• Thông báo

    • Bá Kiến®

      Nội quy Lý Học Plaza

      Nội quy này là bản mở rộng Nội Quy - Quy định của Diễn đàn. Khi tham gia mua bán, các thành viên phải tuân theo những quy định sau: Tiêu đề bài viết: Bao gồm: Chỉ dẫn địa lý, Loại hình Mua/Bán, Thông tin mua bán.
      Chỉ dẫn địa lý: Tỉnh/thành nơi mua bán. Hoặc sử dụng định nghĩa có sẵn:TQ: Toàn quốc
      HCM: TP Hồ Chí Minh
      HN: Hà Nội
      [*]Ví dụ: HCM - Bán Vòng tay Hổ Phách ​Nội dung bài viết: Mô tả chi tiết sản phẩm mua/bán
      Bắt buộc phải có thông tin liên lạc, giá Mua/Bán
      Bài mới đăng chỉ được phép up sau 03 ngày.
      Thời gian up bài cho phép: 01 ngày 01 lần.
      Các hành vi vi phạm nội quy này sẽ bị xóa bài hoặc khóa tài khoản mà không cần báo trước.

Tìm kiếm trên Diễn đàn

Hiển thị kết quả cho thẻ ''BÀI THUYẾT TRÌNH CỦA BÁC SĨ N''.

  • Tìm theo Thẻ/Tags

    Loại thẻ phân cách bằng dấu phẩy.
  • Tìm theo Tác giả

Loại nội dung


Forums

  • Hoạt Động Của Diễn Đàn
    • Thông Báo
    • Hoạt Động Của Diễn Đàn
    • Đóng Góp Ý Kiến Phát Triển
    • Thắc Mắc - Thông Báo Lỗi
  • Trao Đổi Học Thuật
    • Lý Học Lạc Việt
    • Cổ Văn Hoá Sử
    • Dự Báo và Chứng Nghiệm
    • Minh Triết Cổ
    • Phong Thủy
    • Chuyên Đề Hội Thảo Phong Thủy
    • Tử Vi
    • Lạc Việt Độn Toán
    • Dịch Học
    • Thái Ất - Độn Giáp
    • Tử Bình - Bát Tự
    • Tướng Pháp Chỉ Tay
    • Các Môn Dự Đoán Khác
    • Đông Y
    • Luận Tuổi Lạc Việt
  • Văn hiến Việt
    • Truyền hình Văn hiến Việt
  • Trang Hội Viên
    • Thông Tin Cập Nhật
    • Cafe Lý Học
    • Mạn Đàm
    • Tiềm Năng - Tâm Linh - Con Người
    • Tâm Sự - Giao Lưu
    • Giải Trí - Chuyện Lạ
    • Thơ Ca Văn Chương Nghệ Thuật
    • Y Học Và Sức Khoẻ
    • Những Mảnh Đời Cần Cứu Giúp
    • Clb Nhiếp Ảnh
  • Tư Vấn
    • Tử Vi
    • Luận Tuổi
    • Lạc Việt Độn Toán
    • Phong Thủy
    • Danh Tính & Số Mệnh
    • Tướng Pháp
    • Bốc Dịch
    • Tử Bình Bát Tự
    • Các Môn Dự Đoán Khác
  • Principles Of Ancient Oriental Learning, History And Culture
    • THE ANCIENT ORIENTAL LEARNING
    • ANCIENT ORIENTAL CULTURE
    • THE FORETELLING OF ANCIENT ORIENTAL ASTROLOGY
  • Lý Học Plaza
    • Trung Tâm Thương Mại
    • Rao Vặt

