-
Số nội dung
1.160 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
3
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by Rubi
-
Chú/anh Haithienha thân mến!Rubi thấy nếu yếu tố này được sử dụng để xác định giờ sinh thì khi đối thoại ban đầu, người luận phải hỏi xem tướng xoáy của người được xem ở vị trí nào. Vấn đề là này là sự cung cấp thông tin, hay là hướng dẫn người xem cần biết trước khi luận lá số. Thân mến!
-
Các độc giả kính mến! Không như nội dung ở chủ đề cùng tên đã tạo trước đây, ở chủ đề này, lần này Rubi sẽ song song phát triển minh họa theo hai hướng, hai hướng phát triển cho cùng một vấn đề. Trong hai hướng này, cần kết luận hướng nào là đúng, hướng nào không đúng, đây là một kết luận mà hiện tại chưa thể làm được. Theo các biểu hiện nguyên lý trong các sách lý học từ trước tới nay thì Rubi thấy hai hướng này đều tồn tại: -Hướng thứ nhất là theo nguyên lý Bát quái Tiên thiên ứng với Hà Đồ, với một ví dụ yếu tố: "Quái Càn có tính chất Âm dương Ngũ hành là Dương Thái dương Kim". -Hướng thứ hai là theo nguyên lý Bát quái Tiên thiên ứng với Lạc Thư (thêm số 10 vào Trung cung), với một ví dụ yếu tố: "Quái Càn có tính chất là Âm dương Ngũ hành là Dương Thái Dương Hoả". Theo hướng thứ nhất, các nguyên lý còn lại có thể chứng minh cho nó có triển vọng cần quan tâm và phát triển. Theo hướng thứ hai, các nguyên lý có vẻ có sự truyền thừa từ trước tới nay. Tuy là có biểu hiện theo cả hai hướng nhưng hệ thống nguyên lý đang tồn tại từ trước tới nay của mỗi hướng đều như có vẻ chưa được hoàn chỉnh. Quá trình phát triển sự chỉnh lý theo hướng thứ nhất của Rubi đã tạo ra những yếu tố cần nắm bắt để tiếp cận chỉnh lý theo hướng thứ hai. Việc nghiên cứu để đi đến kết luận hướng nào là đúng trong hai hướng trên là một yếu tố nền tảng để phát triển chỉnh lý hệ thống Âm dương Ngũ hành. Các bước ứng dụng chỉnh lý được áp dụng chung cho cả hai hướng thì Rubi sẽ dần dần trình bày cụ thể tiếp sau. Ví dụ bước ứng dụng chình lý được áp dụng chung cho cả hai hướng là: "Tiên thiên Bát quái ứng với Âm dương Ngũ hành Tương sinh". Các độc giả kính mến, Rubi nói trước như vậy để mọi người dễ tiếp cận với nội dung trong chủ đề này. Rubi xin trận trọng cảm ơn các độc giả tham quan cũng như phát biểu ý kiến góp ý. Kính mến!
-
Anh Haithienha thân mến!Về việc xác định giời sinh, Rubi có lần nghe nói trong Tử Vi Tổng Hợp có cách xác định giờ sinh dựa vào tướng xoáy tóc trên đầu, bên trái , bên phải hay là ở giữa. Thấn mến!
-
Cô Wildlavender kính mến!Rubi cháu cảm ơn Cô đã có lời khen, :wub: . Cháu và cậu Như Thông cũng biết biết nhau từ hồi chơi blog yahoo360 cô ạ. Kính mến!
-
:) Vì nick của NguNhuBo không dấu nên làm Rubi mãi mới mần ra, hóa ra là Ngu Như Bò. Nick lạ quá.
-
Các độc giả kính mến! Vừa xong, Rubi thấy hầu hết tài liệu ảnh trong chủ đề này (và các chủ đề khác cũng như ở một số chủ để ở các diễn đàn khác) không hiển thị được nữa. Vấn đề này do trang nguồn photobucket.com, nhưng không rõ cụ thể nguyên nhân của nó là gì, việc thử lấy mới link đăng lại cũng không được. Do không thể sửa bài lại nên có thể Rubi sẽ lập chủ đề mới cùng tên. Trang nguồn của tài liệu ảnh có thể sẽ là wikimedia.org. Kính mến!
-
Tiểu đề-đồng tính tương hại. Các độc giả thân mến, theo lý luận Đông y "nếu để cho 2 cái hàn (trong và ngoài) cùng cảm thì trong và ngoài đều bị thương". Yếu tố lý luận này gợi cho Rubi một cách giải thích về sự tương tác của các quái cùng nằm trong một cực nhưng khác tính chất Ngũ hành. Tốn và Khảm không hợp với Cấn và Khôn vì 4 quái này có cùng bản chất là Âm. Tốn và Khảm là Thiếu Âm, Cấn và Khôn là Thái Âm, nếu hai Âm này tương tác với nhau, cảm nhau thì sẽ làm hại nhau, ví như 2 cái lạnh cùng cảm thì trong và ngoài đều bị thương. Chấn và Ly không hợp với Đoài và Càn vì 4 quái này có cùng bản chất là Dương. Chấn và Ly là Thiếu Dương, Đoài và Càn là Thái Dương. Cũng như đối với Âm, hai Dương tương tác với nhau, cảm nhau thì sẽ là hại nhau. Hai đối tượng cùng bản chất, sinh ra khác nhau về thời gian thì không hợp nhau trong cùng một không gian như sự hợp nhau cùng không gian của hai đối tượng Âm và Dương. Thiếu Âm khác thời gian với Thái Âm, nếu chung không gian thì sinh ra loạn luân, cũng vậy, Thiếu Dương và Thái Dương khác nhau thời gian nên nếu để chung không gian thì sẽ là sự loạn luân. Hoặc ví như là đối tượng Nam, có thời niên thiếu và thời già lão, thế là tuy hai mà không phải hai. Tuy hai tức là có thời niên thiếu và thời già lão, không phải hai vì cùng là một người. Không phải hai mà lại cũng là hai người khác nhau, đặc biệt là hai người khác nhau này không thể cùng bắt tay nhau được, không thể cùng đối thoại với nhau được, nếu hai người này gặp nhau được và bắt tay nói chuyện thì đó gọi là sự loạn luân-điều không thể xảy ra mà lại cố tính xảy ra. Từ những phân tích trên sẽ cho thấy được sự phân chia hợp hay không hợp giữa các quái trong 8 quái.
