phoenix

Hội Viên Ưu Tú
  • Số nội dung

    1.107
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    2

Everything posted by phoenix

  1. Bãi đá cổ Nấm Dẩn được xếp hạng Di tích Quốc gia khảo cổ Nguồn: http://www.dangcongsan.vn (ĐCSVN) - Huyện Xín Mần (Hà Giang) vừa tổ chức Lễ đón nhận Bằng xếp hạng Di tích Quốc gia khảo cổ Bãi đá cổ xã Nấm Dẩn. Bãi đá cổ xã Nấm Dẩn được phát hiện ở 5 điểm thuộc xã Nấm Dẩn, có tổng cộng 79 hình khắc đá có ký tự khác nhau của người tiền sử, được Viện Khảo cổ học Việt Nam xác định có từ khoảng 2000 năm trước. Trên đá có nhiều hình chạm khắc với các họa tiết đáng chú ý như: hình tròn, hình bàn tay, bàn chân, hình khắc sinh thực khí, hình người... Theo các nhà khảo cổ, các ký tự được khắc chạm tại Bãi đá cổ Nấm Dẩn có nhiều nét tương đồng với Bãi đá cổ Sa Pa cách đây 2000 năm tuổi, rất có ý nghĩa trong quá trình nghiên cứu, xác định nguồn gốc văn hóa của người Việt cổ. * Rất tiếc chưa Upload được cái ảnh rõ lên_Phoenix.
  2. Giới thiệu bài tầm cùng chủ đề. Nguồn: http://209.85.175.104/search?q=cache:wOES8TWSyb8J:blog.360.yahoo.com/blog-eW8Oa5Mhc6dsmmhZRe7XwJ0U%3Fp%3D165+%22cao+bi%E1%BB%81n%22&hl=en&ct=clnk&cd=13 Cao Bien tran yem long mach Viet Nam VỀ VỤ TRẤN YỂM TẠI SÔNG TÔ LỊCH Hiện tượng trấn yểm sông Tô Lịch gây xôn xao dư luận của Hà Nội và cả nước về những kỳ bí đang xẩy ra vào đầu thế kỷ 21 - Khi mà KHKT đang phát triển như vũ bão. Tóm lược sự việc như sau :Vào ngày 27/9/2001, đội thi công số 12 -Thuộc Công ty xây dựng VIC ,trong khi nạo vét sông Tô Lịch,thuộc địa phận làng An Phú - Phường Nghĩa Đô - Quận Cầu giấy - HÀ NỘI đã phát hiện được di vật cổ rất lạ và huyền bí. Đó là 7 cây gỗ được chôn đứng dưới lòng sông, tạo thành một đa giác đều,tại đó có các bộ hài cốt bị đóng đinh bả vai, táng giữa các cọc gỗ đó. Ngoài ra còn phát hiện được tấm gỗ Vàng tâm có hình Bát quái, một số đồ Gốm, xương Voi, Ngựa, dao, tiền đồng. Sau khi đã rút những cọc gỗ đó lên, lấy các bộ hài cốt đem lên Bát Bạt -Hà tây ( là nơi nghĩa trang chôn cất chung của TP.Hà nội ), thấy có rất nhiều hiện tượng kỳ lạ xẩy ra. Nào là các việc chuẩn bị tiến hành thi công bị rối tung lên, máy xúc KOMATSU tự nhiên lao xuống sông;. Nào là một số người đang làm việc tự nhiên ngã lăn ra đất, chân tay co rúm, cứng đờ, lưỡi thè ra ngoài và trở nên hoàn toàn mất tư thức trong nhiều giờ;. Địa tầng của cả khu vực thi công tự nhiên biến đổi, không giống như khảo sát ban đầu; Thử đưa la bàn vào khu vực đó thấy kim la bàn quay tít. Một năm sau sự việc trên,có hàng loạt sự kiên ngẫu nhiên xẩy ra ,gây kinh hoàng cho toàn đội xây dựng số 12,là đội đă trực tiếp thi công khu vực trên. Bản thân, gia đình, anh em của những người công nhân trực tiếp ngụp lặn vớt hài cốt, nhổ cọc đóng dưới lòng sông liên tục bị các tai nạn thảm khốc như chết, bệnh tật, tai nạn. Sự việc lên đến đỉnh cao khi có tới 43 người thợ bỏ không dám tiếp tục làm việc tại công trường nữa. Trong số đó nhiều người không nói rõ lý do, cũng không đòi hỏi vật chất mà đáng ra họ được hưởng. Ngày 9/10/2001 những người thợ đã mời một thày theo đạo Tứ phủ đến giải thích, theo nhận định của Thày thì đây là một đạo Bùa Bát quái trận đồ được chôn yểm lâu đời để trấn yểm Long mạch của khu vực này. Sau đó các công nhân lại tiếp tục mời Thượng tọa Thích Viên Thành tới. Thượng tọa Thích Viên Thành đã cho 5 đệ tử lập đàn tràng, làm lễ Hàn lại Long mạch: Chỉ hơn 1 tháng sau, Thượng tọa Thích Viên Thành đã bị bệnh chết. Các nhà khoa học đã có những đánh giá sơ bộ, song cho đến nay vẫn chưa có kết luận nào khả dĩ có thể lý giải và khắc phục các sự việc trên. Giáo sư Trần Quốc Vượng có kết luận như sau :" Trước đây, cổng Hoàng thành ngoài lính còn có Thần chấn giữ 4 cửa (Thăng Long Tứ trấn ) và có yểm bùa hay còn làm lễ Hiến Sinh. Như vậy đây là cổng thành phía Tây của La thành. Thông qua tính tương đối thống nhất giữa niên đại của Tiền và đa số đồ gốm cho thấy niên đại của địa điểm này trong khoảng thế kỷ 11 cho đến 14, thuộc vào thời Lý -Trần Việt Nam hay thời Tống của Trung Quốc. Sự trùng hợp ngẫu nhiên giữa hiện tượng sông Tô bị lở do đổi dòng và mắt nhà Vua bị đau, đã tạo ra một lễ trấn yểm, trong đó có những bộ xương người cùng những hiện vật khác chăng. ( Ở đây GS Trần Quốc Vượng muốn nhắc đến sự tích Ông Dầu bà Dầu trong chuyện cổ tích Việt nam - Người viết ). Đó là một phần của những gì đã đăng tải trên tờ báo. Gần đây, một người bạn của tác giả có cho biết : Đài truyền hình có phát tin người ta đã chuẩn bị khôi phục lại hiên trạng di vật như lúc ban đầu . Người viết bài này lại có ý kiến khác hẳn: Theo thiển ý của người viết, đây là một hiện tượng chấn yểm nhằm cắt và bế Long Mạch, chận đường của Khí. Ai đã chấn yểm vị trí này và mục đích sự chấn yểm này để làm gì ?. Theo thiển ý của người viết : Đây là tác phẩm của Cao Biền, Tiết độ sứ của TQ vào thế kỷ 8 -Tức là trước thời nhà Lý khoảng 200 năm. Người viết xin được chứng minh như sau : Trước hết nói về ý kiến của GS Trần Quốc Vượng; người viết cũng đồng ý rằng đây là một sự chấn yểm sông Tô lịch, song không chỉ căn cứ vào niên đại của một số đồ gốm nhặt được mà cho rằng sự việc xẩy ra vào thời Lý - Trần. Nếu theo Truyền thuyết " Tại sao sông Tô lịch và sông Thiên Phù hẹp lại " hay truyền thuyết " sự tích Ông Dầu bà Dầu ", tác giả của sự việc trên là các vị Vua nhà Lý, nhằm trấn yểm sự Báo thù của Ông bà Dầu, thì không có sự việc sông Tô Lịch và Thiên Phù cứ ngày càng hẹp lại,đến nay chỉ còn là một con sông nhỏ xíu, làm nhiệm vụ thải nước bẩn cho Hà Nội. Ta nhớ rằng theo sử sách sông Tô lịch ngày xưa rất rộng, trên bến, dưới thuyền, là trục Giao thông chính thủa ấy. Mặt khác thời Lý Trần có rất nhiều nhà Phong Thủy Việt nam tài giỏi như : Thiền sư Định không làng Cổ pháp (Sư thọ 79 tuổi -Năm Bính tư 808 ), Sư La chân Nhân (852 -936 ), Sư Vạn Hạnh.. Dĩ nhiên các vị sư đó không thể nào để cho các Vua Lý chấn yểm sông Tô Lịch và Thiên Phù, để đến nỗi sông Tô Lịch và Thiên Phù cứ ngày càng hẹp lại và Ngôi báu Vua Lý chẳng bao lâu về tay nhà Trần. Dòng họ Lý bị tuyệt diệt đến nỗi chỉ có người nào đổi qua họ Nguyễn mới thoát khỏi. Bây giờ ta xét sự việc dưới một góc độ khác qua các sự kiện Lịch sử và các truyền thuyết còn lưu lại trong dân gian. Theo Việt sử lược : Thành Đại La được xây dựng vào thế kỷ 7 có tên là Tống Bình. Năm thứ 2 niên hiệu Trường khánh (Nhâm Dần -822 ), Vua Mục Tông nhà Đường dùng Nguyên Hỷ làm quan đô hộ. Nguyên Hỷ thấy cửa thành có dòng nước ngược sợ rằng dân ở thành có ý đồ phản nghịch, liền sai Thầy bói gieo 1 quẻ. Thầy bói nói rằng : Sức ông không đủ để bồi đắp thành lớn, 50 năm sau, có một người họ Cao đóng đô tại đây mà xây dựng Vương phủ . Tới đời vua Đường Y Tôn (841 -873 ), Cao Biền được cử sang đất Việt làm Tiết Độ sứ. Cao Biền là một con người đa hiệu: Vừa là một vị Tướng,vừa là một nhà Phù thủy, một Đạo sĩ, cũng là một nhà Phong thủy có tài. La Thành được Cao Biền sửa chữa, chỉnh đốn lại cho hợp Phong Thủy vào các năm : 866, 867, 868. Theo truyền thuyết, khi Cao Biền xây dựng lại thành Đại La, thì khu vực thi công có hiện tượng sụp lở đất. Cao Biền liền tiến hành chấn yểm Thần sông Tô lịch và một số điểm khác như đền thờ Thần Bạch mã, núi Tản Viên. Sau đó công viêc xây dựng mới có thể hoàn tất. Tới đây, ta nhớ lại một truyền thuyết khác của dân tộc Việt nam. Đó là " Truyền thuyết Thành Cổ Loa " Tương truyền rằng khi xây dựng thành Cổ loa, An Dương Vương cũng xây mãi mà thành vẫn bị đổ. Khi đó Rùa Thần hiện ra chỉ cách cho xây và cho một cái móng chân, lúc đó thành Cổ loa mới có thể xây dựng xong". Về mặt địa lý, La thành và Thành Cổ loa cách nhau không xa ( Theo đường chim bay chỉ vài chục km ). Tới đây, ta buộc phải tự đặt câu hỏi : Có sự trùng hợp giữa hiện tượng sụp đất của Thành Cổ loa, sự sụp đất của thành Đại la và sự sụp lở đất không thể khắc phục được trên công trình nạo vét sông Tô Lịch ?. Qua hai truyền thuyết trên, bỏ qua các sự việc có tính chất dị đoan, chúng ta phải chấp nhận một sự thực là: Vùng đất từ đầu nguồn sông Tô Lịch kéo dài đến Cổ Loa - Đông Anh HÀ NỘI là một vùng đất có địa tầng địa chất không ổn định. Ta cũng cần phải nhớ rằng : Núi Tản viên nằm ở hướng Tây Hà Nội. Mặt khác phía Tây và Tây Bắc của La Thành là một vùng núi non trùng điệp của các tỉnh HÒA BÌNH, SƠN LA, LAI CHÂU...Theo định nghĩa của môn Phong Thủy, Long Mạch xuất phát từ những rặng núi cao. Núi mà từ đó khởi nguồn Long mạch gọi là Tổ sơn. Ngoài ra Long mạch còn xuất phát từ những khu vực khác gọi là Thiếu sơn. Ta cũng biết rằng thiên khí từ trên trời luôn có tính chất giáng xuống, các đỉnh núi cao là những antena tiếp thu sinh khí. Từ những sự việc trên, ta cảm nhận được rằng có một Long mạch rất lớn bắt nguồn từ núi Tản Viên và các rặng núi phía Tây, Tây bắc của Thành Đại la kéo dài qua thành Đại La theo dọc sông Tô Lịch (khí thường đi theo nước ), chạy qua khu vực Hồ Tây bây giờ (Hồ Tây trước kia là một khúc của dòng sông Hồng ), sau đó sang tới tận địa phận Cổ Loa -Đông Anh - HÀ NỘI và còn theo hướng Đông, Đông Bắc đi tiếp . Chính vì có Long mạch này mà Cao Biền phải vô cùng bận tâm, khổ trí nhằm tiêu diệt hoặc chấn yểm. Có rất nhiều tryền thuyết về Cao Biền liên quan đến các khu vực khác nhau của Long mạch này. Ta có thể kể ra đây những hoạt động của Cao Biền liên quan đến các khu vực của Long mạch này : Đầu tiên là truyền thuyết Cao Biềnchấn yểm núi Tản Viên, hắn đã sử dụng đến 8 vạn cái tháp bằng đất nung để chấn yểm núi Tản viên. Tới gần đây người ta còn đào được những cái Tháp đất nung đó tại khu vực Hà nội. Tiếp theo là truyền thuyết Cao Biền dùng hơn 4 tấn sắt, đồng...chôn để chấn yểm đền Bạch Mã là nơi vị thần sông Tô Lịch trú ngụ. Cao Biềncòn nhiều lần dựng đàn tràng, dùng 4 thứ kim loại : sắt, đồng, vàng, bạc chấn yểm nhiều nơi trên bờ sông Tô Lịch. Theo sử sách, Cao Biềnđã đặt Bùa chấn yểm tới 19 nơi dọc theo sông Tô Lịch. Thời bấy giờ nước Nam có nhiều vị đại sư tài ba lỗi lạc, hiểu biết rất giỏi về Nho,Y, Lý số và thuật Phong Thủy đã hóa giải sự trấn yểm của Cao Biền bằng phép Huyền môn. Các đại sư thường tụ tập tại ngôi đền SƠN TINH THỦY TINH ở núi Ba vì, hay ở đền BẠCH MÃ, dùng những hiểu biết về Phong Thủy để chấn áp bùa phép của Cao Biền. Trở lại, đạo bùa tìm thấy trên lòng sông Tô Lịch, có rất nhiều lý do để có thể kết luận rằng : Đó là tác phẩm của Cao Biền, chứ không phải là của các nhà vua Lý. Tác phẩm đó là của Cao Biềnđời nhà Đường, thuộc về thế kỷ 9, tức là trước thời các nhà Lý khoảng 200 năm (Lý thái Tổ -Năm 1010 ). Nếu xét về niên đại của cổ vật tìm thấy, thì trong khoảng 200 năm các cổ vật trên cũng không có sự thay đổi nhiều. Cũng không loại trừ trường hợp các cổ vật ở trên đất liền rớt xuống lòng sông thời gian sau khi Cao Biềntrấn yểm. Bây giờ ta lại xét đến mục đích của Cao Biềnkhi trấn yểm sông Tô Lịch. Cho tới tận giờ phút này, khi các bạn và tôi đang ngồi bên máy vi tính,người ta vẫn sử dụng các thủ thuật : Châm cứu, điện chẩn, xoa bóp, bấm huyệt ... để chữa bệnh. Tất cả các thủ thuật đó đều dựa trên lý thuyết về hệ thống kinh mạch, huyệt, lạc trong cơ thể con người. Người ta xác định được hàng ngàn vị trí Huyệt đạo trong cơ thể con người. Tùy theo từng trường hợp khi châm cứu, người ta dùng kim tam lăng để châm vào các huyệt khác nhau, với thời gian và độ nông sâu khác nhau. Trong dân gian còn lưu truyền các biện pháp bấm, điểm huyệt có thể làm cho một bộ phận nào đó của cơ thể không còn khả năng cử động, hoặc nặng hơn là bộ phận đó không còn sử dụng được. Ta vẫn biết rằng :THIÊN ĐỊA NHÂN là hợp nhất. Mọi vật thể từ Vi mô cho đến Vĩ mô đều phải tuân theo những quy luật chung của sự tương tác vũ trụ. Phải nói dài dòng như vậy để có thể tạm kết luận rằng, trên Trái đất này cũng phải có những đường kinh mạch, huyệt, lạc như trong cơ thể con người. Trái đất này là một cơ thể sống chứ không phải là một cục đất chết như nhiều người vẫn nghĩ. Ta cũng có thể suy ra một hệ quả rằng :Tại một điểm nào đó, người ta có thể dùng một thủ thuật nào đó, có thể ngăn, bế hoặc chặn đường đi của một Long mạch như Cao Biềnđã làm. Thủ thuật này người xưa gọi là trấn yểm. Bây giờ ta tạm thời đưa ra các nhận định như sau : 1. Đạo Bùa trấn yểm trên dòng sông Tô Lịch là của Cao Biền-Tiết độ sứ của nhà Đường, dùng để chấn yểm long mạch, khi tiến hành xây dựng thành Đại La vào thế kỷ 9. Đó là 1 trong 19 nơi mà Cao Biềnđã thực hiện trấn yểm.