phoenix

Hội Viên Ưu Tú
  • Số nội dung

    1.107
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    2

Everything posted by phoenix

  1. DIỄN VĂN CỦA CHỦ TỊCH NÔNG ĐỨC MẠNH TẠI QUỐC LỄ GIỖ TỔ HÙNG VƯƠNG Thưa đồng bào, chiến sĩ cả nước và bà con người Việt Nam ở nước ngoài, Thưa các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước, Thưa các vị khách quý, Hôm nay, mồng 10 tháng 3 năm Canh Thìn, tại Đền Hùng, vùng đất thiêng của dân tộc, chúc ta long trọng tổ chức giỗ Tổ Hùng Vương- ngày quốc lễ có ý nghĩa vô cùng sâu sắc đối với toàn thể dân tộc Việt Nam. Về với đất Tổ, đứng trước bàn thờ các vua Hùng, mỗi một chúng ta, ai cũng đều xúc động và tự hào hướng về cội nguồn dân tộc, thành kính tri ân công đức Tổ tiên, đúng như các thế hệ ông cha ta đã ghi thành câu đối ở Đền Hùng: "Lăng tẩm tự năm nào, núi tản, sông Đà, non nước vẫn quy về đất Tổ" Văn minh đương buổi mới, con Hồng, cháu Lạc, giống nòi con biết nhớ mồ ông" Nhân dịp này, thay mặt các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước, tôi xin gởi lời chào thân ái và đoàn kết đến toàn thể đồng bào các dân tộc đang cùng nhau chung sống trên đất nước Việt Nam, đồng bào ta đang sinh sống ở nước ngoài, đến các vị khách quý và toàn thể bầu bạn khắp năm châu.Thưa đồng bào, chiến sĩ cả nước, Thời đại Hùng Vương là thời đại mở đầu rực rỡ của lịch sử dân tộc Việt Nam, mà cách đây mấy ngàn năm, cha ông ta đã kiên cường, dũng cảm, khai sơn, phá thạch cùng nhau gây dựng nên bờ cõi, non sông đất nước, lập nên quốc gia độc lập, có chủ quyền đầu tiên của người Việt. Các Vua Hùng, từ đời này qua đời khác, đã xây dựng nước Văn Lang với một nền văn minh lúa nước và một nền văn minh Sông Hồng rực rỡ từ các văn hóa tiền Đông Sơn đến văn hóa Đông Sơn, một nền văn hóa, nghệ thuật truyền thống phong phú, độc đáo. Từ đó, đất Tổ Hùng Vương trở thành cội nguồn dân tộc, nơi đặt nền móng cho sự phát triển mạnh mẽ và vững bền của dân tộc Việt Nam. Về đất Tổ, về Đền Hùng là tìm về cuội nguồn dân tộc, vì chính nơi đây đã diễn ra bao sự kiện trọng đại đối với dân tộc ta trong buổi đầu dựng nước và giữ nước, là trung tâm sinh tụ và phát triển của người Việt cổ, nơi các Vua Hùng đã đến để tiến hành những nghi lễ tín ngưỡng của dân, dạy dân làm ruộng, đánh giặc và bàn bạc các việc hệ trọng của đất nước. Theo truyền thuyết kể lại, mẹ Âu Cơ đã sinh bọc trăm trứng với trăm người con trong cùng một bọc, từ đó cho ra đời cái nghĩa đồng bào thiêng liêng như "Con một cha, nhà một nóc" mà mỗi người trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam chúng ta đều cảm thấy như một tình cảm máu thịt của mình. Từ bao đời nay, đồng bào luôn luôn tôn kính và ngưỡng mộ các Vua Hùng đã có công dựng nước. Đền Hùng là nơi qui tụ con Lạc, cháu Hồng ở khắp mọi miền Tổ quốc. Mọi người Việt Nam thuộc các dân tộc, tầng lớp, thế hệ, già cả, gái trai... dù ở trong nước hay đang sinh sống ở nước ngoài đều có chung một Tổ, một ngày giỗ Tổ, chung một cội nguồn. Vì vậy giỗ Tổ Hùng Vương đã trở thành tình cảm thiêng liêng sâu đậm trong tâm khảm của nhân dân ta từ bao đời nay. Giỗ Tổ cũng trở thành biểu tượng của giá trị văn hóa, tinh thần vô cùng sâu sắc và độc đáo của dân tộc Việt Nam, thể hiện nguồn tự hào, sức mạnh vô địch của khối đại đoàn kết toàn dân và truyền thống của nước nhớ nguồn, góp phần làm nên sức mạnh dân tộc trong tiến trình dựng nước và giữ nước. Con cháu các Vua Hùng đời đời khắc cốt ghi tâm người Việt Nam là anh em trong cùng một bọc, noi gương tổ tiên và các anh hùng dân tộc để có Văn Lang, có Đại Việt và có Việt Nam hôm nay. Chúng ta hãy cùng nhau ôn lại những bài học quý báu của tổ tiên, để từ đó thấy rõ trách nhiệm của mình với đất nước mà các Vua Hùng đã có công gây dựng và khơi nguồn văn minh. Đó là bài học toàn dân đoàn kết, cả nước một lòng cùng nhau xây dựng một xã hội bình đẳng, bác ái, trọng hiền tài, nghĩa đồng bào trong sáng, thiêng liêng, sống thủy chung thân ái, cần cù, thông minh sáng tạo và kiên cường đấu tranh chinh phục thiên nhiên, tự lực tự cường và tự tôn dân tộc mạnh mẽ. Đó cũng chính là bài học: Dựng nước phải đi đôi với giữ nước khi có họa ngoại xâm thì cả nước cùng đánh giặc, là bài học kế thừa và phát huy truyền thống văn hóa, lối sống, thuần phong mỹ tục của người Việt Nam... Những điều đó đã tạo nên giá trị văn hóa mới trên cơ sở phát huy bản sắc tốt đẹp của dân tộc, đồng thời kết hợp với tinh hoa của thời đại. Thưa đồng bào và chiến sĩ của cả nước Trải quả bao thăng trầm của lịch sử, Đền Hùng đã bị giặc dã thiên tai và thời gian tàn phá, nhưng nhân dân ta từ đời này qua đời khác đã xây dựng, giữ gìn để làm nơi hương khói Đất Quốc Tổ. Những di sản văn hóa của thời đại Hùng Vương là vô cùng quí giá, là niềm tự hào về cội nguồn dân tộc, mà chúng ta phải có trách nhiệm giữ gìn để khẳng định tinh thần của thời đại Hùng Vương là bất diệt, mãi mãi trường tồn cùng với lịch sử của đất nước. Từ xa xưa cho đến nay và mãi mãi về sau, giỗ Tổ Hùng Vương đã, đang và sẽ trở thành nơi hội tụ của con cháu từ khắp mọi miền đất nước với ý tích tôn vinh tổ tiên và truyền thống đạo lý của dân tộc. Tiếp tục công cuộc dựng nước và giữ nước của các Vua Hùng và các thế hệ cha anh, chúng ta hãy dốc sức, đồng lòng và tin tưởng vững bước tiến vào thế kỷ mới, với niềm tự tin và sức mạnh đã được khuôn đúc qua hàng ngàn năm lịch sử. Đền thờ Hùng Vương không chỉ là di tích lịch sử văn hóa mà còn là tài sản vô giá của nhân dân cả nước Việt Nam. Đảng, Nhà nước và nhân dân ta tin tưởng giao cho đồng bào các dân tộc tỉnh Phú Thọ trách nhiệm giữ gìn và bảo vệ. Trong giờ phút thiêng liêng này chúng ta hãy nguyện cùng hướng về đất Tổ, cùng nhau đóng góp sức lực và trí tuệ vào việc tu bổ, tôn tạo khu di tích Đền Hùng để mãi mãi xứng đáng với giá trị truyền thống quí báu và lâu đời của lịch sử và dân tộc. Càng tự hào về lịch sử dân tộc, chúng ta càng phải đồng tâm hiệp lực, thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước". Lời dạy của Người đã thấm sâu trong trái tim khối óc của triệu triệu người Việt Nam chúng ta. Thực hiện lời căn dặn của Người, Đảng ta đã không ngừng phát huy truyền thống của tổ tiên, kế thừa những giá trị tinh thần tốt đẹp của thời đại Hùng Vương và các thời đại oanh liệt trong lịch sử, đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành các cuộc đấu tranh cách mạng trường kỳ và oanh liệt, đánh thắng nhiều kẻ thù oanh liệt, giành lại độc lập tự do cho Tổ quốc, bảo vệ vững chắc kỷ cương và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, góp phần làm rạng rỡ thêm lịch sử và truyền thống Việt Nam anh hùng. Trong thời kỳ đổi mới đất nước đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Đảng ta đang lãnh đạo nhân dân vượt qua mọi trở ngại, thử thách, tranh thủ thời cơ và vận hội để lý tưởng và mục tiêu cao cả của Chủ nghĩa Xã hội trở thành hiện thực trên Tổ quốc Việt Nam của chúng ta. Để tưởng nhớ công ơn của các Vua Hùng, chúng ta sẽ thực hiện lý tưởng của đồng chí cố tổng Bí Thư Lê Duẩn khi về thăm Đền Hùng: "Tiến hành xây dựng tháp tưởng niệm các Vua Hùng, để từ đây nhìn ra mọi miền của đất nước và từ mọi miền của đất nước luôn hướng về các Vua Hùng". Chúng ta tưởng niệm các Vua Hùng, và tưởng nhớ công lao to lớn của các thế hệ nối tiếp đã có công dựng nước, giữ nước và mong ước cho trí tuệ công sức của chúng ta được phụng sự vì mục đích hòa bình và hạnh phúc của nhân dân. Trước anh linh của tổ tiên, tôi kêu gọi đồng bào, đồng chí và chiến sĩ cả nước đồng bào ta ở nước ngoài nêu cao truyền thống uống nước nhớ nguồn, củng cố vững chắc khối đại đoàn kết toàn dân, trên dưới một lòng, đồng tâm nhất trí, ra sức thi đua dành nhiều thành tích xuất sắc để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa, giữ gìn, phát huy truyền thống và bản sắc văn hóa dân tộc, củng cố Nhà nước "Của dân, do dân, vì dân" phát huy dân chủ ở cơ sở và giữ gìn kỷ cương phép nước, không ngừng chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, với ý thức tự lực tự cường và tự tôn dân tộc, chúng ta phải phát huy nổ lực, dựa vào sức mình là chính, đồng thời tranh thủ sử dụng có hiệu quả các hiệu lực bên ngoài, trên cơ sở hợp tác, bình đẳng cùng có lợi để xây dựng đất nước ta phát triển bền vững và trưởng tồn, làm đẹp giàu giang sơn gấm vóc và khẳng định địa thế Việt Nam trên trường Quốc tế. Cầu chúc cho dân tộc ta, nhân dân ta và các dân tộc anh em, bạn bè trên thế giới được sống trong hòa bình hữu nghị và hạnh phúc.
  2. CHÚC VĂN GIỖ TỔ HÙNG VƯƠNG GS, Anh hùng Lao động VŨ KHIÊU Mừng hôm nay Trống đồng dội tới, núi sông dậy sấm anh hùng! Trống đồng vang lên, trời đất ngút ngàn linh khí! Toàn dân giỗ Tổ Hùng Vương Cả nước vui ngày Quốc Lễ Rộn rã trống chiêng Tưng bừng cờ xí! Bừng lên nhật nguyệt, mây xanh hạc trắng, bát ngát trường thiên Rực sáng sơn hà, cờ đỏ sao vàng, thênh thang thánh địa Thuyền xuôi sóng vỗ, sông ba dòng tưới mát muôn phương Hổ lượn rồng bay, núi trăm ngọn chầu về một phía Từ đỉnh cao muôn trượng cơ đồ Cùng nhìn lại bốn mươi thế kỷ Núi mây sừng sững công cha Sông nước dạt dào nghĩa mẹ.Nhớ thuở xưa Mẹ từng non cao tỏa sáng nghĩa nhân Cha vốn biển cả quật cường mưu trí Sánh đôi tài sắc Kim cổ kỳ phùng Hợp một âm dương Uyên ương tuyệt mỹ! Ðẹp gia đình trăm trứng trăm con Vui sơn thủy một lòng một ý Cuộc mưu sinh thử thách muôn vàn Ðường lập nghiệp gian nan xiết kể Nào rừng rậm, đầm lầy, sông sâu, núi hiểm há quản xông pha! Nào kình nghê, hổ báo, bệnh tật, bão giông, lấy gì bảo vệ? Chia con hai ngả lên đường Chọn trưởng một ngôi kế vị Giang sơn một cõi: sao cho vạn đại trường tồn? Rừng bể đôi nơi: cùng dựng bốn phương hùng vĩ! Hiên ngang thay! Phù Ðổng diệt thù! Dũng cảm thay! Sơn Tinh trị thủy! Ðẹp thay Chử Ðồng Tử, tình yêu như ngọc sáng gương trong Giỏi thay Mai An Tiêm, lao động như dời non lấp bể Vẻ vang mười tám vương triều Rực rỡ trăm đời thịnh trị Qua gian nan bao độ nổi chìm Trải thử thách, những hồi hưng phế! Chỉ công lao khai phá một thời kỳ Mà uy lực trải dài trăm thế hệ! Gái anh hùng: nào Trưng Nữ, Triệu Trinh Trai dũng lược: nào Phùng Hưng, Lý Bí! Sóng Bạch Ðằng cuốn cuộn thế Ngô Vương Gió Như Nguyệt vang vang lời Thái Úy Hội Diên Hồng rung chuyển cả trăng sao Hịch Hưng Ðạo xốn xang toàn tướng sĩ! Nằm gai nếm mật, mười năm ròng,bạt vía lũ Vương Thông Lở đất long trời, một trận đánh, tan hồn quân Sĩ Nghị...Thế kỷ 20: Cờ giải phóng xua tan bóng tối Danh Bác Hồ vang dội đông tây Khắp toàn cầu hết nạn thực dân Mộng đế quốc tan thành mây khói! Thế mới biết: Nước giàu không chỉ quân lương Dân mạnh còn nhờ đạo lý Coi sơn hà xã tắc là thiêng! Lấy độc lập tự do làm quý! Chúng con nay Sáu mươi bốn tỉnh thành: nhớ lại tổ tông Năm mươi tư dân tộc: tìm về cội rễ! Trăm con một bọc, yêu thương nhau như ruột thịt chan hòa Một gốc trăm nhành, gắn bó mãi như keo sơn chặt chẽ Dựng cơ đồ, chị ngã em nâng Cơn hoạn nạn bầu thương lấy bí Bốn phương: nam, bắc, tây, đông Trăm họ: gái, trai, già, trẻ Hân hoan muôn dặm trùng phùng Kính cẩn một chầu đại lễ Xin Tổ Vương vạn thế linh thiêng Giúp con cháu trăm điều chỉ vẽ. Nay gặp buổi Ðảng thành công, trong đổi mới tư duy Dân phấn khởi, cùng dựng xây kinh tế Con đường giàu mạnh đã thênh thang Cuộc sống văn minh càng đẹp đẽ Tuy thời cơ thuận lợi đã thêm nhiều Nhưng thách thức gian nan còn chẳng dễ Cả hành tinh còn đầy rẫy bất công Phường ác độc vẫn tham tàn ích kỷ Nêu "đua tranh bình đẳng", mà nước giàu cứ hại nước nghèo Nói "thương mại tự do", mà cá lớn càng nuốt cá bé Nhưng nghĩ rằng: Quốc tế giao lưu phải triển khai Hội nhập toàn cầu là xu thế Nên lãnh đạo mở đường Cùng nhân dân vững chí Tinh thần càng sáng tạo thông minh Truyền thống lại chí nhân đại nghĩa Toàn dân học tập, vươn xa trí tuệ vạn trùng cao Cả nước đua tài, đánh thức tiềm năng thiên cổ dậy Bác răn bảo Hoàn thành nhiệm vụ, vượt mọi khó khăn, thắng mọi kẻ thù Uy vũ coi thường, không ngại bần hàn, không ham phú quý Vĩ đại thay Quốc Tổ! Dựng cơ đồ biết mấy công lao Sáng suốt thay Bác Hồ! Truyền hậu thế mọi điều lý lẽ Chúng con nguyện Dựng giang sơn hùng mạnh phồn vinh Cùng nhân loại hòa bình hữu nghị Sáng muôn đời Hồng Lạc tinh hoa Cao muôn trượng Hùng Vương khí thế! Ðền Hùng, ngày 10 tháng 3 năm Canh Thìn GS, Anh hùng Lao động VŨ KHIÊU phụng thảo
  3. Nguồn: www.binhthuan.gov.vn/khtt/vanhoa/0000/0002/LinhPhap.htm - 6k - LÍNH PHÁP BỒNG SÚNG ĐỨNG CHÀO Ở ĐỀN HÙNG Cách đây đúng 55 năm, vào mùa xuân ất Dậu 1945, dân tỉnh Phú Thọ trẩy hội Đền Hùng vô cùng ngạc nhiên thấy một trung đội lính Pháp bồng súng đón chào trước cổng đền. Ông Trịnh Khuê, Phó Chủ tịch xã Cao Mại huyện Phong Châu kể lại chuyện xưa: Ngày 9/3/1945, tỉnh lỵ Phú Thọ vang tiếng súng Nhật đảo chính Pháp. Chi bộ cộng sản xã Cao Mại nhận được lệnh chỉ thị Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta của Ban Thường vụ Trung ương Đảng, trong đó nêu rõ: Sau cuộc đảo chính này, phát xít Nhật là kẻ thù chính - kẻ thù cụ thể trước mắt duy nhất của nhân dân Đông Dương. Những vẫn phải đề phòng Tướng De Gaulle định vận động khôi phục quyền thống trị của Pháp ở Đông Dương. Ngay hôm sau, một tiểu đoàn bộ binh Pháp đồn trú tại tỉnh lỵ Phú Thọ thất thểu chạy về xã Cao Mại xin tạm trú ít ngày. Xã có 13 ngôi đền đình thờ Công chúa Nguyệt Cư - con gái Hùng Vương thứ 17 - cùng phò mã Lý Văn Lang và 12 người con đều là danh tướng có công dẹp Thục phù Hùng, bảo vệ đất nước. Tục truyền rằng: Lúc 15 tuổi, Lý Văn Lang đánh được con cá trắng dài 2,5m, mổ bụng cá có một thanh kiếm sáng quắc, nhờ thần kiếm lập nhiều chiến công, trở thành Phò mã. Còn Công chúa trước khi sinh con đầu lòng, mơ được rồng vàng tặng bọc 12 trứng; sau đó, hạ sinh liên tiếp 12 con trai khôi ngô, dũng mãnh... Dưới sự chỉ đạo của Chi bộ xã, dân làng dẫn quân Pháp vào nghỉ tại đền đình. Đền vùng núi rét căm căm, thấy quân Pháp đói mềm nằm rét co ro, dân làng rủ lòng thương đem cơm nắm muối vừng cho ăn, lấy rơm nhét bao tải cho họ nằm. Lừa ngựa đói hí vang, dân làng bứt lá tre, cắt cỏ cho ăn. Cảm kích, viên chỉ huy cử một trung đội Pháp lon mũ chỉnh tề đến cổng đền Hùng làm hàng rào danh dự bồng súng chào đón dân làng dự lễ. ít hôm sau, viên chỉ huy Pháp đề nghị xã giúp đỡ vượt sông lên Tây Bắc, sang Hoa Nam, nhập vào tàn quân của tướng Alexandre trong lực lượng đồng minh chống Nhật. Đại diện xã nói sẵn sàng giúp nhưng đừng có ảo tưởng theo âm mưu của Tướng De Gaulle. Ngay sau đó, dân làng đem thuyền chở quân Pháp vượt sông, không quên cho gạo và lương khô mang theo. Thời gian sau, đế quốc Pháp quay lại xâm lược Việt Nam. Và tiếc thay Ông Trịnh Khuê ngậm ngùi kể: "Vào năm 1950, tôi đang chăn trâu thấy 4 máy bay Hellcat lao đến ném bom, bắn phá nát tan các đền đình mà cả tiểu đoàn Pháp trú ngụ dưới sự che chở của dân xã, làm hơn chục người bị thiệt mạng." Trong cuốn sổ truyền thống của CLB UNESCO, ông Charlotle Jean Marie trong đoàn Crédit Lyonnais lên thăm xã có ghi: "Cuộc đón tiếp rất nồng hậu của các vị lãnh đạo xã này mà lịch sử vẫn còn ghi nhận sự giúp đỡ của dân xã Cao Mại hơn 40 năm trước đã cứu hàng trăm lính Pháp. Thật là quý, nếu những người Pháp trở lại Việt Nam giờ đây ghi nhớ là phải mang đến xã Cao Mại này và đất nước này một sự đóng góp thích đáng!"