-
Các đọc giả kính mến, chủ đề này Rubi tìm hiểu một số yếu tố trong y thư kinh điển Đông Y liên quan đến việc xác định tính chất Âm dương Ngũ hành. Xin mời các đọc giả quan tâm cùng tham khảo và góp ý. Y thư Kinh điển Đông y có một số cuốn như: -Cổ nhất có bộ y thư Hoàng Đế Nội Kinh Tố Vấn. -Bộ y thư cổ về Châm cứu có Hoàng Đế Nội Kinh Linh Khu. Và các y thư như: -Kim Quỹ. -Nan Kinh. -Thương Hàn Luận. Nghiên cứu về Âm dương Ngũ hành, nhất là theo hướng chỉnh lý, nếu không tham khảo đến Y thư Kinh điển thì thật là một sự thiếu căn bản khá lớn. Trong các y thư kinh điển trên, đọc giả nào đã có hiểu biếu khái quát nội dung của mỗi cuốn thì có thể hoan hỷ nói qua cho Rubi và các đọc giả cùng biết. Theo hướng chỉnh lý Âm dương Ngũ hành, Rubi thấy khoa châm cứu có thuyết Tý Ngọ Lưu Chú là một manh mối quan trọng cho vấn đề này. Thật là hay khi Rubi mới biết Hoàng Đế Nội Kinh Linh Khu là bộ y thư cổ về châm cứu, cho nên đó là các yếu tố để lập chủ đề này. Rubi cũng nghe nói, các Thấy Thuốc Đông Y rất coi trọng Kinh Dịch. Tiện đây, Rubi cũng tự suy luận nghĩa lý hai chứ Kinh Dịch qua lăng kính khoa đông y: -Kinh Dịch là Kinh và Dịch -Kinh là Kinh mạch. -Dịch là Khí Huyết. -Kinh Dịch là sự vận động có qui luật và chu kỳ của Khí huyết trong Kinh mạch.
-
THIÊN 4: TÀ KHÍ TẠNG PHỦ BỆNH HÌNH Hoàng Đế hỏi Kỳ Bá: “Tà khí trúng vào người thì thế nào ?” [1]. Kỳ Bá đáp : “Tà khí trúng vào người thì trúng vào chỗ cao” [2]. Hoàng Đế hỏi: “Cao hay thấp, có phân độ gì không ?” [3]. Kỳ Bá đáp : “Từ nửa thân mình trở lên do tà khí trúng vào, từ nửa thân hình trở xuống do thấp khí trúng vào [4]. Cho nên mới nói rằng tà khí khi trúng vào người thì không ở vào 1 nơi nhất định, trúng vào Âm thì lưu chảy vào phủ, trúng vào Dương thì lưu chảy vào kinh [4]. Hoàng đế hỏi: “Âm và Dương, tuy có tên gọi khác nhau, nhưng cùng đồng loại với nhau, trên dưới cùng tương hội, kinh và lạc quán thông nhau như chiếc vòng ngọc không đầu mối [5]. Nay tà khí trúng vào người, có khi trúng vào Âm, có khi trúng vào Dương, trên dưới, trái phải, không ở hẳn vào 1 nơi ‘hằng thường’ nào cả [6]. Lý do nào đã khiến như thế?”[7] Kỳ Bá đáp : “Chỗ hội của các kinh Dương đều ở nơi mặt [8]. Tà khí trúng vào người vào lúc mà (nguyên khí) bị hư, (tà khí) ‘thừa’ lúc đó (để vào), hoặc lúc mới dùng quá sức, hoặc ăn uống mồ hôi ra, tấu lý mở, do vậy mà tà khí mới trúng vào [9]. Khi tà khí trúng vào mặt thì nó theo xuống dưới bằng đường kinh Dương minh [10]. Khi tà khí trúng vào cổ gáy, thì nó theo xuống dưới bằng đường kinh Thái dương [11]. Khi tà khí trúng vào má thì nó theo xuống dưới bằng đương kinh Thiếu dương [12]. Khi tà khí trúng vào ngực và lưng, hai bên sườn thì cũng giống như là trúng vào các kinh (Dương) vậy” [13]. Hoàng Đế hỏi: “Tà khí trúng vào kinh Âm thì thế nào ?” [14]. Kỳ Bá đáp : “Tà khí trúng vào kinh Âm thường theo vùng cánh tay và cẳng chân mà bắt đầu [15]. Ôi ! Cánh tay và cẳng chân có phần da mép trong (Âm bì) mỏng, thịt nhuận mà mềm, cho nên cùng thọ phong tà mà chỉ độc thương ở Âm mà thôi” [15]. Hoàng Đế hỏi: “Nguyên nhân trúng tà này có làm thương đến tạng không ?” [16]. Ký Bá đáp : “Thân thể con người khi trúng phong, không nhất định là phải làm thương đến tạng [17]. Bởi vì khi tà khí nhập vào theo con đường kinh Âm, bấy giờ tạng khí còn thực, tà khí vào, nhưng không thể ‘ở khách’, vì thế nó phải quay trở lại phủ [18]. Cho nên mới nói rằng: “Tà khí trúng vào Dương thì lưu chảy vào kinh, trúng vào Âm thì lưu chảy vào phủ” [19]. Hoàng Đế hỏi: “Tà khí khi trúng vào tạng của con người thì thế nào ?” [20]. Ký Bá đáp : “Buồn sầu, ưu tư, sợ hãi làm tổn thương đến Tâm, thân hình đang bị lạnh, lại uống thức uống lạnh vào thì sẽ làm tổn thương đến Phế, nếu để cho 2 cái hàn (trong và ngoài) cùng cảm thì trong và ngoài đều bị thương, cho nên khí bị nghịch mà thượng hành. có khi bị té xuống, ác huyết giữ vào bên trong, hoặc có khi có việc phải giận dữ, khí lên mà không xuống được, để rồi tích ở dưới sườn, sẽ làm thương đến Can [21]. Có khi bị đánh, té, hoặc uống rượu say rồi làm chuyện trai gái, hoặc mồ hôi mà đứng trước gió, tất cả sẽ làm thương đến Ty [22]ø. Có khi dùng quá sức, gánh vác vật nặng, hoặc làm chuyện trai gái quá độ, mồ hôi ra tắm thì sẽ làm thương đến Thận” [23]. Hoàng Đế hỏi: “Ngũ tạng bị trúng phong như thế nào ?” [24]. Kỳ Bá đáp : “Chỉ khi nào Âm lẫn Dương đều bị cảm thì tà khí mới có cơ hội ‘tấn công’ vào” [25]. Hoàng Đế nói: “Đúng vậy thay !” [26]. Hoàng Đế hỏi Kỳ Bá rằng: “Đầu mặt và thân hình, thuộc vào nhau do cốt (xương), liền vào nhau bởi cân (gân), đồng huyết, hợp khí [27]. Mỗi khi trời lạnh, có thể làm nứt đất, đóng băng, khi cơn lạnh đến vội sẽ làm cho tay chân bị bủn rủn, trong lúc đó thì gương mặt của người không cần che lại tại sao thế ?” [28]. Kỳ Bá đáp : 12 kinh mạch, 365 lạc, huyết khí (của chúng) đều lên mặt và thoát ra bằng những không khiếu [29]. Khí ‘tinh Dương’ thì chạy lên trên vào mắt thành ra tinh khí, khí ‘biệt’ chạy lên trên thoát ra mũi thành ra xú khí, khí ‘trọc’ xuất ra ở Vị chạy lên trên môi và lưỡi thành vị khí [30]. Tân dịch của các khí đều lên trên hơ ấm gương mặt, hơn nữa ø da mặt lại