Đạo Bùa đó hoàn toàn không phải do các Vua thời nhà Lý chấn yểm trong Truyền thuyết Ông Dầu, bà Dầu khoảng 200 năm sau khi Cao Biềnthực hiện chấn yểm. 2. Chấp nhận có một Long mạch rất lớn xuất phát từ phía Tây của thành Đại La (Các dãy núi thuộc các tỉnh Hòa Bình, Sơn La, Lai Châu, và gần nhất là dãy núi Tản Viên); Long mạch này đi qua thành Đại La, cụ thể theo dọc sông Tô Lịch, qua khu vực Hồ Tây, kéo dài sang Cổ Loa - Đông Anh - HÀ NỘI; Long mạch này còn kéo dài tới dãy Yên Tử và theo hướng Đông Bắc tới tận Quảng Ninh. Đây chỉ là nhánh Thanh Long của đồng bằng Bắc Bộ. Nhánh Bạch Hổ khi có điều kiện tôi xin chứng minh tiếp. 3. Cao Biềnđã thực hiện biện pháp trấn yểm Long mạch, nhằm bế dòng khí của Long mạch này. Thủ thuật trấn yểm tương tự như thuật điểm huyệt trong đông y học. Đến đây, ta lại tiếp tục đặt ra câu hỏi : 1. Tại sao có hiện tượng kỳ lạ và bí ẩn đã xẩy ra cho các công nhân trong đội xây dựng số 12. Bản chất hiện tượng đó như thế nào ? 2. Tại sao sau khi Cao Biềntrấn yểm sông Tô Lịch, kể từ đó tới tận ngày hôm nay, trong lịch sử ta không còn nghe có vụ sụt lở đất nào khác ngoại trừ trường hợp trên sông Tô Lịch đã nêu ở trên sau khi người ta đã rút các cọc trấn yểm lên. 3. Hậu quả của việc rút bùa trấn yểm lên sẽ như thế nào đối với khu vực dọc theo sông Tô Lịch nói riêng và cả khu vực HÀ NỘI, các vùng phụ cận nói chung. Hậu quả sẽ như thế nào đối với Long mạch đi qua thành Đại la 4. Biện pháp khắc phục sự việc trên như thế nào ?. Người ta có thể hàn lại Long mạch như Thượng Tọa Thích Viên Thành đã thực hiện hay không ?. Trường hợp khôi phục lại Bùa chấn yểm đó xấu hay tốt ?. Người viết bài này xin mạo muội lý giải các câu hỏi trên. Vì tình yêu đối với HÀ NỘI, quê hương của người viết, vì trách nhiệm một người Việt nam đối với quê hương rất mong được cùng các bạn trao đổi, hầu tìm ra những giải pháp khắc phục hiện tượng kể trên. Đó là trách nhiệm chung của chúng ta không chỉ phải của riêng ai. 1. Tại sao có hiện tượng kỳ lạ và bí ẩn xảy ra cho các Công nhân trong đội xây dựng số 12 -Bản chất của hiện tượng đó như thế nào ?. Trong thuật Phong Thủy, Khí là một hiện tượng rất khó giải thích, nhưng nó là một khái niệm cơ bản của thuật Phong Thủy. Nhận định đúng về Khí là chìa khóa mở vào lý thuyết cốt yếu của Phong Thủy. Theo quan niệm Á đông, Khí ẩn tàng làm động lực cho Trời đất vạn vật. Khí không những hội tụ trong các vật thể hữu hình mà còn tản mát vô hình sau khi vật thể tan rã để tạo thành những thể rất Linh thiêng gọi là Linh Khí của Vũ trụ. Người xưa có câu : Tụ là hình tán là Khí. Ngày nay Khoa học phát hiện được một vài dạng của Khí, gọi là Plasma sinh học.các dạng đó có thể đo, đếm được. Trong Đông Y học người ta phát hiện Hệ thống Kinh , Mạch, Huyệt là đường vận hành của Khí từ rất xa xưa. Người ta phát hiện rằng : Khí vận hành trong Kinh, Lạc như một dòng nước, chỗ đi ra gọi là Tĩnh, trôi trảy gọi là Huỳnh, dồn lại gọi là Du, đi qua gọi là Kinh, nhập lại gọi là Hợp. Đường Kinh không đơn giản là một ống dẫn vật chất nào đó. Đường Kinh là một chùm ống dẫn Khí Ngũ hành xuyên suốt các cơ quan, bộ phận của một Tạc tượng. Ngoài ra người xưa còn biết rất sâu về bản chất của Khí, có một lý thuyết về Thời châm vô cùng chính xác là Tí Ngọ lưu trú và Linh Quy bát pháp. Đó là trên cơ thể con người,còn trong Phong Thủy ,người ta quan niệm rằng Nguyên Khí trong lòng đất, tương tự như hệ thống mạch, huyệt trong Đông Y. Nguyên Khí được xem là gắn bó với nước, nước giúp Khí di chuyển, nước đi thì Nguyên Khí cũng đi, nước ngừng thì Nguyên khí cũng ngừng. Sinh Khí tụ mạnh nhất là nơi giao hội của nước ( nơi các dòng sông hội tụ chẳng hạn ). Người viết chỉ nêu ra một số quan niệm về Khí, dùng cho việc chứng minh luận điểm của mình, còn Lý thuyết về Khí thì vô cùng, vô tận. Mặt khác, có thể tìm hiểu cơ chế của mối quan hệ giữa hài cốt người chết đối với người thân thích còn sống như thế nào ?. Theo Giáo sư Nguyễn Hoàng Phương: Trước hết vì trong mối quan hệ này không có sự tiếp xúc xác thịt trực tiếp giữa hài cốt người chết và thân xác người còn sống, nên tất yếu phải có phần sóng vô hình của cả đôi bên tham gia vào. Đó có thể là một hiện tượng cộng hưởng sóng mang tính chất huyết thống, dòng họ. Do tần số đôi bên có thể khác nhau nhiều, nên trong lý thuyết về Nhạc, loại cộng hưởng này mang tên cộng hưởng Harmonic (Tần số này là bội số của Tần số kia). Đó là cơ chế cộng hưởng Harmonic hình thái huyết thống. Trở lại câu chuyện trên dòng sông Tô Lịch: Người viết cho rằng : Long mạch đã nói ở phần trên bị Cao Biền trấn yểm đúng Huyệt vị, đã bị ngăn chặn lại tại nơi có đạo Bùa chấn yểm. Hậu quả của đạo Bùa này làm cho Nguyên Khí không thể tiếp tục đi theo hành trình vốn có của nó, làm cho vùng đất dọc theo Long mạch sau khi bị chấn yểm trở nên cứng hơn, ổn định hơn. Bằng chứng là về sau này ta không còn nghe được sự việc sụt lở đất tương tự như thế nữa. Ta có thể hình dung hơi thô thiển là Long Mạch giống như một mạch máu, bị cột lại một đầu, không cho dẫn máu tới các vùng sau đó được nữa. Các bộ phận cơ thể đằng sau chỗ bị cột vì không có máu nuôi nên dần dần bị khô, teo đi. Ta cũng để ý một điều rằng :Thành phố Hà nội ngày nay có rất nhiều hồ nước con đang tồn tại như hồ Tây, hồ Gươm, hồ Bảy mẫu, hồ Ha Le ...Mặt khác sông Tô Lịch và Thiên Phù dần dần bị hẹp đi và giờ đây chỉ còn là con mương nhỏ dẩn nước thải cho TP.HÀ NỘI. Ở đây có một câu hỏi thú vị là : Nếu như Cao Biền( vốn được coi là tổ sư của Phong Thủy ) đã quyết tâm trấn yểm tiêu diệt dòng sông Tô Lịch thì sao cho đến tận bây giờ sông Tô Lịch vẫn còn tồn tại ( mặc dù chỉ là con mương nhỏ ). Theo người viết,nế Cao Biềntrấn yểm đúng thì ngày nay ta chỉ còn nghe đến tên của nó qua lịch sử. Đến đây người viết khẳng định :Cao Biềncó sự sai lầm trong việc chấn yểm. Nguyên nhân sự sai lầm của Cao Biềnchính là sự hiểu biết vô cùng chính xác của các vị Vua Hùng - Tổ tiên của người Việt chúng ta trong thuật Phong Thủy nói riêng và trong Thuyết Âm Dương, Ngũ Hành nói chung. Vì tiên đoán được các sự việc sẽ xẩy ra, sau khi mất nước, các Vua Hùng đã cố ý làm sai lạc một phần của Thuyết Âm Dương Ngũ Hành. Người viết xin chứng minh vấn đề này ở phần sau. Bây giờ ta đi vào trả lời câu hỏi nguyên nhân của sự việc xẩy ra cho công nhân đội xây dựng số 12. Theo người viết như sau : Tại chỗ có đạo Bùa, Nguyên Khí bị bế lại lâu năm, khi tháo gỡ đạo Bùa, giống như tháo bỏ chỗ bị cột trong mạch máu, Nguyên khí bị thoát ra ngoài tại vị trí chấn yểm và lan tỏa ra xung quanh. Ta chưa xét đến sự tốt xấu của dòng Khí đó với cơ thể con người. Chỉ biết một điều rằng : Chính dòng Khí đó làm mất cân bằng cục bộ môi trường xung quanh chỗ đường Khí được giải phóng. Chính vì vậy những người Công nhân đang làm việc tại khu vực đó bị các hiện tượng kỳ lạ đã nêu ở phần đầu. Khi cơ thể con người bị mất cân bằng về Khí dẫn đến hiện tượng mất khả năng hoạt động Thần kinh. Như vậy cũng chẳng có gì khó hiểu khi các công nhân đội xây dựng só 12 gặp phải. Ngoài ra do ảnh hưởng của Quy luật " Đồng thanh tương ứng - Đồng Khí tương cầu ", hay là hiện tượng cộng hưởng Harmonic mà Thân nhân, dòng họ của những người công nhân đội xây dựng số 12 phạm phải , mặc dù họ không trực tiếp có mặt trên công trường. Đó là hiện tượng cũng dễ hiểu. Có điều nguy cơ tiềm ẩn ở đây là : Nơi dòng Khí thoát ra sẽ ảnh hưởng như thế nào đối với TP.HÀ NỘI ?. Đây là một vấn đề quan trong cần có sự nghiên cứu nghiêm túc. 2. Trả lời cho câu hỏi : Tại sao sau khi có sự chấn yểm của Cao Biền,vùng đất dọc theo Long mạch kể từ chỗ bị trấn yểm trở nên cứng và ổn định hơn và từ đó về sau này ta không còn nghe có các vụ sụt lở đất ở khu vực dọc theo Long mạch tương tự nữa,ngoại trừ trường hợp đã xẩy ra trên sông Tô Lịch, khi đạo Bùa trấn yểm đã được nhổ lên ?. Tiếp tục phát triển tính nhất quán của phần trên : Khi đường Khí của Long mạch đã bị bế lại, nguyên Khí không thể tới được các vùng đất ở sau chỗ trấn yểm được nữa, và Nguyên Khí luôn có nước đi cùng nên lượng nước tới các vùng đó cũng bị giảm đi. Kết quả là vùng đất sau chỗ bị trấn yểm cứng lên, và kết cấu của Địa tầng, địa chất cũng trở nên ổn định hơn. Khi một vùng đất đã có địa tầng địa, chất ổn định thì tất yếu dẫn đến các vụ sụt lở đất khi xây dựng các công trình tự nhiên mất đi. Đó là một sự việc không có gì là bí ẩn trong nghệ thuật xây dựng hiện nay. Tại công trình nạo vét sông Tô Lịch, khi đạo Bùa chấn yểm bị nhổ lên, lập tức Nguyên khí bị phong tỏa ùa thoát ra ngoài với một tốc độ và lưu lượng vô cùng lớn, làm cho đất, đá của cả khu vực nhão ra như bùn, trở nên mất ổn định cục bộ. Ở đây ta cũng cần lưu ý rằng : Khi Nguyên khí thâm nhập vào lòng đất quá nhiều thì không chỉ đất, cát mà thậm chí cả đá hay các vật thể rắn khác đều trở thành bùn nhão, bởi tính chất của Nguyên khí khác với tính chất của nước. Ta cũng để ý rằng nơi nào mà nguyên khí ít ỏi hoặc không có vùng đó sẽ trở nên khô cằn, cây cối không thể phát triển được. Đó là trường hợp của các sa mạc, hoang mạc trên trái đất. Tại núi Ngự bình ở Huế cũng có trường hợp tương tự. Rất nhiều lần người ta tổ chức trồng cây trên núi Ngự bình song đều thất bại. Như vậy, ta có thể kết luận rằng : Trong quá trình xây dựng Thành Đại la, Cao Biềngặp một vùng đất có kết cấu không ổn định nên đã thực hiên việc trấn yểm kể trên với mục đích làm cho đất cứng và ổn định hơn trước. Biện pháp thực hiện là dùng thủ pháp điểm huyệt đất tương tự như thủ thuật châm cứu, điểm huyệt trong đông Y. Ở đây còn có ý nghĩa sâu xa là trấn yểm các Long mạch, các huyệt phát Đế Vương của đất Việt. Tuy nhiên vì có sự sai lầm về độ số hướng Tây nên sự trấn yểm không được trọn vẹn. Bằng chứng là Sông Tô Lịch vẫn còn tồn tại và chỉ thời gian ngắn sau này nước Việt dã giành được độc lập. Một dải Long mạch đã nói ở trên vẫn phát sinh ra những con người nổi tiếng, những vùng đất địa linh nhân kiệt như chùa Dâu, núi Yên tử, Đền Kiếp Bạc ...Một nguyên nhân nữa sau này, đã phá hoại sự linh thiêng của Long mạch là các việc san lấp của người Pháp, cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20. Không biết vô tình hay hữu ý, khi xây dựng TP.HÀ NỘI, người Pháp đã cho lấp mất khúc sông Tô Lịch, nơi đổ ra sông Hồng - Nay là các phố Hàng Buồm, Hàng Bạc, Cầu Gỗ... Và Nhà thờ lớn HÀ NỘI hiện nay đặt trên nền của Tháp Báo Ân ngày xưa... Một dân tộc đã được thiên nhiên ưu đãi về Địa linh về Sinh khí phải suy nghĩ như thế nào về trách nhiệm bảo vệ và khai thác sức mạnh tâm sinh khí đó. Chúng ta cần phải có các chương trình đào tạo các bậc anh hùng, hào kiệt, những bậc hiền tài cho Đất nước, những vĩ nhân cho thế hệ mai sau. Ngày trước các bậc Thánh Đế, Minh Vương coi đó là trách nhiệm lớn nhất đối với non sông, đất nước. 3. Tôi xin tiếp tục lý giải câu hỏi thứ 3 :Hậu quả của việc rút bỏ Đạo Bùa đối với khu vực dọc theo sông Tô lịch nói riêng và cả HÀ NỘI nói chung.Số phận của Long mạch sẽ như thế nào ?