-
Thông báo
-
Nội quy Lý Học Plaza
Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
HCM: TP Hồ Chí Minh
HN: Hà Nội
[*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.
-
Tìm kiếm trên Diễn đàn
Hiển thị kết quả cho thẻ ''bài tham luận''.
Tìm thấy 1 kết quả
-
Kính thưa đoàn chủ tịch. Kính thưa quí vị đại biểu và quí vị khách quí! * Tôi rất lấy làm hân hạnh, được sự tín nhiệm của ban tổ chức cho phép đọc bản tham luận của mình trong cuộc hội thảo về Nữ sĩ Ngân Giang. Viết về tài năng thơ và sự nghiệp thi ca của Nữ sĩ Ngân Giang, các văn nhân, nghệ sĩ đã tốn biết bao giấy mực. Không ai có thể phủ nhận tài thơ Đường tuyệt kỹ của Nữ sĩ Ngân Giang. Bà đã được giới thi nhân phong tặng là “Nữ hoàng Đường thi Việt Nam”. Để viết về sự nghiệp thi ca của bà, tôi nghĩ phải là các bậc văn tài uyên bác và cần khá nhiều thời gian. Văn tài của Nữ sĩ đúng như bút hiệu của bà – đã tạo ra một dòng thơ – dòng thơ Ngân Giang, mà mỗi một bài thơ như một vì sao lấp lánh trong dòng sông thơ ấy. Tám nẻo sông Ngân, sao lấp lánh. Một vùng trăng nước, sóng chơi vơi. Trong giới hạn của một bản tham luận, tôi chỉ xin phép bàn về một bài thơ – một ngôi sao trong dòng sông thơ Ngân Giang. Một bài thơ đã đi vào huyền thoại trong văn học sử. Đó là bài Trưng Nữ Vương. Có thể nói đây là bài thơ hay nhất, vô tiền khoáng hậu trong số những bài thơ miêu tả về cuộc kháng chiến hào hùng, bi tráng trong cổ sử với vị liệt nữ bất tử của dân tộc Việt – Bà Trưng Trắc . Và đây cũng là một trong những bài thơ hay nhất của Nữ sĩ Ngân Giang. Bài thơ đã trở thành huyền thoại với sự ra đi của thi sĩ Đông Hồ, ngay trên giảng đường Đại học Văn khoa Sài Gòn vào năm 1969. Khi đọc xong khổ thơ cuối cùng của bài thơ, tâm hồn thi cảm cả một đời thơ của ông, đã thăng hoa theo hồn thơ bài Trưng Nữ Vương đến cõi vĩnh hằng. Sự kết thúc một đời thơ của thi sĩ Đông Hồ với bài Trưng Nữ Vương đã ghi lại trong tâm thức hậu thế một huyền thoại thi ca Việt Nam. Có thể nói, so với các huyền thoại thi ca trong lịch sử thi ca nhân loại – như Tư Mã Tương Như với khúc “Phương cầu hoàng” làm siêu lòng Trác Văn Quân, Tiêu Sử - Lộng Ngọc hòa tình yêu đôi lứa trong tiếng tiêu réo rắt ở thời Xuân Thu, hay như huyền thoại của Bá Nha – Tử Kỳ và các huyền thoại khác – thì có thể nói: Những rung cảm đến tận cùng của hai tâm hồn thơ đồng điệu - Đông Hồ và Ngân Giang nữ sĩ - là một sự thật đi vào huyền thoại. Chứ không phải là một huyền thoại đi vào đời thường. Nhưng cũng chính vì nhà thơ Đông Hồ đã ra đi bất ngờ, nên những cảm xúc của ông về vẻ đẹp trong bài thơ “Trưng Nữ Vương” đã không được chia sẻ cho hậu thế. Bài thơ Trưng Nữ Vương như ngừng lại trong khoảnh khắc cô đơn của hồn người thơ với những rung cảm chưa