quangnx

Một nền văn minh toàn cầu cổ xưa, có thể chứ?

40 bài viết trong chủ đề này

Toàn Lục Địa

Posted Image

Posted ImageBản đồ PangaeaPangaea (từ tiếng Hy Lạp, có nghĩa là "toàn bộ đất đai") được Bách khoa Toàn thư Việt Nam gọi là Toàn Lục Địa[1] hay Toàn Đại Lục[2], là siêu lục địa đã từng tồn tại trong đại Trung Sinh (Mesozoic) thuộc liên đại Hiển Sinh, trước khi quá trình trôi dạt lục địa tách nó ra thành các lục địa. Tên gọi này được Alfred Wegener đặt năm 1915. Khi các lục địa lần đầu tiên tạo ra Pangaea khoảng 300 triệu năm trước, các dãy núi đã bắt đầu hình thành, và một số dãy núi vẫn còn tồn tại đến ngày nay, chẳng hạn như các dãy núi Appalaches, Atlas, và Ural. Phần đại dương bao quanh Pangaea có tên gọi là Panthalassa. Pangaea vỡ ra khoảng 180 triệu năm trước.

Pangaea là vùng đất có dạng hình chữ C, trải rộng ngang qua đường xích đạo. Phần chứa nước trong lòng chữ "C" có tên gọi là biển Tethys. Vì Pangaea rất rộng lớn, nên khí hậu sâu trong đất liền rất là khô vì thiếu mưa. Do là một lục địa rộng lớn nên các loài động vật trên đất liền tự do di cư theo mọi hướng từ cực Nam tới cực Bắc và ngược lại.

Lớp phủ phía dưới lòng Pangaea vẫn còn rất nóng và có xu hướng trồi lên trên. Do kết quả của sự kiện này, châu Phi đã cao hơn các lục địa khác vài chục mét.

Posted Image

Sự trôi dạt của các lục địaPangaea có lẽ không phải là "siêu lục địa" đầu tiên. Người ta tin rằng Pannotia đã được hình thành trước đó, vào khoảng 600 triệu năm trước và phân chia ra khoảng 550 triệu năm trước. Ngoài ra, Rodinia đã được hình thành khoảng 1.100 triệu năm trước và tách ra vào khoảng 750 triệu năm trước.

Trong kỷ Jura, Pangaea tách ra thành hai phần: phần phía nam là Gondwana và phần phía bắc là Laurasia.

Gondwana khi đó bao gồm châu Nam Mỹ, châu Phi, châu Nam Cực, Úc, Tân Guinea, Tân Tây Lan, Ấn Độ, Madagasca và tiểu lục địa Ả Rập ngày nay còn Laurasia bao gồm châu Âu, châu Á (trừ Ấn Độ và tiểu lục địa Ả Rập) và châu Bắc Mỹ ngày nay. (wiki tiếng Việt)

Đặt giả thiết là quá trình này diễn ra muộn hơn do chấn động quá mạnh trong tâm trái đất thì lý do tại sao người Việt Nam lại có ADN giống người Nam Mỹ hoàn toàn giải thích được.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Liệu đây có phải là công trình của tự nhiên không hay đó là những dấu vết của nền văn minh cổ xưa?

xem video tại đây:http://www.vnexpress.net/GL/Khoa-hoc/2009/01/3BA0A252/

Phát hiện 'bức tường' khổng lồ dưới đại dương

Một nhà nghiên cứu vừa phát hiện ra một khối đá khổng lồ, giống như một bức tường, ở dưới eo biển Đài Loan.

"Bức tường" cao 10 mét, dài 220 mét, trông giống như hàng nghìn khối đá xếp cạnh nhau được phát hiện tuần trước. Nhà nghiên cứu Jeng Ming-hsiou, người tìm ra công trình khổng lồ, hôm qua cho rằng nó có thể được cấu thành từ một vụ núi lửa phun trào cách đây 1.800 năm.

vnexpress.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Sự tồn tại của nền văn minh toàn cầu cổ xưa?

1. Điện đã được sử dụng tại nhiều nền văn minh thời tiền sử

Năm 1936, các cuộc khai quật một ngôi làng cổ 2000 năm tuổi ở phía Đông Ai Cập, ngày nay thuộc Iraq, người ta đã khám phá ra những bình gốm nhỏ. Những bình này có chứa các trụ đồng được ngâm trong một loại dung dịch đã đông đặc, gắn vào bình bằng nhựa đường, được định niên vào khoảng từ năm 248 trước công nguyên đến 226 sau công nguyên. Trong số này có một bình bằng đất nung cao 15cm, màu vàng sáng có chứa một trụ đồng kích thước 12.5cm chiều dài x 3.5cm đường kính tiết diện. Ở giữa các trụ bằng đồng là một lõi thép cũng được gắn vào bằng keo nhựa đường.

Posted Image

Pin điện thời tiền sử

Nhà khảo cổ học người Đức Wilhelm Konig, đã kiểm tra mẫu vật và đưa ra một kết luận đáng ngạc nhiên : "cái bình gốm này không có gì khác hơn chính là một pin điện thời tiền sử".

Pin điện tiền sử tại viện bảo tàng Baghdad, cũng giống như những bình pin gốm khác được đào lên, tất cả đều được định niên từ năm 240 TCN đến năm 226 sau công nguyên trong thời chiếm đóng của đế chế Parthi. Tuy nhiên, Konig còn phát hiện được những bình đồng mạ bạc khác trong viện bảo tàng Baghdad, được khai quật từ những vùng đất cổ của người Sumer ở miền Nam Iraq, qua giám định niên đại cho thấy ít nhất có từ 2500 năm trước công nguyên.

Khi những cái bình này được dùi nhẹ vào, một lớp gỉ đồng tách ra từ bề mặt, có đặc điểm của một vật được mạ điện bạc lên một vật bằng đồng. Điều này làm ta không thể không nghĩ rằng những người Pathi đã thừa kế những Pin này từ nền văn minh Sumer, một trong những nền văn minh sớm nhất được biết đến.

Vào năm 1940, Willard F.M. Gray, một kỹ sư của General Electric High Voltage Laboratory tại Pittsfield, Massachusetts, Mỹ, đã đọc những lý luận của Konig. Dùng những bản vẽ và các chi tiết được cung cấp bởi nhà khoa học hỏa tiễn người Đức Willy Ley, Gray đã làm ra một bản sao từ Pin này. Dùng dung dịch Đồng Sulfat nó cho một dòng điện khoảng 0.5V.

Vào thập kỷ 70 thế kỷ trước, Nhà Ai Cập học người Đức, Arne Eggebrecht đã làm ra một bản sao của Pin Baghdad và dùng dung dịch nước nho ép nguyên chất mà ông phỏng đoán những nhà khoa học tiền sử đã dùng. Bản sao này đã sinh ra dòng điện 0,87V. Ông đã dùng dòng điện này để mạ vàng cho một bức tượng bằng bạc.

Thí nghiệm này đã chứng minh rằng những Pin điện đã được sử dụng khoảng 1800 năm trước khi viên Pin đầu tiên được phát minh bởi Alessandro Volta năm 1799.

Cũng dễ nhận thấy việc sử dụng những pin tương tự có thể đã được những người Ai Cập cổ đại biết đến, nơi mà vài mẫu vật với dấu vết mạ điện những kim loại quý được tìm thấy tại nhiều địa điểm khác nhau. Ngoài ra việc khám phá ra dị thường từ tại nhiều vùng khác nhau, cho phép khẳng định điện đã từng được sử dụng trong một quy mô lớn.

Một chi tiết chủ chốt trong vấn đề điện tiền sử này là tồn tại một mắc xích đang còn thiếu. Đó là câu hỏi mà các sách khoa học thường thức phải đầu hàng: Bồ hóng. Hàng ngàn hầm mộ và kim tự tháp không có dấu vết nhỏ nào của bồ hóng trên tường, mặc dù nhiều ngôi mộ cổ khắc đầy các bức họa tiết sinh động nhiều màu sắc. Theo suy nghĩ thông thường, nguồn ánh sáng thô sơ của người Ai Cập cổ đã biết (nến, đèn dầu, vv…) đều sinh ra nhiều bồ hóng và tiêu thụ nhiều oxy. Như vậy, làm thế nào những người Ai Cập cổ lấy ánh sáng? Một vài nhà duy lý cho rằng họ đã dùng gương phản chiếu ánh mặt trời, nhưng chất lượng của những cái gương đồng mà người Ai Cập cổ đã dùng không thể dùng cho việc này được.

Trong ngôi đền cổ Hathor tại Dendera, vài chục km về phía Bắc Luxor, Ai Cập các chuyên gia đã tìm thấy câu trả lời. Một kỹ sư điện người Na Uy đã thông cáo rằng một mẫu vật có thể làm được chức năng này. Một đồng nghiệp người Áo đã có thể làm ra một mẫu, và 2 tác gia nổi tiếng tại AAS, Peter Krassa và Rainer Habeck còn xây dựng nên một giả thuyết thực sự dựa trên nó. Họ cho rằng: "Cái mà chúng ta nhìn thấy không cần hỏi nhiều đó chính là một loại bóng đèn, với 2 cánh tay ở một đầu to của bóng, và một loại dây cáp ở đầu bên kia, từ đó một sợi dây tóc kéo dài chạm vào mấy cánh tay ở đầu kia. Toàn bộ thực tế trông thấy là một bóng đèn".

Posted Image

Bóng đèn điện thời tiền sử

Posted Image

Hình ảnh trụ đỡ rất giống như loại chân sứ của các thiết bị điện ngày nay

Một hình chạm khác:

Posted Image

2/ Kiến thức Toán học và Thiên văn siêu đẳng

Người Maya cổ xưa đã để lại cả một hệ thống các di chỉ xác thực về vấn đề này.

Posted Image

Người Maya không có các phương tiện kỹ thuật khoa học hiện đại giống chúng ta, nhưng họ tinh thông đối với thiên văn lẫn toán học. Ngoài ra, nền văn minh của họ ẩn chứa rất nhiều điều bí mật. Họ có những con đường rất tốt, nhưng lại không sử dụng bánh xe trong các phương tiện đi lại, trong khi họ lại biết đến bánh xe, vì người ta đã phát hiện những đồ chơi cho trẻ em của họ có hiện diện bánh xe?

Họ đem bản đồ mặt sau của mặt trăng khắc trên cửa miếu Thần mặt trăng để trang trí, khiến các nhà khoa học ban đầu không đoán được đó là hình vẽ gì, đến khi chứng thực được đó là hình vẽ mô tả phía sau mặt trăng thì thực sự sốc: Làm thế nào họ có thể thấy được như vậy?

Mặt trăng luôn hướng về Trái Đất chỉ một mặt không thay đổi theo thời gian. Qua rất nhiều những dữ liệu có được về họ cho đến nay, rất có thể khoa học trong nền văn minh của họ đi theo một hướng khác, không giống như loại khoa học thực chứng dựa trên 5 giác quan của người đương đại !?

Vào năm 1521, người Tây Ban Nha xâm lăng vùng đất của người Maya, nhưng thành phố đã hoang vắng không một bóng người, người Maya đã bỏ lại thành phố đi đâu không ai biết từ thế kỷ 9 và 10. Người Tây Ban Nha đã hủy hoại đại đa số văn tự ghi chép của người Mayan để lại, chỉ còn lại ba cuốn sách khiến người đời sau khó lòng hiểu rõ về văn hoá của họ.

Nền văn minh Maya tuy đã biến mất, nhưng họ để lại lịch Pháp của họ, mà còn đo tính được mấy ngàn năm sau điểm chung kết của văn minh kỳ này - ngày 21 tháng 12 năm 2012. Họ đã cố tình để lại cho ai xem vậy?

Posted Image

Chichen Itza do nền văn minh Maya xây dựng, nằm ở trung tâm phía bắc Bán đảo Yucatan, Mexico ngày nay là một đài quan sát thiên văn. Đài thiên văn ở Chichén Itzá là đài thiên văn số 1 do người Maya xây dựng nên cũng là đài thiên văn cổ nhất trong số đó. Đỉnh chóp của đài thiên văn này cao trội hẳn lên trên các ngọn cây trong rừng rậm, bên trong có một cầu thang tròn lên tận đỉnh chóp của đài quan sát. Trong đỉnh chóp có các cửa sổ để quan trắc các tinh tú. Bên ngoài vách đá của tháp có trang trí hình khắc thần mưa, còn có cả hình khắc phù điêu hình người vươn cánh tay bay vào Vũ trụ

Posted Image

Căn cứ vào lịch Pháp của người Maya, ngày 21 tháng 12 năm 2012 là Baktun thứ mười ba của ngày cuối cùng, người Maya đã ghi 13.0.0.0.0. Trưóc hết chúng ta nên lướt qua một tí về phương pháp ghi số của người Maya:

1 / Kin (ngày)

20 / Unial (con số quan trọng của lịch Maya là 20)

360 / Tun

7200 / Katun

144000 / Baktun

Thí dụ: 6.19.19.0.0 là 6 Baktun, 19 Katun, 19 Tun, 0 Unial, 0 Kin, tức là:

6 x 144000 + 19 x 7200 + 19 x 360 = 1007640 ngày.

13.0.0.0.0 = 13 x 144000 = 1872000 ngày = 5125.26 năm.

Căn cứ vào sự tính toán của Eric S.Thomson, 0.0.0.0.0. của người Maya tương đương với thứ 584283 ngày của Julian, tức là ngày 11 tháng 8 năm 3114 trước Công nguyên.

13.0.0.0.0 là ngày sau 5125 năm, tức là Công nguyên ngày 21 tháng 12 năm 2012.

Các nhà nghiên cứu văn hóa Maya đã nghiên cứu nghiêm túc thiên tượng sẽ xuất hiện vào ngày 21 tháng 12 năm 2012, họ đã hiểu được tại sao người Maya đã đem ngày này đặt là ngày cáo chung của nền văn minh kỳ này. Ngày này là ngày Đông chí. Đây là ngày mặt trời sẽ hoàn toàn trùng hợp với giao điểm hình thành bởi Hoàng Đạo và Xích Đạo của Hệ Ngân Hà.

Căn cứ vào lịch Pháp Maya. Năm 1992 là năm thứ nhất của cái 20 năm cuối cùng (20 năm là một unial, lịch pháp Maya gọi 20 năm cuối cùng này là “Thời kỳ canh tân địa cầu”) của Baktun cuối cùng (thứ 13).

Công nguyên năm 755, theo dự ngôn của một vị tăng Maya: Sau năm 1991, nhân loại phải xảy ra hai sự việc trọng đại - Sự ý thức đúng đắn về vũ trụ của nhân loại và sự trong sạch và tái sinh của Địa cầu.

Trên thực tế, người Maya đã gọi hai mươi năm cuối cùng của Baktun thứ mười ba (cuối Unial, tức là năm 1992 đến năm 2012) gọi là thời kỳ Trái Đất tái sinh.

Posted Image

Kim tự Tháp dưới đây có 13 tầng, trên ngọn cuối của tầng 13 Kim Tự Tháp có một con mắt tỏa ra ánh sáng rực rỡ, ở đây đã dự báo sự tỉnh ngộ của nhân loại sau khi đi hết 13 Baktun.

Posted Image

Hiện tại chúng ta đang sống trong thời đại tôn sùng vật chất. Điều mà đa số con người thời nay chủ yếu quan tâm là tiền bạc, hưởng lạc, quyền lực và địa vị. Những người không có hứng thú đối với những thứ đó cũng đành phải vẫy vùng khổ cực trong môi cảnh chung. Do vậy mà dẫn đến sự băng hoại về thế giới tinh thần, làm cho con người càng ngày càng trở nên tầm thường. Đứng trước tội ác, sự tàn bạo, chiến tranh, thiên tai, ôn dịch, nghèo đói, chủ nghĩa khủng bố và sự điên cuồng của hiện tượng hỗn loạn xã hội, nhiều người dần dần bị tê liệt ý chí, không còn ý muốn kháng cự, buông xuôi theo dòng chảy và thoái hóa theo. Rất ít người có thể ý thức được xã hội loài người hiện nay đang có xu hướng đi tới con đường tự hủy diệt.

Với xã hội ham muốn dục vọng và vật chất như vậy, thế lực xã hội nào có thể thay đổi được xu hướng này?

Có thể khẳng định không thể nhờ vào sự cưỡng ép quản chế của luật pháp, vì luật pháp do con người đặt ra, luôn có sơ hở. Những kẻ làm trái pháp luật luôn có thể nhờ vào địa vị, quan hệ và tiền bạc mà lẩn trốn sự trừng phạt, thậm chí lợi dụng quyền lực của luật lệ để thỏa mãn nhiều hơn các ý muốn cá nhân. Hơn nữa, luật pháp chỉ có thể chế tài hành vi trông thấy được của con người, nhưng không thể nào ràng buộc được tâm thức của con người.

Càng khó có thể nào nhờ vào cái gọi là đột phá của khoa học công nghệ, vì chính nền khoa học công nghệ hiện đại đang khiến nhân loại và cả nền khoa học thực chứng này càng ngày càng theo đuổi mục đích tiện nghi, hưởng thụ. Trong khi đó, lối sống có lương tri và đạo đức trong đời sống hiện đại lại ngày càng dễ bị dị ứng, trở thành đối tượng đê những con người có lối sống thực dụng tấn công đến mức lối sống mực thước này ngày càng bị cô lập và lạc lõng. Mặt khác, các thành tựu khoa học hiện đại đang có xu hướng bị lạm dụng, luôn có nguy cơ gây nhiều tổn thất lớn hơn cho nhân loại.

Theo khoa học thì sao?

Theo các nhà thiên văn học hiện đại, vào ngày này hệ Mặt Trời sẽ đi qua mặt phẳng xích đạo của thiên hà, một điều chỉ xảy ra theo mỗi chu kì 26.000 năm. Lịch của người Maya bắt đầu từ năm 3114 trước công nguyên, tức là có thể chính họ chưa hề có cơ hội thực chứng điều nêu trên. Người Maya gọi sự kiện này là cái cây thánh, nó sắp xếp sự thẳng hàng của Hệ Mặt Trời với trung tâm thiên hà theo mặt phẳng chính, điều đó có nghĩa là hấp dẫn xuyên thiên hà tác động lên Hệ Mặt Trời khi đó sẽ là cực đại. Nhưng làm thế nào người Maya có thể biết trước được, tính toán được chính xác tất cả những điều phức tạp đó trước đây hàng ngàn năm?

Theo những thông tin về động đất tại cục địa lý Hoa Kì, các trận động đất của chúng ta ngày càng lớn hơn do hậu quả của những chuỗi chấn động trong những năm 1890 đến 1899 và từ 2000 đến 2004, độ lớn của những trận động đất này đang tiếp tục tăng lên khi chúng ta tiến đến gần mặt phẳng chính của thiên hà.

NASA dự đoán rằng một trận bão Mặt Trời vào năm 2012 sẽ gây ra những chấn động lên Trái Đất lớn gấp 30 đến 50 phần trăm so với bất cứ sự tác động nào trước đây ta đã biết.