Đây là một câu hỏi hết sức khó vì tính chất phức tạp của nó.Người viết xin mạo muội lý giải và rất mong được các bậc hiền tài trong và ngoài Diễn đàn góp ý,bổ khuyết hầu có thể tìm ra biện pháp tốt nhất khắc phục được hậu quả của Lịch sử.Tôi coi đây là trách nhiệm của tất cả mọi người chúng ta . Trước hết,ta xem xét hậu quả của việc Trấn yểm của Cao Biềnvà những sự việc sẽ xẩy ra khi rút bỏ đạo Bùa đối với khu vực sông Tô lịch và các vùng phụ cận.Hiện nay,tôi không có tài liệu nào chính thức về các biện pháp Trấn yểm đất của bộ môn Phong thủy.Chỉ biết rằng từ xa xưa đã có các hiện tượng trấn yểm của Mã viện ( Trụ đồng Mã viện );các hiện tượng trấn yểm của Cao Biền;các biện pháp dùng Bia đá để trấn yểm nhà,các tấm Bài ếm ở quanh khu vực Thất sơn (Cái ếm ở Bài Bài ,thuộc làng Nhơn hưng -Tịnh biên -Châu đốc ,cây ếm ở núi Nước )... Lý giải của một nhà phong tHuỷ học theo trường phái Huyền Không: Vậy các cọc này là gì??? Là gì thì chưa thể biết rõ ràng được. Nhưng chắc chắn đây không phải là Thánh Vật như cái tít bài báo trên. Trận Bát Quái Tiên Thiên Đồ được sắp xếp để trấn long hãm địa như vậy mà lại dùng đến lối trấn ác độc mức cao nhất của Phong Thủy rõ ràng là hành động tàn ác phi nhân tính,không thể gọi là Thánh Vật được. Theo như cách trấn long tàn độc này thì trong Huyền Không học có ghi rõ,cần 8 cái trụ để lập trận, chôn sống theo nó là 8 người con trai(tráng nam) khỏe mạnh,8 người con gái trinh tiết(đồng trinh) và 8 đứa trẻ con(đồng tử) để dùng oán khí cộng hưởng của họ tạo thành bức tường bảo vệ trận. Về cơ bản đây là lối trấn mạnh mẽ nhất và cũng là tàn ác nhất. Nếu như bài báo ghi là đã trục vớt được 7 cái cọc, tôi nghĩ vẫn còn sót 1 cái. Việc nhổ cọc và làm thoát tà khí-oán khí tích tụ hàng trăm năm khiến người xung quanh bị ảnh hưởng là chuyện dễ hiểu. Nhưng đã chôn cất hài cốt,làm lễ siêu độ rồi mà vẫn còn ảnh hưởng mạnh đến vậy có lẽ không hẳn trong đó chỉ có oan hồn không siêu thoát, hoặc là cách trấn ác độc này gìm giữ không cho các linh hồn siêu thoát, hoặc là trên chúng có diêm thần,diêm tướng chỉ huy nên việc phá trận là rất nguy hiểm với người phá trận. Việc Thủ tọa Thích Viên Thành muốn hàn lại long mạch và phải hóa, có lẽ một phần do ý của thầy. Tôi vẫn nhớ hồi đó tôi đi theo chân sư phụ dạy Pháp cho tôi là Đại Đức Cổ Vân, theo đoàn của Thầy Thích Thanh Từ của phái Trúc Lâm lên Chùa Hương bởi lúc đó Thầy Thanh Từ và sư Ni Toan(sư Ni tu tại gia nhưng rất giỏi) gặp nhau có xem thiên tượng và tính ra được quẻ đại hung với thầy Thích Viên Thành nên lên Chùa Hương để giúp giải hạn. Thầy Thích Thanh Từ nói rằng sư thầy trụ trì chùa Hương cần lập đàn tràng cầu siêu,thỉnh 100 vị sư giỏi các nơi đến cùng làm lễ trong 49 ngày thì may ra mới giữ được tính mạng. Thầy Thích Viên Thành đã từ chối và nói sống chết có số, không nên vì cái nhục thân của mình mà làm khổ đến người khác phải lao tâm, cái chết cũng chỉ là 1 cách giải thoát để tới thế giới cực lạc. Thầy tự biết mình hết số và cũng không muốn xin kéo dài thêm dương thọ. Vì vậy sau đó thầy Thích Thanh Từ đã về lại Trúc Lâm dẫn 9 đại đệ tử lên núi nhập thất. Một thời gian sau, thầy Thích Viên Thành quả nhiên mất thật,trước lúc hóa,có nói nguyên nhân hóa của mình là vì không đủ sức mà vẫn cố phá giải trận Bát Quái Tiên Thiên Đồ trấn theo lối Thiên Môn ác độc kia. Tôi thì không rõ nguyên nhân vì học vấn của mình về lý số và phong thủy rất nông cạn, nhưng tôi nhớ sư phụ tôi có lần nói lại rằng, sư phụ của thầy(thầy Thích Thanh Từ) có nói chuyện Thầy Thích Viên Thành mất vì cách thầy muốn hàn lại long mạch là sai,và sức của thầy cũng không đủ để phá trận nhưng vì giữ danh tiếng bản thân(là bậc thầy phong thủy trong chuyện hàn long mạch) nên vẫn cố thực hiện và kết quả dẫn đến vong thân.Khi tự biết hết số lại không muốn phải xuống nước nhờ vả người khác giúp mình nên tự chấp nhận xuôi tay,như vậy chưa dứt được hết trần tục. Còn quan điểm của riêng tôi là không nên phá trận, bởi trận lập đã nhiều năm oán khí chất chồng giải không hết được.Dòng sông và long mạch cũng đã bé lại thành 1 cái cống thoát nước,dẫu hàn lại thì có được lợi ích bao nhiêu ? Giả như 1 đoạn sông khác bị lập trận trấn vào mắt rồng ,tạo thành thế Độc Nhãn Long(1 thế trấn ác độc nhằm hủy hoại long mạch) thì khi sống lại,con rồng lại thành tà ác quấy phá có khi lại làm hại hơn. Thế đất Hà Nội là thế đất trũng,địa tầng địa chất kém,việc trấn sông làm con rồng chết cứng không thể vẫy vùng có thể cũng là 1 cách tốt làm cho đất cứng lại tiện cho xây dựng,nếu phá đi,thế đất sẽ xấu đi và hạ tầng đất sẽ bị lún,sạt lở khi long mạch chuyển động. Như vậy việc xây dựng và phát triển hóa đô thị còn tồi tệ hơn. Cách giải quyết ổn thỏa,tạm thời tôi không nghĩ được ra và cũng nhiều người vẫn đau đầu về vấn đề này. Nhưng hy vọng trong thời gian tới,sẽ có người tìm ra được câu trả lời thỏa đáng. -Một câu hỏi lớn không lời đáp??? Nên phá hay nên giữ? Giống như cách chế thuốc giải độc, tốt nhất là biết thành phần độc tố, chế thuốc sẽ dễ dàng và chính xác hơn, tuy nhiên có những độc tố hoàn toàn không có cách giải. Các thầy đều là những vị cao tăng, uyên thâm phong thủy, giống như là dược sư, nhưng chất độc này hoàn toàn không rõ cách trấn thế nào, thành phần độc tố ra sao, nên e là sẽ khó mà giải được. Còn ai trấn, trấn mục đích gì, theo tôi, chính Cao Biềntrấn, trấn nhằn triệt tiêu khí vượng của Đại Việt. Nếu giải trấn chắc chắn sẽ phát khí, nước nhà sẽ hưng vượng. Vì bản chất vượng khí luôn phải là khí tốt, thầy Thích Viên Thành cũng biết điều đó, nên cố gắng tìm cách phá trấn, dù biết hại đến tính mạng. Nếu khí là tà khí thầy chắc chắn sẽ không phá làm gì. Thời Pháp, Pháp cho lấp sông Tô Lịch, phá huỷ đền thờ đại vương Tô Lịch, chắc trong người Pháp có các thầy địa lí người Tàu, giúp đỡ người Pháp làm việc ấy. Vì long mạch kinh đô bị trấn làm đất nước ta suốt bao đời nay cứ đấu tranh chống ngoại xâm hoài, biết bao giờ khá được, chưa "triều đại" nào của đất nước ta hưng thịnh nổi quá 3 thế kỉ Theo tôi, đây là cơ hội cực kì thuận tiện để phá thế trấn yểm quá ư tàn độc này, tồn tại ngay ở thủ đô đã hơn nghìn năm nay Tại sao các nhà ngoại cảm không vào cuộc? Phá nó thì có lợi hại gì? Trận đồ trấn trên sông Tô Lịch thuộc về huyền cơ cao nhất của phong thủy phái Huyền Không. Cách phá giải trận là tìm ra điểm yếu của trận để phá trận. Người làm được điều này phải là người có kiến thức uyên thâm về Phong thủy am hiểu cả 2 phái Bát trạch và Hình thế. Những nhà ngoại cảm bạn đề cập trên phần lớn những người có khả năng và tài năng cao nhất đều đã tham dự cuộc họp để làm sáng tỏ vấn đề này và họ cũng đều đã lắc đầu không giải thích được, bởi đơn giản đó không phải là sở trường của họ. Tôi rất khâm phục tài năng của chị Bích Hằng và chính gia đình đã được chị giúp tìm được mộ người thân như một huyền thoại, nhưng trong vấn đề này, tôi nghĩ chị không có khả năng. Thậm chí, nếu cố làm điều ngược với thiên ý thì bản thân chị sẽ mắc họa sát thân như chơi. Như tôi đã nói trên kia, đầu tiên là việc phá trận không biết đã có ai đủ tài làm việc đó hay chưa, và phá trận rồi thì sẽ mang lại kết quả gì. Theo như sách vở để lại thì Hà Nội được bao bọc trọn trong hệ thống các sông(Hà Nội nghĩa Hán là trong sông), ngọn núi khởi nguồn của long mạch Việt Nam(Tổ Long Sơn) bắt nguồn từ khu vực núi Tản Viên-Ba Vì, như vậy Long Mạch của hệ thống sông Tô Lịch sẽ chạy từ núi Tản Viên dọc theo hình thế đất xuống đến Hà Nội và điểm trấn long huyệt nằm trong lòng con sông Tô Lịch. Do có thế đất trũng và hạ tầng đất yếu, việc xây dựng thành rất khó khăn vì móng không chắc chắn(bác nào học về xây dựng chắc biết vấn đề thoát nước và móng của Hà Nội phức tạp thế nào). Có lẽ do đó để xây dựng, 1 bậc đại tôn sư về dịch lý phong thủy nào đó đã dùng cách lập trận này để ép đất cứng hơn bằng cách trấn long bằng Bát Quái Tiên Thiên Đồ. Làm con rồng không cựa được và bị giam cứng trong đất, như vậy đất sẽ cứng hơn và xây dựng dễ dàng hơn. Nếu như mở lại được long huyệt, tất nhiên long khí sẽ được khai mở,nhưng con rồng bị giam lâu năm chưa chắc đã là vượng khí,thậm chí có khi còn thành tà khí. Nhưng điều quan trọng và nguy hiểm hơn khi mở huyệt sẽ dễ dấn đến động đất khi rồng hồi sinh,chuyển động của nó có thể làm suy chuyển và biến đổi cơ cấu hạ tầng đất,làm giảm độ cứng của nền móng và làm đất đai không vững chãi như trước. Nếu như vậy thì việc xây dựng và phát triển đô thị e rằng khi đó còn khó khăn hơn. Trận đồ Bát quái hiện tại có lẽ không giải được vì đồ hình chi tiết và các yếu quyết của nó hiện nay đã thất truyền, nó cũng tương tự như thạch trận Khổng Minh dùng đá xếp để cầm chân quân Ngô trong Tam Quốc vậy. Việc hóa giải vô cùng phức tạp bởi không ai còn biết chính xác vị trí các phương vị và xắp xếp quẻ trong trận này, nếu như giải nhầm hướng sinh 1 bước mà lỡ chân đi vào hướng cửa Tử hay Họa Hại thì khó mà bình yên trở về. Việc này các nhà ngoại cảm không thể làm được,bởi các tà khí do các xác chết tụ hợp thành đã làm cho họ không thể có khả năng liên lạc được với cõi âm. Nơi nào mà la bàn phong thủy không thể xác định được vị trí phương hướng và điểm trung cung(rất hiếm) thì nơi đó là nơi được gọi là nơikhông thuộc trời, cũng không thuộc đất. Để giải quyết vấn đề này, có lẽ cách thích hợp nhất là làm 1 cuộc họp mặt các nhà phong thủy danh tiếng các nơi cùng ngồi bàn nhau tìm cách phá trận hoặc tìm cách giải quyết. Biết đâu ai đó còn giữ lại được đồ hình chi tiết của trận pháp huyền thoại Bát Quái Tiên Thiên đồ,hay trong Huyền Không học còn gọi là Bát Quái Thiên Môn trận. Nếu có 1 cuộc họp như vậy, nhất định tôi sẽ theo dõi nó thật sắt sao. Thế nếu nhánh Thanh Long được khơi lại thì Việt Nam sẽ phát triển như thế nào ? Thì sau đó phải kết hợp thành 1 bố cục phong thủy tài vượng để khai thông hết các vượng khí của nhánh Thanh Long, Bạch Hổ với 2 nhánh Chu Tước và Huyền Vũ. Để tính toán bố cục và vị trí chuẩn xác hơn thì còn phải tìm được vị trí hai nhánh con của nó là Câu Trận và Đằng Xà nữa. Việc Việt Nam phát triển như thế nào,còn phải tùy vào vượng khí nhiều hay ít và cách xắp xếp ảo diệu đến đâu. Tại sao các sư tăng lại có khả năng huyền diệu này (tức khả năng nhận ra "tà khí"? Vì Phật Pháp tu luyện theo phái Mật Tông có những khả năng siêu phàm thoát tục khó có thể nói được. Đạo gia hay Đạo sĩ phái Huyền Không thì dùng trận phá trận,dùng trí đấu trí,dùng máu đổi máu. Nhà Phật lại chủ trương dùng 1 chư Tâm, dùng lòng từ bi hỉ xả để phổ độ chúng sinh,giải thoát nghiệp chướng. Thông thường để trừ tà một cách bình thường, nhà Phật dùng chủ yếu là Kinh Kim Cương, phẩm Phục Ma, còn gọi là kinh Kim Cương Phục Ma-tâm pháp để trấn trạch,trừ tà,đuổi ác và song song dùng kinh A di đà siêu độ các vong linh. Nhưng tác dụng còn phụ thuộc vào mức độ tà khí và đạo hạnh của người lập đàn tràng. Nhiều vị cao tăng ngoài kinh pháp ra còn nghiên cứu và tinh thông phong thủy,lý số thì sẽ kết hợp các yếu tố trên để sử dụng. Trường hợp của sông Tô Lịch, thực sự rất khó giải thích,chỉ có thể đoán là lực lượng đó quá mạnh và đạo hạnh người giải trấn là không đủ, thậm chí vong thân như sư thầy Thích Viên Thành. Người được như vậy hiện tại rất hiếm nên cách có thể khả thi được, đó là nghiên cứu tinh yếu của trận để phá trận. Tại sao khi thượng tọa Thích Viên Thành phá trận lại bị họa sát thân? Về các đạo nói chung, thực ra đều không có ranh giới, cũng như võ thuật không có môn phái nào là mạnh nhất và hoàn thiện nhất bởi mỗi môn có điểm mạnh và yếu riêng. Ta chỉ có thể nhận xét trình độ học về đạo của họ thôi. Ở đây tôi không chắc lắm về nguyên nhân, xong tôi thấy như thầy Thích Thanh Từ(Viện trưởng thiền viện Trúc Lâm) nói thì cách làm của thầy Thích Viên Thành hàn long mạch là không đúng. Bởi thầy dùng tấm lòng từ bi hỷ xả của nhà Phật (thầy tu theo mật tông và đã đạt đến trình độ thiên nhãn/nhĩ thông nên ở trên tôi nói đến khả năng của phái mật tông) , thầy cũng chấp nhận hy sinh cả bản thân mình để hóa giải oán khí. Nhưng sai lầm của thầy là oán khí quá nặng không thể giải mà lại ám vào mình, sau đó lại không muốn lập đàn tràng cầu xin dương thọ hưởng thêm 1 giáp nên kết quả là 1 tháng sau đó - thầy viên tịch. Cách của thầy tứ phủ tôi không biết lắm, ở nhà cũng có sách vở nhưng toàn chữ Hán Nôm tôi không không đọc được, nhưng có lẽ cách của thầy tứ phủ không phải là siêu độ mà là làm triệt tiêu bớt oán khí, và cũng đã giữ ở mức độ vừa phải không để xâm hại đến mạng mình. Nên làm được công trình nhưng sau vẫn có chuyện xảy ra với mọi người và bản thân thầy cũng điêu đứng. Tất cả những điều này tôi nói bằng suy đoán đơn phương của mình thôi. Để giải được thế trận này thực tế không phải là không thể làm được.Vấn đề là phải tìm sao cho ra đồ hình và cách bố trận,trấn yểm chi tiết của trận đồ để tìm các phương vị trọng yếu của nó để phá hủy. Nôm na cách phá trận Thiên Môn của Bát Quái Tiên Thiên đồ cũng giống như cách bắt cua vậy, muốn con cua hết cựa quậy thì hãy tìm cách bẻ từ từ hết càng và các chân của nó, đến khi gãy hết càng hết chân thì dù để im nó cũng chỉ là vô dụng thôi và sự nguy hiểm của nó đã được phá bỏ. Vấn đề là đồ hình này đã bị thất truyền từ rất lâu, hiện ngay ở bên Trung Quốc cũng không còn gì ngoài những huyền thoại được tương truyền. Nếu như có được trong tay tấm đồ hình chi tiết này, chuyện phá giải trận pháp sẽ có 1 lối đi sáng sủa hơn rất nhiều. Trận Bát Quái tiên thiên đồ có 8 cọc vậy một cọc nữa nằm ở đâu? Kinh Dịch ở đâu mà ra? Trận Bát Quái không thể thiếu một phương vị, một đại tông sư cỡ Cao Biềncũng không thể đọc nhầm sách vở mà lập trận Bát Quái bằng ... 