là Mon-Khmer và các nhánh ngôn ngữ gần nhất của tiếng Việt là: Mường, Khmer, Bahnar, Pacoh, Katu (một loạt các dân tộc anh em rất đỗi quen thuộc với chúng ta).

Và cũng như bác 3 ở đây nói, hay nếu ai chịu khó đọc Kho Tàng Truyện Cổ Tích Việt Nam của Nguyễn Đổng Chi (có phần khảo dị rất hay) thì thấy nhiều truyện cổ tích của ta tương đồng với truyện cổ các nước Đông Nam Á hoặc Ấn Độ.

***

Cuối cùng, thế ngày Giỗ Tổ 11 tháng 3 Âm Lịch là từ đâu ra.

Rất có thể những người Việt Cổ, xuất phát là du mục săn bắn, khi định cư ở lưu vực sông Hồng, sông Mã, đã chuyển qua trồng lúa và phát triển công nghệ (hoặc thuổng ở đâu đó) đến trình độ cao: thủy lợi, thời tiết và lịch mặt trăng.

Định cư ở đây đã lâu nhưng họ không quên cái Tết cổ truyền của mình. Cái Tết đó đã đi vào âm lịch và trở thành ngày Giỗ Tổ. Đó là ngày 11 tháng 3 âm lịch, rất gần với Tết của người Khmer.

***

Lịch cổ của các nước Đông Nam Á là Phật Lịch Cổ. Đây là lịch âm dương (năm thì theo mặt trời, tháng theo mặt trăng). Kỷ nguyên đầu tiên của Phật lịch cổ bắt đầu (Tết năm Không) là ngày …10 tháng 3. Kỷ nguyên thứ hai Tết bắt đầu với ngày đầu tiên của năm mới là … ngày 11 tháng 3 (năm 545 BC). Đây là khoảng thời gian mà người Mường cổ và người Chàm cổ bắt đầu xuất hiện rõ rệt từ Trung tới Bắc Bộ. Cũng là thời kỳ vua Hùng thống nhất các bộ lạc và thành lập nhà nước cổ Văn Lang. Và từ đó tục Têm Trầu (rõ ràng là từ xứ Nam Dương) trở thành nghi thức ngoại giao cấp … bộ tộc (hehehe) và sau này thành nghi thức tiếp khách của dân đồng bằng sông Hồng (miếng trầu đầu câu chuyện). Tiễn quân ra trận (Bà Triệu) nhân dân cũng “têm trầu cánh kiếm đưa chồng ra quân).

Các nước ĐNA đến đầu thế kỷ trước đều dùng lịch dựa vào Phật Lịch (cổ hoặc hiện đại) trừ nước mình. Chắc là do sau thời Mã Viện, hoặc thậm chí từ thời Triệu Đà, bị nó cưỡng bức. Bởi vậy nên Tết cổ truyền của người Việt cổ phải lẩn trốn trở thành Giỗ Tổ như một bản năng giữ gìn gốc tích dân tộc. Nó cũng giải quyết khúc mắc tại sao dân ta làm nông nghiệp, dùng lịch âm (của tàu) mà trống đồng lại thể hiện thờ mặt trời. Nó cũng cho thấy tại sao từ Nam Đảo, Tây Nguyên, Thanh Hóa, Hòa Bình, Đồng Bằng Bắc Bộ và Lưỡng Quảng bên kia dãy núi lại có trống đồng hoặc cồng chiêng. Mà càng lên phía bắc thì trống đồng càng đẹp (thế hệ sau đi xa hơn và đạt trình độ công nghệ cao hơn thế hệ trước) cũng như càng xuống hoặc vượt qua bên kia núi thì tài nguyên ưu đãi hơn, đúc được trống to hơn).

Sau 1000 năm bắc thuộc thì chủng tộc chắc lai Hán nhiều, văn hóa ảnh hưởng nhiều, đâm ra tâm lý vừa hâm mộ, vừa sợ, vừa ghét Tàu. Nhưng dân Việt Thường Thị ở Hồng Lĩnh (nơi vua Hùng suýt nữa đặt kinh đô) thì ít bị Hán hóa hơn. Từ đó nảy sinh ra một ông TBT coi Tàu khựa như rửa đít, đó là ông LD (hehehe).

