Rubi

Hội Viên Ưu Tú
  • Số nội dung

    1.160
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    3

Everything posted by Rubi

  1. Bản Chú Đại Bi Hán Ngữ-Cách viết GiảnThể 南 无、喝 啰 怛 那、哆 啰 夜 耶. Na Mo, He Le Da Na, Duo La Ye Ye / Nam mô hăn nai tăn na tôn nai da de.). 南 无 阿 唎 耶. (Na Mo, Ou Li Ye / Nam mô ô ri dè.). 婆 卢 羯 帝、烁 缽 啰 耶. (Po Luo Jie Di, Shuo Bo La Ye / Bồ rồ chết kế, xít quanh na de.). 菩 提 萨 埵 婆 耶, (Pu Ti Sa Duo Po Ye / Bu ti sa tô bô dè.), 摩 诃 萨 埵 婆 耶. (Mo He Sa Duo Po Ye / Mồ hô sa tô bô de.). 摩 诃、迦 卢 尼 迦 耶 (Mo He, Jia Lu Ni Jia Ye / Mô hô chả lu ni cha dè.). 唵, (An / Ùm.), 萨 皤 啰 罚 曳, (Sa Bo La Fa Yi / Sa ban nai phà di. ) 数 怛 那 怛 写. (Su Da Na Da Xia / Xú tăn na tằn chà.). 南 无、 醯 吉 慄 埵、 伊 蒙 阿 唎 耶. (Na Mo, Xi Ji LieDuo, Yi Mong Ou Li Ye / Nam mô xi kê ly tô di mô ri dè.). 婆 卢 吉 帝、室 佛 啰 愣 驮 婆. (Po Lu Jie Di, Shi Fu La Leng Tuo Po / Bồ rồ kết kế xit phô nai lân tồ bô.). 南 无、那 啰 谨 墀. (Na Mo, No La Jin Chi / Nam mô na nai kin tì.). 醯 利 摩 诃、皤 哆 沙 咩. (Shi Li Mo He, Ba Duo Suo Mi / Hề ly mô hô banh tô sa mế.). 萨 婆 阿__、豆 输 朋 ( Sa Po Ou Ta, Dou Shu Peng / Sa bố ô ta tô xu bùn.). 阿 逝 孕. (Ou Shi Yun / Ở xừ dyin.), 萨 婆 萨 哆、那 摩 婆 萨 哆,那 摩 婆 伽, (Sa Po Sa Duo, Na Mo Po Sa Duo Na Mo Po Qie / Sa bô sa tô Nam mô bô sa tồ, nam mô bô che .), 摩 罚 特 豆. ( Mo Fa Te Dou / Mô pha tơ tô). 怛 侄 __, ( Da Zhi Ta / Tân sư tha), 唵,阿 婆 卢 醯. (An, Ou Po Lu Xi / Ùm, mô bô lu thế), 卢 迦 帝, ( Lu Jia Di / Lu cha tề), 迦 罗 帝. (Jia Lu Di / Chà rồ tế). 夷 醯 唎. ( Yi Xi Li / Ý hề ly ). 摩 诃 菩 提 萨 埵. (Mo He Pu Ti Sa Duo / Mô bu ti sa tô.). 萨 婆 萨 婆, (Sa Po Sa Po / Sa tô sa bồ.), 摩 啰 摩 啰, (Mo La Mo La / Mồ nai mô nai.), 摩 醯 摩 醯、唎 驮 孕. (Mo Xi Mo Xi, Lie Tuo Yun / mô hê mô hề⠬y tô dyin.). 俱 卢 俱 卢、羯 蒙. (Ju Lu Ju Lu, Jie Mong / Chuy lu chuy lu chẻ mùn.). 度 卢 度 卢、罚 阇 耶 帝. (Du Lu Du Lu, Fa She Ye Di / Tù lu tù lu phá xơ de ti.). 摩 诃、罚 阇 耶 帝. (Mo He, Fa She Ye Di / Mô phá xơ dè tì.). 陀 啰 陀 啰, (Tuo La Tuo La / Tồ nai tồ nai.), 地 唎 尼, (Di Li Ni / Ti li ni.), 室 佛 啰 耶. (Shi Fu La Ye / Xử phố nai de.). 遮 啰 遮 啰, (Zhe La Zhe La / Chân nai chân nai.), 摩 么 罚 摩 啰, (Mo Mo Fa Mo La / Mân mô bâm mô nài.), 穆 帝 隶. (Mo Die Lie / Mù tì ly.). 伊 醯 伊 醯, (Yi Xi Yi Xi / Ỷ hê ly hê.), 室 那 室 那, (Shi Na Shi Na / Xử na xử na.), 阿 啰 參、佛 囉 舍 利. (Ou La Sen, Fu La She Li / O na sân tô nai sơ rì.). 罚 沙 罚 參. (Fa Suo Fa Seng / Phạ sa phạ sân.). 佛 啰 舍 耶. (Fu La She Ye / Phọ nai sơ de.). 呼 嚧 呼 嚧 摩 啰, (Hu Lu Hu Lu Mo La / Hu lu hu lu mô nai.), 呼 嚧 呼 嚧 醯 利. (Hu Lu Hu Lu Xi Li / Hu lu hu lu hê lì.). 娑 啰 娑 啰, (Suo La Suo La / Xà nai xà nai), 醯 唎 醯 唎, (Xi Li Xi Li / Xi ly xi hì ri.), 苏 嚧 苏 嚧. (Su Lu Su Lu / Xu lu xu lu.). 菩 提 夜、菩 提 夜. (Pu Ti Ye, Pu Ti Ye / Bu ti de bu tì de.). 菩 驮 夜、菩 驮 夜. (Pu Tuo Ye, Pu Tuo Ye / Bu tô de bu tô de.). 弥 帝 唎 夜, (Mi Di Li Ye / Mi đi ly de.), 那 啰 谨 墀. (Nuo La Jin Chi / Na nai kin tì.). 地 利 瑟 尼 那, (Di Li Se Ni Na / Tì ly sờ rì na.), 波 夜 摩 那, (Po Ye Mo Na / Bô de mô na.), 娑 婆 诃. (Suo Po He / Sap bô hồ.). 醯 陀 夜 ( Xi Tuo Ye / Xì tô de.), 娑 婆 诃. (Suo Po He / Sap bô hô.). 摩 诃 醯 夜 ( Mo He Xi Tuo Ye / Mô hô xi tô de.), 娑 婆 诃. (Suo Po He / Sap bô hồ.). 醯 陀 喻 艺 (Xi Tuo Yu Yi / Xi tô duy di.), 室 皤 啰 耶, (Shi Bo La Ya / Xử ban nai de.), 娑 婆 诃. (Suo Po He / Sap bồ hô.). 那 啰 谨 墀, (Nuo La Jin Chi / Na nai kin ti.), 娑 婆 诃. (Suo Po He / Sap bồ hồ.). 摩 啰 那 啰, (Mo Na Nuo La / Mô nai na nai.), 娑 婆 诃. (Suo Po He / Sap bô hô.). 醯 啰 僧、阿 穆 佉 耶, (Xi La Sen, Ou Mu Qie Ye / Xi lai xăn ô mu chuy de.), 娑 婆 诃. (Suo Po He / Sap bô hồ.). 娑 婆 摩 诃、阿醯 陀 夜 ( Suo Po Mo He, Ou Xi Tuo Ye / Sap bồ mô hô hô si tô de.), 娑 婆 诃. (Suo Po He / Sap bồ hô.). 者 吉 啰、阿 醯 陀 夜 ( Zhe Ji La, Ou Xi Tuo Ye / Tra kế nai ô si tô de.), 娑 婆 诃. (Suo Po he / Sap bồ hồ.). 波 陀摩 羯 醯 陀 夜 ( Bo Tuo Mo, Ji Xi Tuo Ye / Bồ tô mô che si tô de.), 娑 婆 诃. (Suo Po He / Sap bô hô.). 那 啰 谨 墀、皤 伽 啰 耶, (Nuo La Jin Chi, Bu Qie La Ye / Na nai kin ki banh che nai de.), 娑 婆 诃. (Suo Po He / Sap bô hồ.). 摩 婆 利、胜 羯 啰 夜, (Mo Po Lie, Sen Ji La Ye / Mồ bồ xăn che nai de.), 娑 婆 诃. (Suo Po He / Sap bồ hô.). 南 无 喝 啰 怛 那、哆 啰 夜 耶. (Na Mo He La Da Na, Duo La Ye Ye / Nam mô hân nai tân nai tô nai da dè.). 南 无 阿 唎 耶. (Na Mo Ou Li Ye / Nam mô ô ri de.). 婆 嚧 吉 帝, (Po Lu Jie Di / Bô ru ke.), 烁 皤 啰 夜, (Suo Bo La Ye / Ke xứ bấn nai de.), 娑 婆 诃. (Suo Po He / Sap bồ hồ.). 唵 醯 殿 都, ( An, Xi Dian Du / Ùm, xì tín đú.), 漫 多 啰, (Man Duo La / Mánh đồ nai.), 跋 陀 耶, (Ba Tuo Ye / Ba tố de.), 娑 婆 诃. (Suo Po He / Sap bô hồ.). Ghi chú: _Hán Ngữ thấy có hai loại chữ là Phồn Thể và Giản Thể. Rubi tự hiểu thế này: Phồn là Phồn Vinh, là Đầy Đủ. Giản là Đơn Giản, là Rút Gọn. Thể là Nguyên Gốc. Phồn Thể là cách viết các từ theo hệ thống bảng chữ có đầy đủ nét theo nguyên gốc. Giản Thể là cách viết các từ theo hệ thống bảng chữ đã được đơn giản nét so với nguyên gốc. _Chuyển đổi dạng chữ Phồn Thể sang Giản Thể thì xem hướng dẫn tại đây: Link _Hai là cách viết Hán Ngữ La Tinh và phiên âm âm Việt có thể chưa chính xác, do kiến thức không chuyên của người sưu tầm. Ai muốn nghiên cứu kỹ thì cần lưu ý điểm đó. Và Rubi cũng mong được góp ý từ những kiến thức ít nhiều của đọc giả.