  4. Nguồn: http://www.binhthuan.gov.vn/KHTT/Vanhoa/0000/0002/CaNuoc.htm Cả nước hướng về đất Tổ Đền Hùng trên núi Nghĩa Lĩnh, thuộc thôn Cổ Tích, xã Hy Cương, huyện Phong Châu (Phú thọ) là quần thể di tích lịch sử quốc gia, ghi dấu tích các vua Hùng buổi ban đầu dựng nước, gắn với những huyền thoại được lưu truyền qua bao thế hệ, trở thành niềm tự hào của dân tộc ta. Đây là khu đền được tạo lập từxa xưa và quan nhiều lần sửa sang, tu bổ, trong ngọc phả viết năm Thiên Phúc nguyên niên đời vua Lê Đại Hành (980) ghi rõ có đền Thượng, đền Trung, đền Hạ và chùa. Các triều đại phong kiến Việt Nam đều công nhận khu Đền Hùng là "Nam Việt Triệu Tổ" và dành ruộng giao dân sở tại cày cấy lấy hoa lợi tế lễ. Địa thế núi Nghĩa Lĩnh thật đắc dụng, có thể quan sát được cả một vùng đất trung du rộng lớn chuyển tiếp giữa rừng núi và đồng bằng. Phía trước là ngã ba Việt Trì, có hàng chục quả đồi thấp hình đàn rùa bò. Làng Hy Cương (Tiên Kiên) ở phía sau mang hình con phượng cập thư. Phía phải có đồi Khang Phụ (Chu Hóa) tựa như vị tướng quân bắn nỏ. Làng Cổ Tích bên chân núi tọa lạc trên lưng một tuấn mã. Dãy đồi từ Phú Lộc đến Thậm Thình được xem là 99 con voi chầu về đất Tổ. Xa xa phía Tây, dòng sông Thao nước đỏ và phía đông là sông Lô xanh trong. Đền Hùng hiện còn một số kiến trúc cổ thời hậu Lê là gác chuông, tam quan, đền Hạ. Với tấm lòng tôn kính các Vua Hùng, nhiều địa phương như TPHCM, các tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, Lâm Đồng, Minh Hải... đều có đền thờ. Riêng ở Phú Thọ và Vĩnh Phúc có hơn 600 nơi thờ các vua Hùng cùng gia quyến và các tướng lĩnh. Đặc biệt, Việt Kiều về nước đã xin đất và chân hương ở Đền Thượng, lập bài vị các Vua Hùng đưa sang thờ tại Pari (Pháp) và bang California (Mỹ). Thờ cúng tổ tiên là tín ngưỡng, thể hiện đạo lý "uống nước nhớ nguồn" của người Việt Nam. Trước kia, lễ hội Đền Hùng định lệ cứ năm chẵn, có quan triều đình và quan hàng tỉnh về cúng tế. Những năm khác thì do dân "Trưởng tạo lệ" gồm hai làng Hy Cương và Vy Cương sắm lễ cúng Tổ. Năm hội chính, treo cờ thần, 40 làng chung quanh đền rước kiệu tới chầu. Mỗi làng rước ba kiệu: một kiệu trầu cau, hoa quả, rượu hương nến; một kiệu nhang án và một kiệu bánh chưng, bánh dày, có chấm giải và trao thưởng. Những nghi thức hành lễ rất trang trọng và tôn nghiêm. Nhiều trò chơi dân gian và nghệ thuật diễn xướng như hát xoan, hát chèo, hát tuồng diễn ra, thu hút đông đảo công chúng tham dự. Hội đủ thế đất "sơn chầu, thủy tụ", dồi dào "khí thiêng sông núi", Đền Hùng chứa đựng những sự tích thần kỳ của nước Văn Lang cổ đại, và là nơi thể hiện tấm lòng gắn bó và thành kính nhớ ơn những bậc tiền nhân của người Việt. Trong dịp kỷ niệm 70 năm Ngày thành lập Đảng 3.2 đầu xuân Canh Thìn 2000, Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu, Chủ tịch nước Trần Đức Lương đã tới dâng hương, trồng cây tại Đền Hùng và làm việc với Đảng bộ, chính quyền tỉnh Phú Thọ. Vinh dự được sống ở vùng đất Tổ, cán bộ, nhân dân Phú Thọ cố gắng làm tròn phận sự giữ gìn Đền Hùng và tha thiết nghị hai vấn đề chủ yếu. Thứ nhất, ủy ban T.Ư MTTQ Việt Nam phát động phong trào "Cả nước hướng về Đền Hùng" nhằm thu hút sự hỗ trợ của các tỉnh, thành phố, các doanh nghiệp, các cá nhân trong nước và kiều bào ở nước ngoài đầu tư, tu bổ quần thể di tích lịch sử Đền Hùng, xây dựng khu trung tâm lễ hội và làng văn hóa thời HùngVương. Thứ hai, Quốc hội và Chính phủ xem xét, quyết định ngày Giỗ Tổ Hùng Vương mồng 10 tháng ba lịch âm hằng năm là ngày quốc lễ. Trong quá trình giao lưu, vùng văn hóa đất Tổ và các vùng văn hóa ở mọi miền đất nước sẽ phong phú thêm, và hình thành rõ nét bản sắc văn hóa dân tộc. Tỉnh Phú Thọ đang triển khai dự án xây dựng công viên Văn Lang tại TP Việt Trì thuộc vùng cố đô Văn Lang xưa và xây dựng trung tâm lễ hội Đền Hùng, phân định khu vực trồng cây lưu niệm tại Đền Hùng và trong tương lai, dành riêng 61 quả đồi để mỗi tỉnh, thành phố tạo một công trình kiến trúc mang nét đặc trưng văn hóa truyền thống của mình. Như vậy, bằng việc huy động sức mạnh các nguồn lực, trước hết là từ trong nước theo tinh thần "Cả nước hướng về Đền Hùng", chắc chắn sẽ tạo nên khu di tích có giá trị và ý nghĩa về nhiều mặt, nhất là giáo dục tinh thần yêu nước, ý chí tự lập, tự cường, sáng tạo trong lao động sản xuất, làm cho khối cộng đồng đoàn kết 54 dân tộc anh em ngày càng vững chắc, dồn công sức đi tới mục tiêu xây dựng Tổ quốc giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Có lẽ trên thế giới này hiếm có nơi nào lại có được hình tức tín ngưỡng thờ Tổ độc đáo như ở Việt Nam khiến chúng ta phải nhìn nhận nó như một hiện tượng xã hội mang bản sắc riêng của Việt Nam, góp phần tạo nên hệ giá trị tinh thần và bản lĩnh văn hóa Việt Nam. Đó là truyền thống thờ gia tiên trong từng gia đình, thờ tổ họ của dòng họ, thờ Thành Hoàng của làng và thờ Tổ chung của đất nước ở Đền Hùng. Xét dưới góc độ bảo tàng học, các cấp độ thờ cúng này như là hình thức lưu niệm nhằm tôn vinh những người đã sinh thành ra mình, những người có công với làng xóm, với quê hương, đất nước. Vào khoảng thế kỷ 6-7 trước Công nguyên, trên địa bàn miền Bắc nước ta hình thành một nền văn minh rực rỡ và nổi tiếng thế giới- văn hóa Đông Sơn- văn hóa của người Lạc Việt, là tổ tiên của người Việt. Cơ tầng văn minh này lại trùng hợp truyền thống tốt đẹp về cội nguồn dân tộc thông qua câu chuyện về Âu Cơ (Tiên) và Lạc Long Quân (Rồng) được ghi lại trong sách Lĩnh Nam chích quái với tên truyện Họ Hồng Bàng phản ánh lịch sử Nhà nước Văn Lang của các Vua Hùng. Chính Âu Cơ và Lạc Long Quân là thủy tổ của người Việt, là cha-mẹ của Vua Hùng. Người Lạc Việt là chủ nhân văn hóa Đông Sơn, và muốn đi tìm tổ tiên của người Việt thì thì tất nhiên phải tìm trong các nền văn hóa Tiền Đông Sơn. Ngày nay tài liệu khảo cổ học đã chứng minh một cách chắc chắn phổ hệ Phùng Nguyên-Đồng Đậu-Gò Mun-Đông Sơn là các nền văn hóa này phát triển thành văn hóa kia hợp thành một hệ thống văn hóa mà khởi đầu là văn hóa Phùng Nguyên với niên đại sớm được xác định ở di chỉ Đồng Chỗ là 3.800 + 60 năm cách ngày nay. Đó chính là những cơ sở khoa học để chúng ta khẳng định Việt Nam là đất nước có hàng nghìn năm lịch sử. Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc viết nên thiên anh hùng ca hùng tráng và bất diệt. Và trong dòng lịch sử đó nhiều phẩm chất cao quý của dân tộc đã được hình thành, tạo nên hệ giá trị tinh thần Việt Nam, tạo nên bản lĩnh văn hóa Việt Nam, trong đó đạo lý "Uống nước nhớ nguồn" nổi lên như một truyền thống tiêu biểu. ở Phú Thọ và một số địa phương khác có hơn 600 nơi thờ các Vua hùng, gia quyến và tướng lĩnh, nhưng tập trung nhất là khu di tích Núi Hùng thuộc thôn Cổ Tích, xã Hy Cương hay núi Nghĩa Lĩnh hiện có bốn đền thờ (Đền Hạ, Đền Trung, Đền Thượng và Đền Giếng), một chùa (Thiên Quang Thiền Tự) và Lăng Vua Hùng. Cũng như các hình thức tín ngưỡng khác, việc thờ cúng các Vua Hùng khởi đầu và trước hết là công việc của dân, do dân. Với tấm lòng biết ơn và tưởng nhớ tổ tiên, nhân dân các làng quanh Đền Hùng đã tự đứng ra xây dựng các công trình thờ cúng các Vua Hùng. Đền Hạ nguyên là miếu thờ cũ của dân thôn Vi Cương (xã Chu Hóa), đền Trung là nơi thờ cũ của thôn Trẹo (xã Hy Cương), làng Cổ Tích xây đền Thượng, chùa Thiên Quang và đền Giếng. Một số người làm nghề buôn bán ở Hà Nội cũng tham gia đóng tiền để làm các bậc lên xuống và xây cổng Đền Hùng. Bởi Vua Hùng là Ông Tổ chung cho nên trước đây nhiều địa phương đã đóng góp cho việc tu bổ, tôn tạo khu di tích này. Chẳng hạn, trong những năm từ 1918 đến 1922, có 18 tỉnh, thành phố ở Bắc Kỳ đã đóng góp tiền để trùng tu các đền. Đồng thời Nhà nước phong kiến cũng cho thực hiện một số cơ chế chính sách nhằm tạo điều kiện cho việc thờ cúng các Vua Hùng, như Nhà Lê miễn hẳn sưu thuế, phục dịch cho dân Hy Cương để phục vụ việc thờ tự và ngày hội gọi là dân Trưởng tạo lệ. Ngay sau ngày hòa bình lập lại, Nhà nước ta đã cho tu bổ những công trình bị thực dân Pháp tàn phá (1955), xây dựng Nhà Công quán, đường ôtô (1693), nhà đón tiếp, trồng cây (1980-1983) và xây Bảo tàng Hùng Vương (1987). Xuất phát từ quan niệm cho rằng việc bảo tồn, tôn tạo và phát huy di tích lịch sử-văn hóa phải gắn liền với việc phát triển kinh tế-xã hội, tạo điều kiện từng bước nâng cao đời sống nhân dân trong khu vực di tích, ngày 8-2-1944, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Dự án tổng thể khu di tích lịch sử Đền Hùng với mục tiêu cụ thể là: Bảo tồn, tôn tạo, bảo vệ các di tích lịch sử và các công trình kiến trúc cổ đã được xếp hạng; xây dựng hệ thống hạ tầng kỹ thuật, các công trình phục vụ lễ hội và khách tham quan du lịch, song không được phá vỡ cảnh quan khu di tích; bảo vệ, tu bổ rừng cấm và vùng đệm, cảnh quan thiên nhiên, môi trường sinh thái; nâng cao đời sống vật chất, văn hóa tinh thần của nhân dân vùng ven khu di tích. Cho đến nay, các nhóm dự án đã và đang được triển khai đồng bộ, khẩn trương hoàn thiện các hạng mục chủ yếu để phục vụ lễ hội năm 2000. Tỉnh Phú Thọ cũng đã dành một t rộng trong khu di tích Đền Hùng để các bộ, ngành, đoàn thể, các tỉnh, thành phố cây lưu niệm; đồng thời cũng dự kiến dành 61 quả đồi quanh Đền Hùng để các địa phương cả nước xây dựng các công trình đặc sắc của địa phương mình với ý thức "trăm con một bọc". Với tấm lòng "cả nước hướng về Đền Hùng". Trong một cuộc hội thảo gần đây tổ chức tại Phú Thọ, nhiều nhà nghiên cứu tán thành ý tưởng bên cạnh việc bảo tồn, tu bổ những di tích hiện có, Nhà nước ta cần cho xây dựng thêm trong khu di tích Đền Hùng những công trình tưởng niệm mang dấu ấn thời đại chúng ta như đền thờ Quốc Tổ Lạc Long Quân, đền thờ Quốc Mẫu Âu Cơ và Tháp tưởng niệm các Vua Hùng ở những vị trí và quy mô thích hợp những giải pháp kiến trúc tối ưu, tương xứng tầm vóc của thời đại chúng ta nhằm tôn vinh với lòng biết ơn công lao dựng nước của các Vua Hùng. Thư tịch xưa không ghi chép một cách đầy đủ về quá trình tổ chức Lễ hội Đền Hùng. Tuy nhiên, qua ngọc phả Hùng Vương soạn đời Hồng Đức năm thứ nhất (1470) chúng ta được biết từ đời Nhà Đinh, Lê, Lý, Trần và Hậu Lê việc thờ cúng ở làng Cổ Tích, xã Hy Cương. Những ruộng đất, sưu thuế được để lại dùng vào việc cúng tế và nhân dân các vùng của đất nước đều đến lễ để tưởng nhớ các "đấng thánh tổ ngày xưa". Đồng thời cũng từ Hồng Đức hội Đền Hùng được "gia hạn quốc tế", việc tế lễ do Nhà nước chủ trì ủy quyền cho quan trấn thay mặt triều đình vào tế. Đến triều Minh Mạng thì bài vị thờ Hùng Vương được rước vào Huế thờ ở miếu Lịch Đại Đế Vương, còn ở Đền Hùng thì cấp sắc để phụng thờ. Đến năm Tự Đức thứ 27 (1874) lễ hội Đền Hùng mới cho khôi phục như cũ và cho xây Lăng Hùng Vương ngay cạnh Đền Thượng. Trong thời Pháp thuộc, dù không tổ chức lớn, nhân dân địa phương vẫn tự tổ chức thờ cúng các Vua Hùng. Từ sau năm 1958, Hội Đền Hùng được Nhà nước ta tổ chức, năm chẵn do Bộ Văn hóa-Thông tin chủ trì, còn năm lẻ do UBND tỉnh chủ trì. Và ngày 26-7-1999, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết về tổ chức kỷ niệm các ngày lễ lớn năm 2000, trong đó có Giỗ Tổ Hùng Vương. Như vậy, năm Canh Thìn là năm đầu tiên Nhà nước ta tổ chức Giỗ Tổ Hùng Vương với tầm quốc tế. Đến ngày Giỗ Tổ, đến với Đền Hùng là đến với hồn đất nước, là cuộc hành hương về cội nguồn dân tộc với tâm tưởng "Uống nước nhớ nguồn", với lòng tôn kính và biết ơn công lao của tổ tiên, không chỉ của mình mà của cả dân tộc, với ý thức "trăm con một bọc", biểu hiện cao đẹp nhất của tư tưởng đại đoàn kết dân tộc, gắn bó cộng đồng các dân tộc, dù Nam hay Bắc, dù miền ngược hay miền xuôi, dù người Kinh hay người dân tộc thiểu số đều là con một nhà trong đại gia đình dân tộc Việt Nam. Sự thiêng liêng và đức tin là hai yếu tố cơ bản của tín ngưỡng. Nhưng sự thiêng liêng ở Đền Hùng không làm người ta sợ hãi như khi đến các nơi thờ cúng khác, mà đến với Đền Hùng như đến bàn thờ tổ tiên trong gia đình với ý nghĩa lớn lao gắn nhà với nước: cha - mẹ trong gia đình và cha - mẹ dân tộc. Đạo thờ cha - mẹ chính là bản sắc văn hóa Việt Nam. Người Việt thường có xu hướng tôn vinh con người-con người thật cũng như con người huyền thoại. Người ta đặt niềm tin và cầu mong những điều giản dị không chỉ cho mình mà cả cho cộng đồng dân tộc: Đất nước thanh bình, mưa thuận gió hòa, vạn sự như ý, sức khỏe dồi dào... Ước nguyện riêng của từng người cũng là ước nguyện chung của cả cộng đồng. Lễ hội Đền Hùng còn là sự hội nhập có tính xã hội trong đời sống đương đại, mang giá trị văn hóa tiêu biểu. ở đấy cộng đồng các dân tộc biểu dương sức mạnh cộng đồng, các giá trị văn hóa truyền thống với bản chất dân tộc, nhân văn và dân chủ thể hiện trong các hình thức rước sách, trò chơi dân gian, hoạt động văn nghệ,... Ngày Giỗ Tổ đang đến gần. Người dân Việt Nam ta ở mọi miền đất nước và ở xa Tổ quốc, dù đến hay không đến được, đều hướng về Đền Hùng, hướng về cội nguồn dân tộc với lòng biết ơn công lao các Vua Hùng và với niềm tin vào sự trường tồn và sức mạnh của dân tộc. Vào tiết thanh minh, tháng ba, mùa xuân ấm trời, chúng tôi về thăm đất Tổ trên chiếc xe Ford đỏ do giáo sư Nguyễn Xuân Đào tự lái. Cầu Việt Trì dựng lại sau ngày chiến tranh, hiện lên khỏe đẹp dưới nắng, soi trên bến sông Bạch Hạc cảnh nước non tuyệt đẹp. Từ đây - theo địa đồ vừa thấy ở huyện Bình Xuyên - đến sườn Nghĩa Cương không còn mấy phút ô tô nữa. Chúng tôi dừng chân ở thành phố công nghiệp của đất Tổ đầy chiến công hiển hách: bắn rơi máy bay Mỹ chiếc thứ 400 chiếc thứ 4.000 của miền Bắc những tháng ngày qua. Chúng tôi lần theo dấu vết khảo cổ trên những triền đồi trung du - thềm phù sa xưa kia, khu vực vũ của "văn hóa sông Hồng" - lãnh thổ của bộ lạc Văn Lang thuở nọ. Đồng chí ở Sở Văn hóa Thông tin đưa chúng tôi về vùng núi Sơn Vi - Lâm Thao. Nền văn hóa Sơn Vi thuộc cuối thời kỳ đồ đá cũ, nơi đầu tiên tìm thấy di tích tiêu biểu cho thời đại này. Các cánh đồng xanh xanh lúa xuân ở Sơn Vi đã 7 tấn từ lâu. Đất Lâm Thao, đất quật ngã chiếc máy bay Mỹ thứ 100 của tỉnh. Và theo đồng chí Bí thư Huyện ủy, cho biết: Vùng xã Cao Mại, Kinh Kệ còn là quê hương của hát xoan. Đó là một loại hình dân ca hát vào mùa xuân - riêng biệt của địa phương Vĩnh Phú - theo truyền thuyết, có từ thuở vua Hùng dựng nước. Những di chỉ khai quật được ở Phùng Nguyên (Lâm Thao): Mũi nhọn đá và rìu mài nhỏ, đọi xe chỉ và lò gốm, bàn mài, vòng tay, hạt chuỗi, tượng đá, đồ đựng bằng đất nung... cho ta biết rõ giai đoạn Phùng Nguyên là thời kỳ tiền Hùng Vương của lịch sử dân tộc. Trong nhà bảo tàng xã Nguyệt Đức, những di chỉ đào ở Đồng Đậu được người trông giữ bảo tàng, giới thiệu với khách những mảnh gốm và các hoa văn trang trí khác, kể cả các khuôn đúc rìu, mũi dao, hoa tai bằng đá, khuôn đúc tên đồng - đào được dưới tầng sâu 4m. Và theo các nhà khảo cổ đã phân tích tro than lấy trong tầng văn hóa ở chi chỉ Đồng Dậu - bằng phương pháp cácbon phóng xạ (C14) - cho rõ: giai đoạn này cách chúng ta khoảng trên dưới 3.300 năm. Mỗi bước chúng tôi đi trên miền đất Phong Châu cũ chiếc nôi của dân tộc - đều gợi lại một thời kỳ lịch sử huy hoàng... Theo các sử sách cũ, Cựu đường thư chép rằng: năm Vũ Đức thứ tư (621), nhà Đường đặt đất Phong Châu thành 6 huyện. Và có lẽ Phong Châu thời kỳ Hùng Vương qua các di chỉ và vật khảo cổ ấy, thì Phong Châu là vùng đất nằm giữa Ba Vì và Tam Đảo với trung tâm miền hội lưu của các dòng sông Hồng, Đà, Lô, Đáy... Đây đền Hùng. Chúng tôi lần từng bước lên đền Thượng - điện chín tầng mây - rốn của kinh thành Phong Châu thuở trước. Đền Thượng đặt trên đỉnh Nghĩa Cương, ngôi mộ Tổ bên trái chân đền. Bên phải là phiến đá làm bàn đánh cờ của các vua Hùng và mốc đá của Thục Phán thề: "Nguyện có trời cao lồng lộng chứng giám xét soi, xin đời đời giữ gìn non sông bền vững và trông nom miếu võ họ Hùng". Thuở xa xưa buổi rạng đông của dân tộc, Hùng Vương lên ngôi đặc quốc hiệu là nước Văn Lang. Trời chiều, gió về hoa trầu rụng trắng xóa lối đi, chúng tôi: một đoàn anh chị em làm báo, làm văn, xuống thăm đền Trung. Anh Nguyễn kể cho một nữ sinh con một gia đình liệt sĩ đi học ở Ngà về "Vinh Quy bái tổ" - sự tích của ngôi chùa, nơi xưa kia vua Hùng thường ra lễ bái. Dưới cùng là đến Giếng, có giếng Ngọc xây đá trước điện thờ Ngọc Hoa và Tiên Dung Mỵ nương mắt phượng, má son ngồi trên long ngai. Đó là hai con gái của vua Hùng Duệ Vương, chi thứ 18, lấy Sơn Tinh và Chử Đồng Tử, cùng với Phù Đổng Thiên Vương thời vua Hùng thứ 6 và bà chúa Liễu Hạnh thành bộ "Tứ bất tử", tức là bốn vị thần được nhân dân truyền tụng, đứng đầu muôn thuở. Phù Đổng và Sơn Tinh là "Đệ nhất phúc thần" cứu dân khỏi xâm lăng và lụt lội. Vị sư nữ kể cho các cô học trò nhỏ nghe về chuyện Sơn Tinh chiến thắng Thủy Tinh, một thiên anh hùng ca đậm đà màu sắc thần thoại. Kính cẩn nghiêng mình trước đền Giếng, chỗ cây đại già mọc trước bẩy bậc cấp, nơi Bác Hồ mùa thu năm 1954 ngồi nói chuyện với các chiến sĩ trong đại đoàn quân tiền phong trở về giải phóng thủ đô. Tại đây Người đã ân cần dặn các chiến sĩ: Các vua Hùng có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước. Từ xưa đến nay biết bao nhiêu câu đối, bao nhiêu vần thơ của người trước ca ngợi Hùng Vương. Chúng tôi có đọc được các thần tích ở xã Lâu Thượng (Việt Trì), thần tích đình Mạo Phổ huyện Thanh Ba, thần tích đình Mẫu Thọ huyện Tam Nông, đình Lạng Hồ Vu Tử (Lâm Thao) đình Giếng Giá, Sơn Vị, đình Hạ Khế (Cẩm Khê), đình các làng Xuân Dương, Hạ Bì, Bì Chấu (Thanh Thủy). Bằng con đường "dân gian ấy", tổ tiên mình đã anh dũng dẹp thù trong, chống giặc ngoài, và đem lại cho ta niềm kiêu hãnh lớn hôm nay. Đoàn Minh Tuấn