Calendars

  • Community Calendar

Tìm thấy 1 kết quả

  1. VIỆT LÀ GÌ? Bài Thuyết Trình Nguyễn Xuân Quang (Tóm Lược Bài Nói Chuyện ngày 14-9-2014 tại Hội Quán Lạc Hồng, Little Saigon, Quận Cam, Nam Cali). Kính thưa quí vị, …… Hôm nay tôi rất hân hạnh được chia xẻ với quí vị một đề tài mà tôi nghĩ tất cả những người Việt đều muốn biết, nếu không muốn nói, là PHẢI BIẾT. Chúng ta phải biết Việt Là Gì? để mà tồn tại. Hiện nay nếu ra đường hỏi mười người Việt: Việt Là Gì? thì ta sẽ có mười câu trả lời khác nhau. Điều này chứng tỏ người Việt hãy còn mơ hồ, lẫn lộn về bản sắc, sắc thái và căn cước Việt của mình. Tại sao lại như vậy? Bởi vì từ xưa tới giờ các nhà làm văn hóa, viết sử sách Việt vẫn chưa tìm ra được cái ý nghĩa đích thực của từ Việt, hãy còn tranh cãi, mỗi người nói một nẻo dựa vào các cổ thư Trung quốc và vào các sách vở của các nho sĩ học chữ thánh hiền Trung Quốc. Hiển nhiên thiếu sót và sai lạc. Hôm nay tôi sẽ trình bầy ý nghĩa của từ Việt qua các khảo cứu đa ngành: -Sử Đá từ thời tân thạch (petroglyphes). -Sử Miệng qua truyền thuyết. - Sử Đồng Đông Sơn. - Sử Sách: Cổ Sử học, Lịch Sử. -Ngôn Ngữ Học, Nhân Chủng Học, Dân Tộc Học, Khảo Cổ Học… Trước hết ta hãy duyệt xét lại: QUA CỔ SỬ TRUNG QUỐC .Sử gia Tư Mã Thiên là người đầu tiên viết về người Việt. Trong số 130 thiên của Sử Ký, ông dành 5 thiên nói về người Việt. Nhưng lúc bấy giờ Tư Mã Thiên chỉ viết về các tộc Việt lân bang và có liên hệ với người Hoa Hạ, ông chưa nói tới các tộc Việt ở nơi xa về phương nam như Lạc Việt. .Sách Lã Thị Xuân Thu nói tới Bách Việt đầu tiên. .Qua các thư tịch cũ Trung Quốc, từ Việt khi thì chỉ tên nước, khi thì chỉ chung cả nhiều tộc, chỉ Bách Việt từ sông Dương Tử xuống bắc Đông Dương, tức thuộc địa bàn cũ của Văn Lang. NGÔN NGỮ HỌC Ý NGHĨA TỪ VIỆT Các học giả từ trước tới giờ giải thích từ Việt chỉ tên tộc, tên nước có thể qui vào ba nhóm: Việt là Búa, Rìu, Việt là Vượt và Việt là Siêu Việt. 1. Việt là Búa, Rìu. Nguyên thủy rìu là vật nhọn làm bằng cây, gỗ, rồi bằng đá, kim loại. Giải tự chữ Việt búa bên phải ta có chữ qua (khí giới nhọn): Chữ qua. và bên trái có chữ phủ, búa. Giải tự thêm chữ qua, ta có: nét sổ chéo hình cây que, còn lại là chữ dực có nghĩa là cung tên. Tóm lại, chữ Việt búa gồm phần thứ nhất có cây nọc que, chữ dực cung tên, gộp lại thành chữ qua, khí giới nhọn (can qua là gậy và khí giới nhọn và cũng có nghĩa rộng ra là chiến tranh). Qua chính là Việt ngữ que. Que vót nhọn thành khí giới qua (gậy nhọn và cùng tên). Phần thứ hai là cây búa. 2. Việt là Vượt. Được giải thích cho rằng do phiên âm của Ư Việt (tên một nước trong nhóm Sở-Ngô-Việt thời Xuân Thu, thế kỷ thứ 5 Trước Tây Lịch). Ư có một nghĩa là Vu, “đi qua” (Đào Duy Anh, Hán Việt từ điển). Việt có nghĩa là vượt thấy rõ trong bóng đá, có phạt việt vị khi cầu thủ đã vượt qua vị trí của mình đi xuống phần sân của đối thủ trước khi quả bóng tới. 3. Việt là siêu việt. Việt là trên hết, siêu đẳng. Nghĩa thứ ba này có thể được chấp nhận bởi nhóm