Yulish tin rằng việc này sẽ làm nóng hành tinh của chúng ta và nó có liên quan trực tiếp đến sự xuất hiện của các vết đen Mặt Trời, Mặt Trời sẽ nóng hơn và sẽ làm ảnh hưởng trực tiếp tới Trái Đất. Một vụ nổ bất chợt trên Mặt Trời vào thời điểm 2012 đó có thể phóng 1 khối lượng lớn đến va chạm với Trái Đất giống như việc chúng ta va chạm với một tiểu hành tinh hay sao chổi. Khi việc đó xảy ra, có thể một lần nữa trục của Trái Đất sẽ thay đổi và hiển nhiên sẽ ảnh hưởng đến sự quay của Trái Đất. Nếu như điều đó sẽ xảy ra vào ngày 21 tháng 12 năm 2012 sắp tới, sẽ là một ngày rất đáng nhớ đối với tất cả chúng ta!

Người Maya sáng tạo được một nền toán học phát triển vượt bậc, để có thể ghi chép các sự kiện theo năm tháng, tính toán một cách chính xác thời tiết và những ngày mưa nhiều nhất trong năm. Kỹ thuật toán học của họ trong các dân tộc thời cổ đại khiến các nhà khảo cổ không khỏi kinh ngạc, nhất là việc họ rất thành thạo khái niệm về số "0". So với châu Âu thì ít nhất người Maya biết sớm hơn hàng ngàn năm.

Người Maya tính ra mỗi tháng có 20 ngày, mỗi năm có 18 tháng cộng thêm mỗi năm có 5 ngày kiêng kỵ không đưa vào tháng nào. Số ngày thực chất trong một năm là 365 ngày. Số đó vừa vặn trùng hợp với nhận thức quay về thời gian Trái đất tự quay và quay quanh Mặt trời hết một chu trình.

Người Maya ngoài sự hiểu biết về lịch Trái đất chuẩn xác, họ còn rất am hiểu về lịch năm của sao Kim. Một năm của sao Kim, tức là thời gian để sao Kim quay quanh Mặt trời hết một chu trình, người Maya tính ra một năm sao Kim dài 584 ngày. Còn ngày nay tính ra một năm sao Kim dài 583,92 ngày. Đó là một con số chuẩn xác đến kinh ngạc mà người Maya đã có phương pháp tính lịch từ mấy ngàn năm trước.

Trong thực tiễn xã hội và sản xuất, phần đông các dân tộc sử dụng phép đếm cơ số 10. Còn người Maya dùng phép đếm cơ số 20. Ngoài ra họ còn sử dụng thêm phép đếm cơ số 18, các phép đếm này gợi ý về cái gì? và đã căn cứ vào điều gì, chưa ai biết?

Người Maya còn là dân tộc nắm vững khái niệm số "0", nhận thức và vận dụng số "0" trong toán học đánh dấu trình độ nhận thức của một dân tộc.

Posted Image

Maya Stargate ở Chicanna tại bán đảo Yucatan

Nền văn minh Maya có một kiến thức không thể tin được về thiên văn. “Bản chép tay Dresden” là một trong số vài sách chép tay còn sót lại trước sức tàn phá của những người Tây Ban Nha. Những bản chép tay này mô tả chính xác các dữ liệu quỹ đạo của tất cả các hành tinh trong Thái Dương Hệ chúng ta trong mối quan hệ tham chiếu lẫn nhau.

Posted Image

Một chứng minh khác về hiểu biết cổ đại về các ngôi sao của họ là tri thức của họ về sự dịch chuyển của trục trái đất lặp lại theo chu kỳ cứ mỗi 25920 năm một lần, và vì vậy kéo theo sự dịch chuyển hằng năm của các chòm sao khoảng 14/1000 độ. Điều này nghĩa là mỗi năm các ngôi sao mọc sớm hơn 3,4 giây so với cùng thời điểm đó của năm trước. Những truyền thuyết cổ xưa kể lại rằng những kiến thức này được trao cho họ từ các “taskmasters" – “người giao việc” đến từ các hành tinh khác!

Posted Image

Dải Ngân Hà (mà người Maya gọi là “zac beh” nghĩa là “Con đường trắng”) được họ tôn thờ vì họ cho rằng nơi đó là quê hương các vị Thần của họ

Kim tự tháp mà người Maya căn cứ vào lịch pháp của mình để xây dựng nên, thực chất là một đài quan trắc thiên văn. Cửa sổ đài thiên văn Chichén Itzá của họ không phải hướng về những vì sao sáng nhất mà họ hướng về nơi màn đêm trầm lặng bên ngoài dải Ngân Hà. Còn lịch pháp của họ thì có thể duy trì được đến 400 triệu năm sau, nó được dùng để làm gì? Ngoài ra họ tiếp thu kiến thức từ đâu mà tính ra được năm Mặt trời và năm sao Kim với độ chính xác như vậy?

Theo như định kiến của con người hiện đại về người Maya, hiển nhiên người ta cho rằng tất cả những kiến thức đó đã vượt ra ngoài nhu cầu thực tế của người Maya hiện đại vốn đang sống trong thời kỳ xã hội nông nghiệp và điều này càng khiến cho các nhà khoa học khó hiểu hơn.

3/ Trình độ kiến trúc và xây dựng siêu đẳng

Những công trình cổ xưa mà hiện nay vẫn còn nằm trên mặt đất …

Posted Image

Trong đống đổ nát của Puma Puncu tại Nam Mỹ andesit có những khối đá nằm rải rác, được chế tạo trông giống như hệ thống khối bê tông tiền chế trong xây dựng. Các nhà khảo cổ liên hệ thành phố này với người thổ dân Indien Aymara bản địa. Tuy nhiên không có bằng chứng cụ thể nào nói đến điều này và cũng chẳng có kim loại nào ở đây để chế tác những chi tiết xây dựng chính xác đến như vậy.

Posted Image

Kim tự tháp Mặt trời tại Teotihuacan , Mexico. Đây là Kim tự tháp lớn nhất thế giới.Những chấm trắng nhỏ xíu trên đỉnh của nó là các khách du lịch tham quan.

Không ai biết những người đã xây dựng công trình vĩ đại này là ai? Ngay cả những người Aztec cổ xưa đã phát hiện ra những công trình này cũng không biết gì về nguồn gốc của chúng.

Posted Image

Kim tự tháp Mặt trăng, nhìn từ đỉnh của Kim tự tháp Mặt trời, nằm trong tổ hợp các đền thờ và kim tự tháp tại Teotihuacan, Mexico

Posted Image

Kim tự tháp Euseigne, Pháp. Là một kỳ quan đáng chú ý nhất trên dãy Alpes. Trông tựa như là do tự nhiên tạo ra, nhưng hình dạng của chúng thật kỳ lạ. Chưa kể trên chóp của 2 ngọn tháp là 2 tảng đá khổng lồ nằm thăng bằng bất kể thời gian. Rốt cuộc, nó là tự nhiên hay nhân tạo ?

Posted Image

Kim tự tháp Kukulkan tại Chichen Itza, Pêru

Ở đây trên đỉnh của một ngôi đền ta nhìn bao quát xung quanh

Posted Image

Những kiến trúc lớn tại đây cao đến 70 m lên trên những ngọn cây

Ngay cả đến ngày hôm nay, chỉ có một phần nhỏ trong khu vực rộng lớn ở Tikal được khám phá và nghiên cứu vì lý do kinh phí. Chúng ta vẫn đang ở điểm xuất phát trong công cuộc khám phá những nền văn minh đầu tiên của khu vực Nam Mỹ. Ngay cả những văn bản hiếm hoi của người Maya còn lưu lại vẫn chưa được giải mã hoàn toàn, rất nhiều điều trái ngược với suy nghĩ thông thường của các nhà khoa học.

Posted Image

Tại địa điểm chính, nơi mà những kiến trúc vĩ đại tập trung lại với nhau. Tại sao người ta lại xây dựng một thành phố khổng lồ như thế? Những bể chứa nước lớn cung cấp cho dân chúng, chỉ cách hồ Peten Itza có 40 km. Tikal được xây dựng như là chốn thiên đường cho những người thời đó.

Người ta tìm thấy dòng chữ sau được khắc trên một bia đá: “Tại đây những vị Thần đã từ những vì sao xuống Trái Đất !”

Posted Image

Một góc trong tổ hợp các công trình cổ đại tại Totonaco, Mexico

Posted Image

Đại kim tự tháp Giza

Kỳ quan của thế giới mọi thời đại, Đại kim tự tháp Giza là một ví dụ đặc biệt điển hình rằng lịch sử của loài người cho đến nay được biết và được học đã sai lầm trầm trọng. Một số chuyên gia đã tránh đề cập đến thuyết“Hitat” từ một nhà sử học A Rập tên là Ahmed Al Makrizi (1364- 1442).

Trong cuốn sách “Capital of the Pyramids”, Al Makrizi đã đưa ra các hiểu biết và các tài liệu về thời của ông vào trong tác phẩm. Kim tự tháp đã được xây dựng dưới thời của vua Saurid. Thần đã dạy cho Saurid “hiểu biết về các vì sao” và nói cho ông biết về thảm họa sẽ xảy ra trên toàn Trái đất. Vì thế, Saurid, còn được biết đến dưới cái tên Hermes hay là Idris, đã cố công xây dựng nên Đại kim tự tháp. Hermes (thần Thoth của người Ai Cập), là một nhà tiên tri, một vị vua, một nhà hiền triết, người đã tiên tri rằng một Thiên tai khủng khiếp sẽ đến. Ông xây dựng kim tự tháp nhằm: "cứu thoát tất cả những gì ông muốn khỏi bị đắm, những thứ lẽ ra phải bị mất đi”.

Posted Image

Nhà sử học A Rập Abd Al-Hakam đã viết: “Tôi tin rằng những kim tự tháp đã được xây dựng trước khi được biết đến bởi người Ai Cập sau này; nếu chúng được xây dựng sau, hẳn mọi người đều đã biết về nó rồi”.

Các nhà khoa học xác định niên đại của Đại kim tự tháp Giza này vào khoảng 12000 năm. Tức là sớm trước các Kim tự tháp khác nhiều ngàn năm. Kim tự tháp lớn nhất lại được xây dựng sớm hơn các Kim tự tháp nhỏ hơn những vài ngàn năm, tại sao lại như thế ?

Posted Image

Tại LiBăng, ở độ cao 1150 m so với mực nước biển, tọa lạc những đống đổ nát những ngôi đền lớn nhất của thế giới. Baalbek là thành phố của thần Mặt trời Baal hay còn được biết đến là Heliopolis, vị thần Hy Lạp Helios.

Tổ hợp này bao gồm các ngôi đền còn sót lại, ví dụ, đền Bacchus Temple, có tỉ lệ lớn hơn nhiều so với đền thờ Acropolis ở Athens, Hy Lạp

Posted Image

6 cột trụ còn lại của ngôi đền lân cận Jupiter Temple và nền móng của nó có các kích thước bên ngoài lớn như thể nó được xây dựng cho những “Người khổng lồ”. Nó nhắc ta nhớ lại một đoạn trích trong Genesis :

"Vào những ngày đó những người khổng lồ đã ở trên mặt đất, và về sau, sau khi những con trai của các vị thần lấy những con gái của con người và sinh con đẻ cháu. Đó là những người anh hùng của các thời đại, những người nổi tiếng"

(On some days these giants were on earth, and even later, after the sons of the gods! mated with the daughters of men! and these gave birth to children. These are the heroes of the eons, the famous men - Genesis Chap. 6 Old Testament)

Posted Image

Ở đây chúng ta có thể nhận thấy các kích thước to lớn khác thường của nền móng mà Đền thờ Jupiter Temple đang tọa lạc. Cho đến bây giờ không ai có thể hiểu được làm thế nào những tảng đá nặng hàng ngàn tấn mà ngay cả các cần trục khỏe nhất của người hiện đại chúng ta cũng không nhấc nổi này, lại có thể được tách ra, đẽo gọt vuông vắn và vận chuyển từ khu mỏ cách đó nhiều km, rồi được xây dựng vào vị trí chính xác của chúng, tại công trường có độ cao 1150m như thế này. Ngay cả với công nghệ hiện đại ngày nay đây cũng là một bài toán hết sức nan giải, gần như không thể thực hiện được. Không thể hiểu người xưa đã dùng các công cụ thiết bị cũng như các phương tiện vận chuyển gì để dựng nên bí ẩn vĩ đại này?

"Hòn đá phương Nam" tại Baalbek (Li Băng) nặng 1300 tấn! Không có chiếc cần trục nào có thể nhấc nổi nó. Thành phố của thần mặt trời Baal ở Li Băng, mọi thứ đều có kích thước to lớn khác thường.

Posted Image

Tảng đá to nhất (khối vật liệu xây dựng lớn nhất hành tinh) có kích thước 21,36m chiều dài, cao 4,33m, rộng 4,6m và cân nặng khoảng từ 1200 tấn đến 2000 tấn. Nó được vận chuyển đến nền đất cao của Baalbek và có cái tên là “Hajar el Gouble”- “Tảng đá phương Nam” hay là “Hajar el Hibla” – “Tảng đá người thai phụ”. Tảng đá này cùng với các tảng khối khác đã đem lại cho các nhà khảo cổ, các nhà khoa học và các kỹ sư công trình nhiều bí ẩn to lớn.

Posted Image

Địa hình Baalbek dốc, mấp mô và lởm chởm đá, hoàn toàn bất lợi cho việc xây dựng. Không thể chứng minh rằng vùng đất này xưa kia bằng phẳng trong thời tiền sử lúc nó được xây dựng. Hơn nữa, các tảng đá nặng hơn 1000 tấn phải được nhấc bổng lên và đặt chồng lên nhau làm nền móng.

Có giả thuyết cho rằng các mặt phẳng nghiêng, ròng rọc và hệ thống giàn đã được sử dụng, cùng với hàng ngàn công nhân và sức thú. Đài kỷ niệm Ai Cập phía trước Hoàng Cung của St. Peter ở La Mã làm một ví dụ.

Kiến trúc sư Domenico Fontana đã xây dựng tảng đá 327 tấn ở thời kỳ Phục Hưng với sự giúp sức của 40 ròng rọc lớn, 800 công nhân, 140 con ngựa. Tuy nhiên ông ta có một khoảng đất bằng phẳng trống trải. Những thuận lợi này không thể tìm thấy tại Baalbek. Có thể thấy rõ rằng Baalbek không phải được dựng nên vào thời kỳ của đế quốc La Mã.

Cũng không có thông tin nào của La Mã đề cập đến các phương pháp xây dựng, hoặc các dữ liệu và tên gọi của những người chủ, các kỹ sư, các kiến trúc sư và các công nhân của công trình này. Tảng ghép nguyên khối của 3 khối mỗi khối hơn 1000 tấn, ghép nối với 6 tảng khác tại phía Tây của công trường không có nét kiến trúc hay họa tiết điêu khắc mỹ thuật nào tương tự với những công trình trong thời đại La Mã. Những khối đá vôi có các dấu vết rõ ràng của sự xói mòn cát cho thấy đây là một công trình đã được xây dựng sớm hơn thời đó rất nhiều.

Posted Image

Tiahuanaco, Bolivia là một huyền thoại bởi tuổi của nó được ước tính lên tới 17000 năm, cùng với kỹ thuật chế tác đá kỳ lạ không tìm thấy ở bất kỳ nơi nào khác.

Posted Image

Kiến trúc ấn tượng trên hình là của một ngôi nhà hầm khoảng 4000 đến hơn 6000 tuổi, tìm thấy trong lòng đất của một ngôi đền cổ ở Malta. Do định kiến, một số nhà khoa học đã cho rằng những người xây dựng nên công trình này là những con người thời đồ đá, sử dụng các công cụ như là những cái cuốc bằng gạc hươu và những cái vồ bằng đá để đục đẽo và tạc nên công trình tuyệt đẹp này, trong lòng đá vài ngàn năm trước (!?). Trong khi ngay cả ở thời nay muốn xây một căn nhà trong lòng đá granite dưới lòng đất như vậy đã là một chuyện rất khó. Công nghệ dùng ở công trình này có trình độ ngang ngửa với công nghệ xây dựng Đại kim tự tháp Giza của Ai Cập.

Posted Image

Các khối đá hình thù khác biệt được ghép nối chặt chẽ, hài hòa và cực kỳ bền vững. Các tảng khối đôi khi rất lớn, nhưng các mối nối luôn rất chính xác. Cách xử lý đá như thế này được tìm thấy tại nhiều công trình cổ xưa khác nhau rải rác khắp thế giới

Khu vực xung quanh Nazca được bao phủ bởi những con kênh ngầm nhân tạo dẫn nước, mà niên đại và những người xây dựng nên chúng đến nay vẫn không ai biết!

Đến những công trình tiền sử hiện nay đang nằm dưới đáy biển sâu gây nên bởi một số biến cố bí ẩn làm các thềm lục địa trồi lên hoặc chìm xuống. Điển hình là cấu trúc Kim tự tháp Yogaguni đang nằm dưới đáy biển Nhật Bản.

Yogaguni là một hòn đảo nhỏ nằm về phía Tây Nam của đảo Okinawa thuộc quần đảo Nhật Bản. Năm 1988, những thợ lặn dẫn đầu bởi Kihachiro Aratake đã khám phá ra một cấu trúc đá khổng lồ dưới đáy biển tại đây.

Cấu trúc này nằm ở độ sâu 25m dưới mặt nước biển. Ban đầu các nhà nghiên cứu cho rằng đó là một kiến tạo tự nhiên. Nhưng 10 năm sau, các chuyên gia không còn chủ quan như thế nữa. Nhà địa chất có trách nhiệm nghiên cứu cấu trúc này là Giáo sư Masaki Kimura thuộc trường Đại học Ryuku ở Okinawa. Vào tháng 4 năm 1998 ông khám phá ra một cấu trúc bị chia thành 5 tầng riêng biệt và từ đó khẳng định cấu trúc này dứt khoát là nhân tạo. Ngày nay các bức ảnh và phim quay được đã cho thấy một cấu trúc chia bậc, gần giống cấu trúc đền thờ Ziggurat của người Sumer vùng Lưỡng Hà xưa kia, nhưng có kích thước lớn khác thường. Mỗi bậc cao khoảng 1m với các góc cạnh sắc nét.

Các nghiên cứu xa hơn đã phát hiện ra nhiều Ziggurat vệ tinh nhỏ nằm gần công trình chính. Chúng có kích thước khoảng 10m rộng và 2m cao. Chúng có vẻ được xây dựng bằng các phiến đá mỏng. Các thợ lặn còn phát hiện cái trông như là một con đường chạy xung quanh công trình chính. Sau đó, họ còn phát hiện ra những con đường dài, những đại lộ lớn, những cấu trúc cầu thang lớn, những cấu trúc cổng tò vò, các khối đá khổng lồ được đẽo gọt chính xác và tỉ mỉ, tất cả hài hòa trong một chỉnh thể kiến trúc đồng nhất mà họ chưa từng thấy bao giờ. Chúng có vẻ như là phần còn lại tương đối nguyên vẹn của một thành phố tiền sử.

Đoàn thám hiểm Team Atlantis đã lặn xuống quay bộ phim tài liệu về công trình này khẳng định đây là một công trình nhân tạo. Không có bằng chứng nào cho thấy những cư dân của nền văn hóa Nhật Bản cổ đại có thể xây dựng nên chúng.

