Rubi

Hội Viên Ưu Tú
  • Số nội dung

    1.161
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    3

Everything posted by Rubi

  1. Vậy Rubi cháu có lời mời chú Vuivui cùng chứng minh vấn đề. Lấy ý tưởng của chú Thiên Sứ làm đề tài, chú chứng minh lục thập hoa giáp không thể thay đổi, còn cháu chứng minh lạc thư hoa giáp thay đổi như vậy là đúng. Chú thấy ý tưởng này thế nào ?
  2. Anh Hà Uyên, đoạn đối thoại này, Rubi hơi nhầm phần chữ nghiêng, vậy xin bỏ qua đoạn đó và Rubi hỏi anh mấy câu ở dưới.
  3. Rubi chào anh Hà Uyên. Nhân đây, Rubi tìm ra Thiệu Ung là Thiệu Khang Tiết, trong khi đang tìm thì nhìn thấy cái Bát quái Tiên thiên, loại Bát quái đang được phổ biến với nội dung: Càn Nam, Khôn Bắc, Ly Đông, Khảm Tây. Hóa ra đó cũng là kiến thức phổ biến, nếu như thế thì có thể thấy cái lý ở chỗ này có thể là Bát quái Tiên thiên ghép vào hình Lạc Thư. Phải chăng anh Hà Uyên đã căn cứ vào đó rồi nạp số thực dụng cho 64 quái ? Cái cách nạp số này là do anh tạo ra hay là do Thiệu Ung làm trước rồi, xin hỏi ? Lại muốn hỏi anh một ý, "Hậu thiên truy ngược lại Tiên thiên" đại khái là như thế nào ? Hậu Thiên nhắc đến là Bát quái Hậu thiên của Văn vương ?
  4. Đối thoại này, Rubi viết dài dài rồi lại xoá và để lại tin tức thế thôi.
  5. Bên đó á, cháu không dám phóng túng với chú là vì cháu mượn nick của một người bạn. Vì giữ tiếng tăm cho họ mà cháu không xả hết ý đối với ngôn từ của chú khi đối thoại. Thật thế đấy ạ.Nhưng ngồi quán cà phê, nói xấu chơi cho có chuyện, mà lại bàn qua về các ý khẳng định nọ kia của chú Vuivui thì có ối cái để bàn. Tuy cách nói đó tạo cho chú sự thoải mái khi dao chơi trên diễn đàn, nhưng nó cũng có tác dụng phụ tiêu cực trở lại ngược với chú đó ạ. Biết được cách bỏ lời giữ ý cũng là hay rồi, còn ứng dụng nó nữa cho nhớ cũng tốt, phải không chú. Còn chú nói là lạm dụng thì cũng chưa phải là cách đánh giá chính xác đâu ạ. Lại có chuyện để nói, đó cũng là cái cách tính con người chú.Dùng từ không nên cứng nhắc, lại có một số từ chuyên dùng có khi lại không được dùng hết chức năng của nó trong từng cách nói. Cụ thể là từ Phổ thông và Phổ biến này, cháu thấy nó dùng được cho trường hợp này thì dùng thôi, mà rất chính xác nữa đó khi phân cấp. Kiến thức được phổ biến ở cấp nào thì nó là kiến thức phổ thông của cấp đó, cách hiểu và dùng từ như vậy, cháu thấy tốt, không phải là "nhùng nhằng" đâu ạ. "Thái cực" thì có Vàng cực và Thau cực, Vàng cực lại có Vàng lại cũng có Thau, Thau cực là Thau nhưng cũng có Vàng, phải không chú. Hàn lâm cũng có người độn căn, Giang hồ cũng có người hiền. Giang hồ có sai sót này kia là lẽ đương nhiên nhưng Hàn lâm mà sai sót thì không phải là lẽ đương nhiên. Cái gọi là "không phải là lẽ đương nhiên" trong giới Hàn lâm về lý học cũng rất dễ chỉ ra đó ạ. Có chú không hiểu thì có, nhưng dù sao thì ý trong câu nói