kịp tìm đến với những tâm hồn đồng điệu. Tiếng thơ, hồn thơ và sự huyền ảo vi diệu trong bài Trưng Nữ Vương như tiếng đàn của Bá Nha chợt ngừng rung trong không gian, im lặng với cô liêu cho đến tận bây giờ. Chàng ơi ! Điện ngọc bơ vơ quá! Trăng chếch. Ngôi trời bóng lẻ soi. * Bài thơ Trưng Nữ Vương của Nữ sĩ Ngân Giang được sáng tác vào năm 1939. Lần đầu được in trong tập thơ “Tiếng vọng sông Ngân”, do nhà in Lê Cường ấn bản. Khi cuộc kháng chiến của Hai Bà Trưng đã đi vào cõi bất tử đầy bi tráng trong trang sử Việt trải hàng ngàn năm, rất nhiều bài thơ của thi nhân Việt đã viết về Hai Bà. Dư âm của những hồn thơ ấy, chúng ta có thể thấy trong Đại Nam Quốc sử diễn ca: Bà Trưng quê ở Châu Phong Giận người tham bạo , thù chồng chẳng quên Hay là: Ba thu gánh vách sơn hà Một là báo phục, hai là bá vương . Những bài thơ viết về Hai Bà Trưng trước đây, phần lớn chỉ nhấn mạnh khía cạnh tranh đấu và kiệt hiệt của dân tộc Việt thông qua hình ảnh Hai Bà Trưng. Nhưng phải đến bài thơ Trưng Nữ Vương thì sự huyền vĩ trong trang sử bi tráng và những chiến công oanh liệt mới hòa quyện với tình người cao cả và làm nổi bật tính nhân bản trong quan hệ con người. Bài thơ gồm năm khổ thơ thất ngôn tứ tuyệt. Ngay từ khổ thơ đầu đã vẽ lên hào khí và vẻ đẹp uy dũng của người liệt nữ: Thù hận đôi lần chau khóe hạnh Một trời loáng thoáng bóng sao rơi. Dồn sương vó ngựa xa non thẳm Gạt gió chim bằng vượt dặm khơi. Trong thơ bà, từ đối từ, ý đối ý, hình đối hình ….. Trong thơ như có cả cung điệu đi vào lòng người. Luật thơ Đường chặt chẽ làm khó bao thi nhân, nhưng với tài hoa của bà thì chính sự khắt khe ấy như chỉ là sự minh họa cho một tài năng thơ. Để miêu tả sự gian khổ nơi chiến trường đầy sát khí và hào hùng của người liệt nữ, Nữ sĩ Ngân Giang đã hạ bút với câu kết xuất thần giàu hình tượng ở khổ thơ thứ hai: Ngang dọc non sông đường kiếm mã, Huy hoàng cung điện nếp cân đai. Bốn phương gió bãi lùa chân ngựa, Tám nẻo mưa ngàn táp đóa mai. Với câu kết của khổ thơ: “Tám nẻo mưa ngàn táp đóa mai”, có thể nói đây là một hình tượng đẹp nhất trong thi ca Việt, khi miêu tả về số phận con người trước một nghịch cảnh. Người cảm thụ thơ đã như vừa thấy được vẻ đẹp kiêu sa, khí phách của người liệt nữ Trưng Trắc, trước những bạo tàn chiến tranh và cũng không khỏi bùi ngùi cho phận người nhi nữ trong cảnh phong ba bão tố - Qua hình ảnh một đóa mai kiều diễm, mong manh, nhưng bất khuất trước gió lạnh, mưa ngàn….. Đọc Trưng Nữ Vương của Nữ Sĩ Ngân Giang, ngay từ 4 khổ thơ đầu, bà đã cho chúng ta thấy tính uy dũng, bất khuất của người danh nhân liệt nữ Việt, luôn đi bên cạnh những giá trị đầy nhân bản và cao thượng. Máu đỏ cốt xong thù vạn cổ Ngai vàng đâu tính chuyện