Posted 9 Tháng 8, 2010 Xét lại vụ án Hoàng đế ... Sử sách Trung hoa ngày nay đều cho rằng : có năm vị vua thái cổ được dân chúng nhắc đến nhiều nhứt, được tôn là Thánh Vương, vì đã có nhiều công lớn trong việc phát minh những điều hữu ích quan trọng để giáo hóa dân chúng. Năm vị Thánh Vương được gọi chung là Ngũ Đế: - Phục Hy - Thần Nông - Hoàng Đế- Đường Nghiêu - Ngu Thuấn. Thần nông còn được biết dưới tên là Viêm đế làm vua năm 2737 trước Tây lịch kỷ nguyên. Hoàng đế nghĩa là Đế màu vàng , màu vàng là sắc ở trung tâm trong ngũ sắc lên ngôi năm 2697 trước Tây lịch kỷ nguyên . Dã sử Trung hoa viết Hoàng đế và Viêm đế có quan hệ thân tộc , vùng đất cạnh lãnh thổ 2 vị có Xuy vưu thủ lãnh của bộ tộc Cửu lê rất hung dữ , xuy vưu toan lấn đất của bộ tộc Viêm đế , Viêm đế cầu cứu Hoàng đế , Hoàng đế đã huy động nhiều bộ lạc theo mình mở trận huyết chiến diệt Xuy vưu , một thời gian sau Hoàng đế chiếm luôn đất đai của Viêm đế thống nhất các bộ tộc lập nên đất nước và dân tộc Trung hoa , diễn biến lịch sử này lướt qua thì có vẻ hợp lý vì Thần nông trị vì chỉ 40 năm thì bị Hoàng đế thay thế ... Chính vì những thông tin lịch sử này mà nhiều tư liệu thư tịch thành văn cũ (ngọc phả, thần tích...) lưu truyền ở Việt nam cho Hoàng đế là tên : trò phản thày tôi thí chúa đã chiếm đất diệt tộc người Việt khi làm ...đảo chánh kết thúc triều Đại Thần nông Viêm đế , sở dĩ vậy là vì truyền thuyết lịch sử Việt nhận Thần nông là cao tổ của dòng tộc mình , đế MINH ông tổ dòng giống Việt được ghi là cháu 3 đời của Viêm đế . Có thực như thế không ? Truyền thuyết trong dân gian cần phải được soi rọi cặn kẽ , xem sét 1 cách tỉnh táo vì có thể ở thời điểm mà câu chuyện được thêu dệt không có những thông tin chính xác thậm chí sai lạc rồi với nhận định chủ quan ...(đó là chưa kể đến dã tâm của kẻ thù) người ta đã dựng nên những chuyện tưởng là đúng nhưng thực ra hoàn toàn sai … rồi cứ như thế với sự cả tin truyền lan mãi trong không gian và thời gian gây ra hậu qủa tai hai lớn lao không lường nổi , những tình tiết liên quan giữa Viêm đế thần Nông với Hoàng đế và đế Minh là 1 thí dụ điển hình cho sự cả tin nguy hại này : Xin hỏi 1 điều : Cứ theo dã sử và những điều đang lưu truyền thì : Người Trung hoa nhận mình là ‘Viêm – Hoàng tử tôn’ tức là con cháu của Viêm đế và Hoàng đế trong khi đó đế Minh tổ của người Việt lại là cháu những 3 đời của Viêm đế ...nên nếu qủa đúng như thế thì hoá ra .... về vai vế tộc Việt là thuộc hàng chút chít của người Hoa à ? Điều kỳ quái này người Việt có thể chấp nhận được hay không ? Soi rọi cặn kẽ 1 chút , cẩn thận tỉnh táo 1 chút : Nhìn vào đồ hình Cửu thiên : Ta nhận ra : chính Cửu thiên của Dịch học là cái nền tạo ra Ngũ đế Trung hoa : Phục hy tương ứng với Thanh thiên . Viêm đế tương ứng với Viêm thiên . Thiếu Hạo tương ứng với Hạo thiên. Xuyên húc tương ứng với Huyền thiên . Hoàng đế tương ứng với Quân thiên . Phục hy người Việt gọi là đế Thần , thần là biến âm của Thìn là con rồng chỉ phương đông , màu xanh , muà Xuân . Sự liên quan :Viêm đế –Viêm thiên , Thiếu hạo –Hạo thiên đã qúa rõ . Xuyên là sông tượng của phương nam theo dịch học , ‘húc’ là biến âm của ‘hắc’ đồng nghĩa với huyền trong Huyền thiên nghĩa là màu đen hay u tối . Hoàng là sắc vàng chỉ trung tâm ngũ sắc tương hợp hoàn toàn với Quân thiên là vùng trời ở giữa . Sở từ viết về ngũ đế cũng đưa ra điều tương tự coi 5 đế là những vua cai quản 4 phương và trung tâm nhưng phương hướng đảo ngược tất cả : Thiếu Hạo (đông) Xuyên Húc (bắc) Hoàng Đế (trung) Phục Hi (tây) Thần Nông (nam) Sách Lã thị xuân thu do Lã bất vi soạn đưa ra 1 bảng chỉ dẫn rõ ràng về sự tương ứng giữa các sự vật xét theo dịch lý , thông tin trong sách có độ tin cậy rất cao vì Lã bất Vi đã cho treo ở chợ và hứa thưởng ...vàng cho bất kỳ ai chỉ ra được 1 chữ sai . Phục Hy , muà xuân-phương đông-màu xanh-số 8 Hà thư –Mộc thần . Thần Nông ; mùa hạ-phương nóng xích đạo –màu đỏ – số 2 hà thư-Hỏa thần Thiếu hạo ;mùa thu – phương tây –màu trắng – số 4 Hà thư- Kim thần . Xuyên húc ; mùa đông – phương đông – màu đen – số 6 Hà thư-thủy thần . Lã thị xuân thu không nói tới Hoàng đế , nhưng căn cứ vào những Dịch tượng thì Hoàng đế có thể biểu thị : Hoàng đế (hoàng –màu vàng) ; mùa : không mùa , phương : trung tâm – màu vàng – số 5 Hà thư – thổ thần . Đối chiếu với cửu thiên thì sự chỉ định của sách Lã thị xuân thu là hoàn toàn tương hợp và kỳ lạ hơn nữa những điều này còn hoàn toàn khớp đúng với truyền thuyết lịch sử Việt . Thanh thiên ; Phục hy - thái Cao – đế Thần . Viêm thiên ; Viêm đế - Thần Nông- Viêm đế còn gọi là đế Khôi .( ? ). Hạo thiên ;Thiếu hạo – thái Khang . Huyền thiên ; Xuyên húc –thái Tiết – Tiên đế . Quân thiên ; Hoàng đế – thái Công – đế Minh . Tại sao tương ứng với 5 thiên thì 4 đế có danh hiệu là Thái nghĩa là thủy tổ ...riêng Viêm đế thì vẫn chỉ là Đế ?, đây là sự khập khiễng và sai lầm rất rõ ; dựa trên Cửu thiên thì vị đế tương ứng với Viêm thiên phải là ‘Thái Viêm - thần Nông’ chứ dứt khoát trong Tam hoàng - Ngũ đế không có ‘Viêm đế’ như những sách Tàu và Ta đã chép . Lầm lẫn Thái Viêm - thần Nông tỉ tổ của người Việt với Viêm đế là anh em cùng cha khác mẹ với Hoàng đế (cả 2 là con của Hùng quốc quân - Thiếu Điển) là 1 sai lầm lớn lao tệ hại vô cùng khiến cổ sử Việt quay 180 ₫ trở thành đầu mối cho những sai lầm chồng chất về sau . Không cần uyên bác thông thái gì cũng có thể thấy : -Xét về Lịch đại : Kết cấu 5 đế trong lịch sử Trung hoa mang tính lịch đại chứ không phài đồng đại , đế muà xuân , đế mùa Hạ , đế muà thu .v.v. rõ ràng chỉ các triều đại tuần tự kế tiếp nhau trong thời gian nên truyền thuyết mới viết Thần nông là con của Phục hy tức có ý nói thời Thần Nông thị kế tiếp Phục hy thị . Căn cứ vào biểu ngũ đế theo lã thị Xuân thu đã được dịch học kiểm chứng trên thì Hoàng đế không thể nào là kỷ kế tiếp Thần Nông được , kỷ của đế mùa Hạ qua rồi buộc phải đến Thu đế , rồi Đông đế kế tiếp chứ không có chỗ cho Hoàng đế chen vào vì vậy không thể có chuyện triều Hoàng đế thay thế Thần nông như sách Tàu viết ...làm nền cho ai đó thêu dệt nên chuyện Hoàng đế phản chủ thí chúa ... -Xét các bước Tiến hoá : Thời Hoàng đế thủy tổ Hoa tộc tồn tại cách nay khoảng 5000 năm là điều không phải bàn nữa , đây là niên đại mọi người mặc nhiên công nhận ; như thế Viêm đế cũng tồn tại trong quãng thời gian này nhưng xét Trong dòng thời gian của lịch sử thì Thần Nông không chỉ có nghĩa là 1 vị vua mà còn có nghĩa là 1 thời đại, thời đại con người bước từ nền văn minh hái lượm sang thời văn minh trồng trọt, khai thác kinh tế sản xuất, có gieo – có gặt , câu ‘Thần nông giáo dân nghệ ngũ cốc’ đã chỉ rõ điều này mà Theo các nghiên cứu khoa học thì thời gieo trồng ở Đông Nam Á bắt đầu vào hơn 10.000 trước Công nguyên. Tiêu biểu cho thời này, khảo cổ học gọi chung là thời văn hóa Hòa Bình tên địa điểm tìm ra di chỉ khảo cổ ; xét ra khoảng lệch 5000 năm giữa 2 thời Viêm đế- Hoàng đế và Thần nông thực trưng ra ở đây là bằng chứng rõ ràng khẳng định : nhân vật Viêm đế đã bị Hoàng đế diệt trong sử Trung hoa không phải là Thần nông cao tổ của người Việt , danh hiệu của Thần nông phải là ‘Thái Viêm’ nghĩa là Thủy tổ tộc người sống ở vùng nhiệt đới –xích đạo , vua Thần nông cũng là nhà phát minh vĩ đại bậc nhất khi đem lại của ăn cho loài người . Sử thuyết họ HÙNG đã chỉ ra : Theo truyền thuyết thời cổ đại nước của người Việt có tới 3 vị đế mang danh hiệu có chữ Viêm (viêm chỉ sức nóng , ngọn lửa) : 1-Thủy tổ Thái Viêm –thần Nông - Hùng Hiển vương . 2-Viêm đế là thủ lãnh của tộc người đã hoà nhập với bộ tộc của Hoàng đế kiến lập Hữu Hùng quốc tức Trung hoa thời xưa . 