7 cái cọc được. Trong Phong thủy nếu lập trận sai thì sẽ không có tác dụng hoặc là không nằm trong tầm kiểm soát của mình. (Như vậy theo phỏng đoán là lận Bát Quái, nhưng thiếu mất một cọc. Có thể là do trong quá trình xây dựng bị bật gốc hay lâu ngày cọc bị bật tui .8 cái cọc được dựng theo hình thế sau đây:mỗi cọc là 1 quẻ trong bát quái,trong 8 quẻ chia ra cửu cung và 64 quẻ nhỏ,trong 64 quẻ có chia ra các phương vị và sơn hướng từ điểm trung cung. Cách chia cụ thể như thế nào thì hiện tại không còn tư liệu nào ghi chép cả. Chỉ còn lý thuyết ghi lại chung chung đại khái vậy thôi. Người phá được trận Bát Quái chắc chỉ là người thời xưa, khi mà đồ hình chi tiết chưa thất lạc. Người phá được thế trận này, theo tôi nghĩ lịch sử nước nhà có Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Còn chuyện bàn về Kinh Dịch ai nghĩ ra là chuyện cách đây khá lâu ,tầm 2 năm trước, hồi đó tôi thấy nhiều người cũng hùng hổ tranh cãi,xong kết luận lại,có là của ai thì cũng chỉ đến thế mà thôi. Điều quan trọng là hiện tại chúng ta đã gìn giữ và áp dụng nó như thế nào,có hiệu quả không chứ không phải là nhìn vào quá khứ và tự hào về mình. Mà thực tế đáng buồn là hiện tại di sản văn hóa này đang dần càng mai một,sách vở bậy bạ tràn lan mỗi người mỗi nhà viết 1 kiểu không biết thật giả thế nào nữa... Chuyện tâm linh là có thật và không thể bàn cãi, chẳng qua dư luận cũng như những ai quan tâm muốn một câu giải thích chi tiết hơn, xác đáng hơn. Thiết nghĩ bởi vì đây là một sự kiện mang tính lịch sử, chưa thể lý giải. Hino đã hỏi 1 người, người này nếu nói ra mọi người chắc không tin, trưởng ban ngoại cảm việt nam. Và câu trả lời là Đó là thuộc về phạm trù lịch sử, nếu nói ra thì ta cũng không hiểu. Vì đó là giao của 3 con sông, và là 1 trấn ải quan trọng của Đại La từ thời xưa. Như ta đã biết, những địa danh mang tính chất lịch sử và hào hùng như vậy, xưa kia biết bao con người đã đổ máu và hi sinh tại nơi đây, cần phải đc trân trọng và Nhà nước nên ghi nhận di tích và tu tạo. Tiếc thay, biết bao nhà lãnh đạo của Hà nội lên nắm quyền đều không làm đc điều này, mặt khác họ lại còn san lấp để lấy đất cho dân ở... Di tích đã dần dần bị mai một và mất đi. Và cái đền thờ ở đó thực chất là đã bị di dời. Trong 3 nhánh sông hoà làm 1 đó, 1 nhánh tựa như Rồng bơi, 2 nhánh còn lại tựa như Hổ phục. Và chúng ta đã phá vỡ nó, lại không tôn thờ theo đúng nghĩa. Thiết nghĩ đó cũng là sự trừng phạt của thế giới bên kia, bởi nếu k xảy ra những chuyện thương tâm xung quanh những người liên đới tới công trình thì làm sao chúng ta lại phải nghiên cứu lại về di tích này và hiểu rõ giá trị của nó. Và nếu k có những chuyện như vậy liệu chúng ta có biết đc điều này k, và một di tích như vậy sẽ bị lãng quên theo time không? Hino nghĩ sự việc xảy ra như vậy cốt là để giữ lại di tích lịch sử và mong chúng ta phục hồi lại nó đúng như giá trị thật của nó. Đó là những gì bề nổi chúng ta thấy, còn lại thì chuyện tâm linh khó lý giải... Những con người trần mắt thịt chúng ta k có khả năng hiểu đc điều đó, chỉ chờ thời gian khi có những bậc cao nhân, cao tay nghiên cứu và cho chúng ta biết mà thôi. Phụ lục: MỘT VÀI TRUYỀN THUYẾT VỀ CAO BIỀN VÀ KINH THÀNH THĂNG LONG Cao Biền (tiếng Trung: 高駢; tự Thiên Lý; 821–887) : là một viên tướng của nhà Đường, ông là người thay mặt cho nhà Đường cai quản Giao Châu (tên gọi khi đó của Việt Nam) từ năm 866 đến năm 875 với chức vụ tiết độ sứ. Sau lại làm phản nhà Đường và bị giết năm 887. Tổ tiên là người Bột Hải (Mãn Châu), sau di cư đến U Châu. Cuộc đời Ông nội là Nam Bình quận vương Cao Sùng Văn, thời Đường Hiến Tông Lý Thuần (806-820) là một danh tướng, chỉ huy cấm quân. Từ khi còn nhỏ, Cao Biền đã là người rất chịu khó trau dồi về văn học. Giao du với các nho sĩ, ông thường bàn luận đường lối chính trị một cách rắn rỏi. Cao Biềntheo Chu Thúc Minh, làm tư mã.[1] Cao Biền làm quan, được thăng dần đến hữu thần sách đô ngu hậu, sau vì có công, lại được thăng làm phòng ngự sứ Tần Châu. Những năm đầu thời Đường Ý Tông (859–873), Cao Biền chỉ huy quân tại biên cương phòng chống người Đảng Hạng và Thổ Phồn, kiêm Tần Châu thứ sử. Năm Hàm Thông thứ bảy (866), Cao Biền sang trấn thủ Giao Châu, làm Tĩnh Hải quân tiết độ sứ, cai quản cả Giao Châu và Quảng Châu. Năm Càn Phù thứ hai (875) đời Đường Hi Tông (873–888), nhà Đường chuyển ông đến cai quản Tây Xuyên. Cao Biền là người nghiêm khắc nhưng lạm dụng hình phạt, lạm sát cả người vô tội. Tuy vậy, trong thời gian cai quản Tây Xuyên ông đã có công lui quân Nam Chiếu. Năm Càn Phù thứ sáu (879) quân đội của Hoàng Sào từ bờ nam sông Hoàng Hà tiến về phía tây, triều đình nhà Đường điều Cao Biền đến làm Hải Quân tiết độ sứ (ngày nay là Trấn Giang, Giang Tô). Quân của Hoàng Sào chuyển hướng tiến về hướng nam tới Chiết Giang. Tháng 5 năm Quảng Minh thứ nhất (880) tại Tín Châu (ngày nay là Thượng Nhiêu, Giang Tây) quân Hoàng Sào giết chết Hoài Nam tiết độ sứ (ngày nay là bắc Dương Châu, Giang Tô). Tháng bảy, quân Hoàng Sào vượt qua Trường Giang. Cùng năm, quân Hoàng Sào từ Quảng Châu (ngày nay thuộc Quảng Đông) tiến lên phía bắc tới khu vực Giang-Hoài, Cao Biền khiếp sợ uy thế Hoàng Sào, chỉ cố thủ Dương Châu, dù binh lực có trên 100.000 để bảo tồn lực lượng. Quân Hoàng Sào tiến vào Trường An, Đường Hi Tông khẩn cấp điều Cao Biền đem quân cứu giá, nhưng Cao Biền không tuân lệnh của nhà Đường mà lại cát cứ một phương. Năm Trung Hòa thứ hai (882), nhà Đường bãi miễn Cao Biền. Về già, Cao Biền trở nên tin vào phép thuật thần tiên, trọng dụng thuật sĩ làm lòng người ly tán, tướng cai quản Hoài-Nam là Tất Sư Đạc rất lo sợ, năm Trung Hòa thứ năm (885) Cao Biền tạo phản, nhà Đường cử Tuyên Châu quan sát sứ là Tần Ngạn trợ chiến với Tất Sư Đạc. Năm Quang Khải thứ ba (887), Tất Sư Đạc xuất quân từ Cao Bưu, hợp cùng các tướng khác tấn công Dương Châu. Cao Biền phái người đi cầu cứu Dương Hành Mật, nhưng người của Cao Biền chưa tới nơi thì thành Dương Châu đã bị phá, Cao Biền bị bắt làm tù nhân, một thời gian sau bị Tần Ngạn, Tất Sư Đạc giết chết. [sửa] Tại Giao Châu Năm Ất Dậu (865) Cao Biền được nhà Đường cử là đại tướng họp cùng giám quận là Lý Duy Chu đem quân sang đóng ở Hải Môn để giải quyết vấn đề Nam Chiếu. Cao Biền sinh ở cửa tướng lại là tay văn học uyên thâm dẫn 5000 quân làm tiền đạo và ước cùng Lý Duy Chu điều động quân hậu viện tiến sau. Lý Duy Chu không muốn Cao Biền thành công, và biết rằng Cao Biền giàu mưu lược, có tài quân sự ắt sẽ thắng trận. Nam Chiếu tuy đông nhưng man mọi và ô hợp, chiến đấu lại không có phương pháp. Y chỉ còn cách không đem quân tiếp viện để Cao Biền hao mòn dần thực lực mà thất bại. Cao Biền cất quân đi rồi, Lý Duy Chu vẫn cứ đóng binh nguyên vẹn tại chỗ. Giám quận nhà Đường là Trần Sắc lại phái thêm 7.000 quân do tướng Vi Trọng Tể điều khiển sang tăng cường cho đoàn quân viễn chinh của Cao Biền. Bấy giờ Cao Biền mới xuất trận đã thắng được Nam Chiếu mấy kỳ, và tháng 6 năm 866 cho báo về Trung Quốc. Tháng 9 năm thứ 6 niên hiệu Hàm Thông (865), Cao Biền đánh úp quân Nam Chiếu đang gặt hái ở Phong Châu (Vĩnh Yên) và cướp thóc lúa đem về nuôi quân. Biết tình thế khó khăn, vua Nam Chiếu phái Đoàn Tú Thiên làm tiết độ sứ đất Thiên Xiển (kinh đô riêng của Nam Chiếu ở tây bắc Giao Châu), phái Dương Tư Tấn đến giúp Đoàn Tú Thiên giữ Giao Châu, và cho Phạm Nê Ta làm đô thống phủ đô hộ. Tin báo thắng trận của Cao Biền đến Hải Môn thì bị Lý Duy Chu chặn lại. Triều đình Trung Quốc lâu không thấy tăm hơi của Cao Biền liền cho hỏi Lý, Lý nói dối rằng Cao Biền vẫn không chịu xuất quân và án binh bất động ở Phong Châu. Thực ra lúc đó Cao Biền đã phá được quân Nam Chiếu, hàng được hơn 1 vạn quân, và đang vây hãm quân Nam Chiếu ở La Thành quá 10 ngày. Trong lúc đó Đường Ý Tông phái Vương Án Quyền và Lý Duy Chu tới thay họ Cao, và trước khi về kinh, Cao Biền đã phái Tăng Cổn về Trung Quốc trình bày tin tức thắng trận và mọi sự hãm hại của họ Lý. Sau khi giao binh quyền, Cao Biền cùng 100 thủ túc lên đường. Khi vua Đường hiểu rõ manh mối, Cao Biền được thăng chức kiểm hiệu công bộ thượng thư và được quay gót về Giao Châu tiếp tục việc đánh dẹp. Trong lúc này Vương Án Quyền và Lý Duy Chu mới đánh thành. Vương Án Quyền thì nhút nhát còn Lý Duy Chu lại tham lam tàn ác nên tướng tá không phục, nhờ vậy quân Nam Chiếu giải được vòng vây 2 lần trốn thoát quá nửa. Đến khi Cao Biền trở lại, tháng 4 năm Hàm Thông thứ 7 (866) thì hạ được thành, đánh bại được Dương Tư Tấn, chém được Đoàn Tú Thiên, Phạm Nê Ta, Nạc Mi và Chu Cổ Đạo là thổ mán đã làm hướng đạo cho Nam Chiếu cùng sát hại hơn một nửa quân Nam Chiếu. Cao Biền lại đánh phá 2 động thổ mán đã theo Nam Chiếu và giết tù trưởng. Tháng 11 cùng năm, nhà Đường đặt Tĩnh Hải quân, dùng Cao Biền làm tiết độ sứ kiêm hành doanh chiêu thảo sứ các đạo. Bắt đầu từ đấy Giao Châu đổi tên thành Tĩnh Hải quân tiết trấn. Xét ra Giao Châu bị nạn Nam Chiếu ròng rã 10 năm vô cùng tai hại. Từ đó Cao Biền ở lại Giao Châu làm tiết độ sứ. Sau khi Nam Chiếu bại trận được vài năm, Trung Quốc bị loạn. Nam Chiếu lại lợi dụng cơ dấy quân. Vua Đường muốn phương nam được ổn định nên điều đình gả công chúa cho vua Nam Chiếu. Nam Chiếu liền cử một phái bộ đặc biệt sang đón công chúa trong đó có mấy thượng tướng. Cao Biền gửi mật thư cho vua Đường bảo trong phái bộ có 3 nhân vật cao cấp nhất là linh hồn của Nam Chiếu nên đầu độc họ để trừ hậu họa, sau này Nam Chiếu có phục hồi được ắt cũng còn lâu. Vua Đường y lời cho đánh thuốc độc vào rượu, Các sứ giả Nam Chiếu bỏ mạng, nhờ vậy nhà Đường giữ Giao Châu thêm một giai đoạn Cao Biền khởi việc xây thành đắp lũy ở các nơi biên cảnh để đề phòng giặc giã. Một kỳ công của ông là việc dựng lên thành Đại La bên bờ sông Tô Lịch. Thành này bốn mặt dài hơn 1.982 trượng, cao 2 trượng 6 thước. Bên ngoài thành có một con đê chạy theo để bao bọc lấy thành. Đê dài hơn 2.125 trượng 8 thước, cao 1 trượng rưỡi, dầy 2 trượng. Trong thành có tới 20 vạn nóc nhà. Sự sống của nhân dân rất là sầm uất. Ông lại khai phá các ghềnh thác để mở rộng đường thủy cho các thuyền bè buôn bán đi lại. Về mặt cai trị, ông cũng có một chính sách rõ rệt tránh được mọi điều nhũng lạm của bọn thừa hành. Ông đã gây được thiện cảm giữa ông và dân chúng cho nên được tôn là Cao Vương. Ông lập các sở thuế để có tiền chi dụng. Năm Ất Tỵ (875) vua Đường đổi Cao Biền đi làm tiết độ sứ tại Tây Xuyên (tỉnh Tứ Xuyên) và ưng thuận lời đề nghị của Cao Biền cho Cao Tầm (cháu Cao Biền) thay thế ở phương nam. Thành Đại La ban đầu do Trương Bá Nghi cho đắp từ năm Đại Lịch thứ 2 đời Đường Đại Tông (767), năm Trinh Nguyên thứ 7 đời Đường Đức Tông (791), Triệu Xương đắp thêm. Đến năm Nguyên Hòa thứ 3 đời Đường Hiến Tông (808), Trương Chu lại sửa đắp lại, năm Trường Khánh thứ 4 đời Đường Mục Tông (824), Lý Nguyên Gia dời phủ trị tới bên sông Tô Lịch, đắp một cái thành nhỏ, gọi là La Thành, sau đó Cao Biền cho đắp lại to lớn hơn. Theo sử cũ thì La Thành do Cao Biền cho đắp có chu vi 1.982,5 trượng (≈6,6 km); thành cao (2,6 trượng 8,67 m), chân thành rộng 2,5 trượng (≈8,33 m), nữ tường[2] bốn mặt cao 5,5 thước (≈1,83 m), với 55 lầu vọng địch, 6 nơi úng môn[3], 3 hào nước, 34 đường đi. Ông còn cho đắp đê vòng quanh ngoài thành dài 2.125,8 trượng (≈7,09 km), đê cao 1,5 trượng (≈5,00 m), chân đê rộng 2 trượng (≈6,66 m) và làm hơn 400.000 gian nhà. Theo thần phả ở Hà Đông, Cao Biền có một người vợ là Lã Thị Nga, theo ông từ phương bắc sang Việt Nam. Bà không ở cùng Cao Biền trong thành mà ra ở bên ngoài, khu vực ngày nay. Bài này tổng hợp từ các bài viết của: Dienbatn (Bùi Quốc Hùng) thuộc TTNC Lý học đông phương Nguồn: .http://www.vietnetcenter.com/diendan/viewtopic.php?t=837&postdays=0&postorder=asc&start=75 .