đó cần giải thích. Nhưng mà khi đọc bài của cháu bên kia, có thể đến giờ chú đã thấm mà vô tình dùng lại của cháu đấy. Cháu đã khẳng định là: "nạp bát quái vào Hà đồ thì có được hình Tiên thiên, nạp bát quái vào Lạc thư thì có được hình Hậu thiên, và nạp theo tính chất ADNH tương ứng". Đồng nhất là ? Gián tiếp là gì ? Cháu chỉ ra cho chú hay, đó là cách biết được ý nên lời dùng không sợ sai, nếu ai thắc mắc thì lại tha hồ mà giải thích: Thực tại của Tượng và Số là Âm dương Ngũ hành. Tượng và Số không phải là cái này sinh ra cái kia, tức là không phải Tượng sinh ra Số mà cũng không phải số sinh ra Tượng, về mặt nguyên lý. Tượng là nghi biểu của ADNH và Số cũng là nghi biểu của ADNH. Cùng qui về ADNH, cho nên gọi nó là Đồng nhất cũng đúng mà gọi nó là Gián tiếp cũng đúng. Ví dụ Đồng nhất: Tượng Càn và Số 9 tương ứng với nhau vì nó cùng có tính chất xác định là Thái Dương Kim của Âm dương Ngũ hành. Ví dụ Gián tiếp: Tượng Càn có tính chất xác định là Thái Dương Kim, Số 9 có tính chất xác định là Thái Dưong Kim, vậy Tượng Càn và Số 9 quan hệ gián tiếp ví như hai cái cột đứng song song làm trụ một vị trí trong ADNH. Sai là Sai thì Đúng cũng là Đúng, nếu chú dùng được cả hai thì mới có thể chế biến trong lời văn đối thoại. Nếu chú dám khẳng định và cộng nhận cái này cái kia của người đối thoại là Đúng thì chú có đủ quyền để bảo rằng Sai là Sai. Cài gì Đúng thì chú không nêu ra, nhưng lại nếu ra cái Sai của người đối thoại. Mà lại oái oăm là...mà thôi. Cái ý này của chú thì cháu đã đối thoại ở đoạn trên rồi, đại khái là chú đã vô tình thấm được cái đúng của cháu và dùng nó tại thời điểm này. Nếu không như vậy thì kiến giải của chú đang có vấn đề. (Ý này chắc là sẽ phải đối thoại tiếp đây, để xem) Chú Cùn thì có, thật đấy, cho nên cháu cũng có ý phóng túng thì đâu có gì là vô lễ. Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh mà lị.Thế là cháu đã đối thoại với chú đúng với những gì chú mong đợi nhé, thậm chí vựơt lên ngoài sự mong đợi, :wacko:
  6. Rubi cháu chào chú Votruoc, đận trước tranh luận với chú, có gì quá nhời, mong chú biết và bỏ qua. Chú nói đúng, nói chung là khi đặt vấn đề chỉnh lý thì phải biết nội dung của từng đối tượng nghiên cứu, và cụ thể một trường hợp là Hà Đồ và Lạc Thư, thực tại của nó là gì. Như chú Thiên Sứ tiên phong lôi nó ra, một anh thì là Ngũ hành Tương sinh, một anh thì là Ngũ hành Tương khắc, cái ý này chắc ăn, có thể lấy đó làm cơ sở để nghiên cứu và tạm dừng tìm ra thực tại của nó, dành thời gian nghiên cứu nội dung khác. Nói cho đủ ý thì, cũng có lúc bắt buộc phải nghiên cứu đến thực tại của nó thì mới hoàn thiện và/hoặc phát triển được nội dung chính lý cũng như góp phần khẳng định sự đúng đắn của vấn đề nói chung. Nếu chủ đã phác ý chỗ này chỗ kia của chú đã nghiên cứu về vấn đề thực tại Hà đồ, Lạc thư vậy cháu cũng trân trọng.