dày, bắp thịt cứng hơn [31]. Cho nên, dù thiên khí có lạnh đến đâu cũng không ‘thắng’ được (sức chịu lạnh của mặt) vậy” [32]. Hoàng Đế hỏi: “Khi tà khí trúng vào người thì bệnh hình như thế nào?” [33]. Kỳ Bá đáp : “Hư tà khi trúng vào thân thì thân hình sẽ như có lúc dao động và rợn người. Chính tà khi trúng vào thân thì sẽ nhẹ hơn. Trước hết nó hiện ra ở sắc mặt, không cảm thấy gì ở thân, như có không, như hết như còn, khó mà nắm được đầy đủ sự bộc lộ ra ngoài” [34]. Hoàng Đế nói: “Đúng vậy thay !” [35]. Hoàng Đế hỏi Kỳ Bá rằng: “Ta nghe nói: Thấy được sắc diện mà biết được bệnh, gọi là ‘minh’, án mạch mà biết được bệnh, gọi là ‘thần’, hỏi bệnh mà biết được nơi bệnh, gọi là ‘công’[36]. Ta mong được nghe rằng làm thế nào để có thể thấy được sắc diện mà biết bệnh, án mạch mà biết bệnh, hỏi bệnh mà biết được đến nơi ?” [37]. Kỳ Bá đáp : “Ôi ! Sắc mặt tương ứng với nơi bì phu của bộ xích, giống như sự tương ứng với tiếng dùi trống đánh trống, không thể để cho “thất điệu” với nhau [38]. Đây cũng là những chứng hậu xuất ra có gốc, có ngọn, có rễ, có lá [39]. Cho nên nếu cái gốc chết thì cái lá sẽ khô vậy [40]. Sắc mặt và hình nhục không thể cùng thất điệu với nhau [41]. Cho nên, biết một gọi là ‘công’, biết hai gọi là ‘thần’, biết ba gọi là ‘thần và minh’ vậy” [42]. Hoàng đế nói: “Ta mong được nghe cho hết” [43]. Kỳ Bá đáp : “Sắc mặt xanh thì mạch phải Huyền, sắc mặt đỏ thì mạch phải Câu, sắc mặt vàng thì mạch phải Đại, sắc mặt trắng thì mạch phải Mao, sắc mặt đen thì mạch phải Thạch. Thấy được sắc diện mà không đắc được mạch tương ứng, ngược lại chỉ đắc được mạch tương thắng, như vậy là chế [44]. Khi nào đắc mạch tương sinh thì bệnh xem như là đã giảm rồi” [45]. Hoàng Đế hỏi Kỳ Bá rằng: Bệnh hình của sự biến hóa sinh ra từ ngũ tạng như thế nào? [46] Kỳ Bá đáp : Trước hết phải định sự tương ứng giữa ngũ sắc và ngũ mạch sau đó mới định được bệnh chứng [47]. Hoàng Đế hỏi: Sắc mặt đã định xong rồi phải phân biệt như thế nào nữa ? [48] Kỳ Bá đáp : Phải “sát” được sự hoãn, cấp, tiểu, đại, hoạt, sắc của mạch, được vậy thì mới định được sự biến của bệnh [49]. Hoàng Đế hỏi: “Sát” như thế nào ? [50] Kỳ Bá đáp : Mạch cấp thì nơi bì phu của bộ xích cũng cấp, mạch hoãn thì nơi bì phu của bộ xích cũng hoãn, mạch tiểu thì nơi bì phu của bộ xích cũng gầy yếu và thiếu khí, mạch đại thì nơi bì phu của bộ xích cũng phồng lên, mạch hoạt thì nơi bì phu của bộ xích cũng hoạt, mạch sắc thì nơi bì phu của bộ xích cũng sắc [51]. Phàm tất cả sự biến này, có vi, có thậm [52]. Cho nên, người nào khéo “sát” được bộ xích thì không cần đến bộ thốn, người nào khéo “sát” được mạch thì không cần đợi ở sắc diện, người nào có thể “tham hợp” tất cả để ứng hành thì đáng gọi là “thượng công”, thượng công thì mười trường hợp có thể thành công đến chín, người nào có thể ứng hành được hai thì được gọi là “trung công”, trung công thì mười trường hợp có thể thành công đến bảy, người nào chỉ ứng hành được một thì gọi là “hạ công”, hạ công thì mười trường hợp chỉ thành công có sáu [53]. Hoàng đế nói: “Ta xin được hỏi về bệnh hình của các mạch hoãn, cấp, tiểu, đại, hoạt, sắc, như thế nào ?” [54]. Kỳ Bá đáp : “Thần xin nói về bệnh biến thuộc ngũ tạng” [55]. Tâm mạch, khi cấp thậm gây thành chứng khiết tùng, khi vi cấp gây thành chứng Tâm thống, dẫn ra đến sau lưng, ăn không xuống [56]. Tâm mạch, khi hoãn thậm gây thành chứng cười như điên, khi vi hoãn gây thành chứng Phục lương, ở dưới Tâm, chạy lên chạy xuống, thường hay bị thổ huyết [57]. Tâm mạch, khi đại thậm gây thành chứng như có vật gì cứng chận ngang trong cổ họng, khi vi đại gây thành chứng Tâm tý, dẫn ra đến sau lưng, dễ chảy nước mắt [58]. Tâm mạch, khi tiểu thậm gây thành chứng dễ ói, khi vi tiểu gây thành chứng tiêu đơn [59]. Tâm mạch, khi hoạt thậm gây thành chứng Tâm sán, dẫn xuống đến rún, vùng tiểu phúc kêu [60]. Tâm mạch, khi sắc thậm gây thành chứng cảm, khi vi sắc gây thành chứng huyết tràn, chứng duy quyết, tai kêu và điên tật [61]. Phế mạch, khi cấp gây thành chứng điên tật, khi vi cấp gây thành chứng Phế hàn nhiệt, lười biếng, uể oải, ho, ói ra máu, dẫn đến vùng thắt lưng, lưng và ngực, trong mũi có mọc cục thịt làm cho mũi không thông [62]. Phế mạch, khi hoãn thậm gây thành chứng ra nhiều mồ hôi, khi vi hoãn gây thành chứng nuy lũ, thiên phong, từ đầu trở xuống mồ hôi ra không dứt [63]. Phế mạch, khi đại thậm gây thành chứng sưng thủng từ gót chân đến gối, khi vi đại gây thành chứng Phế tý dẫn đến vùng ngực và lưng, khi thức dậy sợ mặt trời [64]. Phế mạch, khi tiểu thậm gây thành chứng tiêu chảy, khi vi tiểu gây thành chứng tiêu đơn [65]. Phế mạch, khi hoạt thậm gây thành chứng tức bôn, thướng khí, khi vi hoạt gây thành chứng ra máu mũi miệng ở trên và ra máu ở tiểu và đại tiện [66]. Phế mạch, khi sắc thậm gây thành chứng ói ra máu, khi vi sắc gây thành chứng thử lũ ở khoảng cổ và dưới nách, đó là vì hạ khí không thắng được thượng khí, đưa đến kết quả là chân và gối bị mềm yếu vậy [67]. Can mạch, khi cấp thậm gây thành chứng nói xàm bậy bạ, khi vi cấp gây thành chứng phì khí, ở dưới sườn như cái ly úp xuống [68]. Can mạch, khi hoãn thậm gây thành chứng dễ ói, khi vi