3-Viêm lang – Hùng Hy vương tức đế Nghi con cả của đế Minh anh cùng cha khác mẹ với Lộc tục trong huyền sử Việt cũng chính là đế Nghiêu của cổ sử Trung hoa. Xét như vậy không thể có vụ án Hiên viên Hoàng đế diệt quốc chiếm dân của vua Thần Nông như đã chép trong 1 số thần tích thần phả Việt , truyền nhân dòng Việt phải tỉnh táo cẩn trọng phân biệt thực hư khi nhìn nhận qúa khứ dân tộc mình . Hữu HÙNG quốc hay nước của người họ HÙNG ghi chép rõ ràng trong cổ sử Trung hoa là 1 bằng chứng sáng gía giúp ‘hiện thực hóa’ truyền thuyết 18 đời Hùng vương của cổ sử Việt , sự kết hợp hoàn chỉnh Hùng vương là vua của Hùng quốc loại trừ hẳn hàng chữ mập mờ vớ vẩn mà nhiều người đã viện dẫn để xác định thời điểm lập quốc của người Việt ‘ ....vào đời Trang vương nhà Chu ...có người dùng ảo thuật khuất phục các bộ lạc chung quanh tự xưng là Hùng vương ....’, Sử thuyết họ HÙNG đã trưng bằng chứng chỉ ra Hùng vương là tổ của cả dòng Bách Việt chứ không phải là tổ riêng của người Lạc Việt và Bách Việt chính là Trung hoa xưa , hàng ngàn năm rồi kể từ khi Mã Viện thu Trống đồng đúc ngựa là mọi chuyện đã lộn ngược ...kẻ cướp biến thành chủ nhân , bao nhiêu điều trái khoáy đã phơi bày mà cả thiên hạ không nhận ra ...kẻ chuyên đi ngựa lại phát minh ra thuyền bè ....chắc dùng để chạy ...trên đồng cỏ hay sa mạc ...Kẻ chưa hề biết đến bờ ruộng nước mà lại tạo ra được chữ ‘Điền’ thì đúng là ‘siêu tưởng’ ...cỡi voi trên bờ Hoàng hà thì đúng là ‘siêu thực’ chỉ có trong chuyện thần tiên ....không ở bên bờ biển Đông thì làm sao có thể tạo ra được quẻ chấn sấm sét và quẻ Tốn gió bão trong kinh Dịch ? làm gì có Rồng lượn trên ngọn cỏ ? hình tượng rồng không thể nào thoát ra khỏi sấm chớp gío bão nơi biển đông được vậy mà... ...đặc biệt hơn nữa đến cả chuyện ông Bàn cổ thủy tổ người Trung hoa cũng phải đi mượn của người phương nam ( chuyện Bàn Hồ của người Dao ) cốt chuyện hoàn toàn là ý rút ra từ vũ trụ luận của Dịch học ...chỉ riêng điều này thôi cũng đã đủ để xem sét lại những thông tin về quê hương của kinh dịch và địa bàn gốc tổ Trung hoa xưa . Trong cái lớn là cả chiều dài lịch sử Việt người viết bài này mong 1 điều nhỏ : xin mọi người bình tâm suy gẫm xét lại vụ án Hoàng đế –Thần Nông tránh sự cả tin vô cùng nguy hại như hiện nay . 5 people like this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 10 Tháng 8, 2010 Sử thuyết họ HÙNG-những điều mới biết . Để dẫn chứng cho những dòng sử sắp viết Xin trích 1 phần bài viết về phiên thiết chữ Hán của tác gỉa Nhạn nam Phi .. Sách “Thuyết-Văn” còn gọi là “Thuyết văn giải tự”do Hứa Thận thời Đông Hán biên soạn, bao gồm 2 phần là Thuyết văn và Trọng Văn. - ........ - Sách Thuyết văn dùng 2 phương pháp “Phản” và “Thiết” để tra chữ, rồi giải thích nghĩa, tạo ra tiền lệ và trở thành quyển từ điển đầu tiên. Các từ điển sau nầy là phỏng theo phương cách của Thuyết văn. - -“Phản” là cách nói phản-nghịch (nói lái): dùng từ phản (nói lái) để đọc ra phát âm của chữ cần tra cứu. Ví dụ: - Phát âm chữ “Thiên 天” là theo cách nói lái của “Tha-Tiền 他前”, là “Thiên Tà”, thì sẽ biết “Thiên” là phát âm của chữ “Thiên 天”: 天 = 他前. - -“Thiết” là nhất thiết, là tất cả: chữ đầu lại dùng luôn âm vần của chữ thứ 2 để phiên âm ra giọng đọc của chữ cần tra cứu. Ví dụ: - Phát âm chữ “Thiên 天” là dùng chữ “Tha-Tiền 他前”. Với cách đánh vần chữ “Tha 他” dùng luôn âm “iên” của chữ “tiền前” thì sẽ được Tha-iên-Thiên: 天=他前. - Hai phương pháp “phản” và “thiết” có cách dùng trái ngược nhau, nhưng nhập chung lại thì cách nào cũng được, và gọi chung là “phương pháp phản-thiết” để phiên âm. Có hiện tượng “không bình thường” là khi dùng tiếng Hoa ngày nay để đọc “Hán ngữ” cổ thì khó khăn, không thích hợp, còn dùng tiếng Việt ( phát âm hán việt ? ) để đọc lại dễ dàng. Từ đó rút ra kết luận: đọc Thuyết văn theo tiếng Việt thì đúng, mà đọc theo tiếng Hoa thì nhiều khi sai vì không hoặc khó phiên âm đúng. Thí dụ : chữ “Hạ夏”. –Hồ nhã thiết . -Phiên âm theo cách phản: Hồ nhã = Hà nhỗ, âm : “Hạ” -Phiên âm theo cách thiết: Hồ-nhã=Hồ-a-ha , âm : “Hạ”. Một đoạn ngắn nêu trên khi tra chữ Hạ 夏 cho thấy thời cổ đại cho đến thời nhà Hán thì chữ 夏xia của tiếng Hoa bây giờ, ngày xưa đọc là “Hạ夏”. Như vậy, rõ ràng là dùng tiếng “Hoa” khi tra Thuyết văn là trật, là không thích hợp. “Hồ nhã” không bao giờ phiên âm ra thành “Xia”. Đặc biệt: “Hồ nhã-胡雅” đọc theo Mân Việt “雅Nhã” là “Nghé”, “nghe” hay “nghè” thì “phản thiết pháp” cuả Hạ夏 trở thành âm Hè夏 theo tiếng Triều Châu và Việt Nam. ................. Hết phần trích . Chữ NHO mà người Hán phải phiên thiết mới đọc được thực là lạ ...ngộ nghĩnh hơn là phải phát âm theo giọng đọc của Bách Việt mới chính xác . Điều này tưởng nhỏ nhưng thực sự không nhỏ chút nào ...vì chính nó giúp xác định Trung hoa xưa là người Bách Việt ở Hoa nam , văn minh Trung hoa là văn minh Việt người Hán Hoàng hà chỉ ‘ăn theo’mà thôi ,nhưng về sau họ chiếm đoạt luôn biến người Việt thành kẻ ăn nhờ ở đậu như thiên hạ đang tưởng . Người Hán không chỉ phiên thiết để đọc chữ Nho mà họ đã ứng dụng tạo từ để dịch những từ nước ngoài mà bản thân Hán văn không có chữ đây là điều mới . Vận dụng phép phiên thiết bỗng hiểu ra nhiều điều bất ngờ và thú vị : Nước India ngày nay được cổ thư Trung hoa gọi là nước ‘Đại Thực’ chính xác phải đọc là đại THỤC biến âm của từ Thụt tiếng Việt , bên đông là Dâng nghĩa là mặt trời lên Hoa ngữ là dương , bên tây mặt trời thụt xuống biến âm hoa ngữ là thiệp. Từ Thục phiên thiết Hán văn là : -Thiên Trúc thiết là Thúc đọc thành Thục . -Thận độc thiết là Thộc cũng đọc thành Thục . Tên nước Thiên trúc - Thận độc ...cả về nghĩa và thanh đều không liên quan gì đến india .... Thì ra người Trung hoa gọi nước India là nước lớn phía tây ....chỉ đơn giản thế thôi . Sau 1 chút dành cho ngôn ngữ học mời bạn đọc cùng xem Bản đồ Đại Việt nam trước thời Pháp thuộc . Bản đồ trên chỉ ra : Toàn bộ Miền Trung và hạ Lào nằm trên cao nguyên AN NAM , tất cả nằm trong lãnh thổ Đại Việt nam , tên quản hạt hành chánh các vùng là Trấn Ninh , Trấn Tĩnh ,Trấn Định ; trong các từ này :Trấn là đơn vị hành chánh , Ninh- Tĩnh - Định lấy nghĩa từ Dịch học là không thay đổi quẻ Ly chỉ phương tây ngược với Đông là động ., Trấn Ninh trấn Tĩnh trấn Định đều có nghĩa là trấn hay vùng lãnh thổ phía tây . Cực nam của cao nguyên An nam là tỉnh Champassak của Lào ngày nay , bằng vào tên gọi có thể đoán định trước đây nơi này là vùng đất của người Cham , thuộc lãnh thổ nước Champa . Tóm lại khi chia lại lãnh thổ 3 nước Đông dương Thực dân pháp đã cắt 1 phần lãnh thổ rất lớn phía tây Việt nam chuyển sang lãnh thổ Lào , với người Pháp đây là chuyện ‘lấy của làng làm ơn cho ông Xã...’ vô thưởng vô phạt đâu cũng là thuộc địa của Pháp ...nhưng việc này lại là tội ác vô cùng lớn đối với người Việt vì khi xoá bỏ chế độ thực dân trên bán đảo Đông dương các nước trên thế giới đã lấy bản đồ phân chia địa giới dùng cho mục đích quản lý hành chánh nội bộ Của nhà cầm quyền mà thực dân Pháp tự ý tự quyền phân chia không hề dựa trên nền tảng lịch sử để áp đặt cương giới lãnh thổ thực sự được quốc tế công nhận cho 3 nước Việt - Miên -Lào độc lập . Đây là 1 bất công lớn lao người Việt phải gánh chịu khi bước vào thế giới văn minh hiện đại , lãnh thổ mất trắng tính ra ít nhất cũng trên 100.000 km2 , cũng may vì sự vận động khách quan của lịch sử tất yếu sẽ dẫn đến 1 cộng đồng Đông nam Á , khi ấy lãnh thổ của các nước thành viên không còn là ‘của riêng ai’ , ai cũng là người Đông nam Á đất nào cũng là đất Đông nam Á cả nên người Việt kiên trì theo lời chỉ bảo của Dịch học ... “ bỏ cái nhỏ để được cái lớn ” , hành sử như thế không tạo can qua mà anh hồn tiền nhân những người đã lấy thịt xương chất thành cao nguyên An nam để lại cho con cháu cũng không phải tủi hổ . Giờ thì chẳng cần cổ thư Trung hoa , chỉ cần nhìn vào bản đồ cũng biết được quốc gia của người Việt trước đây là nước Lạc hay quốc gia Lạc . Nhiều nhà khoa học đã kiến giải : Lạc biến âm ngày nay là nước , lạc →nác →nước . , nước là yếu tố vật chất nền tảng tạo thành mọi sinh vật , nhưng với dịch học thì không dừng lại ở đấy mà nước chính là dịch tượng chỉ phương NAM , từ quốc hiệu “Lạc-Nước” 1 danh từ riêng về sau trong Việt ngữ Nước biến thành danh từ chung đồng nghĩa với từ bang , quốc trong Hoa ngữ . Nước Lạc đồng nghĩa với NAM BANG đã được nói đến trong những câu đối ở đền HÙNG là nhà nước của người Lạc Việt 1 chi của Bách Việt ; dòng tộc làm chủ miền đất phía nam sông Dương tử và Đông nam á từ thời thái cổ . - Bản đồ Đại nam trên chỉ ra : địa danh Lạc biên và Cam môn cạnh nhau đã xác định ranh giới nam Lạc và bắc Cam là Hoành sơn hay đèo Ngang , Cam môn nghĩa là cửa vào nước Cam xác định lãnh thổ nước Cam phía bắc bắt đầu từ chỗ này kéo dài về phía nam tới Cam ranh , Cam ranh chỉ nghĩa là ranh giới nước Cam ta có thể khẳng định nghĩa ấy vì cạnh Cam ranh là Phan rang , chữ rang là chữ viết sai đúng ra phải viết là Phan ranh cũng như chữ Cam ranh trước đây có tư liệu viết là Cam rang . Dựa trên thông tin chứa trong bản đồ tiền Pháp thuộc trên ta xác định : nước Việt nam ngày nay hình thành trên cái nền của 3 nước Lạc –Cam - Phan cũ và mất đi phần lãnh thổ rộng lớn ở phía tây bắc Việt . Một số điều mới biết : 1 / nước Lạc . - Nước Lạc ngoài phần lãnh thổ phía tây