  5. Nguồn: www.giaodiem.com ÁNH SÁNG MỚI TRÊN MỘT QUÁ KHỨ LÃNG QUÊN Nguyên tác “New Light on a Forgotten Past” của Tíến Sĩ WILHELM G SOLHEIM II Giáo Sư Nhân Chủng Học Đại Học Hawaii National Geographic, Vol. 139, No. 3 Tháng 3 năm 1971 Người dịch: HOÀNG-HOA-NHÂN-KIỆT www.giaodiem.com Lời người dịch: Khi chúng tôi còn lớp nhì, lớp nhất bậc tiểu học, thầy chúng tôi là một người cách mạng, người đã từng lưu lạc qua Trung-Hoa, đã kể cho chúng tôi một câu chuyện rất lý thú. Từ ngày đó cho đến nay đã gần 50 năm, không lúc nào chúng tôi quên được. Câu chuyện như sau: Khi cách mạng dân quốc của Trung-Hoa chưa thành công, lãnh tụ Tôn-Dật-Tiên qua cầu viện nước Nhật, tại đây Tôn-Dật-Tiên có gặp ngài Khuyển-Dưỡng-Nghị (một chính khách Nhật cũng là một nhà mạnh thường quân của cách mạng Việt-Nam), trong câu chuyện hàn huyên, khi đề cập tới Việt-Nam, Tôn-Dật-Tiên đã bĩu môi chê dân tộc Việt-Nam, họ Tôn nói với ngài Khuyển-Dưỡng-Nghị như sau:“Dân An-Nam là một dân tộc nô lệ, trước họ nô lệ chúng tôi, nay họ nô lệ người Pháp, họ là một dân tộc có đầu óc nô lệ làm sao giúp họ độc lập được” Ngài Khuyển-Dưỡng-Nghị đã cắt lời Tôn-Dật-Tiên như sau: “Tôi xin được phép ngắt lời ngài ở đây, ngài đã có những nhận xét không đúng về dân tộc đó(dân tộc Việt-Nam: lời người dịch), bây giờ họ thua người Pháp vì họ không có khí giới tối tân chống lại người Pháp, mai sau khi họ có khí giới tối tân họ sẽ đánh bại người Pháp (lời tiên đoán này đúng với chiến thắng Điện-Biên-Phủ sau này). Ngài nên nhớ rằng dân tộc Lạc Việt này là một chi duy nhất còn lại của Bách Việt đã chống lại sự đồng hóa của người Trung-Hoa giữ nền độc lập của tổ tiên họ trong khi các chi Việt khác như Mân Việt đã bị đồng hóa cả ngàn năm” Khi nghe tới đây, Tôn-Dật-Tiên đỏ bừng mặt xin lỗi ngài Khuyển-Dưỡng-Nghị và xin cáo lui. Tôn-Dật-Tiên xấu hổ vì Tôn-Dật-Tiên là người Quảng Đông (Mân Việt). Trong thập niên qua ( thập niên 1960 : lời người dịch), thế giới quay sự chú ý về miền Đông Nam Á nhưng sự chú ý này chỉ dồn về cuộc chiến Việt-Nam. Những ảnh hưởng nặng nề của những biến cố quân sự đã làm lu mờ những khám phá đáng ngạc nhiên về thời cổ sử của vùng này cũng như các dân tộc sống ở đó. Nhưng trong trường kỳ, những khám phá này, chính yếu là những khám phá mới về khảo cổ, sẽ ảnh hưởng hơn cả cuộc chiến hay kết cuộc của cuộc chiến về đường lối chúng ta (người Tây phương: ghi chú của người dịch) suy nghĩ về vùng Đông-Nam-Á, về các dân tộc sống trong vùng này, cảm nghĩ của các dân tộc bản địa về chinh họ. Ngay cả địa vị người Tây phương và vị trí của trong cuộc tiến hóa của nền văn minh thế giới sẽ bị ảnh hưởng một cách trầm trọng. Những dấu hiệu mạnh mẽ và rõ ràng đang kết tụ cho thấy những giai đoạn đầu tiên để hướng về văn minh bắt đầu từ vùng Đông Nam Á. Người hoàn tất tiền sử mang các đầu mối như bình gốm cổ 5000 năm từ NON NOK THA trong miền đông bắc Thái-Lan và các nhà truy tầm khảo cổ đi tìm câu trả lời cho câu hỏi, “Nơi nào nền văn minh bắt đầu?”. Tiến sĩ SOLHEIM II (hình trên) được những nhà tiền sử học đặt danh hiệu là ÔNG ĐÔNG NAM Á đặt giả thuyết cách mạng trên những trang giấy này cho rằng những người ĐÔNG NAM Á có thể là những người đầu tiên làm ra đồ gốm, mài và đánh bóng những dụng cụ bằng đá, trồng lúa, và đúc đồng. NƠI NÀO LÀ NƠI ĐẦU TIÊN LOÀI NGƯỜI TRỒNG TRỌT CÂY TRÁI VÀ ĐÚC ĐỒNG? Các sử gia Âu Mỹ thường lập luận rằng nền văn minh nhân loại đã bắt rễ từ vùng bán nguyệt Cận Đông hay trên những vùng đồi phụ cận của miền này. Ở đó, từ lâu chúng ta tin rằng con người nguyên thủy đã phát triển canh nông và học cách làm đồ gốm, đồ đồng. Khoa khảo cổ đã hổ trợ niềm tin này một phần vì các nhà khảo cổ đã đào xới, khai quật nhiều nhất vùng bán nguyệt Cận Đông mầu mỡ này. Tuy nhiên, những khám phá bây giờ ở trong miền Đông Nam Á đang buộc chúng ta phải khảo nghiệm lại các truyền thống này. Các vật liệu được khai quật và phân tích trong năm năm qua đã cho thấy rằng con người sống ở vùng Đông Nam Á đã trồng cây, làm đồ gốm, đúc đồng trước tiên trên thế giới, trước tất cả cá vùng khác trên trái đất này. Những chứng cớ đến từ những địa điểm khảo cổ trong vùng đông bắc và tây bắc Thái-Lan, với những tiếp trợ từ những khai quật ở Đài-Loan, Bắc và Nam Việt-Nam, các khu vực khác ở Thái-Lan, Mã-Lai, Philippine, và ngay cả từ miền Bắc Australia cho thấy các vật liệu được khám phá và khảo nghiệm bằng carbon 14 cho thấy rằng những di tích của những dân tộc mà tổ tiên họ đã trồng cây, chế tạo đồ đá, đồ gốm hàng ngàn năm trước các dân tộc sống ở vùng Cận Đông, Ấn-Độ, và Trung-Hoa. Trong một địa điểm khai quật ở bắc Thái-Lan, các nhà khảo cổ đã tìm thấy đồng được đúc trong những khuôn đôi vào khoảng từ 2300 năm đến hơn 3000 năm trước tây lịch. Đây là bằng chứng cụ thể cho thấy công việc đúc đồng này đã có trước cả Trung-Hoa hay Ấn-Độ, cũng như trước cả các đồ đồng đúc ở miền Cận Đông mãi tới bây các chuyên gia vẫn còn tin là nơi luyện kim đồng đầu tiên trên thế giới. Có người nêu ra lý do hỏi rằng nếu sự việc này quá quan trọng như vậy tại sao vai trò của vùng Đông Nam Á cùng các dân tộc trong vùng trong thời tiền sử không được biết đến cho tới bây giờ. Có vài lời giải thích về việc này nhưng lý do chính rất đơn giàn là rất ít cuộc khảo cứu về khảo cổ được hoàn tất trước năm 1950. Ngay cả bây giờ công việc khảo cổ mới tiến hành một cách sơ lược. Các viên chức thuộc địa đã không đặt ưu tịên cao về các khảo cứu của thời tiền sử ở vùng này chỉ có một số ít người nghiên cứu về công việc khảo cổ được huấn luyện về nghề nghiệp cẩn thận. Không một phúc trình toàn bộ nào về các địa điểm khai quật được chấp nhận theo tiêu chuẩn hiện đại được xuất bản trước năm 1950. Thứ nữa là những điều các nhà khảo cổ tìm ra đã được diễn dịch trên một giả thuyết là sự phát triển văn hóa được đông tiến và nam tiến. Các nhà chuyên môn này đã nêu ra lý thuyết cho rằng nền văn minh nhân loại bắt đầu trong vùng Cận Đông lan ra vùng Nhĩ Hà, Ai-Cập và sau đó là Hy-Lạp và La-Mã. Nền văn minh cũng di chuyển đông tiến tới Ấn-Độ và Trung-Hoa. Đông Nam Á thì quá xa điểm khởi thủy do đó chỉ tiếp nhận nền văn minh sau các vùng trên. Các người Âu châu tìm ra các nền văn hóa cao ở Ấn-Độ và Trung-Hoa, do đó khi họ tìm ra các kiến trúc và lối sống của các quốc gia trên và miền Đông Nam Á giống nhau, người Âu châu cho rằng Ấn-Độ và Trung-Hoa ảnh hưởng vùng này. Ngay cả tên họ đặt cho vùng là Ấn –Trung cũng phản ảnh lại thái độ của họ. NHỮNG DI DÂN VÀ “NHỮNG ĐỢT SÓNG VĂN HÓA” Trong mụcđích tìm về thời tiền sử ở Đông Nam Á, chúng tôi (tiến sĩ SOLHEIM II) cho rằng văn minh Đông Nam Á phải được trải rộng ra tới những khu vực có các nền văn hóa liên hệ. Từ ngữ tiền sử Đông Nam Á mà tôi (tiến sĩ SOLHEIM II) sử dụng chứa đựng hai phần. Phần thứ nhất hay là phần đất chính Đông Nam Á được trải dài từ rặng núi Tần-Lĩnh phía bắc sông Hoàng-Hà của Trung-Hoa cho tới Singapore và từ miền Đông hải tây tiến tới Miến-Điện vào tận Asssam của Ấn-Độ. Phần khác được gọi là quần đảo Đông Nam Á đánh một vòng cung từ quần đảo Andaman ở miền nam Miến-Điện trải dài tới Đài-Loan bao gồm Indonesia và Philippine. Nhà nhân chủng học người Áo ROBERT HEINE-GELDERN xuất bản đại cương truyền thống về thời tiền sử ở Đông Nam Á vào năm 1932. Ông ta đã đề xướng một loạt những đợt sóng văn hóa có nghĩa là những làn sóng người di cư đã đem tới Đông Nam Á những chủng tộc chính đã được tìm thấy ngày nay ở khu vực này. Ông ROBERT HEINE-GELDERN cũng cho rằng đợt di dân quan trọng nhất là đợt di dân của những người đã chế ra một dụng cụ hình chữ nhật được gọi là cái rìu. Những người di dân trong đợt sóng này đã đến từ miền bắc Trung-Hoa di cư xuống Đông Nam Á và lan xuống miền Sumatra, Java, Borneo, Philppines, Đài-Loan và Nhật-Bản. Sau đó ông ROBERT HEINE-GELDERN đã giải quyết về sự du nhập đồ đồng vào Đông Nam Á như sau: ông ta giả thuyết cho rằng đồ đồng nguyên thủy ở Đông Nam Á được du nhập từ Đông Âu khoảng 1000 năm trước tây lịch do những di dân. Ông ROBERT HEINE-GELDERN tin rằng những di dân trong đợt di dân này di chuyển vào phía đông và phía nam vào Trung-Hoa vào thời Tây Châu (khoảng từ năm 1122 – năm 771 trước tây lịch). Những di dân này đã đem đi với họ không những chỉ có các kiến thức về chế tạo đồng, họ còn đem tới nghệ thuật kỷ hà mới với các đường thẳng, đường xoắn ốc, tam giác cùng hình người và thú vật. Nghệ thuật này đã được ứng dụng trong toàn vùng Đông Nam Á được cả hai ông ROBERT HEINE-GELDERN và BERNHARD KARLGREN (môt học giả Thuỵ-Điển) gọi là nền văn hóa ĐÔNG SƠN theo tên Đông Sơn, một địa điểm ở miền bắc Việt-Nam, phía nam Hà-Nội, nơi mà các trống đồng lớn cùng các cổ vật khác được tìm thấy. Hai ông HEINE-GELDERN và KARKGREN đều cho rằng người dân Đông Sơn đã đem đồng và nghệ thuật trạm trổ kỷ hà vào Đông Nam Á. Hình trống đồng ĐÔNG-SƠN được chế tạo từ thế kỷ thứ ba hay sớm hơn tại ĐÔNG-SƠN, phía nam HÀ-NỘI, bắc VIỆT-NAM.Phần lớn thời tiền sử được tái tạo theo truyền thống đó nhưng có một đôi điều đã không phù hợp với truyền thống này. Thí dụ như một số nhà thực vật học nghiên cứu về nguồn gốc thuần hóa của cây cỏ đã đề xướng là Đông Nam Á là một trung tâm thuần hóa cây cỏ rất sớm.Năm 1952, nhà địa chất học CARL SAWER đã đi một bước xa hơn. Ông CARL SAWER đã đưa ra giả thuyết là cây cỏ đầu tiên trên thế giới được thuần hóa ở Đông Nam Á. Ông SAWER đã phỏng đoán rằng cây cỏ được thuần hóa được mang tới do những người sống trong nền văn hóa trước thời kỳ văn hóa Đông Sơn xa. Những người dân sống trong trong một nền văn hóa nguyên thủy được biết đến như là nền văn hóa HÒA-BÌNH nhưng các nhà khảo cổ thời đó đã không chấp nhận lý thuyết này của ông CARL SAWER. NHỮNG ĐẬP NƯỚC ĐÃ THÊM VÀO MỘT YẾU TỐ KHẨN CẤP Khoảng những năm 1920, bà MADELEINE COLANI, một nhà thực học Pháp sau trở thành nhà nghiên cứu Cổ Sinh Vật Học và cuối cùng trở thành nhà Khảo Cổ là người đầu tiên đặt ra sự hiện hữu của nền văn hóa HÒA BÌNH. Bà COLANI căn cứ trên những khai quật của những hầm và động đá ở những địa điểm trong miền Bắc Việt-Nam, những hầm và hang đá này được tìm thấy trước tiên ở ngôi làng trong tỉnh Hòa-Bình. Những cổ vật tiêu biểu trong những địa điểm này bao gồm những dụng cụ bằng đá hình bầu dục, hình tròn, hay hình tam giác được mài dũa một bên, một bên để nguyên. Những đá mài xinh sắn được tìm thấy ở phần lớn các địa điểm khai quật cùng với nhiều vụn đá. Những tầng trên của của các hầm và động đá thường để giữ các đồ gốm và một ít dụng cụ bằng đá khác với đầu để sử dụng thì sắc bén. Xương thú vât và một số lượng lớn vỏ sò cũng hiện diện. Các nhà khảo cổ nghĩ rằng đồ gốm cùng với các dụng cụ của nền văn hóa HÒA-BÌNH xuất hiện ngẫu nhiên và do những người có một nền văn hóa cao hơn sống gần đó chế tạo có thể là những nông dân đã di cư từ miền bắc xuống. Các nhà khảo cổ cũng nghĩ rằng những dụng cụ đá mài được học từ người bên ngoài. Nhưng không có địa điểm nào của những nông dân phía bắc được tìm thấy. Năm 1963, tôi (tiến sĩ SOLHEIM II) đã tổ chức một đoàn liên hợp khảo cổ cấp thời phối hợp giữa BỘ NGHỆ THUẬT THÁI-LAN và ĐẠI HỌC HAWAII để làm công việc cứu vớt khảo cổ ở những khu vực sẽ bị lụt do công việc xây dựng những đập nước mới trên sông CỬU LONG và những chi nhánh của sông này. Chúng tôi (tiến sĩ SOLHEIM II) phải bắt đầu làm việc trong miền bắc THÁI-LAN, nơi những đập nước đầu tiên được xây dựng. Không có một hệ thống khảo cứu về thời tiền sử ở vùng này được HÒAn tất. Tôi (tiến sĩ SOLHEIM II) cảm thấy cần khẩn cấp bắt đầu hàng loạt khai quật trước khi vùng này chìm ngập dưới nước. NHỮNG NGẠC NHIÊN ĐẾN TỪ MỘT GÒ ĐẤT KHÔNG ĐÁNG QUAN TÂM Trong mùa khảo cứu dã ngoại đầu tiên chúng tôi (tiến sĩ SOLHEIM II) đã xác định vị trí của hơn hai mươi địa điểm, trong mùa thứ hai đoàn đã khai quật một vài nơi của các địa điểm này trong khi thử nghiệm các nơi khác; trong năm 1965-1966, chúng tôi (tiến sĩ SOLHEIM II) đã làm một cuộc khai quật chính ở NON NOK THA. Trong lúc thử nghiệm với đồng vị phóng xạ carbon-14 để xác định thời gian của các cổ vật hiện ra vài vấn đề, chúng đã đề xướng một cách mạnh mẽ là có dấu hiệu của sự liên tục về đời sống của con người (với vài sự ngắt quãng) đi ngược về thời gian trước năm 3500 trước tây lịch. NON NOK THA là một gò đất rộng khoảng sáu mẫu Anh (acre) nhô lên các ruộng lúa bao quanh khoảng sáu bộ Anh (foot). Trong khi làm việc tại đó, chúng tôi (tiến sĩ SOLHEIM II) sống ở làng BAN NA DI, cách gò đất khoảng một hai trăm mét. Chúng tôi (tiến sĩ SOLHEIM II) làm việc bốn tháng tại nơi khai quật đầu tiên. Ông HAMILTON PARKER thuộc đại học OTAGO, nước TÂN-TÂY-LAN chịu trách nhiệm trong năm đầu tiên. DONN BAYARD, một sinh viên học trò của tiến sĩ SOLHEIM II, trở lại NON NOK THA trong năm 1968 để làm cuộc khai quật thứ hai cho luận án tiến sĩ của ông ta. Từ đó hai đại học OTAGO và HAWAII đã liên tục yểm trợ cho công việc của đoàn liên hợp khảo cổ như một chương tình liên kết phối hợp với bộ NGHỆ THUẬT THÁI-LAN. Những kết quả của các cuộc khai quật cho tới bây giờ (năm 1971: lời người dịch) đi vào năm thứ 7 đã làm kinh ngạc nhưng mới chỉ mở ra một cách chậm chạp khi những phân tích của chúng tôi tìm ra từ phòng thí nghiệm ở HONOLULU. Ngay khi chúng tôi (tiến sĩ SOLHEIM II) bắt đầu nhận kết quả đồng vị phóng xạ CARBON-14 định vị thời gian, chúng tôi bắt đầu nhận thức rằng địa điểm này là một địa điểm thực sự mở ra một cuộc cách mạng của ngành khảo cổ. Trong một mảnh gốm vỡ vụn nhỏ hơn 1 inch vuông, chúng tôi đã tìm ra dấu vết của vỏ trấu. Từ thử nghiệm phóng xạ đồng vị CARBON ở một mức trên mảnh gốm này, chúng tôi (tiến sĩ SOLHEIMM II) được biết rằng hạt gạo này có niên đại ít nhất là 3500 năm trước tây lịch. Điều này chứng tỏ rằng lúa gạo đã được trồng tại đây trước cả Trung-Hoa hay Ấn-Độ, nơi một vài nhà khảo cổ cho rằng là nơi thuần hóa lúa gạo đầu tiên, cả ngàn năm. Từ CARBON phóng xạ đồng vị của than liên hệ, chúng tôi (Tiến sĩ SOLHEIMM II) biết rằng những rìu đồng đúc trong những khuôn đôi bằng sa thạch được làm ra ở NON NOK THA sớm hơn 2300 năm trước tây lịch có thể là 3000 năm trước tây lịch. Đây là hơn 500 năm trước kỹ thuật đúc đồng ở Ấn-Độ, và 1000 năm trước khi đồng được biết đến ở Trung-Hoa. Địa điểm này cũng chứng tỏ là lâu đời hơn những địa điểm ở Cận Đông vẫn được coi là nơi chế tác đồng đầu tiên. Khuôn chữ nhật mà chúng tôi (tiến sĩ SOLHEIM II) tìm thấy ở NON NOK THA đều theo cặp đôi, chỉ rõ ràng chúng được đặt chung với nhau ở nơi chúng tôi (tiến sĩ SOLHEIM II) tìm ra chứ không phải bị thất lạc hay vứt bỏ. Quan tâm toàn thể khu vực và những lò nấu kim loại bị hư hỏng và những cục đồng nhỏ vương vãi chúng tôi (đoàn tiến sĩ SOLHEIM II) không còn nghi ngờ gì nữa chúng tôi đã khai quật một khu vực đúc đồng, hay chính xác hơn một nhà máy làm rìu cổ. Những phần của gia súc được chôn chung với những mộ cổ xưa ở NON NOK THA. Những phần này đã được nhận ra như gia súc tương tự như loái bò có u. Điều này chứng tỏ những gia súc đã được thuần hóa sớm ở Đông Á Châu. CHESTER GORMAN, một sinh viên của tôi ở trường đại học HAWAII, là người xác định vị trí của NON NOK THA bằng cách tìm ra những mảnh gốm đã bị soi mòn trên gò đất. Năm 1965, anh ta trở lại Thái-Lan cho luận án tiến sĩ của anh ta. CHESTER GORMAN muốn thử nghiệm lại giả thuyết do CARL SAWER và các nhà khảo cổ khác cho rằng người dân thuộc nền văn hóa HÒA-BÌNH đã thuần hóa cây cỏ. Anh ta đã khám phá ra HẦM TINH THẦN (SPIRIT CAVE) ở xa về phía bắc biên giới Thái-Lan và Miến-Điện, tại đây CHESTER GORMAN đã tìm ra được những gì anh ta muốn tìm. HẦM CỦA THẦN CHẾT LÀM VỮNG CHÃI CÁC NIÊN HIỆU HẦM TINH THẦN (SPIRIT CAVE) trồi lên cao bên cạnh lớp đá vôi nhìn xuống dòng suối chẩy vào sông SALWEEN ở Miến-Điện. Hầm này được dùng như một hầm mộ do đó được mang tên là hầm mộ. Khi khai quật sàn của hầm mộ, CHESTER GORMAN đã tìm thấy những phần còn lại của cây cỏ hóa than bao gồm hai hạt đậu Hòa-Lan, củ năng (water chestnut), hột ớt, nhũng đoạn dây bầu bí và dưa chuột tất cả những vật này kết hợp với những dụng cụ bằng đá đặc trưng của người dân có nền văn hóa HÒA –BÌNH. Các mảnh xương của thú vật được cắt ra từng miếng nhỏ không thấy dấu vết cháy chứng tỏ rằng thịt đã được nấu chín tại đây chứ không phải nướng trên ngọn lửa, thịt được sào trong những đồ vật bằng tre xanh vẫn thấy dùng ở Đông Nam Á ngày nay. Một loạt khảo nghiệm bằng đồng vị phóng xạ Carbon 14 cho thấy các vật liệu tìm ra ở đây có niên hiệu từ khoảng 6000 năm cho tới 9700 năm trước tây lịch. Vẫn còn những cổ vật xưa hơn nằm trong những lớp đất đào sâu hơn chưa xác định được thời gian. Vào khoảng 6600 năm trước tây lịch, các cổ vật này đã được đưa vào địa điểm này. Những cổ vật này bao gồm đồ gốm hoàn chỉnh, sắc xảo và được đánh dấu bằng những sợi dệt trong tiến trình chế tạo, cùng những dụng cụ bằng đá hình chữ nhật được đánh bóng và những lưỡi dao nhỏ. Các dụng cụ và cây cỏ được thuần hóa thuộc nền văn hóa Hòa-Bình được tiếp tục khám phá ra gần đây. Chúng tôi (Tiến Sĩ SOLHEIM II) quan tâm đến những khám phá tại hầm TINH THẦN (SPIRIT CAVE) ít nhất như là bước khởi đầu để bổ sung cho giả thuyết của CARL SAWER, những cuộc thám hiểm khác đang thêm những chứng cớ của một sự trải rộng và phức tạp của nền văn hóa HÒA-BÌNH. Ông U AUNG THAW, giám đốc cơ quan khảo cổ Miến-Điện đã khai quật trong năm 1969 một địa điểm đáng lưu ý thuộc nền văn hóa HÒA-BÌNH tại những hầm mộ PADAH-LIN ở phía đông Miến-Điện. Địa điểm này chứa đựng nhiều vật khác trong đó có nhiều họa phẩm. Đây là địa điểm xa nhất về hướng tây thuộc nền văn hóa HÒA-BÌNH được báo cáo. Những cuộc khai quật ở Đài-Loan do một đoàn thám hiểm hỗn hợp của ĐẠI HỌC QUỐC GIA ĐÀI LOAN và ĐẠI HỌC YALE dưới sự hướng dẫn của giáo sư KWANG-CHIH-CHANG thuộc ĐẠI HỌC YALE đã tìm ra một nền văn hóa với những hình dây và những đồ gốm sắc bén, dụng cụ bằng đá đánh bóng, và những phiến đá mỏng được đánh bóng đã xuất hiện từ lâu khoảng 2500 năm trước tây lịch. Hình nắp bình đựng tro người chết bằng đồng trong thế kỷ thứ hai trước tây lịch từ Vân-Nam, Trung-Hoa diễn tả dân làng trong một buổi lễ giết người tế thần. VẤN ĐỀ KHÓ GIẢI QUYẾT ĐƯỢC SẮP XẾP PHÙ HỢP VỚI NHAU Tôi (Tiến Sĩ SOLHEIM II) đã tóm tắt ý kiến về những cuộc khai quật mới cùng những niên hiệu tại đây và các nơi khác, tôi đã không chú ý tới việc nghiên cứu sự tái thiết thời tiền sử ở Đông Nam Á, trong một ngày nào đó có lẽ hai việc này cũng quan trọng ngang nhau. Trong một số bài viết được xuất bản, tôi (Tiến Sĩ SOLHEIM II) đã bắt đầu về việc này. Hầu hết những ý kiến đó, tôi (Tiến Sĩ SOLHEIM II) đề xướng ra như là giả thuyết hay phỏng đoán. Những giả thuyết hoặc phỏng đoán này cần được khảo cứu nhiều thêm để chấp nhận hay bác bỏ. Trong số những giả thuyết này: · Tôi (Tiến Sĩ SOLHEIM II) đồng ý với SAWER là những người dân thuộc nền văn hóa HÒA-BÌNH là những người đầu tiên trên thế giới đã thuần hóa cây cỏ ở một nơi nào đó trong vùng Đông Nam Á. Việc này cũng chẳng làm tôi (Tiến Sĩ SOLHEIM II) ngạc nhiên nếu sự thuần hóa này bắt đầu sớm nhất khoảng 15000 năm trước tây lịch. Tôi (Tiến Sĩ SOLHEIM II) đề nghị những dụng cụ bằng đá được tìm thấy ở miền bắc Australia được đo bằng phóng xạ đồng vị Carbon 14 có niên hiệu khoảng 20000 năm trước tây lịch thuộc về nền văn hóa HÒA-BÌNH nguyên thủy. · Trong khi những niên hiệu sớm nhất của những đồ gốm này được biết tới ở Nhật vào khoảng 10000 năm trước tây lịch, tôi (Tiến Sĩ SOLHEIM II) kỳ vọng rằng khi nhiều địa điểm với những đồ gốm chạm trổ hình dây được xác định niên hiệu, chúng ta sẽ tìm ra những người này đã làm ra những loại đồ gốm chắc chắn trước 10000 năm trước tây lịch, và có thể họ đã phát minh ra cách làm đồ gốm. Truyền thống tái tạo thời tiền sử cua Đông Nam Á cho rằng các di dân từ miền Bắc đem những phát triển quan trọng về kỹ thuật đến vùng Đông Nam Á. Thay vào đó tôi (Tiến Sĩ SOLHEIM II) đề nghị nền văn hóa của kỷ nguyên thứ nhất tân thạch khí (sau thời đồ đá) ở bắc Trung-Hoa được biết đến như là nền văn hóa Yangshao thoát thai từ một nền văn hóa phụ thuộc văn hóa HÒA-BÌNH di chuyển lên phía bắc từ phía bắc của Đông Nam Á vào khoảng thiên niên kỷ thứ 6 hoặc thứ 7 trước tây lịch. · Tôi (Tiến Sĩ SOLHEIM II) đề nghị nền văn hóa sau đó được gọi là văn hóa Lungshan. Đã được phát triển từ nam Trung-Hoa và di chuyển về hướng bắc thay vì đã được giả thuyết là nền văn hóa này lớn mạnh từ văn hóa Yangshao và bùng nổ về hướng đông và đông nam. Cả hai nền văn hóa này đều thóat thai từ văn hóa HÒA-BÌNH. · Thuyền làm bằng thân cây có thể được sử dụng trên sông ngòi Đông Nam Á trước Thiên niên kỷ thứ năm. Có thể không lâu trước 4000 trước tây lịch cây cân bằng được phát minh ở Đông Nam Á thêm vào sự cân bằng cần thiết để đi biển. Tôi (Tiến Sĩ SOLHEIM II) tin rằng phong trào đi khỏi khu vực bằng thuyền bắt đầu khoảng 4000 năm trước tây lịch dẫn đến các cuộc du hành ngẫu nhiên từ Đông Nam Á tới Đài-Loan và Nhật-Bản, đem tới Nhật kỹ thuật trồng khoai môn và các hoa mầu khác. · Vào một khoảng thời gian nào đó trong thiên niên kỷ thứ ba trước tây lịch, những cư dân Đông Nam Á, bấy giờ là những chuyên viên sử dụng thuyền bè, đã đi tới những đảo ở Indonesia và Philippines. Họ đã đem cả một nghệ thuật kỷ hà gồm những đường soắn ốc, hình tam giác, hình chữ nhật trong những kiểu mẫu được dùng trạm trổ trong đồ gốm, đồ gỗ, hình xâm, quần áo bằng vỏ cây, và sau đó là vải dệt. Những mỹ thuật kỷ hà này được tìm thấy ở trên các đồ đồng ĐÔNG-SƠN và đã được giả thuyết là tới từ Đông Âu. · Người dân Đông Nam Á cũng di chuyển về phía tây tới Madagascar khoảng 2000 năm về trước. Điều này xuất hiện như là một cống hiến quan trọng của họ trong sự thuần hóa cây cỏ cho nền kinh tế Đông Phi Châu. · Cũng khoảng thời gian này, sự liên lạc giữa Việt-Nam và Địa Trung Hải bắt đầu có thể bằng đường biển như là kết quả của phát triên giao thương. Một vài đồ đồng khác thường được tìm thấy ở ĐÔNG SƠN đã được giả thuyết có nguồn gốc Địa Trung Hải. QUÁ KHỨ CÓ THỂ GIÚP THẮP SÁNG HIỆN TẠI Cách tái kiến trúc thời tiền sử Đông Nam Á được tôi (Tiến Sĩ SOLHEIM II) trình bày ở đây căn cứ trên dữ kiện từ một ít địa điểm khai quật và một sự giải thích lại dữ kiện cũ. Nhiều sự diễn giải khác có thể có được. Nhiều khai quật phong phú, nhiều niên hiệu phong phú ở các địa điểm khai quật đều cần thiết cho thấy nếu đây là cái sườn của công việc tổng quát căn bản này cho được gần hơn với sự tái kiến trúc của HEINE-GELDERN thời tiền sử ở Đông Nam Á. Burma và Assam tuyệt nhiên không được biết đến trong tiền sử, tôi (Tiến Sĩ SOLHEIM II) nghi ngờ chúng là một phần quan trọng của thời tiền sử Đông Nam Á. Hầu hết những điều cần thiết là nhiều chi tiết hơn về những khu vực nhỏ có những đặc tính riêng biệt. Tăng cường sự khảo sát trong những khu vực nhỏ bằng cách hợp tác việc phát triển văn hóa địa phương và sự chấp nhận tiến hóa môi sinh tìm xem cách sống của người dân phù hợp với sườn của thời tiền sử. Sau cùng, đây là người dân chúng ta (Tiến Sĩ SOLHEIM II và đoàn thám hiểm cua ông) muốn tìm hiểu, và điều thăm dò này có thể giúp chúng ta vài sự thông suốt trong sự phản ứng giữa những người dân Đông Nam Á với nhau và với những đổi thay của họ trong vùng Đông Nam Á. HOÀNG-HOA-NHÂN-KIỆT Dịch xong lần đầu năm 1995, sửa chữa và hoàn tất ngày 24 tháng 4 năm 2002