hoãn gây thành chứng thủy hà và tý [69], Can mạch, khi đại thậm gây thành chứng nội ung, dễ ói, chảy máu mũi, tai; khi vi đại gây thành chứng Can tý, chứng teo bộ sinh dục, khi ho sẽ đau dẫn đến tiểu phúc [70]. Can mạch, khi tiểu thậm gây thành chứng uống nhiều, khi vi tiểu gây thành chứng tiêu đơn [71]. Can mạch, khi hoạt thậm gây thành chứng đồi sán, khi vi hoạt gây thành chứng đái dầm [72]. Can mạch, khi sắc thậm gây thành chứng uống nhiều, khi vi sắc gây thành chứng khiết luyến, cân tý [73]. Tỳ mạch, khi cấp thậm gây thành chứng khiết túng, khi vi cấp gây thành chứng cách trung, ăn uống vào bị ói trở ra, hậu môn tiêu ra phân có bọt [74]. Tỳ mạch, khi hoãn thậm gây thành chứng nuy quyết, khi vi hoãn gây thành chứng phong nuy, tứ chi yếu, không co duỗi được, trong lúc đó Tâm lại bình thường như không có bệnh [75]. Tỳ mạch, khi đại thậm gây thành chứng bệnh như bị đánh sắp té xuống, khi vi đại gây thành chứng sán khí, bụng như ôm một cái gì to lớn, đó là mủ và máu ở bên ngoài Trường và Vị [76]. Tỳ mạch, khi tiểu thậm gây thành chứng hàn nhiệt, khi vi tiểu gây thành chứng tiêu đơn [77]. Tỳ mạch, khi hoạt thậm gây thành chứng đồi lung, khi vi hoạt gây thành chứng có trùng độc, loại hồi hạt, bụng bị nóng [78]. Tỳ mạch, khi sắc thậm gây thành chứng Trường đồi, khi vi sắc gây thành chứng nội đồi, đi tiểu ra nhiều mủ máu [79]. Thận mạch, khi cấp thậm gây thành chứng cốt điên tật, khi vi cấp gây thành chứng trầm quyết, chứng bôn đồn, chân không co duỗi được, không tiểu tiện và đại tiện được [80]. Thận mạch, khi hoãn thậm gây thành chứng đau muốn gãy lưng, khi vi hoãn gây thành chứng động, chứng động làm cho ăn không tiêu hóa, ăn xuống liền bị ói trở ra [81]. Thận mạch, khi đại thậm gây thành chứng âm nuy, khi vi đại gây thành chứng thạch thủy, khởi lên từ rún xuống đến tiểu phúc, có vẻ nặng nề, bên trên lên đến Vị hoãn, chết, không trị được [82]. Thận mạch, khi tiểu thậm gây thành chứng động tiết, khi vi tiểu gây thành chứng tiêu đơn [83]. Thận mạch, khi hoạt thậm gây thành chứng lung đồi, khi vi hoạt gây thành chứng cốt nuy, ngồi xuống không đứng lên được, đứng lên thì mắt sẽ không thấy gì cả [84]. Thận mạch, khi sắc thậm gây thành chứng đại ung, khi vi sắc gây thành chứng không có kinh nguyệt và chứng nội trĩ trầm trọng [85]. Hoàng đế hỏi: “Lục biến của bệnh, phải châm như thế nào ?” [86]. Kỳ Bá đáp : “Các mạch cấp thì nhiều hàn, các mạch hoãn thì nhiều nhiệt, các mạch đại thì nhiều khí, ít huyết, các mạch tiểu thì huyết và khí đều ít, các mạch hoạt thì Dương khí thịnh, hơi có nhiệt, các mạch sắc thì nhiều huyết, ít khí, hơi có hàn [87]. Cho nên, khi châm các mạch cấp phải châm sâu vào trong và lưu kim thật lâu[88]. Khi châm các mạch hoãn, phải châm cạn vào trong và rút kim ra thật nhanh, nhằm giải bớt nhiệt[89]. Khi châm các mạch đại phải châm tả khí thật nhẹ, đừng cho xuất huyết [90]. Khi châm các mạch hoạt phải châm bằng cách rút kim ra thật nhanh mà châm vào thì phải cạn, nhằm tả bớt Dương khí, giải bớt nhiệt khí[91]. Khi châm các mạch Sắc, phải châm cho đúng với mạch, phải tùy theo lẽ ‘nghịch và thuận’ mà lưu kim lâu [92] . Trước hết phải án huyệt, xoa, khi đã rút kim ra thì phải mau mau án ngay vào vết châm, nhằm mục đích làm cho huyết không xuất ra được, và cũng để làm cho mạch được hòa [93]. Khi gặp các mạch tiểu, đó là trường hợp mà Âm Dương, hình khí đều bất túc, đừng chọn huyệt để châm mà chỉ nên điều hòa khí huyết bằng cam dược” [94]. Hoàng Đế hỏi: “Ta nghe khí của ngũ tạng, lục phủ, chỗ nhập của huyệt Huỳnh và huyệt Du gọi là huyệt Hợp, vậy nó nhập theo con đường nào ?, nhập vào như thế nào để có sự liên hệ tương thông với nhau ?, Ta mong được nghe nguyên nhân đó” [95].. Kỳ Bá đáp : “Đây là trường hợp Dương mạch biệt nhập vào bên trong thuộc về phủ” [96]. Hoàng đế hỏi: “Huyệt Huỳnh, huyệt Du và huyệt Hợp, mỗi huyệt có định danh hay không ?” [97]. Kỳ Bá đáp : “Huyệt Vinh và huyệt Du trị ngoại kinh, huyệt Hợp trị nội phủ” [98]. Hoàng đế hỏi: “Trị nội phủ phải như thế nào ?” [99]. Kỳ Bá đáp : “Phải thủ huyệt Hợp” [100]. Hoàng đế hỏi: “Huyệt Hợp của Vị nhập vào huyệt Tam lý, huyệt Hợp của Đại trường nhập vào huyệt Cự hư Thượng liêm, huyệt Hợp của Tiểu trường nhập vào huyệt Cự hư hạ liêm, huyệt Hợp của Tam tiêu nhập vào huyệt Ủy Dương, huyệt Hợp của Bàng quang nhập vào huyệt Ủy trung ương, huyệt Hợp của Đởm nhập vào huyệt Dương Lăng tuyền” Phải thủ huyệt như thế nào?” [101]. Kỳ Bá đáp : “Thủ huyệt Tam lý phải buông thấp bàn chân xuống, thủ huyệt Cự hư phải đưa chân lên, thủ huyệt Ủy dương phải co và duỗi chân, thủ huyệt Ủy trung phải co (gối) lại, thủ huyệt Dương lăng tuyền phải ngồi ngay thẳng, co gối, buông thẳng chân, kéo xuống bên mép ngoài huyệt Ủy dương. Thủ các huyệt ngoại kinh, phải duỗi ra, đưa tay chân ra một cách thoải mái để thủ huyệt rồi theo đó mà trị liệu” [102]. Hoàng Đế nói: “Ta mong được nghe về bệnh của lục phủ” [103]. Kỳ Bá đáp : “Gương mặt nhiệt, đó là bệnh của kinh Túc Dương minh [104]. Chứng sung huyết nơi ngư lạc, đó là bệnh của kinh Thủ Dương minh [105]. Trên mu của 2 bàn chân mạch kiên mà hãm, đó là bệnh của kinh Túc Dương minh [106]. Đây là những chứng thuộc Vị mạch vậy [107]. Bệnh của Đại trường làm cho trong ruột đau quặn thắt và đồng thời sôi lên ồ ồ [108]. Nếu gặp mùa đông, bị trúng cảm bởi hàn khí thì sẽ bị chứng tiêu chảy, đau ngay ở phần rún, không thể đứng lâu được, cùng 1 chứng hậu với Vị, nên thủ huyệt Cự Hư Thượng Liêm để chữa trị [109]. Bệnh của Vị làm cho bụng trướng to lên, Vị hoãn sẽ đau thấu tới Tâm, chói lên trên vào 2 hông sườn, từ cách lên đến yết hầu không thông, ăn uống không xuống, nên thủ huyệt Tam lý để chữa trị [110]. Bệnh của Tiểu trường làm cho tiểu phúc đau, cột sống ở thắt lưng khống chế đến 2 hòn dái cũng bị đau nhức, lắm khi đau đến nỗi phải nghiêng ra phía sau mới chịu nổi, có khi trước tai bị nhiệt, có khi như thể là lạnh nhiều, hoặc như thể là mí mắt trên bị nhiệt nhiều, cho đến trong khoảng giữa ngón út và ngón áp út cũng bị nhiệt, như thể là mạch bị hãm, đó là những chứng bệnh hậu(của tiểu trường) vậy [111]. Bệnh của kinh Thủ Thái dương nên thủ huyệt Cự Hư Hạ Liêm [112]. Bệnh của Tam tiêu làm cho phúc khí bị đầy, tiểu phúc cứng hơn, không tiểu tiện được khiến cho người bệnh bị quẫn bách, khi nước nhiều quá, sẽ lưu giữ lại một chỗ làm thành chứng trướng [113]. Chứng hậu ở tại đại lạc bên ngoài kinh Túc Thái dương, đại lạc ở khoảng giữa kinh Thái dương và Thiếu dương, cũng hiện ra ở mạch, nên thủ huyệt Ủy Dương để trị [114]. Bệnh của Bàng quang là làm cho tiểu phúc bị sưng thủng mà đau, dùng tay để ấn lên tức thì làm cho bệnh nhân muốn đi tiểu mà không tiểu được, trên mi mắt bị nhiệt, như thể là mạch bị hãm, cho đến ngoài ngón chân út lên đến sau mắt cá và cẳng chân đều bị nhiệt. Nếu mạch bị hãm nên thủ huyệt Ủy Trung Ương để trị [115]. Bệnh của Đởm làm cho (bệnh nhân) dễ bị thở mạnh, miệng đắng, ói ra chất nhờn, dưới Tâm đập mạnh, hay lo sợ là có người sắp bắt lấy mình, trong cổ họng như có vật gì chận ngang và thường hay khạc nhổ (nước bọt) [116]. Ở huyệt gốc và ngọn của kinh Túc Thiếu dương, cũng có thấy được mạch bị hãm xuống, (trường hợp này) thích hợp với phép cứu [117]. Khi nào bị hàn nhiệt thì thủ huyệt Dương Lăng Tuyền” [118]. Hoàng Đế hỏi: “Phép châm này có phải theo một đường lối nào không ?” [119]. Kỳ Bá đáp: “Châm theo phép này ắt phải châm đúng khí huyệt, đừng châm trúng nhục tiết [120]. Nếu châm trúng khí huyệt thì mũi kim sẽ như đang đi chơi nơi con đường hẻm rộng, còn nếu châm trúng nhục tiết sẽ làm cho phần bì phu bị đau [121]. Phép bổ tả mà áp dụng nghịch nhau thì bệnh sẽ càng nặng [122]. Nếu châm trúng cân (gân) sẽ làm cho cân bị hoãn (lơi lỏng), tà khí không xuất ra được, do đó nó sẽ đánh nhau với chân khí tạo thành cuộc hỗn loạn và không chịu ra đi, quay ngược vào trong để rồi lớn dần ra [123]. Người dụng châm nếu không thẩm sát cho kỹ, đó là họ đã biến thuận thành nghịch rồi vậy” [124]
-
Các độc giả kính mến! Dưới đây là Rubi cập nhật nguồn ảnh chất lượng cao, nội dung không có chỉnh lý gì mới. II_Tổng hợp Âm Dương Ngũ Hành nghịch lý (xấu) của Cấu Trúc Địa Chi ----------------------- Đồ hình tổng hợp Địa Chi nghịch lý (Xấu) ----------------------- -Địa Chi Nhị Xung. (trong sách gọi là Địa Chi Lục Xung) -Địa Chi Tứ Hình Xung. -Địa Chi Tương Hại. -Địa Chi Tương Phá. -Địa Chi Tuế Tinh. -Địa Chi Địa Đới. 1_Địa Chi Nhị Xung 12 Địa Chi chia thành 6 cặp, mỗi cặp là 2 Địa Chi có quan hệ nghịch lý (xấu) ----------------------- Đồ hình Địa Chi Nhị Xung (Xấu) ----------------------- -Tý, Ngọ xung. -Sửu, Mùi xung. -Dần, Thân xung. -Mão, Dậu xung. -Thìn, Tuất xung. -Tỵ, Hợi xung. 2_Địa Chi Tứ Hình Xung Trong 12 Địa Chi chia thành 3 nhóm. Mỗi nhóm gồm 4 Địa Chi, là môi trường mà trong đó có 2 cặp Địa Chi, mỗi cặp là 2 Địa Chi có quan hệ nghịch lý (xấu). (cũng giống như Địa Chi Nhị Xung) ----------------------- Đồ hình Địa Chi Tứ Hình Xung (Xấu) ----------------------- -Tý, Ngọ, Mão, Dậu: Tý, Ngọ hình xung. Mão, Dậu hình xung. -Thìn, Tuất, Sửu, Mùi: -Sửu, Mùi hình xung. Thìn, Tuất hình xung. -Dần, Thân, Tỵ, Hợi: Dần, Thân hình xung. Tỵ, Hợi hình xung. 3_Địa Chi Tương Hại Trong 12 Địa Chi chia thành 6 nhóm, mỗi nhóm là 2 Địa Chi có quan hệ nghịch lý (xấu). ----------------------- Đồ hình Địa Chi Tương Hại (Xấu) ----------------------- -Tuất, Dậu hại. -Hợi, Thân hại -Tý, Mùi hại. -Sửu, Ngọ hại. -Dần, Tỵ hại. -Mão, Thìn hại. 4_Địa Chi Tương Phá Trong 12 Địa Chi chia thành 6 nhóm, mỗi nhóm là 2 Địa Chi có quan hệ nghịch lý (xấu). ----------------------- Đồ hình Địa Chi Tương Phá (Xấu) ----------------------- -Tý, Dậu phá. -Ngọ, Mão phá. -Dần, Hợi phá. -Thân, Tỵ phá. -Thìn, Sửu phá. -Tuất, Mùi phá. 5_Địa Chi Tuế Tinh Trong 12 Địa Chi chia thành 6 nhóm, mỗi nhóm là 2 Địa Chi có quan hệ nghịch lý (xấu). ----------------------- Đồ hình Địa Chi Tuế Tinh (Xấu) ----------------------- -Tý, Mão tinh. -Ngọ, Dậu tinh. -Dần, Tỵ tinh. -Thân, Hợi tinh. -Thìn, Mùi tinh. -Tuất,Sửu tinh. 6_Địa Chi Địa Đới Trong 12 Địa Chi chia thành 6 nhóm, mỗi nhóm là 2 Địa Chi có quan hệ nghịch lý (xấu). ----------------------- Đồ hình Địa Chi Địa Đới (Xấu) ----------------------- -Tý, Dần đới. -Ngọ, Thân đới. -Mão, Sửu đới. -Dậu, Mùi đới. -Tỵ, Tuất đới. -Hợi, Thìn đới. Ghi chú: Nội dung phần II này còn thiếu phần Địa Chi Tương Hình.