tương lai ! Hai Bà đã kháng chiến vì sự bi thương của giống nòi Lạc Việt, qua nỗi đau riêng của chính mình. Bởi vậy, chúng ta tìm thấy ở hai câu kết trong khổ thơ này liền mạch với ý thơ trên, minh họa cho mục đích của cuộc kháng chiến vì độc lập dân tộc vì nợ nước và thù nhà: Hồn người chín suối cười an ủi Lệ nến năm canh rỏ ngậm ngùi. Vị liệt nữ anh hùng dân tộc Việt, khi trở lại với chính mình thì sự nghiệp ấy không phải là mục đích của Người, mà chỉ để rửa hờn cho đất nước: ” cốt xong thù vạn cổ” và để “Hồn người chín suối cười an ủi” - trong đau khổ tận cùng, người cô phụ “Lệ nến năm canh rỏ ngậm ngùi”. Sự thành công của Hài Bà Trưng trong sự nghiệp giành độc lập dân tộc, qua thơ Ngân Giang, được miêu tả bên cạnh vẻ đẹp kiêu sa, cao quý đượm nét buồn cô phụ, như được nhắc lại với sự thành kính biết ơn của các thế hệ tiếp nối dòng sử Việt, trong khổ thơ thứ 4: Lạc tướng quên đâu lời huyết hận Non Hồng quét sạch bụi trần ai. Cờ tang điểm tướng nghiêm hàng trận, Gót ngọc gieo hoa ngát mấy trời… Lịch sử đã trôi qua hai ngàn năm, kể từ ngày Hai Bà Trưng khởi nghĩa vì độc lập và những giá trị của văn hiến Việt. Những thế hệ tiếp nối trong lịch sử thăng trầm của ngươì Việt vẫn muôn đời cung kính trước anh linh và uy dũng của Hai Bà. Hương khói ngàn thu dâng kính, nỗi huyết hận riêng của người liệt nữ Trưng Trắc hòa trong quyền lợi chung của dân tộc đã được Nữ sĩ Ngân Giang miêu tả rất tài tình trong hai câu: Cờ tang điểm tướng nghiêm hàng trận, Gót ngọc gieo hoa ngát mấy trời… Trong 4 khổ thơ đầu, người cảm thụ thơ đã thấy tài hoa của Nữ Sĩ Ngân Giang qua những hình tượng đối nhau tưởng như không thể dung hòa khi đặt cạnh nhau, nhưng chúng lại hòa vào nhau một cách nhuần nhuyễn, tài hoa: Đó chính là những hình ảnh của chiến tranh sắt máu, sự đau thương, lòng tự hào và bất khuất của dân tộc Việt, bên cảnh vẻ đẹp, kiêu sa đài các của người nhi nữ với tình yêu con người. Vượt trội lên hoàn cảnh lịch sử đau thương đó, là tính chính nghĩa và chất nhân bản của cuộc kháng chiến, được thể hiện qua những hình tượng miêu tả nỗi đau riêng của Bà Trưng Trắc – Người anh hùng liệt nữ đầu tiên trong sử Việt và cả nhân loại. Trong bài thơ Trưng Nữ Vương của Nữ sĩ Ngân Giang, thì 4 khổ thơ đầu chỉ là sự chuẩn bị cho khổ thơ tứ tuyệt cuối cùng và cũng là đoạn kết để đưa bài thơ vào cõi bất tử trong nền thi ca Việt. Nhưng có thể nói rằng chỉ đến khổ thơ thứ 5 thì sự thăng hoa của một tài hoa thơ, cùng với những gía trị nhân bản và tình yêu con người mới lên đến tận cùng. Tính minh triết sâu sắc qua hình tượng đặc thù của nghệ thuật thi ca cũng thể hiện một cách rất sắc sảo ở khổ thơ này. Ải Bắc quân thù kinh vó ngựa Giáp vàng, khăn trở lạnh đầu voi, Chỉ với hai