các tác giả quá nặng lòng ái quốc . Thính giả (ảnh Vương Huê). Câu hỏi bây giờ được đặt ra: TẠI SAO TÊN TỘC VIỆT, NƯỚC VIỆT LẠI GỌI BẰNG HÁN NGỮ YUE VÀ HÁN VIỆT LÀ VIỆT? Dĩ nhiên, Việt Phải Là Một Từ Phiên Âm Của Một Từ Nôm hay Thuần Việt. Bắt buộc. Tôi đã tìm ra từ thần Việt đó là từ VỌT, theo qui luật biến âm ie=o như hiệp = hợp, ta có Việt = vọt. Vọt có những nghĩa sau: -Vọt nghĩa đen là cây roi, cây que, cây nọc. Roi vọt. Với nghĩa này Vọt ứng với nét sổ hình que của chữ qua. Vọt, vót, chuốt thành Que Nhọn (can qua), vát đi thành Vớt là “large knife” (used as weapon) (Đặng Chấn Liêu, Từ điển Việt Anh, nxb KHXH, 1993): dao lớn dùng làm khí giới. Qua từ đôi vớt vát, ta có vớt = vát (khúc cây dẹp, miếng gỗ vát đi thành con dao gỗ vớt). Với nghĩa này Vọt ứng với chữ qua (gồm nét que, chữ dực cung tên) và chữ búa (búa chim là do cành cây cong xuống vót nhọn đầu). -Vọt cũng có nghĩa là Vượt. Ta dùng vọt vụt cho con vật như trâu, bò ngựa Vượt qua một chướng ngại vật, vượt qua mặt các con vật khác. Chiếc xe vọt là chiếc xe vượt nhanh. -Vọt là trên hết, siêu việt. Vọt biến âm với Vót. Chót vót là điểm cao nhất. Như thế Việt mang nghĩa trên hết siêu việt. Ta thấy rất rõ VIỆT do từ nôm VỌT mà ra. Vọt có đủ tất cả các nghĩa của từ Việt búa. Vọt là vật nhọn roi, gậy, nọc, cọc vót nhọn thành cây lao, mũi tên, búa mỏ chim, con dao vớt (khúc cây dẹp, miếng gỗ vát đi thành cây vớt, dao dùng làm khí giới như mã tấu). Vọt là Vượt. Vọt là vót (chót) là trên hết là siêu việt. Rõ ràng từ nôm Vọt có tất cả các nghĩa của từ Hán Việt Việt. Từ Việt có nguồn gốc nguyên thủy từ từ Vọt. CÁC LOẠI CHỮ VIỆT TỪ XƯA TỚI GIỜ. Bây giờ ta hãy lướt qua các từ Việt từ xưa cho tới gần đây. Ở phương Đông, các chữ cổ nhất thấy trên mai rùa, trên xương gọi là giáp cốt văn, thấy nhiều vào đời nhà Thương. Sau đây là chữ Việt trên giáp cốt văn và cây rìu Việt thời Tiền Tây Châu. Ta thấy rìu Việt Tiền-Tây Châu là một biến dạng của chữ Việt trên giáp cốt. Tiếp đến ta có các chữ Việt đời nhà Thương, chữ Việt viết với bộ kim, bộ mễ, bộ tẩu. Hình bóng từ Việt cũng thấy trên trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn. Một người nhẩy múa trên trống Miếu Môn I, người thuyền trưởng trên một chiếc thuyền trên trống Ngọc Lũ I cầm cây rìu Việt giống chữ Việt đời nhà Thương và cặp cổ vật Đông Sơn cũng vậy. TẠI SAO TÊN MỘT ĐẠI TỘC, MỘT TỘC, MỘT NƯỚC LẠI GỌI THEO MỘT VẬT DỤNG LÀ RÌU, LÀ VIỆT? Tên của một tộc, một nước thường phải mang một ý nghĩa biểu tượng gì đó, thường liên quan tới đức tin, tín ngưỡng, nhân sinh quan, vũ trụ quan. Ngay cả tên một người, nhất là tên của một nhân vật quan trọng như một tù trưởng, một vị vua cũng vậy. Đa số học giả cho rằng tên Việt do người Hoa Hạ, Hán gọi nhóm tộc người có cây rìu mang biểu tượng văn hóa đặc biệt và chấp nhận giải nghĩa này (Di Sản Lịch Sử, Diễn Đàn Lý Học Đông Phương). Gọi như vậy có hợp lý không? Xin thưa, rất hợp lý. Tôi xin đưa ra một bằng chứng. Tại Hoa Kỳ có một tiểu bang ở Trung Mỹ tên là