-
Các độc giả kính mến! Dưới đây là Rubi cập nhật nguồn ảnh chất lượng cao, nội dung không có chỉnh lý gì mới. -Ghi chú: Bài viết này Rubi tham khảo trong các tài liệu sau: I_Tổng hợp Âm Dương Ngũ Hành thuận lý (tốt) của Cấu Trúc Địa Chi -Địa Chi Tam Hợp (*) -Địa Chi Tam Hội (*) -Địa Chi Kiểm Hợp (**) -Địa Chi Nhị Hợp (*) -Địa Chi Đức Hợp (**) II_Tổng hợp Âm Dương Ngũ Hành nghịch lý (xấu) của Cấu Trúc Địa Chi -Địa Chi Nhị Xung (*) -Địa Chi Tứ Hình Xung (**) -Địa Chi Tương Hại (*) -Địa Chi Tương Phá (*) -Địa Chi Tuế Tinh (**) -Địa Chi Địa Đới (**) (*) Tham khảo trong sách Can Chi Thông Luận (Nguyễn Ngọc Hải Biên Soạn, NXB Văn Hoá Thông Tin) (**) Tham khảo trong websize quangduc.com: Linh 1 Link 2 I_Tổng hợp Âm Dương Ngũ Hành thuận lý (tốt) của Cấu Trúc Địa Chi ----------------------- Đồ hình tổng hợp Địa Chi thuận lý (Tốt) ----------------------- -Địa Chi Tam Hợp. -Địa Chi Tam Hội. (trong sách gọi là Tương Hội) -Địa Chi Kiểm Hợp. (trong websize gọi là Tứ Kiểm Hợp) -Địa Chi Nhị Hợp. (trong sách gọi là Địa Chi Lục Hợp) -Địa Chi Đức Hợp. (trong websize gọi là Chi Đức Hợp) 1_Địa Chi Tam Hợp 12 Địa Chi chia ra 4 nhóm, mỗi nhóm là 3 đối tượng (không liền kề theo thứ tự 12 Địa Chi) có sự quan hệ thuận lý (tốt) theo luật Âm Dương Ngũ Hành Tương Sinh. ----------------------- Đồ hình Địa Chi Tam Hợp (Tốt) ----------------------- -Tỵ, Dậu, Sửu gọi là Tam Hợp Kim Cục. -Dần, Ngọ, Tuất gọi là Tam Hợp Hoả Cục. -Thân, Tý, Thìn gọi là Tam Hợp Thuỷ Cục. -Hợi, Mão, Mùi gọi là Tam Hợp Mộc Cục. Trong đó, mỗi nhóm Tam Hợp Cục lại chia chi tiết ra Tiền Bán Hợp và Hậu Bán Hợp. Tiền Bán Hợp là trong mỗi Tam Hợp Cục có 2 Địa Chi quan hệ thuận lý như sau: -Tỵ, Dậu gọi là Tiền Bán Tam Hợp Kim Cục. -Dần, Ngọ là Tiền Bán Tam Hợp Hoả Cục. -Thân, Tý là Tiền Bán Tam Hợp Thuỷ Cục. -Hợi, Mão là Tiền Bán Hợp Mộc Cục. Hậu Bán Hợp là trong mỗi Tam Hợp Cục có 2 Địa Chi quan hệ thuận lý như sau: -Dậu, Sửu gọi là Hậu Bán Tam Hợp Kim Cục. -Ngọ, Tuất gọi là Hậu Bán Tam Hợp Hoả Cục. -Tý, Thìn gọi là Hậu Bán Tam Hợp Thuỷ Cục. -Mão, Mùi gọi là Hậu Bán Tam Hợp Mộc Cục. 2_Địa Chi Tam Hội 12 Địa Chi chia ra 4 nhóm, mỗi nhóm là 3 đối tượng (liền kề nhau theo thứ tự 12 Địa Chi) có sự quan hệ thuận lý (tốt) theo luật sinh khí Âm Dương. ----------------------- Đồ hình Địa Chi Tam Hội (Tốt) ----------------------- -Thân, Dậu, Tuất gọi là Tam Hội Kim Cục. -Tỵ, Ngọ, Mùi gọi là Tam Hội Hoả Cục. -Hợi, Tý, Sửu gọi là Tam Hội Thuỷ Cục. -Dần, Mão, Thìn gọi là Tam Hội Mộc Cục. 3_Địa Chi Kiểm Hợp (Tứ Kiểm Hợp) Trong 12 Địa Chi, có 8 Địa Chi chia thành 4 nhóm, mỗi nhóm là 2 Địa Chi có quan hệ thuận lý (tốt) ----------------------- Đồ hình Địa Chi Kiểm Hợp (Tốt) ----------------------- -Hợi hợp Sửu. -Dần hợp Thìn. -Tỵ hợp Mùi. -Thân hợp Tuất. 4_Địa Chi Nhị Hợp Trong 12 Địa Chi chia thành 6 nhóm, mỗi nhóm là 2 Địa Chi có quan hệ thuận lý (tốt) ----------------------- Đồ hình Địa Chi Nhị Hợp (Tốt) ----------------------- -Tý hợp Sửu hoá Thổ. -Dần hợp Hợi hoá Mộc. -Mão hợp Tuất hoá Hoả. -Thìn hợp Dậu hoá Kim. -Tỵ hợp Thân hoá Thuỷ. -Ngọ hợp Mùi hoá Nhật Nguyệt. 5_Địa Chi Đức Hợp (Chi Đức Hợp) Trong 12 Địa Chi chia thành 6 nhóm, mỗi nhóm là 2 Địa Chi có quan hệ thuận lý (tốt) ----------------------- Đồ hình Địa Chi Đức Hợp (Tốt) ----------------------- -Hợi hợp Ngọ. -Tý hợp Tỵ. -Sửu hợp Thân. -Dần hợp Mùi. -Mão hợp Tuất. -Thìn hợp Dậu.