Nói cách khác, những người thuộc về những thời kỳ tiền sử xa xôi đã xây dựng lên nó, trước khi một biến cố toàn cầu nào đó đã làm cho cả một thềm lục địa to lớn bị chìm xuống, kéo theo cả công trình dang dở vĩ đại này. Các giám định niên đại cho thấy cấu trúc này có thể ra đời vào khoảng 8000 đến 10000 năm trước công nguyên.

Đến nay, sau 20 năm khám phá ra công trình này, nguồn gốc của nó vẫn là một câu đố hóc búa.

(còn tiếp)

/Nguyễn Lê Duy Thắng tổng hợp và biên dịch/

Share this post


Link to post
Share on other sites

Bài viết hay quá! Cảm ơn anh Quangnx.

Mong anh tiếp tục gửi phần tiếp theo. Tôi sẽ đưa ra trang chủ của diễn đàn và là một minh chứng bổ xung cho tiểu luận "Định mệnh có thật hay không?".

Share this post


Link to post
Share on other sites

Thế giới thiệt là khó hiểu và hóc búa quá đi mất. Lại có thêm bằng chứng về hỉnh ảnh máy bay, trực thăng chiến đấu :)

Posted Image

Vào năm 1848, một đoàn nghiên cứu khảo cổ làm việc tại Ai Cập đã khám phá ra những ký hiệu bí mật kỳ lạ trên một đoạn rầm trên trần tại một ngôi đền cổ tại Abydos, vài trăm dặm về phía Nam Cairo. Những ký hiệu này đã được sao chép cẩn thận và gửi về Châu Âu. Bí ẩn của những hình vẽ này đã gây tranh cãi nóng bỏng trong những nhà Ai Cập học lúc bấy giờ, tuy nhiên dần dần, do không thể hiểu các hình vẽ đó nói về điều gì, họ đã gạt nó sang một bên như là những vật thể kỳ dị mà không ai có một giải thích thỏa đáng nào, rồi rơi vào quên lãng.

Vào giữa thập kỷ 90 thế kỷ trước, những bức ảnh và phim video, được chụp đầu tiên bởi những du khách viếng thăm Abydos, bắt đầu xuất hiện trên internet. Chúng mô tả “những ký hiệu tượng hình về những cỗ máy kỳ lạ” vốn đã được khám phá vào thế kỷ 19. Ngôi đền mà người ta tìm thấy những ký hiệu tượng hình này được xây dựng vào thời Pharaong Seti I khoảng 3000 năm trước. Đối với những người quan sát hiện đại chúng rõ ràng đó là những cỗ máy kỳ lạ, nhưng lại hết sức bí ẩn đối với những người thuộc thời của nữ hoàng Victoria. Thực tế chúng là nhiều chủng loại khác nhau của các thiết bị bay cùng với một chiếc xe tăng, và trong số những thiết bị bay là một chiếc máy bay trực thăng! Đó là một trong những khám phá gây sửng sốt nhất được tìm thấy tại Ai Cập.

Posted Image

Gần đây, tờ báo uy tín của A Rập “Al-Sharq Al-Awsat” đã phát hành nhiều ảnh được chụp tại một ngôi đền Ai Cập khác, đền thờ Amon Ra tại Karnak. Các bức ảnh là những chạm khắc khoảng 3000 năm trước đây. Chúng tỏ ra rất giống với những hình chạm khắc tìm thấy tại Abydos. Đó là một máy bay trực thăng chiến đấu với một động cơ và một bộ đuôi, và gần đó, một thiết bị bay hiện đại. Thế là, trong thực tế thì không phải 1, mà có đến 2 bộ hình chạm như thế tại Karnak and Abydos.

Posted Image

Vậy nếu những người Ai Cập cổ không có công nghệ để chế tạo các trực thăng hay các thiết bị bay khác, thì những hình ảnh về các cỗ máy bay đó nguồn gốc từ đâu? Cái lịch sử loài người mà ta được học hiện nay lại một lần nữa bất lực. Có nhiều thư viện huyền thoại cổ xưa, như là Thư viện Alexandria và những thư viện cổ Trung Hoa đã bị tiêu hủy. Nhiều trong số các bằng chứng vô giá về quá khứ xa xăm đã bị xóa sạch. May thay, những văn bản cổ đại vẫn còn được lưu giữ, một phần tại Ấn Độ. Vô cùng kinh ngạc khi biết rằng một vài trong những ghi chép tiền sử ấy kể về những thiết bị bay tinh xảo cao cấp.

Posted Image

Hình chạm này thể hiện cái gì, nếu không phải là một cái xe tăng?

Gần đây, có một báo cáo TQ vừa khám phá những văn bản tiếng Phạn thượng cổ tại Tây Tạng và đã gửi chúng về trường đại học Chandrigarh ở Ấn Độ để dịch. Nghiên cứu sơ bộ cho thấy những tài liệu này chứa những chỉ dẫn chế tạo các phi thuyền vũ trụ.

Những bằng chứng thêm nữa cho thấy thứ được gọi là “Đế chế Rama” miền Bắc Ấn và Pakistan là cổ xưa hơn nhiều so với những gì họ từng nghĩ trước đây. Tàn dư của những thành phố tân kỳ vẫn được tìm thấy trong sa mạc Pakistan, và tại Bắc và Tây Ấn Độ. Theo những văn bản Ấn Độ cổ, Đế chế Rama có những thiết bị bay được gọi là “Vimana”. Có vô số văn bản về Vimana được miêu tả hết sức chi tiết. Những người Ấn Độ tiền sử đã viết toàn bộ các chỉ dẫn sổ tay và sách học về cách điều khiển nhiều loại Vimana khác nhau, nhiều sách trong số đó vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay; một số đã được dịch sang Anh ngữ. Những loại Vimana khác nhau được miêu tả, một số thì hình đĩa, số khác thì hình điếu xì gà. Vimana có vẻ được cung cấp năng lượng bởi vài loại thiết bị phản trọng lực, khiến nó có thể cất cánh theo chiều thẳng đứng và bay lượn trong không gian.

Các chuyên gia Ai Cập học đều biết nhiều bí ẩn của Ai Cập thời thượng cổ là không thể giải thích được nếu sử dụng cái khung hạn hẹp của cách nghĩ truyền thống. Ví dụ họ hoàn toàn không thể giải thích thấu đáo làm thế nào các kim tự tháp được xây dựng nên, và làm thế nào nền văn minh Ai Cập thượng cổ xuất hiện một cách đột ngột với trình độ rất cao ngay từ thủa khai sinh? Nguyên nhân nào Kim tự tháp lớn Giza lại được xây dựng với công nghệ cao hơn nhiều so với các kim tự tháp nhỏ được xây dựng sau nó?

Có rất nhiều mẫu vật đáng tin cậy như những gì chúng ta đã thấy từ đầu thường không được một số “khoa học gia” và các “chuyên gia” để ý một cách đúng mực, họ cũng không khách quan nghiên cứu và tìm hiểu nghiêm túc, chính là bởi vì : nó quá trực quan, đối nghịch với thành kiến của họ, và nó không nằm lọt thỏm trong cái khung hạn hẹp của những “hiểu biết” mà họ được những đàn anh bơm vào não từ khi còn là học sinh tiểu học. Họ nghi ngờ và loại bỏ tất cả những gì không nằm trong cái khung ấy, cũng như cố gắng bằng mọi giá uốn ép những bằng chứng khách quan cho vừa vặn lọt vào cái khung, chứ không muốn cải biến chính cách tư duy sao cho toàn diện và khoa học hơn, cho phù hợp với thời đại và thực tiễn khách quan.

Hầu như tất cả chúng ta đều khẳng định 100% những hình chạm khắc trên thể hiện những chiếc trực thăng và những thiết bị bay công nghệ cao – nếu họ chưa biết chúng được tìm thấy ở đâu. Thú vị hơn nữa, là hình chạm khắc thượng cổ đó lại thể hiện như một chiếc trực thăng chiến đấu, một phương tiện chiến tranh.

Bài này trích trong quyển sách : "Bằng chứng nền văn minh tồn tại trước thời nhân loại hiện nay"

Share this post


Link to post
Share on other sites

Khi Thiên Sứ tôi lên phát biểu ý kiến ở hội thảo về bãi đá cổ Sapa do Sở Văn hóa Thông tin Lào Cai phối hợp với bảo tàng Mỹ thuật tổ chức rằng thì là: Những cái máy bay vẽ trên bãi đá cố Sapa là do người Việt cổ tiên tri về một thời đại sẽ làm sáng tỏ những bí ẩn ở đây...vv...và ...vv...

Các nhà pha học phán rằng: "Thằng nào nghịch ranh, mới khắc vào đấy!".

Sang phim.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Hé hé. Mấy bố đó thì cứ loăng qua, loăng quăng Thời đại Hùng Vương cỡi trần đóng khố thôi. Được cái giỏi nhậu thôi à. Chú ơi, ai mà có tài liệu cái đoạn này thì ngon à :" Gần đây, có một báo cáo TQ vừa khám phá những văn bản tiếng Phạn thượng cổ tại Tây Tạng và đã gửi chúng về trường đại học Chandrigarh ở Ấn Độ để dịch. Nghiên cứu sơ bộ cho thấy những tài liệu này chứa những chỉ dẫn chế tạo các phi thuyền vũ trụ."

Share this post


Link to post
Share on other sites

Trích từ bài viết

Sự tồn tại của nền văn minh toàn cầu cổ xưa?

Quangnx

Một chứng minh khác về hiểu biết cổ đại về các ngôi sao của họ là tri thức của họ về sự dịch chuyển của trục trái đất lặp lại theo chu kỳ cứ mỗi 25920 năm một lần, và vì vậy kéo theo sự dịch chuyển hằng năm của các chòm sao khoảng 14/1000 độ. Điều này nghĩa là mỗi năm các ngôi sao mọc sớm hơn 3,4 giây so với cùng thời điểm đó của năm trước. Những truyền thuyết cổ xưa kể lại rằng những kiến thức này được trao cho họ từ các “taskmasters" – “người giao việc” đến từ các hành tinh khác!

Con số chu kỳ 25. 920 năm chinh là chu kỳ Âm Dương của hai Đại vận hội trong Thái Ất thuộc văn minh Đông phương mà người ta cứ ra rả bảo rằng thì là do Tàu sáng chế vào sau thời ông Chu Văn Vương đi tù. Chứ trước thời ông Chu Văn Vương trực ngộ tâm linh, có ân quang quảng chiếu khiên tâmm thông thiên địa nghĩ ra thì làm sao có Bát Quái mà mần ra Thái Ất được?! Ai mà bảo không phải của Tàu thì nhao nhao phản biện. Bây giờ thì nền văn minh Maya cũng mần ra cái chu kỳ này. Híc! Làm như cái chu kỳ này muốn tim ra cứ gọi là dễ ợt. Híc.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Một thành phố cổ đại tìm thấy tại Cuba

Một nhóm các nhà nghiên cứu Canada và Cuba đã khám phá ra phần còn lại của cái có thể là một thành phố cổ 6000 năm tuổi đang chìm dưới đáy biển sâu ở bờ tây của biển Cuba.

Posted Image

Sử dụng các thiết bị dò tìm siêu âm và máy quay phức tạp, kỹ sư Paulina Zelitsky, cùng chồng cô, Paul Weinzweig, và con trai, Ernesto Tapanes đã khám phá ra những tảng đá lớn “của cùng một loại mà chúng ta phát hiện thấy tại Stonehenge hay đảo Easter”.

Paul Weinzweig cho biết:

“Một vài cấu trúc phức tạp có thể có chiều rộng khoảng 400 m và cao khoảng 40 m, một số đang nằm trên đỉnh của những cái khác. Chúng cho thấy những góc cạnh sắc nét và tính đối xứng các dấu hiệu của loại công trình nhân tạo. Chúng tôi đã chỉ cho các nhà khoa học Cuba, Hoa Kỳ và bất cứ ai, và không ai cho rằng đó là một công trình của thiên nhiên”. (Atlantis Site.com)

Posted Image

Các cấu trúc nằm trong một khoảng đất nền bằng phẳng khoảng 700 m dưới mực nước biển

Hơn nữa, một nhà nhân loại học Liên kết với Cơ quan khoa học Cu Ba đã nói rằng những hình ảnh trích dẫn từ những cuộn phim video đã chỉ rõ “các biểu tượng và câu khắc trên đá”, và đến giờ không ai biết nó viết bằng thứ ngôn ngữ nào.

Những bức ảnh chụp bằng các thiết bị dò vẽ địa hình bằng sóng âm, cho thấy những sự giống nhau rất đáng lưu ý đến các cấu trúc dạng kim tự tháp Maya và các đền thờ của người Aztec tại Mexico. Ông Weinzweig cho rằng còn quá sớm để đưa ra kết luận từ những bằng chứng thu thập được cho đến nay.

Posted Image

Đội nghiên cứu đã lên kế hoạch khảo sát khu vực này vào tháng 1 năm 2002. Vào mùa hè 2002, họ quay trở lại với các thiết bị khai quật dưới nước tối tân, được trang bị các chức năng cần thiết cho việc thẩm định khảo cổ học, và cả khả năng thổi cát bám khỏi các tảng đá.

Các nhà địa chất từng cho rằng có một dải đất nối liền Cuba và bán đảo Yucatan của Mexico. Và một số phần của đảo Cuba thì tin rằng đã từng chìm ngập trong nước biển vào 3 thời kỳ khác nhau trong quá khứ xa xôi.

Ông Weinzweig chỉ nói rằng cần nhiều thông tin hơn nữa. “Chúng ta tốt nhất là hãy tránh xa chủ đề về Atlantic. Đây là một trong những mối quan tâm khoa học vĩ đại, nhưng nó phải bao hàm cả những tài liệu thực sự đáng tin cậy khác về các nền văn minh tiền sử”. ("We'd prefer to stay away from that subject. This is something of great potential scientific interest, but it must involve serious authorities on ancient civilizations")

Posted Image

Niên đại chính xác của công trình dưới đáy biển này vẫn chưa được biết, tuy nhiên các nhà khảo cổ đã khai quật vào năm 1966 một cấu trúc đá đồ sộ trên nền đất bằng tại bờ biển phía Tây, gần khu vực khám phá mới này, và chúng được định niên là năm 4000 trước công nguyên. “Dựa trên khám phá đó và những thông tin khảo cổ khác, chúng tôi khẳng định rằng chúng khoảng 6000 năm tuổi”, ông giải thích. “Chưa thể biết chính xác, nhưng chúng thật sự rất cổ xưa”.

Nếu điều này được chứng minh là chính xác, thì có nghĩa là một nền văn minh tiền sử đã thiết kế và xây dựng nên những cấu trúc đá khổng lồ này tại Châu Mỹ chỉ 500 năm sau khi sự định cư của con người lần đầu tiên được tổ chức thành các thành phố và thành bang. Chúng đã được xây dựng từ lâu trước khi bánh xe được phát minh tại Sumeria (3500 năm trước công nguyên, nền văn minh cổ xưa nhất mà loài người hiện đại biết được từng tồn tại), hay là đồng hồ mặt trời tại Ai Cập cổ đại (3000 năm trước công nguyên). 3 Kim tự tháp trên vùng nền của kim tự tháp Giza được ước định là được xây dựng khoảng giữa 2900 và 2200 năm trước công nguyên.

Công ty Advanced Digital Communications của cặp vợ chồng có trụ sở tại Havana, đã khám phá ra công trình vào 7/2000, dùng thiết bị quét dò siêu âm để xem xét những gì của một thành phố dưới nước, hoàn chỉnh với các con đường, các tòa nhà và các kim tự tháp. Họ cũng từng trở lại mang theo một thiết bị không người lái điều khiển từ xa nặng khoảng 1,3 tấn, điều khiển từ tàu mẹ thông qua cáp quang. Camera của nó đã khẳng định những phát hiện đầu tiên, chỉ ra những khối đá khổng lồ giống granite, khoảng 2 đến 5 m chiều dài, được cắt gọt theo các thiết kế vuông góc hoặc tròn trịa.

Posted Image

Một tảng đá trắng lớn với những đường sọc kẻ chi tiết có thể nhìn thấy. Hình ảnh trích từ một đoạn phim quay bởi ADC International, Inc năm 2002

Tuy nhiên vấp phải những vấn đề kỹ thuật, ông Weinzweig nói:

"Chúng tôi chỉ mới quan sát được rất sơ bộ bên ngoài công trình mà thôi. Căn cứ trên những thăm dò ban đầu, chúng tôi nghĩ rằng nó thậm chí phải lớn hơn nhiều lần so với những gì các thiết bị dò dùng âm thanh cho thấy. Chúng có thể trải dài đến vài km. Tảng đá mà chúng tôi khám phá ra dưới đáy biển là một tảng granite láng bóng. Tất cả các bán đảo phía Tây Bắc Cuba, cả bán đảo này toàn là đá vôi, những tảng đá vôi rạn nứt nhiều. Vì thế, về mặt địa chất, nó hoàn toàn không thuộc Cuba. Nhưng nó cũng không hề được biết đến tại Yucatan, Mexico bởi Yucatan cũng toàn là đá vôi, không có đá granite …”.

Thành phố 9500 năm tuổi được tìm thấy dưới đáy biển Ấn Độ

Một nền văn minh cổ ở phương đông đã được tìm thấy, nó cũng cổ xưa như những chủ nhân của các Kim tự tháp Ai Cập. Theo các nhà khoa học hàng hải Ấn Độ, các phần còn lại của thành phố này được khám phá ra tại độ sâu 36 m dưới mực nước biển tại vịnh Cambay ở vùng biển phía Tây Ấn Độ. Và các giám định niên đại bằng C14 cho thấy nó khoảng 9500 năm tuổi.

Posted Image

Thông tin này hoàn toàn trái ngược với quan điểm của hầu hết các nhà sử học và khảo cổ học Châu Âu vốn luôn phủ định, lờ đi, hoặc lấp liếm các bằng chứng (do nó không phù hợp với các học thuyết của họ) của một cái nhìn sâu hơn về sự tồn tại của con người trên hành tinh Trái Đất.

Nền văn minh con người là cổ xưa hơn nhiều so với những gì mà nhiều người vẫn luôn suy nghĩ. Theo BBC's Tom Housden, tường trình trên sự kiện khám phá Cambay: Thành phố rộng lớn – khoảng 5 dặm chiều dài và 2 dặm chiều rộng – tin rằng sẽ đẩy lui niên đại của các tàn tích đã biết tại tiểu lục địa Ấn Độ thêm hơn 5000 ngàn năm nữa.

Posted Image

Công trình đã được khám phá một cách tình cờ bởi các nhà hải dương học từ Học viện công nghệ đại dương quốc gia Ấn Độ, trong khi đang chỉ đạo các nghiên cứu về tình trạng ô nhiễm môi trường. Dùng máy quét sonar, họ đã xác định được các cấu trúc hình học tại độ sâu 120 bộ. Các mảnh vụn được khám phá từ công trình – gồm các vật liệu xây dựng, đồ gốm, các dãy tường, các đường gân nổi hình chuỗi hạt, các trang trí điêu khắc, và xương cùng với răng người – đã được xác định niên đại bằng phương pháp C14 và chứng tỏ chúng khoảng 9500 tuổi.

Posted Image

Hình chụp sonar cho thấy các cấu trúc dưới đáy biển không phải là kiến tạo tự nhiên Posted Image Hình chụp sonar cho thấy các cấu trúc đang bị chôn vùi dưới lớp cát biển

Nhiều bản tường trình khác cũng khẳng định lại đánh giá này. Housden cũng nói:

Toàn bộ các mô hình về nguồn gốc của nền văn minh hiện đại sẽ phải được xây dựng lại từ đầu”.