Missouri. Missouri là tên một tộc thổ dân Mỹ châu nói tiếng Sioux. Họ được gọi là Ouemessourita (Wimihsoorita), ‘Người có thuyền độc mộc’ bởi những người nói tiếng Miami-illinois. Tộc Missouri này nổi tiếng về làm thuyền độc mộc (dugout). Họ rất giỏi về sông nước và liên lạc trao đổi đồ vật với các tộc ở dọc theo các dòng sông lớn trong vùng nên được các tộc này rất khâm phục gọi họ là Tộc Người Thuyền Độc Mộc. Về sau họ chấp nhận lấy tên gọi này làm tên của tộc mình luôn. Ngày nay tên này trở thành tên tiểu bang Missouri. Do đó tên Việt cũng vậy và rất hợp lý. TỪ VIỆT PHẢI MANG MỘT Ý NGHĨA BIỂU TƯỢNG THIÊNG LIÊNG. Như vậy, tên Việt được gọi theo cây rìu Việt thì cây rìu Việt phải mang một ý nghĩa biểu tượng thiêng liêng, một ý nghĩa liên hệ tới tín ngưỡng, đức tin, nhân sinh quan vũ trụ quan nào đó. Ta hãy truy tìm xem. Thưa quí vị, chúng tôi may mắn có dịp được nhìn tận mắt một trong những cây rìu Việt cổ nhất là cây rìu Việt cuối thời nhà Hạ vào thế kỷ 16-18 Trước Tây Lịch, hiện đang được trưng bầy tại Viện Bảo Tàng Thượng Hải, Trung quốc. Hiển nhiên đây không phải là chiếc rìu dùng làm dụng cụ dùng hàng ngày, mà đây là một chiếc rìu thờ. Ở tâm chiếc rìu này có một lỗ hổng tròn diễn tả hư vô. Hư vô là một lỗ trống không. Vòng tròn bao quanh hư vô là hư không, không gian. Tiếp tới là vành có những đốm sáng dát bằng ngọc thạch là vành sáng diễn tả mặt trời. Như thế, tâm rìu diễn tả cõi trên, cõi đại vũ trụ, gồm hư vô, thái cực (không gian và mặt trời nguyên tạo nhìn dưới dạng nhất thể) và lưỡng nghi (không gian và mặt trời nhìn dưới dạng phân cực). Chiếc rìu hình vuông diễn tả cõi Đất. Ta thấy rõ, ở cõi thế gian, tiểu vũ trụ rìu diễn tả trời tròn đất vuông. Rõ ràng Rìu Việt này diễn tả vũ trụ thuyết. Trở lại chiếc rìu búa như đã thấy qua giải tự ở trên gồm có nọc que, chữ dực và chữ búa. Nọc que là chữ nòng nọc vòng tròn-que hình nọc que có nghĩa là nọc, đực, bộ phận sinh dục nam, dương, mặt trời ứng với Càn. Chữ dực gồm nét cung diễn tả bầu trời, bầu vũ trụ và nét mũi tên là nọc nhọn mang dương tính. Gộp lại là bầu vũ trụ, bầu trời dương tức không gian dương ứng với khí gió Đoài vũ trụ. Chữ búa ở đây để ở một vị trí rất đặc biệt là cán búa chỉ thẳng lên trời. Có một ẩn nghĩa gì đây? Búa hình trụ cắm trên mặt bằng diễn tả trụ chống trời, trụ thế gian có một nghĩa là núi vũ trụ, núi thế gian diễn tả Đất dương. Điểm này thấy rõ qua chữ thổ viết trên giáp cốt văn giống hình trụ cắm trên mặt đất này. Như thế chữ Việt búa diễn tả mặt trời, không gian, đất của ngành nọc dương cũng mang ý nghĩa biểu tượng của Vũ Trụ Tạo Sinh. Bây giờ ta hãy khảo sát một cây rìu thờ Đông Sơn xem sao? Đây là chiếc rìu tôi gọi là Rìu Hồng Bàng. Cán rìu có hình hai con dao long biểu tượng của Lạc Long Quân. Thân rìu có cặp hươu sừng hai mấu muông gạc (munjact), kì dương (hươu đực), kijang (Mã ngữ chỉ hươu kì dương) biểu tượng của Kì Dương Vương (Vua Hươu Đực hay Vua Hươu Mặt Trời). Dưới cùng thân rìu có hình hai con sói lang trời là loài thú biết