-
Chị Nắng soi soi chiếu chiếu :) rất đúng chỗ. Rubi có xem nhưng không nhớ ra topic này không thì cũng cập nhật nội dung ở đây.
-
Các độc giả kính mến, lâu lắm mới đi "soi" đường phố Hà Nội, đúng dịp lễ hội phố hoa Rubi lại chủ động cầm chiếc máy ảnh theo. Xuất phát từ nhà, qua đến Thư Viện Quốc Gia, qua tiếp đền thờ Vua Lê rồi vòng qua Đinh Tiên Hoàng xem lễ hội phố hoa. Mời các lữ khách đợi thêm giây lát xem phóng sự ảnh này. Thực hiện: Rubi độc hành.
-
Các độc giả thân mến! Tiếp theo, Rubi đăng thêm một vài hình ảnh chụp ở một vài nơi như Bảo Tàng Mỹ Thuật, Văn Miếu Quốc Tử Giám, Bảo Tàng Lịch Sử. Phật Vô Lượng Thọ Quang (Bức tượng này rất giống bức tượng có ở chùa Bút Tháp-Bắc Ninh) Phật Vô Lượng Thọ Quang Phật Vô Lượng Thọ Quang Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Tự Tại Bồ Tát Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Tự Tại Bồ Tát. Bức tượng này cũng giống y bức tượng ở chùa Bút Tháp, nhưng nghe nói có bốn chú tiểu đồng nâng Đài sen, khi vào Bảo tàng thì Rubi mới thấy bức tượng ở đây đúng với lời đồn như vậy.còn tiếp
-
Các độc giả thân mến! Sau đây là sự minh họa của Rubi đối với sự chỉnh lý Lục Thập Hoa Giáp thành Lạc Thư Hoa Giáp, sự chỉnh lý này do Nhà nghiên cứu Thiên Sứ-Nguyễn Vũ Tuấn Anh thực hiện. Bảng Lạc Thư Hoa Giáp-Kỷ I Bảng Lạc Thư Hoa Giáp-Kỷ II
-
Các độc giả kính mến!Ở trên là sự minh họa Thập Thiên Can tương tác, còn dưới đây là sự chỉnh lý tính chất Âm dương của Thập Thiên Can. Sự chỉnh lý này căn cứ trên một vài hiện tượng liên quan: -Nạp Thập Thiên Can vào Hà Đồ theo nguyên tắc tương ứng Âm dương Ngũ hành tương sinh. -Quan trọng, điểm mạnh của vấn đề chính lý này căn cứ vào sự chỉnh lý của Rubi ở Hệ Thống Thời Châm Tý Ngọ Lưu Chú. Tổng hợp hợp khắc Thập Thiên Can Thập Thiên Can tương tác hợp hoá-tốt Thiên Can Hóa Hợp: Giáp hợp Kỹ hóa Thổ... Ất hợp Canh hóa Kim... Bính hợp Tân hóa Thuỷ... Đinh hợp Nhâm hóa Mộc... Mậu hợp Quý hóa Hoả... Thập Thiên Can tương tác hợp thể-tốt Thập Thiên Can tương tác xung phá-xấu Giáp xung Mậu Ất xung Kỷ Bính xung Canh Đinh xung Tân Mậu xung Nhâm Kỷ xung Quý Canh xung Giáp Tân xung Ất Nhâm xung Bính Quý xung Đinh. Đặc tính hình Các tập tin này có chứa thông tin về nó. Hướng: Thường Phân giải theo bề ngang: 72 dpi Phân giải theo chiều cao: 72 dpi Phần mềm đã dùng: Adobe Photoshop CS4 Windows Ngày giờ sửa tập tin: 12:12, ngày 12 tháng 1 năm 2010 (thông tin này do máy tính báo) Không gian màu: sRGB Miêu tả Tác giả chỉnh lý và minh hoạ: Lê Đức Hồng-Rubi_lyhocdongphuong.org.vn Phiên bản: Đây là phiên bản chỉnh lý đầu tiên. Trang nguồn: vi.wikipedia.org Trang đích: lyhocdongphuong.org.vn
-
Rubi có ý phụ hoạ cho bài thơ chúc mừng sinh nhật anh Phạm Cương này, nhưng mà thấy nên đổi khổ trên xuống khổ dưới. Khổ thơ trên thì chúc cho đời hiện tại, khổ thơ dưới thì chúc cho đời vị lai, đó gọi là chúc tiến. Vâỵ thì Rubi phụ hoạ cho khổ thơ dưới nhé: Chúc mừng Sinh Nhật Đường Tăng! Chúc thày mãi đẹp như Giăng trên trời Chúc thày luôn nở nụ cười Như hoa, như ngọc cho người say mê. (Nông trường viên Ha_ji chấp bút)
-
Chị Rin86 và các độc giả thân mến!Các ý kiến đưa ra của Phan Nguyễn La Sơn Cửu Tử phản biện có chút ngoại đạo với vấn đề. Lưỡng Long Triều Châu là một biểu trưng cho Đại Huyệt, Đại Huyệt là chỗ giao nhau của các Long Mạch hay Kinh Mạch. Có thể ví Lưỡng Long Triều Châu với một chiếc khăn quấn thành dây và thắt thành một nút ở chính giữa. Hình tượng Lưỡng Long Triều Châu cũng là một thế Ấn (bắt ấn) Nhất Nguyên để Nhất Niệm Thụ Đắc, Thụ Đắc Âm khí thì gọi là Thái Âm Công, Thụ Khí của Mặt Trăng, Thụ Đắc Dương khí thì gọi là Thái Dương Công, Thụ Khí của Mặt Trời. Cũng thể mà việc Lưỡng Long Thăng/Giáng đều có triết lý của nó. Lưỡng Long Triều Châu như vậy cũng là Chắp Tay Thụ Khí tại Huyệt Trung Xung. Từ đó mà thấy, việc coi Lưỡng Long bị âm chế là một suy luận ngoại đạo vấn đề. Ấn Nhất Nguyên lại suy ra là Rồng bị thuần phục cũng rất ngoại đạo vấn đề, nói chung rất nhiều ý mà tác giả phản biện nghiêng về chủ quan hạn hẹp. ..
-
Anh Phạm Cương thân mến, mừng sinh nhật anh, Rubi có món quà chúc anh bước sang tuổi mới hạnh phúc và thành công. Quà mừng sinh nhật anh Phạm Cương ******************************* Một bản sao 3.0 Lý học Đông y Chị Nắng thân mến! Mừng sinh nhật anh Phạm Cương, Rubi và Nắng cùng Lớp học gói chung quà mừng nhể :) .