  2. Bản Chú Đại Bi Hán Ngữ-Cách viết Phồn Thể <= 1 & 2 => Hình ảnh đầy đủ=link 南 無、喝 囉 怛 那、哆 囉 夜 耶. ( Na Mo, He Le Da Na, Duo La Ye Ye / Nam mô hăn nai tăn na tôn nai da de.). 南 無 阿 唎 耶. (Na Mo, Ou Li Ye / Nam mô ô ri dè.). 婆 盧 羯 帝、爍 缽 囉 耶. (Po Luo Jie Di, Shuo Bo La Ye / Bồ rồ chết kế, xít quanh na de.). 菩 提 薩 埵 婆 耶, (Pu Ti Sa Duo Po Ye / Bu ti sa tô bô dè.), 摩 訶 薩 埵 婆 耶. (Mo He Sa Duo Po Ye / Mồ hô sa tô bô de.). 摩 訶、迦 盧 尼 迦 耶. (Mo He, Jia Lu Ni Jia Ye / Mô hô chả lu ni cha dè.). 唵, (An / Ùm.), 薩 皤 囉 罰 曳, (Sa Bo La Fa Yi / Sa ban nai phà di. ) 數 怛 那 怛 寫. (Su Da Na Da Xia / Xú tăn na tằn chà.). 南 無、 醯 吉 慄 埵、 伊 蒙 阿 唎 耶. (Na Mo, Xi Ji LieDuo, Yi Mong Ou Li Ye / Nam mô xi kê ly tô di mô ri dè.). 婆 盧 吉 帝、室 佛 囉 愣 馱 婆. (Po Lu Jie Di, Shi Fu La Leng Tuo Po / Bồ rồ kết kế xit phô nai lân tồ bô.). 南 無、那 囉 謹 墀. (Na Mo, No La Jin Chi / Nam mô na nai kin tì.). 醯 利 摩 訶、皤 哆 沙 咩. (Shi Li Mo He, Ba Duo Suo Mi / Hề ly mô hô banh tô sa mế.). 薩 婆 阿 __、豆 輸 朋、 ( Sa Po Ou Ta, Dou Shu Peng / Sa bố ô ta tô xu bùn.). 阿 逝 孕. (Ou Shi Yun / Ở xừ dyin.), 薩 婆 薩 哆、那 摩 婆 薩 哆,那 摩 婆 伽, (Sa Po Sa Duo, Na Mo Po Sa Duo Na Mo Po Qie / Sa bô sa tô Nam mô bô sa tồ, nam mô bô che .), 摩 罰 特 豆. ( Mo Fa Te Dou / Mô pha tơ tô). 怛 姪__ ( Da Zhi Ta / Tân sư tha), 唵,阿 婆 盧 醯. (An, Ou Po Lu Xi / Ùm, mô bô lu thế), 盧 迦 帝, ( Lu Jia Di / Lu cha tề), 迦 羅 帝. (Jia Lu Di / Chà rồ tế). 夷 醯 唎. ( Yi Xi Li / Ý hề ly ). 摩 訶 菩 提 薩 埵. (Mo He Pu Ti Sa Duo / Mô bu ti sa tô.). 薩 婆 薩 婆, (Sa Po Sa Po / Sa tô sa bồ.), 摩 囉 摩 囉, (Mo La Mo La / Mồ nai mô nai.), 摩 醯 摩 醯、唎 馱 孕. (Mo Xi Mo Xi, Lie Tuo Yun / mô hê mô hề⠬y tô dyin.). 俱 盧 俱 盧、羯 蒙. (Ju Lu Ju Lu, Jie Mong / Chuy lu chuy lu chẻ mùn.). 度 盧 度 盧、罰 闍 耶 帝. (Du Lu Du Lu, Fa She Ye Di / Tù lu tù lu phá xơ de ti.). 摩 訶、罰 闍 耶 帝. (Mo He, Fa She Ye Di / Mô phá xơ dè tì.). 陀 囉 陀 囉, (Tuo La Tuo La / Tồ nai tồ nai.), 地 唎 尼, (Di Li Ni / Ti li ni.), 室 佛 囉 耶. (Shi Fu La Ye / Xử phố nai de.). 遮 囉 遮 囉, (Zhe La Zhe La / Chân nai chân nai.), 摩 麼 罰 摩 囉, (Mo Mo Fa Mo La / Mân mô bâm mô nài.), 穆 帝 隸. (Mo Die Lie / Mù tì ly.). 伊 醯 伊 醯, (Yi Xi Yi Xi / Ỷ hê ly hê.), 室 那 室 那, (Shi Na Shi Na / Xử na xử na.), 阿 囉 參、佛 囉 舍 利. (Ou La Sen, Fu La She Li / O na sân tô nai sơ rì.). 罰 沙 罰 參. (Fa Suo Fa Seng / Phạ sa phạ sân.). 佛 囉 舍 耶. (Fu La She Ye / Phọ nai sơ de.). 呼 嚧 呼 嚧 摩 囉, (Hu Lu Hu Lu Mo La / Hu lu hu lu mô nai.), 呼 嚧 呼 嚧 醯 利. (Hu Lu Hu Lu Xi Li / Hu lu hu lu hê lì.). 娑 囉 娑 囉, (Suo La Suo La / Xà nai xà nai), 醯 唎 醯 唎, (Xi Li Xi Li / Xi ly xi hì ri.), 蘇 嚧 蘇 嚧. (Su Lu Su Lu / Xu lu xu lu.). 菩 提 夜、菩 提 夜. (Pu Ti Ye, Pu Ti Ye / Bu ti de bu tì de.). 菩 馱 夜、菩 馱 夜. (Pu Tuo Ye, Pu Tuo Ye / Bu tô de bu tô de.). 彌 帝 唎 夜, (Mi Di Li Ye / Mi đi ly de.), 那 囉 謹 墀. (Nuo La Jin Chi / Na nai kin tì.). 地 利 瑟 尼 那, (Di Li Se Ni Na / Tì ly sờ rì na.), 波 夜 摩 那, (Po Ye Mo Na / Bô de mô na.), 娑 婆 訶. (Suo Po He / Sap bô hồ.). 醯 陀 夜 ( Xi Tuo Ye / Xì tô de.), 娑 婆 訶. (Suo Po He / Sap bô hô.). 摩 訶 醯 夜 ( Mo He Xi Tuo Ye / Mô hô xi tô de.), 娑 婆 訶. (Suo Po He / Sap bô hồ.). 醯 陀 喻 藝 (Xi Tuo Yu Yi / Xi tô duy di.), 室 皤 囉 耶, (Shi Bo La Ya / Xử ban nai de.), 娑 婆 訶. (Suo Po He / Sap bồ hô.). 那 囉 謹 墀, (Nuo La Jin Chi / Na nai kin ti.), 娑 婆 訶. (Suo Po He / Sap bồ hồ.). 摩 囉 那 囉, (Mo Na Nuo La / Mô nai na nai.), 娑 婆 訶. (Suo Po He / Sap bô hô.). 醯 囉 僧、阿 穆 佉 耶, (Xi La Sen, Ou Mu Qie Ye / Xi lai xăn ô mu chuy de.), 娑 婆 訶. (Suo Po He / Sap bô hồ.). 娑 婆 摩 訶、阿醯 陀 夜 ( Suo Po Mo He, Ou Xi Tuo Ye / Sap bồ mô hô hô si tô de.), 娑 婆 訶. (Suo Po He / Sap bồ hô.). 者 吉 囉、阿 醯 陀 夜 ( Zhe Ji La, Ou Xi Tuo Ye / Tra kế nai ô si tô de.), 娑 婆 訶. (Suo Po he / Sap bồ hồ.). 波 陀摩 羯 醯 陀 夜 ( Bo Tuo Mo, Ji Xi Tuo Ye / Bồ tô mô che si tô de.), 娑 婆 訶. (Suo Po He / Sap bô hô.). 那 囉 謹 墀、皤 伽 囉 耶, (Nuo La Jin Chi, Bu Qie La Ye / Na nai kin ki banh che nai de.), 娑 婆 訶. (Suo Po He / Sap bô hồ.). 摩 婆 利、勝 羯 囉 夜, (Mo Po Lie, Sen Ji La Ye / Mồ bồ xăn che nai de.), 娑 婆 訶. (Suo Po He / Sap bồ hô.). 南 無 喝 囉 怛 那、哆 囉 夜 耶. (Na Mo He La Da Na, Duo La Ye Ye / Nam mô hân nai tân nai tô nai da dè.). 南 無 阿 唎 耶. (Na Mo Ou Li Ye / Nam mô ô ri de.). 婆 嚧 吉 帝, (Po Lu Jie Di / Bô ru ke.), 爍 皤 囉 夜, (Suo Bo La Ye / Ke xứ bấn nai de.), 娑 婆 訶. (Suo Po He / Sap bồ hồ.). 唵 醯 殿 都, ( An, Xi Dian Du / Ùm, xì tín đú.), 漫 多 囉, (Man Duo La / Mánh đồ nai.), 跋 陀 耶, (Ba Tuo Ye / Ba tố de.), 娑 婆 訶. (Suo Po He / Sap bô hồ.). Ghi chú và hỏi đáp: -Phần chữ hán, khung soan bài "không nhận" chữ "Tha" cho nên Rubi thay bằng dấu gạch đỏ. -Các thành viên nào biết thì có thể cho Rubi hỏi, phần chữ la tinh trên là mặt chữ La tinh tiếng Trung hay chỉ là một dạng phiên âm âm Trung ? (tất nhiên bên cạnh đó là phiên âm âm việt) -Link đính kèm-Từ điển Hán Việt Trực Tuyến
  3. Cậu anmay không biết là gốc Việt hay quốc tịch Việt nữa ý nhể. Hỏi thăm chút thôi. Nếu Lục Tổ Huệ Năng là người Việt thì có khí Tổ cũng đang tái lai để khôi phục Thiền Tông, giả dụ thế. Lục Tổ nối pháp của Ngũ Tổ là điều đương nhiên, song hiện tại, Việt Nam cũng có một Đại Lão Thiền Sư có lần nằm mộng gặp Ngũ Tổ đàm đạo. Vị Thiền Sư này đã khôi phục Thiền Tông sống dậy rất mạnh mẽ tại Việt Nam và rất nhiều nước trên thế giới. Biết đâu, vị Thiền Sư đó lại là Lục Tổ tái lai để giáo hóa chúng sinh, khơi nguồn chánh pháp.