hú biểu tượng cho gió bầu trời là thú biểu của Lang Hùng có một khuôn mặt là bầu trời. Rìu này là Rìu Hồng Bàng thế gian gồm Kì Dương Vương, Lạc Long Quân, Hùng Vương (Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt). Rõ như dưới ánh sáng mặt trời Rìu Việt thờ mang ý nghĩa biểu tượng vũ trụ quan, nhân sinh quan, cổ sử truyền thuyết Việt. Vì vậy rìu thờ Việt được dùng chỉ tên tộc Việt, nước Việt, đại tộc Việt, Bách Việt là điều hợp lý và rất chí lý. RÌU VIỆT VÀ MẶT TRỜI. Như thế tổng quát rìu Việt thờ diễn tả Vũ Trụ giáo. Vũ trụ gồm mặt trời và không gian. Vũ trụ giáo do đó gồm có hai ngành: ngành nọc dương thờ mặt trời và ngành nòng âm thờ không gian. Rìu là vật nhọn vì thế Việt thuộc ngành nọc dương thờ mặt trời. Bây giờ ta thử xem thực sự rìu Việt có liên hệ gì với mặt trời không?, có ý nghĩa là mặt trời hay không? Ta hãy xét xem các thành tố nọc que, cung tên dực và búa của từ Việt búa có liên hệ gì với mặt trời hay không? .Chữ nọc que Như đã biết ở trên nọc que mang một ý nghĩa mặt trời. Hãy so sánh với hình Người Mặt Trời hay Thần Mặt Trời khắc trên đá tìm thấy ở Thung Lũng Camonica ở núi Alpes thuộc Ý. Người này ở giữa hai chân có hình vòng tròn trong có chữ thập. Chữ thập do hai nọc nhọn ghép lại. Hai nọc nhọn là hai dương là thái dương. Hai nọc nhọn để thẳng góc mang dương tính tối đa. Chữ thập mang tính siêu dương. Ngày nay chữ thập dùng làm dấu cộng trong toán học. Cộng là dương: phản ứng cộng là phản ứng dương. Tóm lại vòng tròn có chữ thập, có dấu cộng là vòng tròn dương, siêu dương là mặt trời thái dương. Vì thế đây là Người Mặt Trời, Thần Mặt Trời. Người này có bộ phận sinh dục rất cường điệu. Vì sao? Vì bộ phận sinh dục nam liên hệ với mặt trời. Bộ phận sinh dục nam là nọc, cọc, cược, đọc, đực, dương, mặt trời (đúng nghĩa của chữ nòng nọc vòng tròn-que hình nọc que). Phái nam có nọc, cọc, phái trụ (của vũ trụ) là phái dương, mặt trời (phái nữ là phái nòng, phái nường, phái nang, phái bao, phái bọc, phái vỏ, phái vũ của vũ trụ, phái không gian). Tay người này cầm cây lao là một thứ que vót nhọn, chính là thành tố que trong chữ Việt búa. Cây lao nọc que nhọn này cũng là biểu tượng bộ phận sinh dục nam, mặt trời. Cũng nên biết số 1 viết theo hình nọc que cũng biểu tượng mặt trời thấy qua các từ Anh ngữ solo, Pháp ngữ seul, Tây Ban Nha ngữ solamente, Việt ngữ son (tất cả có nghĩa là một, một mình) ruột thịt với sol, soleil, sun… (mặt trời). Kiểm chứng lại, nhìn tổng thể ta thấy rất rõ nọc que ứng với cây lao là hình ảnh của chữ nòng nọc vòng tròn-que hình nọc que có nghĩa là nọc, bộ phận sinh dục nam, đực, dương, mặt trời nên thành tố nọc que trong từ búa liên hệ với mặt trời, biểu tượng cho mặt trời. .Chữ dực cung tên. Hãy so sánh chữ dực cung tên với Người Bắn Cung khắc trên núi Yinshan, Trung Quốc (Gai). Ta thấy cung tên của người này mang hình ảnh chữ dực. Người này có bộ phận sinh dục nam cũng rất cường điệu diễn tả mũi tên nọc nhọn, hiển nhiên biểu tượng mặt trời. Như thế hiển nhiên chữ dực có mũi tên nọc nhọn cũng mang nghĩa biểu tượng mặt trời. .Chữ búa Hãy so sánh chữ búa này với những hình Người Mặt Trời khắc trên đá ở Vitlycke, Bohuslan, Thụy Điển (H.R. Ellis Davidson, p.62-63). Những người này rõ ràng là những người mặt trời vì có hình mặt trời ở phần thân dưới. Họ cũng có bộ phận sinh dục nam rất cường điệu, có gậy dắt ở thắt lưng. Đặc biệt là tay cầm rìu hình búa giống như chữ búa trong từ Việt. Hiển nhiên thành tố búa trong từ Việt cũng biểu tượng cho mặt trời. Tóm lại tất cả những thành tố trong từ Việt đều mang nghĩa biểu tượng mặt trời như thế rõ như hai năm là mười từ Việt búa liên hệ với mặt trời, biểu tượng cho mặt trời. KIỂM CHỨNG LẠI XEM TẠI SAO VẬT NHỌN, NỌC, CỌC, CƯỢC, BÚA, RÌU LÀ BIỂU TƯỢNG MẶT TRỜI? Để vững chắc thêm, ta hãy kiểm chứng lại xem có thật sự Việt búa biểu tượng mặt trời hay không? .Qua chữ nòng nọc vòng tròn-que. Trước hết, như đã nói ở trên, Việt búa nguyên thủy gốc là cây vọt, nọc, que mà ta đã biết chữ nòng nọc vòng tròn-que hình nọc que, nọc mũi tên có nghĩa là nọc, dương, lửa, mặt trời, thái dương (Chữ Nòng Nọc). Việt búa hiển nhiên biểu tượng mặt trời. .Qua Ấn Giáo Thờ Mặt Trời Linga. Bây giờ ta hãy kiểm chứng với Ấn giáo có nguyên lý căn bản là nòng nọc, âm dương, linga yoni. Linga là bộ phận sinh dục nam, là nọc hiển nhiên liên hệ với mặt trời. Ta thấy trong Ấn giáo có giáo phái thờ linga là mặt trời gọi là Surya-Linga như thấy ở đền Navagraba. Ở đây cho thấy rõ mặt trời là nọc, qua, vật nhọn (lao, mũi tên, búa, rìu), đực, bộ phận sinh dục nam, linga. Điểm này trấn an nhiều người khi thấy tôi giải nghĩa Hùng Vương là Vua Đực (dính dáng với bộ phận sinh dục nam, phái nam, phái Lang, chàng). Hùng có một nghĩa là đực như thấy qua từ đôi thư hùng có nghĩa là cái đực, mái trống, mái sống ví dụ đánh một trận mái sống nghĩa là đánh một trận thư hùng. Hùng Vương là Vua Đực vì là hậu duệ của các Lang (con trai, trai tráng, nôm na là Đực) ứng với tròng đỏ mặt trời của bọc trứng mặt trời-không gian của Âu Cơ. Rõ như dưới ánh sáng mặt trời Hùng Vương là Vua Đực, Vua Dương, Vua Mặt Trời. Vì Hùng Vương là Vua Mặt Trời, Vua Đực, Vua Trống nên TRỐNG đồng Đông Sơn (trống có một nghĩa là đực) là trống biểu của Hùng Vương. Ta cũng thấy rõ trống đồng biểu tượng của Hùng Vương, Vua Mặt Trời nên trống nào cũng có mặt trời ở tâm mặt trống. .Qua Đạo Thờ Mặt Trời Của Ai Cập Cổ. Trụ thạch bi ở Đền Luxor, Ai Cập. Trụ thạch (thạch bi, obelisk) của Ai Cập cổ chính là hình ảnh của vật nhọn (nọc, cọc nhọn, lao, tên, khoan, dùi) tức Việt có nguồn gốc nguyên thủy là Vọt. Ta đã biết obelisk diễn tả tia sáng mặt trời (sunray) tức mặt trời có tia sáng nọc thái dương. Như thế Việt-Vọt (lao, tên, búa, rìu) cũng mang nghĩa biểu tượng tia sáng mặt trời, mặt trời có nọc tia sáng thái dương (giống như mặt trời có nọc tia sáng trên trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn). Qua trụ thạch obelisk nọc tia sáng này ta thấy rõ nọc, que, vật nhọn (lao, mũi tên, búa chim) mang ý nghĩa