  7. Chào anh HungNguyen, Rubi thêm vài lời đồng tình với nhận định của anh. Theo Rubi thấy, khi tiếp cận với các sách về lý học và nội dung ứng dụng của nó ít nhắc đến Hà Đồ mà chỉ có, hầu như toàn là Lạc Thư. Chính vì vậy mà Rubi nghĩ rằng, Nhà Nghiên cứu người Tây phương kia muốn qui đồng tính chất của Lạc Thư với Ngũ hành tương sinh của hiện tượng Xuân Hạ Thu Đông nên đã thay đổi tính chất số của Hành Kim và Hành Hỏa với nhau. Và sách đó cũng chỉ nhắc đến Lạc Thư chứ không có chữ nào nói đến Hà Đồ. Cho nên, sự chính lý của vị đó có phần thiếu kiến thức tổng quát. Đó cũng là một hiện tượng cho thấy tình hình chung, khi người Tây phương muốn chính lý và thống nhất hệ thống lý học Đông phương gặp rất nhiều trở ngại. Còn chỉ ra những lý do của nó thì thôi, Rubi dành cho các Nhà Nghiên cứu thì sẽ tốt hơn. Lôi Hà Đồ vào cuộc, chắc chú Thiên Sứ là người tiên phong.
  8. Chào chú Vuivui, có lẽ Rubi thấy mà không nhầm thì chú là Hà Uyên. Trước hết cách viết ":"...."" của Rubi nghĩa là nội dung trong ngoặc kép là toàn bộ lời sau dấu [:], và nó không phải là trích dẫn nguyên si lời văn. Như vậy cách nói thế là được ý mà không phụ thuộc vào lời. Nói đến cách dùng từ "Phổ biến" Rubi thấy thích hợp hơn từ "Phổ thông". Còn sự phổ biến ở cấp nào thì nó là phổ thông của cấp ấy, nếu kiến thức được phổ biến ở lớp 1 thì nó là kiến thức phổ thông của cấp 1, nếu nó là phổ biến của cấp cơ sở thì nó là phổ thông của cấp cơ sở. Còn nếu ai có khả năng thì tự do nghiên cứu, tình hình thực tế nó như vậy thì việc xác định cấp là mang tính tương đối, và có thể tạm gọi là cấp tri thức tự do. Nói rằng cái này ghép với cái kia, là một cách nói nôm na. Nếu cần nghiêm chỉnh mà nói thì Rubi phát biểu rằng: "Vì lời không nói hết được ý của Âm dương Ngũ hành nên phải đặt ra Tượng và Số để nói. Tượng và Số đồng nhất với nhau về tính chất Âm dương Ngũ hành, nhưng hình thức khác nhau, đó là để biểu đạt đầy đủ nguyên lý của Âm dương Ngũ hành. Và dựa trên cái khung Sinh và Khắc của Ngũ hành, cũng như, cần nhấn mạnh rằng, tượng và số là hai hệ độc lập và đồng nhất một cách gián tiếp trên tính chất cơ bản Âm dương Ngũ hành". Nhưng không phải nôm na mà vẫn nói đúng thực tế, đồng thời vẫn dùng từ 'cái này ghép với cái kia' thì lại khác. Đó là áp đặt, là "triết" giống như là triết một cành cây chết lên một thân cây sống hoặc ngược lại, như là triết sừng lên đầu thỏ hoặc triết lông lên lưng rùa. Nếu nói về sự sơ sài thì vấn đề của anh Hà Uyên trình bày như vậy là cũng sơ sài rồi. Ít nhất là sơ sài đối với câu nói "Tiên học lễ, hậu học văn". Căn cứ trên đây thì Rubi cháu cũng đâu có sơ sài, phải chứ ạ ? Dịp này lại được nói chuyện với chú Vuivui, chắc Rubi vẫn giữ thái độ giống như là ở bên tuvilyso.net thì ở đâu cũng sống được, chẳng ai làm gì được, lại cũng chẳng ai chê trách.