mới mất thời hậu thực dân trước đó cả 1 vùng rộng lớn ở phía bắc đã bị giặc Tàu cưỡng chiếm khi vua quan nhà Mạc ‘mãi quốc cầu vinh’, lãnh thổ phía bắc Đại Việt trước đây lên tới tận miền nam Quảng Tây và tây Quảng Đông ....xa hơn nữa thời Đại Việt - Đại Hưng ( người Tàu cố tình gây nhiễu đã biến đại Hưng ra Đại Hán )cả Quảng đông và Quảng tây đều là đất Việt với tên gọi Việt đông và Việt tây. Cổ sử nước Việt có 1 điều hoàn toàn mới và rất lớn : Tùy thư -Liệt truyện -Lâm Ấp Tổ tiên của Lâm Ấp, nhân có loạn người đàn bà Trưng Trắc ở Giao Chỉ cuối thời Hán, con của Công tào trong huyện là Khu Liên giết Huyện lệnh, tự hiệu làm Vương. Không có con, cháu ngoại của mình là Phạm Hùng nối tiếp lập, chết, con là Dật lập. Người Nhật Nam là Phạm Văn nhân loạn làm phó của Dật, rồi dạy xây cung điện, làm khí giới. Dật rất tín nhiệm, sai Văn cầm binh, rất được lòng dân chúng. Văn nhân đó tra hỏi con em của Dật, người thì chạy người thì trốn. Đến lúc Dật chết, nước không có người nối nghiệp, Văn tự lập làm Vương . Đọc đoạn sử trên ta không thể hiểu khác là khởi nghĩa Hai bà Trưng xảy ra vào cuối thời Đông Hán , đồng thời hay ngay trước thời điểm Khu liên giết huyện lệnh Tượng lâm và xưng vương . Khu Liên trong sử sách là tên gọi của quốc vương đầu tiên của Lâm Ấp, ngoài ra còn có các tên gọi khác như: Khu Quỳ, Khu Đạt hay Khu Vương. Người ta cho rằng ông lập ra vương quốc Lâm Ấp (sau này là Chăm Pa) năm 192 ...như thế Mã viện không thể hành quân dẹp “loạn người đàn bà Trưng Trắc ở Giao Chỉ” chiếm đất việt trong thời gian năm 39-42 như Việt sử và Hán sử đã chép . Thông giám tập lãm của triều đình nhà Thanh dọn lại các sách của Tư Mã Thiên, Ban Cố , Tư Mã Quang và Chu hy, làm năm 1768, cũng chép một đoạn trong đời Tần Thủy Hoàng rằng: “Năm Đinh Hợi (214 tr. T.C.)… nhà Tần lấy đất Nam Việt đặt Quế Lâm, Nam Hải, Tượng Quận…”. Dưới chữ Nam Việt chua “tức Bách Việt, cũng gọi là Dương Việt”; Nhiều ‘thư’ khác của trung hoa cũng cho Nam việt là Bách Việt ....phải chăng 9 quận Hiếu vũ đế chia đất Nam Việt như sử hiện nay chính là 9 phần đất của cả khối Bách Việt , nếu cho đấy là 9 quận của Nam việt thì sẽ lộ ra sự vô lý ở chỗ ...đảo Hải nam bao lớn , thời đó có được bao nhiêu dân mà chứa cả 2 quận Chu nhai và Đạm nhĩ của Trung hoa ? , cách đây chục năm , Hải nam vẫn chỉ là 1 huyện đảo của tỉnh Quảng đông mà thôi . Người Tàu với mưu đồ thoán đoạt lịch sử và văn minh Bách Việt đã tạo ra 1 mớ bòng bong các thông tin lịch sử thật giả lẫn lộn quấn chặt chồng chéo lên nhau cơ hồ không thể gỡ ra được . Dựa trên những thông tin mang trong chính tên các quận ta có thể xác lập Bản đồ 9 quận Trung hoa trên đất Hoa nam thời Hiếu vũ đế (Tây Hán ). - Giao chỉ là đất Lạc Việt xưa nay . - Lâm Ấp cũng là Uất lâm nay còn dấu là thành phố Uất lâm tỉnh Quảng tây . . - Cửu Chân thực ra là Cửu châu chỉ đất phía tây đồng nghĩa với Qúy châu . - Nhật nam là Nhất nam , nhất số 1 là dịch tượng chỉ nước cũng là chỉ phương nam không phải Nhật nam nghĩa là phía nam xích đạo . - Thương ngô là đất chính của nhà Thương cũng là nước Ngô thời Chiến quốc . - Hợp phố chỉ là biến đổi của Hợp phì thủ phủ của tỉnh An huy . - Hải nam hay Nam hải xưa nay vẫn là đất Quảng đông . - Chu nhai là Phúc Kiến ngày nay , vì sách xưa chép Chu nhai là đảo lớn sau này Đường triều đặt bộ tư lệnh hạm đội biển nam của Trung quốc . (sử Trung hoa cho Chu nhai là Đảo Hải nam ?). - Đạm nhĩ là tên Quận sau cùng nên đặt vào đất chưa có tên . Chính cổ thư Trung hoa đã xác nhận sự ấn định trên khi chép : Phù nam cách Lâm ấp 3000 lý , cách Nhật nam 7000 lý tức khảng gần 1500 km và 3500 km . Người Hán đã cố ý ép 9 quận của cả vùng đất Bách Việt rộng lớn dồn vào thành 9 quận đất Nam Việt của Triệu Đà ; Cửu châu biến thành Cửu chân , Uất lâm hay Lâm uất thành Lâm ấp , Nhất nam thành Nhật nam , Hợp phì thành Hợp phố .v.v .Cố ý gây nhiễu loạn lịch sử để không người nào còn có thể nhận ra cuộc khởi nghĩa Hai bà Trưng chính là khởi nghĩa Hoàng cân đã diễn ra trên toàn cõi Hoa nam , điều này cũng nghĩa là không có thời bắc thuộc lần thứ nhất như sách sử đang lưu hành , chính cuộc hành binh do Mã Viện chỉ huy mới đặt nước Việt vào vòng nô lệ . Việc thay đổi 9 châu làm nhiễu loạn lịch sử không phải là lần đầu , trước đó những người muốn ‘bẻ cong bẻ quẹo’ lịch sử đã thủ tiêu đi quận Tam xuyên của nhà Tần , thủ pháp rất đơn giản ...thay tất cả tên Tam xuyên trong sách sử địa Trung hoa sau đời Tần bằng tên Tượng quận mặc cho Ung thành thủ phủ quận Tam xuyên vẫn còn đứng đấy (nay là thành phố Nam ninh.), Tượng quận thực ở vùng Vân nam bị ‘hô biến’ thành huyện Tượng lâm nghĩa là 1 huyện ở tây Quế lâm ... Tất cả mọi sự chồng chéo đổi thay ....là do hàng chữ không thể tẩy xoá : Tần lấy đất 2 nhà Chu lập quận Tam xuyên...trong Sử ký Tư mã Thiên mà thôi . 2 / nước Cam . Nước Cam viết theo Phạn ngữ là Campanagara là nhà nước của người Hời cổ sử Việt gọi là Hồ tôn , Hồ và Tôn là những Dịch tượng chỉ hướng Xích đạo ; Hồ là quẻ Đoài , Tôn là can Tân của Thập can , qua Cam môn 1 quãng suôi về nam là tới thành phố Đồng Hới ...rõ ràng đây là tên tiếng Việt nhưng bản thân người Việt cũng không hiểu địa danh ấy mang ý nghĩa gì ....thưa ...nếu phát âm theo đúng giọng Bình trị thiên là Động Hời thì ra nghĩa chính xác ngay, động là đơn vị hành chánh việt nam thời xưa , Hời ở đây là người Hời sách vở Trung hoa phiên âm thành Hu hay Ho . Vua Hồ tôn hay Hồ Tân gọi là Lang Tân hay Tân lang (lang là vương) , nếu viết bằng Hán văn thì Tân lang đồng âm với tân lang nghĩa là cây cau...;vì vậy nước Cam còn được biết đến dưới tên dân gian là Chàm cau ....sách vở Tàu ghi là Tân lang tộc . - Ghi nhận : Người Việt xưa đã gọi và ghi chép 1 cách chính xác tên nước CAM trên bản đồ không dùng tên theo Hoa ngữ là Chiêm thành hay Chiêm bà. Phiên thiết Hán văn cho ta : Chiêm bà thiết là CHÀ , Chà Biến âm thành Trà còn lưu dấu trong các địa danh như Trà bồng đặc biệt là kinh đô Trà kiệu của Chiêm thành , nhiều người vẫn lầm lẫn khi cho cụm từ : ‘Chà già ấn độ’ là chỉ người nước India thực ra cụm từ này chính xác là ‘Java-Indo’ tức chỉ đảo Java nước Indonesia ngày nay , rất có thể CHÀ là tên người Việt gọi chung những người thuộc loại hình nhân chủng Nam đảo hay indonesien . Từ Chà ngoài ‘Trà’ còn có các biến âm khác như : Đà trong địa danh Đà nẵng , (chữ Đà này hán văn phiên thiết là Đồ bà ). Rất có thể Chà còn biến âm thành Sa trong địa danh Sa Huỳnh và tên 2 quần đảo Trường Sa- Hoàng sa , Huỳnh là từ thay thế cho Hoàng do kỵ húy chúa Nguyễn Hoàng , Sa hoàng là chúa hay vương của người Chà nghĩa rất rõ . Tân Đường thư viết : người Lâm ấp ưa đạo ‘phù đồ’...suy mãi mới ra : -Phù đồ thiết là Phồ Hán Việt đọc là Phật . Phật gíao đã du nhập vào Trung hoa từ đầu công nguyên , chắc trong Hoa ngữ từ Phật phải có lâu lắm rồi vậy mà sao mãi tới đời Đường còn gọi là đạo Phù đồ ... Thực Trung hoa luôn kỳ bí , khi tìm ra sự độc đáo này người viết vẫn đang tự hỏi ...tại sao ? Liên quan tới lâm ấp -Chiêm thành còn nhiều điều chưa hiểu nổi như chép trong: Chư phiên chí -Bắc Tống - Nước Chiêm Thành - Triệu Nhữ Thích chép : Chiêm Thành , phía đông đi biển đến Quảng Châu, phía tây tiếp Vân Nam , phía nam đến Chân Lạp, phía bắc đến Giao Chỉ, thông Ung Châu . Từ Tuyền Châu đến nước này theo chiều gió đi thuyền hơn hai mươi trình. Đất này đông tây 700 dặm, nam bắc 3,000 dặm. Kinh đô nước này gọi là Tân Châu, tức là tên huyện trấn.. Cứ theo sách này thì Chiêm thành có lẽ gồm cả đất Xiêm la ...? hay 2 tên là 1... Xiêm nào cũng là Xiêm ...? - Về quốc hiệu Lâm ấp trong sách vở trung hoa xin đưa ra 2 giả thuyết : - Thứ 1- Lâm ấp là chữ viết sai của LAM ÁP. Lĩnh nam trích quái phần chuyện Nam Chiếu cho biết : vùng đất từ cửa Thần phù tới Hoành sơn tức đồng bằng Thanh Nghệ Tĩnh có tên là Lâm An , Lâm là chữ ký âm sai của Lam viết tắt của Thanh lam tên gọi đất Thanh hóa trước đây , An là gọi tắt của Nghệ an , Lam áp nghĩa là phần đất sát với đất Lam tên gọi tắt của vùng Thanh nghệ tĩnh , đối chiếu với bản đồ trên ta nhận ra Lam áp chính là lãnh thổ nước Cam của người Hời . - Thứ 2 - Lâm ấp thực ra là Ấp lâm . Ấp lâm thiết là ÂM đọc thành Ân –Yên chính là nước Yên thời chiến quốc . Biến cố lịch sử ở Lâm uất hay Uất lâm đem trộn lẫn với những sự kiện xảy ra ở Lâm ấp tức nước Yên thành mớ bòng bong ....nên cột đồng Mã Viện có ‘thư’ viết là ở nam Quảng Tây ‘thư’ khác lại cho là ở biên giới Giao chỉ và Cham pa ...2 nơi cách nhau bằng cả chiều dài Lạc Việt ... Xin chép lại 1 phần trong bài viết về Hùng triều thứ 15 –Hùng Định Chân lang . Sử ký của Tư Mã Thiên, truyện Tần Thủy Hoàng có đoạn nói rằng: “Thủy Hoàng… chiếm lấy đất Lục Lương, đặt làm Quế Lâm, Tượng Quận, Nam Hải”. Dưới chữ Tượng Quận có chua sáu chữ nhỏ là: “Vi Chiêu viết, kim Nhật Nam”, nghĩa là Vi Chiêu cắt nghĩa Tượng Quận đời Tần tức là Nhật Nam đời Vi Chiêu. (Sử ký; Tần Thủy Hoàng bản kỷ, q.6, tờ 3a). Như thế Tượng quận tức đất Nhật nam là miền trung Việt ngày nay cũng chính là lãnh thổ nước Cam . Nhưng : Thông giám tập lãm của triều đình nhà Thanh dọn lại các sách của Tư Mã Thiên, Ban Cố , Tư Mã Quang và Chu hy, làm năm 1768, cũng chép một đoạn trong đời Tần Thủy Hoàng rằng: “Năm Đinh Hợi (214 tr. T.C.)