Tác gia đồng thời là nhà làm phim Graham Hancock, tác giả của các công trình điều tra nghiên cứu về các nền văn minh cổ xưa, đã báo cáo rằng bằng chứng này là rất thuyết phục. Ví dụ, ông nói các nhà hải dương học đã tìm thấy 2 tảng đá lớn lớn hơn bất kỳ thứ gì đã từng được khám phá. “Các thành phố theo quy mô này, là không được biết đến trong các ghi chép khảo cổ học cho đến khoảng 4500 năm trước khi các thành phố lớn đầu tiên bắt đầu xuất hiện ở vùng Lưỡng Hà”.

“Vào giữa tháng giêng năm 2002, các nhà khoa học hàng hải tại Ấn Độ đã tuyên bố rằng họ đã có các bức ảnh sonar (phương pháp phản xạ âm học để định vị, đo đạc các vật thể và các cấu trúc nằm sâu dưới nước) của các vật thể hình vuông và hình chữ nhật khoảng 130 m dưới mặt nước tại vùng bờ biển Tây Bắc Ấn Độ ở vịnh Cambay… các vật thể có các góc vuông.

Bộ trưởng bộ khoa học và kỹ thuật Ấn Độ đã ra lệnh khu vực sẽ được khoanh vùng bảo vệ. Những gì được khám phá đã làm ngạc nhiên các nhà khảo cổ học toàn cầu”

(GrahamHancock.com/news). Linda Moulton Howe, nhà nghiên cứu các sự kiện kiểu này trên khắp thế giới, đã phỏng vấn Michael Cremo về khám phá mới này. Cremo là nhà nghiên cứu và là tác giả của cuốn sách Forbidden Archaeology, đã đến thăm Ấn Độ và dự hội thảo về công trình Cambay.

“Trong vòng vài tháng trở lại đây, các kỹ sư đã bắt đầu tiến hành nạo vét tại đó và họ đã mang lên nhiều hóa thạch xương người, các hóa thạch của gỗ, các dụng cụ đá, các mảnh đồ gốm, và nhiều thứ khác khẳng định rằng đó thực sự là một khu vực định cư của con người. Họ đã có thể tiến hành nhiều hơn các công việc sonar ở đó và đã có thể xác định được nhiều cấu trúc. Chúng có vẻ đã nằm trên bờ một con sông chảy qua từ tiểu lục địa Ấn Độ ra ngoài biển”.

Theo Howe:

“Ngay cả nếu chúng ta không biết kiến thức văn hóa của họ là gì, nếu đó là một thành phố cổ 9500 năm tuổi, thì nó đã cổ xưa hơn nền văn minh Sumeria tới vài ngàn năm. Nó cổ hơn Ai Cập, cổ hơn Trung Hoa. Vì thế nó sẽ triệt để thay đổi bức tranh toàn thể của sự phát triển của các nền văn minh thành thị trên hành tinh này. Giờ đây, nếu các nghiên cứu mở rộng có thể xác định được văn hóa của những người từng sống trong thành phố mà giờ đây đang nằm sâu dưới nước này – nếu đúng họ là những người Veda, thì tôi nghĩ hoàn toàn có khả năng xác định vị trí của nó tại vùng duyên hải Ấn Độ - Tôi nghĩ điều đó sẽ triệt để thay đổi bức tranh toàn cảnh của lịch sử Ấn Độ mà đã được viết ra bởi các nhà khảo cổ phương Tây trước đây”.

Để đọc thêm thông tin và các khám phá cổ xưa nhất trước đây, tại Harappan, và quan hệ của nó với Truyền thuyết Veda, hãy tìm đọc bài báo của Linda Moulton Howe tại website của cô EarthFiles.com Tất cả những khám phá gần đây chỉ rõ rằng thực tế có nhiều nền văn minh phát triển cao hơn những gì hiện nay chúng ta tin tưởng, ngay cả trong thời kỳ Băng Hà.

Bên cạnh đó, còn có nhiều các cấu trúc đền đài được tìm thấy trại nhiều vùng biển khác nhau trên thế giới. Từ Nhật Bản đến Cuba, những khám phá gần đây chứng tỏ rằng đã từng tồn tại những nền văn minh, những xã hội cao cấp hơn 10000 năm trước đây. Tuy nhiên, những khám phá này cũng chứng minh rằng sự kết thúc bất ngờ của những nền văn minh này có thể được lặp lại.

Tại sao công trình này lại nằm dưới đáy biển, điều gì đã xảy ra? Tại sao lại có nhiều công trình cùng chung số phận với nó như vậy? Ai là chủ nhân đích thực của các công trình dưới đáy biển, khi giám định cho thấy chúng đã tồn tại trước vài ngàn năm so với những nền văn minh sớm nhất mà chúng ta đã biết? Nền văn minh Lưỡng Hà, nền văn minh cổ Trung Hoa, nền văn minh cổ Ai Cập và nền văn minh cổ Ấn Độ không phải là điểm bắt đầu của lịch sử nhân loại. Với những dữ liệu và bằng chứng khảo cổ thu thập được càng ngày càng nhiều hơn, đã đến lúc cần phải xem xét lại toàn bộ lịch sử loài người một cách nghiêm túc.

Kỹ thuật hàng không vũ trụ thời tiền sử

Vào năm 1929, một nhóm các nhà sử học đã tìm thấy một bản đồ kì lạ được vẽ trên da linh dương gazel. Nghiên cứu cho thấy đó là một bản đồ thật được vẽ vào năm 1513 bởi Piri Re’is, một đô đốc hạm đội Thổ Nhĩ Kỳ vào thế kỷ thứ 16. Niềm yêu thích của ông ta là nghệ thuật vẽ bản đồ. Địa vị cao trong hàng ngũ hải quân Thổ khiến ông được phép tiếp cận với Thư viện Hoàng gia Constantinop. Ông khẳng định rằng bản đồ mà ông biên soạn là sao chép lại dữ liệu từ nhiều bản đồ khác nhau, một vài trong số đó có giám định niên đại vào khoảng thế kỷ thứ 4 trước công nguyên.

Posted Image

Bản đồ thể hiện vùng bờ biển Tây Phi, bờ biển Nam Mỹ, và bờ Bắc của Nam Cực. Đường bờ biển Nam Cực được vẽ chi tiết đến hoàn hảo. Tuyến bờ biển dọc Nam Mỹ và Bắc Mỹ, thậm chí cả hình dáng của Cực Nam cũng đều được vẽ một cách tỷ mỷ trong bản đồ Re’is. Ở đó không chỉ thể hiện hình dáng của đại lục, vẽ tỷ mỷ sự phân bố địa hình trong đất liền mà còn chứa đựng những điểm cực kỳ chính xác, biểu thị đầy đủ núi, dãy núi, đảo, sông, suối và cao nguyên. Điều khiến người ta kinh ngạc là dãy núi ở cực Nam đến năm 1852 mới phát hiện ra, nhưng nó đã được vẽ đầy đủ trên bản đồ Re’is.

Tuy nhiên câu hỏi làm sao Piri Re’is có thể vẽ một bản đồ chính xác đến thế của vùng Nam Cực đến 300 năm trước khi nó được khám phá không phải là câu hỏi lớn nhất, mà việc bản đồ thể hiện đường bờ biển Nam Cực nằm dưới lớp băng dày mới là bí ẩn khó giải thích nhất. Các bằng chứng địa chất khẳng định rằng thời điểm mà vùng đất Queen Maud Land của Nam Cực không có băng giá gần đây nhất là vào khoảng 4000 năm trước công nguyên. Vào ngày 6/7/1960 Không lực Hoa Kỳ đã trả lời giáo sư Charles H. Hapgood của trường đại học Keene College một cách chính xác các thỉnh cầu của ông về việc thẩm định giá trị của bản đồ tiền sử Piri Re’is. Nội dung bức thư như sau:

"Giáo sư Hapgood thân mến, Thỉnh cầu thẩm định các đặc điểm bất thường của bản đồ Piri Re’is được vẽ năm 1513 tới chúng tôi đã được xem xét. Lời khẳng định rằng phần dưới của bản đồ biểu thị bờ biển Princess Martha của Queen Maud Land Nam Cực và Bán đảo Palmer là hợp lý. Chúng tôi thấy rằng đây là một kết luận hợp lôgic nhất và có khả năng đúng nhất. Các chi tiết địa lý thể hiện trong phần dưới của bản đồ cực kỳ giống với các kết quả của phương pháp đo đạc dùng sóng địa chấn xuyên qua đỉnh của chỏm băng bởi các nhà thám hiểm Thụy Điển – Anh vào năm 1949. Điều này cho thấy đường bờ biển đã được vẽ trước khi nó bị băng bao phủ. Chỏm băng trong khu vực hiện nay dày khoảng 1 dặm. Chúng tôi không thể hiểu nổi làm thế nào dữ liệu trên tấm bản đồ này có thể được biết đến với tình trạng kiến thức địa chất vào năm 1513".

Khoa học chính thống khẳng định rằng chỏm băng bao phủ Nam Cực là hàng triệu tuổi. Bản đồ Piri Re’is cho thấy vùng phía Bắc của lục địa Nam Cực đã được vẽ trước khi nó bị băng bao phủ. Điều này không khỏi khiến ta nghĩ rằng nó đã được vẽ ra hàng triệu năm trước, nhưng điều đó là không thể bởi con người theo thuyết tiến hóa* chưa tồn tại vào thời điểm đó. Và các nghiên cứu xa hơn và chính xác hơn đã chứng minh thời kỳ Không Băng gần đây nhất kết thúc vào khoảng 6000 năm trước đây. Vẫn có những nghi ngờ về thời điểm bắt đầu của thời kỳ Không Băng này, được đưa ra bởi nhiều nhà nghiên cứu khác nhau dao động vào khoảng từ 13 đến 9 ngàn năm trước công nguyên.

Câu hỏi đặt ra là: Ai đã vẽ Queen Maud Land của 6000 trước. Nền văn minh chưa được biết đến nào có công nghệ cần thiết để làm được điều này?

Ngày nay người ta cho rằng nền văn minh sớm nhất của loài người, theo lịch sử truyền thống được dạy trong trường, đã phát triển tại Trung Đông vào khoảng năm 3000 trước công nguyên, không lâu sau là nền văn minh thung lũng Indus Ấn Độ, nền văn minh cổ Ai Cập và nền văn minh Hoàng Hà TQ. Vì thế, không có nền văn minh đã biết nào có thể làm công việc này. Ai đã ở đây 4000 năm TCN, để có thể làm những việc mà chúng ta đến tận bây giờ mới làm được với các công nghệ tối tân?

Vào thời Trung Cổ đã tồn tại một số bản đồ hàng hải được gọi là "portolani", là thứ bản đồ chính xác của các con đường biển, các đường bờ biển đã biết, các bến cảng, các eo biển, các vịnh … thông thường nhất. Phần lớn những bản đồ này tập trung tại vùng Địa Trung Hải và các biển Aegean, và những con đường được biết khác, như là quyển sách hàng hải mà chính Piri Re’is đã viết. Nhưng một vài báo cáo của những vùng đất vẫn chưa được biết đến, và lưu thông trong một số rất ít thủy thủ có vẻ đã cố gắng giữ kín những kiến thức của họ về những tấm bản đồ đặc biệt đó càng bí mật càng tốt. Piri Re’is có thể đã được tiếp cận với một số bản đồ như thế khi đến Thư viện của Alexandria, thư viện quan trọng nhất nổi tiếng trong thời kỳ cổ đại. Chiểu theo suy luận của Hapgood, những bản copy của những tài liệu này và một số trong những bản đồ gốc đã lưu chuyển đến những trung tâm nghiên cứu khác, và mang chúng tới Côngstantinốp. Thế là vào năm 1204, năm của lần Thập tự chinh thứ tư, khi những người Venetian xâm nhập Constantinov, những bản đồ này bắt đầu quay vòng trong những thủy thủ Châu Âu.

Để vẽ tấm bản đồ của mình, Piri Re’is đã dùng nhiều nguồn khác nhau, thu thập đây đó trong suốt những chuyến đi của mình. Chính ông đã ghi chú lại nhiều trên tấm bản đồ này nhờ đó chúng ta có thể hình dung được công việc ông đã làm với tấm bản đồ này. Ông bảo ông không chịu trách nhiệm về các nguồn dùng để vẽ nên bản đồ này. Vai trò của ông đơn thuần là của một người soạn thảo dùng một số lớn các nguồn bản đồ gốc khác nhau. Ông cũng nói rằng một vài trong những bản đồ gốc đã được vẽ bởi một số thủy thủ đương thời, trong khi một số khác là từ các bản đồ rất cổ, có niên đại từ khoảng thế kỷ 4 TCN trở về trước. Sự chính xác tuyệt đối của các bản đồ gốc mà Piri Re’is dựa vào có thể nhận thấy trên tấm bản đồ của ông. Những điểm không chính xác hiếm hoi của bản đồ Piri Re’is là các lỗi của chính Piri Re’is tự gây ra trong quá trình tổng hợp từ các bản đồ tiền sử, mà chủ yếu là : tổng hợp các bản đồ gốc không cùng một tỉ lệ, tổng hợp sai phương vị theo một góc quay lệch.

Posted Image

Vào năm 1953, một sỹ quan hải quân gửi tấm bản đồ Piri Re’is đến Thủy Cục Hải Quân Hoa Kỳ. Để giám định nó M.I. Walters, Kỹ sư trưởng của Cục, đã tham vấn Arlington H. Mallery, một chuyên gia lớn về các bản đồ cổ, người đã từng làm việc với ông ta.

Sau một nghiên cứu dài hơi, Mallery đã khám phá ra phép chiếu đã được sử dụng trong bản đồ. Để kiểm tra mức độ chính xác của bản đồ, ông đã tạo ra một hệ lưới ô và dịch chuyển bản đồ của Piri Re’is vào quả cầu: bản đồ hoàn toàn chính xác. Ông phát biểu rằng cách duy nhất để vẽ nên một tấm bản đồ chính xác đến thế chỉ có thể là ở góc nhìn từ trên cao, nhưng ai, 6000 năm trước, có thể có máy bay để mà vẽ bản đồ Trái Đất ?

Thủy Cục Hải quân không thể tin nổi vào mắt mình: họ đã, thậm chí có thể sửa lại những lỗi sai trong cái bản đồ hiện đại mà họ đang dùng lúc đó !! Độ chính xác dựa trên sự kiểm tra tọa độ kinh độ, mặt khác, cho thấy để vẽ được bản đồ cần thiết phải dùng phương pháp Lượng giác hình Cầu, một thành tựu chưa được phát minh cho đến giữa thế kỷ 18.

Hapgood đã chứng minh rằng bản đồ Piri Re’is là được vẽ trong hình học phẳng, chứa các kinh và vĩ độ vuông góc trong một “lưới ô” truyền thống; bởi thế nó đã được sao lại từ một bản đồ trước mà đã được chiếu ra sử dụng phép lượng giác hình cầu! Không chỉ rằng những người làm ra cái bản đồ gốc đó biết rằng quả đất hình cầu, mà họ còn có kiến thức về chu vi Trái Đất với sai số nhỏ hơn 50 dặm!

Hapgood đã gửi bộ sưu tập những bản đồ cổ (chúng ta có thể thấy bản đồ Piri Re’is không phải là bản đồ duy nhất như thế …) đến Richard Strachan, tại Học viện Công nghệ Massachusetts. Ông muốn biết chính xác cấp độ toán học cần thiết để vẽ nên các bản đồ gốc cao đến đâu. Strachan đã trả lời năm 1965 rằng, cấp độ đó phải rất cao.

Thực tế Strachan đã nói để vẽ những tấm bản đồ như thế, các phương pháp hình chiếu, kiến thức cần thiết là của một cấp độ cực cao. Cái cách mà bản đồ Piri Re’is thể hiện Queen Maud Land, các đường bờ biển của nó, các con sông, dãy núi, các sa mạc, các vịnh, có thể được xác nhận bởi một nhóm thám hiểm Anh – Thụy Điển đến Nam Cực (như đã nói bởi Olhmeyer trong thư gửi Hapgood); những nhà nghiên cứu, dùng các thiết bị sonar và sóng địa chấn, đã khẳng định những vịnh và sông, vv … là đang nằm dưới chỏm băng dày khoảng 1 dặm.

Charles Hapgood, vào năm 1953, đã viết một cuốn sách tựa đề "Earth's shifting crust: a key to some basic problems of earth science" – “Sự dịch chuyển vỏ Trái Đất: chìa khóa cho những vấn đề cơ bản của khoa học về Trái Đất”, ở đây ông đã xây dựng một thuyết để giải thích làm thế nào lục địa Nam Cực có thể Không Băng cho đến 4000 năm TCN.

Thuyết này có các luận điểm chính như sau:

1. Nguyên nhân Nam Cực không có băng phủ, và vì thế ấm hơn nhiều, là vào một thời kỳ quá khứ xa xôi, địa điểm của nó không phải nằm ở vị trí hiện nay trên vỏ Trái Đất. Nó ngày xưa nằm tại vị trí khoảng 2000 dặm về phía Bắc so với hiện tại. Hapgood nói rằng “có thể đặt nó ra ngoài vòng Nam Cực trong một khí hậu ôn hòa hoặc tương đối lạnh”.

2. Nguyên nhân lục địa này di chuyển xuống đến địa điểm như ngày nay có thể được tìm thấy trong một cơ chế gọi là “sự trượt vỏ Trái Đất”. Cơ chế này, không nên nhầm lẫn với thuyết về kiến tạo mảng hoặc là sự trượt lục địa, là một thứ nhờ đó mà quyển đá, toàn thể vỏ ngoài của trái đất “có thể dịch chuyển theo thời kỳ, dịch chuyển trượt qua phần dẻo hơn bên trong, giống như là da của một trái cam, nếu nó lỏng lẻo, có thể dịch chuyển trên phần bên trong của quả cam toàn thể đồng thời”. (Charles Hapgood, trích dẫn trong sách "Maps of the ancient sea-kings").

Thuyết này đã được gửi cho Albert Einstein, và ông rất hứng thú nhiệt tình trả lời một cách nhanh chóng. Mặc dù các nhà địa chất dường như không chấp nhận thuyết của Hapgood, Einstein có vẻ còn cởi mở phóng khoáng hơn cả Hapgood khi phát biểu:

“Trong một vùng địa cực có một sự tan rã dần dần của băng tuyết, không được phân phối đồng đều xung quanh cực. Sự xoay chuyển của Trái Đất dựa trên những khối lượng bất đối xứng, và gây ra một xung lượng ly tâm truyền đến lớp vỏ cứng của Trái Đất. Sự tăng dần đều của xung lượng bất đối xứng được sản sinh ra khi đến một điểm giới hạn nào đó, sẽ gây ra một chuyển động của lớp vỏ cứng Trái Đất phía trên phần bên trong của nó”.