  9. Cập nhật: Bản 01052009
  10. Rubi cập nhật các bản thiết kế tả chất: 01 02 03 04
  11. Ghi chú: Xuân Hạ Thu Đông là hiện tượng mang yếu tố góp phần cho một kết luận của triết lý. Nhưng có lẽ chỉ dưa vào quan sát bề ngoài thì cũng chỉ kết luận được bề ngoài. Với Nghi Biểu Ngũ Hành, thì mới thấy nó là Nguyên nhân của hiện tượng Sinh Trưởng Thâu Tàng. Sinh Trưởng Thâu Tàng là kết quả của sự tương tác Âm và Dương với nhau. Về mặt Nguyên nhân thì phải tách biệt Âm và Dương để lý luận, nếu không tách biệt được Âm và Dương thì không thể so sánh, nếu không so sánh thì không biết sự tương tác, không biết sự tương tác mà chỉ thấy kết quả của nó thì đúng là chỉ thấy được bề ngoài của Ngũ hành. Tại hành Thủy thì Âm sinh Tại hành Mộc thì Âm vượng Tại hành Hỏa thì Âm tù Tại hành Kim thì Âm tuyệt Tại hành Hỏa thì Dương sinh Tại hành Kim thì Dương vượng Tại hành Thủy thì Dương tù Tại hành Mộc thì Dương tuyệt So sánh thì thấy: Âm sinh Dương tù tại hành Thuỷ Âm vượng Dương tuyệt tại hành Mộc Dương sinh Âm tù tại hành Hoả Dương vượng Âm tuyệt tại hành Kim. Vấn đề tiếp theo là sự so sánh nguyên lý này với hiện tượng Sinh Trưởng Thâu Tàng của Xuân Hạ Thu Đông.
  12. Thưa các học giả và các anh chị, hình trên chỉ là một bằng chứng (theo Rubi) cho vấn đề tháng đầu của năm. Theo Rubi biết, lịch sử lý học cho vấn đề này có các mốc đã dùng là tháng Hợi, tháng Sửu, và tháng Dần. Mỗi tháng đều có thể tìm được những nguyên lý nhất định. ...
  13. Một Âm, một Dương gọi là Đạo đâu có khác Âm và Dương là hai đối tượng Đồng Hành.
  14. Tiểu Đề-Định Nghĩa Âm Dương Ngũ Hành Định nghĩa Âm Dương: Âm và Dương là hai đối tượng Đồng Hành. Định nghĩa Ngũ Hành: Ngũ Hành là năm dạng Đồng Hành của Âm Dương. Suy ra: Âm dương Ngũ hành là Năm đôi Đồng hành. P/S: Chữ Hành (trong từ Ngũ Hành) có nghĩa đen là Đồng Hành. Chữ Ngũ (trong từ Ngũ Hành) có nghĩa đên là Năm Đôi. (Hôm nay, 05:21 AM)
  15. Thưa các học giả và các anh chị, Rubi thấy, có lúc có người vẫn nói đến hào số bẩy (7). Nghe thì như không tưởng, nhưng đến đây, khi cần tương ứng với 100 số thì lại cần phải có mặt hào số bẩy, đó chính là hai hào Âm thổ và Dương thổ. Chi tiết hình vẽ sẽ còn tiếp sau.
  16. Hình Hệ 100 Số Tiên Thiên Hồng Đức
  17. Thưa các học giả và các anh chị, tình hình tư tưởng trong bài viết trên cần một chút sự xác định rõ ràng hơn. Khi đang thực hiện các hình vẽ này, Rubi vẫn có tư tưởng khám phá hình tượng (biểu tượng) Lưỡng Nghi, nhưng lại (vô tình) sử dụng một hệ tọa độ (với hai trục là đường chu vi và đường kính) làm yếu tố trợ giúp để vẽ. Hình tượng thì thiên về tư tưởng Triết học (triết lý), hệ tọa độ thì thiên về tư tưởng Toán học. Tức là khi thực hiện các hình vẽ trên, Rubi vẫn nghiêng về triết lý, chưa quan trọng về toán học, do đó, lúc đó chỉ quan tâm đến hình thể và phân tích trên sự cảm nhận về hình thể. Nhưng có thể đường phân cực giữa các hình thể là một bài toàn có giả thuyết và kết luận về vấn đề Đường Phân Cực. Manh nha về