  4. Như Thông chắc là Pháp Danh của một Phật tử ? :wacko: :wacko: Nội dung này tôi cũng đã nghe nói đến, có vẻ rất có lý.
  5. Khoanh đất này được cho là "rồng nổi" tại nhà ông Chau Nhum. (Dân trí) - Mấy ngày qua tại biên giới Tây Nam nhiều người dân đồn thổi ở bên Campuchia có hiện tượng “rồng nổi” hết sức kỳ lạ. Hàng ngàn người đã ùn ùn kéo sang nước bạn để tận mắt chứng kiến sự việc được xem là có một không hai. PV Dân trí và một số đồng nghiệp cũng làm một cuộc du hành để tìm hiểu thực hư hiện tượng này. Qua biên giới, chúng tôi tiến về vùng núi Thâm Đưng và có mặt tại nhà ông Chau Nhum (56 tuổi) ở phum Cà Na, xã Thâm Đưng, huyện Ki Ri Vông, tỉnh Tà Keo (Vương quốc Campuchia). Trong nhà của ông Nhum lúc này đã thấy nhiều người đứng xung quanh một khoanh đất có sống lươn chạy dài chừng 6,5 m được chia thành nhiều ngấn, bề mặt nổi lên, độn xuống trông giống hình một con rồng uốn lượn. Bà Nô Met, vợ ông Chau Nhum, kể lại: “Khoảng gần 12 giờ đêm 12/8, tôi nằm mộng thấy một con Rồng chui vào nhà mình. Tôi ra bắt nó rồi tôi la lên để kêu chồng cùng ra bắt tiếp”. Ông Chau Nhum tiếp lời vợ: “Tôi nghe tiếng la nên thức giấc thì bỗng dưng thấy toàn bộ căn nhà rung lên dữ dội rồi tự dưng xuất hiện nhiều gờ cao, thấp ở trước cửa cho đến tận phía trong nhà. Lúc đó gia đình tôi đâu biết chuyện gì nên rất sợ và phải chạy qua nhà hàng xóm ngủ”. Cho đến sáng sớm hôm sau (13/8 - PV), gia đình tôi trở lại nhà thì thấy những hình dáng hết sức kỳ quái trông giống như những vẩy cuộn của con rồng. Bà Nô Met thì cho rằng cũng trong đêm đó bà nằm mộng có người nói phải cúng vái, khấn nguyện nếu không trong vòng 7 ngày thì ông nhà sẽ bị rồng bắt. Sau khi bà Nô Met nói thì cả gia đình hoảng lên, liền phá vách buồng, giăng rào chung quanh khu vực “rồng nổi”, dựng lên nhiều bàn thờ khấn nguyện trước cửa căn nhà của gia đình ông. Ngay hôm 13/8, thì tin đồn có hiện tượng “rồng nổi ” đã lan ra cả vùng núi Thâm Đưng và còn lan cả những vùng biên, trong đó có vùng biên giới Tây Nam Việt Nam. Nhiều người dân hiếu kỳ ở huyện Tịnh Biên và các huyện lân cận bắt đầu ùn ùn kéo sang nước bạn để xem hiện tượng này. Một người dân cúng vái trước hình rồng nổi. Chúng tôi có mặt tại cửa khẩu Tịnh Biên hôm 16-17/ 8 chứng kiến có rất nhiều người sang bên nước bạn. Dù lúc này chốt cửa khẩu đã đóng chặt cửa nhưng vẫn có nhiều người sang được bên kia biên giới tiến về vùng núi Thâm Đưng xem “rồng”. Gặp một số người Việt Nam qua xem, chúng tôi hỏi thì hầu hết đều nói là nghe tin thì đi liền xem cho tận mắt việc kỳ lạ trên. Một người dân ở xã An Nông - huyện Tịnh Biên cho biết là đã bỏ hết công việc để đi xem vì tin này hấp dẫn và kỳ bí. Nhiều người khác thì cho biết là từ trước tới giờ chưa thấy rồng nên quyết đi xem thử. Theo ghi nhận của chúng tôi, không chỉ có nhà của ông Chau Nhum là có sự xuất hiện hiện tượng này. Trên địa bàn xã Thâm Đưng có đến 3 nơi khác là Cà Na, Ta Tưng và Tuôl Omrua có xuất hiện việc đồn lên hiện tượng “rồng nổi ”. Mỗi nơi nổi lệch nhau một ngày, chỉ cách nhau vài trăm mét. Sự việc kỳ lạ này kéo theo nhiều dịch vụ khác ăn theo như nhang đèn, nước uống, chụp ảnh…với giá cũng rất trời ơi và còn có cả thùng đựng tiền cúng tế đặt cạnh đó. Trao đổi với chúng tôi về vụ việc này, ông Ngô Hồng Yến - Phó chủ tịch UBND huyện Tịnh Biên, cho biết thời gian qua có nghe nhiều người nói đến vấn đề này, tuy nhiên việc xảy ra ở nước bạn nên rất khó cho chính quyền địa phương kiểm tra thực hư sự việc. Nhưng chúng tôi sẽ cử người xác minh làm rõ, sau đó sẽ tuyên truyền để bà con được rõ. Huỳnh Hải nguồn
  6. TIỂU ĐỀ VỀ CẤU TRÚC SỐ I-NHẮC LẠI II-DƯƠNG LẺ ÂM CHẴN (phần chính) TRIẾT HỌC ÂM DƯƠNG NGŨ HÀNH PHẦN 1-CÁC NGUYÊN LÝ CỦA CÁC CẤU TRÚC CƠ BẢN I-NHẮC LẠI Triết học Âm dương Ngũ hành là một hệ lý thuyết đa cấu trúc. Mỗi một cấu trúc là một tập hợp đầy đủ các đối tượng kết hợp với nhau đúng theo nguyên lý Âm dương Ngũ hành. Tính chất Âm dương Ngũ hành của một đối tượng (trong một cấu trúc) được xác định đồng thời 2 yếu tố là tính chất Âm dương và tính chất Ngũ hành, tức là: một đối tượng được xác định tính chất là Âm (hoặc Dương) thì nhất thiết phải có cả tính chất xác định trong Ngũ hành, và ngược lại, một đối tượng được xác định tính chất trong Ngũ hành thì nhất định phải có tính chất xác định là Âm (hoặc Dương). D-Nguyên lý Âm dương Ngũ hành cơ bản trong cấu trúc số 1-Tiền đề Âm dương Ngũ hành của hệ thập phân trong cấu trúc số Thiên nhất sinh Thuỷ, Địa lục thành chi Địa nhị sinh Hỏa, Thiên thất thành chi Thiên tam sinh Mộc, Địa bát thành chi Địa tứ sinh Kim, Thiên cửu thành chi Thiên ngũ sinh Thổ, Địa thập thành chi Trời lấy số 1 mà khởi sinh hành Thuỷ, Đất lấy số 6 mà tạo thành hành Thuỷ. Đất lấy số 2 mà khởi sinh hành Hỏa, Trời lấy số 7 mà tạo thành hành Hỏa. Trời lấy số 3 mà khởi sinh hành Mộc, Đất lấy số 8 mà tạo thành hành Mộc. Đất lấy số 4 mà khởi sinh hành Kim, Trời lấy số 9 mà tạo thành hành Kim. Trời lấy số 5 mà khởi sinh hành Thổ, Đất lấy số 10 mà tạo thành hành Thổ. Các số lẻ 1,3,5,7,9 gọi là số của Trời, số Dương hay số Cơ, trong đó 1,3,5 là số Sinh của Trời, 7,9 gọi là số Thành của Trời. Các số chẵn 2,4,6,8,10 gọi là số của Đất, số Âm hay số Ngẫu, trong đó 2,4 gọi là số Sinh của Đất, còn 6,8,10 gọi là số Thành của Đất. 2-Nguyên lý Âm dương Ngũ hành của hệ thập phân trong cấu trúc số Số 1 có tính chất là Dương thủy, số 6 có tính chất là Âm thuỷ. Số 2 có tính chất là Âm hỏa, số 7 có tính chất là Dương hỏa. Số 3 có tính chất là Dương mộc, số 8 có tính chất là Âm mộc. Số 4 có tính chất là Âm kim, số 9 có tính chất là Dương kim. Số 5 có tính chất là Dương thổ, số 10 có tính chất là Âm thổ. 3-Hệ quả Âm dương Ngũ hành của hệ thập phân trong cấu trúc số Theo luật Ngũ hành sinh, khắc hệ thập phân trong cấu trúc số được sắp xếp thành 2 đồ hình Hà đồ và Lạc thư. Hình Hà đồ và Lạc thư Hình 3. Ngũ hành sinh, khắc Luật Ngũ hành tương sinh là nguyên lý của đồ hình 9 cung Hà đồ: Kim sinh Thuỷ Thuỷ sinh Mộc Mộc sinh Hoả Hoả sinh Thổ Thổ sinh Kim Hình 4. 9 cung Hà đồ Luật Ngũ hành tương khắc là nguyên lý của đồ hình 9 cung Lạc thư: Kim khắc Mộc Mộc khắc Thổ Thổ khắc Thủy Thủy khắc Hỏa Hỏa khắc Kim Hình 5. 