Lời dẫn của Einstein cho cuốn sách “Sự dịch chuyển lớp vỏ cứng của Trái Đất”, trang 1 :

"In a polar region there is a continual deposition of ice, which is not symmetrically distributed about the pole. The earth's rotation acts on these unsymmetrically deposited masses, and produces a centrifugal momentum that is transmitted to the rigid crust of the earth. The constantly increasing centrifugal momentum produced in this way will, when it has reached a certain point, produce a movement of the earth's crust over the rest of the earth's body...." (Einstein's foreword to "Earth's shifting crust" p.1)

Dù sao, dẫu Hapgood đúng, bí ẩn vẫn nhiều.

Bản đồ Piri Re’is là một thứ gì đó có vẻ hoang đường. Dường như không có cách nào mà một người ở trong thời đại xa xưa có thể vẽ một tấm bản đồ chính xác như thế; thực tế các tọa độ kinh độ là hoàn toàn chính xác. Và đó là thể hiện của một trình độ kỹ thuật công nghệ không tin nổi: phương tiện tính toán vĩ độ chính xác tương đối đầu tiên mới chỉ được phát minh vào năm 1761 bởi một người Anh tên là John Harrison, tức là sau Piri Re’is 248 năm. Và trước đó không có cách nào có thể tính toán vĩ kinh độ chính xác đến mức có thể chấp nhận được: phải có những lỗi đến hàng trăm km. Và tấm bản đồ Piri Re’is chỉ là một trong nhiều bản đồ thể hiện những vùng đất chưa được biết đến, những kiến thức không thể tin nổi, với độ chính xác mà ngày nay chúng ta cũng phải kinh ngạc.

Thực tế Piri Re’is bản thân cũng khẳng định ông đã lấy những bản đồ cổ hơn làm nguồn; và những bản đồ này đã được dùng như là nguồn gốc cho những người đã vẽ những tấm bản đồ khác nhau mà cho đến lúc đó vẫn ở độ chính xác tuyệt vời. Ấn tượng là “Dulcert's Portolano” “Bản đồ của Dulcert” năm 1339, vĩ độ của Châu Âu và Bắc Phi là hoàn hảo, và tọa độ kinh độ của Địa Trung Hải và Biển Đen là chính xác đến từng nửa độ.

Và đáng kinh ngạc hơn là “Zeno's chart”, “Bản đồ của Zeno”, vẽ năm 1380. Nó cho thấy một vùng rộng lớn ở phía Bắc, chạy dọc đến Greenland; độ chính xác của nó gây sửng sốt.

Một bản đồ gây sửng sốt nữa được vẽ bởi Hadji Ahmed người Thổ Nhĩ Kỳ, vào năm 1559, trong đó ông thể hiện một dải đất liền khoảng 1600km chiều rộng, nối liền Alaska và Siberia. Giống như một cây cầu tự nhiên từng tồn tại, đã bị bao phủ bởi nước vào cuối kỷ Băng Hà vừa rồi khi mực nước biển tăng lên. Oronteus Fineus là một người khác đã vẽ một tấm bản đồ chính xác khó tin khác. Ông đã vẽ Nam Cực không có băng, vào năm 1532. Có những tấm bản đồ thể hiện Greenland làm 2 phần tách biệt, đúng như sự khẳng định của đội thám hiểm địa cực người Pháp đã khám phá ra có một tảng băng rất dày nối liền 2 hòn đảo tách biệt để tạo thành Greenland.

Như ta đã thấy, nhiều bản đồ là thuộc về những thời kỳ rất cổ xưa, và ta có thể nói rằng toàn thể hành tinh đều đã được vẽ trên bản đồ vào thời đó. Chúng dường như là những mảnh nhỏ của một tấm bản đồ thế giới cổ đại, được vẽ bởi những người bí ẩn sở hữu những công nghệ rất cao ngay cả so với ngày nay. Khi toàn thể loài người có lẽ còn sống trong thời kỳ hoang sơ thì ai đó đã “vẽ ra giấy” toàn bộ bề mặt địa lý của hành tinh. Và nó là một kiến thức phổ biến, bằng một cách nào đó bị chia cắt thành nhiều mẩu nhỏ để rồi lại được tập hợp đây đó bởi một vài người, và họ chỉ sao chép những gì họ có thể tìm thấy trong các thư viện, các khu chợ Đông Phương và bất cứ nơi nào họ tìm thấy chúng.

Hapgood đã vạch rõ những điều kinh ngạc hơn nữa: Ông đã tìm thấy một tài liệu bản đồ được sao chép bởi một nguồn cổ hơn được vẽ trên một cột đá, ở TQ, vào năm 1137. Nó thể hiện cũng một trình độ kỹ thuật công nghệ cao như thế, với cùng một phương pháp lưới ô, với cùng sự sử dụng phương pháp lượng giác hình cầu như vậy. Nó có quá nhiều điểm chung với những bản đồ Châu Âu khác, khiến ta phải nghĩ rằng phải có một nguồn gốc chung: có thể nó thuộc về một nền văn minh đã diệt vong nhiều ngàn năm trước?

Như chúng ta có thể thấy bên dưới, một phép chiếu góc cực (nhìn Địa Cầu từ một điểm trên cao), từ một điểm bên trên Cairo, Ai Cập thuộc châu Phi cho thấy tấm bản đồ của Piri Re’is

Posted Image

Ta dễ dàng nhận thấy những điểm tương đồng ngoạn mục giữa bản đồ vệ tinh hiện đại với tấm bản đồ của Piri Re’is

(còn tiếp)

Share this post


Link to post
Share on other sites

Trời ơi! Đây sẽ là những bằng chứng cực kỳ thuyết phục cho luận điểm của tôi:

Một lý thuyết thống nhất xuất hiện từ một nền văn minh toàn cầu cổ xưa đã tồn tại trên trái đất.

Không thể có một sự nhận thức về thế giới chung quanh siêu đẳng thể hiện qua những di sản này mà chủ nhân của nó chỉ là những liên minh bộ lạc. Ngược lại, sự tồn tại của những di sản đã xác định một trí thức huyền vĩ phải có trước nó, để tạo ra nó.

Tất cả đều chìm dưới biển?! Tại sao lại như vậy?!

Vừa qua tôi đi Vịnh Hạ Long - điều mà tôi nhận thức được chính là: Một quần thể núi đã chìm dưới biển và chính những đỉnh núi nhô lên tạo ra cảnh quan kỳ vĩ ở đây. Hạ Long - phần cuối của con rồng - mà đầu rồng chính ở Hy Mã Lạp Sơn. Điểm chót của Hạ Long chính là đảo Bạch Long Vĩ. Kết hợp với Kim Tự Tháp dưới biển Nhật Bản cho ta thấy rằng: Toàn bộ biển từ phía trên Nhật Bản vòng cho đến Ân Độ Dương một thời là đất liền thuộc về nền văn minh toàn cầu này. Những cấu trúc đá của những thành phố chìm dưới biển và mặt đất ở mọi nơi trên trái Đất đồng nhất phong cách, chứng tỏ rằng nó phải có sự thống nhất về văn hóa toàn cầu.

Một nền văn minh toàn cầu đã tồn tại - tất yếu nó phải có một giá trị trí thức thể hiện nó, qua những gì còn lại mà mọi người đã nhìn thấy.

Ngược lại, khi xác định một trí thức siêu việt - Thuyết Âm Dương Ngũ hành - vượt trội so với tri thức của nhân loại hiện đại - Tất yếu nó phải xuất phát từ một nền văn minh khác, không phải của nhân loại hiện nay - Tất nhiên nó không thể do Chu Văn Vương bị giam ở ngục Dữu Lý trực ngộ tâm linh; hoặc Đại Vũ tìm thấy trên lưng rùa, hoặc khổng từ viết thập dực...vv....Những bằng chứng này xác định luận điểm của tôi.

Một lần nữa cảm ơn anh Quangnx.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Những chiếc máy bay cổ đại?

Từ “Chim sấm” là một giải thích có lý đối với những người thời cổ đại khi cố gắng giải thích máy bay bằng các kinh nghiệm sống và vốn từ vựng của họ! Không có từ ngữ nào biểu đạt khái niệm “máy bay”, thì những thuộc tính liên hệ có thể được ghép nối với nhau để biểu thị cái khái niệm của họ.

Đó là cách mà những thực thể huyền thoại đáng sợ được tạo ra từ những cỗ máy đó, nhưng chúng thể hiện không có gì nhiều hơn là những cỗ máy công nghệ cao không được thấu hiểu.

Posted Image

“Chim sấm” là một thực thể huyền thoại trong truyền thuyết cổ Ấn Độ. Nó được gọi là Wakinyan trong ngôn ngữ Lakota, có nghĩa là “cánh thiên thần”. Những chiếc cánh của nó dang rộng và cuốn những đám mây lại với nhau.

Những người Canada bản xứ kể lại rất chi tiết những câu chuyện về những “Chim sấm”, mà những sinh vật có liên quan đến chúng có thể chuyển hóa thành người, khi cái vòi trên đầu trở thành một chiếc mặt nạ và họ tháo bộ cánh trên người ra.

Cũng có những câu chuyện mà chi tiết những con chim lửa dưới hình dạng con người đã kết duyên với những gia đình và việc các gia đình đó có thể tiếp nối dòng dõi thần thánh được mô tả như là một sự kiện. Những thị tộc của “Chim sấm” trong hình dạng con người đã chung sống với họ ở cực Bắc vùng Vancouver.

Posted Image

Câu chuyện của Phaeton:

Phaeton, con của thần mặt trời Helios, được cha ban cho một điều ước. Phaeton ước được lái chiếc xe của cha. Helios không đồng ý vì cỗ xe thiên đường chỉ có thể được điều khiển bởi Thần mặt trời. Nó quá mạnh và quá nhanh không thể điều khiển nổi bởi bất kỳ ai khác. Helios đã lo lắng điều không hay sẽ xảy ra và đề nghị con trai, “con không bao giờ lái nổi nó đâu”, nhưng Phaeton không nghe. Nỗi lo sợ đã trở thành hiện thực, cỗ xe đã bay quá nhanh về phía thiên đường và nát tan tành.

Một trong những tác gia và nhà nghiên cứu hàng đầu của Astro Archaeology đã du lịch khắp thế giới nhiều lần để tìm kiếm các mẫu vật siêu tự nhiên. Ông khám phá ra một mẫu vật trong viện bảo tàng khảo cổ Thổ Nhĩ Kỳ một di vật chạm khắc đá kỳ lạ, miêu tả tỉ mỉ một phi thuyền vũ trụ công nghệ cao hình con nhộng. Thiết bị đáng kinh ngạc này thể hiện nhiều tính năng của một tàu vũ trụ hiện đại, ống thải động cơ phản lực phía sau đuôi, và một buồng lái với phi công đang ngồi và mặc một bộ đồ du hành đang điều khiển con tàu.

Posted Image

Mô hình tàu vũ trụ phản lực được tìm thấy tại Istanbul Thổ Nhĩ Kỳ

“Những quái vật khạc ra lửa trên mặt đất, có thể bay như một con chim với tiếng động điếc tai, ồn ào như một cơn bão, nhanh như một con cá trong nước và đáng sợ như một con cá sấu ?”.

“Điều khiển một thiết bị bay là một đặc quyền. Các kiến thức về bay lượn là một phần trong những của cải thừa kế cổ xưa nhất của chúng ta, một món quà từ “ai đó từ bên trên”. Chúng ta nhận nó như là một công cụ để cứu sống nhiều sinh mạng…”

[Trích trong Hakahta, The Babylonian Laws]

Có phải những cư dân đầu tiên của Bắc Mỹ đã miêu tả những gì họ nhìn thấy với hiểu biết và vốn từ của họ ?.

Có phải đó là nguyên nhân mà những từ ngữ như "thunderbird", "steel steed", "firewater", vv… đã được thêm vào trong ngôn ngữ của họ.

Posted Image

Mô hình thiết bị bay được tìm thấy trong các ngôi mộ cổ

Posted Image

Một vị thần với ống thở cũng được thể hiện trong một bia đá kinh điển tại Tikal, Peru

Posted Image

Những bức tượng cổ khác tìm thấy rải rác khắp nơi trên thế giới, có nhiều điểm tương đồng với các phi công vũ trụ hiện đại ngày nay trong bộ quần áo phi hành gia

Posted Image

2 công trình điêu khắc này tìm thấy tại Colombia. Tượng bên phải được cho là một phi công đang lái phi thuyền vũ trụ

Trung tâm lớn nhất của người Maya được tìm thấy cho đến nay, Tikal, được xây dựng như là một thành phố thần thánh. Thông điệp này đã được giải mã từ một tấm bia đá tìm thấy tại đây: “Nơi này các vị Thần có nguồn gốc từ các vì sao đã xuống Trái Đất”

Posted Image

Phải chăng các hình ảnh khắp thế giới chứng tỏ rằng những người trở về từ nơi xa xăm nào đó trong vũ trụ cùng với các thiết bị kỹ thuật cao đã đươc người thời đó thần thánh hóa ? Hay đó là những hậu duệ của một nền văn minh thượng cổ đã bị diệt vong, họ quay trở về tái thiết lại chu kỳ văn minh mới cho nhân loại thời kỳ mới?

Ngay trong cả các chuyện kể sớm nhất của người Sumeria (3000 năm TCN) cũng đã ghi nhận về một vương quốc ở thiên đường đã xuống định cư tại thành phố Eridu. “Khi vương quốc thiên đường đến Trái Đất, nó đã trải rộng ra thành Eridu”. (Danh sách các vị vua Sumeria – Sumerian List of Kings)

Nếu thế thì phải có các đường băng cổ đại hay là cái gì đó tương tự?

Posted Image Posted Image Posted Image

Những đường băng này nằm tại sa mạc Nazca, cách Peru 3000 km về phía Nam!

Trong các chuyện kể Sumer:

“Một giọng nói cất lên: Ngài đã chuẩn bị con đường trong sa mạc, Thượng Đế đã làm một con đường bằng phẳng từ thảo nguyên! Tất cả các thung lũng phải cao lên, và tất cả các ngọn núi phải thấp xuống, và cái mà không bằng phẳng, trở nên thẳng tắp, và cái mà nhiều đồi núi cao, trở nên bằng phẳng; bởi hào quang của Ngài phải được nhìn thấy!

Cỏ héo, hoa tàn; bởi vì Ngài đến đó thình lình”. (Isaiah Chương 40 Phần 3/4/5/7, Cựu Ước)

Trong các chuyện kể Ai Cập cổ đại có kể rằng Thần Seth đang chuẩn bị cắt các dãy núi và đang chuẩn bị bay trên các “con tàu mặt trời” cùng với những “đồng sự” của mình.

Khu vực Palpa trong sa mạc Nazca cho thấy các kiến tạo núi mà bị các nhà khảo cổ học lờ đi không để mắt đến. Các chỏm núi bị san bằng trông như một sân bay vũ trụ. “Welcome” – “Chào mừng”.

Trên một sườn núi, hình vẽ khổng lồ này thể hiện một người đang đứng trong tư thế giơ tay chào. Nó có một cái tên rất hợp do người bản xứ đặt cho, là “El Astronauta” Những hình vẽ nguệch ngoạc trong sa mạc phải được nhìn thấy từ không gian để có thể nhận ra chúng bởi chúng quá to lớn.

Posted Image

Những hình vẽ Stupas hàng ngàn tuổi bí ẩn này thể hiện điều gì?

Phải chăng trong quá khứ xa xôi, Trái Đất từng tồn tại một nền văn minh lớn có thể bay vào các không gian vũ trụ?

Posted Image

Quetzalkoatl là vị Thần mang văn hóa đến cho nền văn minh Maya và người Aztecs. Còn có tên là Kukulcan và Kukumaz. Theo truyền thuyết, Quetzalkoatl đến Inca từ thiên đường và sáng lập ra đế chế Inca.

Posted Image

Xem xét kỹ, qua các nét cách điệu sâu sắc trên bức tượng ta vẫn nhận thấy được những dấu vết của bộ quần áo phi hành gia vũ trụ

Posted Image

Thêm nhiều mẫu vật tương tự tìm thấy tại nhiều địa điểm, nhiều nền văn hóa khắp thế giới. So sánh với một phi hành gia trong bộ áo du hành

Ta hãy đọc đoạn văn: “Bhima bay trên chiếc Vimana của mình, trên một tia sáng ghê gớm có ánh sáng của mặt trời, âm thanh của nó nghe như tiếng sấm trong cơn bão… Cỗ xe chiếu sáng như một ngọn lửa trên bầu trời đêm hè… nó lướt qua một sao chổi…trông như là 2 mặt trời đang chiếu sáng. Sau đó cỗ xe bay vọt lên và toàn thiên đường được chiếu sáng” (Trích trong cổ văn Mahabharata của Ấn Độ)

Làm thế nào người này có thể biết kể về việc lướt qua sao chổi rành mạch và thực đến thế, nếu như không có kinh nghiệm bay thực tế. Làm sao anh ta biết được hiện tượng bay lên rất cao ra ngoài khoảng không vũ trụ thì bóng đêm biến mất và bầu trời sáng lên vì nhìn thấy ánh mặt trời?

“Anh ta bước đi trên lâu đài thần thánh yêu thích của Indra và thấy hàng ngàn các cỗ xe bay của các vị Thần, một số đang tắt, số khác đang di chuyển”.

“Khi 3 thành phố gặp nhau trên bầu trời, anh ta lách qua chúng với tia sáng của ngọn lửa 3 chòm của anh ta”. “Và thành phố thiên đường của Indra, mà Arjuna đến, thật tráng lệ … Arjuna nhìn thấy các cỗ xe thiên đường khác, hàng ngàn, tất cả chúng có sức mạnh đi đến bất kỳ đâu, kéo dài đến các nơi của họ … Cái được nhìn thấy như là một ngôi sao từ Trái Đất, như những ngọn đèn bởi khoảng cách quá xa xôi, thực tế là rất lớn”. (Mahabharata, Ramayana: Các cổ văn Ấn Độ)

Những đoạn trên nếu một người ở thế kỷ 19 trở về trước đọc sẽ chẳng có một chút ấn tượng hay ý tưởng nào. Nhưng ở thời đại chúng ta ngày nay với máy bay và tàu vũ trụ, đọc lại các cổ thi hàng ngàn năm này mới có thể hiểu chính xác những con người thời thượng cổ đó nói đến điều gì.

Các Vimana trong Mahabharata và các cổ văn khác:

Mahabharata là một trong hai cuốn cổ văn tiếng Phạn (Sanskrit) Ấn Độ cổ, cuốn thứ hai là Ramayana. Mahabharata bao gồm hơn 74.000 câu thơ và những đoạn văn xuôi dài, tổng cộng khoảng 1,8 triệu từ, và là cuốn thiên sử dài nhất trên thế giới, gấp bảy lần tổng số câu thơ của hai bộ sử thi Hy Lạp cổ đại là Iliad và Odyssey cộng lại. Tác phẩm này được coi là "Đại Bách khoa toàn thư" của Ấn Độ cổ xưa.

Theo Bách khoa toàn thư Việt Nam thì Mahabharata ra đời khoảng thế kỷ 5 TCN và được sửa chữa dần, hoàn thiện khoảng thế kỷ 5 SCN. Theo nhiều nhà nghiên cứu hiện đại Mahabharata là Lịch Sử, hơn nữa là lịch sử của một thời kỳ rất cổ xưa, hơn rất nhiều so với những gì được biết.

Mahabharata kể về cuộc chiến tranh của 2 dòng họ Kaurava và Pandava. Cuộc chiến dường như được xếp đặt của các vị Thần cổ xưa Ấn Độ với ý định giải quyết vấn đề dân số quá đông của thế giới (khoảng 14 tỉ người lúc đó, theo nội dung Mahabharata).