… nhà Tần lấy đất Nam Việt đặt Quế Lâm, Nam Hải, Tượng Quận…”. Dưới chữ Nam Việt chua “tức Bách Việt, cũng gọi là Dương Việt”; dưới chữ Tượng Quận chua “đất ấy rộng xa, nay phủ Liêm, phủ Lôi, tỉnh Quảng Đông, phủ Khánh Viễn, phủ Thái Bình, tỉnh Quảng Tây và cả nước An Nam” (Ngự phê thông giám tập lãm, q.11, tờ 6b) Học giả Cát Kiếm Hùng có ý kiến tương tự về vị trí Tượng quận là ở phía tây Quảng Tây. Vậy là Tượng quận không dính gì đến Nhật nam mà ở xa về phía bắc tuốt Quảng đông Quảng tây . Kỳ quái nhất là : Cựu Đường Thư, một đàng tin Tượng Quận là Nhật Nam đời Hán, mà di tích hãy còn gần Nhật Nam tức lãnh thổ nước Cam , còn một đàng lại cho cho An Nam đô hộ phủ đời Đường thuộc về Tượng Quận như thế lại là đất Lạc Việt ...? - Thực càng đọc ...càng rối cứ như là các triều đại Trung quốc là các nước khác nhau không liên thông tiếp nối chi cả mỗi nước có sách sử riêng mà đôi khi thông tin mang trong các ‘thư’ chửi bố nhau và hoàn toàn phi lý như việc nhà Tần đánh Nam Việt năm -214 lúc đấy lấy Nam Việt ở đâu ra mà đánh ....vì mãi tới năm -207 Triệt đà mới xưng vương và đặt tên nước là Nam Việt ... ; cả 1 Tượng quận của Tần to lớn đến thế mà mãi tới tận hôm nay các sử gia Trung quốc vẫn đang đi tìm ....chưa rõ ‘nó’ nằm ở đâu thì thật là bất thường , địa lý Trung quốc mà còn thế huống hồ gì các nước ngoại biên thí dụ như Chiêm thành – Nhật nam dẫn ở trên . Sử Việt có sách cho Lâm ấp là vùng Bình Trị Thiên như thế nước Lâm ấp cắt đôi đế quốc Tàu chia tách hẳn 2 quận Cửu chân và Nhật nam .... liệu người Tàu có để cho sự việc xảy ra hay không ? hơn nữa làm sao mà miền cực nam quận Nhật nam lại ở đấy ? phải là cực bắc chứ ? Có sách lại cho Lâm ấp –Tượng lâm là vùng Bình định Phú yên của Việt nam hiện nay , điều này không có sách vở nào ghi cả ... 3 /- nước Phan . Phía nam nước Cam là nước Phan ...quốc danh chưa từng ghi nhận trong lịch sử nhưng lại được xác nhận rõ ràng trên bản đồ Việt nam bằng địa danh Phan rang tức Phan ranh tức ranh giới nước Phan .. Dùng phép Phiên thiết của người Hán thì nhận ra : Phù nam thiết đọc thành Pham . Pham biến thành Phan và Phạm ... Phan là tên nước , Phạm là họ của vua nước Phan . Có người kiến giải : Pham là phiên âm một từ gốc Khmer và Nam Đảo là PHUN, PHỎM, chỉ người đứng đầu- thủ lĩnh- vua , điều này tương tự như từ Hãn biến thành Hán ; Hãn quốc biến thành nước Hán người Hán vậy , từ Phạm nghĩa là vua rất hữu lý khi rất nhiều vua Lâm ấp-Chiêm thành và Phù nam mang danh hiệu có chữ đầu là Phạm ...; như vậy : Phạm phật nghĩa là vua tên Phật , phạm Hùng là vua tên Hùng ...v.v.. Về Sự liên hệ giữa Phù nam và Chân lạp thì nhiều sách hiện nay cho đó là 2 nước nhưng nếu phân tích dựa trên truyền thuyết bà chúa Phù nam là Liễu diệp sau khi chiến bại phải lấy Hỗn Điền và nhường ngôi cho chồng làm vua từ đó tên nước Phù nam đổi thành Chân lạp . Theo Sử Phù nam thế kỷ thứ IV có vì vua gọi là Thiên trúc Chiên đàn . Nếu dùng phép phiên thiết Hán văn thì : Chiên đàn thiết là chàn có thể đọc là chân Liễu diệp thiết là liệp - lạp . qua phiên thiết Hán văn thì cặp đôi : Chiên đàn – Liễu diệp trở thành tên nước Chân lạp . Xét như vậy thì Chân Lạp chỉ là tên khác của Phù nam trong thời kỳ ‘bị’ 1 ông vua người India cai trị mà thôi chứ không phải là 2 nước khác nhau . Ngoài 3 nước đã bàn trên , xếp vào phía nam Giao chỉ cổ thư Trung hoa còn 1 nước nữa xưa nay chưa nghe nói đến . Theo Ngô thư thì vào tháng chạp năm Xích Ô thứ sáu (243), Vua Phù Nam là Phạm Chiên sai sứ dâng nhạc công và phương vật. Sau đó, khi đánh chiếm Giao Châu và Cửu Chân, Vua Ngô đã sai người đến các nước phương Nam, Vua các nước Phù Nam , Lâm Ấp và Minh Đường đều sai sứ dâng cống. Minh đường là nước nào ? Minh đường thiết là...Mường . Tên gọi nước Mường chỉ rõ là 1 nước của giống Việt ...vậy mà xưa nay người Việt không hề biết . Phải chăng đó là nước của Đoài lang vương mà Lĩnh nam trích quái phần chuyện Nam Chiếu viết sai thành Đào lang vương ? , phương Đoài là phương tây nước Đoài lang nghĩa là quốc gia của vua phía Tây ( lấy đất Đất giao hay đất ‘giữa’làm chuẩn ), Hoặc Cổ sử Trung hoa có nói đến 1 nước ở phía tây tên là Đốn Tốn lãnh thổ trải dài từ biên giới Thiên trúc tới Giao chỉ ? - Còn Theo sử thuyết họ Hùng thì phía tây Giao chỉ đất của thiên tử là nước Lỗ phong Chu công ? Rất có thể chỉ là những tên khác nhau của 1 nước đã được ghi chép bởi những dòng sử khác biệt . - Để có thể làm sáng tỏ những gì đã xảy ra trong quá khứ tức Lịch sử ở vùng đất đông nam Á cầm chắc còn phải tốn rất nhiều công sức và thời gian . Việc có thể làm ngay để tỏ lòng tôn kính tiền nhân là trong các văn bản sử địa người Việt từ nay chỉ dùng tên Việt ngữ đúng như cha ông ta đã làm không dùng những tên phiên thiết Hán văn nữa . 4 people like this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 9 Tháng 11, 2010 Sử ký : Hán và Hoa. Trung hoa nổi tiếng với Vạn lý trường thành , tuy gọi chung 1tên nhưng thực ra nó được xây dựng ở nhiều thời khác nhau chủ yếu là thời Tần và thời Minh , dưới đây là : Vạn lý trường thành thời Tần Sử ký viết khi Tần thủy hoàng lên ngôi thì : ...Đất đai chạy dài phía đông đến biển và đất Triều Tiên, phía tây đến Lâm Thao, Khương Trung, phía nam đến miền cửa nhà quay mặt quay mặt về hướng bắc (15), phía bắc lấy Hoàng Hà làm biên giới và men theo Âm Sơn đến tận Liêu đông . Thông tin trong Sử ký xác định biên giới phía Nam và Bắc đế quốc Tần là qúa rõ ràng, miền ‘bắc hộ’ ở đâu ta đã biết còn nghĩa của câu “phía bắc lấy Hoàng Hà làm biên giới” cũng rõ nghĩa không thể bẻ cong bẻ quẹo được . Cũng Sử ký viết : “Năm thứ 33, Thủy Hoàng đưa những người thường trốn tránh, những người ở rể và những người đi buôn đánh lấy đất Lục Lương ( Lục dương – Lạc dương ?), lập thành Quế Lâm, Tượng Quận, Nam Hải cho những người bị đi đày đến đấy canh giữ. Ở phía tây bắc, đánh đuổi Hung Nô từ Du Trung dọc theo sông Hoàng Hà đi về đông đến Âm Sơn tất cả 31 huyện, xây thành trên sông Hoàng Hà để làm giới hạn,. Lại sai Mông Điềm vượt sông Hoàng Hà lấy đất Cao Khuyết, đào Sơn, Bắc Giả, xây đình và thành lũy ở đấy để đuổi người Nhung và đưa những người bị đày đến đấy để ở và lần đầu những nơi này trở thành huyện. Cấm không được thờ (20). Sao sáng (21) xuất hiện ở phương tây.” Nhìn vào hình trên căn cứ vào vị trí của Hoàng hà và trường thành thì vùng đất Mông Điềm vượt Hà chiếm được và lập các huyện mới chỉ có thể là Hà bắc –Sơn tây ngày nay, đây là vùng đất cổ Sử Trung quốc gọi là Hà nam nghĩa là phía nam Hoàng hà , cũng gọi là Hà sáo , sáo là biến âm của xíu nghĩa là nước cũng chỉ phương nam theo Dịch học ; điều này thực là ngược ngạo không hiểu nổi vì ai cũng biết ...vùng Sơn tây –Hà bắc rõ ràng là ở bờ bắc Hoàng hà ? , đây không phải là 1 sự lầm lẫn vì lịch sử Trung hoa về sau còn nhiều lần nói đến việc Hung nô xâm lấn đến vùng đất Hà nam ( không phải tỉnh Hà nam ngày nay ) này ...không lẽ phương bắc –nam nay đã lộn ngược ? giới sử học Trung quốc còn có ý kiến kỳ cục hơn khi cho Hà sáo là vùng bắc thiểm tây là đất Mông cổ ngày nay ...thưa các vị ; các ông đã quên mất vạn lý trường thành là biên giới giữa đất của Trung hoa và Hung nô ....không lẽ nhà Tần khi xây trường thành đã đem vùng Hà Sáo bỏ ra ngoài ...biếu không cho Hung nô ? ở bắc tỉnh Thiểm tây thì Hoàng hà chạy sát chân Trường thành nên không thể có đất Hà sáo nằm phía nam trường thành bắc Hoàng hà được . Nhìn kỹ hình trên còn có nhiều thông tin khác ...khó chấp nhận như : phía đông của vùng đất giữa Hoàng hà và Trường thành gọi là Liêu đông ...mà quy luật chung hễ có Liêu đông ắt phải có Liêu trung và Liêu tây...tóm lại cả vùng này là đất Liêu hay đất của người Liêu - nước Liêu...?, phải chăng là nơi mà Sử thuyết họ Hùng gọi đích