  3. Các bạn thân mến, Phoenix vừa học vừa online tranh thủ nên chưa có điệu kiện để luận ngay. Tuy nhiên vẫn theo dõi bài. Có chút xíu muốn mọi người lưu ý: Thơ không nhất thiết phải bao hàm câu hỏi. Nếu cố gắng làm thơ và ép vào câu hỏi thì không còn sự ngẫu hứng nữa mà thành ra bị áp đặt. Các bạn có thể làm thơ riêng (chủ để gì cũng được miễn là tâm tư hoặc tư duy thật của mình). Câu hỏi đặt riêng. Mong chúng ta có sự trao đổi vui vẻ!
  4. Tình cờ Phoenix được biết gián tiếp một câu chuyện do một người làm hướng dẫn viên du lịch kể lại rằng khi anh ta giới thiệu cho khách du lịch người Pháp về văn hóa lịch sử VN thì một người đã hỏi: "các anh cho rằng lịch sử của các anh là hơn 4000 năm văn hiến, nhưng tôi lại thấy ở bên Pháp, trong bảo tàng lịch sử còn giữ lại nhiều tài liệu mà các anh không có, trong đó nói rằng Việt Nam chỉ có khoảng hơn 3000 năm lịch sử. Vậy căn cứ nào để các anh khẳng định là lịch sử hơn 4000 năm?" Quả là câu hỏi khó cho người hướng dẫn viên. Phoenix cũng tiếc là chưa có ai công bố tài liệu về Việt Nam bên Pháp để xem cụ thể nó nói gì trong đó nhỉ. :rolleyes:
  5. - CH1: Tình trạng vẫn "nguyên như y". - CH2: Ý mình là mình muốn định dạng sẵn về font chữ, màu chữ, cỡ chữ khi post bài nhưng mỗi lần mở mục để gõ bài thì đều phải thiết lập lại. Nhất là màu chữ. Bạn kiểm tra lại giùm. Thanks!
  6. Phoenix có nhờ chị Lacvietdt luận giúp mấy câu hỏi nhưng còn sơ duyên nên chưa thành. Bạn nào nhiệt tình có thể giúp Phoenix được không? "Phoenix đang suy tính xem công việc sẽ tiếp tục đầu tư cho chuyên môn (đi học và làm việc) hay là tập trung cho kinh doanh??!!. Về các điều kiện và tiền bạc Phoenix chỉ được chọn một. - Nếu đầu tư cho chuyên môn, lần này Phoenix có thể lấy được mấy cái bằng? - Hiện tại, Phoenix có vài cơ hội để chọn việc. Xin hỏi: Việc mà Phoenix sẽ bắt tay vào làm có đúng mong muốn và hữu ích cho Phoenix không?" Rất cảm ơn sự nhiệt tình!
  7. Cứ mở mục này là bị việc chen ngang. Hy vọng trong ngày hôm nay giải quyết xong. TT chịu khó tý nhé
  8. Không có duyên với chị Lacvietdt. Cảm ơn chị.
  9. Rất trọng tấm lòng của anh Phạm Thái Hòa. Chúc anh sớm thành công!
  10. Mình đã gửi cho bạn rồi. Chắc diễn đàn sẽ sớm có mục Thư viện nên khi có mình sẽ up lên.
  11. Nếu là cuốn Thái Ất Thần Kinh thì bạn chỉ cần cho địa chỉ e-mail, Phoenix sẽ gửi cho (bản *.pdf). Diễn đàn chưa có chức năng upload tài liệu nên Phoenix không đưa lên được.
  12. Hôm nay Phoenix có xem một phim tư liệu của Đài truyền hình Phú Thọ, trong đó nhắc tới Bãi đá cố Sa pa có thể là sản phẩm liên quan tới thời Hùng Vương. Phim tư liệu này đưa ra rất nhiều căn cứ nhằm khẳng định Nhà nước thời kỳ Hùng Vương là có thật với đầy đủ chữ viết (miếu thờ thầy giáo, trường học..), hình thái sản xuất (nông nghiệp lúa nước, cơ sở đúc đồng) v.. v... . Rất nhiều di vật từ khảo cổ được sử dụng để khẳng định lịch sử thời Hùng Vương. Dù không có đủ khả năng chứng minh song trong tâm trí của Phoenix cũng có niềm tin rằng thời đại Hùng Vương đã tồn tại, phát triển rực rỡ như một điểm sáng văn minh nhất trong xã hội loài người cổ. Một niềm tin không xuất phát từ sự cuồng tín dân tộc tuy hiện tại là cảm tính cá nhân. Mong rằng rồi đây sẽ được thấy nhiều minh chứng thuyết phục để thời đại Hùng Vương xác định được đúng giá trị của nó.
  13. Cuốn Thái ất thần kinh _ Nguyễn Bỉnh Khiêm rất phổ biến. Không biết bạn Jimsy có chưa? Mình thấy về Thái Ất còn có các cuốn này, đa phần là sách Hoa ngữ: Thái Ất Thông Giải —-khuyết danh Thái Ất Mệnh Pháp Tập —khuyết danh Thái Ất Số Thống Tôn Đại Toàn —-Ngự Đường Long Nhi trân tàng bản Thái ất binh pháp nguyên tập - khuyết danh Thái Ất Kim Hoa Tông Chỉ - Lã Đồng Tân Thái Ất Dị Giản Lục (Thần Cơ Dị Số) - Lê Quý Đôn Chắc bạn quan tâm đến Thái Ất thì cũng nghiên cứu rồi.
  14. Chị Lacvietdt đúng là rất có duyên và đẹp. Phong thái rất phong độ lại tài năng (chân thành không xu nịnh đâu nhé :rolleyes: ). Chị Lacvietdt gieo quẻ lại kết hợp cả tử vi thì độ chính xác hẳn là cao. Phoenix được biết tài năng của chị đã lâu, xin phép được nhờ chị một lần. - Phoenix đang suy tính xem công việc sẽ tiếp tục đầu tư cho chuyên môn (đi học và làm việc) hay là tập trung cho kinh doanh??!!. Về các điều kiện và tiền bạc Phoenix chỉ được chọn một. - Nếu đầu tư cho chuyên môn, lần này Phoenix có thể lấy được mấy cái bằng? - Hiện tại, Phoenix có vài cơ hội để chọn việc. Xin hỏi: Việc mà Phoenix sẽ bắt tay vào làm có đúng mong muốn và hữu ích cho Phoenix không? Phoenix trót hỏi một lần nên hơi tham lam. Nếu không phiền nhờ chị xem giúp. TT của Phoenix: Nữ - NS: 20/04/1976 - DL + giờ Dần (giờ Sửu còn tranh cãi, Phoenix chọn giờ Dần) Kính chúc chị sức khỏe và thư thái!
  15. Hi, Phoenix muốn kiểm tra độ chính xác từ câu trả lời của chú Thiên Sứ.
  16. Cảm ơn chú Thiên Sứ đã giải đáp. Xem ra vấn đề nào cũng đều còn nan giải cả. Câu thứ 3: Có ai đi Đền Hùng chịu khó đếm giúp bậc thang để Phoenix kiểm chứng luận đoán của chú Thiên Sứ nhé. :rolleyes:
  17. Hiện nay đang có cuộc tranh luận về giá trị thực của các tư liệu cổ sử. Một vài ý kiến đã đồng tình rằng trong truyền thuyết, lịch sử của chúng ta có nhiều nội dung ảo. Để thêm tư liệu cho việc tham luận, Phoenix xin giới thiệu bài viết của ông Phạm Văn Bản đề cập đến nội dung này. Mời các bạn theo dõi và thêm ý kiến tham luận. Nguồn: http://phamvanban.awardspace.com/ P/S: Topic này chỉ trao đổi trong phạm vi đánh giá giá trị của truyền thuyết lịch sử, không đề cập đến vấn đề quan điểm chính trị của các tác giả. Xin giới thiệu cùng bạn đọc: Cái Học và Cái Không Đáng Học - Phạm Văn Bản Phần I: Đọc bài viết trên Đàn Chim Việt, “Trong nỗi bất an hãy tìm về nguồn sử Việt” của tác giả Nguyễn Khoa Thái Anh, bàn về Truyện Hồng Bàng trong Lĩnh Nam Chích Quái của Trần Thế Pháp, với nhiều dịch thuật hay biên soạn công phu của nhiều sử gia, văn nhân trong thời gian qua. Thực ra, Truyện Hồng Bàng mới chỉ xuất phát từ thế kỷ 14, và gán ghép giữa truyền thuyết Con Cháu Tiên Rồng với hai biểu tượng linh thiêng cao quý của Tộc Việt, tượng trưng cho Hai Ông Bà Khởi Tổ. Không những cốt truyện để lộ âm mưu xuyên tạc về truyền thuyết, nhằm mục đích đồng hóa nguồn gốc dân Việt vào dòng giống Hoa mà còn để lộ những dữ kiện, như sau: - Truyện Hồng Bàng đề cao người đẹp họ Âu – Âu Cơ – thành tên bà tổ của Tộc Việt. Theo cổ học, vào thế kỷ thứ 3 trước công nguyên, cách nay 2300 năm, các sắc dân Âu Việt tràn vào vùng đất của Lạc Việt, rồi từ đó nước Âu Lạc được thành lập. Bởi thế, câu truyện này chơi chữ bằng cách gán ghép hai họ của hai sắc dân Lạc Việt, và Âu Việt thành ra tên của hai vợ chồng Lạc Long Quân và Âu Cơ. - Truyện cũng ghi lại địa giới rộng lớn của Tộc Việt, nhưng lại cho đó là thuộc quyền cai trị của vua người Hoa mấy ngàn năm trước. Đã gán ghép nguồn gốc người Hoa cho thành tổ của Tộc Việt, của sắc dân Bách Việt… rồi lại còn đánh lận vùng đất ngàn năm của Tộc Việt đương thời thành ra đất của người Hoa. - Theo nội dung, tuy Sùng Lãm gốc người Hoa nhưng lại là người gian manh háo sắc và vô tâm. Sùng Lãm đã dùng thủ đoạn để chiếm đoạt vợ của người anh chú bác ruột, rồi khi có gia đình với vợ với con, thì lại bỏ bê mọi trách nhiệm. Mặt khác cũng thế, Âu Cơ tuy là dân Hoa nhưng cô lăng loàn mất nết, trốn chồng theo trai tơ! - Và rồi toàn thể trăm đứa con đều nhận biết mình là dòng giõi người Hoa, đều theo mẹ Âu Cơ đi về Bắc quốc. Nhưng về không được, nên mới đành ở lại Nước Nam. Vua nước Nam lại cũng nhẫm tâm bỏ về thủy phủ, phó mặc cho mẹ con chia nhau mà cai trị dân Nam. Chẳng những Truyện Hồng Bàng đã có mưu đồ đồng hóa nguồn gốc Việt, nhằm thực hiện câu Giao Chỉ Diệt của Mã Viện, mà còn xuyên tạc truyền thuyết cao siêu Tộc Việt, cướp đất Dân Việt, mà còn nặng lời nhục mạ dòng Giống Việt. Đây chính là nhát búa bổ vào đầu chúng ta mỗi khi đọc truyện tích này. Trước khi đi vào phân tích toàn bộ của vấn nạn tài liệu sách vở này, Thần Báo cũng xin thành thật cám ơn tác giả Nguyễn Khoa Thái Anh với câu nhận định của ông: “… tôi xin kêu gọi các bậc tiền bối, học giả khắp nơi giúp chúng ta tìm hiểu những ngụ ý ẩn dụ trong nghĩa trong chuyện xưa tích cũ của đân tộc, ít ra đó cũng là một truyền thống chung của dân tộc mà mọi người có thể chia sẻ. Là một kẻ theo tây (Mỹ) học, nên xin quý vị lượng thứ cho nếu tôi viết lại có gì sai sót.” Bởi thế mà Thần Báo xin phép bạn đọc, để ‘gõ trống trước cửa nhà banh’ của cái học Việt. 1. Cái Học Dân tộc Việt Nam tự nhận mình là Con Cháu Tiên Rồng, và tự tin tự hào về nền tảng của nòi giống, để từ đó, có thể căn cứ vào nguồn gốc mà thấy mình khác biệt, hoặc trổi vượt hơn sắc dân xung quanh. Trong suốt dòng lịch sử, Con Cháu Tiên Rồng đã trở thành nền tảng tâm linh sâu vững nhất trong tư tưởng, trong huyết quản, trong đời sống của mỗi người dân Việt chúng ta. Tuy nhiên, đang khi đại chúng Việt hãnh diện và phát huy các biểu tượng Tiên Rồng cao quý nhất của Tổ Tiên, thì lớp người trí thức lại tỏ ra lúng túng trong việc giải thích về nguồn gốc, và truyền thuyết dân tộc. Do đó hôm nay, chúng ta cần dứt khoát đi tìm hiểu tường tận, đích xác, đúng thực về nguồn gốc của mình, và những sự kiện liên quan giữa dân Việt với sắc dân khác, đặc biệt với người Tộc Hoa, nhằm loại bỏ âm mưu Giao Chỉ Diệt của họ. Ngoài ra, lại có người dựa vào các tài liệu khảo cổ để quan niệm rằng dân tộc Việt Nam có nguồn gốc do dân từ Nam Dương. Quả thật, một số cổ vật có thể chỉ dấu rằng thời xa xưa đã có một số người cư ngụ trên vùng đất Việt Nam. Tuy nhiên, vấn đề cốt yếu lại là tỷ lệ ảnh hưởng huyết thống và văn hóa của họ đối với dân tộc Việt Nam hiện nay. Trong thực tế, tỷ lệ đó quá thấp cho nên không đáng quan tâm, không đáng học. 2. Cái Không Đáng Học Truyện Hồng Bàng trong sách Lĩnh Nam Chích Quái của Trần Thế Pháp viết khoảng những năm 1370 – 1400: Vua Đế Minh, cháu ba đời của Viêm Đế, đi thăm dân vùng Ngũ Lĩnh, lấy Vụ Tiên sinh ra Lộc Tục được Đế Minh cho làm vua vùng đất đông giáp Nam Hải, tây đến Ba Thục, bắc đến Hồ Động Đình, nam đến nước Hồ Tôn Tinh. Lộc Tục lấy con vua Động Đình là Long Nữ, sinh ra Sùng Lãm. Sùng Lãm thay cha làm vua, lấy hiệu là Lạc Long Quân. Sùng Lãm cướp vợ yêu của Đế Lai tên là Âu Cơ, nhưng nhiều tác gỉa thời sau lại sửa đổi là Âu Cơ, con của Đế Lai, thay vì là vợ. Âu Cơ sinh cái bọc chứa 100 trứng, nở ra trăm con trai. Sùng Lãm đi vắng, Âu Cơ dẫn bầy con về Bắc quốc, nhưng về không được, đành trở lại. Sùng Lãm liền chia con làm hai, 50 đứa theo Sùng Lãm xuống thủy phủ, 50 đứa theo Âu Cơ ở lại trên đất để cai trị dân… Một trăm đứa con trai đó là những vị tổ đầu tiên của Bách Việt. a. Những Điểm Chính - Sùng Lãm và Âu Cơ sinh 100 con trai, và họ là thủy tổ của Bách Việt, tức của toàn thể Tộc Việt. - Bà nội của Sùng Lãm tên là Vụ Tiên, ở vùng núi Ngũ Lĩnh. - Mẹ của Sùng Lãm tên là Long Nữ (Long Nữ có nghĩa là nàng họ Long), và là con của vua Động Đình, ở thủy phủ. - Ông nội, ông cố, ông tổ của Sùng Lãm đều là người phàm, dòng vua, và đều là người Hoa. - Sùng Lãm nối ngôi cha, lấy hiệu là Lạc Long Quân. - Âu Cơ là người Hoa, vợ của Đế Lai. Nhưng nhiều tác giả thời sau ghi lại Âu Cơ là con của Đế Lai thay vì là vợ – Âu Cơ có nghĩa là người đẹp họ Âu. Bà dẫn con về Bắc quốc, mà không được. - Trong 100 con trai, 50 đứa theo Sùng Lãm về ở thủy phủ, 50 đứa kia theo Âu Cơ ở lại nước Nam và chia nước mà cai trị. - Dưới sự cai trị của dòng họ đó là đám dân đen nghèo đói đang phục vụ họ, và đang bị họ phiền nhiễu. - Địa phận vùng