***

Update thêm một chút.

Báo ThanhNiên hôm qua (22 tháng Tư) bắt đầu triển khai loạt bài về thời Hùng Vương với tên gọi “Dựng nước sau trận đại hồng thủy”. Ngoài các ý tưởng/quan điểm sử dụng của Lê Mạnh Thát thì bài báo còn dùng thêm cổ địa lý của Hoàng Ngọc Kỳ trong đó có nói khoảng hơn 4000 năm trước thì nước biển dâng đột ngột lên tới hơn 5m và phải hơn 1000 năm sau mới rút.

Nếu thông tin trong bài báo đúng (chắc là đúng thôi hehe) thì đây chính là lý do phần nào giải thích được việc các bộ tộc chủng Mã Lai (không phải là dân Malaysia ở KL bây giờ) di chuyển lên Phương Bắc. Nó cũng giải thích được là tại sao các dân tộc anh em của người Việt cổ cứ ở trên cao nguyên với trên núi cho đến tận bây giờ. Và rõ ràng là những bộ tộc kéo xuống được đồng bằng sớm (vua Hùng) có lợi thế hơn hẳn các tộc khác.

Tuy nhiên báo Thanh Niên gán luôn cho quả nước biển dâng kia với lại truyền thuyết Sơn Tinh Thủy Tinh thì đúng là cưỡng bức thông tin quá đáng. Đấy là chưa kể đến việc Sơn Tinh rất có thể là nhân vật có thật, tên phiên âm qua tiếng Hán là Tuấn, sống ở đời cuối của giai đoạn Hùng Vương, đánh nhau còn thua Thủy Tinh … Thục Phán An Dương Vương. Sở dĩ nói vậy vì tôi tin chắc rằng nếu có Thủy Tinh thì ông này chắn chắn là Thục Phán.

Người Thái Cổ (cũng cùng chủng Austronesian nhưng khác chi, ở mé trên của dãy núi phía Bắc). Chủng này tiếng Tàu gọi là Âu.

Người Việt Cổ (khác chi, đã xuống đồng bằng). Chủng này tiếng Tàu gọi là Lạc.

(Đoạn này có thể tìm trong cuốn “Lột trần tiếng Việt” của Bình Nguyên Lộc)

Phục Phán có thể là người Thái Cổ. Hùng Vương là người Việt Cổ.

Khớp với truyến thuyết thì sẽ là thế này. Thục Phán xuống đồng bằng hơi muộn so với Hùng Vương (Thủy Tinh đến muộn) buộc phải đánh nhau với liên quân bố vợ con rể Hùng Vương và Sơn Tinh (năm nào cũng dâng nước đánh Sơn Tinh ở Tản Viên). Về địa lý thì cũng khá khớp ở chỗ quân Thục Phán đi theo đường sông (sông Đà???) xuống đất Phú Thọ rồi đánh nhau với liên quân Hùng Vương Sơn Tinh ngược lên đến Tản Viên thì thua. Năm nào cũng đánh và cũng thua. Nên đi vào truyền thuyết thành Thủy Tinh không những hụt quả gái đẹp mà còn ghen tức năm nào cũng choảng nhau.

Thế nhưng truyền thuyết (của dân thua trận) không nhắc đến trận cuối cùng, Thục Phán thắng trận (do Hùng Vương ngủ quên trên chiến thắng, Sơn Tinh mải nhậu thịt thú rừng), và thống nhất hai tộc Âu và Lạc để thành lập nhà nước Âu Lạc.

Xem thêm:

Vua Hùng tên thật là gì?

Share this post


Link to post
Share on other sites
  Quote

Bài này cũng thuộc loại "phủ nhận" tuy mức độ có nhẹ và đa chiều hơn. Người viết là chủ nhân blog 5xu - nhà báo Nguyễn Phương Văn, người cộng tác với GS Ngô Bảo Châu viết sách Ai và Ky ở xứ sở tàng hình. Ngoài bài bàn về ngày giổ tổ dưới đây, Blog 5xu này cũng có nhiều bài liên quan cổ sử, quan điểm cũng hơi ...linh tinh. Nêu ở đây để sư phụ và mọi người tham khảo

Lại một tay vớ vẩn nữa xuất hiện. Đúng là 5xu. Rất tiếc Ngô Bảo Châu cộng tác với người này.