-
Chị Rin86 thân mến!Xem lại câu hỏi đầu này của chị, Rubi thấy cũng có thể đối thoại vài ý. -"ý nghĩa của hình ảnh hai con rồng chầu trước mặt trời trên mái nhà người Việt là gì? Tại sao người Trung QUốc khi sao chép lại kiến trúc của người Việt lại không copy lại hình ảnh đó? Và Nguyễn An khi thiết kế Thiên An Môn cho người Trung Quốc cũng không làm hai con rồng chầu trước mặt trời trên mái nhà cho họ?" +1_ Ngôi nhà thì có trên và dưới, dưới là ứng với Địa, trên ứng với Thiên, trong nhà để ở ứng với Nhân (Chủ Nhân). So sánh một Ngôi Nhà và một Lư Hương, thấy có sự bố cục phù điều tương đồng với nhau. Tức là ở trên thì có Long và Phượng ứng với Trời, thụ đắc Thiên Khí; ở dưới thì có Lân và Quy ứng với Đất, thụ đắc Địa Khí. Dựa trên bố cục căn bản đó, sau đó thì có thế có một số sự sử lý bố cục có chút khác nhau giữa Ngôi nhà và Lư hương. +2_ Thụ đắc Thiên Khí và Địa Khí là để làm gì đây ? Để luyện Đan, luyện Thánh thai (mậm vàng, mây trắng, xá nữ, anh nhi), để sinh ra Nhân tài, để Nhân tài bất lão và thượng thọ. Như vậy thì Lưỡng Long Triều Châu mang ý nghĩa trường tồn, thánh địa sinh khí trường tồn, địa linh lại sinh nhân kiệt. Ví như loài Rồng, tu luyện Khí Huyết, luyện đã thành kim đan, kim đan đã luyện thành thì thân xác cải lão hoàn đồng, trường sinh bất tử. Lư Hương tại tầng hầm-Bảo tàng Mỹ thuật Tứ linh, thiên địa, trên dưới, tròn vuông. Ở chùa, cũng có khi người ta cho vàng vào lư hương để tụ linh khí +3_ Thiên An Môn không có hình tượng này, vậy phải chăng là có ý lấy đỉ biểu tượng trường tồn. Thân mến!
-
Chị Rin86 thân mến!Vấn đề này cũng đáng bàn đối với nhiều người, một người đưa ra thì chắc cũng có nhiều người ý kiến. Mỗi người có một cái thấy khác nhau và cho ra ý kiến khác nhau. Trước khi đưa ra ý kiến thì Rubi minh họa đối tượng bị thấy: Giả thuyết nguyên lý hình tượng Lưỡng Long Triều Nguyệt Thấy rồi nói thì nội dung nói đúng hay sai sẽ tùy thuộc vào đối tượng bị thấy. Nếu đối tượng bị thấy xác định đúng thì nội dung nói cũng có triển vọng đúng, nếu đối tượng thấy mà nó không phải là căn bản trực tiếp của vấn đề thì nội dung nói ra sẽ bị lệch hướng, cho dù các ý nói ra ấy có sự logic của riêng nó.
-
Chị Bảo Bình kính mến!Nếu tất cả là tâm linh thì chị đang chứng nghiệm nó đó ạ, Chánh Báo và Y Báo đầy đủ phước đức của chị đó ạ. Chánh Báo là thân tâm sắc diện, Y Báo là gia đình, là bạn bè, là nhà cửa, và điều kiện sinh hoạt. Và đó cũng là chị thể nhập vào cái mà chị bị thuyết phục, chứ đâu phải chỉ thuyết phục những cái bên ngoài không liên quan đến chị. Thực tế chị cũng đang chứng kiến một chuyện tâm linh rất đáng bị thuyết phục, đó là diệu dụng của Chú Đại Bi khiến cho chị được 15 sự tương ứng tốt lành và tránh được 15 sự tương ứng không tốt lành, đúng theo bản nguyện trong Kinh Ngàn Tay Ngàn Mắt. Sự bình tâm nơi con người mà Phật pháp dạy, khi cần có thể sự bình tâm này là phương thuốc đặc trị cho những người tu theo ngoại đạo đang thật sự bị tẩu hỏa nhập ma, tẩu hỏa nhập ma thật sự thì người đó thân thể cảm thấy nóng bức chỉ muốn thoát Y và nhúng mình trong nước, lại nhìn vật gì thì thấy cái đó biến thành những thứ mà người bình thướng không thấy như vậy, lại có sức mạnh gấp mấy lần khi bình thường. Sự bình tâm sẽ phát huy ngưỡng chịu đựng để điều phục sự bức bách của hiện tượng tẩu hỏa nhập ma, đấy chính là điều đáng bị thuyết phục đó chị, theo Rubi em là vậy. Sự bình tâm này, theo Rubi em, nó cũng có công đức cầu siêu cho người âm, cầu an cho người dương. Nếu mà chị đã tự cầu an thì làm sao có thể thấy được cái gì khác lạ làm cho chị bị thuyết phục, mà sự thuyết phúc đó không có tác dụng cho chị, :) . Đó là Rubi em chỉ ra cho chị thấy cái mà chị đang bị thuyết phục mà chị chưa nhận ra nó, còn chị muốn thấy thêm những cái bị thuyết phục khác thì đúng là phải đợi duyên ạ, ;) .
-
Chú Sapa kính mến!Đây là đối thoại của chú với chú Thiên Sứ, nhưng Rubi cháu thấy có nhắc đến nick Rubi. Các vấn đề khác thì cháu không nói đến, nhưng có một cảm nhận của Rubi cháu thế này: -Giả thiết một phát kiến chỉnh lý bất kỳ của một cá nhân nào đồng thời giả thiết đó được đánh giá có triển vọng theo hướng đi đúng. Song một hướng đi đúng, bao giờ nó cũng chưa đạt đến sự tuyệt đối ngay được. Nhưng sở dĩ cái đúng chưa đạt được cái tuyệt đối, cái hoàn thiện toàn hệ thống là vì nó còn phải phụ thuộc vào những cái sai, mà, mà cái sai ấy đang đượng coi là đúng. Cái sai mà từ trước đến nay được coi là đúng thì Rubi cháu cảm nhận nó như một thứ keo cao cấp, còn cái phát kiến chỉnh lý được coi có triển vọng thì Rubi cháu cảm nhận nó như là da thịt. Sự kiện ở đây là keo và da thịt đang dính vào với nhau, và sự kiện một lúc mà tẩy sạch được loại keo cao cấp ấy hoàn toàn không dễ. Lại có thể nói, mặc dù đã nhìn ra đâu là keo đâu là da thịt thì cũng vẫn phải mang cái sự dính mắc ấy thôi, và việc bóc tách tẩy rửa là phải có thời gian. Đó là sự cảm nhận và hình dung của Rubi cháu về vấn đề tranh luận phản biện phát kiến chỉnh lý vấn đề. Kính mến!