biểu tượng mặt trời. Như thế rõ như dưới ánh sáng mặt trời Việt búa mang ý nghĩa biểu tượng mặt trời. .Qua Tộc Maya Thờ Mặt Trời ở Trung Mỹ. Tiến xa hơn, tới tộc Maya Trung Mỹ, một tộc ruột thịt với Lạc Việt, Việt Nam. Người Maya cũng như đa số thổ dân Mỹ châu có nguồn gốc xa xưa từ vùng duyên hải Đông Nam Á đi lên phía bắc, vượt qua eo biển Bering rồi xuống Mỹ châu. Maya có DNA giống Cổ Việt, nói ngôn ngữ ruột thịt với Việt ngữ (Đức Chúa Jesus Nói Tiếng Việt), có nền văn hóa có cốt lõi lưỡng hợp chim-rắn kukulcan giống như Tiên Rồng chim cắt-rắn nước của Việt Nam… Có tác giả cho Maya là một thứ Bộc Việt (xem Sự Tương Đồng Với Maya). Người Maya cũng có rìu Việt. Rìu mặt trời Maya giống hệt chữ Việt viết trên giáp cốt. Chiếc rìu Việt Maya giống hệt chữ Việt viết trên giáp cốt đời nhà Thương (khi khám phá ra chiếc rìu Việt Maya này, người tôi nổi đầy gai ốc). Maya thờ mặt trời, vòng tròn trên chiếc rìu có một khuôn mặt diễn tả mặt trời đĩa tròn âm của Maya. Ta suy ra vòng tròn trên chữ Việt ở giáp cốt văn cũng có một khuôn mặt là mặt trời. Chữ Việt trên giáp cốt văn viết theo chiếc rìu Việt mặt trời. Từ đây ta cũng suy ra vòng tròn trên cây khí giới của người Việt tráng zhuang đeo ngang lưng vẽ trên vách đá Hoa Sơn, Quảng Tây cũng là hình mặt trời (xem dưới). Đây là một bằng chứng hùng hồn và kiên cố cho thấy rìu Việt là rìu mặt trời. Việt mang nghĩa biểu tượng mặt trời. Như thế kiểm chứng qua chữ viết cổ nhất của loài người là chữ nòng nọc vòng tròn-que, qua các tộc thờ mặt trời như Ấn giáo phái thờ linga-mặt trời, Ai Cập cổ, Maya rõ như hai năm là mười Việt là Vọt, que, nọc, vật nhọn (lao, mũi tên, rìu búa) biểu tượng cho ánh sáng mặt trời, dương, mặt trời. Việt là Mặt Trời. CHỨNG TÍCH RÌU VIỆT BIỂU TƯỢNG MẶT TRỜI TRÊN ĐẤT VIỆT. Thưa quí vị, một câu hỏi được nêu ra là có chứng tích Việt-Rìu nào còn thấy ở trên đất Việt Nam không? Xin thưa: CÒN. Trong các hình khắc trên đá ở Bãi Đá Cổ Sapa còn thấy có hình Người Mặt Trời, Thần Mặt Trời (vì trên đầu có hình mặt trời) có bộ phận sinh dục được diễn tả bằng một vật cong nhọn. Trong thực tế không có người nam nào có bộ phận sinh dục như thế này. Hiển nhiên bộ phận sinh dục này mang một ý nghĩa biểu tượng. Vật cong nhọn là một thứ vật dụng nhọn, một thứ khí giới. Đây chính là một thứ Việt, Vọt. Ta đã biết bộ phận sinh dục nam là nọc, cọc mang nghĩa biểu tượng mặt trời. Người Mặt Trời ở đây có bộ phận sinh dục diễn tả theo một thứ Việt thì hiển nhiên đây là rìu Việt mặt trời. Như thế rìu Việt còn có mặt trên đất Việt và hiển nhiên đây là Người Việt Mặt Trời Sapa, Thần Mặt Trời Việt Sapa. Trên trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn có rất nhiều người tay cầm rìu giống hệt chiếc rìu chữ Việt nhà thương và rìu Quốc Oai. Những người này cầm rìu Việt. Ví dụ như một người nhẩy múa trên trống Miếu Môn I (xem hình trên). Chữ Việt bộ mễ có hình chữ rìu Việt nhà Thương, rìu Quốc Oai ngày nay còn dùng trong tên Lưỡng Việt Quảng Tây và Quảng Đông (xem hình trên).