Tôi không tin cuốn Ai & Ky là một cuốn sách hấp dẫn. Tôi đã có bài viết về ý nghĩa ngày giỗ Tổ Hùng Vương. Nên không viết thêm nữa.

1 person likes this

Share this post


Link to post
Share on other sites
  On 3/21/2012 at 04:31, 'HungNguyen' said:

Bài này cũng thuộc loại "phủ nhận" tuy mức độ có nhẹ và đa chiều hơn. Người viết là chủ nhân blog 5xu - nhà báo Nguyễn Phương Văn, người cộng tác với GS Ngô Bảo Châu viết sách Ai và Ky ở xứ sở tàng hình. Ngoài bài bàn về ngày giổ tổ dưới đây, Blog 5xu này cũng có nhiều bài liên quan cổ sử, quan điểm cũng hơi ...linh tinh. Nêu ở đây để sư phụ và mọi người tham khảo

http://5xublog.org/2...1%BB%9F-dau-ra/

Ngày Giỗ Tổ ở đâu ra?

Trong entry trước tôi có thắc mắc liệu là cái ngày Giỗ Tổ mùng 10 tháng 3 ở đâu ra. Cái thắc mắc nho nhỏ của tôi là vì ngày 10 tháng 3 là ngày vua Khải Định dùng công văn để quy định. Năm vua Khải Định ra cái công văn này là năm 1917. Đồng thời ca dao có câu “nhớ ngày Giỗ Tổ mùng 10 tháng 3″.

Trong cái entry này bác 3 có nói rằng cái câu ca dao kia thực ra là rất mới, có tác giả đàng hoàng, và đăng báo vào năm 193x. Tức là cái câu ca dao ấy thực ra là để tuyên truyền cho cái ngày Giỗ Tổ mà vua Khải Định ấn định cho cả nước. Còn ngày Giỗ Tổ thực, mà nhân dân địa phương khu vực Đền Hùng, vẫn tiến hành cả ngàn (?) năm nay là ngày 11 tháng 3 âm lịch. (Vua cho cả nước làm sớm lên 1 ngày, ngay tại đền Hùng, để sau đấy một ngày thì dân địa phương có thời gian và địa điểm làm lễ của riêng mình). Qua đây cũng thấy cái giải thích của Kim Định về ngày 10 tháng 3 (Tam Miêu – Bách Việt) là bị đổ gãy hoàn toàn.

Thế nhưng, cuối cùng, thì cái ngày 11 tháng 3 âm lịch ấy phải ở đâu ra chứ? Nó phải có ý nghĩa (cho dù là gán ghép) hoặc tốt hơn cả, là nó phải có nguồn gốc thực sự từ đâu đó cội nguồn dân tộc. Thực ra tôi có câu trả lời riêng của mình, nhưng từ từ đã, lát sẽ nói. Thế mới gọi là câu view.

Tôi có một kỷ niệm buồn như sau: Ngày mẹ tôi còn sống, tôi đến thăm mẹ tôi - Nữ sĩ Ngân Giang. Bà nói với tôi: Mẹ vừa có tiểu luận viết chung với mấy tác giả ....trong đó mẹ tôi có nhắc đến ông Trần Quốc Vương. Tôi trả lời ngay: Mẹ ạ! Ông Trần Quốc Vượng có quan điểm lịch sử phủ nhận truyền thống văn hiến Việt . Mẹ viết sách chung với ông này có thể mang tiếng. Mẹ tôi nói : Thế à! Vậy từ này mẹ sẽ chú ý vấn đề này và tránh in chung với ông ta. Cuốn sách của mẹ tôi, tôi cũng không lấy về. Mẹ tôi từ đó cũng không nhắc đến cuốn sách này nữa. Bây giờ ông Ngô Bảo Châu đang viết chung một cuốn sách với một tác giả như vậy. Tôi thấy tiếc cho ông ta.

Nhìn chung tôi rất coi thường những kẻ phủ nhận những giá trị văn hóa truyền thống Việt. Nó chứng to một khả năng tư duy tầm "ở trần đóng khố" về mặt khoa học và học thuật, nó chứng tỏ một thứ vô liêm sỉ về mặt văn hóa. Bài này tôi muốn chứng minh cho các quí vị quan tâm sự trơ tráo và tầm tư duy "Ở trần đóng khố" của tác giả bài viết này.