9 cung Lạc thư II-TIỂU ĐỀ DƯƠNG LẺ ÂM CHẴN Thưa các học giả, có lần Rubi thấy có học giả nào đó có ý chứng minh một tiểu đề với nội dung thay đổi như sau: Dương Chẵn, Âm Lẻ. Thật ra thay đổi như vậy rồi chứng minh thì cũng có một vài yếu tố tưởng như có triển vọng khám phá thành công, nhưng không phải vậy. Có chăng chứng minh được "phát kiến" đó thì cũng chỉ tiến hành được một số bước dựa trên một vài trong vô số tính ngẫu nhiên của những nguyên lý căn bản. Hôm rồi Rubi xem bài của chú Thiên Sứ nói về hai bức tranh Đông Hồ, sau một khoảng thời gian khoảng độ một tuần lễ, Rubi ngồi nhìn vào hình Bát Quái Tiên Thiên (mới) rồi bỗng nhiên có ý thấy được cách khám phá hai bức tranh Đông Hồ ấy để chứng minh tiền đề Dương Lẻ, Âm Chẵn. Chú ý thêm là, Khải quát để dễ hiểu hơn, trước hết trong môi trường phân cực Âm và Dương (Thái Cực-Hệ Thập Phân Hà Lạc), mỗi cực có đầy đủ một số đối tượng. Trong cách đặt vấn đề Dương Lẻ, Âm Chẵn, tức là nói đến sự xác định chi tiết và cụ thể về tính chất cho một đối tượng. Và trong tiểu đề này không đề cập đến đối tương đó thuộc cực âm hay cực dương, nhưng về nội dung, thực chất nó vẫn logic với nguyên lý xác định đối tượng đó là của cực Âm hoặc cực Dương. Tóm lại, một đối tượng sẽ phải có hai yếu tố cơ bản là: Thứ nhất: đối tượng đó là một trong các đối tượng của Cực Âm hoặc Cực Dương. Thứ hai: đối tượng đó có tính chất Âm Dương Ngũ Hành cụ thể như thế nào. Đây là vần đề chủ yếu của bài viết này, nhưng trong khuổn khổ khám phá nguyên lý làm sao số Lẻ là Dương, làm sao số Chẵn là Âm. Khởi đầu, dựa trên nguyên lý Âm sinh, Dương trưởng. Âm sinh, Dương trưởng là khái niệm dành riêng cho sự phát triển của các đối tượng được coi là Cơ Thể Sống. Thứ tự Âm sinh rồi đến Dương trưởng liền tiếp nhau này ngược với thứ tự liên tiếp Dương rồi đến Âm của Thiên Can và Địa Chi. Tức là: Sự phát triển của Cơ Thể theo thứ tự Âm rồi đến Dương. Sự quy định tọa độ thời gian thì theo thứ tự Dương rồi đến Âm. Thế nào là Âm rồi đến Dương: 6 đến 1, 8 đến 3, 2 đến 7, 4 đến 9 là Âm rồi đến Dương. Thế nào là Dương rồi đến Âm: Tý đến Sửu, Dần đến Mão, Thìn đến Tỵ,..Tuất đến Hợi và/hoặc Giáp đến Ất, Bính đến Đinh, Mậu đến Kỷ...Nhâm đến Quý là Dương rồi đến Âm. Và có thể nói một cách khác Thời gian (Không thời gian-Thiên Can, Địa Chi) tạm gọi đó không phải là một đối tượng như là Cơ Thể Sống. Không Thời Gian là một Cực, thì đối tượng phát triển trong ấy lại là một đối cực của Không Thời Gian. Có lẽ chính thế mà Không Thời Gian thì được xác định theo thứ tự so le từng cặp từ Dương rồi đến Âm, còn đối tượng trong Không Thời Gian là một (các) đối tượng sống, một cơ thể sống và phát triển theo tiến trình từng cặp giai đoạn từ Âm rồi đến Dương. Âm sinh Dương trưởng là một cách đặt định cho tiến trình phát triển theo từng giai đoạn của một cơ thể sống. Có thể khẳng định ngay như vậy. Vậy bước thứ nhất là hiểu về cách đặt định Âm Sinh Dương Trưởng với các yếu tố liên quan. Tiếp theo là liên hệ nguyên lý Âm Sinh Dương Trưởng của Cơ Thể Sống tới nội dung hai bức tranh dân gian Đông Hồ. Đó là Bức Tranh Đàn Lợn và Đàn Cá. Tất nhiên, điều thú vị là Lợn và Cá là động vật, là cơ thể sống. Tranh Dân Gian Đông Hồ-Đàn Lợn Âm Sinh là giai đoạn Thai Sinh, chỉ chung cho cả đối tượng sinh và đối tượng được sinh ra. Đối tượng sinh trong bức tranh này là Lợn Mẹ, các đối tượng được sinh ra là 5 Chú Lợn Con. Tiếp theo Âm Sinh là Dương Trưởng. Thì ở đây Lơn Mẹ là đối tượng Dương Trưởng, đối tượng đã lớn mạnh nên mang tính Dương. Và thấy ngay rằng: Âm Sinh liên hệ với số 6 (1 mẹ với 5 con) là số C.hẵn. Dương Trưởng liên hệ với số 1 (Lợn Mẹ) là số Lẻ. Từ đó có thể thấy được rằng 1,3,5,7,9 là các số Lẻ được đặt định là đối tượng Dương. Các số 2,4,6,8,10 là các số Chẵn được đặt định là đối tượng Âm. Tranh Dân Gian Đông Hồ-Đàn Cá Có khả năng bài viết này sẽ được phát triển thêm. Đây là lần viết đầu tiên về nội dung đề cập, Rubi cảm ơn các đọc giả đã theo dõi. p/s: Như vậy thứ tự Dương đến Âm của cấu trúc số 1,2,3,4,5,6,7,8,9 là ứng với thời gian, cho nên khi nạp thời gian vào Hà Đồ và/hoặc Lạc Thư thì phải theo thứ tự này.
  7. Rubi xem bài của anh Thiên Đồng thấy nội dung cũng rất hay. Thiền Sư Nhất Hạnh cũng đã tìm được cái "gốc" để làm vững thêm đường lối tu thiền mà thiền sư Nhất Hạnh đã phổ biến bao năm qua. Con đường trở về với Việt Nam của Thiền Sư Nhất Hạnh không biết có được hay không, tuy nhiên kiến giải lịch sử thiền Việt Nam của Thiền Sư cũng đã được chính phủ coi trọng. Kiến giải ấy, có lẽ Chính Phủ thấy sẽ tiện lợi hơn nếu để Thiền Sư Thích Thanh Từ khôi phục lại chốn tổ Tây Thiên. Xét về mặt lý lịch thì Thiền Sư Thích Thanh Từ có nét thuần Việt, còn Thiền Sư Thích Nhất Hạnh chỉ có gốc Việt, chắc do vậy mà chính phủ đã kết hợp cái Lý của Thiền Sư Nhất Hạnh và cái Sự của Thiền Sư Thích Thanh Từ, từ đó mới có ý tưởng mời Thiền Sư Thích Thanh Từ xây dựng Thiền Viện Trúc Lâm Tây Thiên. Tiện đây Rubi xin giới thiệu về Thiền Viện Trúc Lâm Tây Thiên: Thiền Viện Trúc Lâm Tây Thiên Cùng với Thiền viện Trúc Lâm Đà Lạt và Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử, Tây Thiên chính là một trong 3 thiền viện tầm cỡ lớn nhất của Việt Nam. Nằm cách Hà Nội khoảng 85 km, Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên thuộc xã Đại Đình, huyện Tam Đảo, Vĩnh Phúc. Được khởi công xây dựng từ ngày 4-4-2004 ngay cạnh khu di tích danh thắng Tây Thiên, trên nền ngôi chùa Thiên Ân cổ với tổng số vốn đầu tư 30 tỷ đồng, có diện tích rộng 4,5 ha, rừng ngoại vi rộng 50 ha. Sau 15 tháng xây dựng, công trình này đã chính thức hoàn thiện và được khánh thành ngày 25-11-2005. Từ đó tới nay, ngày ngày Thiền viện đón hàng trăm Phật tử, du khách trong và ngoài nước hành hương về "cội nguồn Phật giáo Việt Nam", thắp hương khấn Phật và thưởng ngoạn cảnh đẹp của núi rừng Tây Thiên. Gần khu nghỉ mát Tam Đảo, Thiền viện Trúc lâm Tây Thiên là nơi chứa đựng vẻ đẹp của văn hoá tâm linh kết hợp với nét hài hoà của phong cảnh trữ tình mà thiên nhiên ban tặng. Bên phải của Toà Chánh điện là Nhà trưng bày các hiện vật có niên hiệu từ thời Lý, Trần, Lê, Mạc, Nguyễn và các di chỉ khảo cổ về phật giáo được các nhà khoa học và hoà thượng Thích Thanh Từ tìm thấy trước khi tiến hành xây dựng Thiền viện. Sau đây là một số hình ảnh về Thiền Viện Trúc Lâm Tây Thiên. Toàn cảnh Thiền Viện Trúc Lâm Tây Thiên Toàn cảnh Thiền Viện Trúc Lâm Tây Thiên Toàn cảnh Thiền Viện Trúc Lâm Tây Thiên Cổng Tam quan TVTL-Tây Thiên Hồng Chung Lâu và Đại Cổ Các Gác Chuông và Lầu Trống TVTL-Tây Thiên Đại Cổ Các-Lầu Trống TVTL-Tây Thiên Mái chính điện TVTL-Tây Thiên (Thi công đổ mái ngày 19 tháng giêng) Chính điện TVTL-Tây Thiên Chính điện TVTL-Tây Thiên Đôi câu liễn trong Chính điện Đôi câu liễn trong Chính điện
  8. Chà chà, chú Trần Phương giới thiệu di tích lịch sử cái món Phở rõ ràng quá ta. Không những là món ăn của Việt Nam mà còn là một món ăn mang dấu ấn lịch sử.
  9. nguyenle mời thấy thế này,Nếu từ trang ngoài, vào theo thứ tự từ mục lớn đến mục nhỏ rồi vào tới chủ để chi tiết thì vẫn go back được. Nếu từ trang ngoài, kích thẳng vào các chủ đề bài viết cuối cùng thì không go back được.
  10. Tuy là nam giới nhưng nguyenl có lần bị ngất xỉu khi nhìn thấy một vết thương nặng trên mặt cộ con chó, con chó ấy có tên là Cừ, Cừ tức là Xà Cừ (một trong bảy báu: pha lê, mã não, vàng, bạc ...) Chắc, đêm rồi, không nên coi làm chi. Hà hà, có lẽ cũng kinh lắm cậu widlavender. Không biết mình có phải đàn ông thanh niên không nữa :lol:
  11. Anh Random cứ thử sang một vài diễn đàn khác, nếu bên đó mà không go back được thì tức là IE lỗi, còn nếu diễn đàn này go back được, diễn đàn kia lại không go back được thì đó là do forum. Trong trường hợp là do forum, Rubi cũng không hiểu là vì lỗi hay vì khoá. Không biết sao, cũng không tiện hỏi, cũng không quan trọng lắm. Nhưng Rubi cũng thấy là không go back được trong diễn đàn đây, cứ phải đi đường vòng trong diễn đàn, tức là muốn trở ra để xem mục khác thì cứ phải lên kích vào lệnh "Diến đàn lý học Đông phương", sau đó mới lại bắt đầu "đi" từ trên xuống.