câu thơ với hình tượng thật là đắt giá. Ngựa vốn là loại động vật vô ý thức mà phải “kinh vó” trước uy danh và chiến công hiển hách của Hai Bà, đủ thấy được sự tàn khốc và sự thành công của cuộc kháng chiến do Hai Bà lãnh đạo. Nhưng trong cái uy dũng chung của cả một dân tộc thì vẫn ẩn chứa nỗi thương đau rất nhân bản và một mục đích chính nghĩa của cuộc kháng chiến– thông qua hình tương bi thương rất riêng của Bà Trưng Trắc: Giáp vàng, khăn trở lạnh đầu voi, Tài tình quá! Chỉ một câu thơ và chỉ bằng hình tượng, đã không thể trộn lẫn hình ảnh một liệt nữ anh hùng nào trong lịch sử thế giới. Vì đó chính là hình tượng đặc trưng của Hai Bà Trưng. Sự bi thương đến mức “lạnh” cả đầu voi thì thật là một từ rất đắt và không thể thay thế. Với hai câu thơ này – qua hình tượng song đối “voi”, “ngựa” - thì sự hào hùng bi tráng không chỉ dừng lại ở hành vi con người mà đã lan đến cả cõi vô tri. Cả bài thơ đã là sự tuyệt vời trong thi ca Việt. Nhưng chính hai câu kết mới là nguyên nhân để bài thơ Trưng Nữ Vương đi vào cõi bất tử của thi ca Việt Nam. Chính hai câu kết mới để tất cả mọi diễn biến dồn dập, hoành tráng bi hùng của cuộc kháng chiến Hai Bà Trưng, được miêu tả trong bài thơ trước đó, như hòa nhập với hư vô, vươn đến tận cõi bất tử. Chàng ơi ! Điện ngọc bơ vơ quá! Trăng chếch. Ngôi trời bóng lẻ soi. Đọc đến hai câu này, những hình tượng khốc liệt, bi tráng trong cuộc kháng chiến của Hai Bà Trưng trong thơ, như đọng lại và nhường cho một không gian khác: Không gian nội tâm của con người. Và chính trong không gian nội tâm này là đoạn kết cho cả bài thơ, là sự thăng hoa của tài hoa và tư duy thơ của Nữ Sĩ Ngân Giang. Ở đây những hình tương đối nhau không chỉ ở đối câu, đối chữ mà còn đối về cả ý, cả tình, cả tư duy và tính minh triết của nó, ngay trong một câu: Chàng ơi ! Điện ngọc bơ vơ quá! Nỗi bơ vơ của con người trong đời sống thế nhân vốn chỉ là lẽ thường tình. Nhưng cái nội tâm “bơ vơ” thường nhân ấy, khi đặt cạnh “Điện Ngọc” – một hình tượng tột đỉnh phù hoa - thì đó lại chính là cái nền cao ngất để đưa cái “bơ vơ” lên đến tận cùng không còn nơi bấu víu. Chàng ơi ! Điện ngọc bơ vơ quá! Có thể nhận xét rằng: Một câu thơ thuộc hàng huyền thoại thi ca, khi nó miêu tả và cô lập được một trạng thái trừu tượng: Trạng thái tâm tư đau khổ tận cùng của con người. Nhưng đáp lại trạng thái đau khổ tận cùng đó, thì lại là sự lãnh cảm của ngoại cảnh, qua câu: Trăng chếch. Ngôi trời bóng lẻ soi. Cả một không gian mênh mông, im ắng bao trùm lên một hình tượng của quyền lực tối hậu, nhưng bất lực trước đau khổ tận cùng của con người. Hai câu đối nhau, nhưng hòa quyện, tiếp nối liên hoàn với nhau và cùng đưa đến một chủ đích: Sư cô đơn tận cùng trong tâm