  6. Nguyên tác Tiếng Anh (st). New Light On A Forgotten Past By Wilhelm G. Solheim II, Ph.D. Professor Of Anthropology, University Of Hawaii Picture 1: Dongson bronze The world has turned its attention to Southeast Asia during the past decade, but the cause of the interest has been war. The overwhelming nature of military events has obscured some astonishing discoveries about the ancient history and prehistory of the people who live there. Yet in the long run these discoveries, primarily archeological, will affect--perhaps more than the war or its outcome--the way we think about the area and its people, and the way they think about themselves. Even the position of Western man and his place in the evolution of world culture may be drastically affected. For clear and powerful indications are emerging that some of the earliest steps toward civilization may have been taken in Southeast Asia. Where Did Man First Grow Plants and Cast Bronze ? European and American historians generally have theorized that what we call civilization first took root in the Fertile Crescent of the Near East, or on its hilly flanks. There, we have long believed, primitive man developed agriculture and learned to make pottery and bronze. Archeology supported this belief, partly because it was in the region of that Fertile Crescent that archeologists did their most extensive digging. Now, however, discoveries in Southeast Asia are forcing us to re-examine these traditions. Material excavated and analyzed during the past five years suggests that men were cultivating plants there, making pottery, and casting bronze implements as early as anywhere on earth. The evidence comes from archeological sites in northeastern and northwestern Thailand, with support from excavations in Taiwan, North and South Viet Nam, other areas in Thailand, Malaysia, the Philippines, and even from northern Australia. Materials uncovered and dated by carbon 14* are the cultural remains of people whose ancestors may have been growing plants and making polished stone tools and pottery thousands of years earlier than were the peoples of the Near East, India, or China. Picture 2: Cast in double molds At one site in northern Thailand, bronze was being cast in double molds (picture 2) well before 2300 B.C.---perhaps earlier than 3000 B.C.. This is substantially earlier than such work in India or China, and possibly earlier than the first bronze cast in the Near East, where, until now, most experts have thought that bronze metalworking began. One may reasonably ask: If it is so important, why has Southeast Asia's role in prehistory remained unknown until now? There are several explanations, but the main reason is simply that very little archeological research had been done in the area before 1950. Even now the work has barely begun. Colonial officials did not place a high priority on studies of prehistory, and few of the men who did investigate it had professional training. Not one complete site report acceptable under present standards was published before the 1950's. Secondly, what they did uncover was interpreted on the assumption that the flow of culture was eastward and southward. Civilization, they theorized, having begun in the Near East, flowered in Mesopotamia and Egypt, and later in Greece and Rome. It also moved east to India and China. Southeast Asia, being so far from the point of origin, got it thereafter. Europeans found advanced cultures in India and China. When they saw similarities in the architecture and aristocratic lifestyles of those countries and Southeast Asia, they assumed Indian and Chinese influence. Even the name they gave the area--Indochina--reflected this attitude. Migrating Peoples and "Waves of Culture" For purposes of prehistory, what we usually think of as Southeast Asia must be expanded somewhat to include related cultures. Prehistoric Southeast Asia, as I use the term, consists of two parts. The first is "Mainland Southeast Asia," which extends from the Ch'in Ling Mountains, north of the Yangtze River in China, to Singapore, and from the South China Sea westward through Burma into Assam. The other I call "Island Southeast Asia," an are from the Andaman Islands, south of Burma, around to Taiwan, including Indonesia and the Philippines. (See the double supplement, Asia and Peoples of Mainland Southeast Asia, distributed with this issue.) Robert Heine-Geldern, an Austrian anthropologist, published in 1932 the traditional outline of Southeast Asian prehistory. He suggested a series of "waves of culture" that is, human migrations--which brought to Southeast Asia the major peoples who are found there today. His most important wave -- people who made a rectangular stone tool called an adz-- came from northern China into Southeast Asia, he said, and spread from there through the Malay Peninsula into Sumatra and Java, and then to Borneo, the Philippines, Taiwan, and Japan. Later, Heine-Geldern dealt with the coming of bronze to Southeast Asia. He theorized that the original source of the Southeast Asian Bronze Age was a migration from eastern Europe about 1000 B.C. The people in this migration, he believed, moved east and south, entering China during the Western Chou Dynasty (1122-771 B.C.). They carried with them not only a knowledge of bronze working but also a new art form. That is, they decorated their bronze with geometric patterns, spirals, triangles, and rectangles, as well as with scenes or pictures of people and animals. Picture 3: Dongson bronze drum Picture 4: Dongson bronze artifact As applied to Southeast Asia, both Heine-Geldern and Bernhard Karlgren, a Swedish scholar, called this culture Dong Son, after Dong Son, a site in North Viet Nam south of Hanoi, where large bronze drums (picture 3) and other artifacts (picture 4) had been unearthed. Both men felt that the Dong Son people brought bronze and the geometric art style into Southeast Asia (picture 1). Prehistorians, for the most part, have followed this traditional reconstruction, but there were some facts that did not quite jibe. A few botanists who studied the origins of domesticated plants, for example, suggested that Southeast Asia had been a center of very early plant domestication. In 1952 Carl Sauer, a ž S. geographer, went a step further. He hypothesized that the first plant domestication in the world took place in Southeast Asia. He speculated that it was brought about by people much earlier than the Dong Son period, people whose primitive culture was known as Hoabinhian. Archeologists did not immediately take up Sauer's theory. Dams Add an Element of Urgency The existence of a Hoabinhian culture had first been proposed in the 1920's by Madeleine Colani, a French botanist turned paleontologist and then archeologist. She based the idea on excavations of several cave and rock-shelter sites in North Viet Nam, the first of which was found near the village of Hoa Binh. Typical artifacts in these sites included oval, circular, or roughly triangular stone tools flaked on only one side, leaving the original surface of the rock on the other. Neat grinding stones were found in most sites, and many stone flakes. Upper levels usually held pottery and a few somewhat different stone tools, with the working end ground to a sharp edge. Animal bones and large quantities of shell were usually present. Archeologists felt that the pottery was associated accidentally with the Hoabinhian tools and had been made by more advanced people living nearby, possibly farmers who had migrated from the north. They also felt that the edge grinding of the stone tools had been learned from these outsiders. But no sites of tile northern farmers have ever been found. In 1963 I organized a joint expedition of the Fine Arts Department of Thailand and the University of Hawaii to do archeological salvage work in areas that would be flooded by new dams on the Mekong River and its tributaries." We were to start work in northern Thailand, where the first dams were being built. No systematic research had ever been done on the region's prehistory. I felt that it was urgent to begin a series of excavations before much of this area went under water. Surprises From an Unimpressive Mound During the first field season we located more than twenty sites; during the second we excavated some of these and tested others; and in 1965-66 we made a major excavation at Non Nok Tha. While the carbon-14 dates from this site have presented some problems, they strongly suggest a sequence of human habitation (with some interruptions) going back to well before 3500 B.C. Non Nok Tha is a mound of about six acres that rises less than six feet above the surrounding rice fields. While working there, we lived in the small Thai-Lao village of Ban Na Di, a couple of hundred yards from the mound. We spent about four months at our first excavation. Hamilton Parker, of the University of Otago in New Zealand, was in charge the first year. Donn Bayard, a student of mine working for his Ph.D., returned to Non Nok Tha in 1968 to make a second excavation for his doctor's thesis. Since then Otago and the University of Hawaii have continued to support our work in Thailand as a joint program with the Thai Fine Arts Department. The results of those excavations, now in their seventh year, have been astonishing, hut have 01714' unfolded slowly as the analysis of our finds proceeds in our laboratory in Honolulu. As we started to receive our carbon-14 dates, we began to realize what a truly revolutionary site this was. In a scrap of broken pottery little more than an inch square, we found an imprint of the husk of a grain of rice, Oryza sativa. From the carbonddating of a burial in a level above this potsherd, we know that it--and the rice-ðate at the latest from 3500 B.C. This is as much as a thousand years earlier than rice has been dated for either India or China --where some archeolotrists have claimed, rice was first domesticated. From carbonddating of associated charcoal, we know that bronze axes, cast in double molds of sandstone, were being made at Non Nok Tha substantially earlier than 2300 B.C. --probably before 3000 B.C. This is more than 500 -ears earlier than the first known Bronze casting in India, and 1,000 years before any known in China. It may also prove older than sites in the Near East, which is where bronze manufacture was long assumed to have begun. The rectangular molds we found at Non Nok Tha all came in pairs (page 334), indicating that they had been placed together where we found them, rather than having been lost or discarded. Considering the whole and broken crucibles that turned up, and the many small nodules of bronze scattered about, we have no doubt that we have unearthed a bronze-casting area--in effect, an ancient ax factory. Portions of cattle were interred with some of the early burials at Non Nok Tha. These have been tentatively identified as domesticated animals very similar to the zebu (Bos indicus). This would be the earliest dated find of domesticated cattle in eastern Asia. Chester German, a student of mine at the University of Hawaii, was the one who located' Non Nok Tha by finding potsherds eroding from the mound. In 1965 he returned to Thailand for his Ph.D. work. He wanted to test the suggestion by Carl Sauer and others of possible plant domestication by Hoabinhian people. In far northern Thailand, close to the Burmese border, he found Spirit Cave --and what he was looking for. Cave of Death Yields Startling Dates Spirit Cave stands high on the side or a limestone outcrop, overlooking a stream which ultimately drains into the Salween River in Burma (see supplement map). The cave was apparently once used as a mausoleum - hence the name. Picture 5: Stone tool Excavating. its floor, German found carbonized plant remains, including two probable beans, a possible pea, a Chinese water chestnut, a pepper, and bits of bottle gourd and cucumber, all in association with typical Hoabinhian stone tools (picture 5). The remains of animal bones, chopped into small pieces but usually not burned, suggest that the meat cooked here was not roasted in or on the fire but stewed, probably in a container of green bamboo--as is still done in Southeast Asia todaÜ A series of carbon-14 dates for this site range from 6000 B.C. back to 9700 B.C., and there is still older material, in deeper layers, \let to be dated. At about 6600 B.C., new elements entered the site. These include wellddeveloped pottery, burnished, incised, and marked by the woven cords used in its manufacture; rectangular, partially polished stone tools; and small slate knives. Hoabinhian tools and plant remains continue to he found with this more recent material. We may regard the finds at Spirit Cave as at least preliminary corroboration of Carl Sauer's hypothesis, and other expeditions are adding evidence of a complex and widespread Hoabinhian culture. U Aung Thaw, Director of the Archeological Survey of Burma, excavated in 1969 a remarkable Hoabinhian site at the Padah-lin caves in eastern Burma. It contained, among other things, many cave paintings. This is the farthest west that a Hoabinhian site has been reported. Excavations in Taiwan by a joint expedition of the National Taiwan University and Yale University, led by Professor Kwangchih Chang of Yale, have shown that a culture with cord-marked and incised pottery, polished stone tools, and polished slate points had a long existence prior to 2500 B.C. Puzzle Begins to Fit Together In view of the new excavations and dates I have summarized here, and others, perhaps equally important, that I have not, it is interesting to speculate on how the prehistory of Southeast Asia may someday be reconstructed. In a number of published papers I have made a start on this. Most of the ideas I have proposed must be labeled as hypothesis or conjecture. They need a great deal more research to bear them out--or refute them. Among them are these: I agree with Sauer that the first domestication of plants in the world was done by people of the Hoabinhian culture, somewhere in Southeast Asia. It would not surprise me if this had begun as early as 15,000 B.C. I suggest that the earliest dated edge-ground stone tools, found in northern Australia and dated by carbon 14 at about 20,000 B.C., are of Hoabinhian origin. While the earliest dates for pottery now known are from Japan at about 10,000 B.C., I expect that when more of the Hoabinhian sites with cord-marked pottery are dated, we will find that pottery was being made by these people well before 10,000 B.C., and was possibly invented by them. * The traditional reconstruction of Southeast Asian prehistory has had migrations from the north bringing important developments in technology to Southeast Asia. I suggest instead that the first neolithic (that is, late Stone Age) culture of North China, known as the Yangshao, developed out of a Hoabinhian subculture that moved north from northern Southeast Asia about the sixth or seventh millennium B.C. I suggest that the later so-called Lungshan culture, which supposedly grew from the Yangshao in North China and then exploded to the east and southeast, instead developed in South China and moved northward. Both of these cultures developed out of a Hoabinhian base. Dugout canoes had probably been used on the rivers of Southeast Asia long before the fifth millennium B.C. Probably not long before 4000 B.C. the outrigger was invented in Southeast Asia, adding the stability needed to move by sea. I believe that movement out of the area by boat, beginning about 4000 B.C., led to accidental voyages from Southeast Asia to Taiwan and Japan, bringing to Japan tare cultivation and perhaps other crops. Sometime during the third millennium B.C. the now-expert boat-using peoples of Southeast Asia were entering the islands of Indonesia and the Philippines. 'They brought with them a geometric art style -- spirals and triangles and rectangles in band patterns-that was used in pottery, wood carvings, tattoos, bark cloth, and later woven textiles. These are the same geometric art motifs that were found on Dong Son bronzes and hypothesized to have come from eastern Europe. · The Southeast Asians also moved west, reaching Madagascar probably around 2,000 years ago. It would appear that they contributed a number of important domesticated plants to the economy of eastern Africa. At about the same time, contact began between Viet Nam and the Mediterranean, probably by sea as a result of developing trade. Several unusual bronzes, strongly suggesting eastern Mediterranean origins, have been found at the Dong Son site. Past May Help to Light Up the Present The new reconstruction of Southeast Asian prehistory I have presented here is based on data from only a very few sites and a reinterpretation of old data. Other interpretations are possible. Many more well-excavated, welldated sites are needed just to see if this general framework is any closer to what happened than is Heine-Geldern's reconstruction. Burma and Assam are virtually unknown prehistorically, and I suspect that they are of great importance in Southeast Asian prehistory. Most needed are many more details about small, definable areas. By intensive investigation in a small area, it will be possible to work out the local cultural development and ecological adaptation to see how living people fit in with the framework of prehistory. After all, it is people we want to understand, and this information may give us some insight into their interaction with each other and with their changing world in Southeast Asia. Wilhelm G. Solheim Ii, Ph.D. (Phần ảnh nếu không hiển thị sẽ bổ sung sau)