  12. Mở đầu: Thưa các độc giả, bài đăng sau đây liên quan đến tâm linh, lẽ ra phải đăng tại chuyên đề tâm linh. Nhưng Rubi thấy nội dụng của nó mang tính thông tin nặng hơn cho nên chọn đăng trong chuyên đề Thông Tin Cập Nhật này. ============================= Kế Hoạch Cho Ngày Tàn Của Phật Giáo “Planning the Demise of Buddhism”, Điểm sách của Allen Carr, LankaWeb, ngày 1 tháng 7, 2008 Nguyên Tánh dịch Việt Nguồn: http://www.buddhismtoday.com/viet/diemsach...gaytancuaPG.htmLuân Đôn, Anh Quốc. Một vài hảng dược phẩm ở phương Tây đã tốn nhiều triệu đô (USD) để bào chế và mang ra thị trường một thuốc mới để rồi bị các cơ quan y tế khám phá loại thuốc này có nhiều phản ứng nguy hiểm và bị cấm bán. Cần thu hồi số tiền đã đầu tư và vì không bán được thuốc ở phương Tây nên một vài hãng thuốc đã đem các thuốc nguy hại này bán ở các nước thuộc Thế giới Thứ Ba, nơi mà quần chúng ít hiểu biết về các vấn đề liên quan đến sức khoẻ và các chính quyền có thể mua chuộc được. Có thể nói rằng Thiên Chúa Giáo cũng giống như vậy. Vì đã mất nhiều tín đồ ở phương Tây, nhiều giáo phái Thiên Chúa Giáo bắt đầu tìm cơ hội ở các nơi khác. Dĩ nhiên thế giới Hồi giáo là bất khả xâm phạm. Ngay chính nhà truyền đạo lạc quan nhất cũng cho rằng cơ hội truyền bá Phúc Âm đến tín đồ Hồi giáo là con số không. Những đối tượng hiển nhiên là Phi châu, Ần Độ và các nước Phật Giáo ở châu Á. Hiện nay có nhiều tổ chức truyền giáo Phúc âm chuyên cải đạo các Phật tử. Viện Á Châu Thái Bình Dương Học Phật (Asia Pacific Institute of Buddhist Studies) ở Phi luật Tân đang giảng dạy cho các nhà truyền giáo các lớp học thâm sâu về giáo lý Phật Giáo, ngôn ngữ ở các nước Phật Giáo và tổ chức xã hội ở các cộng đồng Phật Giáo - để hiểu biết rõ kẻ thù. Hội Liên Hữu Trung Á (Central Asia Fellowship) đặc biệt nhắm tới người Tây tạng. Hội Liên Hữu Truyền Giáo Hải Ngoại (Overseas Missionary Fellowship) gồm những chuyên gia về Phật Giáo và sẵn sàng mở các lớp huấn luyện, trình bày cho các tín đồ Thiên Chúa Giáo cách làm việc có hiệu quả trong thế giới Phật Giáo. Trung Tâm Phật Học Bình Minh (Sunrise Centre for Buddhist Studies) và Mạng Lưới Nam Á (South Asia Network) là những cộng đồng trên mạng cung cấp cho các nhà truyền giáo các tin tức đầy đủ chi tiết, chính xác và mới nhất để cải đạo các người theo đạo Phật. Đừng hiểu lầm rằng đây chỉ là những nhóm nhỏ, lẻ tẻ. Các tổ chức này rất lớn, có nhiều tiền, được quản trị tốt, và có nhiều nhân viên tận tụy và hăng say với công việc. Cuốn sách có tựa đề “Các Dân Tộc trong Thế Giới Phật Giáo” (Peoples of the Buddhist World, Piquant Editions, Carlisle, 2004) được xuất bản bởi Paul Hattaway là một trong những người lảnh đạo cuộc tấn công Phật Giáo mới này. Cuốn sách dày 453 trang, cung cấp đầy đủ cho các nhà truyền giáo hồ sơ về 316 nhóm sắc tộc và thổ ngữ theo Phật Giáo ở châu Á, từ nhóm người Nyenpa ở miền Trung Bhutan đến người Kui ở miền Bắc Campuchia, từ nhóm Buriats ở miền cực Đông nước Nga đến người Sinhalese ở Tích Lan. Cuốn sách cho biết chi tiết từng nhóm, số lượng người trong nhóm, có bao nhiêu người theo Phật Giáo, có bao nhiêu người thực sự hiểu biết và thực hành đạo Phật, nói tiếng gì, sức mạnh của họ và cách vượt qua, các điểm yếu của họ và cách lợi dụng họ, tổng quan về lịch sử, văn hoá và những cách cải đạo tốt nhất. Cuốn sách có đầy các hình màu đẹp về các dân tộc này, mà đa số ít người biết đến. Điều làm chúng ta rất buồn khi nghĩ đến các người hiền lành, vui cười và vô tội này đang ở trong tầm nhắm của các người truyền đạo xảo quyệt đang nhất quyết phá hoại niềm tin và văn hoá cổ truyền của họ. Tuy nhiên, cuốn sách của Hattaway cũng hấp dẫn vì cho chúng ta một cái nhìn thoáng qua cái tâm tính kỳ quặc và gíáo lý không kém kỳ quái của các người truyền đạo Chúa. Trong lời tựa, Hattaway hỏi “Có làm Chúa thất vọng không khi ngày nay có hàng trăm triệu Phật tử đang đi vào địa ngục mà không được Phúc âm chứng nhận? Có làm Đấng Cứu Thế thất vọng không khi hàng triệu người đang thờ cúng các thần tượng chết cứng thay vì Đức Chúa Cha vẻ vang trên trời?” Không có gì lạ khi thấy các người truyền đạo luôn luôn giận dữ và tự vệ, rất tự kỹ và đầy lo lắng. Hàng ngày họ phải sống với niềm tin đầy mâu thuẩn, Chúa của họ đầy tình thương nhưng cũng ném người vào lửa địa ngục bất tận, ngay cả những người chưa bao giờ nghe đến Chúa. Đây là một sự căng thẳng có thật. Giống như một người cứ bơm mãi không khí vào một trái banh bị xì hơi để làm nó tiếp tục căng, họ phải tiếp tục cho rằng đạo Phật chỉ là thờ cúng trống không và không có gíá trị trong khi họ biết rõ điều này không đúng với sự thật. Đây cũng là một căng thẳng có thật. Trong suốt cuốn sách, Hattaway đã lập lại những điều dối trá cũ mèm, những xuyên tạc và sự thật nữa chừng mà các người truyền đạo đã dùng trong thế kỷ 19 và các người theo đạo Chúa chân chánh đã gạt bỏ hơn trăm năm nay. Hattaway cho rằng các Phật tử, cũng như các ngoại đạo khác, đang sống một cuộc đời trống rỗng và không có ý nghĩa, và họ đang mong chờ để được nghe Phúc âm của Chúa Jesus Christ. Chẳng ngạc nhiên gì khi các thống kê mà tác giả trình bày cho người đọc không luôn luôn chứng minh được điều này. Ông ta cho biết có vài nhóm Phật tử đã bị trãi qua nhiều cố gắng cải đạo trong nhiều năm nhưng họ vẫn giữ đạo của họ. Thí dụ, 32 phần trăm dân Kyerung ở Nepal đã được nghe Phúc âm nhưng chỉ vài người “thấu hiểu” được thông điệp của nó. Hattaway nói rằng các người Mỹ theo Baptists đã làm việc trong vùng Tovyan ở Miến Điện qua nhiều thập kỷ, nhưng đa số người theo đạo là người Karen. Họ nhận thấy người dân Tovyan hưởng ứng chậm đối với Phúc âm và tình trạng này vẫn tiếp tục cho đến ngày hôm nay. Các người truyền đạo đã tận tụy làm việc và hy sinh nhiều ở Thái Lan trong vòng 140 năm qua nhưng số người theo đạo Chúa rất ít. Theo Hattaway, có chừng 2000 người truyền đạo ngoại quốc ở Chiangmai - nhiều hơn số người theo đạo Chúa ở thành phố này. Thật yên tâm khi biết Thái Lan được các người truyền đạo mệnh danh là “mồ chôn” của họ. 21 phần trăm dân Lao Ga đã được truyền đạo nhưng đạo Chúa chưa đạt được kết quả gì. 42 phần trăm dân Lemo đã được nghe về Jesus nhưng niềm tin vững chãi theo Phật giáo và nền văn hoá cô lập của họ đã ngăn chận việc chấp nhận Phúc âm. Dĩ nhiên nền văn hoá cô lập của Hattaway đã không cho ông ta nhận biết rằng các người Lemo này đã không theo đạo Chúa vì đạo Phật cho họ những món bổ dưỡng tinh thần và trí tuệ mà họ đang cần. Do đó ông ta phải giải thích một cách khác vì sao nhiều Phật tử vẫn còn trong thành phần mà ông gọi là “các người chống đối”. Theo ông ta, đó là vì lo sợ (trang 217), biếng nhác trí thức (trang 149), tham lam và mù quáng (trang 172) và dĩ nhiên chống đối của ma quỷ (trang 190). Một nguyên nhân khác là mê lầm như trường hợp người Palaung ở miền Bắc Miến Điện đã hoàn toàn sai lầm khi tin rằng họ đã tìm được chân lý nơi đạo Phật (trang 217). Dĩ nhiên Hattaway cũng đủ xảo quyệt để biết rằng sự bền vững và văn hoá tinh nguyên của các xã hội Phật giáo cổ truyền là những chướng ngại lớn cho công cuộc truyền đạo. Những nội chiến như ở Tích Lan và Campuchia là những món quà của Chúa dành cho các người truyền đạo. Hattaway gọi sự phá hoại và di đời của dân Loba ở Nepal do các cơn lũ to là một cơ hội mà Chúa ban (trang 168). Như đám ruồi nhặng bu quanh một con vật sắp chết, các người truyền đạo bám lấy các cộng đồng đang bị nguy khốn để kiếm cách cải đạo trong khi ngụy trang công việc của họ dưới hình thức cứu gíúp và viện trợ nhân đạo. Đáng tiếc có nhiều tín đồ Thiên Chúa Giáo chân chính ở phương Tây đã không biết những công tác bí mật này, đã cho tiền World Vision và các hội tương tự dầu các hội này dùng cứu giúp để cải đạo. Trong khi nhiều Phật tử đã gạt bỏ lời các người truyền đạo, có những người khác lại nghe theo. 31 phần trăm dân Tamangs ở Nepal giờ đây đã theo đạo Chúa. Những người truyền đạo Phúc âm đầu tiên đến Mông Cổ vào năm 1990 và trong vài năm họ đã có hàng ngàn người cải đạo, phần chính là giới trẻ. Sự tăng trưởng kỳ lạ này hiện nay đã chậm lại nhưng số cơ quan truyền đạo đang hoạt động trong nước đã gia tăng rất nhiều và cho đến nay hầu như vẫn chưa có sách Phật Giáo bằng tiếng Mông Cổ. Ở Trung Quốc hiện nay Thiên Chúa Giáo gia tăng mau chóng đến độ không kịp xây các nhà thờ để chứa các người mới cải đạo. Các dân tộc hiền hoà ở miền núi Thái Lan và Lào đang trở thành con mồi, từng