hồn con người và không tìm được sự đồng cảm. Nhưng tất cả hình tượng trong hai câu này, lại toát lên tính minh triết rất nhân bản, làm nên đoạn kết vô tiền khoáng hậu của bài thơ, để hồn thơ thăng hoa đến tận cõi vĩnh hằng. Đó chính là sự ca ngợi tình yêu con người vượt lên trên tất cả. “Điện Ngọc” – Đó là đỉnh cao của sự phú túc vật chất mà thế nhân hằng mơ ước. “Ngôi trời” – Đó là quyền lực tối hậu thống trị cõi nhân gian. Nếu như những khổ đau nơi trần thế đều đến từ tham vọng của chính con người vì quyền lực và của cải – Thì ở đây - Trong thơ Ngân Giang – cụ thể trong bài Trưng Nữ Vương này - ”Điện Ngọc” cũng bơ vơ, “Ngôi Trời” còn lẻ bóng. Ở đây, chính tình yêu con người mới là những gía trị đích thực vượt lên mọi tham vọng của tha nhân. Mà chính quyền lực tối hậu và của cải phù hoa chất ngất ấy, chỉ là cái nền cho tình yêu con người bay bổng trong cõi vĩnh hằng. Hai câu cuối đề cao tính nhân bản và tình yêu con người, bên cạnh những hình ảnh hào hùng, bi tráng của cuộc chiến, đã làm nên một sức nặng qua hình tượng thi ca, trở thành một đối trọng của cả bài thơ, khiến bài thơ trở nên bất tử. Hình ảnh con người bơ vơ bên “Điện Ngọc” và sự vô cảm của ánh trăng suông trong cõi mênh mông vô tận, soi một “ngôi trời” lẻ bóng , như một nét khắc họa tuyệt diệu đến huyền vĩ của nghệ thuật thi ca khi miêu tả nỗi cô đơn tận cùng và khẳng định tình yêu con người chính là ước vọng cuối cùng cao quý nhất trong kiếp tha nhân. Cùng với sự hào hùng bi tráng của cuộc kháng chiến Hai Bà Trưng trong sử Việt, vẻ đẹp tuyệt mỹ của bài thơ Trưng Nữ Vương mang đầy tình minh triết và nhân bản về tình yêu con người, sẽ vĩnh viễn là ngôi sao sáng chói, lấp lánh trên dòng Ngân Giang. * Có thể nói rằng: Hầu hết những áng thi văn đi vào cõi bất tử của nghệ thuật và thi ca nhân loại thì đều chứa đựng những giá trị minh triết ca ngợi tình yêu con người, vượt lên trên mọi tham vọng của tha nhân với hoàn cảnh bi tráng. Nền văn hiến trải gần 5000 năm lịch sử Việt cũng đã tạo nên những áng thi văn đầy minh triết ca ngợi tình yêu con người, đầy nhân bản. Xa xưa nhất chính là câu chuyện văn học sử nổi tiếng: Chuyện tình Mỵ Châu Trọng Thủy. Cái chết của Trong Thủy đã khẳng định tình yêu bất tử và phủ nhận chiến tranh phi nghĩa. Trong Đại Cáo Bình Ngô của Nguyễn Trãi, chúng ta cũng thấy tính nhân bản được đề cao như là một gía trị chủ đạo trong nền văn hiến Việt. Và ngày nay, chúng ta lại tìm thấy sự minh triết với những giá trị đầy nhân bản trong bài thơ Trưng Nữ Vương của Nữ Sĩ Ngân Giang: Sự đau thương bi tráng và tột đỉnh vinh quang, nhưng vượt lên trên tất cả là một giá trị bất tử của tình yêu con người. Xin trân trọng cảm ơn sự quan tâm của quí vị. Nguyễn Vũ Tuấn Anh