  7. Phoenix không post được hình. Sẽ bổ sung sau.
  8. Cảm ơn bạn phản hồi. Chúc bạn sớm thành công!
  9. Giới thiệu bài viết của tác giả Nguyễn Thiếu Dũng Nguồn: http://www4.thanhnien.com.vn/Vanhoa/2005/4/4/78563.tno Ý nghĩa ngày giỗ Tổ 30/03/2005 Con người ai cũng có thân xác, đó là cơ sở vật chất để sự sống tồn tại. Thân xác đó không thể tự ta mà có, nó có là do cha mẹ di truyền, đến lượt ta, ta lại trao truyền sự sống cho con, thành ra sự sống là một dòng tồn tục. Khi ta sống là cha mẹ ta đang sống. Khi ta chết ta vẫn còn sống nơi con ta, cháu ta. Sinh huyết chảy mãi không ngừng từ vô thuỷ đến vô chung. Trân trọng sự sống, bảo tồn thân xác là bổn phận, là nhiệm vụ của con người vì thân xác đó không phải của riêng ta. Thân xác đó là của người trước, thân xác đó là của người sau. Thân xác đó cùng tồn tại với càn khôn, biến dịch cùng vũ trụ. Thế nên sống là tri ân. Sống là phải biết ơn cha mẹ, ông bà, tổ tiên đã cho ta sự sống. Đạo thờ cúng tổ tiên là đạo làm người. Người Việt Nam may mắn có chung một đạo, Đạo thờ cúng Ông Bà. Người Việt Nam còn may mắn hơn nữa khi có chung một Tổ để hướng về, có chung một miền Đất Tổ để nhớ, có chung một đền thờ Tổ để tri ân. Ngày giỗ Tổ Hùng Vương là ngày hội chung của toàn dân, ngày mà mọi trái tim dầu ở muôn nơi vẫn đập chung một nhịp, mọi cặp mắt đều nhìn về cùng một hướng: Đền Hùng. Đền Hùng dựng trên núi Hùng Sách Đại Nam nhất thống chí, phần tỉnh Sơn Tây viết: "Núi Hùng Vương ở xã Hy Cương, cách huyện Sơn Vi 12 dặm về phía đông, cũng gọi là núi Hy Cương, lại gọi là núi Bảo Thứu, hình thể tròn trĩnh xanh tốt lạ thường, Địa dư chí của Lê Đại Cương chép rằng: mạch núi từ núi Tam Đảo bổ xuống, kéo qua địa phận huyện Lập Thạch, xuyên qua sông Lô, đi qua địa phận các huyện Hùng Quan và Tây Quan kéo đến, ở phía tây núi non la liệt, ở phía đông có nước sông Đà lượn quanh, lại có các ngọn nước tụ hội ở ngã ba sông, thật là cục lớn về phong thuỷ" (1). Võ Văn Trực cực tả: "Núi Hùng vươn ra như một con rồng, đầu hướng về nam" (2) tr 419). Núi Hùng cao 175m so với mặt biển. Núi còn nhiều tên gọi khác như Nghĩa Lĩnh, Nghĩa Cương hay núi Cả. Núi Cả nhìn xuống làng Cả. Đời Lê, cư dân xã Hy Cương được ban làm con Cả, hằng năm giữ nhiệm vụ hương khói thờ phụng vua Hùng. Sách Ngọc phả Hùng Vương do Trực Học Sĩ Nguyễn Cố soạn năm 1470 có đoạn viết: "Phụng ban hương Trung Nghĩa (Cổ Tích) làm dân trưởng tạo lệ, cấp 500 mẫu ruộng tại xã Hy Cương, lại cho thu thuế ruộng của một vùng, trên từ Tuyên Quang, Hưng Hoá, dưới đến Việt Trì làm hương hoả phụng thờ". Hằng năm con trưởng chỉ có nghĩa vụ đi lính, còn được miễn thuế khoá, tiền thuế và ruộng chỉ để đèn nhang cúng lễ đền Hùng" (2) tr 380). Lễ giỗ Tổ Hùng Vương cử hành vào ngày mồng mười tháng ba: Dù ai đi ngược về xuôi Nhớ ngày giỗ Tổ mồng mười tháng ba Cả nước hướng về vùng Đất Tổ, người người trẩy hội Đền Hùng, 41 làng xã thuộc tỉnh Vĩnh Phú tham gia rước kiệu lễ dâng Tổ. Trên các cổ kiệu có bày lễ vật, đi kèm có phường bát âm tấu nhạc, cờ quạt, bát bửu, lọng che cùng chiêng trống. Những làng ở xa thường phải rước 2-3 ngày mới tới" (2) tr 382). Nguyễn Thị Hạnh cho biết: "Xưa kia, việc cúng Tổ (cử hành) vào ngày 12 tháng 3 (âm lịch) hằng năm. Thường khi con cháu ở xa về làm giỗ trước một ngày, vào ngày 11 tháng 3 (âm lịch)... Đến thời nhà Nguyễn định lệ 5 năm mở hội lớn một lần (vào các năm thứ 5 và 10 của các thập kỷ), có quan triều đình về cúng tế cùng quan hàng tỉnh và người chủ tế địa phương cúng vào ngày 10 tháng 3 (âm lịch). Do đó ngày giỗ Tổ sau này mới là ngày 10 tháng 3 (âm lịch ) hàng năm. (2) tr 381). Như thế ngày chính tế phải là ngày 12 tháng 3, ngày 10 tháng 3 chỉ là ngày quốc tế, ngày chính quyền Nhà nước đứng ra cúng tế. Và ngày 12 tháng 3 mới là ngày mang ý nghĩa của một thông điệp mà người xưa muốn gửi lại cho muôn đời sau. Tại sao 18 đời Hùng Vương chỉ có một ngày lễ. Đồng ý đây có thể là hợp kỵ nhưng tại sao lại là ngày 12 tháng 3 mà không phải là ngày khác? Đây chắc không phải là ngày chọn lựa một cách tình cờ mà có dụng ý. Muốn giải mã được thông điệp của Tổ tiên; không thể chỉ dựa vào một sự kiện, vì như vậy người khác có thể cho là suy diễn, nhưng nếu vấn đề được giải đáp trong một hệ thống chúng ta không thể không quan tâm. Chúng ta có thể đối chứng ngày giỗ Tổ Hùng Vương với ngày giỗ Tổ Phụ Lạc Long Quân và ngày giỗ Tổ Mẫu Âu Cơ. Ba ngày giỗ này có liên hệ mật thiết với nhau, thống nhất ý nghĩa trong cùng một hệ thống, tỏ rõ có bàn tay xếp đặt chứ không phải là ngẫu nhiên trùng hợp. Trong sách Hùng Vương và lễ hội đền Hùng B.D.S cho chúng ta biết thêm một chi tiết khá quan trọng: ''Mãi gần đây chúng ta mới biết Lạc Long Quân được thờ tại Đình Nội, làng Bình Đà, huyện Thanh Oai, Hà Tây. Bình Đà có hai ngôi đình đẹp: Đình Nội (còn gọi là Đình Trong), Đình Ngoại (còn gọi là Đình Ngoài)... Dân làng Bình Đà tổ chức lễ hội từ ngày 1 đến ngày 6 tháng 3 âm lịch. Ngày 6 tháng 3 là ngày chính hội, tương truyền đó là ngày sinh của Đức Lạc Long Quân (2) tr 371-373). Theo Kinh Dịch, tính theo số Tiên-Thiên, quẻ Khảm hay còn gọi là quẻ Thuỷ đứng ở vị trí số 6, quẻ Ly hay còn gọi là quẻ Hoả đứng ở vị trí số 3. Vì vậy lấy ngày 6 tháng 3 để tưởng niệm Đức Lạc Long Quân là dựa vào tính chất của quẻ Khảm (số 6) và quẻ Ly (số 3). Hai quẻ này hợp lại là quẻ Thuỷ-Hoả-Ký-Tế, quẻ thứ 63 trong tổng số 64 quẻ Dịch. Lạc Long Quân từng nói với Âu Cơ: "Ta là nòi rồng, đứng đầu thuỷ tộc, nàng là giống tiên, sống ở trên đất, tuy khí âm dương hợp lại mà sinh con, nhưng thuỷ hoả tương khắc, dòng giống bất đồng, khó ở lâu với nhau được, nay phải chia ly. Ta đem năm mươi con về thuỷ phủ, chia trị các xứ, năm mươi con theo nàng về ở trên đất, chia nước mà trị. Lên núi xuống bể, hữu sự thì báo cho nhau biết" (Lĩnh Nam Chích Quái). Lạc Long Quân tính thuỷ tương ứng với quẻ Khảm, loại quẻ dương. Âu Cơ tính hoả tương ứng với quẻ Ly, loại quẻ âm. Hai quẻ này âm dương tương hợp, tạo thành quẻ Ký-Tế. Hào cửu ngũ quẻ Ký-Tế là hào dương, biểu tượng cho vua, hào lục nhị quẻ Ký-Tế là hào âm, biểu tượng cho Âu Cơ, hai hào này là hai hào chính ứng với nhau. Kinh Dịch chỉ có 8 quẻ đơn, từ quẻ Càn số 1 đến quẻ Khôn số 8, quẻ đơn không vượt quá số 8. Ngày giỗ Tổ Hùng Vương là ngày 12 tháng 3, số 12 vượt quá giới hạn quẻ đơn, tuy nhiên ta biết rằng 12 là bội số của 6. Dịch lý luôn biến hoá, do đó số 12 vẫn hàm chứa số 6 nên ngày 12 tháng 3 về nội hàm vẫn là hoá thân của 6 tháng 3. Ngày giỗ Tổ Hùng Vương và Ngày giỗ Tổ Lạc Long Quân cùng có chung một ý nghĩa. Quẻ Ký-Tế là quẻ duy nhất trong số 64 quẻ Dịch đạt đến độ lý tưởng hoàn chỉnh. Dịch quy định những hào ở vị trí số lẻ 1, 3, 5 phải là hào dương mới được kể là chính vị, nếu là hào âm thì gọi là thất vị (không đúng vị trí). Ngược lại những hào ở vị trí số chẵn 2, 4, 6 phải là hào âm mới được kể là chính vị, không đúng quy định đó gọi là thất vị. Số thứ tự của hào quẻ được tính từ dưới lên. Riêng hào 5 (hào cửu ngũ) còn được gọi là hào trung chính vì là hào dương mà lại là hào ở giữa quẻ ngoại. Cũng thế, hào 2 (lục nhị) còn được gọi là trung chính vì là hào âm và là hào ở giữa quẻ nội. Quẻ Ký-Tế,hào dương ở đúng vị trí dương, hào âm ở đúng vị trí âm được xem là quẻ chuẩn, chuẩn cho Dịch, chuẩn cho người, chuẩn cả cho trời đất vì đã đạt đến trung chính, nghĩa là đã đạt được Đạo. Trời đất trung chính thì mưa thuận gió hoà, xã hội trung chính thì cuộc sống yên ổn, thái bình. Cho nên toàn bộ Kinh Dịch, có thể nói như Nguyễn Hiến Lê: "Liệt kê ra thì cực phiền toái mà tổng hợp lại thì rất đơn giản chỉ gồm hai chữ trung chính như Trương Kỳ Quân đã nói: "Đạo lý trong thiên hạ (theo Dịch) chỉ là khiến cho việc không trung trở về chỗ trung, việc không chính trở về chỗ chính" (3) tr161). Nguyễn Văn Siêu nhấn mạnh trung không phải là lưng chừng, không phải là trung bình cộng mà trung là đạt đến chỗ chí thiện. Phải chăng qua ngày giỗ 6/3 và 12/3 Tổ tiên muốn để lại cho con cháu muôn đời lời di huấn về phép trị nước an dân cốt sao đạt đến chỗ trung chính. Đạo trị nước tất cũng là đạo giữ nước, đó chính là thông điệp của ngày giỗ Tổ Hùng Vương, giỗ Tổ Lạc Long Quân. Ký-Tế là đã thành, đã xong, nhưng Vương-Bật trong Chu Dịch chú nói rằng: "Đã qua sông (ký tế) đừng quên lúc chưa qua sông (vị tế)'' (4) tr870). Vua Đường Thái Tông từng hỏi các cận thần: "Về sự nghiệp của đế vương, việc sáng lập và giữ gìn thành quả cái nào khó hơn". Nguỵ Trưng đáp: "Đế vương dấy nghiệp, tất thừa cơ lúc đời suy loạn, lật đổ bọn tàn ác hôn ám, trăm họ đều đồng lòng ủng hộ, bốn biển đều theo về, đó là lúc trời trao cho mệnh, do vậy việc đó không phải là khó. Nhưng sau khi đã được thiên hạ, chí thường kiêu ngạo phóng dật, trăm họ muốn được yên vui, nhưng sưu thuế nặng nề, muôn dân khổ sở điêu tàn, mà phải phục dịch cho việc ăn chơi xa xỉ không ngớt. Đất nước suy vong đều từ đó mà ra. Cho nên nói giữ vững thành quả là khó hơn nhiều" (4) tr 867). Ý của Tổ tiên muốn nhắc nhở người đời sau qua quẻ Ký-Tế: ai ai cũng nên làm tròn bổn phận, nhiệm vụ và chức năng của mình, giữ đúng kỷ cương vua ra vua, cha ra cha, con ra con thì gia đình sẽ yên ổn, xã hội được an cư lạc nghiệp phồn vinh, phát triển. Lời di huấn này không chỉ được nhắc nhở hằng năm thông qua ngày hội giỗ mà còn được khắc ghi trên trống đồng Đông Sơn, trống thiêng của dân tộc, gởi gắm trong biểu tượng mặt trời nằm rạng rỡ giữa trống đồng. Mặt trời trên trống đồng có nhiều tia, có trống 8 tia có trống 10, 12 hoặc 14, 16 tia, nhưng đều là tia khắc nổi, đó là tia dương ứng với hào dương. Ngoài ra những tia nổi này còn tạo ra những tia chìm, đó là tia âm, ứng với hào âm. Cứ mỗi hào dương hào âm như thế nối nhau sẽ tạo ra những quẻ Ký-Tế chạy thành vòng tròn mặt trời giữa trống đồng. Ý nghĩa của mặt trời trên trống đồng và những con số ẩn trong ngày giỗ Tổ là nhất quán. Ngày giỗ Lạc Long Quân, ngày giỗ Hùng Vương có chung một ý nghĩa, gắn bó nhau trong một hệ thống, thế còn ngày giỗ cũa Âu Cơ có chuyển tải ý nghĩa nào không? Giỗ cha có nghĩa, giỗ con có nghĩa, lẽ nào giỗ mẹ lại không? Sách Non Nước Việt Nam của Tổng cục Du lịch Việt Nam giới thiệu: "Đền thờ Mẹ Âu Cơ nằm giữa cánh đồng lúa của xã Hiền Lương (huyện Hạ Hoà, tỉnh Phú Thọ), dưới tán lá của cây đa xum xuê toả bóng mát. Trong đền thờ tượng mẹ Âu Cơ đặt ở vị trí cao nhất. Bức tượng là một người mẹ hiền từ, đẹp như tiên, thông minh và phúc hậu. Tại đây còn thờ phụng con trai thứ hai của Mẹ, một vị tướng tài ba, trung hiếu, được tôn là ''Thượng Đẳng Thần". Lễ hội Đền Âu Cơ tổ chức hàng năm vào ngày 7 tháng giêng âm lịch" (tr291). Theo số Tiên Thiên, 7 là số thứ tự của quẻ Cấn còn gọi là quẻ Sơn, có tượng là núi. Tháng giêng số 1 là số thứ tự của quẻ Càn cũng gọi quẻ Thiên, có tượng là trời. Mẹ Âu Cơ là mẹ tiên, người ở núi "Mẹ Âu Cơ dẫn 50 con lên núi". Dựa theo Dịch lấy ngày 7, quẻ Cấn, để tưởng nhớ mẹ là tiên nhân, cũng như Lạc Long Quân là cha rồng, người ở nước, nên lấy quẻ Khảm số 6 làm ngày tưởng niệm. Quẻ Cấn và quẻ Càn hợp lại là quẻ Sơn-Thiên-Đại-Súc: 7/1 Quẻ trên là núi, quẻ dưới là trời, đây không phải là chuyện thực mà chỉ là hình ảnh biểu tượng: trời chứa trong núi, tượng trưng cho sự chứa đựng, tích góp lớn lao. Hình tượng này dành cho bậc thánh nhân, những người có thể làm nên những công trạng vĩ đại như Mẹ Âu Cơ. Đại tượng truyện đưa ra một ý rất thích hợp với nội dung câu chuyện chúng ta đang đề cập ở đây: "Đại-Súc, quân tử dĩ đa chỉ tiền ngôn vãng hành, dĩ súc kỳ đức". Việc súc tụ lớn lao, người quân tử nhân đó phải ghi nhớ nhiều ngôn luận và sự tích của các vị thánh hiền xưa, lấy đó để súc tụ mỹ đức cho mình (4) tr536). Tuy chỉ là ý kiến suy tưởng của người Trung Hoa nhưng từ ý này cũng giúp cho ta hình dung được sự phối hợp kỳ lạ giữa hai quẻ Ký-Tế và Đại-Súc, một bên là lời di huấn của cha, một bên là lời khuyên của mẹ, phải nhớ lời cha dặn. Đại-Súc có nghĩa là súc tụ, súc dưỡng và súc chỉ. Súc tụ là sự tập hợp vĩ đại, người lãnh đạo phải biết đoàn kết rộng khắp các hạng dân "Nhiễu điều phủ lấy giá gương, Người trong một nước phải thương nhau cùng". Tập hợp thành một khối kiên cường trong tình yêu thương rộng mở. Làm được công cuộc súc tụ, thì phải biết súc dưỡng, nuôi dưỡng nhân tài vật lực để phát triển, nhưng trong mọi hành động phải biết dừng lại ở chỗ chí thiện, phải biết chế ước, súc chỉ. Nếu không biết kiềm chế sẽ dẫn đến vọng động hỗn loạn. Người xưa khi thiết kế những ngày hội lễ đã có những chủ đích nhất định. Phần hội để làm sống lại quá khứ, phần lễ để tạ ơn, nhưng hội lễ không chỉ dừng lại ở đó. Thông qua ngày giỗ Tổ, thông qua những con số, thông qua quẻ Dịch Tổ tiên ta còn có hoài bão muốn nhắc nhở hậu thế những kế sách giữ nước an dân. Đó là nỗi lo muôn thuở, là tấm lòng bao dung, tha thiết, rộng mở của Chư Tổ còn vang vọng mãi khắp núi sông: "Hãy chôn ta trên núi Cả, để đứng trên núi cao ta còn trông nom bờ cõi cho con cháu". Sách tham khảo: - (1) Viện Sử Học: Đại Nam Nhất Thống chí - T 4, NXB Khoa học Xã Hội 1971 - (2) Ngô Văn Phú: Hùng Vương và Lễ Hội Đền Hùng, NXB Hội Nhà Văn 1996 - (3) Nguyễn Hiến Lê: Kinh Dịch-Đạo người quân tử, NXB Văn Học 1992 - (4) Trương Thiện Văn: Từ điển Chu Dịch, NXB Khoa học Xã Hội 1997 Nguyễn Thiếu Dũng