nhóm từng nhóm, cho các người truyền đạo. Các thành công này cũng như nhiều thành công khác đã không phải vì các người truyền đạo không có lương tâm và ngoan cố nhưng vì các Phật tử đã không quan tâm, chậm thấy nguy cơ và lại còn chậm hơn nữa để đối kháng lại một cách có hiệu quả. Ở Thái Lan, hàng triệu đồng được chi tiêu cho những buổi lễ hoành tráng, những tượng Phật to lớn và vàng lá để che đắp các tháp nhưng hầu như không có ngân khoản gì cho văn hoá Phật Giáo, giảng dạy giáo lý và dịch vụ xã hội cho các sắc tộc miền núi. Một cơ hội mà Chúa ban cho các nhà truyền đạo là thái độ yếu đuối trong đa phần Tăng đoàn. Một trong những phần cuốn sách có nhiều hé lộ (về trí lực của các người truyền giáo và các tu sĩ Phật Giáo) và đáng lo nhất là đoạn Bryan Lurry kể chuyện ông ta đã từng ở bốn tháng tại một Thiền viện của người Shan ở miền Đông Bắc Miến Điện. Ông ta đã ở đấy để thăm dò cách cải đạo các tu sĩ và đã rời Thiền viện với hy vọng tràn trề. Tôi lo sợ là sự lạc quan của ông ta không phải là hoàn toàn sai. Vị Trú trì nơi Lurry ở đã cho phép ông ta dạy tiếng Anh cho các tu sĩ (dĩ nhiên là dùng Kinh Thánh làm tài liệu học tập), chiếu một cuốn phim về đời Christ và sau đó có những lớp giảng thường xuyên về Thánh Kinh cho các tu sĩ. Các tu sĩ ở Tây phương có thể cho đó là một thí dụ của lòng khoan dung của Phật giáo, tuy không đúng chổ. Tôi nghi là do sự thiếu hiểu biết và thờ ơ đối với mọi sự việc không gây xáo trộn hay trái ngược với các cách hành xử cổ truyền thường thấy trong đa phần Tăng đoàn. Một phần trong chiến thuật dùng để tìm hiểu suy tư của các tu sĩ, Lurry đã hỏi “những người bạn” một số câu hỏi. Với câu hỏi “Giáo điều Phật giáo nào khó tuân theo nhất?”, vài tu sĩ đã trả lời là không được ăn sau 12 giờ trưa, không được uống rượu và một tu sĩ đã trả lời là khó đạt được Niết bàn. Với câu hỏi “Nếu có thể thay đổi một điều ngay chính bản thân, đó là điều gì?” Các câu trả lời gồm có mạnh hơn, cao hơn, thay hình dáng lỗ mủi và có da trắng hơn. Khi hỏi tại sao đi tu, không một tu sĩ nói là vì thích Phật Pháp, ngồi thiền hay đời sống tu sĩ nói chung. Thường xảy ra trong thế giới Phật giáo, có thể họ đi tu vì đó là truyền thống buộc họ làm vậy. Khi Lurry hỏi các tu sĩ có bao giở muốn bỏ tu không thì họ cho biết muốn rời Thiền viện để làm lính trong quân đội dành độc lập cho người Shan … Họ không thấy một mâu thuẫn nào khi biết rằng một tu sĩ không được giết một con muỗi, huồng gì là một người khác. Lurry thú nhận là đã rất ngạc nhiên vì rất ít câu trả lời mà ông ta đã nhận được cho thấy sự hiểu biết thâm sâu về Phật Giáo hay một lòng mộ đạo chân thành. Sau tám năm sống ở các tu viện tại Thái Lan, tôi buồn mà nói rằng các câu trả lời của các tu sĩ kia đã không làm tôi ngạc nhiên chút nào. Hiện nay thường thường trong đời sống của một vị tu sĩ Phật Giáo chỉ cần học đóng trò, chấp nhận không suy nghĩ các niềm tin truyền thống, những nghi lễ dài bất tận và làm tê đầu óc, dự các buổi phát chẩn và ngủ những giấc dài. Rất may có nhiều cọng đồng Phật giáo đã chống lại công tác của các nguời truyền đạo nhưng với trình độ giáo dục tôn giáo thấp và thiếu hướng dẫn từ một Tăng đoàn thụ động, thử hỏi họ sẽ còn có thể chống bao lâu nữa? Phải làm một cái gì và phải làm gấp. Một lời vu khống khác cũ mèm của các người truyền đạo và được lập đi lập lại trong suốt cuốn sách của Hattaway là các Phật tử sống trong sự sợ hải ma quỷ triền miên. Lời buộc tội này hơi khôi hài vì các người truyền bá Thiên Chúa Giáo thường đổ tội hết cho Satan và bè lủ những gì mà họ không thích. Lurry nói về kinh nghiệm của chính mình, “Tôi phải thú nhận là các chùa làm tôi sợ hải. Tôi thấy có nhiều vật làm tôi không muốn vào. Ở một vài chùa có những tượng trông dữ tợn của những con thú có nanh dài và móng nhọn gác cổng chùa. Gác đại điện của nhiều chùa là hai tượng rồng lớn với nhiều đầu ở hai bên cầu thang … Nếu các hình tượng này còn ở ngoài chùa, tôi sẽ còn thấy gì ở trong chùa nữa? Tôi cứ tưởng là các con vật này sẽ sống lại và cố hại tôi “(trang 234). Tôi có thể hiểu được các người giản dị và thường mù chữ ở các bộ lạc miền núi hoang dã ở Miến Điện có thể sợ các con ma ác độc. Nhưng ông Lurry đã tốt nghiệp trường Đại học Bắc Texas (University of North Texas) mà lại sợ một ít xi-măng và thạch cao được sơn phết để trang trí các chùa Phật Giáo. Thật là quá dễ hù dọa các người truyền đạo Chúa! Chín trang trong cuốn sách “Các Dân Tộc trong Thế Giới Phật Giáo” (Peoples of the Buddhist World) đã dành cho dân Sinhalese là những thổ dân của Tích Lan và từ lâu một mục tiêu của các người truyền đạo. Dầu có gần 500 năm gần gũi với đạo Chúa, nhưng chỉ có 4 phần trăm theo đạo Chúa mặc dù có nhiều giai đoạn mà tôn giáo của họ đã gặp nhiều bất lợi và bị ngược đãi. Điều này làm các người truyền đạo bối rối và tức giận vì họ chỉ đạt được thành công nhỏ bé trên đảo trung thành với đạo Phật này. Từ cuối thập niên 1950 Gíáo hội Thiên Chúa Giáo La Mã ở Tích Lan đã ngầm chấp nhận địa vị thiểu số của mình và đa phần đã có thái độ sống chung với Phật Giáo. Giáo hội vẫn tiếp tục các nỗ lực cải đạo nhưng ít sôi nỗi và lễ phép hơn. Nhưng kể từ thập niên 1990, nhiều tổ chức truyền đạo Tin lành đã tràn ngập Tích Lan và họ có thái độ “không xin, không cho”. Cho đến nay các người cải đạo đa phần là tín đồ Giáo hội La Mã, làm Giáo hội kinh ngạc, nhưng mục tiêu chính vẫn là các Phật tử. Các tu sĩ Phật giáo đang kêu gọi chính quyền ban hành luật cấm cải đạo. Nhưng đây có phải là giải pháp tốt nhất không? Ta có thể hiểu được việc dân Sinhalese không thích tôn giáo của họ được gọi là thờ cúng ma quỷ Satan, nhất là các người ngoại quốc kể cả các nhà truyển đạo trong nước. Cách đây vài năm, một cao tăng người Sinhalese rất được kính trọng qua đời và quần chúng Phật tử đã thật sự tiếc thương vị sư này. Chính trong thời gian tang lễ của vị sư này, người lảnh đạo một nhà thờ ở ngoại ô Colombo đã đốt pháo, một cách thường dùng để ăn mừng ở Tích Lan. Lẻ dĩ nhiên, các Phật tử ở quanh nhà thờ này đã rất bực mình, không có bạo động xảy ra nhưng có nhiều lời giận dữ đã được trao đổi. Tôi vô tình chứng kiến cảnh các người dân địa phương đối diện với người lảnh đạo nhà thờ này. Ông ta khẳng định là việc đốt pháo không liên quan đến tang lễ của vị sư nhưng ông đã không có một lý do thuyết phục vì sao ông lại đốt pháo. Trong suốt cuộc gặp với các láng giềng, ông đã tỏ ra trân tráo, không xin lỗi vì các hành động của mình, và xem thường các nổi đau của quần chúng. Tôi chỉ biết nói rằng ông ta cho tôi cảm tưởng rõ rệt là ông ta muốn bị cư xử thô bạo hay bị đánh đập để ông ta có quyền có một danh vị mà tất cả các người truyền đạo đều mong muốn – đó là thánh tử đạo đã hy sinh cho Chúa Trời. Cuốn sách của Hattaway nêu rõ các vụ xô xát bạo động chống lại người theo đạo Chúa ở Tích Lan và các nơi khác và các viêc này đã xảy ra thuờng xuyên hơn. Tuy nhiên, tác gíả đã không nói rõ là chỉ có những người truyền đạo Tin lành, chứ không phải Thiên Chúa Giáo La Mã hay các tín đồ đạo Chúa chân chánh, đã gây nên các phản ứng tiêu cực như vậy. Và lẽ dĩ nhiên ông ta cũng không nói lý do vì sao đôi lúc quần chúng nỗi giận với các người truyền giáo Phúc âm. Thật sự nguyên nhân các vụ bạo động là vì tính huênh hoang bất lịch sự của các người này và họ hoàn toàn không có ý thức gì về các niềm tin tôn giáo của người khác. Đây không phải biện hộ cho bạo động mà chỉ cố gắng giải thích vì sao bạo động xảy ra mà thôi. Thật sự cũng có vài người truyền giáo quá khích đã cố ý gây ra những vụ chạm trán. Tôi có đọc hai bài luận văn về cách truyền giáo từ Tích Lan - một bài nhấn mạnh rằng các thôn làng phải trở thành “bãi chiến trường cho linh hồn” và bài kia nói rằng các tín đồ đạo Chúa “phải đối diện với những người không được cứu rỗi, nếu cần dùng cả vũ lực để bắt họ phải quyết định” . Không những chỉ có người Phật tử mới bị xúc phạm bởi các hành vi quá trớn của các người truyền giáo. Một người tín đồ tái sinh đạo Chúa gốc Trung Hoa- Thái đã có lần cho tôi biết là Giáo Hoàng là “người bán dâm cho kẻ Chống Chúa (prostitute of the Anti-Christ)” và chỉ cho tôi đoạn trong Thánh Kinh để chứng minh điều này. Tôi chỉ cười cái lối gỉải thích còn non nớt của ông ta. Nhưng một tín đồ đạo Chúa La-mã thuần thành sẽ nghĩ gì khi được nghe chuyện như vậy? Đoạn về Tích Lan trong sách của Hattaway được viết bởi Tilak Rupasinghe và Vijaya Karunaratna, hai người truyền