“Một thiết bị mà có thể di chuyển về phía trước dựa trên sức mạnh của bản thân nó như một con chim: trên mặt đất, trên nước hoặc trên không, được gọi là “Vimana”, thứ mà có thể bay cao đến thiên đường: từ nơi này đến nơi khác, từ đất nước này đến đất nước khác, hoặc từ thế giới này đến thế giới khác, được gọi là “vimana”, từ các thầy tu của khoa học” (Trích vaimanika-sastra, Cổ văn Ấn Độ)

Một số trong những chiếc vimana dùng như những chiếc máy chiến tranh và những vũ khí phá hoại. Thực tế, nhiều cổ văn Ấn Độ đã mô tả chúng được dùng trong chiến tranh. Và trong cổ văn Rig Veda, mà nhiều người cho rằng là tài liệu cổ xưa nhất được biết đến, các cỗ xe bay được biết rất rõ và những chủng loại đặc biệt sau đây được mô tả cụ thể:

Jalayan – cỗ xe được thiết kế để hoạt động trong nước và trong không khí (Rig Veda 6.58.3) Kaara- cỗ xe được thiết kế hoạt động trong nước và trên đất bằng (Rig Veda 9.14.1)

Tritala- a vehicle consisting of three stories. (Rig Veda 3.14.1)

Trichakra Ratha - cỗ xe 3 bánh được thiết kế để hoạt động trong không khí(Rig Veda 4.36.1) Vaayu Ratha- cỗ xe chạy bằng khí hoặc sức gió (Rig Veda 5.41.6)

Vidyut Ratha- cỗ xe được thiết kế để vận hành bằng năng lượng (Rig Veda 3.14.1)

7 thành phố lớn nhất của Rama được biết trong các văn bản truyền thống của Ấn Độ là “The Seven Rishi Cities” “7 thành phố của người Rishi”. Theo những văn bản Ấn Độ cổ đại, những những thiết bị bay này được miêu tả gồm có 2 tầng, hình tròn với những lỗ cửa sổ ở thành tàu và một mái vòm, rất giống với cái mà ta gọi là đĩa bay. Nó bay với “tốc độ của gió”.

Có ít nhất 4 loại hình dạng vimana. Một số hình đĩa, một số hình điếu xì gà. Những văn bản cổ xưa của Ấn Độ về vimana là vô số kể, có thể sưu tập đóng thành nhiều tập sách. Những người Ấn Độ cổ, những người đã làm ra những con tàu này, đã viết toàn bộ những hướng dẫn điều khiển bay của từng loại vimana, nhiều trong số chúng đến nay vẫn còn, và một số đã được thậm chí dịch sang tiếng Anh. Tài liệu này đã được dịch sang Anh ngữ và có thể tìm đọc: VYMAANIDASHAASTRA AERONAUTICS dịch sang tiếng Anh và biên soạn bởi tác giả Maharishi Bharadwaaja, in ấn và phát hành bởi G.R. Josyer, Mysore, India, 1979. Ông Josyer là giám đốc của International Academy of Sanskrit Investigation có trụ sở tại Mysore. Có vẻ không nghi ngờ rằng Vimana được cung cấp năng lượng bởi một loại thiết bị “phản trọng lực”. Vimana cất cánh thẳng đứng, và có thể bay lượn trong không gian, như một trực thăng hoặc khí cầu.

Bharadvajy đã dẫn ra không ít hơn 70 căn cứ và 10 chuyên gia khác nhau về du hành không gian thời cổ đại. Samara Sutradhara là một luận thuyết khoa học quan hệ với mỗi góc cạnh của du hành không gian trong 1 chiếc vimana. Có 230 đoạn liên quan với việc chế tạo, cất cánh, tuần tra hàng ngàn dặm, hạ cánh bình thường và khẩn cấp, và cả những va chạm với chim chóc.

Vào năm 1875, Vaimanika Sastra, một văn bản có niên đại thế kỷ 4 trước công nguyên viết bởi Bharadvajy the Wise, dùng ngay cả những văn bản cổ xưa hơn cả nguồn của ông, được khám phá tại một ngôi đền ở Ấn Độ. Nó có liên hệ với cách vận hành của các vimana và gồm cả các thông tin về cách lái, khuyến cáo thận trọng trong những chuyến bay dài, bảo vệ tàu trước các cơn bão và sấm sét và làm thế nào để chuyển chế độ lái sang “năng lượng mặt trời” từ một nguồn năng lượng kiểu như thiết bị phản trọng lực.

Vaimanika Sastra (Vymaanika-Shaastra) có 8 chương với các biểu đồ, mô tả 3 loại tàu, gồm cả các thiết bị không thể cháy vỡ. Nó còn đề cập đến 31 phần chủ chốt của những thiết bị này và 16 vật liệu chế tạo ra chúng, thứ mà hấp thụ ánh sáng và nhiệt; và lý do vì sao chúng được cho là thích hợp để chế tạo ra các vimana.

Rõ ràng là những người Ấn Độ tiền sử đã bay trong những cỗ xe này, toàn bộ châu Á, Thái Bình Dương; và thậm chí, dường như, đến Nam Mỹ. Văn bản tìm thấy tại Mohenjodaro, Pakistan và vẫn chưa giải mã được, cũng được tìm thấy trên một nơi khác trên thế giới: đảo Easter, được gọi là bản viết tay Rongo-Rongo, cũng chưa giải mã được, và cũng kỳ lạ giống như bản tại Mohenjodaro. Có phải đảo Easter là một cơ sở không gian cho các vimana của đế chế Rama?

Để hiểu rõ hơn về công nghệ, chúng ta phải đi xa hơn vào quá khứ. Cái gọi là “Đế chế Rama” của Bắc Ấn và Pakistan đã phát triển nhiều ngàn năm trước trên tiểu lục địa Ấn Độ và là một quốc gia của nhiều thành phố lớn tân kỳ, nhiều trong số đó có vẻ vẫn nằm đâu đó chờ được khám phá trong các hoang mạc và đáy biển. Rama đã tồn tại, song song với nền văn minh Atlantic.

Chỉ vài năm trước, người TQ đã khám phá ra vài tài liệu tiếng Phạn cổ tại Lhasa, Tây Tạng và đã gửi chúng đến trường đại học Chandrigarh Ấn Độ để phiên dịch. Tiến sĩ Ruth Reyna của trường đại học Chandrigarh đã phát biểu gần đây rằng đó là những tài liệu hướng dẫn chế tạo các phi thuyền vũ trụ!

Những phương pháp động lực học của chúng, cô nói, là “phản trọng lực” và được dựa trên những nguyên lý giống như là “laghima”. Theo các thiền sư Yogi của Ấn Độ, “laghima” là nguyên lý giúp con người có thể tự bay lên bằng phương pháp tập luyện bài bản. Tiến sĩ Reyna nói rằng trên khoang lái của những thiết bị bay này, thứ được gọi là “Astras”, những người Ấn Độ cổ xưa có thể gửi một nhóm người lên những hành tinh khác, theo như những gì nói trong tài liệu, mà có vẻ nhiều ngàn năm tuổi này.

Bản viết tay này còn tiết lộ bí mật của “antima”-“phương pháp tàng hình” và “garima”- “làm thế nào để trở nên nặng như một ngọn núi chì”. Tất nhiên, những nhà khoa học Ấn Độ ban đầu không xem những văn bản này là nghiêm túc, nhưng đang dần nhận ra giá trị của chúng. Những bản viết tay này không nói thẳng về việc du hành giữa các vì sao nhưng có nhắc rõ ràng về một kế hoạch du hành Mặt trăng, mặc dù không ai biết là chuyến đi này đã thực sự được tiến hành hay không.

Tuy nhiên, một trong những cổ văn vĩ đại nhất của Ấn Độ, Ramayana, có những chi tiết rõ ràng về một chuyến du hành lên mặt trăng sử dụng vimana (“Astra”), và thực tế còn thậm chí mô tả chi tiết một cuộc chiến với “Asvin”, một loại tàu của đế chế Atlan. Đây chỉ là một ít trong vô số những bằng chứng về phản trọng lực và công nghệ vũ trụ của người Ấn Độ tiền sử.

Dưới đây là trích dẫn trong các bộ cổ văn Mahabharata và Ramayana, những đoạn nói về các thiết bị bay tiền sử, cũng như về các “Vũ khí tối hậu” (“Final Weapon” – dịch nguyên văn sát nghĩa từ Mahabharata bản tiếng Ấn Độ không thêm bớt) mà những người thượng cổ đã dùng để kết thúc chiến tranh.

Đoạn này kể về Krisna khi anh bay lên trời đuổi theo Salva:

“Chiếc Saubha của hắn đứng yên trong không gian ở một độ cao một lý (4km) … Hắn bắn về phía ta các tên lửa, các mũi lao, những cây đinh, rìu chiến, lao 3 lưỡi, những cục lửa, không ngưng nghỉ … Bầu trời … dường như có hàng trăm mặt trời, hàng trăm mặt trăng … và hàng trăm vạn ngôi sao. Không thể biết là ngày hay đêm, kim la bàn cũng không dùng được”

Cảnh tượng nhiều vì sao, nhiều hành tinh lớn nhỏ xuất hiện như thế này chỉ xuất hiện khi phi thuyền tiến nhập vào không gian vũ trụ giữa các vì sao. Chúng ta ở thời đại kính viễn vọng Hubble, thám hiểm vũ trụ, các bộ phim khoa học viễn tưởng mới có thể hiểu được nó. Ngay cả hiện tượng không phân biệt ngày đêm và la bàn không hiệu lực họ cũng biết. Làm sao có thể tưởng tượng ra tất cả chừng đó thứ nếu họ chưa bao giờ thực tế bay vào vũ trụ?

Sau đó khi Saubha chuyển sang chế độ tàng hình, “Ta nhanh chóng lên một mũi tên, loại tên tầm giết kẻ thù bằng cách truy tìm theo tiếng động… Tất cả bọn lính Danava đang kêu thất thanh nằm chết, bị giết bởi những mũi tên cháy sáng như ánh mặt trời”

“Cuka, bay trong một vimana rất mạnh, phóng về phía nhóm 3 thành phố một vật đã nạp đầy sức mạnh của vũ trụ. Một cột khói và lửa, sáng chói như 10 ngàn mặt trời… Khi chiếc vimana trở về mặt Đất, nó trông như một khối antimon rực rỡ nằm trên mặt đất”.

Đọc đoạn này mấy ai trong chúng ta không liên tưởng đến sự kiện đó?

“Dưới lệnh của Rama cỗ xe lộng lẫy bay thẳng lên một ngọn núi đầy mây cùng với một tiếng động đinh tai nhức óc …”

Ramayana chương ‘Rama và Sita’ Phần chuyện về “Rama và Sita” trong Ramayana :

nghe tin vợ, nàng Sita, bị bắt cóc, Rama hét lớn:

“Các cỗ xe lên thẳng đồng loạt xuất phát ngay"

"Salva độc ác lái cỗ xe Saubha có thể đi đến bất kỳ đâu, và từ trên nó hắn giết nhiều người Vrishi trẻ tuổi can đảm và tàn phá tất cả các công viên thành phố”

Trong một chương khác vũ khí đáng sợ Agneya, “một loại tên lửa không có khói” được sử dụng bởi người anh hùng Adwattan.

“Những loạt tên lửa dày đặc, như một cơn mưa lớn, bắn thẳng ra phía trước, bao vây lấy kẻ thù… Một màn đêm dày đặc phủ xuống đoàn quân Pandava. Tất cả các kim la bàn mất phương hướng. Những trận gió hung dữ bắt đầu thổi. Những cuộn mây ầm ầm cuộn lên, bụi và sỏi trút xuống như mưa. Những con chim kêu rền rĩ như điên dại … Các nguyên tố căn bản (tứ đại: đất, nước, gió, lửa) dường như đảo lộn. Mặt trời dường như chập chờn rung rinh trên các thiên đường. Mặt đất rung lắc, bị thiêu cháy bởi sức nóng dữ dội của thứ vũ khí này. Những con voi bốc cháy và chạy loạn điên cuồng … trên một vùng rộng lớn, những con thú khác ngã gục xuống mặt đất và chết. Từ mọi hướng những tia lửa bắn xuống liên tục và dữ dội”

“Gurkha, bay trong chiếc Vimana mạnh mẽ và tốc độ, phóng về phía 3 thành phố của người Vrishnis và Andhakas một vật đã nạp đầy sức mạnh của Vũ trụ. Một cột khói và lửa cháy nóng sáng chói như hàng ngàn mặt trời… Đó là một thứ vũ khí chưa từng được biết đến… Một tiếng sét, một sứ giả khổng lồ của cái chết, thứ mà biến toàn bộ 2 dân tộc Vrishnis và dân tộc Andhakas thành tro bụi… Những thi hài bị cháy đến mức không thể nhận dạng được. Tóc và móng tay chân bong ra; đồ gốm vỡ tan không rõ nguyên nhân, những con chim biến thành màu trắng… Sau vài giờ mọi thực phẩm đều bị nhiễm độc …Để thoát khỏi lửa, những người lính thả mình vào những dòng nước để rửa bản thân và các thiết bị của mình …”

“Chúng tôi nhìn thấy một cái gì đó trên thiên đường giống như một đám mây màu đỏ tươi, như một đám lửa cháy khủng khiếp. Một vimana khổng lồ màu đen hiện ra, bắn ra những vật sáng. Âm thanh nghe như một ngàn cái trống đánh lên cùng một lúc. Chiếc vimana bay lại gần mặt đất với một tốc độ không gì sánh nổi và bắn hàng ngàn viên đạn vàng, theo sau bởi những tiếng nổ lớn và hàng trăm bánh xe ngùn ngụt cháy. Nỗi kinh hoàng bao trùm khắp nơi”.

Posted Image

“Mặt trời dường như xoay đảo. Cháy sém bởi ngọn lửa của thứ vũ khí này, mặt đất lay động bởi sức nóng. Những con voi bị thiêu đốt và chạy loạn… Ngọn lửa điên cuồng tàn phá cây cối… Ngựa và xe ngựa bốc cháy, trông như sau một trận cháy lớn. Hàng ngàn xe ngựa bị tiêu hủy, sau đó một sự tĩnh mịch bao trùm mặt đất. Đó là một cảnh tượng kinh hoàng. Những thi thể của những kẻ ngã xuống bị cắt xẻo bởi sức nóng khiến họ trông không còn giống hình người. Chưa bao giờ chúng tôi thấy loại vũ khí khủng khiếp như thế, và chưa bao giờ chúng tôi nghe nói đến loại vũ khí như thế… Nó trông như một tia chớp cháy rực, một sứ giả khổng lồ của cái chết, biến toàn bộ 2 dân tộc Vrishnis và dân tộc Andhakas thành tro bụi. Những thi hài không thể nhận dạng được. Tóc và móng tay chân bong ra. Đồ gốm vỡ tan không rõ nguyên nhân, những con chim biến thành màu trắng… Sau thời gian ngắn mọi thực phẩm đều bị nhiễm độc. Những tia chớp đã chôn vùi và biến mọi thứ thành bụi… Thứ vũ khí này sẽ giết tất cả những đứa trẻ còn trong bụng mẹ… Tất cả những đứa trẻ được sinh ra đều đã chết”.

Kết quả của sự kiện này, theo như nội dung của Mahabharata, và khẳng định của chính quyền địa phương, là 500000 người chết. Cho đến sự kiện thả bom Hiroshima và Nagasaki, loài người hiện đại không thể tưởng tượng nổi bất cứ thứ vũ khí nào khủng khiếp và có sức hủy diệt cao đến mức như mô tả trong Mahabharata Ấn Độ. Họ miêu tả rất chính xác những tác động của một vụ nổ hạt nhân. Độc phóng xạ sẽ khiến tóc và móng tay chân rơi ra... Ngâm mình trong nước là cách duy nhất để giảm bớt đau đớn, mặc dù không thể cứu chữa được.

Arjuna được nhận một “vũ khí thiên đường” thứ không thể được dùng để chống lại loài người “vì nó có thể hủy diệt thế giới”, nhưng anh có thể dùng nó để chống lại “bất kỳ thứ gì không phải là con người”

“Những vị Thần, những cỗ xe sinh ra mây … những cỗ xe lộng lẫy tụ hội trên bầu trời không mây”

“Khi thần Rama bị đe dọa bởi một “đội quân khỉ” ông đưa một “mũi tên thần” vào hoạt động. Nó sinh ra một tia chớp sáng “mạnh hơn sức nóng của một ngàn mặt trời”, biến mọi thứ thành tro bụi. Tóc của những kẻ sống sót bị rụng, móng tay của chúng rữa ra”.

“Bhima bay trên chiếc Vimana của mình trên một tia sáng khổng lồ có ánh sáng của mặt trời, âm thanh của nó nghe như tiếng sấm trong cơn bão!”

Chúng ta biết những thứ vũ khí tương tự như thế từ Sodom và Gomorrah, và từ Hiroshima và Nagasaki. Thuật ngữ “Vũ khí tối hậu” được dùng trong Mahabharata nhiều ngàn năm trước là hoàn toàn chính xác, ngay cả trong thời hiện đại ngày nay. Những từ “chariot” – “Cỗ xe bay” là cách duy nhất mà những người sống ở thời cổ có thể dùng để diễn đạt một thiết bị nhân tạo có khả năng bay lên bầu trời và không gian các vì sao. Không thể tin nổi những thứ như vậy lại có thể tìm thấy trong những cổ văn hàng ngàn năm, và chỉ có thể hình dung và thấu hiểu bởi những người hiện đại chúng ta ở nửa sau thế kỷ 20, sau sự kiện Hiroshima năm 1945 !

Những đoạn văn mà chúng ta gọi là sử thi, cổ văn của những nền văn minh cổ đại lớn như Sumer (Maya, Aztech, Babylon, …), cổ Ai Cập, cổ Trung Hoa, cổ Ấn Độ thực ra có chứa rất nhiều bí mật, và chỉ có những người ở thế giới hiện đại mới đủ khả năng hiểu được nội dung của nó một cách rõ ràng. Các văn bản xuất hiện sau này trong các tôn giáo lớn như Ấn Độ giáo, Phật giáo nguyên thủy, rồi đến The Bible (kinh Cựu Ước) đều thực tế là vay mượn rất nhiều mẩu chuyện trong các cổ văn các nền văn minh lớn kể trên. Vì thế, đi sâu hơn, ta cũng có thể tìm thấy một số đoạn trong những văn bản tôn giáo lớn trên thế giới những ghi chép mang tính lịch sử của một thời kỳ rất xa xưa.

Các phát biểu đáng chú ý của một số chuyên gia:

“Trong nhiều loại văn bản của Châu Á và Nam Á, chúng ta tìm thấy nhiều mối liên hệ về những cỗ máy bay được và những thiết bị lên thẳng. Những chuyện kể Trung Quốc và Ấn Độ kể về những người hoặc hoặc thợ thủ công có thể chế tạo những thiết bị du hành xuyên không gian. Những câu chuyện gồm nhiều chủng loại khác nhau, với những lối diễn đạt kỳ khôi và cách điệu cao. Số khác cho thấy một bức tranh của những người phát minh chịu khổ sở khó nhọc để hiểu biết những nguyên lý của việc bay lượn, và những cỗ máy thủ công bằng gỗ để có thể đạt được mục đích này”.