  10. Phiền chú Thiên Sứ cung cấp lại hộ đồ hình vì khi đưa bài lên Phoenix không làm nó hiển thị được. Cảm ơn chú!
  11. Giới thiệu bài của NNC Nguyễn Vũ Tuấn Anh lý giải Ý nghĩa ngày 5/5 AL và 10/3 AL "Ngày mùng 5 tháng 5 âm lịch hàng năm là một ngày lễ hội truyền thống không chỉ ở Việt Nam mà còn ở một số nước Đông phương khác là Triều Tiên và Trung Quốc . Đã có nhiều bài viết nghiên cứu về ngày 5 – 5 của nhiều tác giả. Thiên Sứ tôi cũng đã có bài viết về để tài này từ 2004 trên tuvilyso.com và trên ktcn.net. Hôm nay, nhân dịp có một người bạn hỏi về nguồn gốc của ngày này, nên tôi xin được trình bày lại ý nghĩa đích thực của ngày 5 – 5 và 10 / 3. Tết Đoan Ngọ tồn tai từ lâu trong văn hoá dân gian Đông Phương và có một ảnh hưởng rất lớn đến sinh hoạt văn hoá. Tết Đoan Ngọ còn gọi là tết Đoan Dương, tết Hàn thực vì trong ngày này theo tục lệ kiêng ăn món đồ nóng. Ngày này cũng còn gọi là ngày giết sâu bọ. Vì người ta tin rằng: Khi ăn món ăn đầu tiên trong ngày này thì sâu bọ; giun sán trong người sẽ bị chết hết. Truyền thuyết của Hioa Hạ về lịch sử ngày mùng 5 tháng năm thì lưu truyền rằng: Vào thời Xuân Thu; có ông Giới Tử Thôi theo phò Tấn Văn Công (Công tử Trùng Nhĩ) bôn ba phục quốc trên 30 năm. Lúc gian khổ; ông cắt thịt đùi dâng vua ăn. Khi việc phục quốc thành công, ông vì khinh bỉ đám cận thần của vua, nên không nhận quan tước, mà bỏ về ở ẩn. Tấn Văn Công thân chinh mời ông ra. Ông cõng mẹ bỏ trốn vào rừng. Nhà vua ra lệnh đốt rừng; hy vọng ông sẽ ra. Nhưng ông cùng bà mẹ trọng nghĩa đã chịu chết cháy trong rừng. Theo truyền thuyết ngày đó là ngày mùng 5 tháng 5. Bởi vậy; nhà vua chọn ngày này làm ngày kỷ niệm Giới Tử Thôi và ra lệnh cấm đốt lửa trong ngày này. Đó là nguyên nhân để ngày này dân chúng chỉ ăn đồ nguôi. Một truyền thuyết thứ hai nữa là: Khuất Nguyên là một vị trung thần nước Sở, ông còn là một nhà văn hoá nổi tiếng với bài Ly Tao và Sở Từ, thể hiện tâm trạng buồn về sự suy vong với hoạ mất nước. Can vua không được, ông tự tử trên dòng sông Mịch La. Dân chúng trọng nghĩa ra sông tưởng nhớ anh linh của ông, cúng rất nhiều sản vật. Ngày đó, theo truyền thuyết là ngày mùng 5 tháng 5. Như vậy, theo hai truyền thuyết trên thì ngày 5 – 5 có nguồn gốc từ văn hoá Trung Hoa. Nhưng điều đáng lưu ý là – Hàn Quốc cũng coi ngày 5 – 5 là ngày lễ theo truyền thống văn hoá của họ . Trong bài báo “Đừng đối đãi với di sản văn hoá như bánh mì” đăng trên báo Tuổi Trẻ trang 16, ngày 22 tháng 6 năm 2004, đã đưa tin: Hàn Quốc đề nghị Liên Hiệp Quốc công nhận tết Đoan Ngọ vào ngày 5 tháng 5 là “di sản văn hoá phi vật thể” của Hàn Quốc”. Bài báo cũng cho biết có nhiều tờ báo Trung Quốc xem đó là việc làm xâm phạm văn hoá, nhiều hoc sinh thành phố Nhạc Dương (Hồ Nam) ký tên bảo vệ tết Đoan Ngọ. Nhiều người Trung Quốc kiến nghị chính quyền đăng ký bản quyền di sản văn hoá… Bài báo có đoạn viết: "Dẫu mọi việc chẳng có gì để ầm ĩ; nhưng nhân vụ việc này người Trung Quốc mới thấy giá trị của văn hoá dân gian." Nhưng trong văn hoá Việt thì ngày mùng 5 tháng năm lại là ngày giỗ Quốc Mẫu Âu Cơ. Trong dân gian đã lưu truyền câu ca dao: “Tháng Năm ngày tết Đoan Dương. Là ngày giỗ Mẹ Việt Thường Văn Lang”. Như vậy; đây là một ngày tết có nguồn gốc từ văn hoá Việt. Nhưng tại sao ngày mùng 5 tháng 5 lại là ngày giỗ Quốc Mẫu Âu Cơ? Điều này có liên hệ gì với ngày 10 tháng 3 lại là ngày giỗ Quốc Tổ Hùng Vương của giống nòi Lạc Việt? Là những người nghiên cứu nguyên lý học thuật cổ Đông Phương chắc chúng ta đều biết đến đồ hình Hà Đồ. Có lẽ ai cũng biết rằng trung tâm Hà Đồ là ngôi Hoàng Cực biểu tượng của sự thống trị tối cao; tức quyền uy của nhà vua. Trung tâm Hà Đồ có độ số 5 thuộc Dương và 10 thuộc Âm. Phần trung tâm Hà Đồ được miêu tả như sau: ĐỒ HÌNH LẠC THƯ VÀ HÀ ĐỒ Chúng ta cũng biết rằng: Trong nguyên lý Âm Dương thì Dương có trước và Âm có sau. Dương là giá trị trừu tượng, Âm là giá trị hiện hữu. Như vậy, tháng có trước thuộc Dương và ngày có sau thuộc Âm (Ngày là con của tháng). Ngày giỗ Quốc Tổ Hùng Vương (Giỗ Cha) được chọn là ngày 10 tháng 3 vì: Tháng 3 là tháng Thìn/ Rồng biểu tượng của Vương quyền chính là tháng thứ 5 kể từ tháng Tý mà trong dân gian gọi là tháng Một (Tức tháng 11 Âm lịch). Đó chính là biểu tượng của 5 vòng tròn trắng ở trung tâm Hà Đồ thuộc Dương (Tháng có trước thuộc Dương). Ngày là con của tháng thuộc Âm, nên chọn ngày mùng 10. Đó đó chính là biểu tượng của 10 vòng tròn đen thuộc Âm trên Hà đồ. Xin xem lại hình minh hoạ Hà đồ ở trên thì thấy rằngL: Trung Cung Hà đồ có 5 vong tròng trằng và 10 vòng tròn đen. Cũng trên nguyên lý độ số Âm của Hà Đồ là sự hiện hữu, nên chọn là ngày giỗ Quốc Mẫu Âu Cơ. Ngày mùng 5 tháng 5 chính là biểu tượng của hai dãy mỗi dẫy 5 vòng tròn đen ở trung tâm Hà Đồ (Xin xem lại hình trên) . Ngày cực Âm, tháng cực Âm nên thuận theo tự nhiên, dân chúng ăn đồ nguội (Nguội thuộc Âm, nóng thuộc Dương). Chúng ta cũng lưu ý rằng: Ngày mùng 5 / 5 là ngày rất gần tiết Hạ Chí, tức là ngày nóng nhất trong năm theo thực tế thời tiết; hay nói theo thuyết Âm Dương Ngũ hành: Là ngày cực Dương thuộc Hoả khí (Trong Hậu Thiên Lạc Việt, Ly Hoả thay thế vị trí Càn trong Tiên Thiên). Bởi vậy, lấy số ngày và tháng cực Âm về biểu tượng là mùng 5 / 5 (Cân bằng Âm Dương). Vì là ngày cực Âm nên biểu tượng bằng ngày giỗ Quốc Mẫu Âu Cơ. (Cha thuộc Dương / Mẹ thuộc Âm). Như vậy, nền văn hiến Lạc Việt qua ngày giỗ Quốc Tổ Hùng Vương và Quốc Mẫu Âu Cơ, đã giải thích nguyên uỷ hai ngày này bằng chính nền tảng của nguyên lý học thuật cổ Đông phương, chứ không phải bằng những truyền thuyết mơ hồ nói trên . Đây là một yếu tố sắc sảo nữa chứng minh rằng: Nguồn gốc của văn minh Đông phương thuộc về nền văn minh Lạc Việt một thời huy hoàng kỳ vĩ từ hàng ngàn năm trước ở miền nam sông Dương Tử. Nền văn minh này đã sụp đổ từ thế kỷ thứ III trước CN, nhưng dấu ấn của nó vẫn còn lưu giữ trong những giá trị văn hóa truyền thống ở nhiều quốc gia liên quan đến nền văn minh này. Kính thưa quí vị quan tâm. Những giá trị của thuyết Âm Dương Ngũ hành và sự nhận thức những thực tại của con người làm nên nó, là hệ quả tổng hợp của cả một nền văn minh phát triển tích lũy và kế thừa trong quá trình tiến hóa của nó, trải nhiều ngàn năm. Bởi vậy, khi một nền văn minh tạo ra nó đã sụp đổ thì sẽ kéo theo tất cả những mối quan hệ tri thức và hạ tầng cơ sở vật chất liên quan đến tinh hoa tri thức mà nó tạo ra. Do đó, để hiểu được bản chất những giá trị tinh hoa của nền văn minh này - Thuyết Âm Dương Ngũ hành - không thể là một tư duy dễ dãi, mà phải là sự tổng hợp những gì còn sót lại của nó và biết được một thực tại nào là cơ sở nhận thức đã tạo ra nó. Nền văn minh Lạc Việt với những dấu ấn còn lại trong những giá trị văn hóa truyền thống, có rất nhiều hiện tượng phù hợp với những giá trị nguyên lý của học thuyết này, mà không một nền văn hóa gần gũi nào liên quan có thể có được. Bởi vậy, những giá trị văn hóa phi vật vật thể chính là một bằng chứng rất rõ nét chứng minh cho cội nguồn văn hóa Việt là nền tảng của giá trị văn minh Đông phương cổ. Cảm ơn sự quan tâm của quí vị! Thiên Sứ (hết).
  12. Phoenix nhớ trước đây đã đọc một bài về nội dung này. Hiện chưa lục lại được trong đống tài liệu lưu. Pót cái này vào trước: (Nguồn: http://vietnamese-law-consultancy.com/vietnamese/content/) Sẽ được nghỉ ngày giỗ Tổ Hùng Vương hàng năm 01-04-2007 Tất cả các đại biểu Quốc hội chiều 28/3 đã thống nhất với tờ trình của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội về việc sửa đổi, bổ sung điều 73 của Bộ luật Lao động (cho phép người lao động được nghỉ việc, hưởng nguyên lương vào ngày giỗ Tổ Hùng Vương - 10/3 âm lịch hàng năm). Dự kiến, thời điểm thực hiện ngày nghỉ giỗ Tổ Hùng Vương sẽ được thực hiện từ năm 2007, sau khi được các đại biểu Quốc hội biểu quyết thông qua việc sửa đổi Bộ luật Lao động vào tuần tới. Theo Tờ trình của Bộ LĐ-TBXH, do Thứ trưởng Huỳnh Thị Nhân trình bày, thì ngày giỗ Tổ Hùng Vương hàng năm đã được Đảng, Nhà nước quy định là một trong những ngày lễ lớn của dân tộc. Trong khi đó, hiện người lao động Việt Nam chỉ được nghỉ hưởng lương 8 ngày lễ, Tết trong năm (chưa có ngày giỗ Tổ Hùng Vương) và từ 12 đến 16 ngày phép trong một năm tuỳ theo điều kiện làm việc. Tuy nhiên, so với các nước trong khu vực và trên thế giới thì số ngày nghỉ lễ, Tết ở Việt Nam còn thấp (Indonesia và Thái Lan: 13 ngày, Philippin: 12 ngày, Trung Quốc: 10 ngày... ). Vì vậy, việc quy định nghỉ thêm 01 ngày trong năm, ngày giỗ Tổ Hùng Vương, sẽ được đông đảo người lao động ủng hộ, tạo tâm lý phấn khởi, hăng hái tham gia lao động sản xuất. Lo lắng duy nhất hiện nay, bà Huỳnh Thị Nhân cho biết, là cả nước có trên 13 triệu người làm công, ăn lương (chiếm khoảng 29% lực lượng lao động). Trong khu vực sản xuất kinh doanh, nếu nghỉ thêm 01 ngày thì chi phí tiền lương sẽ tăng thêm (khoảng 1%). Ngược lại, ở khu vực hành chính sự nghiệp, nếu tổ chức thực hiện tốt thì có thể tiết kiệm thêm các chi phí về hành chính. Do vậy, thay mặt Chính phủ, Bộ LĐ-TBXH đề nghị QH thống nhất cho người lao động nghỉ nguyên lương từ 10/3 âm lịch 2007 (tức 26/4/2007). Thay mặt Ủy ban về Các vấn đề xã hội của QH, Phó Chủ nhiệm Đặng Như Lợi đánh giá, quy định ngày 10/3 âm lịch hàng năm - ngày giỗ Tổ Hùng Vương, người lao động được nghỉ việc, hưởng lương sẽ nâng tổng số ngày nghỉ lễ, tết trong năm lên 9 ngày. Tuy có thể ít nhiều ảnh hưởng tới chi phí tiền lương, tiền công của một số doanh nghiệp, song, ngày giỗ Tổ Hùng Vương đã trở thành tình cảm, tâm linh của người Việt Nam, có ý nghĩa chính trị - giáo dục đặc biệt. Hơn nữa, khi nền kinh tế đã khởi sắc và dần đi vào thế ổn định thì việc quy định tăng thêm 1 ngày nghỉ cũng là hợp lý, có lợi nhiều mặt đối với người lao động và thu hút phát triển du lịch . Do vậy, Uỷ ban về Các vấn đề xã hội nhất trí với tờ trình của Chính phủ quy định 10/3 âm lịch hàng năm là ngày giỗ Tổ Hùng Vương, người lao động được nghỉ làm việc và được hưởng lương. Tuy nhiên, ông Lợi cho biết có ý kiến đề nghị lý giải căn cứ vì sao lại chọn ngày 10/3 âm lịch hàng năm. "Đây là vấn đề tương đối phức tạp thuộc về lịch sử, cần được tiếp tục nghiên cứu. Ngày 10/3 âm lịch có thể còn mang tính ước lệ về thời gian nhưng thực tế từ nhiều năm và nhiều thế hệ, ngày này đã đi vào tiềm thức, tâm khảm của mọi người dân Việt Nam. Vì vậy, việc chọn ngày 10/3 âm lịch hàng năm là ngày giỗ Tổ Hùng Vương cũng có tính kế thừa và hoàn toàn hợp lý", ông Lợi nói. Ủy ban cũng nhất trí với đề nghị của Chính phủ, thời điểm thực hiện ngày nghỉ giỗ Tổ Hùng Vương - ngày 10/3 âm lịch hàng năm được thực hiện từ 2007. Tại buổi thảo luận chiều nay, tất cả các đại biểu đã thống nhất với tờ trình của Chính phủ và báo cáo thẩm tra của Uỷ ban về Các vấn đề xã hội của QH liên quan đến vấn đề này. Tuần tới, các đại biểu sẽ biểu quyết thông qua việc sửa đổi này.
  13. Câu thơ của Jimsy hợp với điều kiện yêu cầu nên dễ "cảm" hơn. Ưu tiên trả lời cho Jimsy trước. Thanh Trang và quan2nguyen, Minh Chau thông cảm chút nhé. Vì đây là phương pháp còn đang thử nghiệm :rolleyes: "Vô vi huyền diệu vô thường Trăm năm tu đạo con đương gian nan " Hiện này Jimsy ở trong tình trạng là được khích lệ thêm lòng ham muốn để nghiên cứu về học thuật. Bản thân Jimsy là người có tâm tính tốt, tư tưởng rộng mở, dễ cảm nhận sự huyền vĩ của vũ trụ cũng như vạn vật xung quanh. Là người có cảm hứng với các lý tưởng. Nhưng đồng thời tư tưởng không phải lúc nào cũng nhất quán. Có lúc thấy hào hứng, có lúc thấy như nhìn vào bức vách. Nếu xét về học thuật, Jimsy không phải là người sắc sảo và "tử vì đạo". Sự nghiên cứu bắt đầu từ cảm hứng + chút năng khiếu chứ chưa hẳn thành sự đam mê sâu sắc. Cho nên dù muốn có vị trí trong làng nghiên cứu thì cũng phải qua nhiều nhẫn nại mới thành. Jimsy có tố chất khá thông minh, mỗi tội hơi thiếu chí bền (có lẽ do chưa chạm tới những ý nghĩa cao cả của học thuật này) + chưa gặp "thầy" + chưa tìm được một môn sánh "nghiệp" với mình nên chưa thực sự xác định ưu tiên cho việc này. Sau 03 -05 tháng, Jimsy sẽ cảm thấy sáng sủa hơn nhưng để có những hài lòng nhất định với bản thân Jimsy cần khoảng 5 năm nữa. Đúng - Sai xin phản hồi để Phoenix rút kinh nghiệm. Thân chào!
  14. Tinh thần của anh Phạm Thái Hòa thật là đáng quý. Trân trọng!
  15. Khi mình dùng IE bên ttvnol.com thì vẫn sử dụng được.
  16. Tiếp theo chủ đề này, Phoenix sẽ gửi đến các bạn thông tin về một di tích có thể liên quan đến nền văn hóa Khoa đẩu của người Việt. Tuy nhiên mới chỉ là phát hiện và đưa ra câu hỏi nghi ngờ, chưa tiến hành xác minh. Biết đâu ACE yêu mến nền văn hiến Lạc Việt ở đây lại có thể góp phần làm giàu thêm lịch sử. Cảm ơn sự quan tâm theo dõi!