một công thức đường phân cực, với hệ đối tượng là 2 (lưỡng nghi) thì chưa nghĩ rằng đây là một bài toàn, với hệ đối tượng là 4 (tứ tượng) cho đến hệ đối tượng là 8 (bát quái) thì cũng chưa nhận ra đây là một bài toán, nhưng với hệ đối tượng là 64 (Hệ 64 quẻ Tiên thiên) thì hình tượng cũng rõ ràng và lại được xây dựng trên một hệ toán học, cho nên có thể đặt vấn đề tư tưởng toán học trong đường phân cực. Với tư tưởng cụ thể hóa hình tượng bằng toán học thì thấy rằng, có một điều cần phân biệt giữa hình lưỡng cực và đường lưỡng cực. Do từ trước đến nay, chỉ thấy hình tượng được thể hiện là đối tượng chính, và cũng có nhiều các phát kiến của các học giả trong và ngoài nước về hình tượng, hầu như hoàn toàn không có một yếu tố toán học làm chính xác cho các hình tượng đó, mà chỉ dựa trên sự suy lý (do vậy đã có một số hình thực chất không có giá trị chân lý). Đó là vì không nhìn ra đối tượng chính của vấn đề là Đường chứ không phải là Hình. Khi đặt vấn đề, đối tượng chính là Đường thì tư tưởng sẽ thiên về Toán học. Với một lượng đơn vị nguyên liệu là 64 thì đủ để xây dựng nên bài toán đường lưỡng cực, giống như chương trình toán học cấp Phổ thông Trung học có các bài toán về Đường tròn, Đường (pa ra bôn), Đường (hi pe bôn). Tóm lại, vấn đề là, khi vẽ các hình vẽ trên, tư tưởng của tác giả vẫn bị ảnh hưởng về hình tượng, tuy có sử dụng toán học nhưng chưa nhìn ra vấn đề đường nét như vừa phân tích. Như vậy, để thấy sự khác biệt giữa nội dung đã phân tích kèm theo hình vẽ với nội dung các bài liên quan tới đường lưỡng cực.
  18. Rubi cập nhật bản thiết kế mới.Hình tượng Lưỡng Nghi được thiết kế từ "siêu công thức đường lưỡng cực" (Hình Lưỡng Nghi này có vẻ có thần hơn, và có nội dung rất mạch lạc rõ ràng, mới phát kiến, đã đăng trong topic 'các cấu trúc...'). Bản 01042009
  19. Thưa các học giả và các anh chị, Rubi tiếp tục tiểu đề này với kết luận về hình tượng chung của Âm dương Tiên thiên. Trước hết là giải thích từ Âm dương Tiên thiên, Tiên thiên là nói đến Ngũ hành Tương Sinh trong đó có Hệ Tứ tượng Tiên thiên, và rồi đến Hệ Bát quái Tiên thiên, sau cùng là Hệ 64 quẻ Tiên thiên. Âm dương của các Hệ Tiên thiên nghĩa là nói đến các cách tính để cụ thể hóa giá trị của mỗi phần tử trong riêng mỗi Hệ. Ở đây, Rubi thấy có hai cách xác định giá trị, hai cách này cùng xuất phát từ một hệ thống nhất quán nhau sau: -Bước thứ nhất chung cho cả ba Hệ nói trên là: Hào trên cùng có giá trị bằng 1, và đồng thời hào liền sau có giá trị gấp đôi hào liền trước, hào Âm sẽ có giá trị là âm (-), hào Dương sẽ có giá trị là dương(+). (ưu điểm của tiền đề này là nó cho ra sự tồn tại một hệ quả hợp lý). -Bước thứ hai là tính toán giá trị Âm và giá trị Dương trong mỗi phần tử Tượng của mỗi hệ. Từ hai bước trên, sẽ thu được các dữ liệu thông tin về các giá trị âm dương. Tiếp theo là sử dụng các giá trị này để tạo ra hình tượng chung cho mỗi hệ, mỗi một hình tượng được tạo ra sẽ có tiền đề là một cách tổng