giáo nỗi tiếng. Họ rất vui nêu rõ các tai họa của Tích Lan - nội chiến, tỷ lệ tự tử cao, tham nhũng, nổi loạn – và dĩ nhiên cho rằng đây là thêm những bằng chứng Phật Giáo đã sai lầm. Rồi họ bạo dạn cho rằng “Ở Chúa mới chữa lành những vết thương do bất công, đàn áp và căm thù sắc tộc …Ở Chúa mới có hy vọng cứu nước, lảnh thổ, ngôn ngữ, văn hoá và dân tộc”. Đây là một hứa hẹn hấp dẩn mà vài người có thể muốn nghe. Nhưng dỉ nhiên đây là lời hứa cũ mèm rỗng tuếch mà các người truyền giáo luôn luôn hứa ở những nơi mà họ đang cố gắng cải đạo: “Đất nước của các người lộn xộn quá! Các thần linh của các người đã thất bại. Hãy chấp nhận Jesus Christ và mọi việc sẽ tốt đẹp”. Nhưng có thật đạo Chúa có thể giải quyết các vấn đề xã hội tốt hơn không? Bằng chứng cho việc này rất mong manh. Đạo Chúa đã thất bại hoàn toàn trong việc đem lại hoà bình cho Bắc Aí Nhĩ Lan. Trên thực tế đạo Chúa là nguyên nhân chính của vấn đề. Truyền thống đạo Chúa La-mã và Tin lành lâu đời ở nước Đức đã không ngăn được chủ nghĩa Quốc xã bám trụ ở đó. Giáo hội Cải cách Hòa Lan (Dutch Reformed Church) ở Nam Phi đã ủng hộ mạnh mẽ chính sách kỳ thị chủng tộc với tất cả các vụ áp bức và tàn ác. Đạo Chúa Phúc Âm rất thịnh hành ở miền Nam nước Mỹ - vùng này được gọi là “Vành đai Thánh Kinh” – và việc này đã không ngăn được nó thành vùng nghèo nhất và kỳ thị da màu nhất nước Mỹ. Và sự phân biệt chủng tộc ở miền Nam biểu lộ rõ ràng nhất vào mỗi buổi sáng Chủ Nhật khi các người da trắng và da đen vẫn còn đi nhà thờ riêng biệt; “Ngợi khen Chúa nhưng thờ phụng Ngài ở trong nhà thờ riêng của các người!” Cuốn sách của Hattaway ít nhất cũng là một cuộc đánh thức cho tất cả Phật tử chúng ta. Nếu chúng ta không cải tổ Tăng đoàn, không tổ chức tốt hơn và không cố gắng hơn để hiểu biết và áp dụng tôn giáo của chúng ta, thì Ánh Sáng của Á Châu sẽ bị dập tắt. Chuyển ngữ: Nguyên Tánh July 9, 2008
  13. Đúng là trong phần sử thì cũng có vị bồ tát cho Thiền là cái bánh dầy, nhưng Rubi em dẫu thế nào thì cũng không dám nói câu này.Thiền là Thiền. Bánh dầy là bánh dầy. Rubi. :rolleyes:
  14. Chào anh Pháp Vân, Rubi có chút trao đổi về nội dung bài đăng. Trọng quá khứ gần đây có thể nói rằng thiền học Việt Nam bị gián đoạn. Những sách chỉ giảo về Thiền rất ít và thường là sơ sài. Vì phần sử về thiền Phật Giáo có mà không được coi trọng cho nên người học thiền rất mơ hồ về Tổ Sư thiền. Có thể khẳng định rằng, các cuốn sách cũ về thiền có ở Việt Nam trong quá khứ gần đây không phải là thiền tu giải thoát luân hồi, mà đó chỉ là những pháp thiền tu thành tiên. Điều này rất rõ ràng như trong Kinh Lăng Nghiêm nói về 10 thứ tiên. Song cho đến ngày nay, thiền học và hành ở Việt Nam nói riêng và Thế giới nói chung có phần sáng sủa hơn. Nhiều người đã biết thế nào là Tổ Sư Thiền, Như Lai Thiền, và Tiên Thiền. Tổ Sư Thiền còn gọi là Thiền Tông. Thiền này là do Phật truyền riêng ngoài giáo lý. Như Lai Thiền là Thiền do Phật truyền nói trong giáo lý. Tiên Thiền là Thiền mà Phật xác định nếu tu thì sẽ thành 10 thứ Tiên. Nhưng xem ra, các cuốn sách cũ nói về Thiển ở Việt Nam trong quá khứ gần đây thường trộn lẫn Thiền Tông và Tiên Thiền. Sách thường nhắc đến Tổ Bồ Đề Đạt Ma hay là nhắc đến Lục Tổ Huệ Năng, song khi đi vào thực hành thì lại toàn là phương pháp để tu luyện thành Tiên. Rubi chỉ nói qua vậy. Và xin giới thiệu về thời pháp giảng giải Trường Ca Chứng Đạo Ca của Thiền Sư Huyển Giác. Giảng giải của Thiền Sư Việt Nam, Thiền Sư Thích Thông Phương: Link: http://www.thientongvietnam.net/thuyetphap...aoca/index.html
  15. Lâu rồi, Rubi không có bài gì để đăng cả, chỉ thỉnh thoảng có đọc một số bài nghiên cứu của một số các học giả. Dạo này Rubi đang bận ngâm cứu về pháp môn Niệm Phật bằng Tiếng Phạn. Vì là con đường mới, nên cũng phải nghiên cứu kỹ càng để mà thực hành, cũng thế mà Rubi tạm gác lại việc nghiên cứu lý học. Khi nào hòm hòm, rồi lại nghiên cứu lý học tiếp. Hà hà. Kính, Rubi.
  16. Anh Vo Truoc, sẽ chi tiết và thực tế hơn một chút để tìm hiểu về thông số Â hiện tại, anh có thể dùng phần mềm thiên văn. Rubi có đang dùng phần mềm Stellarium, nếu anh chưa có thì có thể download trong trang http://www.stellarium.org/ Trong trang này, anh kích vào mục "for Windows" Một cửa sổ download sẽ hiện ra và anh xem thấy dòng chữ: "Your download should begin shortly. If you are experiencing problems with the download please use this direct link." Kích vào câu "this direct link." thì anh có thể download được. Nếu các link trực tiếp trong bài viết này còn sống thì anh có thể kích hoạt download trực tiếp ở đây. Trong phần mềm này, có các vỹ tuyền và kinh tuyến của Trái Đất so với hai chòm sao là Tiểu Hùng Tinh và Đại Hùng Tinh. Quan sát có thông số trong phần mềm, có thể giúp người xem khảo sát về thông số Â hiện tại (Rubi nghĩ vậy, không biết có đúng không). Kính Rubi.
  17. Ha ha, danh hiêu lớn lao, trách nhiệm nặng nề. Hoảng ghê, chạy thôi :lol:
  18. Rubi xin tiếp riêng Rin ha, chúc một ngày vui vẻ nhé.
  19. Chủ đề này nói riêng là về chòm Bắc Đẩu, nói chung thì về Thiên Văn. Vì vậy, Rubi xin góp ý riêng với anh Vo Truoc, nếu Rubi có nhầm lẫn thì cũng xin lỗi anh trước nhé. Tức là vấn đề liên quan đến Trái Đất, Mặt Trời và Thời Tiết 4 mùa. Rubi thấy có một yếu tố khác nhau như sau: -Anh Vo Truoc cũng đã có nói (trong một chủ đề gần đây) về tọa độ thời tiết 4 mùa của Trái Đất so với Mặt Trời: Mùa Đông thì vị trí Trái Đất xa Mặt Trời nhất, mùa Hạ thì vị trí Trái Đất gần mặt trời nhất. Nhưng trước đây Rubi lại thấy có chỗ nói, -Thời tiết 4 mùa trên Trái Đất diễn ra là do độ nghiêng của Trục Bắc Nam. Và tại thời điểm này, vị trí của Trục Bắc Nam (trong khoảng gần 26000 năm) và quỹ đạo của Trái Đất tạo ra thời tiết 4 mùa như sau: Mùa Đông thì vị trí Trái Đất "gần" mặt trời nhất, Mùa Hạ thì vị trí Trái lại "xa" Mặt Trời nhất . Tức là hiện nay, khi Trái Đất có vị trí gần mặt trời nhất thì Vùng Bắc Cực (của Trái Đất) có hướng "ly tâm" ra ngoài Mặt Trời. Khi Trái Đất có vị trí xa mặt trời nhất thì Vùng Bắc Cực (của Trái Đất) có hướng "hướng tâm" vào phía Mặt Trời. Nói một cách tổng quát thì: Khi Vùng Bắc Cực của Trái Đất hướng tâm Mặt Trời, Cực Bắc ấm lên cho nên thời tiết là Mùa Hạ. Khi Vùng Bắc Cực của Trái Đất ly tâm Mặt Trời, Cực Bắc lạnh hơn cho nên thời tiết là Mùa Đông. Do Trục Trái Đất nghiêng 23.5 độ, lại do Trái Đất chuyển động quanh Mặt Trời và do Trục Trái Đất đảo quanh Tâm Trái Đất với 1 chu kỳ gần 26000 năm do đó các trạng thái thời tiết của Mùa Hạ trên Trái Đất trong vòng gần 26000 năm cũng sẽ khác nhau, và Mùa Đông cũng thế. Như vậy có thể suy ra tiếp: -Khi Vùng Bắc Cực của Trái Đất hướng tâm Mặt Trời, đồng thời với lúc Trái Đất gần Mặt Trời nhất thì sẽ có một hiện tượng thời tiết mùa hạ nóng nhất (trong vòng gần 26000 năm). Sự kiện Mùa Hạ nóng nhất cũng đồng thời vơi sự kiện mùa Đông lạnh nhất (trong vòng gần 26000 năm). Có thể nhận xét chung về tình hình thời tiết của thời kỳ này là độ chênh lệch về nhiệt độ giữa mùa Hạ và mùa Đông là lớn nhất (trong vòng gần 26000 năm) -Khi Vùng Bắc Cực của Trái Đất ly tâm Mặt Trời, đồng thời với lúc Trái Đất gần Mặt Trời nhất (như hiện nay) thì sẽ có một hiện tượng thời tiết Mùa Hạ dịu nhất (trong vòng gần 26000 năm). Thời tiết Mùa Đông của thời kỳ này cũng ít lạnh nhất (trong vòng gần 26000 năm). Và nhận xét chung về tình hình thời tiết của thời kỳ này là độ chệnh lệch nhiệt độ giữa Mùa Hạ và Mùa Đông là nhỏ nhất (trong vòng gần 26000 năm). Ở mức quy mô hơn thì có thể gọi khoảng thơi gian gần 26000 năm (chu kỳ Trục Trái Đất đảo quanh Tâm Trái Đất) là một Năm (1 Năm = 26000 năm ). Như vậy thì có thể thấy thời tiết chung của 26000 năm cũng chia ra 4 mùa, mỗi mùa kéo dài 26000/4=6500 năm (số theo Độn Giáp thì là 25920/4= 6480 năm). Trên đây, nếu Rubi không nhầm thì những yếu tố như: -Chu kỳ Trái Đất quay quanh Mặt Trời. -Sự nghiêng của Trục Trái Đất. -Sự Trái Đất quay quanh Trục Bắc Nam -Sự đảo của Trục Trái Đất quanh Tâm Trái Đất Sẽ tạo ra tình hình diễn biến thời tiết trong vòng 25920 năm (Độn Giáp) như trên (tất nhiên đây là yếu tố khái quát chung về thiên văn, còn yếu tố địa lý và con người tác động đến sự diễn biến của thời tiết nữa). Nói thêm về con số 26000 năm: Dương Độn là thời gian 2160 năm Âm Độn là thời gian 2160 năm Dương Độn + Âm Độn =4320 năm 4320 x 6 =25920 năm (tương đương khoảng thời gian Trục Trái Đất đảo quanh Tâm Trái Đất 1 chu kỳ) Kính Rubi.