  17. Bài viết dưới đây của tác giả Phạm Ngọc Dương - đã được đăng trên một số trang web. Nay nhân loạt bài về Bãi đá cổ Nấm Dẩn xin đăng tải lại lên Diễn đàn lyhocdongphuong.org.vn Nguồn: http://my.opera.com/phamngocduongantg/blog/show.dml/1756816 LỜI TIÊN TRI TRÊN BÃI ĐÁ CỔ SAPA Friday, 22. February 2008, 09:15:01 KHOA HỌC - XÃ HỘI PHẠM NGỌC DƯƠNG Mới đây, các nhà khoa học trong nước khá bất ngờ về tuyên bố của nhà khoa học Nguyễn Vũ Tuấn Anh (Giám đốc Trung tâm nghiên cứu Lý học Đông phương): Hình vẽ trên bãi đá cổ Sapa là những ghi chép về hệ thống Kinh Dịch và cả những lời tiên tri của người Việt cổ. Từ những tuyên bố này, cùng những tài liệu và dẫn chứng khá thuyết phục, ông đặt ra giả thiết: Kinh Dịch có nguồn gốc từ nước Bách Việt cổ xưa (có nghĩa là của dân tộc Việt) và nền văn minh Lạc Việt có tuổi 5.000 năm! Tác giả chụp hình tại bãi đá cổ Kỳ I: Nếu cho tôi một tỉ, tôi sẽ giải mã toàn bộ bí ẩn ở bãi đá cổ Sapa! Sau rất nhiều lần hẹn hò qua điện thoại tôi mới gặp được nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh, vì ông sống và làm việc ở TP. Hồ Chí Minh. Lần này ông ra Hà Nội để báo cáo một số đề tài nghiên cứu của mình. Tôi ngồi cùng ông vào một buổi chiều trong một quán café bên hồ Trúc Bạch. Dù mới ở tuổi 60, song mái tóc ông đã bạc trắng như cước. Ông bảo, cả đời ông vùi đầu vào đống sách Kinh Dịch cùng hầu hết những loại sách mang tính triết lý đông tây kim cổ nên mái tóc không bạc trắng mới là chuyện lạ. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh, ông chú ý đến bãi đá cổ Sapa từ tháng 5 - 2006 khi có một tờ báo đăng chuyện nhà khoa học người Pháp Phillipe Le Failler - chuyên gia hàng đầu của Viện Viễn đông Bác Cổ, và các cộng sự Việt Nam thực hiện công việc dập bản khắc hình vẽ trên bãi đá trước tình trạng bãi đá cổ Sapa có thể bị biến dạng bởi tác động của thiên nhiên và con người. Bài viết cũng nói rằng, những bí ẩn về bãi đá cổ nổi tiếng ở Sapa đang có cơ hội hé mở khi lần đầu tiên, toàn bộ hoa văn của hơn 200 viên đá đã được in dập lại và được nghiên cứu theo công nghệ hiện đại. Sau 7 tháng làm việc, nhóm nghiên cứu của Phillipe đã dập được toàn bộ gần 200 viên đá, với tổng cộng 3.000 bản dập. Tất cả những bản dập này cũng như những dữ liệu định vị của các viên đá sẽ được nhập vào máy tính, sắp xếp, tính toán số lượng, sự lặp lại của các mẫu hoa văn... làm cơ sở để giải mã về các hoa văn, hình vẽ bí ẩn. Theo Phillipe Le Failler: "Công việc nghiên cứu cho những kết luận ban đầu, có thể là một bản đồ, một bài cúng..." Bí ẩn của những hoa văn này đã được các nhà khoa học nghiên cứu từ rất lâu. Ngay từ năm 1925, giáo sư Pháp Victor Goloubev đã đưa ra những giả thuyết giải thích về các hoa văn này. Những hoa văn lạ, đẹp và nhiều hình dạng: bậc thang, hình người, con đường, chữ viết... và nhiều hình khắc bí ẩn khác. Đặc biệt và khó lý giải nhất là có một hình người tỏa ra các vầng hào quang xung quanh. Thế nhưng, bãi đá cổ đang có nguy cơ bị biến dạng. Một số họa tiết bị mờ vì mưa nắng bào mòn. Mới đây người ta lại phát hiện thêm những bãi đá cổ tương tự ở xã Tả Phìn (Lào Cai) Vị Xuyên (Hà Giang), Pá Màng (Sơn La) cùng với những hoa văn và cách bài trí bí ẩn. Phillipe Le Failler dự định sẽ tiến hành dập lấy mẫu tiếp những bãi đá này. Và khi công việc hoàn thành, ông sẽ có trong tay hệ thống toàn bộ các mẫu hoa văn của các bãi đá cổ được phát hiện tại Việt Nam. Cùng với việc cập nhật dữ liệu thông tin và nghiên cứu trên máy tính, Phillipe tuyên bố rằng bí ẩn mà người xưa gửi gắm trên những viên đá này chắc chắn sẽ được giải mã trong tương lai không xa. Sau khi nghe tin này, nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh khá... bất bình. Ông nói: "Thật là khôi hài. Nếu là một bài cúng thì chẳng cần phải ghi vào bãi đá cổ làm gì để giải mã cho mất công thế...". Phương tiện khoa học hiện đại có thể cho con người thấy tất cả những thực tại đang hiện hữu: Từ hạt vật chất nhỏ nhất đến thiên hà khổng lồ. Nhưng sự bí ẩn lại nằm trong tính tương tác giữa những thực tại đó. Bởi vậy, người Pháp có thể dùng máy móc và phương tiện hiện đại để xem xét những ký hiệu trên bãi đá cổ Sapa. Nhưng họ sẽ không thể hiểu được những ký hiệu ấy nói lên điều gì? May lắm thì họ hiểu phần nào mà thôi. Theo ông, chưa có một tiêu chí nào cho sự giải mã một di sản văn hóa cả. Bởi vì, một vòng tròn trên bãi đá cổ, người thì bảo đó là ký hiệu mặt trời, người bảo mặt trăng, người bảo thái cực, người kêu đích thị hòn bi, kẻ cãi lại thì bảo cái bánh dầy mới đúng... Như vậy rất khó biết ai đúng. Tuy nhiên, ông khẳng định rằng, tiền nhân làm ra bãi đá cổ kỳ công này thì phải có mục đích rõ ràng. Năm ngoái, trong lúc nhậu cùng một số nhà sử học, khi ngà ngà, ông cao hứng và đã hùng hồn tuyên bố: "Nếu cho tôi một tỉ, tôi sẽ giải mã toàn bộ bãi đá cổ Sapa". Tháng sau, một vị quan chức trong Viện Sử học gọi điện cho ông "OK" kế hoạch này. Nhưng lúc ấy ông lại tỉnh táo, sợ rằng mình bảo cái bánh dầy, người khác bảo hòn bi thì cãi nhau mệt. Nên ông từ chối. Việc giải mã một thông điệp người xưa để lại là một việc rất khó khăn. Bởi vì khái niệm của người xưa khác người thời nay, hoàn cảnh xã hội, thói quen tư duy, nhận thức đều khác. Vậy muốn hiểu người xưa muốn nói gì qua những mật ngữ để lại thật không dễ dàng. Hơn nữa, chúng ta lại chưa có một tiêu chí khoa học về phương pháp giải mã những di sản văn hoá nói chung, hoặc chí ít chúng ta chưa biết đến điều này. Chính vì những lẽ đó, đã tồn tại những ý tưởng khác nhau khi nhận xét về nội dung bãi đá cổ Sapa, kể từ khi nó được các nhà khoa học hiện đại phát hiện vào năm 1926. Theo ông Tuấn Anh, rất khó có thể hiểu được người xưa muốn nói gì qua những ký tự và những hình vẽ bí ẩn. Nhưng điều đó không có nghĩa không thể hiểu được nếu có sự hiểu biết về văn hóa, toán học cổ xưa. Với những sự kiện trên, ông lặng lẽ gom góp tiền bạc bắt xe ra Hà Nội, lên tận bãi đá cổ Sapa để đi tìm lời giải mã. Có hay không lời tiên tri trên bãi đá cổ Sapa? Nhà khoa học Nguyễn Vũ Tuấn Anh kể lại: "Sau khi tích luỹ được một số tiền nhỏ, đủ để cho gia đình chi sài ở mức tối thiểu khi tôi đi vắng, tôi liền khăn gói ra Hà Nội gặp con gái. Cô con gái chu cấp cho ít tiền nữa để lên tàu đi Lào Cai. Hôm ở trong nhà nghỉ rẻ tiền, trời mưa tầm tã, tôi và và ông chủ nhà nghỉ ngồi uống rượu tán gẫu. Tôi hỏi về bãi đá cổ Sapa, anh ta bảo: "Cái bãi đá cổ Sapa ấy thì em biết rõ lắm, nó cách đây hơn chục cây số. Có một con đường đi thẳng từ đây xuyên qua bãi đá. Em chính là người chỉ huy công trường làm con đường đó. Con đường chạy xuyên qua bãi đá cổ thẳng lên đến bản Pò Lùng Chải. Để làm được con đường này, chúng em phải đập đi 18 viên đá có chữ và hình vẽ trong bãi đá cổ Sapa. Trong đó có một hòn đá cổ rất to, bề ngang gần 4 mét, cao hơn 3 mét, chằng chịt những hình vẽ. Bọn em phải đập cả 10 ngày mới đập nát được hòn đá ấy". Như tiếng sét đánh làm tôi choáng váng. Trời đất như tối sầm trong tôi. Còn gì là sự chiêm nghiệm những dấu ấn của cha ông để lại nữa? Nhưng rồi tôi lại mừng reo lên khi nhận được tin này. Nếu số đá bị phá đúng 18 hòn thì cộng với 198 hòn còn lại thì bãi đá này có 216 hòn đá có hình vẽ. Đây đúng là số hào Dương trong 64 quẻ Dịch.Ngay lúc ấy, tôi đã nghĩ rằng, bãi đá cổ Sapa có khả năng ẩn chứa những bí ẩn của kinh Dịch". Bãi đá cổ Sapa bắt đầu ở ngang sườn đèo, phía dưới là một thung lũng có một dòng suối lớn chảy qua. Bãi đá cổ chạy dài 4 km dọc theo hai bên con đường mới mở. Nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh không khỏi giật mình khi tận mắt hòn đá nằm ngay bên tay phải của con đường mở qua, chỉ cách lề đường không quá 20 m. Nó thuộc vào một trong những hòn đá lớn và độc đáo ở bãi đá cổ Sapa. Sự độc đáo của nó chính vì nó là hòn đá duy nhất vẽ những hình thù của phương tiện trong xã hội hiện đại của chúng ta. Cũng chính vì thế nó là hòn đá có biểu tượng gây tranh cãi nhiều nhất. Hầu hết các nhà khoa học đều đã biết đến hòn đá này và ông cũng biết trước khi đến đây. Nhưng chỉ đến khi nhìn thấy nó ông mới bị ấn tượng mạnh. Hòn đá này cao khoảng 2 m, dài hơn 3 m. Hình vẽ nằm trên mặt đá phẳng và trơn nhẵn, hướng ngược chiều đường từ thị trấn lên bãi đá cổ. (Minh họa hình vẽ trên "hòn đá tiên tri") Do máy ảnh chụp không rõ được hình vẽ trên hòn đá nên nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh vẽ lại như vậy. Dù không chính xác tuyệt đối nhưng rõ ràng hình vẽ thể hiện những chiếc máy bay, mũi tên và ô tô. Hình tượng trên hòn đá này từng là sự tranh luận nghiêm túc của các nhà nghiên cứu. Hầu hết đều cho rằng: “Hình này mới được vẽ vào khoảng đầu hoặc giữa thế kỷ trước". Đơn giản vì họ cho rằng: Hình cái xe ô tô và máy bay là sản phẩm của đầu thế kỷ 20. Khi chưa được tận mắt hòn đá, ông cũng nghĩ như họ. Nhưng khi xem trực tiếp những hình tượng trên hòn đá này, ông khẳng định họ sai lầm. Ông cho rằng, phần quan trọng nhất để chứng tỏ sai lầm của họ chính là ở đường nét bị bào mòn của nét vẽ hoàn toàn tương quan với các nét vẽ trên các phiến đá cổ khác và của những nét khắc vẽ trên chính hòn đá này. Hai bên tảng đá còn có một số ký tự loằng ngoằng đã mờ giống như chữ Hán và chữ Khoa Đẩu cùng những đường khắc vạch ngang. Chính sự tương quan bào mòn này của các nét vẽ trên ngay cùng phiến đá và với các hòn đá khác cho thấy chúng phải vẽ đồng thời. Không thể có khoảng cách hàng ngàn năm cho sự bào mòn giống nhau. Theo ông Tuấn Anh, để xác định niên đại của hình vẽ này không phải khó khăn lắm so với khoa học hiện đại. Tuy nhiên, dựa vào những phương pháp như: So sánh trình độ đồ họa và trình độ của ý tưởng chứa đựng trong đồ họa; So sánh tính chất vật lý các rãnh: độ rộng trung bình, độ rộng lớn nhất và độ rộng nhỏ nhất, độ thẳng trung bình, vết vẽ thẳng lớn nhất và vết vẽ thẳng nhỏ nhất. Với hai phương pháp thông thường này có thể phần nào xác định được niên đại của hình vẽ. Hơn nữa, nếu so sánh tính chất hóa học của các chất có trên mặt rãnh bằng định vị C và so sánh cấu trúc sinh học có được trên bề mặt rãnh thì độ chính xác sẽ cao hơn. Có nhiều ý kiến khác nhau nói về nội dung hình khắc trên hòn đá này. Nhưng có thể nói là hầu hết đều cho rằng: “Đây là một hình mới được vẽ vào khoảng những năm 60 của thế kỷ trước”. Với sự nhận thức phổ biến thì khó ai có thể cho rằng đây là một lời tiên tri. Nhưng với nhà khoa học này, ông luôn nhạy cảm với những vấn đề mang tính khoa học tiên tri. Vào những năm 30 của thế kỷ trước, khi những người da trắng đục một hòn núi để làm hầm cho đường xe lửa chạy qua trên núi Kỳ Sơn (Trung Quốc), họ đã đào được tấm bia có khắc dòng chữ: “Sau này, sẽ có người Bột đục hòn núi này cho một con rồng sắt chạy qua đây!”. Bởi vậy, khi nhìn thấy những hình ảnh trên phiến đá này ông đã linh cảm rằng: “Đây là một lời tiên tri”. Nhưng vì là hòn đá đầu tiên nhìn thấy, nên ông cũng chưa lý giải được nó tiên tri về cái gì? Vấn đề đặt ra với những nhà nghiên cứu: Nếu hình ảnh chiếc máy bay là sản phẩm của thế kỷ 20 và người ta vẽ lên vì nhận thức trực quan, vậy thì lý giải thế nào với ba mũi tên thời Trung cổ lại bắn vào ba cái máy bay hiện đại ấy? Nếu là nhận thức trực quan thì nó phải là ba cái tên lửa mới phải? Phải chăng, hình tượng mũi tên cổ trên bãi đá cổ Sapa và hình tượng “Con rồng sắt” chính là khái niệm cổ của người xưa diễn tả một thực tại sẽ xảy ra trong tương lai? Còn nữa, nếu cái ô tô cũng là sự thể hiện cái nhìn trực quan của thời đại có ô tô thì không thể vẽ cái bánh xe theo kiểu xe bò như vậy được. Hình người ở dưới cũng rất thô sơ. Nếu một người ở giữa thế kỷ 20 không thể có một lối vẽ người như vậy. Huống chi, cách thể hiện người kiểu đơn sơ này lại thống nhất trên khắp bãi đá cổ Sapa. Chính vì những mối liên quan giữa phong cách thể hiện trong các hình vẽ trên bãi đá cổ và những hình tượng không thể lý giải, nên các nhà nghiên cứu đã sai lầm khi cho rằng: Bãi đá cổ Sapa được hình thành bởi các tộc người khác nhau qua nhiều giai đoạn thời gian và họ căn cứ vào sự định cư của tộc người Tày và người Mông ở đây trong thời gian 300 đến 900 năm trở về trước để tính thời gian ra đời của hình khắc. Nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh giải thích lời tiên tri qua hình vẽ trên hòn đá cổ này như sau: “Vào thời đại tên lửa bắn nhau với máy bay, bãi đá cổ Sapa sẽ có một con đường cho xe chạy qua”. Lời tiên tri này được đặt ngay cạnh con đường mới làm dẫn vào bãi đá cổ Sapa đầy bí ẩn. Nó như là một sự chào đón và cũng là sự cảnh báo của một trí tuệ siêu việt, đầy huyền vĩ trong sự bí ẩn của nó. Như vậy, lời tiên tri trên hình vẽ này đã xảy ra, với một con đường làm xuyên qua bãi đá cổ và tất nhiên, người ta đã phá đi một số hòn. Nhà khoa học này nói: “Tôi sững sờ và bàng hoàng trước lời tiên tri trên hòn đá cổ. Sự sững sờ và bàng hoàng ấy dành cho tôi và chỉ một mình tôi. Lúc đó, tôi biết rằng tôi không thể chia sẻ với ai sự suy nghĩ của mình. Cái gì bên trong bãi đá cổ đầy bí ẩn này mà nó phải có một lời tiên tri ngay ở đầu bãi đá? Tôi lạc vào bãi đá và ngạc nhiên thay, trên bãi đá có cả rất nhiều hòn đá khắc chữ Khoa Đẩu. Chữ Khoa Đẩu rải rác khắp bãi đá cổ Sapa và cả chữ Hán”. Giáo sư Lê Trọng Khánh, một chuyên gia đầu ngành về chữ viết của người Việt cổ nhận xét: "Tổng thể các hình khắc trên bãi đá cổ Sa Pa quả là một bộ sách khổng lồ được khắc bằng văn tự cổ". Ông cũng là bậc thầy về chữ Khoa Đẩu. Ông có nhiều công trình nghiên cứu về loại chữ này. Trong một tác phẩm của giáo sư Lương Kim Đinh xuất bản trước năm 1975 cũng nói về chữ Khoa Đẩu. Trong một tài liệu lịch sử có nói về một cuộc họp Viện Cơ mật của Bằng Công Nguyễn Hữu Chỉnh, các quan đại thần đưa ra kiến nghị dùng chữ Khoa Đẩu là chữ của dân tộc Việt từ ngàn xưa làm chữ viết chính thức thay thế cho chữ Hán. Nhưng Nguyễn Hữu Chỉnh bác với lý do chữ Khoa Đẩu viết thường cụp xuống ở nét cuối. Ông cho rằng, như vậy vận nước không khá, nên ông bác bỏ. Điều này cho thấy rằng: Chữ Khoa Đẩu từng tồn tại khá phổ biến ở nước Việt. Hơn 1.000 năm Bắc thuộc và Hán hoá, tất nhiên một đế quốc thống nhất thì phải thống nhất một ngôn ngữ và văn tự chính thống. Qua một ngàn năm Bắc thuộc ấy, làm sao một dân tộc bị đô hộ còn giữ lại văn tự của mình như một sự tồn tại chính thống? Những dấu chứng còn lại của chữ Khoa Đẩu tuy không nhiều, nhưng đủ để chứng minh một nền văn minh huyền vĩ đã được ghi nhận bằng loại chữ này ở miền nam sông Dương Tử. Tiếc rằng, chẳng thấy ai nói đến điều này trong lịch sử chữ viết của nền văn minh Việt. Liệu hình vẽ mà nhà khoa học Nguyễn Vũ Tuấn Anh trình bày trên đây có phải là một lời tiên tri hay không? Điều này vẫn còn phải nghiên cứu và có sự đầu tư công sức, trí tuệ của các nhà khoa học. Mong rằng, bài viết sẽ tạo ra diễn đàn để các nhà khoa học trong cả nước tranh luận, chứ không nên phán xét một cách cảm tính rồi bác bỏ trí tuệ của tổ tiên ta. Kỳ II: Kinh Dịch trên bãi đá cổ Sapa? Nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh là người âm thầm và rất “nhiệt tình” đi tìm câu trả lời cho câu hỏi vô cùng lớn: “Liệu đất nước Việt Nam có phải đã trải qua 4.000 năm lịch sử?”. Nhà nghiên cứu này luôn tự hào rằng, nền văn hiến Lạc Việt đã tồn tại những… 5.000 năm! Ông đã viết nhiều cuốn sách để chứng minh cho luận điểm của mình. Từ bãi đá cổ Sapa cùng nhiều luận điểm khác, ông khẳng định, cuốn sách kỳ vĩ Kinh Dịch của nhân loại có nguồn gốc từ dân tộc Lạc Việt, chứ không phải của người Trung Quốc. Có lẽ đây lại là vấn đề tranh cãi mới của giới lịch sử. Khởi nguyên vũ trụ từ… bức khắc trên tảng đá Nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh đã nghiên cứu rất kỹ các hình khắc trên bãi đá cổ Sapa và ông khẳng định rằng, hầu hết những hình khắc trên bãi đá đều có những hình tượng độc đáo lý giải sự khởi nguyên và tính tuần hoàn của vũ trụ. Trong số những hòn đá đó, nổi bất nhất là một hòn có hình vẽ như sau: (Hình khắc này mô tả khởi nguyên vũ trụ?) Hình khắc trên đã có nhiều nhà nghiên cứu giải mã khác nhau. Nhưng đáng chú ý là sự lý giải của ông Phạm Ngọc Liễn. Điều đặc biệt là nhà nghiên cứu này cũng cho rằng, toàn bộ bãi đá cổ Sa Pa là những kiến thức về vũ trụ có liên quan đến Kinh Dịch. Tôi xin trích một đoạn liên quan đến giải mã hình vẽ của ông Liễn: Nổi bật trên bức chạm đá là hình mặt trời. Trái đất bố cục ở hai phía đông và tây, nhưng hơi chếch nhau. Phải chăng là sự diễn tả cao thấp khác nhau của các hành tinh này theo sự nhận biết của con người lúc đó? Bao quanh trời đất là hai dải các hình song song không khép kín; bên trái gồm ba dải song song không đều nhau, chạy dài liên tục bắt đầu từ tây bắc chạy xuống sát gần trái đất rồi hơi uốn lượn về phía đông nam. Bên phải cũng là ba dải song song bắt đầu từ giữa hình khắc, rồi uốn vòng lên theo xích đạo trái đất, uốn vòng lên theo hướng đông bắc, bao lấy mặt trời ở phía đông. Nửa trên của các dải này chỉ còn hai dải song song kéo dài liên tục lên đông bắc kết thúc ở điểm cao ngang với mặt trời và ba dải ở phía tây bắc. Dải thứ 3 ở ngoài cùng bên đông chỉ có một đoạn vòng cung đến ngang tầm điểm cực bắc của trái đất thì kết thúc. Dải này có 3 đoạn dài ngắn không đồng đều, đoạn ngắn nhất ở khoảng giữa có hai vạch đứt ở hai đầu. Sách Dịch cổ cho ba dải bao quanh hình vẽ là Nội Quái tượng trưng cho các lớp vỏ trái đất, còn ba dải còn lại là Ngoại Quái tượng trưng cho các giải sông Ngân Hà… Nhà nghiên cứu Dịch học Hống Quang cho đây là lục quyển bao gồm: vũ quyển nói về thời kỳ hỗn mang chưa có hình dáng cụ thể ban đầu; khí quyển; tầm quyển; sinh quyển; trí quyển; linh quyển thuộc về giai đoạn vũ trụ đã định hình từ trạng thái hỗn mang vô cực đã thành thái cực…. Nhận thức của nhân loại đến thời Trung Cổ, mới cách chúng ta khoảng 400 trăm năm mà còn tranh cãi quyết liệt nhức nhối về các vấn đề liên quan đến tri thức thiên văn. Thế mà từ mấy ngàn năm trước, tổ tiên ta đã chạm khắc “mô hình vũ trụ” vào đá cổ Sapa, khẳng định cả mặt trời và trái đất đều là khối cầu tròn và đang quay. Chiều quay của trái đất từ tây sang đông ngược chiều kim đồng hồ, đúng như chiều quay của các hình đúc trên mặt trống đồng cổ kính của dân tộc. Sự chuyển động được biểu hiện bằng hình xoáy ốc từ tâm ra ngoài thật độc đáo. Đó là biểu trưng sức mạnh nội tâm của tinh cầu, không có sự can thiệp từ bên ngoài. Ở vòng xoáy ốc ngoài cùng nẩy lên một nhánh cây. Phải chăng đây là biểu hiện của