đất của Tộc Việt là vùng phía nam sông Dương Tử và nam Ngũ Lĩnh. - Vùng đất này đã thuộc quyền vua người Hoa, nhưng sau chia lại cho Lộc Tục, nên mới thành đất của Tộc Việt. b. Mấy Điểm Xác Định Truyện Hồng Bàng ghi lại nhiều chi tiết của truyền thuyết Con Cháu Tiên Rồng đang lưu truyền phổ quát trong toàn thể dân Việt từ nhiều ngàn năm trước. - Từ ngàn xưa, dân ta xưng mình là Con Cháu Tiên Rồng. Truyện Hồng Bàng xác nhận điểm này, nhưng lại do bà nội và mẹ của Sùng Lãm. Bà nội của Sùng Lãm cũng có tên với chữ tiên, là Vụ Tiên, và mẹ của Sùng Lãm có họ là Long – Long Nữ. Chữ long là do chữ rồng đọc theo giọng người Hoa mà phát âm ra. - Từ ngàn xưa, dân ta biết chắc chắn là mình phát xuất ở vùng Ngũ Lĩnh, Hồ Động Đình. Truyện Hồng Bàng cũng xác nhận bằng cách cho đó là quê hương của Vụ Tiên và Long Nữ. - Từ ngàn xưa, dân ta tự xưng là họ Lạc, Lạc Việt. Truyện Hồng Bàng giải thích là phát xuất do tên hiệu của Lạc Long Quân. - Câu Cha Rồng nói với Mẹ Tiên: “Ta là giống Rồng, nàng thuộc dòng Tiên” đích thực là của truyền thuyết Lạc Việt từ ngàn xưa. Dầu ra ngoài văn mạch, Truyện Hồng Bàng cũng phải lập lại nguyên văn. Nếu theo đúng văn mạch của Truyện Hồng Bàng, thì Sùng Lãm phải nói với Âu Cơ rằng “Ta hiệu là Lạc Long Quân, có bà nội tên tục là Tiên, có bà mẹ họ là Long, còn nàng là người phàm…” Cũng theo Truyện Hồng Bàng thì chồng của Âu Cơ là Đế Lai, “Nhớ đến chuyện ông nội là Đế Minh nam tuần gặp tiên nữ…” nên Đế Lai cũng đi, và như vậy Âu Cơ đã không thể là tiên. - Từ ngàn xưa, dân ta quan niệm biểu tượng Rồng là Cha, ở dưới nước, thiên biến vạn hóa, và Tiên là Mẹ, ở trên đất dưỡng nuôi bảo bọc. Truyện Hồng Bàng làm nổi bật những đặc tính này nơi Lạc Long Quân và Âu Cơ. - Biểu tượng 50 con theo Mẹ, 50 con theo Cha là truyền thuyết Việt. Tuy nhiên, Truyện Hồng Bàng lại cho rằng 50 đứa theo cha về luôn thủy phủ, giao quyền cai trị dân Việt trong tay 50 đứa theo bà mẹ người Hoa. Như vậy thì làm sao vẫn còn đủ 100 để làm tổ cho Bách Việt. - Câu Cha Rồng dặn: “Khi cần thì gọi, ta về ngay” cũng là xác định nền tảng của truyền thuyết Việt. Truyện Hồng Bàng lặp lại ba lần trong ba trường hợp khác nhau. - Truyện Hồng Bàng xác định địa vực của Bách Việt là toàn thể vùng Nam Dương Tử và Nam Ngũ Lĩnh. Dầu trái với tham vọng quyền lực của người Hoa, Truyện Hồng Bàng cũng phải ghi lại tỉ mỉ biên cương của Tộc Việt, và như thế, chắc chắn, đây là sự kiện hiển nhiên đương thời. - Truyền thuyết mọi người dân đều có cùng nguồn gốc Tiên Rồng, đều từ Một Bọc Trăm Con, là của dân ta. Dầu trong suốt bài, Truyện Hồng Bàng chỉ quanh quẩn với dòng họ một triều vua, thì câu cuối lại phải lien kết Bọc Mẹ Trăm Con với Bách Việt: “Bách Nam là thủy tổ của Bách Việt vậy.” - Và như thế Truyện Hồng Bàng mặc nhiên xác nhận là đã có hai tộc dân Việt và Hoa khác nhau, với hai nền văn hóa khác nhau, và đã sinh sống trên hai vùng đất khác nhau. - Đặc biệt về phương diện lãnh thổ, Truyện Hồng Bàng xác nhận truyền thuyết Tộc Việt phát xuất từ vùng Hồ Động Đình, sau đó phát triển trên một vùng rộng lớn, bao gồm từ Nam Dương Tử xuống tới Bắc Trung Phần Việt Nam ngày nay. - Với việc đồng hóa nguồn gốc Bách Việt thành con cháu của Lạc Long Quân, Truyện Hồng Bàng đã phải xác nhận ảnh hưởng lớn mạnh của Lạc Việt thời ấy. Trong cuốn Portraits of China của tác giả Lunda H. Gill, nhà xuất bản University of Hawaii Press, Honolulu 1960, trang 2 ghi rằng, “Trong việc thành hình nền văn hóa Trung Hoa, thiết tưởng ảnh hưởng của những sắc dân thiểu số đã to lớn hơn là nhờ sử gia truyền thống người Hoa công nhận. Sử gia Trung Hoa đã có khuynh hướng lạm nhận rằng dân Hoa đã khởi nguồn từ thung lũng Hoàng Hà, vùng Trung Nguyên, rồi tỏa lan và hấp thụ các dân ‘mọi rợ’ bằng việc ban phát cho họ những hồng ân của nền văn minh Hoa.” Tuy nhiên, “thay vì ước định có một sắc dân chủ yếu tỏa lan và hấp thụ các sắc dân khác, có lẽ ta nên nhìn thấy những ảnh hưởng văn hóa hỗ tương đưa đến dị biệt trong nền văn minh Trung Hoa. Tại một số nơi, nền văn minh này mang dấu vết địa phương và của những sắc dân đã bị đồng hóa vào dân Trung Hoa.” Tiếp đến, cuốn The Chinese Mosaic của tác giả Leo J. Moser, nhà xuất bản Westview Press, London 1985, trang 10: “Sắc dân, mà ngày nay tự nhận là dân Hoa, đã có nguồn gốc từ thượng lưu Hoàng Hà trong khoảng từ 3000 tới 4000 năm trước,” đang khi, tác giả khác cho rằng đã có từ 7000 đến 8000 năm trước đây. Theo tác giả Bodo Weithoff, trong cuốn Introduction to Chinese History của nhà xuất bản Thames and Hudson, London 1975, trang 38 ông viết, “Vùng lịch sử xưa nhất của Trung Hoa là Trung Nguyên, ở khoản giữa lưu vực Hoàng Hà, gồm một phần của các tỉnh Hà Nam, Hà Bắc, và Sơn Tây hiện nay. Đó là lãnh vực của các nhà vua Thương, mà sau này, thời Châu xưng là Trung Quốc. Và hai tác giả Arthur Cotterell và David Morgan viết trong cuốn China, an Intergrated Study của nhà xuất bản Harrap, London 1975, trang 62 và trang bản đố: “Đang khi người Hoa phát triển ở vùng Trung Nguyên, thì ở vùng Hồ Nam đã có Tộc Việt. Tộc Việt phát khởi từ vùng Hồ Động Đình, ở phía nam trung lưu Sông Dương Tử, rồi phát triển và tạo thành ba nhánh chính, là Thái, Dao, và Việt. Nhánh Thái và Dao của Tộc Việt di chuyển dọc theo các thung lũng, xuống miền nam, đến các vùng Quý Châu, Quảng Tây, Vân Nam, Ai Lao, Miến Điện, và Thái Lan ngày nay. Nhánh Việt thì xuôi theo Sông Dương Tử tiến ra biển, rồi dọc theo bờ biển tiến về phương nam. Cách đây năm sáu ngàn năm, người nhánh Việt đã có mặt khắp vùng này là Hồ Nam, Giang Tây, Chiết Giang, Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam, Quý Châu, Bắc Việt, và Bắc Trung Việt. Theo thời gian và điều kiện sinh sống địa phương, Tộc Việt lại chia thành nhiều nhánh nhỏ. Mỗi nhánh mang một tên riêng, nhưng đã gọi chung là Bách Việt.” Tham khảo những sách sử trên đây sẵn có trong thư viện Hoa Kỳ, Thần Báo cảm nhận rằng, ngay cả mấy ngàn năm trước khi tiếp xúc với Tộc Hoa, chẳng những dân Việt đã phát triển mạnh về nhân số, mở rộng địa bàn sinh sống, mà còn đặc biệt tiến triển về nếp sống xã hội nông ngư nghiệp. Sự trổi vượt về nếp sống này còn được ghi nhận và lưu truyền đặc biệt qua kỹ thuật tinh xảo về đồ đồng. Cả đến thời nay, đỉnh đồng và trống đồng của dân Việt từ những thời xa xưa đó vẫn còn là những tuyệt tác vô song. (Còn tiếp)
  18. Cái Học và Cái Không Đáng Học - Phạm Văn Bản (tiếp): Tổng Kết Truyện Hồng Bàng, với Lạc Long Quân và Âu Cơ, với nhiều dấu vết của thời An Dương Vương, với tên nước ta gọi là Xích Quỷ. Thời xưa, mặt đất được kha thiên văn Đông Á chia vùng theo tên của 28 ngôi sao trên trời; và vùng ngôi sao tên Quỷ là vùng Hồ Động Đình. Với tham vọng thống trị và đồng hóa của người Hoa, đặc biệt ở giới học thức và Truyện Hồng Bàng, đã đưa đến việc lạm nhận là mọi giống dân quanh vùng đều được khai hóa bởi nền văn minh Hoa, và mang ảnh hưởng Hoa trong mọi phương diện. Sai lầm này rất phổ biến trong quá khứ, và cho tới hiện tại vẫn còn được nhiều người trong giới học thức nhắm mắt hỗ trợ, dầu là có trái ngược với chứng cớ lịch sự và Việt học. Trách gì trong thời gian qua, với sự lạm nhận và xuyên tạc trùm khắp mọi lãnh vực, nhiều nhân vật Tộc Việt cũng đã bị ảnh hưởng lây! Bởi thế, việc tìm hiểu, khảo cứu, áp dụng, sống và nhìn người khác sống chung quanh để thích nghi với hiện cảnh, mà ta trọn tâm trọn ý… là cả một tiến trình dài, như lịch sử một dân tộc đã trải qua bao ngàn năm tiếp diễn, cao siêu, và hiện thực… đang là một đặc điểm của dân tộc Việt chúng ta. Và qua tâm tình lẫn khúc nhôi suy xét của Thần Báo trình bày, thì người thanh niên Huỳnh Việt Lang cũng hiểu được như thế, nên em đã viết bài với tựa đề “Chí Phèo thời các vua Hùng.” Mong quý bạn đón đọc. Tóm lại, chúng ta cũng còn nhiều truyền thuyết cần tìm hiểu trong tinh thần hiếu thảo, biết ơn, và khâm phục Tổ Tiên, mà cũng là xây đắp niềm tự tin tự hào chính đáng vào quá khứ, để hăng say xây dựng hiện tại, va hiên ngang bước vào tương lai Nước Dân Việt. Lynnwood, ngày 9 tháng 6 năm 2007 (Hết)
  19. Cái Học và Cái Không Đáng Học - Phạm Văn Bản (tiếp): Với cuộc sống đầy biến chuyển va trắc trở, con người lại nhận ra rằng tình thân thương chỉ tồn tại khi con người sẵn sàng đánh đổi cả cuộc sống mình cho những người mình mến thương, “Sẵn sàng chết cho nhau.” Và rồi, dầu yêu thương nhau khắng khít, dầu có thắng vượt mọi trở ngại để bảo vệ tình thân, con người cũng trải qua kinh nghiệm của sự chết, của việc người thân vĩnh viễn chia lìa. Nhưng cũng do kinh nghiệm đó, do lòng thương nhớ không nguôi, con người lại cảm nhận là sự chết chẳng những không chấm dứt hoặc ngăn cản, mà trái lại, còn giúp nhau thể hiện trọn vẹn tình Thân Thương Tột Cùng, “Mãi mãi có nhau,” vì khi đó không còn bất cứ gì có thể ngăn cản con người kết hiệp với nhau trong yêu thương, trong tình đồng bào. - Tất cả đều là kinh nghiệm sống, và tất cả đều phát xuất từ tình thân ruột thịt gia đình, từ mẹ, từ cha, từ anh chị em, đối với nhau. Và cũng vì vậy, mọi cuộc sống mang vết tích con người, mọi cuộc sống xứng đáng con người, mọi cuộc sống tràn đầy ý nghĩa, mọi cuộc sống toàn vẹn, đều là những cuộc sống bộc lộ và thể hiện tình thân giữa Người và Người. Cũng vì vậy, văn hóa Việt bao gồm mọi con người trong tình thân của Gia Đình. Đối với nếp sống Việt, làng, nước, và cả nhân loại, cũng chỉ là một gia đình. Con người toàn nhất, tự tại, bất khả phân, nhưng đồng thời Con Người cũng bẩm sinh là thành phần của xã hội. Trong cùng một lúc, khởi sự có Con Người là có 100 người. Không hề có Con Người đơn độc như các nền văn hóa khác. Với triết thuyết Tiên Rồng của Việt học, chẳng những chúng ta giải quyết được những xung đột và sai lầm của chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa tập thể, mà còn giúp chúng ta thay đổi vận hành thế giới thoát cơn tao loạn của chủ trương đấu tranh sinh tồn hay mâu thuẫn nội tại. Ở cấu thành cũng như ở mọi sinh hoạt của con người, luôn luôn phải có sự hòa hiệp đứng đắn và đầy đủ, song hiệp, giữa hai cấu tố tương đồng, được biểu trưng qua Tiên và Rồng, như giữa cá nhân và cộng đồng, giữa gia đình và làng nước, giữa vật chất và tinh thần, giữa tình và lý, giữa vợ và chồng, giữa chù và thợ, giữa kinh tế và đời sống… (Còn tiếp)
  20. Cái Học và Cái Không Đáng Học - Phạm Văn Bản (tiếp): Trong cuộc sống, con người nhận ra mình không thể sống đơn độc. Ngay từ lúc bắt đầu sống, con người cần có mẹ có cha, có sự chăm sóc bảo bọc của tình thân ruột thịt. Khi sống đơn độc, con người không thể phát triển toàn vẹn một cuộc sống xứng đáng Làm Người. Do kinh nghiệm đó, con người nhận ra mình vừa là một hiệp thể cá biệt toàn vẹn, mà cũng vừa là một thành phần của cộng đồng anh em. Cũng do kinh nghiệm của cuộc sống trong tình thân với cha mẹ anh chị em, con người nhận ra mình cũng có cùng một nguồn gốc, cùng một sức sống, và cùng chia sẻ cuộc sống với nhau. - Con người rút tỉa kinh nghiệm do cuộc sống bản thân quây quần trong gia đình. Tuy nhiên, cuộc sống không đóng khung trong tập thể hạn hẹp, mà mở rộng tới nhiều con người khác. Cuộc sống càng kéo dài và càng có đông người, thì con người càng thêm kinh nghiệm về những khác biệt trong tài năng, trong sức lực, cũng như trong những may rủi của cuộc đời. Do đó, kinh nghiệm đối xử với nhau, và do tâm tình muốn bảo đảm cuộc sống tốt đẹp cho hết mọi người, con người nhận ra rằng mỗi người phải “Nhận thực chính mình.” Khi đã biết rõ thân phận Con Người của mình, mỗi người lại phải nhìn nhận và sống với những con người khác như những con người tinh vẹn, không để bất cứ ngoại vật nào làm sai lạc hình ảnh đích thực của con người, “Chỉ thấy con người.” Cũng do kinh nghiệm san sẻ trong tình thân, con người nhận ra cách xử dụng thích đáng tài năng và của cải. Tài và của chỉ là những phương tiện để giúp nhau cùng phát triển, “Tài của giúp người,” để tất cả “Mọi người cùng hưởng” hạnh phúc và thăng tiến, không trừ ai. - Do kinh nghiệm sống thân thương của gia đình, con người nhận ra tình cảm giữa con người với con người đã phát xuất từ việc nhận nhau la “Anh Em,” “Giống nhau như đúc,” và từ thực tâm “Quyết chẳng lìa nhau.” Tình yêu thương ruột thịt đó lại nhận thêm nhiều kinh nghiệm khi gia đình có thêm những người xa lạ, như khi anh chị em trong gia đình cưới vợ gả chồng. (Còn tiếp)