Qua đoạn trích dẫn trên chúng ta thấy rằng: Tác giả muốn lấy công văn của vua Khải Định để xác định ngày Giỗ Tổ Hùng Vương là hoàn toàn mới đây, hay xác định một cách gián tiếp là nó vốn không có và chỉ có từ thời Khải Định. Nhân chứng vật chứng hẳn hoi , tư liệu rõ ràng. Nhưng cái dốt nát của tác giả này là: Trước đó - trước năm 1917 - khi vua Khải Định chưa ban chiếu quy định thì người Việt có kỷ niệm này giổ Tổ không:? Tác giả cũng xác định là có nhưng cho rằng nó vào ngày 11. 3 và vênh váo cho rằng lập luận của ngài Kim Định gẫy đổ hoàn toàn. Cả bài viết của tácgiả toát lên khí chất của sự phủ nhận văn hóa dân tộc trên blog 5xu.

Trước khi phân tích cái sai của người này, tôi muốn kể một câu chuyện mà bọn trẻ con chúng tôi chơi đánh quay hồi còn nhỏ. Sau khi Oẳn tù ì xong thì thằng thắng sẽ cầm quay chọi vào đống quay của những thằng chơi nằm một đống cho giăng những con quay ra. Tức là quay của những thằng oẳn tù tì thua phải bị quay của thằng thắng bổ tra tấn sứt sẹo cả. Thằng nào hân hạnh vì chơi thân với nhau, được nó bổ giăng ra trước thì sống lại và tiếp tục bổ những thằng còn lại . Cho đến khi chỉ còn một con quay của thằng nào đó xấu số nằm lại cuối cùng thì quay thằng ấy bị cả bọn bổ sứt sẹo cả. Nhưng nếu trong quá trình bổ quay , chăng may thằng nào bổ trượt mà lăn ra chết thì cả bọn nhao nhao lên nói một câu "Sâu bọ lên làm người". Đấy là câu thiệu trong trò chơi quay của bọn trẻ con chúng tôi. Đến nay, khi thời gian đưa bọn trẻ con hồi ấy thành "hàng quá đát chờ thanh lý", ngẫm lại câu nói trong trò chơi trẻ con ngày xưa cũng thấy buồn cho nhân tình thế thái.

Quay trở lại bài viết của tác giả trên blog 5xu. Nếu tôi chỉ viết vài câu ngắn gọn như bài viết trên thì dễ bị hiểu nhầm là lập luận sắc sảo của tác giả, khiến tôi không dám nói năng gì. Mặc dù đề tài này tôi đã nói qúa nhiều trên dd. Nhưng với những ai lười tìm kiếm, hoặc khó tìm sẽ hiểu nhầm. Còn vấn đề lấy chiếu của vua Khải Đinh làm tư liệu lịch sử để minh chứng ngày giỗ Tổ Hùng vương chỉ đơn giản mới xuất hiện gần đây thì cũng không phải là tác giả này mới phát hiện. Trước đó cũng vài tay tư duy tầm "ở trần đóng khố" cũng hí hửng nói từ lâu rồi. Bởi vậy tôi cũng cần bày tỏ vài lời:

- Phong tục chọn ngày giỗ của Việt tộc , có nơi chọn đúng ngày mất của người thân quá cố làm ngày giỗ. Có nơi lùi lại một ngày.

Trài hàng ngàn năm trôi qua với bao thăng trầm của Việt sử, ngày giỗ tổ 10. 3 được lùi lại 1 ngày thành 11. 3 thì cũng không có gì là lạ. Bởi vì tính biểu tượng của ngày Giỗ bị hiểu nhầm thành ngày mất thực tế của vị vua tổ. Nên người ta lùi lại 1 ngày cũng không có gì là lạ. Vua Khải Định quyết định lấy 10. 3 không phải vì nhà vua muốn áp đặt một cách chủ quan. Mà nhà vua chỉ xác định lại chính xác tính nguyên thủy của ngày giỗ Tổ có từ trước đó trong truyền thống văn hóa sử Việt. Hoàn toàn không phải ngày giỗ Tổ 10. 3 chỉ xuất phát từ thời vua Khải Định - tức là từ 1917.