“Những câu chuyện của người theo đạo Lão thường kể lại những người thông thái và những kẻ bất tử bay xuyên không gian. Xian là những người bất tử có thể bay với năng lực siêu phàm của họ…Fei tian (Phi Tiên), còn có thể gọi là “những kẻ bất tử biết bay”, cũng xuất hiện trong các chuyện kể cổ xưa, làm phong phú thêm số lượng những sinh thể biết bay trong tập văn huyền thoại của người Trung Quốc”.

“Những chuyện kể cổ xưa Trung Quốc về các fei che (phi - cơ, các cỗ xe bay được, từ này xuất hiện từ rất xa xưa trong cổ văn Trung Hoa) phô bày những hiểu biết đầu tiên, có lẽ, là những người có thể bay chỉ với một loại thiết bị kỹ thuật nào đó. Một bài thánh - ca (bài ca về các vị thánh) được viết trong thế kỷ 2 TCN nói về vị thần xuất hiện trong các cỗ xe được vẽ cạnh những con rồng”.

Tiến sĩ Benjamin B. Olshin, tác giả quyển sách "Mechanical Mythology: Private Descriptions of Flying Machines as Found in Early Chinese, Korean, Indian, and Other Texts" “Huyền thoại cơ khí: Những mô tả cá nhân về những cỗ máy có thể bay được tìm thấy ở các văn bản cổ Trung Hoa, Triều Tiên, Ấn Độ, và những nơi khác”.

“Chiếc máy bay được Salva sử dụng là rất bí ẩn. Nó quá khác thường đến nỗi đôi khi nhiều máy bay xuất hiện trên bầu trời, và đôi khi dường như chỉ có một. Thỉnh thoảng máy bay là trông thấy được và đôi khi lại tàng hình, và những chiến binh của triều đại Yadu bị đánh đố về vị trí của cái máy bay kỳ dị này. Thỉnh thoảng họ có thể thấy nó trên mặt đất, thỉnh thoảng thấy đang bay trên trời, thỉnh thoảng nằm trên đỉnh đồi và thỉnh thoảng trôi theo dòng nước. Cỗ máy kỳ diệu này bay trên trời nhanh như một cơn lốc có đuôi lửa”. Bhaktivedanta, Swami Prabhupada, Krisna (Swami là những bậc Thầy được tôn thờ ở Ấn Độ)

“Theo các văn bản Ấn Độ cổ xưa, những người có những cỗ máy được gọi là các “Vimana”. Cổ văn Ấn Độ mô tả một vimana như một cỗ máy bay hình tròn, có 2 tầng với các cửa sổ ở thành tàu và một mái vòm, rất giống với thứ mà ta tưởng tượng như là một đĩa bay ... Có ít nhất 4 loại Vimana khác nhau; một số hình đĩa, số khác trông giống như những cái ống hình trụ tròn dài (“tàu hình điếu xì gà”)".

“Vedas, những bài thơ cổ đại Hindu, được cho là cổ nhất trong những văn bản Ấn Độ cổ, miêu tả Vimana trong nhiều hình dạng và kích cỡ khác nhau: 'ahnihotra-vimana' với 2 động cơ, 'elephant-vimana' với nhiều động cơ, và nhiều loại khác được đặt tên ghép với các động vật như là chim bói cá, cò quăm, vv…” D. Hatcher Childress, "Ancient Indian Aircraft Technology"

“Dường như Mahabharata đang mô tả một cuộc chiến hạt nhân! Các tham chiếu như thế này không được cách ly ra; nhưng những trận chiến, dùng một mảng chủng loại vũ khí và các cỗ xe lên thẳng kỳ lạ là phổ biến trong tất cả các sách cổ văn Ấn Độ. Một trong số chúng thậm chí còn mô tả một Vimana vs Vailix đánh nhau trên mặt trăng! Phần trên mô tả rất chính xác một vụ nổ hạt nhân trông như thế nào và những tác động phóng xạ của chúng lên dân cư. Nhảy vào nước là cách duy nhất để làm đỡ thương tích tạm thời".

“Khi thành phố Rishi của Mohenjodaro được khai quật bởi các nhà khảo cổ vào cuối thế kỷ 20, họ đã phát hiện những bộ xương nằm ngay trên con đường, một số trong số họ đang nắm tay nhau, như thể một cái chết bất ngờ phủ chụp lấy họ. Những bộ xương này nằm trong số những bộ xương bị nhiễm phóng xạ cao nhất được tìm thấy, ngang với mức của những bộ xương tìm thấy tại Hiroshima và Nagasaki”.

“Hơn nữa, tại Mohenjo-Daro, một thành phố được quy hoạch tốt trên những lưới ô, với một hệ thống thủy lợi cao cấp hơn cả Pakistan và Ấn Độ ngày nay, những con đường bị rải đầy những “cục thủy tinh màu đen”. Những miếng thủy tinh này được khám phá ra là những bình gốm đã bị nóng chảy dưới tác động của nhiệt độ cao đột ngột! (thời gian tương tác ngắn)”.

Trong các cổ văn khác

Trong những nguồn của khu vực Lưỡng Hà (Mesopotamian sources), quyển cổ văn “The Hakatha” (Luật lệ của người Babylon) đã phát biểu rất lạ như thế này: “Đặc quyền được vận hành một thiết bị bay là rất cao. Kiến thức bay lượn là nằm trong những tài sản thừa kế cổ xưa nhất của chúng ta. Một món quà từ “những ai kia từ phía trên cao”. Chúng ta nhận nó từ họ để làm phương tiện cứu sống nhiều sinh mạng”.

Những tham chiếu trong kinh Cựu Ước về chiến tranh. Sự phá hủy Sodom và Gomorrah The destruction of Sodom and Gomorrah:

“Abraham nhìn về Sodom và Gomorrah… và ông để ý thấy một đám khói bay lên từ mặt đất, như khói trong lò”. Gen 18:27. “Và Ngài ném sấm sét và mưa đá, và lửa lan nhanh trên mặt đất, và Ngài rải mưa đá chụp lên vùng đất của người Ai Cập”. Exodus 9:23

“Và nó chạy ra, như chúng đào tẩu từ Israel xưa, và trong lúc chạy về Bethhoron, Ngài giáng những tảng đá lớn từ thiên đường chụp lên chúng đến Azekah, và chúng chết: chúng chết vì mưa đá nhiều hơn những đứa trẻ Israel bị giết bởi gươm dao”. Joshua 10:11

“Và ngọn lửa của Ngài đổ xuống từ thiên đường, và đốt cháy hắn cùng 50 người của hắn”. 2 Kings 1:12

“Ngươi sẽ làm chúng như những ngọn lửa cháy ngùn ngụt trong lò trong thời gian của nỗi tức giận của ngươi: Ngài sẽ nuốt chửng chúng trong nỗi tức giận của ngài, và ngọn lửa sẽ ngấu nghiến chúng”. Psalms 21:9

“Một ngọn lửa cháy trước mặt anh ta, và thiêu cháy những kẻ thù của anh xung quanh”. Psalms 97:3 “Ngươi sẽ được viếng thăm bởi Ngài với rất nhiều sấm sét, và với động đất, và những tiếng động lớn, với bão táp và giông tố, và ngọn lửa phừng phừng”. Isaiah 29:6

“…Xuất hiện một cỗ xe lửa bay, và những con ngựa lửa, và chia cách 2 đứa chúng rời ra; và Elijah bay lên bởi một cơn lốc vào trong thiên đường”. 2 Kings 2:11 “Và Jehovah đang đi trước họ vào ban ngày trong một cái gối bằng mây, để dẫn đường cho họ, và vào ban đêm, để cho họ ánh sáng, để đi vào ban ngày và ban đêm…” Exo 13:21 Yahweh đặt chân lên Mt Sinai.

“…Và vào ngày thứ 3, đang là buổi sáng, điều đó xảy ra. Có những tiếng sấm và những tia chớp, và một đám mây nặng nề trên ngọn núi, và âm thanh của tiếng còi tàu, rất mạnh! Và tất cả mọi người của trại run sợ… và ngọn núi của Sinai bốc khói, tất cả, bởi Jehovah giáng hạ xuống trong lửa. Và ngọn lửa của nó bốc lên như đám khói lò; và ngọn núi chấn động dữ dội…”. Exodus 19:16-18

“Và thần thánh nhấc bổng ta lên, và ta nghe phía sau âm thanh của một tiếng nói xáo động, Thiêng liêng thay hào quang của Jehovah từ nơi của ngài; và âm thanh của những đôi cánh của những sinh vật sống động đang chạm nhau; và âm thanh của những chiếc bánh xe cùng với chúng; và âm thanh của một sự náo động…”. Ezekiel 3:12

Jehovah giáng hạ trên những vùng cao với một sức nóng lớn: “Hãy chú ý, Jehovah đang ra khỏi nơi của Ngài, và những thung lũng sẽ tia tách chúng ra như sáp ong trước ngọn lửa, như dòng nước chảy lên những bậc tam cấp…”. Micah 1:3-4

Từ một trong những cuốn sách cổ xưa nhất của Ấn Độ:

“Quyển sách của Dzyan” “Sự chia cắt không đem lại hòa bình đến những người này và cuối cùng sự giận dữ của họ lên đến mức mà người chủ cũ của thành phố đem theo một toán chiến binh nhỏ và tiến vào không gian trong một cái thuyền sắt chiếu sáng. Khi họ đang ở nhiều lý (lý=4km) cách xa thành phố của kẻ thù, họ tiến vào một cây gậy dài khổng lồ sáng rực bay trên một chùm ánh sáng. Nó làm nổ tung một góc thành phố kẻ thù của họ với một quả cầu lửa lớn bắn tung lên đến tận trời, hầu như đến cả các ngôi sao.

Tất cả những kẻ đang ở trong thành phố kinh hoàng bị đốt cháy và ngay cả những kẻ không ở trong thành phố - nhưng ở gần đó – cũng bị thiêu đốt. Những kẻ nhìn vào cây gậy và quả cầu lửa đều bị mù mắt vĩnh viễn sau đó. Những ai tiến vào thành phố trên chân trần trở nên yếu dần và chết. Ngay cả tro bụi của thành phố cũng bị nhiễm độc, cũng như những dòng sông chảy qua nó. Người ta không dám ở gần nó, và nó dần dần sụp đổ thành cát bụi và bị người ta lãng quên. Khi người chỉ huy nhìn thấy điều mà ông đã làm với những người dân của chính mình ông ẩn dật trong cung điện của mình và từ chối gặp mặt bất kỳ ai. Rồi sau đó ông tập hợp những chiến binh còn lại xung quanh, cùng vợ con của họ, tiến nhập vào những chiếc thuyền sắt của họ và đưa từng cái một vào không gian và lái đi. Họ không bao giờ quay lại nữa”.

Đoạn trích trong cổ văn Veda đề cập đến trình độ khoa học của họ (Yajur-veda 10.19)

“Ồ! Những kỹ sư lành nghề của hoàng gia, chế tạo những con tàu biển, chạy trên nước bởi các chuyên gia của chúng ta, và những cỗ máy biết bay, di chuyển và bay lên trên, sau những đám mây mà trú ngụ ở giữa, mà bay như những con tàu đi trên biển, bay cao trên và thấp dưới những đám mây đầy nước. Ngươi, vì thế, thuận lợi ở trong thế giới này mà vốn được tạo ra bởi vị Thần có mặt khắp nơi, và là người phi công trong cả không khí và tia chớp”.

Đoạn trích này thậm chí còn gây sốc hơn: (Atharva-veda 20.41.1-3). “Năng lượng phân đôi nguyên tử 99 nguyên tố, (bao phủ con đường của nó) sinh ra bởi sự bắn phá của các hạt trung hòa không bị thất thoát hay cản trở. Thành phần chủ yếu của năng lượng nhanh, ẩn tàng trong khối lượng nguyên tử các điều chỉnh của các nguyên tố, năng lượng nguyên tử đó đạt được trong sự phân đôi nó bởi những bắn phá đã nêu trên. Ở đây, những nhà thông thái biết những sức mạnh ẩn tàng tương tự của những tia mặt trời tác động lên quỹ đạo của mặt trăng”.

Rig-Veda (Vata là vị Thần gió của người Aryan) “Giờ đây chiếc xe bay của Vata cao quý! Nó đi cắt dọc đường đi, và tiếng động của nó như sấm nổ, nó chạm đến trời, làm ra ánh sáng khủng khiếp, và cuốn bụi khắp mặt đất”.

Trong một giai thoại cổ xưa của người Sumer về Nergal and Ereshkigal (Pritchard, 1975), có những đoạn nói rằng có những thời kỳ những vị Thần đã không thể du hành từ nơi này đến nơi khác. Dường như ở đây còn có hiện tượng khác biệt thời gian, tính tương đối của thời gian !

Anu nói với Kaka: Ta sẽ gửi ngươi, Kaka, đến Vùng đất không thể quay về, đến Ereshkigal… “Ngươi không thể tiến lên, trong năm của ngươi ngươi không thể bay đến nơi của chúng ta, và chúng ta không thể đi xuống, trong tháng của chúng ta chúng ta không thể đến được nơi của ngươi…”.

Mahavira of Bhavabhuti, một cổ văn được tạo ra vào thế kỷ thứ 8 bằng cách chọn lọc những văn bản và chuyện kể cổ xưa hơn, tập hợp lại.

“Một cỗ xe lên thẳng, Pushpaka, chở nhiều người đến thủ đô của Ayodhya. Bầu trời đầy những cỗ xe bay khổng lồ kỳ lạ, ban đêm, nhưng được thắp sáng bởi những ánh sáng vàng nhạt chói lòa”.

(còn tiếp)

Share this post


Link to post
Share on other sites

Chiến tranh trên không và chiến tranh hạt nhân thời tiền sử?

“Chúng tôi bật nút lên, nhìn những tia sáng lóe lên, nhìn trong 10 phút, rồi tắt tất cả mọi thứ. Đêm đó tôi biết cả thế giới chìm trong đau đớn”.

Nhà vật lý Leo Szilard, người cha của bom nguyên tử – Physicist Leo Szilard, atomic bomb builder. Vào ngày mùng 6 tháng 8 năm 1945 đại tá Colonel Paul W. Tibbets Jr leo vào khoang điều khiển của chiếc máy bay ném bom hiện đại nhất thế giới lúc đó và thẳng tiến đến Hiroshima Nhật Bản. Một vũ khí tối mật đang ở trong khoang chứa của chiếc pháo đài bay B29. Một thứ vũ khí sẽ vĩnh viễn thay đổi tiến trình lịch sử của nhân loại. Thời kỳ nguyên tử được khai sinh và Hiroshima đã bị hủy diệt hoàn toàn trong khoảnh khắc cùng với sức mạnh của Mặt Trời. Kinh ngạc thay, đó có thể là lần thứ 2 vũ khí hạt nhân được dùng trong chiến tranh trên Trái Đất.

Chiến tranh thời tiền sử dùng vimana như các máy bay chiến đấu

Những đoạn phim của chính các khoa học gia Ấn Độ làm, trình bày những khám phá về nội dung các bộ Cổ văn của họ thực tế kể lại những gì.

http://www.youtube.com/watch?v=jConUC-tC6g

Có nhiều những bằng chứng khác đề cập đến chiến tranh hạt nhân trước thời đại chúng ta.

Childress (2000) đã thảo luận về chiến tranh nguyên tử thời tiền sử, đưa ra chứng cứ đầu tiên tại Hattusas (Bogazkoy) ở Thổ Nhĩ Kỳ, nơi mà “một phần thành phố bị biến thành thủy tinh, và những bức tường đá có nhiều phần bị nóng chảy. Sau đó ông nói về Sodom và Gomorrah rồi Hiroshima and Nagasaki và so sánh chúng với nhau. Ông cho rằng Sodom, Gomorrah, Zoar, Admah và Zeboiim (Gen. 14:2) đã bị hủy diệt, hình thành nên Biển Chết, là bởi một cuộc chiến hạt nhân.

L.M.Lewis, tác giả cuốn sách nổi tiếng “Footprints on the Sands of Time”, “Những dấu chân trên cát của thời đại” cũng tán thành ý kiến này.

Những di tích của những thời quá khứ xa xôi vẫn còn lại cho đến ngày nay, và mới được khám phá trong khoảng thời gian không lâu, rải rác khắp thế giới. Điển hình là:

*Mohenjo-Daro và Harappa, Pakistan,

*Parshaspur gần Srinagar, Kashmir,

*Lưỡng Hà và bán đảo Sinai,

*Sa mạc Sahara, Ai Cập,

*Hồ Lonar gần Bombay, Ấn Độ, vv…

đều có khả năng chứng tỏ những nơi này xưa kia đã từng xảy ra những vụ nổ nguyên tử.

Về Parshaspur gần Srinagar, Kashmir, David Childress (2000) phát biểu “Đó là một cảnh tượng của sự phá hủy hoàn toàn; những khối đá lớn rải rác khắp một khu vực rộng lớn cho thấy dấu hiệu của một vụ nổ hủy diệt”.

Về Mesopotamia và bán đảo Sinai, Zecharia Sitchin (1985) dành nguyên một chương để thảo luận trong quyển sách của ông, và khẳng định sự phá hủy của Sinai bởi những vũ khí nguyên tử. Ông đưa ra một bằng chứng:

Posted Image

“… lỗ thủng lớn ở trung tâm của Sinai và những đường nứt gãy sinh ra (xem hình), một vùng rộng lớn bằng phẳng xung quanh bao phủ đầy những tảng đá màu đen, dấu vết của bức xạ nhiệt ở phía Nam Biển Chết, phạm vi mới và hình dạng mới của Biển Chết – vẫn còn ở đó, sau 4000 năm”.

Ông cũng khẳng định rằng phóng xạ sinh ra từ vụ nổ này dọn sạch khu vực xung quanh Sumeria trong một khoảng thời gian 70 năm, cho đến 1953 TCN.

Trưởng dự án Manhattan tiến sĩ khoa học J. Robert Oppenheimer đã quen thuộc với các văn thư Phạn cổ từ lâu. Trong một phỏng vấn sau khi xem một vụ thử nghiệm hạt nhân đầu tiên, ông đã trích dẫn trong cổ văn Ấn Độ, Bhagavad Gita: “Now I am become Death, the Destroyer of Worlds” - “Giờ đây ta trở thành tử thần, Kẻ hủy diệt những thế giới”.

Khi được hỏi trong một cuộc phỏng vấn tại trường đại học Rochester 7 năm sau vụ thử hạt nhân Alamogordo rằng đó có phải là quả bom nguyên tử đầu tiên nổ không, ông đã trả lời :

“Ồ, vâng, trong lịch sử hiện đại” (“Well, yes, in modern history”).

Những nền văn minh vĩ đại gặp phải sự hủy diệt không thể tin được, các nhà khảo cổ đã tìm thấy những bằng chứng tại Ấn Độ và Pakistan, cho thấy một vài thành phố đã bị hủy diệt trong những vụ nổ hạt nhân.