  21. Cái Học và Cái Không Đáng Học - Phạm Văn Bản (tiếp): Để diễn tả Con Người đích thực, Tổ Tiên dùng hình ảnh Mẹ Tiên Cha Rồng song hiệp. Tuy là biểu tượng nhưng lại rất thực tế và chính xác, được minh chứng bằng chính cuộc sống của mỗi người và của khoa học ngày nay. Ngay từ đầu, con người nhận ra mình là một hiệp thể. Ai trong chúng ta cũng biết mình do mẹ và cha kết hiệp mà thành, và ai cũng nhận thấy mẹ và cha có những đặc điểm khác nhau. - Hình ảnh Người Cha hùng dũng và quyền biến đã giúp cấu tạo biểu tượng Rồng, và diễn tả con người dưới khía cạnh sức sống vô tận, thiên biến vạn hóa. Sức sống hùng mạnh của Cha Rồng chính là phần con người bộc lộ sức sống của mình qua thể chất, với các bản năng sống còn và truyền sinh. Đây chính là sức sống Thân Lực Thực Tại của con người. Tài thiên biến vạn hóa của Rồng lại là hình ảnh của trí khôn con người với khả năng vượt qua thể chất và các đặc tính cụ thể, bỏ qua không gian và thời gian… để trừu tượng, để suy tư, để phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa, để ứng dụng, để thích nghi, để tưởng tượng, để sáng tạo… tức là sức sống Trí Năng Tinh Biến của con người. - Phần Người Mẹ, kinh nghiệm về tâm tình và cuộc sống của người Mẹ đối với con, chính là nguồn gốc của biểu tượng Tiên. Mẹ cảm thông, âu yếm, và thương con ngay từ giây phút con bắt đầu sống. Mẹ nuôi dưỡng bảo bọc con thơ chín tháng mười ngày trong chính bản thân mẹ, và trong cuộc đời… Sự bảo bọc yêu thương đến quên cả bản thân của tình mẹ, đã giúp con người nhận biết sức sống Tâm Tình Thông Hiến của mình. Chính tâm tình bao la của mẹ, của Tiên, tỏa rộng và kéo dài, đã giúp con người nhận ra chiều kích linh thông, tức nhận biết mình cũng có phần thông hiệp với nhau và với thế giới ngoài thời không, siêu linh, vĩnh cửu… được diễn tả qua đặc tính thoát tục, siêu phàm và trường sinh bất tử của Tiên. Đó chính là hình ảnh để ghi nhận sức sống Tuệ Linh Vĩnh Hiệp của con người. - Đặc tính Song Hiệp của Mẹ Tiên Cha Rồng cũng do kinh nghiệm của con người về chính cá thể mình. Tuy do mẹ do cha, nhưng con người nhận ra mình là một hiệp thể toàn vẹn, bất khả phân, và trong mình cũng có các sức sống 50 theo Mẹ 50 theo Cha. Từ tất cả những kinh nghiệm đó, Tiên Rồng Song Hiệp được nhận ra là nguyên lý nền tảng để nhận diện chính bản thân con người, chính các sức sống, và tất cả những tương quan, những sinh hoạt, hay bất cứ những gì mang đặc tính Người. - Theo truyền thuyết Tiên Rồng, biểu tượng Một Bọc Trăm Con, khẳng định Đặc Tính Xã Hội Bẩm Sinh của con người, cũng do kinh nghiệm của cuộc sống gia đình, với mẹ với cha, với anh chị em. (Còn tiếp)
  22. Cái Học và Cái Không Đáng Học - Phạm Văn Bản (tiếp): e. Giải Quyết Cá Nhân và Xã Hội Thần Báo tin chắc rằng, nguyên nhân chính của thảm họa nhân loại hôm nay là vì các chủ thuyết hiện thời đã nhận định sai lạc về Con Người, và do đó đã đặt nền tảng giả tạo cho Xã Hội loài người. Khi quan niệm con người chỉ là một con thú tiến bộ, hay chỉ được đối xử như một sinh vật tiêu thụ và sản xuất của nền kinh tế thị trường, khi chỉ nhìn nhận con người với một số đặc tính và chối bỏ các đặc tính khác, khi chủ trương con người phải đối xử với nhau bằng hận thù, bằng đấu tranh, bằng mánh khóe đạp lên xác nhau mà tiến… thì làm sao con người có thể an vui hạnh phúc? Các chủ thuyết hôm nay: duy vật, duy lợi, duy tâm, duy linh, duy nghiệm, duy lý… và các chủ nghĩa: chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa tập thể, chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa bá quyền, chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa cộng sản… đã thất bại trong cố gắng tiêu diệt bất công, vì chúng đã tạo ra những giai cấp mới! Chúng lầm tưởng chúng đã giải phóng Con Người, thì thực tế là chúng lại nô lệ hóa Con Người khủng khiếp hơn, ngày một khốn khổ hơn, lụn bại hơn, tha hóa hơn, tụt hậu hơn không đúng sao? Nhưng văn hóa Việt, điểm quan trọng đầu tiên là phải giải quyết những sai lầm nền tảng về Con Người và Xã Hội Loài Người. Và vấn đề này đã được giải quyết thỏa đáng trong tinh túy của câu chuyện Con Cháu Tiên Rồng, qua ý nghĩa phối hiệp của hai biểu tượng Tiên và Rồng, tương đồng tuyệt đối, 50 theo mẹ 50 theo cha, và qua biểu tượng mọi người đều ở trong Một Bọc chứa một trăm anh em ruột thịt. Truyền thuyết Tiên Rồng là bản văn nhận diện chính xác và trọn vẹn về con người và về xã hội loài người. Qua câu chuyện Con Cháu Tiên Rồng, chúng ta nhận ra Con Người là một hiệp thể gồm cả bốn sức sống thân lực, trí năng, lẫn tâm tình và tuệ linh. - Thân lực thực tại - Trí năng tinh biến - Tâm tình thông hiến - Tuệ linh vĩnh hiệp (Còn tiếp)
  23. Cái Học và Cái Không Đáng Học - Phạm Văn Bản Phần III (tiếp): Lịch sử Việt chứng minh rằng: thời kỳ nào dân nước biết sống đúng văn hóa Tiên Rồng, thì thời kỳ đó, giai đoạn đó dân Việt được sống trọn vẹn Con Người nhất, hạnh phúc nhất, và quê hương đất nước được hùng cường thịnh vượng nhất. Trong giai đoạn đó, mọi khía cạnh cuộc sống con người, từ cá nhân đến gia đình, làng xóm, dân nước, qua chính trị, kinh tế, xã hội, tôn giáo, quân sự... thì nguyên lý Tiên Rồng song hiệp đã được ứng dụng triệt để. Nhờ đó, văn hóa Việt luôn luôn kết hợp thành công những yếu tố nhiều khi như đối nghịch. - Mỗi Người luôn luôn cố gắng sống thực trọn vẹn Con Người Tiên Rồng. Mọi người thể hiện cuộc sống vừa thể chất vừa tinh thần, vừa tình vừa lý, vừa trí vừa nhân, vừa dũng cảm vừa hiền hòa, vừa lo ăn mặc vừa để thảnh thơi, vừa cho hiện tại vừa cho tương lai, vừa cho cá nhân vừa cho tập thể... năm mươi theo mẹ năm mươi theo cha, song hiệp hoàn chỉnh, hai bên cân bằng 50 và 50. - Gia Đình là nền tảng sống thực và phát triển toàn diện Cuộc Sống Con Người, mà cũng vừa là đơn vị cấu thành Dân Nước. Trong gia đình vợ chồng sống vừa tình vừa nghĩa, vừa yêu thương vừa kính trọng, vừa thể xác vừa tinh thần, năm mươi Tiên năm mươi Rồng. Vợ chồng luôn luôn bình đẳng, cả những khi cúng tế... Không có cảnh chồng chúa vợ tôi như văn hóa Hán. Người Việt chúng ta, luôn luôn theo tiêu chuẩn thuận vợ thuận chồng tát bể Đông cũng cạn. Thích con trai mà thương con gái. Vô nam dụng nữ như trong ca dao: "Trai mà chi gái mà chi, Con nào có nghĩa có nghì thì hơn." Có vợ chồng mà cũng có thân tộc. Có gia đình mà cũng có làng nước. - Xã Hội có trên có dưới mà không có thống trị. Nay là dân mai là quan và mốt lại là dân. Có khác biệt mà không có ngăn cách. Có nhân tước mà cũng có thiên tước. Có giàu nghèo mà không có chế độ nô lệ. Có pháp lý mà cũng có tình nghĩa... Bảo bọc che chở, đầy tình đủ lý... Có tập thể mà cũng có cá nhân. Có ta mà cũng có người. Có gần mà cũng có xa. Có nước mà cũng có nhà. - Chính Trị có thể chế đặc thù gồm cả làng và nước, nên vừa có vua quan mà cũng vừa có nếp sống dân chủ. Chăn dắt dân mà cũng tùy thuộc dân. Có lãnh đạo mà không có thống trị. Có triều đại mà không có giai cấp đặc quyền. Có mưu lược mà cũng có đạo lý. Có uy nước mà cũng có tình dân. Có tài mà cũng có đức... Với người tại thế mà cũng với người khuất mặt. - Kinh Tế. Mục tiêu chính của phát triển kinh tế là để tất cả mọi người sống trong xã hội Đồng Bào, cùng được hưởng cơm no áo ấm và tăng trưởng trọn vẹn. Có gạo trắng mà cũng phải có trăng thanh. Có cần kiệm mà cũng có thảnh thơi. Muốn tiền của mà cũng chẳng sợ nghèo. Không chịu thiếu mà cũng chẳng chịu thừa. Sự bình sản dựa trên cộng tác tương thân và cơ chế thích đáng, chớ không dựa trên đấu tranh hay bức chế. Theo chế độ rút thăm chia đất định kỳ, để vừa hữu sản mà cũng vừa vô sản. Không để kinh tế làm lũng đoạn Cuộc Sống Con Người, và gây nguy hại cho Xã Hội Loài Người. - Quốc Phòng, Quân Sự. Giữ nước là việc của toàn dân. Làng xã vừa là đơn vị xã hội, vừa là đơn vị chiến đấu. Vừa là lũy tre làng vừa là thành trì chống giặc. Để giữ nước mà cũng để giữ nhà. Có quân sĩ mà cũng có toàn dân. Đang là dân mà cũng đang là quân... Có võ mà cũng có văn. Có tài mà cũng có đức. Vừa du kích mà cũng vừa diện địa. Vừa uy lực mà cũng vừa mưu lược. Vừa đánh giặc mà cũng lo cứu người. - Niềm Tin. Sống đạo Người mà cũng sống đạo Trời. Vừa thờ Trời mà cũng vừa thờ Người. Đạo tại tâm nhưng trọng nghi lễ. Cho tập thể mà cũng cho cá nhân. Cho hiện tại mà cũng cho quá khứ vị lai... Cõi dương sao cõi âm vậy. Lấy nếp sống truyền thống làm tiêu chuẩn hòa hợp tinh hoa các tôn giáo. Sẵn sàng đón nhận chân lý của tôn giáo, mà cũng quyết liệt gạt bỏ những phần thực hành không thích hợp. Tóm lại, Văn Hóa Việt đã đặt nền tảng trên chuyện Tiên Rồng, trên nguyên lý Tiên Rồng song hiệp. Ở những nơi, những thời xảy ra sự phối hiệp không hoàn chỉnh, hoặc thiên về bên này hay nghiêng về bên kia: duy vật, duy lợi, duy tâm, duy linh, duy lý… đều là những giai đoạn hạnh phúc Con Người bị khiếm khuyết. (Còn tiếp)
  24. Cái Học và Cái Không Đáng Học - Phạm Văn Bản Phần III (tiếp): d. Tiên Rồng Song Hiệp Trong Văn Hóa Việt Thần Báo cảm nhận rằng, việc tìm hiểu cuộc sống, phong tục, tâm tư của đại chúng Việt, lại rất cần phải thực sự am tường, nhận thực, và thông suốt… chớ không chỉ lập lại những sáo ngữ, những luận điệu sẵn có trong sách vở, được uốn nắn theo thành kiến giáo điều… như trong Truyện Hồng Bàng, hay trong Thục An Dương Vương Tiên Đế Ngọc Phả Cổ Lục của nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội, Hà Nội 1976. Ở mọi thời và mọi nơi, người ta đều mang mặc cảm học thức, coi trọng sách vở, coi trọng giới quyền chức, mà khinh thường giới bình dân. Và chỉ một câu trong cuốn sách nào đó, hay một điều luật của giới cai trị,... thường được lặp đi lặp lại như những bằng chứng, để đặt ra nền tảng uy thế suy luận của mình với nhóm đặc quyền, với giai cấp thống trị.... hơn là với nếp sống thực tại của giai cấp bị trị, với bao chục triệu người dân thọ thuế trước mắt. Trong suốt mấy ngàn năm dòng giống Việt, đặc biệt dân tộc Việt Nam, đã sống với một nếp sống thực và thể hiện toàn diện trên nền tảng Tiên Rồng song hiệp. Tuy rằng có những thời suy thoái, nhưng cũng có nhiều giai đoạn mà dân tộc Việt Nam biết sống đúng với di huấn của Tổ Tiên: đặt nền tảng con người và xã hội loài người trên triết thuyết Tiên Rồng. Nhờ đó dân Việt phát huy được một nền văn hóa đặc thù, với nhiều nét đặc trưng. (Còn tiếp)