danh là nước Quan - Liêu tức Nam Liêu ; cũng là nơi mà Quan vũ ( Hán sử gọi là Hán quang vũ đế ) lập Đông hãn quốc ..., vì muốn .. lập lờ đánh lận con đen các sử gia Hán tộc đã tạo ra cả một mặt trận ‘chữ nghĩa’; quan là dịch từ nhìn –nom của tiếng Việt cũng chính là chỉ phương nam , vũ là ký âm từ ‘vua’ , quan vũ nghĩa là vua đất phía nam Trung hoa ; khi biến quan thành quang rõ ràng họ đã cố ý thủ tiêu nguồn gốc của vua nước Đông Hán ...lập lờ biến thành vua nhà Đông hán nước Trung hoa ; cũng chính từ ‘ quan-nom’ này đã tạo ra ‘quan phương - sóc phương’ nghĩa là phương nam và phương bắc , sóc nguyên thủy là biến âm của từ xích –màu đỏ , sất –số 7 chỉ hướng xích đạo theo Dịch lý...về sau lộn ngược lộn suôi thế nào...cả quan và sóc đều là phương bắc ngày nay ... thế mới kỳ . Với Từ ‘Liêu’ còn nhiều thông tin lịch sử khác ...; Liêu nguyên thủy là từ LU tiếng Việt nghĩa là ‘mờ’ phản nghĩa với ‘tỏ’ , mờ –tối - đen – lạnh ...là những dịch tượng chỉ phương nam hay phương của nước - hành thủy mang ý nghĩa khoa học chứ không coi khinh ai cả . -Lu→Liêu→người Liêu - nước Liêu. Liêu→họ Lưu của hoàng tộc Hán quốc như Lưu Huyền , Lưu Tú... Liêu –Khiết đan - Hán chỉ là những tên gọi khác của 1tộc người ; Liêu cũng là Khiết đan thì ai có đọc sử Trung quốc đều biết ...thời Trung đại họ lập nên 1 quốc gia mà ba hồi gọi là khiết đan , bốn hồi gọi là Liêu ...năm hồi lại gọi là Khiết đan ... Sự liên quan Khiết đan – Hán nhận ra được nhờ sự phiên thiết Hán văn . Thành cát tư Hãn phương tây ký âm La tinh là Genges Khan , khan và Hãn nghĩa là vua trong ngôn ngữ Mongoloid . -khiết đan thiết là khan. -khả hãn thiết là khan . Hán văn đơn âm hóa thành Hãn ,. Hãn nghĩa là vua ; nước của hãn là Hãn quốc , quân của hãn là Hãn quân - hãn →hán ; khi khả hãn Lưu Tú chiếm cả thiên hạ thì bỗng chốc ...Trung hoa biến thành Hán quốc .... Tóm lại trừ mỏm đất nhỏ cực bắc tỉnh Hà nam ngày nay biên giới Trung hoa thời tiên Tần không vượt qúa về phía bắc Hoàng hà , miền này là đất của giống Khiết đan – Liêu – Hán sau này là nơi Lưu Tú dựng Đông hãn quốc và cũng chính là đất gốc của nước Liêu hay Đại Liêu làm chủ cả vùng đất mênh mông bắc Hoàng hà thời trung đại , các tộc mông cổ – Mãn kim đều là chư hầu của họ . Hoa và Hán là 2 giống người khác hẳn nhau , về mặt nhân chủng :1là người tiểu chủng Mongoloid ; 1thuộc tiểu chủng nam Mongoloid , văn hóa văn minh cũng khác hẳn nhau , địa vực sinh trú thời cổ xưa khi hình thành dòng tộc cách nhau đến gần vạn dặm ...vậy mà dưới sự phù phép của các tay phù thủy chăn ngựa bỗng chốc Hoa và Hán biến thành một ...thật là ...thần kỳ . Xin hỏi các vị có ai được sinh ra 2 lần không mà các vị nói Trung hoa có tới 2 cái nôi..., 1là Hoàng hà 2 là Trường giang ? đấy chỉ là sự che đạy vụng về để chữa cháy khi khoa học ngày càng tiến bộ đã phơi bày sự thật về các tộc người trên đất Trung quốc ngày nay . Ta trở lại với Sử ký : “...Tháng mười năm thứ 37 (211 trước công nguyên) ngày quý sửu, Thủy Hoàng đi chơi, Tả thừa tướng Lý Tư đi theo, Hữu thừa tướng Khứ Tật ở nhà. Hồ Hợi, con nhỏ của Thủy Hoàng, được nhà vua yêu mến xin đi theo, vua bằng lòng. Tháng 11, đi đến Vân Mộng, tế vua Thuấn ở núi Cửu Nghi, đi thuyền qua sông Trường Giang xem Tích Kha vược qua bãi ngoài biển, qua Đan Dương ñến Tiền đường, đi đến Chiết Giang gặp lúc sóng to nên đi về phía tây một trăm hai mươi dặm, qua sông ở nơi dòng sông hẹp, lên Cối Kê tế vua Vũ, nhìn ra biển Nam Hải khắc công đức nhà Tần ...” Tư liệu lịch sử khác chép : Đế Thuấn : 2233-2184 trước CN Theo truyền thuyết, “....vua Thuấn đi tuần thú đất Thương Ngô ở miền sông Tương không may bị bệnh chết. Hai người vợ là Nga Hoàng và Nữ Anh (con vua Nghiêu) đi tìm vua đến bên sông Tương, ngồi bên bờ sông khóc lóc thảm thiết rồi trầm mình tự tử...”. Đầm Vân mộng – sông Tương nằm trên đất Hồ nam ngày nay là địa bàn sinh trú của Bách Việt từ hồi nảo hồi nào, đây là đất của người Nam Môngoloid mà vào thời đó thì người Hán chưa hề đặt chân tới nên đế Thuấn không thể nào là người Hán được , sử Tàu cũng công nhận đế Thuấn là người Đông Di...hệ qủa của điều này là đế Nghi bố vợ của đế Thuấn cũng không thể nào là người Hán được vì Hoàng hà và Trường giang còn hoàn toàn cách biệt . Đế Thuấn truyền ngôi cho Hạ vũ tổ của nhà Hạ , sử Hán viết Hạ vũ hội chư hầu ở Cối kê và sau này ông cũng được con cháu dành riêng mảnh đất ấy để thờ phụng , Cối kê thuộc Triết giang ngày nay cũng là đất của Bách Việt chủng Nam mongoloid , Âu Đại Nhậm trong Bách Việt tiên hiền chí cũng viết vua đại Vũ là người Việt...như vậy ‘chủng tính’ của vua VŨ đã qúa rõ khỏi phải bàn nữa , căn cứ vào đoạn văn : “lên Cối Kê tế vua Vũ, nhìn ra biển Nam Hải khắc công đức nhà Tần” thì Cối kê nơi thờ vua Vũ không phải là Cối kê ở Triết giang ngày nay vì nơi này quay ra biển đông Trung hoa không có chỗ nào của đất ấy nhìn ra Nam hải cả ... Từ Thần thoại thủy tổ Bàn cổ là của dân MAN phương nam đến vua Nghiêu vua Thuấn và cả Đại vũ đều đã xác định là người nam Mongoloid tức Bách Việt về sau như thế đã đủ thông tin để khẳng định Trung hoa không phải là của người Hán mà là của người Bách Việt hơn nữa còn có các thông tin bổ chứng khác : - Cả 30 vua nhà Thương và Thương Ân đều được gọi tên theo ‘thập can’ mà cả 10 phần tử của thập can đều là từ Việt hay Nôm ( Dịch học họ Hùng ) cho nên các vua nhà Thương chắc là người Bách Việt ; không thể nói khác được . - Chính Hán sử cũng nhìn nhận nhà Chu là Tây Di tức không phải là Hán . Kết luận : lịch sử và nền văn minh Trung hoa là của tộc người nào đã qúa rõ : từ Thủy tổ Bàn cổ đến Đường-Ngu lưỡng thánh và cả tam đại Hạ -Thương – Chu đều là người nam Mongoloid tổ của dòng Bách Việt thì Hán tộc -Hoàng hà đâu có dính giáng gì với Trung hoa hay chính xác phải gọi là ‘Thiên hạ’, người viết bài này không dám gọi ngược chính Hán mới là Man-Di vì nền văn minh Hoàng hà là nền văn minh hình thành rất sớm và không kém phần rực rỡ , đó mới là văn minh Hán tộc hoàn toàn không liên quan đến Lịch sử và văn minh Trung hoa . Đã đến lúc Người Hán nên nghiêm túc viết lại lịch sử của dân tộc mình đừng mãi ... “mập mờ đánh lận con đen” tháp nối vào lịch sử Trung hoa làm chi cho mang tiếng mang tăm ....với đời và tệ hại hơn nữa là khiến con cháu dòng Hán không biết đích xác về tổ tông của mình ; hàng ngày hàng năm cúng ai vái ai cầu khẩn cùng ai ? *Ghi chú : Hình sử dụng trong bài lấy từ internet. Tứ Di. Đồ Hình ngũ sắc và tứ phương . Người Hán nhận mình là Trung hoa nghĩa là họ tự cho mình là dân tộc trung tâm và văn minh nhất thiên hạ còn lại các dân tộc khác ở bốn phương thường gọi là tứ di , Di nguyên thủy là biến âm từ chữ nhì hay nhị có nghĩa nôm na là dân hạng hai so với dân trung quốc là dân hạng nhất . Tứ Di là : - nam Man . - bắc Địch . - đông Di . - tây Nhung. Ngoài tứ di Cũng có tên gọi khác chỉ chư hầu 4 phía như tác gỉa Lê Giảng trong sách ‘các triều đại Trung hoa’ xuất bản tại VN năm 2002 viết : nhà Thương –Ân có 4 thuộc quốc : - phía nam là nước Quang .( chính xác phải là nước Quan ) - phía bắc là nước Thao. - phía đông là nước Từ. - Phía tây là nước Chu. Lần lượt ta điểm mặt tứ Di ở 4 phương xem họ là ai . 1 - Nam Man : Theo Ngũ sắc của nền văn minh Dịch lý thì : phương Bắc hiện nay màu đen , tiếng Việt có từ mun đồng nghĩa với đen , bản thân từ mun là 1 sắc màu không nhằm khinh khi miệt thị ai nhưng Hán tộc đã dùng nó chửi người khác là ...kém văn minh khi biến mun→man . Nhiều tộc người phía bắc Trung quốc hiện nay được các đấng con trời gán cho chữ Man : Man →mông hay Mông cổ . Man→Mãn hay Mãn thanh . Man→Mỉn chỉ nhà Minh (minh nghĩa là tối) . Ngoài hệ màu những Dịch tượng khác chỉ phương nam cũng được vận dụng : Lu là mờ ngược với tỏ biến thành Liêu chỉ người Liêu . Lu biến thể thành họ Lưu của vua chúa Hán tộc . Kăm nghĩa là lạnh –rét (rét kăm kăm ) biến âm thành Kim chỉ người Kim nước Kim . So chiếu với màu của tứ phương theo Dịch học thì có ‘nam Man’ hay ‘nam mun’ nghĩa là phương nam màu đen điều này ngược hẳn với phương hướng hiện nay , theo phương hướng hiện nay phải gọi là bắc man ... Nước Quang là thuộc quốc phương nam phải sửa thành nước Quan thì mới thấy được tên các phụ quốc nhà Thương cũng chính là tên gọi 4 phương , quan là chuyển ngữ từ ‘nhìn-nom’ trong tiếng Việt cũng là chỉ phương nam . - nom→nôm→nam .