hợp các giá trị âm dương, và sau đây là hai cách tổng hợp: -Cách 1: Trong một Hệ Tiên thiên, mỗi phần tử Tượng đều có hai giá trị đồng thời là Âm và Dương. Trường hợp đặc biệt là Âm = 0 đồng thời Dương = Max(đạt giá trị lớn nhất), hay Dương = 0 đồng thời Âm = Max. Tính tổng của các giá trị Âm dương trong mỗi phần tử Tượng, nếu giá trị Dương lớn hơn giá trị Âm thì kết quả là Tượng đó có giá trị cuối cùng là Dương, nếu giá trị Âm lớn hơn giá trị Dương thì kết quả là Tượng đó có giá trị cuối cùng là Âm. Với cách tính tổng như vậy thì kết quả là các giá trị Âm cũng như Dương, đều là giá trị lẻ. Các phần tử có giá trị âm hợp lại thành Âm cực của Hệ, các phần tử có giá trị dương hợp lại thành Dương cực của Hệ. Liên tiếp các giá trị trong Âm cực sẽ được xác định trên một hệ tọa độ hình tròn, và các giá trị trong Dương cực cũng như vậy. Cụ thể, đối với Hệ 64 quẻ Tiên thiên: -Âm cực của Hệ 64 quẻ gồm có 32 phần tử: "từ -1, -3,-5... cho đến -63". -Dương cực của Hệ 64 quẻ gồm có 32 phần từ: "từ 1,3,5...cho đến 63". -Hệ tọa độ hình tròn với đường kính có giá trị là 64 đơn vị, và 64 cung, gốc tọa độ động là giao điểm giữa chu vi và đường kính ứng với mỗi cung. Trong hệ tọa độ như vậy, thứ tự các giá trị Âm sẽ tạo nên một nửa đường phân cực, thứ tự các giá trị Dương sẽ tạo nên một nữa đường phân cực. Hai đường này liền tiếp nhau và đối xứng nhau qua tâm hình tròn, và tạo nên đường phân cực cho hình tròn. Thực tế, đường phần cực này là kết quả chính, còn sự tô đậm hai cực trong hình tròn chỉ là để mô tả khái quát hệ tọa độ. Hay nói một cách khác, ranh giới làm nên hình dạng mỗi cực, chứ không phải hình dạng mỗi cực làm nên danh giới. Và kết quả, sự phân Âm cực và Dương cực trong Hệ 64 quẻ Tiên thiên có dạng như sau: Hính: đồ hình đường phân cực của Hệ 64 quẻ Tiên thiên Ghi chú: Với hệ tọa độ trên, chu vi hình tròn được bảo toàn với Tứ tượng tiên thiên (quy luật Ngũ hành tương sinh). -Cách 2: (Còn tiếp)
  20. Hình 1: Hình tượng chung của Hệ 64 quẻ Tiên thiên-cách vẽ 1 Hình vẽ này giống với hình tượng một con rồng cắn thân. Và, hai con đối xứng nhau. Đồng thời cách vẽ này cũng giống giông với hình Ngân Hà: Hình 1: Ngân Hà-Thiên Hà Hình 2: Hình tượng chung của Hệ 64 quẻ Tiên thiên-cách vẽ 2 Hình vẽ này ngược với cách vẽ ở hình 1. Hình 1 lấy Tâm làm điểm tựa để xác định độ lớn của 64 cung, hình 2 lấy Chu Vi làm điểm tựa để xác đinh độ lớn Âm dương của mỗi cung trong 64 cung. Hình 3: Hình tượng chung của Hệ 64 quẻ Tiên thiên-cách vẽ 2 Hình vẽ này là vùng tâm của cách vẽ thứ 2. Hình 4: Hình tượng chung của Hệ 64 quẻ Tiên thiên-cách vẽ 3 Hình vẽ này được suy ra từ các hình vẽ trước và thêm một vài yếu tố lý luận. Các hình vẽ trước lấy chu vi hình tròn ứng với chu kỳ Ngũ hành tương sinh làm căn bản, rồi ý đó mà mô tả các giá trị Âm dương nên nó có dạng là một hình số tám đóng khung trong một hình tròn. Còn hình vẽ thứ 4 này, sắp đặt các giá trị Âm dương Tiên thiên liên tiếp theo một chu vi hình tròn.