  25. Cái Học và Cái Không Đáng Học - Phạm Văn Bản Phần III (tiếp): 5. Giải Nghĩa Truyền Thuyết Tiên Rồng Thần Báo thiết tưởng, chưa ai gặp bà tiên bao giờ. Theo chữ nho, tiên là người ở núi, vì ghép bởi chữ nhân với chữ sơn thành chữ tiên. Nghe nói tới tiên thì nhiều, nhưng chưa gặp mặt, không biết có thật hay không? Giống rồng cũng vậy, nghe nói và thấy hình vẽ thì nhiều, nhưng có ai gặp rồng? Có chăng là người ta thấy những cuồng phong mà tưởng tượng ra, cũng chưa ai quả quyết là có giống rồng. Và rồi nguồn gốc một giống người – người Việt – lại được cho là do sự phối hiệp của một bà Tiên và một ông Rồng. Không biết hai ông bà ăn ở với nhau ra sao, mà bà Tiên lại sinh ra một cái bọc. Cái bọc đó lại nở ra trăm đứa con. Không biết sao lại phải chẵn một trăm. Cũng không biết là toàn trai hoặc toàn gái, hay nửa này nửa kia. Không có gì làm chắc! Lại nữa, cũng không biết có phải vì cơm không lành canh không ngọt ra sao, mà một hôm chàng Rồng bỗng đòi chia tay và chia con. Năm chục con theo mẹ Tiên về quê ngoại trên núi. Số còn lại là năm mươi con theo cha về biển, là nơi vùng vẫy của loài Rồng. Đã đòi chia tay và chia con, vậy mà cha Rồng lại còn nói: “Khi cần thì gọi, ta về ngay!” Người lên núi, kẻ xuống biển mà sao hễ gọi, là về ngay? Không lý thời đó đã có điện thoại vi tính? Xét theo bình thường thì Thần Báo thấy rằng nguồn gốc dòng giống Việt chỉ gồm toàn những chi tiết kỳ quặc, hay lạ lùng khó tin. Tin làm sao được chuyện có bà tiên, có ông rồng, hai giống hoàn toàn khác biệt, lại lấy nhau và sinh được con cái. Tin làm sao được chuyện bà tiên sinh ra một cái bọc với cả một trăm đứa con, rồi làm sao chăm lo bú mớm? Thần Báo nhất định không tin! Nguồn gốc đã khó tin, ngọn ngành lại càng kỳ quái. Tại sao lại phải chia tay, chia con? Không lý ông bà nêu gương dạy con cháu đừng ăn đời ở kiếp với nhau? Mà đã chia tay chia con, thì sao chàng rồng còn dặn: hễ gọi, ta về ngay! Vậy thì chia làm gì? Phi lý hơn nữa, câu chuyện Con Cháu Tiên Rồng lại còn được Tổ Tiên Ông Bà trang trọng chuyền miệng, hết đời này qua đời khác, trải qua bao ngàn năm lịch sử? Nhưng một hôm Thần Báo cảm nhận rằng: nếu chỉ để dạy những chuyện khó tin, như tiên, như rồng, sinh bọc trăm con; nếu chỉ để nêu những gương không đẹp, như ly dị, như chia con… thì không lý Ông Bà ta lại phải khổ công, truyền nhau ghi nhớ ròng rã cả ngàn đời con cháu! Do đó, chúng ta không thể nghe và hiểu truyện tích này theo cách bình thường; chắc chắn là phải có lý do gì quan trọng đặc biệt lắm, thì Ông Bà ta mới truyền lại những chuyện kỳ quặc đó. Vậy, vấn đề của chúng ta hôm nay, là tìm hiểu để gặp lại những bài học quý báu mà Ông Bà mình muốn nhắn gởi. * * * Có lẽ ta quá thiển cận khi một hai đòi tiên và rồng phải là hai loài sinh vật hay động vật có thật để kết nghĩa vợ chồng. Trong cuộc sống thường ngày, dầu luôn miệng nhắc tới tiên, nhưng có bao giờ ta thấy cần tìm hiểu, cần gặp mặt để biết chắc thế nào là tiên. Ta cũng thường diễn tả rồng, nhưng có lẽ chẳng ai màng tới việc nhìn thấy một con rồng thật. Vậy thì khi kể chuyện Tiên Rồng, Ông Bà ta không buộc phải tin như đó là hai sinh vật, hai động vật… mà chỉ là hai biểu tượng: Biểu Tượng Tiên, và Biểu Tượng Rồng. a. Biểu Tượng Tiên Rồng Là biểu tượng, vì khi nói tới Tiên, chúng ta nghĩ tới ngay một hình ảnh xinh đẹp, dịu hiền, từ tâm, khoan dung, nhân ái... mà còn thoát tục, siêu phàm, như tiên giáng trần, trường sinh bất tử, sống động nhưng vượt thời gian, lẫn không gian. Cũng vậy, Rồng biểu trưng cho oai dũng trổi vượt, sức mạnh vô song, sức sống vô tận, thiên biến vạn hóa, như linh như hiển, như thánh như thần... khi ẩn mình dưới đáy nước, lúc bay vút lên trời cao, làm mây làm mưa, giáng ơn giáng phúc. Và khi nói chúng ta là kết tinh của việc Tiên Rồng phối hiệp, thì Tổ Tiên ta cũng đã diễn đạt nhận thức của các Ngài về Con Người. Bởi khi nói, chúng ta là dòng giống Tiên Rồng, thì Tổ Tiên ta muốn diễn tả: Con Người là một hiệp thể sinh động, là một kết tinh toàn hảo của mọi đặc tính bộc lộ qua hai biểu tượng Tiên và Rồng. Là hiệp thể do Tiên Rồng phối hiệp, có nghĩa Con Người vừa biến hóa như Rồng lại vừa trường cửu như Tiên: vừa là hiệp thể siêu phàm, vừa trong thời không lại vừa vượt thời không, vừa linh động lại vừa thường hằng, vừa xinh đẹp dịu hiền lại vừa hùng dũng cương quyết, vừa tình vừa lý, vừa chan chứa yêu thương vừa uy lực vô song... 50 thuộc Tiên 50 thuộc Rồng, song hiệp hoàn chỉnh, hai bên quân bình. Vì là truyền thuyết của dân Việt, nên khi Tổ Tiên ta nhấn mạnh đây là nguồn gốc của tất cả mọi người, thì cũng không loại trừ ai. b. Tiên Rồng Song Hiệp Tổ Tiên không chỉ diễn đạt những đặc tính nhận diện nơi Con Người mà còn đặc biệt nhấn mạnh tới các tỷ lệ giữa các đặc tính đó. Khi cha Rồng nói: Năm mươi con theo mẹ, năm mươi con theo cha, chính là xác quyết sự tương đồng tuyệt đối giữa hai nhóm đặc tính trong Con Người, một nửa do Mẹ một nửa do Cha, năm mươi phần trăm là Tiên, năm mươi phần trăm là Rồng. Như vậy Con Người là một hiệp thể toàn hảo của hai nhóm đặc tính Tiên và Rồng tương đồng tuyệt đối. Con Người là kết tinh của Tiên Rồng song hiệp. Trong toàn bộ nhận diện Con Người qua cuộc sống, văn hóa Việt khám phá ra rằng mọi đặc tính của Con Người đều có thể đúc kết trong biểu tượng Tiên Rồng Song Hiệp. Và Tiên Rồng Song Hiệp đã thấy bàng bạc khắp nơi trong mọi tương quan và sinh hoạt của Con Người. Vì vậy, theo văn hóa Việt, Tiên Rồng Song Hiệp là nhận thức nền tảng thâm sâu nhất, vững chắc nhất trong việc nhận diện toàn thể Con Người. Chúng ta có thể gọi dó là nguyên lý, Nguyên Lý Tiên Rồng Song Hiệp. Chữ song, chẳng những có nghĩa là hai, như lưỡng, nhị.. mà lại thêm ý niệm bằng nhau, như song toàn, vô song... để diễn tả 50 - 50. Chữ hiệp, thì chẳng những có nghĩa đồng ý với nhau, do chữ hợp thêm bộ thủy, mang ý hòa lẫn vào nhau… thành một hiệp thể tự tại toàn nhất. Khi cha Rồng nêu rõ: Tiên lên núi, Rồng xuống biển, chính là muốn chú trọng tới sự vẹn toàn của mỗi nhóm đặc tính Tiên và Rồng được nhận diện trong Con Người. Do Tiên Rồng phối hiệp, Con Người là một hiệp thể tự tại, toàn nhất và bất khả phân. Tuy nhiên không phải vì vậy mà những đặc tính của hai nhóm Tiên và Rồng bị pha chế hay biến đổi. Mỗi nhóm vẫn nguyên vẹn và thể hiện đầy đủ mọi điểm đặc thù của mình, như đang sinh động nơi mỗi trường hợp thích hợp nhất, như Tiên đang ở núi cao, như Rồng đang vẫy vùng giữa biển khơi. Việc Cha Rồng nhắc nhở Mẹ Tiên: “Khi cần thì gọi, ta về ngay,” cũng là một nhận định đích xác về cuộc sống con người. Tuy Con Người là hiệp thể toàn nhất Tiên Rồng Song Hiệp, nhưng trong thực tại cuộc sống, nhiều khi một số đặc tính lại tỏ lộ rõ rệt, trong khi một số đặc tính lại có thể như thiếu vắng. Dầu vậy lúc cần thì phần thiếu vắng lại có mặt ngay. Nhóm đặc tính đó chỉ ẩn diện và luôn luôn hiện hữu trong Con Người. Ta không thể vì sự thiếu vắng bên ngoài mà chối bỏ sự hiện hữu của nó. Ví dụ: Sự ẩn diện hay bộc lộ còn có thể tùy thuộc vào một số điều kiện. Em bé mới sinh chưa đủ điều kiện thể xác để bộc lộ một số khả năng. Hoặc giả như người hư bộ óc thì không thể bộc lộ khả năng suy tư... Và như thế, nhận thức về Con Người cần phải đầy đủ, trọn vẹn. c. Nền Tảng Xã Hội Loài Người - Đặc Tính Xã Hội Bẩm Sinh Cũng với việc đặt nền tảng cho nhận thức về Con Người, truyền thuyết Tiên Rồng đặt nền tảng cho Xã Hội Loài Người. Khi Tiên Rồng là biểu tượng cho hai nhóm đặc tính được nhận diện nơi Con Người, thì Một Bọc Trăm Con không còn là cái bao lúc nhúc một trăm đứa bé nữa. Một Bọc Trăm Con chính là hình ảnh biểu trưng một nhóm người sống quây quần và liên hưởng với nhau mà ta gọi là cộng đoàn, hay xã hội. Biểu tượng Tiên Rồng sinh Một Bọc Trăm Con nêu lên hình ảnh: ngay từ khởi thủy, khi khởi sinh loài người là đồng thời có cả Một Trăm Con Người cùng một lúc. Đã không chỉ một Con Người đơn độc. Hễ Con Người là có cộng đoàn, xã hội. Đây là điểm tuyệt diệu đầu tiên của biểu tượng Một Bọc Trăm Con, văn hóa Việt xác quyết Đặc Tính Xã Hội Bẩm Sinh của Con Người. Với biểu tượng Tiên Rồng Phối Hiệp, truyền thuyết Tiên Rồng xác quyết đặc tính hiệp thể tự tại của từng Con Người, và với Một Bọc Trăm Con, xác nhận đặc tính xã hội của mọi Con Người. Hai đặc tính cá thể và xã hội được xác định đồng thời bởi biểu tượng Tiên Rồng, đã biểu lộ tính chất đặc biệt của văn hóa Việt. Đây chính là nền tảng chỉ đạo trọn nếp sống dân Việt suốt mấy ngàn năm, và đã tạo một nền văn hóa đặc thù. - Hai Nguyên Lý Xã Hội Với biểu tượng Tiên Rồng phối hiệp và sinh ra Một Bọc Trăm Con, văn hóa Việt xác quyết rằng mọi Con Người trong xã hội đều cùng một mẹ một cha và được sinh ra cùng một lần. Xác quyết này khác biệt với nhiều nền tảng của văn hóa khác. Nhiều văn hóa đã phân chia xã hội loài người thành nhiều giai cấp, và chủ trương quyền thống trị là đặc ân thiên phú của một dòng họ, hoặc một giống dân. Ví dụ: Như văn hóa Hy Lạp dành quyền ăn trên ngồi trốc cho một nhóm tự cho mình là con rơi của các vị thần. Văn hóa Ấn Độ lại chủ trương con người sinh ra trong những giai cấp di truyền: ai sinh ở đầu Bruma là tăng lữ, sinh ở bụng là thương gia, sinh ở tay chân thì làm lính, làm nô lệ... Dân Do Thái thì cho rằng dòng giống của riêng họ được Tạo Hóa đặc tuyển và phải tuyệt diệt mọi giống dân cản trở họ... Chù thuyết Quốc Xã Đức lại cho rằng dân Arya da trắng thuần chủng được đặc quyền thống trị loài người. Đang khi văn hóa Việt dùng biểu tượng Một Bọc Trăm Con để lưu truyền nền tảng của một Xã Hội Loài Người bình đẳng tột cùng và thân thương tột cùng. Không có gì diễn tả đầy đủ sự bình đẳng giữa con người với con người bằng hình ảnh ngay ở cấu thành, ngay tự khởi nguyên, con người nào cũng được hưởng nhận cùng một sức sống từ mẹ từ cha, trong cùng một lúc. Mọi người đều ra đời cùng một lần trong một cái bọc. Tự nguồn gốc, giữa con người không thể có bất cứ một dị biệt nào, chẳng những không dị biệt về sức sống, về di truyền, mà cũng không dị biệt về tuổi tác, hoặc về ngôi thứ giữa anh em. Mọi người hoàn toàn như nhau, hoàn toàn bằng nhau. Qua biểu tượng Một Bọc Trăm Con, văn hóa Việt đã nêu lên nguyên lý sâu vững nhất cho Xã Hội Loài Người về bình đẳng, con người bình đẳng tự căn nguyên, Bình Đẳng Tột Cùng. Ngoài ra, có xã hội nào thân thương bằng những anh em ruột thịt, cùng do một mẹ một cha. Tuy là anh chị em ruột nhưng cũng ít khi thương nhau đồng đều. Anh chị thường thương yêu chăm sóc cho em nhiều hơn là đứa em lo lắng cho anh chị. Do đó khi nhấn mạnh rằng mọi người cùng được sinh ra một lượt với nhau, Tổ Tiên muốn nhấn mạnh tới sự đồng nhất ngay cả trong tình yêu thương nhau. Biểu tượng Một Bọc Trăm Con, trăm anh em giống nhau như đúc, giống nhau hoàn toàn về mọi phương diện. Giữa họ, không có gì dị biệt, nên không có gì xung khắc, cũng không có gì hạn chế hay cản trở họ thương nhau. Sự khắn khít giữa họ thực chan chứa, trọn vẹn, và đồng đều. Họ thương nhau tận tình. Trong đời sống thực tế, không hề có những người được cha mẹ sinh ra cùng một lúc và hoàn toàn giống nhau. Vì vậy tình thân thương của Trăm Anh Em cùng Một Bọc, đã vượt quá mọi kinh nghiệm yêu thương thường tình của chúng ta. Đây là tình Thân Thương Tột Cùng. Sự diễn đạt của Tổ Tiên thật là tuyệt vời! Một Bọc Trăm Con, mọi người là Anh Em Cùng Một Bọc, là biểu tượng của Xã Hội Loài Người, mà cũng là diễn đạt hai nguyên lý nền tảng hoàn hảo thâm sâu nhất của Xã Hội loài người, là Bình Đẳng Tột Cùng và Thân Thương Tột Cùng. Mọi người đều là Anh Em cùng Một Bọc Tiên Rồng, đều là Đồng Bào. Khi dùng chung cho mọi người trong nước, chữ đồng bào đã luôn nói lên truyền thống cao quý của văn hóa Tiên Rồng. Chúng ta cũng có thể dùng chữ đồng bào để chỉ tập thể, hay từng cá nhân. Ta gọi nhau là đồng bào để nhắc nhở rằng mình thì thực sự là anh em, do cùng một bọc Tiên Rồng. Mà là Con Người thì bất cứ ai cũng là đồng bào, Bình Đẳng và Thân Thương tột cùng. (Còn tiếp)