( chữ Nôm ; còn biến thành Nồm như gió Nồm tức gió nam) 2 - Bắc Địch . Lục tìm trong sử Tàu thì chỉ có duy nhất rợ Xích Địch ngoài ra không thấy rợ Địch nào khác . Xích là màu đỏ khớp đúng với màu đỏ của ngũ sắc Dịch học chỉ hướng xích đạo ; có điều lạ vì nó ...ngược với thực tại , hướng xích đạo ngày nay là hướng nam nhưng sách tàu lại viết là ...bắc Địch . Xích Địch ═ bắc Địch > hướng màu đỏ là hướng bắc hoàn toàn đúng với Dịch học nhưng lại ngược với phương hướng hiện nay...hướng Xích đạo là hướng nam . Thuộc quốc phía bắc nhà Thương là nước Thao , Thao là biến âm của thiêu - đốt , hướng Xích đạo là hướng nóng thuộc hành Hỏa - qủe Ly - màu đỏ nên quốc gia ở đấy gọi là nước Thiêu – đốt , truyền thuyết lịch sử Việt gọi là Hồng bang ,Xích địch có thể là tên người nhà Thương gọi dân nhà Hạ là triều đại mà họ đã đánh đổ trước đây, đất trung tâm nhà Hạ cũng chính là nơi lập quốc của Triệu Đà hay Triệu Tha , Đà và Tha là Viết sai chính xác là Đào và Thao hay Thiêu , Triệu là biến âm của Chậu ngôn ngữ Thái –Lào , Chủ - Chúa trong tiếng Việt nam . Xét ý nghĩa chứa trong tên 2 rợ ‘nam man –bắc địch hay Xích địch ’ so chiếu với phương hướng hiện nay có thể khẳng định : hướng nam - bắc xưa đã bị lộn ngược . 3 - Tây Nhung. Nhà Chu đánh đổ nhà Thương nhưng không tận diệt , con vua Trụ được phong tước hầu và cho cai quản vùng kinh đô cũ nhưng phải chịu sự giám sát của 3 tông thất nhà Chu gọi là Tam giám ...thật bất ngờ Tam giám nhà Chu lại âm mưu cùng quý tộc cũ nhà Thương và đám rợ là Hoài Di –Từ Nhung nổi loạn chống lại nhà Chu..., sử viết Chu công phải đông chinh 3 năm mới dẹp yên . Thuộc quốc phía đông của nhà Thương cũng có tên là nước Từ . Theo Dịch học thì phương đông quẻ Khảm là phương của tình cảm , sự thương yêu giữa người và người đối phản với phương tây là phương của quẻ Ly chỉ lý lẽ , thương yêu trong tiếng Việt dịch sang Hán ngữ là từ ái . Phương đông trong Hán sử trở thành phương ...Từ ; nước ở phương ấy gọi là Từ quốc , rợ ở phương đông gọi là Từ nhung , việc đông chinh của Chu công đánh rợ Hoài di Từ nhung đã chỉ ra điều đó cụ thể hơn nữa còn cho thấy rợ Từ nhung là ở vùng sông Hoài nằm ở phía đông lãnh thổ Trung hoa . Người Tàu đã ...chữ tác biến ra chữ tộ...; từ→tây , rợ Từ nhung ở phương đông hóa thành tây nhung ...thì chỉ có trời mới hiểu .... Thời Tần gọi người bắc Hoàng hà là người Nhung ,Sử thuyết họ Hùng gọi họ là Quan –Liêu hay Nam Liêu , chính họ sau này thành dân của hoàng đế Quan vũ nước Đông hãn hay đông Hán ,ngoài Nam Liêu còn 2 chi khác là đông Liêu ở Sơn đông chính là rợ Từ nhung trong tứ di và tây Liêu bị Hung nô đuổi chạy tuốt về hồ Thanh hải ở phía tây trung quốc . Khi nói thuộc quốc phía đông là nước Từ cũng y như nói...thuộc quốc phía đông của nhà Thương là nước ‘phía đông’...đúng là chữ với nghĩa ...thực qúa sáng mà trở nên tối ... 4 - Đông di. Khi đã xác định Từ Nhung chính là đông Nhung thì đông Di buộc phải đổi là tây Di . Có sự Trùng khớp khá lý thú khi biết thuộc quốc phía tây của nhà Thương là nước Chu hay Châu , chính thuộc quốc Chu sau này đã diệt nhà Thương kiến lập triều đại Chu của Trung hoa , lý thú là ở chỗ người Hán gọi họ là rợ Tây Di , đúng y với tên gọi cộng đồng người mà thời trung - cận đại cũng vẫn gọi là Tây Di - Tây nam Di hay tên khác là Di –Lão ở Qúi châu và Vân nam . Thuộc quốc phía tây của nhà Thương là nước Chu , rợ phía tây trung quốc là Tây Di ; liên kết 2 thông tin ta được điều rất quan trọng : Thành phần chính của Dân nước Chu thời còn là thuộc quốc của nhà Thương là người Di hay Di lão cũng gọi là người La , sách Tàu gọi là Liêu tử ngày nay là người Kadai . Rợ tây bắc Trung quốc là Hung nô và Đột quyết . Phía tây là Chi và Khương . Tây nam là người Di hay Di lão , ngật Lão cũng là Khuất Lão-khuất Liêu. Xét qua những thông tin trên thì Địa bàn gốc của nhà Chu không thể nào là Thiểm tây được và nhà Chu cũng không thể nào có gốc Hung nô như 1số nhà nghiên cứu Trung quốc đã nêu ra . Theo những nghiên cứu gần đây thì người Di là tộc người cố cựu của vùng Quí châu Vân nam , họ đã có mặt ở đấy ít ra cũng hơn ngàn năm trước công nguyên . Văn vương là TÂY bá , nước phía tây là nước CHU , rợ phía tây là tây DI...liên kết chuỗi thông tin này rồi Căn cứ vào địa bàn sinh trú của người Di đối chiếu với những thông tin trong cổ sử Trung hoa và Việt nam có thể kết luận : Đất gốc của nhà Chu là Quí châu Trung quốc sau họ cường thịnh lên mở rộng lãnh thổ phía tây sang Vân nam ( cổ sử gọi là nước ‘Mật Tu’ là biến âm của ‘mặt TÂY’ trong tiếng Việt ) và phía nam đến miền bắc - bắc Trung Việt ngày nay ( Sử Trung hoa chép là nước Sùng ) ; miền đất rộng lớn này chính là lãnh thổ nước Văn Lang : bắc giáp Động đình hồ ,nam giáp nước Hồ tôn , tây đến Ba thục và đông giáp Nam hải trong truyền thuyết lịch sử Việt , vùng này sau trở thành đất Trung hoa ( nghĩa là trung tâm văn minh) của thiên hạ khi Chu Vũ vương lên ngôi Thiên tử kiến lập triều đại Chu ngàn năm , có thể nói không ngoa .... văn hoá văn minh Trung hoa rạng ngời như ngày nay chính là công của nhà Chu ( tứ thư - ngũ kinh linh hồn của văn minh Trung hoa ra đời ở thời này ). Thông tin trong bài này là sự kiện chứng cho những điều đã viết trong Sử thuyết ho Hùng : - Kiến lập triều Chu là Thục Phán sử Tàu gọi là Cơ Phát . - vua Tổ của nhà Chu là ông Cơ Xương tức Văn vương tiếng Việt là Văn lang( Lang ═ vương ═ thủ lãnh-vua) nên nước của Văn vương còn được gọi là nước VĂN LANG kinh đô ở Phong châu hay đất Phong , đất Phong thời nhà Thương Ân thuộc nước SÙNG ( sùng ═ cao) do các Sùng hầu cai quản trước sau có 5 đời chúa truyền thuyết dân gian Việt gọi là Ngũ vị tôn ông : Sùng Nghiêm - Sùng Tôn – Sùng Hoà –Sùng Quyền –Sùng Cầm hay Lãm , vị Sùng hầu sau cùng theo sử Việt là Sùng Lãm nhưng theo sử Trung hoa là Sùng hầu Hổ . - Trống đồng là Vật thể văn hóa tiêu biểu cho văn minh nhà Chu , nơi phát hiện trống xưa nhất và nhiều nhất cùng với những thông tin về Dịch lý chứa trong hoa văn trên mặt Trống đồng đã chỉ ra điều ấy ( Văn vương là 1 trong tứ thánh đã làm nên Dịch học ) Kết : Khi nói nhà CHU rạng rỡ cũng chính là nói : VĂN LANG huy hoàng ; vầng hào quang ấy dù có lúc tạm khuất nhưng chắc chắn không bao giờ tắt . 2 people like this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 22 Tháng 11, 2010 văn nhân said: Sử ký : Hán và Hoa. Trung hoa nổi tiếng với Vạn lý trường thành , tuy gọi chung 1tên nhưng thực ra nó được xây dựng ở nhiều thời khác nhau chủ yếu là thời Tần và thời Minh , dưới đây là : Vạn lý trường thành thời Tần Sử ký viết khi Tần thủy hoàng lên ngôi thì : ...Đất đai chạy dài phía đông đến biển và đất Triều Tiên, phía tây đến Lâm Thao, Khương Trung, phía nam đến miền cửa nhà quay mặt quay mặt về hướng bắc (15), phía bắc lấy Hoàng Hà làm biên giới và men theo Âm Sơn đến tận Liêu đông . Thông tin trong Sử ký xác định biên giới phía Nam và Bắc đế quốc Tần là qúa rõ ràng, miền ‘bắc hộ’ ở đâu ta đã biết còn nghĩa của câu “phía bắc lấy Hoàng Hà làm biên giới” cũng rõ nghĩa không thể bẻ cong bẻ quẹo được . Cũng Sử ký viết : “Năm thứ 33, Thủy Hoàng đưa những người thường trốn tránh, những người ở rể và những người đi buôn đánh lấy đất Lục Lương ( Lục dương – Lạc dương ?), lập thành Quế Lâm, Tượng Quận, Nam Hải cho những người bị đi đày đến đấy canh giữ. Ở phía tây bắc, đánh đuổi Hung Nô từ Du Trung dọc theo sông Hoàng Hà đi về đông đến Âm Sơn tất cả 31 huyện, xây thành trên sông Hoàng Hà để làm giới hạn,. Lại sai Mông Điềm vượt sông Hoàng Hà lấy đất Cao Khuyết, đào Sơn, Bắc Giả, xây đình và thành lũy ở đấy để đuổi người Nhung và đưa những người bị đày đến đấy để ở và lần đầu những nơi này trở thành huyện. Cấm không được thờ (20). Sao sáng (21) xuất hiện ở phương tây.” Nhìn vào hình trên căn cứ vào vị trí của Hoàng hà và trường thành thì vùng đất Mông Điềm vượt Hà chiếm được và lập các huyện mới chỉ có thể là Hà bắc –Sơn tây ngày nay, đây là vùng đất cổ Sử Trung quốc gọi là Hà nam nghĩa là phía nam Hoàng hà , cũng gọi là Hà sáo , sáo là biến âm của xíu nghĩa là nước cũng chỉ phương nam theo Dịch học ; điều này thực là ngược ngạo không hiểu nổi vì ai cũng biết ...vùng Sơn tây –Hà bắc rõ ràng là ở bờ bắc Hoàng hà ? , đây không phải là 1 sự lầm lẫn vì lịch sử Trung hoa về sau còn nhiều lần nói đến việc Hung nô xâm lấn đến vùng đất Hà nam ( không phải tỉnh Hà nam ngày nay ) này ...không lẽ phương bắc –nam nay đã lộn ngược ? giới sử học Trung quốc còn có ý kiến kỳ cục hơn khi cho Hà sáo là vùng bắc thiểm tây là đất Mông cổ ngày nay ...thưa các vị ; các ông đã quên mất vạn lý trường thành là biên giới giữa đất của Trung hoa và Hung nô ....không