  21. Hình Hệ 64 quẻ Tiên thiên Hồng Đức
  22. Rubi rong ruổi trên một số diễn đàn lý số, khi đăng các nội dung do Rubi phát kiến về lý học, thường xuyên gặp những điều phản biện có tính chất xúc tác, chưa biết lợi hại thế nào, thôi thì miễn bàn, nhưng một vài lần có hai ba thành viên thắc mắc rằng :"tại sao phát kiến rồi, lại cứ bắt chước lấy tên cũ để đặt cho nội dung mới", chẳng hạn như: "Bát quái Tiên thiên Phục Hi, và Bát quái Hậu thiên Văn Vương...tại sao lại vẫn ghi là Bát quái Tiên thiên và Bát quái Hậu thiên...sao không đặt khác đi..." và gần đây nhất, có hội viên (ở diễn đàn khác) cho rằng như thế là "lố bịch". Chính vì vậy cho nên, các phát kiến của Rubi sẽ có thêm bút danh "Hồng Đức". Còn đây là Hình tượng Ngũ hành Tương sinh Hồng Đức và Hình tượng Ngũ hành Tương khắc Hồng Đức: Hình tượng Ngũ hành Tương sinh Hồng Đức Hình tượng Ngũ hành Tương khắc Hồng Đức
  23. Tiểu đề: Tứ linh và Tứ tượng Thưa các học giả và các anh chị, tiểu đề này Rubi nêu ra hàm ý trong Tứ linh, tức là sự liên quan theo mặt mà người ta hay gọi là 'đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu'. Kết quả khái quát, Rubi thấy Tứ tượng là: -Thiếu âm Thuỷ -Thái âm Mộc -Thiếu dương Hoả -Thái dương Kim Đem kết quả này so sánh với Tứ linh, sẽ thấy một sự tương ứng: -Thiếu âm Thủy ứng với Huyền vũ -Thái âm Mộc ứng với Thanh long -Thiếu dương Hỏa ứng với Chu tước -Thái dương Kim ứng với Bạch hổ Có thể thấy rõ rằng -Rùa đen và Phượng hoàng đỏ là NHỎ đối với Rồng xanh và Hổ trắng là LỚN. -Thiếu âm Thủy và Thiếu dương Hỏa là NHỎ đối với Thái âm Mộc và Thái dương Kim là LỚN. -Thủy đối với Hỏa ứng với Thiếu âm đối với Thiếu dương cũng lại ứng với Rùa đối với Hạc (hoặc Phượng hoàng). -Mộc đối với Kim ứng với Thái âm đối với Thái dương, cũng lại ứng với Rồng đối với Hổ. Rồng ứng với Thái âm, lại gọi Rồng là Thanh Long hoàn toàn hợp nghĩa với Thái âm Mộc. Hổ ứng với Thái dương, lại gọi Hổ là Bạch Hổ hoàn toàn hợp nghĩa với Thái dương Kim. Rùa và Hạc cũng có nghĩa lý tương ứng. P/S: Thực tế hay thấy, có những cổ vật bằng đồng, hình tượng là con Hạc tấn trên con Rùa, ở đây, con Hạc có thể tương đồng với Phương hoàng đỏ. Tứ linh có nhiều bộ: -Cá, Rùa. -Phượng, Hạc, Long mã (có vẻ như các linh vật này có khả năng biến hóa như Lửa ?) -Hổ -Rồng Rubi thấy, cổng hai của Đền Ngọc Sơn có một bộ phù điều Tứ linh: -Bên phải của Đền, có một bức phù điêu hai mặt, mặt trước là Hổ, mặt sau là Cá. -Bên trái của Đền, có một bức phù điêu hai mặt, mặt trước là Rồng, mặt sau là Hạc (Cò). Từ đây có thể thấy, hiện tượng trong một bức hoạ, Rồng và Phượng (Hạc; Cò) ghép thành bộ, thành đôi không mang tính chất âm dương sinh khí hay phúc đức mà là Thái âm với Thiếu dương (Thái âm có Cấn và Khôn, Thiếu dương có Ly và Chấn). Thái âm và Thiếu dương đơn thuần với nghĩa là một sự liên tiếp trong chu kỳ biến thiên của Tứ tượng, như Cực âm thì biến, mà biến thì Dương sinh.