Cần phải xác định rõ ràng như vậy.

- Trong phong tục thờ Tổ của Việt tộc chỉ xác định 1 vị Tổ. Vậy tại sao đền thờ Tổ các vị vua Hùng lại thờ 18 vị Tổ và lại thờ chung 1 ngày? Không lẽ cả 18 vị Tổ mất chung một ngày là 11, hoặc mùng 10 tháng Ba? Tất nhiên điều này chứng tỏ rằng ngày 10 . 3 Âm lịch hàng năm hoàn toàn mang tính biểu tượng cho việc nhắc nhở cội nguồn Việt tộc qua các thời Hùng Vương - cội nguồn lịch sử của Việt tộc.

- Tại sao lại chọn ngày 10. tháng Ba Âm lịch hàng năm làm ngày giỗ Tổ các vị vua Hùng mà không phải là một ngày khác?

Tất nhiên điều này thì đám tư duy "Ở trần đóng khố" phủ nhận truyền thống văn hóa sử tổ tiên làm sao đủ khả năng hiểu được bản chất của ngày 10. 3. Ở đây tôi giải thích rõ như sau:

Tháng Ba là tháng thứ 5 kể từ tháng Tý - tức tháng "Một" theo cách gọi dân dã của Việt tộc: Một - Chạp - Giêng - Hai - Ba...". Tháng là tập hợp - là Mẹ - của ngày là cái có trước thuộc Dương. Ngày là con của tháng - là cái có sau - là phần tử trong tập hợp tháng thuộc Âm. Đây chính là độ số 5/ 10 thuộc Trung Cung Hà Đồ - Ngôi Hoàng cực - tượng trưng cho Vương quyền. Độ số 5 thuộc Dương nên lấy tháng Ba là tháng thứ 5 kể từ tháng Tý - cũng là tháng Thìn - Rồng thuộc thổ và biểu tượng của Vương Quyền. Ngày 10 thuộc Âm, nên chọn là ngày 10.

Ngày 10 tháng Ba mang tính biểu tượng của vương quyền thời Hùng Vương lập quốc, nên nhà vua Khải Định ra chiếu chỉ phục hồi chính xác ngày này. Chứ không phải vua Khải Định tự ý xác định.

Hiện tượng lấy ngày 10. 3 làm ngày giỗ Tổ các vua Hùng mang tính biểu tượng cũng là một hiện tượng mang tính minh triết trong truyền thống văn hóa sử Việt xác định rằng:

Chính Hà Đồ là nguyên lý căn để của thuyết Âm Dương Ngũ hành - chính là "Pháp Đại uy nỗ" trong tranh thờ Ngũ Hổ trong nền văn hiến Việt.

Đồng thời cả 18 vị vua Tổ thờ chung một ngày mang tính biểu tượng trên cũng xác định rằng - Thời Hùng Vương không phải có 18 vị vua cha truyền con nối . Mà là 18 tổ ngành của 18 thời Hùng Vương. Trong đó có một vị vua Hùng cuối cùng của ngành Hùng Vương thứ VI phải thờ ngoài chánh điện Thượng - Trung - Hạ.

=======================

PS: Cá nhân tôi sẽ không bao giờ mua cuốn sách Ai&Ky của ông Ngô Bảo Châu , nếu ông ta viết chung với tác giả này theo như lời quảng cáo trên blog 5xu.

2 people like this

Share this post


Link to post
Share on other sites

Xem thêm 2 bài xuyên tạc cổ sử ( lý giải tên vua Hùng và chim Lạc ) của thằng 5xu-Nguyễn Phương Văn này nhận ra nó nhạo báng cổ sử Việt nam quá thể. Chỉ google linh tinh thôi mà viết cứ như đúng rồi. Chứng tỏ trình đọc sách nghiên cứu hạng bèo lại khoái giựt nổi, với những lý giải vớ vẩn mang tính báng bổ này cần phải suy xét kỹ và lựa lời văn phù hợp dù cho đang viết nhảm.

HN cũng tiếc cho GS Ngô Bảo Châu hợp tác với thằng 5xu rẻ tiền này.

Share this post


Link to post
Share on other sites