lẽ nhà Tần khi xây trường thành đã đem vùng Hà Sáo bỏ ra ngoài ...biếu không cho Hung nô ? ở bắc tỉnh Thiểm tây thì Hoàng hà chạy sát chân Trường thành nên không thể có đất Hà sáo nằm phía nam trường thành bắc Hoàng hà được . Nhìn kỹ hình trên còn có nhiều thông tin khác ...khó chấp nhận như : phía đông của vùng đất giữa Hoàng hà và Trường thành gọi là Liêu đông ...mà quy luật chung hễ có Liêu đông ắt phải có Liêu trung và Liêu tây...tóm lại cả vùng này là đất Liêu hay đất của người Liêu - nước Liêu...?, phải chăng là nơi mà Sử thuyết họ Hùng gọi đích danh là nước Quan - Liêu tức Nam Liêu ; cũng là nơi mà Quan vũ ( Hán sử gọi là Hán quang vũ đế ) lập Đông hãn quốc ..., vì muốn .. lập lờ đánh lận con đen các sử gia Hán tộc đã tạo ra cả một mặt trận ‘chữ nghĩa’; quan là dịch từ nhìn –nom của tiếng Việt cũng chính là chỉ phương nam , vũ là ký âm từ ‘vua’ , quan vũ nghĩa là vua đất phía nam Trung hoa ; khi biến quan thành quang rõ ràng họ đã cố ý thủ tiêu nguồn gốc của vua nước Đông Hán ...lập lờ biến thành vua nhà Đông hán nước Trung hoa ; cũng chính từ ‘ quan-nom’ này đã tạo ra ‘quan phương - sóc phương’ nghĩa là phương nam và phương bắc , sóc nguyên thủy là biến âm của từ xích –màu đỏ , sất –số 7 chỉ hướng xích đạo theo Dịch lý...về sau lộn ngược lộn suôi thế nào...cả quan và sóc đều là phương bắc ngày nay ... thế mới kỳ . Với Từ ‘Liêu’ còn nhiều thông tin lịch sử khác ...; Liêu nguyên thủy là từ LU tiếng Việt nghĩa là ‘mờ’ phản nghĩa với ‘tỏ’ , mờ –tối - đen – lạnh ...là những dịch tượng chỉ phương nam hay phương của nước - hành thủy mang ý nghĩa khoa học chứ không coi khinh ai cả . -Lu→Liêu→người Liêu - nước Liêu. Liêu→họ Lưu của hoàng tộc Hán quốc như Lưu Huyền , Lưu Tú... Liêu –Khiết đan - Hán chỉ là những tên gọi khác của 1tộc người ; Liêu cũng là Khiết đan thì ai có đọc sử Trung quốc đều biết ...thời Trung đại họ lập nên 1 quốc gia mà ba hồi gọi là khiết đan , bốn hồi gọi là Liêu ...năm hồi lại gọi là Khiết đan ... Sự liên quan Khiết đan – Hán nhận ra được nhờ sự phiên thiết Hán văn . Thành cát tư Hãn phương tây ký âm La tinh là Genges Khan , khan và Hãn nghĩa là vua trong ngôn ngữ Mongoloid . -khiết đan thiết là khan. -khả hãn thiết là khan . Hán văn đơn âm hóa thành Hãn ,. Hãn nghĩa là vua ; nước của hãn là Hãn quốc , quân của hãn là Hãn quân - hãn →hán ; khi khả hãn Lưu Tú chiếm cả thiên hạ thì bỗng chốc ...Trung hoa biến thành Hán quốc .... Tóm lại trừ mỏm đất nhỏ cực bắc tỉnh Hà nam ngày nay biên giới Trung hoa thời tiên Tần không vượt qúa về phía bắc Hoàng hà , miền này là đất của giống Khiết đan – Liêu – Hán sau này là nơi Lưu Tú dựng Đông hãn quốc và cũng chính là đất gốc của nước Liêu hay Đại Liêu làm chủ cả vùng đất mênh mông bắc Hoàng hà thời trung đại , các tộc mông cổ – Mãn kim đều là chư hầu của họ . Hoa và Hán là 2 giống người khác hẳn nhau , về mặt nhân chủng :1là người tiểu chủng Mongoloid ; 1thuộc tiểu chủng nam Mongoloid , văn hóa văn minh cũng khác hẳn nhau , địa vực sinh trú thời cổ xưa khi hình thành dòng tộc cách nhau đến gần vạn dặm ...vậy mà dưới sự phù phép của các tay phù thủy chăn ngựa bỗng chốc Hoa và Hán biến thành một ...thật là ...thần kỳ . Xin hỏi các vị có ai được sinh ra 2 lần không mà các vị nói Trung hoa có tới 2 cái nôi..., 1là Hoàng hà 2 là Trường giang ? đấy chỉ là sự che đạy vụng về để chữa cháy khi khoa học ngày càng tiến bộ đã phơi bày sự thật về các tộc người trên đất Trung quốc ngày nay . Ta trở lại với Sử ký : “...Tháng mười năm thứ 37 (211 trước công nguyên) ngày quý sửu, Thủy Hoàng đi chơi, Tả thừa tướng Lý Tư đi theo, Hữu thừa tướng Khứ Tật ở nhà. Hồ Hợi, con nhỏ của Thủy Hoàng, được nhà vua yêu mến xin đi theo, vua bằng lòng. Tháng 11, đi đến Vân Mộng, tế vua Thuấn ở núi Cửu Nghi, đi thuyền qua sông Trường Giang xem Tích Kha vược qua bãi ngoài biển, qua Đan Dương ñến Tiền đường, đi đến Chiết Giang gặp lúc sóng to nên đi về phía tây một trăm hai mươi dặm, qua sông ở nơi dòng sông hẹp, lên Cối Kê tế vua Vũ, nhìn ra biển Nam Hải khắc công đức nhà Tần ...” Tư liệu lịch sử khác chép : Đế Thuấn : 2233-2184 trước CN Theo truyền thuyết, “....vua Thuấn đi tuần thú đất Thương Ngô ở miền sông Tương không may bị bệnh chết. Hai người vợ là Nga Hoàng và Nữ Anh (con vua Nghiêu) đi tìm vua đến bên sông Tương, ngồi bên bờ sông khóc lóc thảm thiết rồi trầm mình tự tử...”. Đầm Vân mộng – sông Tương nằm trên đất Hồ nam ngày nay là địa bàn sinh trú của Bách Việt từ hồi nảo hồi nào, đây là đất của người Nam Môngoloid mà vào thời đó thì người Hán chưa hề đặt chân tới nên đế Thuấn không thể nào là người Hán được , sử Tàu cũng công nhận đế Thuấn là người Đông Di...hệ qủa của điều này là đế Nghi bố vợ của đế Thuấn cũng không thể nào là người Hán được vì Hoàng hà và Trường giang còn hoàn toàn cách biệt . Đế Thuấn truyền ngôi cho Hạ vũ tổ của nhà Hạ , sử Hán viết Hạ vũ hội chư hầu ở Cối kê và sau này ông cũng được con cháu dành riêng mảnh đất ấy để thờ phụng , Cối kê thuộc Triết giang ngày nay cũng là đất của Bách Việt chủng Nam mongoloid , Âu Đại Nhậm trong Bách Việt tiên hiền chí cũng viết vua đại Vũ là người Việt...như vậy ‘chủng tính’ của vua VŨ đã qúa rõ khỏi phải bàn nữa , căn cứ vào đoạn văn : “lên Cối Kê tế vua Vũ, nhìn ra biển Nam Hải khắc công đức nhà Tần” thì Cối kê nơi thờ vua Vũ không phải là Cối kê ở Triết giang ngày nay vì nơi này quay ra biển đông Trung hoa không có chỗ nào của đất ấy nhìn ra Nam hải cả ... Từ Thần thoại thủy tổ Bàn cổ là của dân MAN phương nam đến vua Nghiêu vua Thuấn và cả Đại vũ đều đã xác định là người nam Mongoloid tức Bách Việt về sau như thế đã đủ thông tin để khẳng định Trung hoa không phải là của người Hán mà là của người Bách Việt hơn nữa còn có các thông tin bổ chứng khác : - Cả 30 vua nhà Thương và Thương Ân đều được gọi tên theo ‘thập can’ mà cả 10 phần tử của thập can đều là từ Việt hay Nôm ( Dịch học họ Hùng ) cho nên các vua nhà Thương chắc là người Bách Việt ; không thể nói khác được . - Chính Hán sử cũng nhìn nhận nhà Chu là Tây Di tức không phải là Hán . Kết luận : lịch sử và nền văn minh Trung hoa là của tộc người nào đã qúa rõ : từ Thủy tổ Bàn cổ đến Đường-Ngu lưỡng thánh và cả tam đại Hạ -Thương – Chu đều là người nam Mongoloid tổ của dòng Bách Việt thì Hán tộc -Hoàng hà đâu có dính giáng gì với Trung hoa hay chính xác phải gọi là ‘Thiên hạ’, người viết bài này không dám gọi ngược chính Hán mới là Man-Di vì nền văn minh Hoàng hà là nền văn minh hình thành rất sớm và không kém phần rực rỡ , đó mới là văn minh Hán tộc hoàn toàn không liên quan đến Lịch sử và văn minh Trung hoa . Đã đến lúc Người Hán nên nghiêm túc viết lại lịch sử của dân tộc mình đừng mãi ... “mập mờ đánh lận con đen” tháp nối vào lịch sử Trung hoa làm chi cho mang tiếng mang tăm ....với đời và tệ hại hơn nữa là khiến con cháu dòng Hán không biết đích xác về tổ tông của mình ; hàng ngày hàng năm cúng ai vái ai cầu khẩn cùng ai ? *Ghi chú : Hình sử dụng trong bài lấy từ internet. Tứ Di. Đồ Hình ngũ sắc và tứ phương . Người Hán nhận mình là Trung hoa nghĩa là họ tự cho mình là dân tộc trung tâm và văn minh nhất thiên hạ còn lại các dân tộc khác ở bốn phương thường gọi là tứ di , Di nguyên thủy là biến âm từ chữ nhì hay nhị có nghĩa nôm na là dân hạng hai so với dân trung quốc là dân hạng nhất . Tứ Di là : - nam Man . - bắc Địch . - đông Di . - tây Nhung. Ngoài tứ di Cũng có tên gọi khác chỉ chư hầu 4 phía như tác gỉa Lê Giảng trong sách ‘các triều đại Trung hoa’ xuất bản tại VN năm 2002 viết : nhà Thương –Ân có 4 thuộc quốc : - phía nam là nước Quang .( chính xác phải là nước Quan ) - phía bắc là nước Thao. - phía đông là nước Từ. - Phía tây là nước Chu. Lần lượt ta điểm mặt tứ Di ở 4 phương xem họ là ai . 1 - Nam Man : Theo Ngũ sắc của nền văn minh Dịch lý thì : phương Bắc hiện nay màu đen , tiếng Việt có từ mun đồng nghĩa với đen , bản thân từ mun là 1 sắc màu không nhằm khinh khi miệt thị ai nhưng Hán tộc đã dùng nó chửi người khác là ...kém văn minh khi biến mun→man . Nhiều tộc người phía bắc Trung quốc hiện nay được các đấng con trời gán cho chữ Man : Man →mông hay Mông cổ . Man→Mãn hay Mãn thanh . Man→Mỉn chỉ nhà Minh (minh nghĩa là tối) . Ngoài hệ màu những Dịch tượng khác chỉ phương nam cũng được vận dụng : Lu là mờ ngược với tỏ biến thành Liêu chỉ người Liêu . Lu biến thể thành họ Lưu của vua chúa Hán tộc . Kăm nghĩa là lạnh –rét (rét kăm kăm ) biến âm thành Kim chỉ người Kim nước Kim . So chiếu với màu của tứ phương theo Dịch học thì có ‘nam Man’ hay ‘nam mun’ nghĩa là phương nam màu đen điều này ngược hẳn với phương hướng hiện nay , theo phương hướng hiện nay phải gọi là bắc man ... Nước Quang là thuộc quốc phương nam phải sửa thành nước Quan thì mới thấy được tên các phụ quốc nhà Thương cũng chính là tên gọi 4 phương , quan là chuyển ngữ từ ‘nhìn-nom’ trong tiếng Việt cũng là chỉ phương nam . - nom→nôm→nam .