  20. II_Tổng hợp Âm Dương Ngũ Hành nghịch lý (xấu) của Cấu Trúc Địa Chi ----------------------- Đồ hình tổng hợp Địa Chi nghịch lý (Xấu) ----------------------- -Địa Chi Nhị Xung. (trong sách gọi là Địa Chi Lục Xung) -Địa Chi Tứ Hình Xung. -Địa Chi Tương Hại. -Địa Chi Tương Phá. -Địa Chi Tuế Tinh. -Địa Chi Địa Đới. 1_Địa Chi Nhị Xung 12 Địa Chi chia thành 6 cặp, mỗi cặp là 2 Địa Chi có quan hệ nghịch lý (xấu) ----------------------- Đồ hình Địa Chi Nhị Xung (Xấu) ----------------------- -Tý, Ngọ xung. -Sửu, Mùi xung. -Dần, Thân xung. -Mão, Dậu xung. -Thìn, Tuất xung. -Tỵ, Hợi xung. 2_Địa Chi Tứ Hình Xung Trong 12 Địa Chi chia thành 3 nhóm. Mỗi nhóm gồm 4 Địa Chi, là môi trường mà trong đó có 2 cặp Địa Chi, mỗi cặp là 2 Địa Chi có quan hệ nghịch lý (xấu). (cũng giống như Địa Chi Nhị Xung) ----------------------- Đồ hình Địa Chi Tứ Hình Xung (Xấu) ----------------------- -Tý, Ngọ, Mão, Dậu: Tý, Ngọ hình xung. Mão, Dậu hình xung. -Thìn, Tuất, Sửu, Mùi: -Sửu, Mùi hình xung. Thìn, Tuất hình xung. -Dần, Thân, Tỵ, Hợi: Dần, Thân hình xung. Tỵ, Hợi hình xung. 3_Địa Chi Tương Hại Trong 12 Địa Chi chia thành 6 nhóm, mỗi nhóm là 2 Địa Chi có quan hệ nghịch lý (xấu). ----------------------- Đồ hình Địa Chi Tương Hại (Xấu) ----------------------- -Tuất, Dậu hại. -Hợi, Thân hại -Tý, Mùi hại. -Sửu, Ngọ hại. -Dần, Tỵ hại. -Mão, Thìn hại. 4_Địa Chi Tương Phá Trong 12 Địa Chi chia thành 6 nhóm, mỗi nhóm là 2 Địa Chi có quan hệ nghịch lý (xấu). ----------------------- Đồ hình Địa Chi Tương Phá (Xấu) ----------------------- -Tý, Dậu phá. -Ngọ, Mão phá. -Dần, Hợi phá. -Thân, Tỵ phá. -Thìn, Sửu phá. -Tuất, Mùi phá. 5_Địa Chi Tuế Tinh Trong 12 Địa Chi chia thành 6 nhóm, mỗi nhóm là 2 Địa Chi có quan hệ nghịch lý (xấu). ----------------------- Đồ hình Địa Chi Tuế Tinh (Xấu) ----------------------- -Tý, Mão tinh. -Ngọ, Dậu tinh. -Dần, Tỵ tinh. -Thân, Hợi tinh. -Thìn, Mùi tinh. -Tuất,Sửu tinh. 6_Địa Chi Địa Đới Trong 12 Địa Chi chia thành 6 nhóm, mỗi nhóm là 2 Địa Chi có quan hệ nghịch lý (xấu). ----------------------- Đồ hình Địa Chi Địa Đới (Xấu) ----------------------- -Tý, Dần đới. -Ngọ, Thân đới. -Mão, Sửu đới. -Dậu, Mùi đới. -Tỵ, Tuất đới. -Hợi, Thìn đới. Ghi chú: Nội dung phần II này còn thiếu phần Địa Chi Tương Hình.
  21. -Ghi chú: Bài viết này Rubi tham khảo trong các tài liệu sau: I_Tổng hợp Âm Dương Ngũ Hành thuận lý (tốt) của Cấu Trúc Địa Chi -Địa Chi Tam Hợp (*) -Địa Chi Tam Hội (*) -Địa Chi Kiểm Hợp (**) -Địa Chi Nhị Hợp (*) -Địa Chi Đức Hợp (**) II_Tổng hợp Âm Dương Ngũ Hành nghịch lý (xấu) của Cấu Trúc Địa Chi -Địa Chi Nhị Xung (*) -Địa Chi Tứ Hình Xung (**) -Địa Chi Tương Hại (*) -Địa Chi Tương Phá (*) -Địa Chi Tuế Tinh (**) -Địa Chi Địa Đới (**) (*) Tham khảo trong sách Can Chi Thông Luận (Nguyễn Ngọc Hải Biên Soạn, NXB Văn Hoá Thông Tin) (**) Tham khảo trong websize quangduc.com: Linh 1 Link 2 I_Tổng hợp Âm Dương Ngũ Hành thuận lý (tốt) của Cấu Trúc Địa Chi ----------------------- Đồ hình tổng hợp Địa Chi thuận lý (Tốt) ----------------------- -Địa Chi Tam Hợp. -Địa Chi Tam Hội. (trong sách gọi là Tương Hội) -Địa Chi Kiểm Hợp. (trong websize gọi là Tứ Kiểm Hợp) -Địa Chi Nhị Hợp. (trong sách gọi là Địa Chi Lục Hợp) -Địa Chi Đức Hợp. (trong websize gọi là Chi Đức Hợp) 1_Địa Chi Tam Hợp 12 Địa Chi chia ra 4 nhóm, mỗi nhóm là 3 đối tượng (không liền kề theo thứ tự 12 Địa Chi) có sự quan hệ thuận lý (tốt) theo luật Âm Dương Ngũ Hành Tương Sinh. ----------------------- Đồ hình Địa Chi Tam Hợp (Tốt) ----------------------- -Tỵ, Dậu, Sửu gọi là Tam Hợp Kim Cục. -Dần, Ngọ, Tuất gọi là Tam Hợp Hoả Cục. -Thân, Tý, Thìn gọi là Tam Hợp Thuỷ Cục. -Hợi, Mão, Mùi gọi là Tam Hợp Mộc Cục. Trong đó, mỗi nhóm Tam Hợp Cục lại chia chi tiết ra Tiền Bán Hợp và Hậu Bán Hợp. Tiền Bán Hợp là trong mỗi Tam Hợp Cục có 2 Địa Chi quan hệ thuận lý như sau: -Tỵ, Dậu gọi là Tiền Bán Tam Hợp Kim Cục. -Dần, Ngọ là Tiền Bán Tam Hợp Hoả Cục. -Thân, Tý là Tiền Bán Tam Hợp Thuỷ Cục. -Hợi, Mão là Tiền Bán Hợp Mộc Cục. Hậu Bán Hợp là trong mỗi Tam Hợp Cục có 2 Địa Chi quan hệ thuận lý như sau: -Dậu, Sửu gọi là Hậu Bán Tam Hợp Kim Cục. -Ngọ, Tuất gọi là Hậu Bán Tam Hợp Hoả Cục. -Tý, Thìn gọi là Hậu Bán Tam Hợp Thuỷ Cục. -Mão, Mùi gọi là Hậu Bán Tam Hợp Mộc Cục. 2_Địa Chi Tam Hội 12 Địa Chi chia ra 4 nhóm, mỗi nhóm là 3 đối tượng (liền kề nhau theo thứ tự 12 Địa Chi) có sự quan hệ thuận lý (tốt) theo luật sinh khí Âm Dương. ----------------------- Đồ hình Địa Chi Tam Hội (Tốt) ----------------------- -Thân, Dậu, Tuất gọi là Tam Hội Kim Cục. -Tỵ, Ngọ, Mùi gọi là Tam Hội Hoả Cục. -Hợi, Tý, Sửu gọi là Tam Hội Thuỷ Cục. -Dần, Mão, Thìn gọi là Tam Hội Mộc Cục. 3_Địa Chi Kiểm Hợp (Tứ Kiểm Hợp) Trong 12 Địa Chi, có 8 Địa Chi chia thành 4 nhóm, mỗi nhóm là 2 Địa Chi có quan hệ thuận lý (tốt) ----------------------- Đồ hình Địa Chi Kiểm Hợp (Tốt) ----------------------- -Hợi hợp Sửu. -Dần hợp Thìn. -Tỵ hợp Mùi. -Thân hợp Tuất. 4_Địa Chi Nhị Hợp Trong 12 Địa Chi chia thành 6 nhóm, mỗi nhóm là 2 Địa Chi có quan hệ thuận lý (tốt) ----------------------- Đồ hình Địa Chi Nhị Hợp (Tốt) ----------------------- -Tý hợp Sửu hoá Thổ. -Dần hợp Hợi hoá Mộc. -Mão hợp Tuất hoá Hoả. -Thìn hợp Dậu hoá Kim. -Tỵ hợp Thân hoá Thuỷ. -Ngọ hợp Mùi hoá Nhật Nguyệt. 5_Địa Chi Đức Hợp (Chi Đức Hợp) Trong 12 Địa Chi chia thành 6 nhóm, mỗi nhóm là 2 Địa Chi có quan hệ thuận lý (tốt) ----------------------- Đồ hình Địa Chi Đức Hợp (Tốt) ----------------------- -Hợi hợp Ngọ. -Tý hợp Tỵ. -Sửu hợp Thân. -Dần hợp Mùi. -Mão hợp Tuất. -Thìn hợp Dậu.
  22. Vậy thì Bi tự giới thiệu tiếp ha :D Quả cầu như ý lớn nhất Việt Nam được đặt tại Chùa Lân (Thiền Viện Trúc Lâm - Yên Tử) ngày 16/04/2005, với tên gọi quả cầu Như Ý báo ân Phật. Quả cầu này chế tác từ một khối đá hoa cương đỏ (rubi) lấy tại mỏ đá An Nhơn do ông Huỳnh Văn Phúc ở Quy Nhơn tìm ra và được thi công gần 2 năm bởi Công ty Hà Quang, có đường kính 1.590 mm, nặng 6,5 tấn, đặt trên một bệ đá vuông nặng 4 tấn.
  23. Cháu thấy phương pháp này đơn giản mà dễ học quá chú Thiên Sứ ạ.
  24. Rubi chào chị (anh) wildlavender, nick và chữ ký của chị (anh) làm Rubi thấy quen quen :lol:
  25. Rubi chào Aliosha, tên của bác nghe hay ghê. Chúc bác mạnh khỏe và luôn được sự vui vẻ nhé. Thân.