Trong một địa điểm khảo cổ, các nhà khoa học Liên Xô cũ tìm thấy một bộ xương có mức phóng xạ gấp 50 lần hơn mức bình thường. Nhà khảo cổ học người Nga A. Gorbovsky, trong năm 1966 đã xuất bản một quyển sách “Riddles of Ancient History” đề cập đến tỉ lệ bức xạ cao bất thường, liên hệ với những bộ xương tương tự tìm thấy ở Mohenjo-Daro và Harappa, Pakistan và Ấn Độ. Hơn nữa, hàng ngàn tảng đá nóng chảy, được đặt tên là “đá đen” cũng được tìm thấy tại Mohenjo-Daro. Chúng có vẻ như là những mảnh vỡ của các bình gốm đã nóng chảy dính lại với nhau dưới tác dụng của nhiệt độ rất cao.

Những thành phố bị chôn sâu dưới mặt đất khác được các nhà khảo cổ phát hiện ra tại Bắc Ấn Độ cho thấy những dấu hiệu của những vụ nổ khủng khiếp. Một thành phố như thế, tìm thấy nằm giữa vùng Ganges và dãy núi Rajmahal cũng có dấu hiệu của tác động nhiệt như vậy. Những khối tường lớn và nền móng của thành phố cổ xưa này bị chảy ra dính chặt với nhau, bị thủy tinh hóa một phần! Và do không có dấu hiệu nào của một sự phun trào núi lửa tại Mohenjo-Daro hay những thành phố khác, nhiệt độ cao đến mức có thể làm chảy các bình gốm chỉ có thể giải thích một cách duy nhất là bởi tác dụng nhiệt của các vụ nổ hạt nhân hoặc những vũ khí không được biết đến nào đó mà thôi. Các thành phố nêu trên đều có những đặc trưng giống nhau và đều bị quét sạch hoàn toàn một cách đột ngột.

Rajasthan, Ấn Độ

Tại một khu vực ở Ấn Độ là Rajasthan các nhà chức trách địa phương đã khám phá ra một khu vực có tỉ lệ ung thư và dị tật bẩm sinh cao. Một lớp tro có mức độ phóng xạ cực kỳ cao đã được khai quật và những đống đổ nát của một thành phố cổ đã được khám phá bên dưới. Các chức trách địa phương tin rằng thành phố đã bị hủy diệt bởi một vụ nổ hạt nhân hoàn toàn san phẳng thành phố và đã giết chết 500.000 người. Sau đó sự kiện bi thảm này được họ xác định đã xảy ra tại đây hơn 12000 năm trước.

Khi những nhà khảo cổ đào đến mặt đường cổ xưa, các xác chết được tìm thấy đang nắm lấy tay nhau và ôm chặt lấy nhau. Toàn thể thành phố đã bị tác động một loạt. Những vụ nổ hạt nhân sản sinh ra thủy tinh và vô số những quả cầu thủy tinh đã được tìm thấy trong khắp thành phố. Những khối cầu được cho rằng vốn là những bình gốm đã bị nhiệt độ cực cao làm cho nóng chảy trong suốt vụ nổ.

Posted Image

Trong Thánh kinh của người Do Thái trong sách Khải Huyền sự hủy diệt của “Những thành phố của Tiếng kêu than” được mô tả. Sodom and Gomorrah trong số những thành phố này đã bị xóa sổ trong chốc lát bởi hàng loạt cơn mưa đá cùng với lửa và lưu huỳnh. Một trận lửa trút rơi xuống từ trời cao và biến mọi người thành những chiếc cột muối. Miêu tả này tương tự như câu chuyện trong Mahabharata và những sự kiện sau vụ nổ tại Hiroshima.

Những nhà khoa học nổi tiếng nhất có thể nói những tham chiếu cổ văn chỉ là những chi tiết mơ hồ có thể được làm cho phù hợp với ngữ cảnh hiện đại, những trùng hợp ngẫu nhiên và những chuyện đâu đâu đáng buồn cười. Có thể nào những người cổ xưa có những kiến thức và kỹ năng tinh thông để làm ra và sử dụng một thiết bị hạt nhân có thể giết hàng nửa triệu người?

Câu trả lời là CÓ.

Chúng ta đang dần dần trở nên tỉnh giác trước những khả năng tiềm tàng to lớn của những người cổ xưa. Khắp thế giới có nhiều những cổ vật, những ghi chép và khẩu truyền lịch sử thuộc về những thời đại rất xa xôi, đang ngày càng được khám phá nhiều hơn. Chỉ cần cố gắng tìm kiếm trong thời đại thông tin toàn cầu, điều bí ẩn đó sẽ sớm hé lộ cho tất cả những ai đang đi tìm sự thật về lịch sử vĩ đại của con người. Từ những thiết bị bay Vimana, những thành phố khổng lồ trong không gian và những chiến binh khủng khiếp với những thứ vũ khí có sức mạnh không tưởng tượng nổi đều có thể tìm thấy trong những cổ văn vĩ đại của Ấn Độ, Mahabharata và Ramayana.

Harappa và Mohenjo-Daro, Pakistan

David Davenport (1996), người đã dành 12 năm nghiên cứu những văn thư viết tay cổ Hindu và chứng cứ tại khu vực khảo cổ ở Mohenjo-Daro, đã công khai năm 1996 rằng thành phố đã bị hủy diệt đột ngột vào ít nhất 2000 năm TCN.

Posted Image

Những đống đổ nát cho thấy một tâm chấn của vụ nổ đo được khoảng 50m. Tại địa điểm này mọi thứ đều bị tinh thể hóa, đốt chảy và dính chặt với nhau. Khoảng 60 m từ trung tâm các viên gạch đều chảy ra trên một mặt bên. Harappa and Mohenjo-Daro là những thành phố chính của “Văn minh Harappa của thung lũng Indus”, một nền văn minh thành thị thống nhất phát triển đáng kinh ngạc tồn tại khoảng từ 2500 đến 1500 năm TCN.

Posted Image

Khi những cuộc khảo cổ tại những nơi này vươn đến mặt đường, họ khám phá những bộ xương rải rác khắp thành phố, nhiều trong số đó đang nắm tay nhau và nằm dài ngổn ngang trên những con đường như thể một sự tận diệt kinh hoàng đã đến rất đột ngột. Những xác người chỉ nằm ngay trên mặt đất, không được chôn cất, trên các con đường khắp thành phố. Và những bộ xương này hàng ngàn tuổi, ngay cả đối với những tiêu chuẩn giám định niên đại khảo cổ truyền thống.

Điều gì có thể gây ra những điều như thế?

Tại sao những xác chết không bị mục nát hoặc bị thú hoang ăn thịt?

Hơn nữa, không có dấu hiệu của tổn thương vật lý gây ra cái chết. Những bộ xương nằm trong số những bộ xương có nhiều phóng xạ nhất được tìm thấy, ngang với mức của những bộ xương tại Hiroshima và Nagasaki. Tại một địa điểm, các học giả Liên Xô cũ tìm thấy một bộ xương có mức phóng xạ cao hơn đến 50 lần bình thường.

Posted Image

Những thành phố khác được tìm thấy tại miền Bắc Ấn Độ cũng cho thấy những bằng chứng những vụ nổ tương tự. Trong một thành phố như thế, khám phá thấy tại giữa vùng Ganges và vùng núi Rajmahal, có những dấu hiệu giống hệt như thế. Những khối tường lớn và nền móng của thành phố cổ xưa này bị chảy ra dính chặt với nhau và thủy tinh hóa!

Khi những bộ xương này được giám định C14 là 2500 TCN, chúng ta nên nhớ rằng phương pháp C14 dựa trên cơ sở của lượng phóng xạ còn lại trong mẫu vật. Khi những vụ nổ hạt nhân xảy ra, phóng xạ của những vụ nổ này khiến lượng phóng xạ trong mẫu vật nhiều hơn so với nguyên thủy, khiến chúng trở nên có vẻ trẻ hơn nhiều so với tuổi thực của chúng. Có nghĩa là những chứng cứ này có thể có tuổi cao hơn 4500 rất nhiều.

Posted Image

Những gì còn lại của Harappa hơn 4500 năm sau ngày hủy diệt

Lonar, hố sâu kỳ lạ gần Bombay, Ấn Độ

Một chứng cớ khách quan của một vụ nổ hạt nhân khả dĩ từng xảy ra tại Ấn Độ thời tiền sử là một cái hồ lớn gần Bombay, Ấn Độ. Cái hố lớn có hình gần tròn này nằm khoảng 400 km về phía Đông Bắc Bombay và có tuổi khoảng 50000 năm, có thể liên hệ với một vụ nổ bom nguyên tử.

Posted Image

Không có dấu hiệu của thiên thạch, vv… tại khu vực gần hiện trường hoặc vùng lân cận, và đó là cái hồ duy nhất nằm trên nền đá basalt. Các dấu hiệu của một cú sốc áp lực rất lớn (khoảng 600.000 atmotphe) và nhiệt độ rất cao đột ngột (dấu hiệu là các khối thủy tinh nhỏ sinh ra từ đá basalt) có thể được xác định tại hiện trường. Cái hố này được hình thành trong đá basalt có độ dày 600 đến 700 m (2000 đến 3000 ngàn bộ). Hố sâu khoảng 150m, đường kính trung bình khoảng hơn 1800m. Vòng bờ hố nhô cao, gồm 25m đá nền và 5m lớp phủ bên trên nó. Lớp phủ trải rộng ra khoảng 1350m ra xa bờ hố, đỉnh lớp phủ chứa các khoáng vật bị nung chảy bởi tác động mạnh đó.

Quả bom nguyên tử đầu tiên, tại khu Trinity ở New Mexico năm 1945, đã tạo ra một lớp thủy tinh mỏng trên cát. Nhưng khu vực thủy tinh ở sa mạc Ai Cập thì lớn hơn rất nhiều. những gì đã từng xảy ra ở Ai Cập phải kinh khủng hơn rất nhiều so với một quả bom nguyên tử. Người đàn ông trong ảnh đang cầm một tảng thủy tinh trong sa mạc.

Posted Image

Một vụ nổ trên không tự nhiên có độ lớn như thế chưa từng được biết đến cho tới năm 1994, các nhà khoa học quan sát sao chổi Shoemaker - Levy va chạm vào sao Mộc. Nó nổ tung trong bầu không khí của sao Mộc, và kính thiên văn Hubble đã ghi lại được những quả cầu lửa sáng chói lớn nhất từng được chứng kiến mọc lên trên vùng trời của sao Mộc. Nhưng có vẻ như những gì xảy ra tại sa mạc Ai Cập không phải là một vụ nổ của thiên thạch. “Điều tôi muốn nhấn mạnh là đó là một năng lượng mạnh hơn nhiều lần của những vụ thử bom nguyên tử”, Boslough nói, “10.000 lần mạnh hơn”.

Share this post


Link to post
Share on other sites

Wild copy và trích dẫn tư liệu và hình ảnh bổ sung cho chủ đề , tiện cho việc tra cứu sau này. Bài của Bác Thiên Sứ post lên Diễn Đàn ngày 10/03/09.

Con người đã xuất hiện 276.000 năm trước

10/12/2008 22:35

Posted Image

Những nghiên cứu mới đây về những công cụ lao động bằng đá được tìm thấy tại Ethiopia cho thấy con người đã xuất hiện sớm hơn nhiều so với chúng ta nghĩ. Những công cụ lao động này được phát hiện vào những năm 1970 tại di chỉ khảo cổ Gademotta, thuộc thung lũng Rift, Ethiopia. Nhưng phải đến cuối năm 2008, nhờ sử dụng kỹ thuật xác định thời gian Argon-Argon (so sánh sự khác biệt về đồng vị phóng xạ của nguyên tố Argon), các nhà nghiên cứu xác định được các công cụ lao động làm từ nham thạch được chôn trong hầm mộ có niên đại ít nhất khoảng 276.000 năm.

Gademotta từng là nơi thu hút con người đến cư trú với hồ nước sạch Ziway, nơi đây cũng có nhiều loại nham thạch đen như Obsidian, một trong những chất liệu thô để tạo ra công cụ lao động bằng đá.

Tạ Xuân Quan (Theo nationalgeographic.com)

Share this post


Link to post
Share on other sites

Bí mật xác voi ma mút niên đại 37. 000 năm

10:54' 04/05/2009 (GMT+7)

Nguồn: VieNamNet.vn

Xác hoàn hảo nhất của một con voi ma mút con có niên đại 37. 000 năm đã được công bố trên chương trình truyền hình National Geographic Channel vào Chủ nhật mùng 3 tháng 5 năm 2009.

Lyuba, xác con voi ma mút con được tìm thấy trong lớp băng vĩnh cửu được xem là hoàn hảo nhất từ trước đến nay

Posted Image

Xác con voi ma mút con này đã được bảo toàn một cách hoàn hảo dưới lớp băng ngàn năm ở Bắc cực. Con voi có niên đại 37.000 năm này trông như đang chìm vào giấc ngủ chứ không phải là một xác chết. Những chòm lông dài màu nâu vẫn dính vào lớp da ở quanh chân, dấu hiệu cho thấy con voi cái này còn rất nhỏ.

Xác con voi ma mút con đã được Yuri Khudi, người đánh xe tuần lộc và 3 cậu con trai của ông phát hiện dưới lòng sông Yuribey, bán đảo Yamal, tây bắc Siberia vào tháng 5 năm 2007. Và nó được đặt tên là Lyuba, tên người vợ sau của Khudi.

Trong hơn hai năm vừa qua, các nhà cổ sinh vật Mỹ, Nga và Nhật Bản đã lần lượt tiến hành nghiên cứu trên xác đông lạnh của con voi ma mút con. Và hôm qua, ngày 3 tháng 5, xác đông lạnh của con voi ma mút con đã chính thức ra mắt công chúng trên chương trình truyền hình National Geographic Channel .

Bộ xương của Lyuba sẽ giúp các nhà khoa học làm sáng tỏ loài voi ma mút đã bị tuyệt chủng như thế nào? Thức ăn còn lại trong dạ dày của nó đã cung cấp những thông tin chính xác cho các nhà khoa học là nó đã ăn gì. Lớp mỡ và chất khoáng trong răng của hóa thạch cũng mang lại một cái nhìn chi tiết về tình trạng sức khoẻ của nó và bầy đàn.

Các nhà cổ sinh vật học tin rằng từ những thông tin thu được có thể giúp họ hiểu những gì đã dẫn đến sự tuyệt chủng của loài động vật có vú to lớn này từ 10.000 năm trước.

Có ý kiến cho rằng loài voi ma mút tuyệt chủng vì chúng không thể thích nghi được với sự thay đổi của môi trường sống, nhiệt độ tăng cao khiến cho lớp băng tan chảy, mặc dù một số chuyên gia khác lại tin rằng chúng tuyệt chủng do bị săn bắt.

Các kết quả nghiên cứu trên Lyuba cho thấy nó có tình trạng sức khỏe tốt và được ăn uống đầy đủ trước khi chết, điều đó chứng tỏ bầy đàn của nó vẫn có đầy đủ thức ăn tại thời điểm đó.

Posted Image

Các nhà khoa học tiến hành giải phẫu Lyuba

"Voi ma mút là loài động vật lớn nhất và phổ biến nhất thời kỳ đó" tiến sĩ Dan Fisher, một nhà cổ sinh vật học thuộc trường đại học Michigan, người đã góp sức vào quá trình nghiên cứu Lyuba, cho biết.

"Đây là lần đầu tiên chúng tôi đã có thể làm một so sánh tỉ mỉ về ngà và răng của một con voi ma mút dựa vào một loại mô lấy được từ cái xác. Mặc dù nó không phải là một chú voi ma mút trưởng thành nhưng Lyuba đã được bảo quản gần như hoàn hảo vì thế nó là một kho tàng quí giá đối với các nhà khoa học."

Fisher cho hay "Khi tôi thấy nó, ý nghĩ đầu tiên của tôi là trông nó thật hoàn hảo. Con voi cái con dường như đang ngủ, và tôi đã mường tượng ra nó đã nằm như thế trong suốt một thời gian dài cho tới khi tôi chạm vào nó"

Có khoảng một chục xác voi ma mút đóng băng khác được tìm thấy tại Siberia lần đầu tiên vào năm 1806, tuy nhiên không có cái nào được bảo tồn tốt như Lyuba.

Việc giải phẫu cái xác cũng đưa ra những kết luận về nguyên nhân cái chết của con voi con. Chất cặn được tìm thấy bên trong vòi, mũi, mồm và khí quản của con voi. Vì vậy các chuyên gia tin rằng con voi ma mút con có thể đã chết ngạt khi sa lầy.

Người ta cũng phát hiện rằng con voi con còn đang bú mẹ. Ngoài ra. qua nghiên cứu dạ dày của nó, họ cũng khám phá ra những đặc điểm rất giống với loài voi hiện đại ngày nay. Con voi con cũng ăn phân của đồng loại để cung cấp những loại vi khuẩn cần thiết cho việc tiêu hóa cỏ, loại thức ăn mà chúng sẽ ăn trong cuộc sống sau này.

Phân tích những chiếc ngà sức cũng sẽ giúp các nhà khoa học tìm hiểu điều kiện khí hậu mà đàn voi ma mút đã phải chịu đựng trong một thời gian dài.

Những khám phá này cũng đưa ra hy vọng rằng một ngày nào đó các nhà khoa học có thể sử dụng chuỗi ADN từ các xác voi ma mút đông lạnh nhân bản vô tính với trứng của voi hiện đại.

Alexei Tikhonov, thuộc Viện Khoa học Nga, người tham gia vào quá trình nghiên cứu Lyuba nói: "Lyuba là một sinh vật tuyệt đẹp. Khi bạn trông thấy nó, bạn khó có thể tưởng tượng được rằng làm thế nào nó có thể được bảo quản tốt đến thế sau gần 40.000 năm."

Thi Thi (Theo Telegraph)

Kính thưa quí vị quan tâm.(Lời bình của Thiên Sứ)

Hiện tượng loài voi Mamut bị diệt chủng cách đây khoảng 10 ngàn năm - thời gian tương đương với niên đại của Kim Tự Tháp dưới biền Nhật Bản, tượng Nhân Sư và Kim Tự tháp cổ Ai cập, cho thấy khả năng một thảm họa toàn cầu đã góp phần tiêu diệt loài voi này.

Đây cũng chính là thảm họa đã hủy diệt nền văn minh Atlantic đã đề cập đến trong tiểu luận này.

--------------------

Share this post


Link to post
Share on other sites

Các bạn thân mến, dưới đây là một số tài liệu về Kỷ băng hà lần cuối. Địa mạo, địa khí hậu và sinh quyển thân thiện,... dĩ nhiên phải có vai trò hết sức quan trọng trong tiến trình "xây dựng và phát triển khả dĩ " của các nền văn minh xuyên suốt kỷ băng hà cho đến hiện tại.

Posted Image

Sinh quyển thân thiện với loài người ở GLM thật quá hiếm hoi...

Châu Á ở GLM

Posted Image

Khí hậu thật khắc nghiệt trong suốt giai đoạn này.

Posted Image

Sự chìm ngập bắt đầu

Posted Image

Sự chìm ngập gần hoàn thành

Posted Image

Đông Nam Á, Việt Nam chịu ảnh hưởng quá nặng nề từ sự biến đổi thời tiết ở cuối kỹ băng hà. Diện mạo khu vực này thay đổi quá lớn...

Posted Image

Sinh quyển Trái đất trở nên thân thiện hơn với loài người

Share this post


Link to post
Share on other sites