( chữ Nôm ; còn biến thành Nồm như gió Nồm tức gió nam) 2 - Bắc Địch . Lục tìm trong sử Tàu thì chỉ có duy nhất rợ Xích Địch ngoài ra không thấy rợ Địch nào khác . Xích là màu đỏ khớp đúng với màu đỏ của ngũ sắc Dịch học chỉ hướng xích đạo ; có điều lạ vì nó ...ngược với thực tại , hướng xích đạo ngày nay là hướng nam nhưng sách tàu lại viết là ...bắc Địch . Xích Địch ═ bắc Địch > hướng màu đỏ là hướng bắc hoàn toàn đúng với Dịch học nhưng lại ngược với phương hướng hiện nay...hướng Xích đạo là hướng nam . Thuộc quốc phía bắc nhà Thương là nước Thao , Thao là biến âm của thiêu - đốt , hướng Xích đạo là hướng nóng thuộc hành Hỏa - qủe Ly - màu đỏ nên quốc gia ở đấy gọi là nước Thiêu – đốt , truyền thuyết lịch sử Việt gọi là Hồng bang ,Xích địch có thể là tên người nhà Thương gọi dân nhà Hạ là triều đại mà họ đã đánh đổ trước đây, đất trung tâm nhà Hạ cũng chính là nơi lập quốc của Triệu Đà hay Triệu Tha , Đà và Tha là Viết sai chính xác là Đào và Thao hay Thiêu , Triệu là biến âm của Chậu ngôn ngữ Thái –Lào , Chủ - Chúa trong tiếng Việt nam . Xét ý nghĩa chứa trong tên 2 rợ ‘nam man –bắc địch hay Xích địch ’ so chiếu với phương hướng hiện nay có thể khẳng định : hướng nam - bắc xưa đã bị lộn ngược . 3 - Tây Nhung. Nhà Chu đánh đổ nhà Thương nhưng không tận diệt , con vua Trụ được phong tước hầu và cho cai quản vùng kinh đô cũ nhưng phải chịu sự giám sát của 3 tông thất nhà Chu gọi là Tam giám ...thật bất ngờ Tam giám nhà Chu lại âm mưu cùng quý tộc cũ nhà Thương và đám rợ là Hoài Di –Từ Nhung nổi loạn chống lại nhà Chu..., sử viết Chu công phải đông chinh 3 năm mới dẹp yên . Thuộc quốc phía đông của nhà Thương cũng có tên là nước Từ . Theo Dịch học thì phương đông quẻ Khảm là phương của tình cảm , sự thương yêu giữa người và người đối phản với phương tây là phương của quẻ Ly chỉ lý lẽ , thương yêu trong tiếng Việt dịch sang Hán ngữ là từ ái . Phương đông trong Hán sử trở thành phương ...Từ ; nước ở phương ấy gọi là Từ quốc , rợ ở phương đông gọi là Từ nhung , việc đông chinh của Chu công đánh rợ Hoài di Từ nhung đã chỉ ra điều đó cụ thể hơn nữa còn cho thấy rợ Từ nhung là ở vùng sông Hoài nằm ở phía đông lãnh thổ Trung hoa . Người Tàu đã ...chữ tác biến ra chữ tộ...; từ→tây , rợ Từ nhung ở phương đông hóa thành tây nhung ...thì chỉ có trời mới hiểu .... Thời Tần gọi người bắc Hoàng hà là người Nhung ,Sử thuyết họ Hùng gọi họ là Quan –Liêu hay Nam Liêu , chính họ sau này thành dân của hoàng đế Quan vũ nước Đông hãn hay đông Hán ,ngoài Nam Liêu còn 2 chi khác là đông Liêu ở Sơn đông chính là rợ Từ nhung trong tứ di và tây Liêu bị Hung nô đuổi chạy tuốt về hồ Thanh hải ở phía tây trung quốc . Khi nói thuộc quốc phía đông là nước Từ cũng y như nói...thuộc quốc phía đông của nhà Thương là nước ‘phía đông’...đúng là chữ với nghĩa ...thực qúa sáng mà trở nên tối ... 4 - Đông di. Khi đã xác định Từ Nhung chính là đông Nhung thì đông Di buộc phải đổi là tây Di . Có sự Trùng khớp khá lý thú khi biết thuộc quốc phía tây của nhà Thương là nước Chu hay Châu , chính thuộc quốc Chu sau này đã diệt nhà Thương kiến lập triều đại Chu của Trung hoa , lý thú là ở chỗ người Hán gọi họ là rợ Tây Di , đúng y với tên gọi cộng đồng người mà thời trung - cận đại cũng vẫn gọi là Tây Di - Tây nam Di hay tên khác là Di –Lão ở Qúi châu và Vân nam . Thuộc quốc phía tây của nhà Thương là nước Chu , rợ phía tây trung quốc là Tây Di ; liên kết 2 thông tin ta được điều rất quan trọng : Thành phần chính của Dân nước Chu thời còn là thuộc quốc của nhà Thương là người Di hay Di lão cũng gọi là người La , sách Tàu gọi là Liêu tử ngày nay là người Kadai . Rợ tây bắc Trung quốc là Hung nô và Đột quyết . Phía tây là Chi và Khương . Tây nam là người Di hay Di lão , ngật Lão cũng là Khuất Lão-khuất Liêu. Xét qua những thông tin trên thì Địa bàn gốc của nhà Chu không thể nào là Thiểm tây được và nhà Chu cũng không thể nào có gốc Hung nô như 1số nhà nghiên cứu Trung quốc đã nêu ra . Theo những nghiên cứu gần đây thì người Di là tộc người cố cựu của vùng Quí châu Vân nam , họ đã có mặt ở đấy ít ra cũng hơn ngàn năm trước công nguyên . Văn vương là TÂY bá , nước phía tây là nước CHU , rợ phía tây là tây DI...liên kết chuỗi thông tin này rồi Căn cứ vào địa bàn sinh trú của người Di đối chiếu với những thông tin trong cổ sử Trung hoa và Việt nam có thể kết luận : Đất gốc của nhà Chu là Quí châu Trung quốc sau họ cường thịnh lên mở rộng lãnh thổ phía tây sang Vân nam ( cổ sử gọi là nước ‘Mật Tu’ là biến âm của ‘mặt TÂY’ trong tiếng Việt ) và phía nam đến miền bắc - bắc Trung Việt ngày nay ( Sử Trung hoa chép là nước Sùng ) ; miền đất rộng lớn này chính là lãnh thổ nước Văn Lang : bắc giáp Động đình hồ ,nam giáp nước Hồ tôn , tây đến Ba thục và đông giáp Nam hải trong truyền thuyết lịch sử Việt , vùng này sau trở thành đất Trung hoa ( nghĩa là trung tâm văn minh) của thiên hạ khi Chu Vũ vương lên ngôi Thiên tử kiến lập triều đại Chu ngàn năm , có thể nói không ngoa .... văn hoá văn minh Trung hoa rạng ngời như ngày nay chính là công của nhà Chu ( tứ thư - ngũ kinh linh hồn của văn minh Trung hoa ra đời ở thời này ). Thông tin trong bài này là sự kiện chứng cho những điều đã viết trong Sử thuyết ho Hùng : - Kiến lập triều Chu là Thục Phán sử Tàu gọi là Cơ Phát . - vua Tổ của nhà Chu là ông Cơ Xương tức Văn vương tiếng Việt là Văn lang( Lang ═ vương ═ thủ lãnh-vua) nên nước của Văn vương còn được gọi là nước VĂN LANG kinh đô ở Phong châu hay đất Phong , đất Phong thời nhà Thương Ân thuộc nước SÙNG ( sùng ═ cao) do các Sùng hầu cai quản trước sau có 5 đời chúa truyền thuyết dân gian Việt gọi là Ngũ vị tôn ông : Sùng Nghiêm - Sùng Tôn – Sùng Hoà –Sùng Quyền –Sùng Cầm hay Lãm , vị Sùng hầu sau cùng theo sử Việt là Sùng Lãm nhưng theo sử Trung hoa là Sùng hầu Hổ . - Trống đồng là Vật thể văn hóa tiêu biểu cho văn minh nhà Chu , nơi phát hiện trống xưa nhất và nhiều nhất cùng với những thông tin về Dịch lý chứa trong hoa văn trên mặt Trống đồng đã chỉ ra điều ấy ( Văn vương là 1 trong tứ thánh đã làm nên Dịch học ) - Nam giao là 1 trong những từ ‘thâm niên’ nhất của lịch sử Việt tộc ...kinh Thư chép : đế Nghiêu ...mệnh Hy Thúc trạch NAM GIAO...; hướng Bắc - nam lộn ngược đã giúp xác định : Nam giao là từ Việt có nghĩa là vùng đất phía nam Giao chỉ không thể nào là : đất Giao chỉ phía nam ....nước Tàu như lối hiểu của người Hán được .. Kết : Khi nói nhà CHU rạng rỡ cũng chính là nói : VĂN LANG huy hoàng ; vầng hào quang ấy dù có lúc tạm khuất nhưng chắc chắn không bao giờ tắt . 1 person likes this Share this post Link to post Share on other sites
Posted 22 Tháng 11, 2010 Chào Bác Văn Nhân. Xin cho hỏi Chu Thiên, U Thiên, Dương Thiên và Biến Thiên có ý nghĩa là gì thế. Trân trọng cảm ơn. Share this post Link to post Share on other sites
Posted 23 Tháng 11, 2010 hoangnt said: Chào Bác Văn Nhân. Xin cho hỏi Chu Thiên, U Thiên, Dương Thiên và Biến Thiên có ý nghĩa là gì thế. Trân trọng cảm ơn. chào bạn .Chu - U - Dương - Biến là 4 vùng trời trong cửu thiên , theo tôi Chu và U nghĩa là cha và mẹ tiểng Việt, so chiếu với Hậu thiên bát quái thì Chu và U thiên trùng với vị trí 2 quẻ Kiền và Khôn . còn Dương thiên và Biến thiên thì .... đang ...suy nghĩ chưa dám khẳng định . Share this post Link to post Share on other sites
Posted 23 Tháng 11, 2010 xin trao đổi tiếp : so chiếu với ngũ hành thì nhận thấy : quân thiên ở trung tâm màu vàng hành thổ (dịch học cũ) còn lại 8 thiên dựa vào từ ngữ xếp thành 4 cặp tương ứng với 4 màu cuả 4 hành 4 phương : - Chu thiên hay Châu thiên và Hạo thiên màu trắng phía tây hành kim (dịch học cũ); cả châu và hạo đều có nghĩa là sáng láng . - U thiên và Huyền thiên ứng với màu đen hành thủy phương nam . U và huyền nghĩa là đen tối . - Biến thiên và Thanh thiên chỉ phương đông màu xanh hành mộc ; biến là động thanh là màu xanh là 2 tính chất của phương đông mặt trời mọc . - Dương thiên và Viêm thiên ứng với phương bắc màu đỏ và hành hỏa là hướng xích đạo ngược với hiện nay Share this post Link to post Share on other sites