sự sống, của sinh quyển? Nhánh cây này có hai chòm lá ngả về phía đông là phía mùa xuân. Như vậy quá đúng với triết lý Âm Dương Ngũ Hành của các vị kỳ lão hiền triết Phục Hy, Thần Nông thời thượng cổ. Vòng xoay của mặt trời cũng do nội lực xoáy ốc từ trong ra ngoài, ngược hướng với chiều quay của trái đất từ đông sang tây. Một chi tiết cần được chú ý là tổ tiên ta mô tả mặt trời và trái đất đường kính gần ngang nhau, như một “cặp sao đôi”. Đây là ngẫu nhiên hay có chủ định từ trước? Từ nguồn trí thức linh giác nào mà ông cha ta khắc như vậy? Điều này rất đáng được suy nghĩ. Bên cạnh trái đất tròn còn có một hình vuông nhỏ. Đây không lặp lại sai lầm của Hoa tộc thời cổ là “trời tròn đất vuông” (Một số người tới nay còn giải thích chuyện “bánh chưng bánh dày” theo hướng này là không đúng). Ở đây hình vuông đặt cạnh đất tròn thì làm sao nói chệch đi là trời tròn cho được? Phải thấy ở đây người nghệ nhân vô danh đã nắm Kinh Dịch rất vững và đã chuyển hình chạm khắc sang một đề tài mới: “Mẹ tròn con vuông”. Theo luận thuyết Âm Dương đất thuộc về âm, về người mẹ, còn trời thuộc về dương, về người cha. Thành ngữ tiếng Việt nói cha trời, mẹ đất chính là vì vậy. Trong hình khắc, mảnh vuông nhỏ đặt cạnh mẹ đất phải hiểu là “Mẹ tròn con vuông”, một thành ngữ nói lên sự mong mỏi, coi như lời chúc tụng đối với các bà mẹ bước vào kỳ sinh nở phải được “vuông tròn” nghĩa là thuận lợi, không gặp rủi ro trắc trở khi vượt cạn một mình. Ý nghĩa nhân văn ở đây quá rõ, nó hoàn toàn khác với quan điểm tĩnh tại “Trời tròn đất vuông” của người Trung Hoa cổ đại. Theo nhà khoa học Phạm Ngọc Liễn, trí tuệ của bức vẽ này còn ẩn sâu nhiều điều hơn nữa. Theo ông, có thể gọi bức chạm khắc này là pho sách khá hoàn chỉnh mô tả khởi nguyên của vũ trụ mà có thể đặt cho nó cái tên là: Mô hình vũ trụ. Điều đặt biệt là cả mảng giữa của hình khắc dành cho con người. Tư tưởng chủ đạo ở đây là sự thể hiện rất rõ “luận điểm tam tài” của Kinh Dịch. Dưới ký hiệu quẻ Càn gồm ba vạch liền xếp chồng chéo lên nhau đặt hơi chếch về hướng tây nam – đông bắc là hai hình người một nữ một nam được thể hiện bằng hình song song mang tính ước lệ nhiều hơn tả thực. Người nữ đứng hai chân dang rộng phía trên giải ngoại quái, bộ phận sinh dục khuyếch đại rất rõ. Tư thế chếch theo hướng đông bắc – đông nam, đầu nhô gần sát vạch giữa quẻ Càn. Tay phải cầm một khí cụ dài giơ thẳng chếch ở khoảng trống giữa mặt trời và ký hiệu quẻ Càn. Người nam đứng ở trên giải Nội quái, song từ phần ngang hông trở xuống không được thể hiện. Bộ phận sinh dục cũng phóng to hơn bình thường. Phía trên đầu người nam là ký hiệu quẻ Sơn Địa Bác gồm quẻ Chấn chồng lên quẻ Khôn, đặt xoay dọc giữa quẻ Ngoại Quái và hình vuông nhỏ. Ký hiệu cuối cùng đặt ở dưới vòng cung Ngoại Quái, phía bên hông gần đoạn ngắn ở giữa nối với hai đoạn dài hai bên là ký hiệu phồn thực. Trên đây chỉ là một trong số rất ít những lý giải về hình vẽ trên bãi đá cổ Sapa và cũng không được chú ý lắm. Phần nhiều người ta nghiên cứu theo hướng, đây là những hình khắc thông thường, thậm chí… lăng nhăng. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh, ông Phạm Ngọc Liễn đã lý giải đúng hướng, nhưng với hình vẽ trên thì nội dung của nó còn sâu sắc hơn nhiều sự kiến giải của ông Liễn. Theo ông, toàn bộ bức khắc thể hiện cội nguồn của Kinh Dịch và những giá trị đích thực của nó. Lần lượt những ký hiệu được đánh số trên hình được ông giải mã và bổ xung theo thứ tự dưới đây: Hình 1: Người đàn ông biểu tượng của tính thuần dương ở giai đoạn khởi nguyên của vũ trụ. Hình 2: Trong Kinh Dịch quái Càn thuộc dương, ba vạch dài biểu tượng tính thuần dương không có giới hạn (vô lượng vô biên). Hay nói cách khác: Đây chính là tình trạng của thái cực. Hình 3: Tính động xuất hiện tạo vòng xoáy ngược chiều kim đồng hồ. Đây cũng là chiều vận động của các thiên hà hiện nay (trong đó bao gồm cả các sao và hành tinh). Chữ Vạn có chiều ngược chính là biểu tượng của tính động xuất hiện ở giai đoạn đầu của vũ trụ. Hình 4: Hình vuông bên cạnh vòng xoáy cho biết khi tính động xuất hiện tức là sinh âm, đối lại với trạng thái tĩnh khởi nguyên (mẹ tròn con vuông). Hình 5: Khi âm xuất hiện thì sự vận động và phát triển tiến hoá trong vũ trụ bắt đầu. Điều này được hình tượng bằng một cái cây tiếp nối từ sự vận động của vòng xoáy. Hình 6: Vòng xoáy thuận chiều kim đồng hồ là biểu tượng cho thấy sự tương tác của vũ trụ theo chiều ngược với chiều vận động của các thiên thể. Chữ vạn có chiều thuận chính là biểu tượng của chiều tương tác vũ trụ (Qua các di vật khảo cổ có niên đại xấp xỉ 10.000 năm cho thấy chữ “vạn” đã tồn tại rất lâu trong văn minh nhân loại). Hình 7: Sự chuyển hoá từ dương sang âm được biểu tượng bằng người đàn bà. Hình 8: Khi âm cực thịnh thì sinh dương được biểu tượng bằng quái Càn trên đầu người đàn bà. Hình 9: Hình này theo ông Liễn là quẻ Sơn Địa Bác. Nhưng nhà khoa học Nguyễn Vũ Tuấn Anh cho đây là quẻ Địa Lôi Phục. Nếu lật 90 độ theo chiều ngược kim đồng hồ là chiều vận động của các thiên thể trong vũ trụ. Theo Kinh Dịch thì ý nghĩa của quẻ này là "Sự trở lại". Như vậy với hình tượng của quẻ Địa Lôi Phục cho thấy vũ trụ vận động tới cực điểm sẽ là sự quay trở về. Như vậy, toàn bộ bức tranh này nói về nguyên lý của sự vận động vĩ mô từ khởi nguyên cho đến kết thúc và có tính chu kỳ của vũ trụ. Với sự kiến giải này, nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh khẳng định nội dung bức chạm khắc của người Lạc Việt trên bãi đá cổ Sapa đã chứng tỏ nguyên lý vũ trụ đã được phát hiện từ lâu và thuộc về nền văn minh này. Kinh Dịch thuộc về nền văn minh Lạc Việt với những ký hiệu quẻ trùng khớp với ý nghĩa của bức tranh. Với nội dung trên của bức tranh chúng ta sẽ không thể tìm thấy trong các cổ thư chữ Hán. Điều này cũng chúng tỏ tên gọi đích thực của cuốn kỳ thư Đông phương này phải là: “Lạc thư chu dịch”. Tức là sách của người Lạc Việt nói về sự vận động tuần hoàn của vũ trụ. Nền văn minh Việt đã trải gần 5.000 năm! Trong khi các nhà học, kể cả những người có kiến thức uyên bác nhất đều tìm cách bác bỏ nền văn minh Lạc Việt đã tồn tại 4.000 năm, thì nhà khoa học Nguyễn Vũ Tuấn Anh lại âm thầm đi tìm lời giải đáp cho sự tồn tại của nền văn hiến Lạc Việt những 5.000 năm lịch sử. Ông bảo rằng: “Cả đời ông đã và sẽ dành toàn bộ trí lực để chứng minh luận điểm của mình, cũng như bảo vệ quan điểm cội nguồn Kinh Dịch là của dân tộc Lạc Việt, có nguồn gốc từ nước Bách Việt cổ xưa”. Để chứng minh nền văn hiến Lạc Việt đã tồn tại rất lâu đời và phủ nhận quan điểm của các nhà khoa học khác cho rằng thời Hùng Vương chỉ là một liên minh bộ lạc đóng khố hoặc cùng lắm là một nhà nước sơ khai, ông đã dày công viết cuốn sách đầu tiên về một thời khuyết sử của dân tộc Việt, đó là cuốn “Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại”. Những truyền thuyết trong dân gian được giải mã đã dẫn đến ý tưởng rất mãnh liệt trong ông là: Cội nguồn văn hoá Đông phương thuộc về nền văn hiến Lạc Việt. Đây chính là nội dung của lịch sử văn hiến trải gần 5.000 năm của dân tộc Việt. Qua nghiên cứu này, ông đã nhận ra rằng, Kinh Dịch là của dân tộc Việt, bởi tất cả những mật ngữ trong những di sản văn hoá phi vật thể được giải mã đều chỉ thẳng đến điều này. Rõ nhất chính là truyền thuyết: “Bà Nữ Oa vá trời”. Tất nhiên, nội dung những mật ngữ được giải mã đó theo cách hiểu của ông. Để tìm ra sự hướng dẫn của các mật ngữ để lại, ông sưu tầm tất cả những cuốn sách về ca dao tục ngữ, truyện cổ, truyền thuyết Việt... Có thời gian cả năm trời ông đóng cửa đọc nghiến ngấu cả ngàn pho sách có nội dung như trên và dừng lại ở nhưng câu ca dao, tục ngữ, những truyện cổ Việt… có vẻ bí ẩn, trái khoáy, là lạ để tìm cách giải mã. Hy vọng sẽ có một hướng dẫn nào đó chứng minh điều này. Nhưng có vẻ như vô vọng…. Cũng lúc ấy, những bài viết của các nhà nghiên cứu, các học giả thi nhau chiếm lĩnh mặt báo minh chứng về cái “tinh thần khoa học” trong việc phủ nhận những giá trị văn hóa truyền thống trải 4.000 năm của dân tộc Việt. Có tờ báo đã mở hẳn một chuyên đề: “Nhìn lại lịch sử” để đăng các loại bài như thế. Điều này càng làm ông nóng ruột. “Sẽ không thể phục hồi được những giá trị văn hoá truyền thống, nếu không chứng tỏ được nội dung và giá trị của nó”. Từ sự suy nghĩ đó, ông đã cho ra đời cuốn sách “Tính minh triết trong tranh dân gian Việt Nam” vào năm 2002. Cuốn sách này đã chứng minh nền văn hiến lâu đời qua hệ thống tranh dân gian. Tuy nhiên, khi gửi cuốn sách đi in, họ đọc chưa hết đã quẳng vào sọt rác, vì… cãi lại cả các nhà khoa học lỗi lạc. Trong lúc đang bế tắc trong việc chứng minh cội nguồn Kinh Dịch của dân tộc Lạc Việt thì có một nhà khoa học sau khi sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu đã cho rằng: “Bãi đá Sapa của người Việt cổ tạo dựng vào khoảng 300 trước công nguyên”. Ông mừng như vớ được vàng. Đây chính là thời gian sụp đổ của nhà nước Văn Lang theo chính sử (năm 258 trước công nguyên). Ông chợt nhớ lại một truyền thuyết về cuộc truyền ngôi giữa đời Hùng Vương cuối cùng và Thục Phán. Truyền thuyết nói rằng: “Sau khi nhường ngôi cho Thục Phán, vua Hùng và hoàng tộc đi về vùng Tây Bắc”. Vùng Tây Bắc chính là vị trí của tỉnh Lào Cai - gần với Phong Châu – kinh đô cuối cùng của nhà nước Văn Lang – nơi chứa đựng những ký hiệu bí ẩn trên bãi đá cổ Sapa! Phải chăng, bãi đá cổ Sapa là pho sách ghi lại những bí mật của cha ông ta để đời sau giải mã? Phải chăng đây chính là một nửa cái chìa khóa cần ráp lại để mở kho tàng đầy bí ẩn của phương Đông? Nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh tuyên bố hùng hồn: “Sau khi quán xét bãi đá cổ Sapa, tôi thấy không cần phải tiếp tục viết sách chứng minh cho nền văn minh Lạc Việt trải gần 5.000 năm văn hiến. Bởi vì, sự kỳ vĩ của trí tuệ tổ tiên cho thấy sớm muộn nền văn minh này sẽ được sáng tỏ. So sánh tri thức của tổ tiên thì tri thức khoa học hiện đại với những phương tiện như vệ tinh nhân tạo, bom nguyên tử chỉ là trò chơi của trẻ con. Chỉ cần một trận động đất, trận sóng thần làm thí dụ thì tất cả những thứ trò chơi trẻ con ấy sẽ móp méo và dùng để bán ve chai”. Sự nhỏ bé của khoa học hiện đại, chính là vì nó chưa khám phá được hết những bí ẩn của vũ trụ. Dù chưa nghiên cứu hết những hình vẽ trên bãi đá cổ, nhưng ông khẳng định rằng: Một phần những bí ẩn của vũ trụ trong nền văn hóa Đông phương huyền vĩ đang ở trong những đường nét ngoằn ngoèo trên bãi đá cổ Sapa. Hầu hết những hình khắc trên bãi đá cổ này đều giải thích về sự vận động và tương tác từ vũ trụ. Tất nhiên, mỗi một người đều có cái nhìn riêng. Ông Nguyễn Vũ Tuấn Anh tự cho mình là đúng, cũng như các nhà nghiên cứu khi quán xét bãi đá cổ cũng tự cho mình là đúng bởi không hề có tiêu chí cho sự giải mã. Ai muốn hiểu thế nào cũng được. Chính vì vậy mà hình cái mặt cối đá được vẽ rất chi tiết, có người thì bảo “Đấy là biểu tượng của một xã hội nông nghiệp”. Nhưng ông lại bảo rằng đó là biểu tượng cho sự tương tác của vũ trụ. Có người sẽ lên giọng chê bai rằng: “Vào thời cổ đại, lạc hậu thì làm sao mà người ta có thể hiểu được rằng tương tác là nguyên nhân sự tồn tại và phát triển của vũ trụ!”. Chính vì thế, trong con mắt một số người, ông trở thành người gàn dở, một kẻ siêu tưởng. Tuy nhiên, ông vẫn luôn tự hào là người luôn tìm cách nâng tầm trí tuệ dân tộc, chứ không nhăm nhăm đi tìm lý lẽ để bác bỏ trí tuệ của ông cha để lại. Nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh hài ước: “Rất nhiều người ôm một đống sách Hán và bĩu môi trước những lý thuyết của tôi. Họ khẳng định một cách chắc chắn rằng Kinh Dịch là của người Hoa Hạ, trong khi đó, hàng ngàn năm trôi qua chính người Trung Quốc lại không lý giải được cội nguồn của nó cũng như không hiểu được rất nhiều chỗ huyền bí trong Kinh Dịch mà tiêu biểu là họ không tìm thấy căn nguyên của thuận tự 64 quẻ Hậu Thiên từ nền văn minh Hoa Hạ. Còn tôi lại có thể lý giải được cội nguồn của Kinh Dịch dựa trên rất nhiều cơ sở khoa học mà sự kỳ vĩ trên các hình khắc ở bãi đá cổ Sapa đã nói tất cả thì tôi chẳng thấy xấu hổ gì mà không nhận Kinh Dịch là của người Việt mình. Tôi tin rằng, nếu có người giải mã được toàn bộ bãi đá cổ Sapa thì đó phải là lúc một lý thuyết thống nhất vũ trụ được chứng minh. Nhưng nghe ra điều đó còn xa vời quá. Điều cần kíp nhất lúc này là phải bảo tồn gấp pho sách Dịch văn cực quý này, kẻo vài năm nữa nó sẽ biến mất khỏi tâm trí người Việt”. (Người thì bảo đây là biểu tượng nền văn minh nông nghiệp, người bảo sự tương tác vũ trụ, người bảo là cái cối đá...) (Hết).
  18. BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH ----- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc ------- Số: 03/2008/QĐ-BVHTTDL Hà Nội, ngày 21 tháng 02 năm 2008 QUYẾT ĐỊNH VỀ VIỆC XẾP HẠNG DI TÍCH QUỐC GIA BỘ TRƯỞNG BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH Căn cứ Nghị định số 185/2007/NĐ-CP ngày 25 tháng 12 năm 2007 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch; Căn cứ Luật di sản văn hóa và Nghị định số 92/2002/NĐ-CP ngày 11 tháng 11 năm 2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật di sản văn hóa; Xét Công văn số 256/TTr-UBND ngày 05 tháng 12 năm 2007 của Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Giang và hồ sơ di tích; Xét đề nghị của Cục trưởng Cục Di sản văn hóa, QUYẾT ĐỊNH: Điều 1. Xếp hạng di tích quốc gia: Di tích khảo cổ học Bãi đá Cổ Nấm Dẩn(Xín Mần) Xã Nấm Dẩn, huyện Xín Mần, tỉnh Hà Giang Khu vực bảo vệ di tích được xác định theo Biên bản và bản đồ các khu vực bảo vệ di tích trong hồ sơ. Điều 2. Ủy ban nhân dân các cấp nơi có di tích được xếp hạng tại Điều 1 Quyết định này trong phạm vi nhiệm vụ và quyền hạn của mình thực hiện việc quản lý nhà nước đối với di tích theo quy định của pháp luật về di sản văn hóa. Điều 3. Quyết định này có hiệu lực sau 15 ngày, kể từ ngày đăng Công báo. Điều 4. Chánh Văn phòng, Cục trưởng Cục Di sản văn hóa, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Giang, Giám đốc Sở Văn hóa – Thông tin tỉnh Hà Giang và các tổ chức, cá nhân có liên quan chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này./. KT. BỘ TRƯỞNG THỨ TRƯỞNG Trần Chiến Thắng Nguồn: http://www.thuvienphapluat.com
  19. Xín Mần, đất và người dang rộng vòng tay Nguồn: http://nhandan.viet4phuong.com/tinbai </IMG>ND - Xín Mần là đây, tuy còn nhiều khó khăn nhưng cũng rất nhiều tiềm năng. Vẻ đẹp nguyên sơ, hùng vĩ của núi rừng, sông suối, một kho tàng văn hóa vật thể, phi vật thể cùng với tấm lòng thân thiện, ấm áp của đồng bào các dân tộc vùng cao. Chúng tôi lại có dịp về Xín Mần, mảnh đất miền tây Hà Giang. "Xín Mần ơi, tôi gọi gió cướp lời" Những cơn mưa cuối hạ xối xả trút nước xuống núi rừng, chúng tôi về miền tây của Hà Giang. Xín Mần, một chuyến đi trong háo hức chờ đợi tưởng như đã hẹn hò từ vài chục năm trước. Khởi hành chuyến đi này, không hiểu sao câu thơ của nữ thi sĩ Ðoàn Thị Ký: "Xín Mần ơi, tôi gọi gió cướp lời" cứ ám ảnh tôi mãi. Tôi ngâm nga nhẩm đọc suốt dọc đường đi. Qua những nương ruộng bậc thang lúa xanh ngăn ngắt. Qua bao ngọn thác cao ngất trời và cả những dòng nước như sợi chỉ trắng chảy từ đỉnh núi xuống. Có lẽ đến ngót trăm ngọn thác lớn nhỏ. Người xe chênh vênh với mây núi. Song hành là con sông Chảy mầu nước trắng đục, tít tắp mãi dưới vực sâu. Lòng sông sâu ngổn ngang đá. Xín Mần là đây. Sau mưa gió từ núi thổi về mát rượi. Trời xanh mây trắng. Chúng tôi đã được đón nhận gió của Xín Mần. Gió từ các triền núi đất thổi dọc sông Chảy, phả lên thị trấn Cốc Pài. Gió mang hương thơm của phấn ngô Nàn Ma, Nàn Xỉn. Gió mang vị ngọt của mật ong từ Pà Vầy Sủ, Chế Là. Trong gió, tôi nghe có tiếng khèn Mông dìu dặt và tiếng sáo La Chí réo rắt gọi bạn tình. Gió núi đưa chúng tôi vào mùa thu của xứ sở miền tây Hà Giang này. Ðón chúng tôi là chị Minh Lý, Trưởng phòng văn hóa - thông tin huyện. Chị là cô giáo người Kinh từ Tuyên Quang lên, qua hai mươi mấy năm ở vùng cao, nay trở thành người con của Xín Mần. Chị nói được các tiếng Nùng, Mông, Dao, không có bản nào là chị chưa đặt chân tới. Chị làm dâu người Nùng và rồi làm thông gia với người Mông. Nếu không giới thiệu không ai nghĩ chị đã là bà ngoại. Theo chân chị, chúng tôi đến Nghĩa trang liệt sĩ huyện Xín Mần. Mấy trăm ngôi mộ xếp hàng tăm tắp. Ánh chiều hắt nắng lên những ngôi sao trên bia mộ. Ðoàn chúng tôi nghiêng mình kính cẩn trước tượng đài Tổ quốc ghi công. Tôi đã gặp những người quen và rất nhiều người chưa một lần biết. Họ có tên và vô danh, từ mọi miền quê đã hy sinh để bảo vệ biên cương. Ðây, mộ bia của những liệt sĩ Văn công của Trung đoàn 148, đã anh dũng hy sinh trong thời kỳ chống thực dân Pháp và tiễu phỉ. Trên cây sa mu đâu đó, sót lại một giọng ve rầu rĩ. Mới đây thôi, vòng hoa của cán bộ và nhân dân huyện Xín Mần tưởng nhớ các liệt sĩ còn sáng mầu. Xín Mần của biết bao huyền thoại là đây. Tôi được giới thiệu theo chữ Hán "Xín Mần" có nghĩa là "Cửa mở". Hôm nay, chúng tôi đến với miền quê có dãy Gia Long, có đèo Mây, thác Gió trong thời điểm cả Hà Giang đang mở cửa chào đón du khách trong và ngoài nước về với miền biên cương hùng vĩ. Chúng tôi đứng trước đền Gia Long thờ thần Rồng tại thị trấn Cốc Pài. Là đền mà không có ngôi nhà nào cả. Chỉ có mái đá vươn ra che mưa nắng. Thời gian hằn lên đá thành hình Rồng linh thiêng cho cả vùng. Tán cây đề, cây si đan quyện xòa bóng mát. Những mảng rễ vây bọc lấy đá. Chung quanh đền ngô đang mùa quả, phấn ngô thơm hòa quyện trong khói hương lễ bái của người dân bản xứ và khách thập phương. Sáng thứ bảy ngược núi, theo con đường trải nhựa đi về phía biên giới, thăm Ðồn Biên phòng Xín Mần. Trời biên cương se lạnh. Nắng mỏng như một tấm voan dát vàng lên các nương lúa bậc thang của Thèn Phàng, Chí Cà. Vui gặp phiên chợ Mốc 5 thuộc địa phận thị trấn Chín Sang, huyện Mã Quan, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Ðường lên biên giới mùa này sao nhiều hoa đẹp đến thế! Gần trưa có mặt tại Ðồn Biên phòng Xín Mần. Trung tá Phạm Quốc Hải, Ðồn trưởng, cho biết: An ninh biên giới thời gian qua tương đối ổn định. Nhân dân hai nước vẫn đến chợ cửa khẩu buôn bán, giao lưu văn hóa. Những thiếu nữ Mông đi chợ ăn mặc rất diện. Xúng xính váy áo khăn thêu rực rỡ sắc mầu. Sau bữa cơm đãi khách mà cán bộ, chiến sĩ Ðồn Biên phòng tiếp đón, chúng tôi lại có mặt tại Cốc Pài. Phiên chợ Cốc Pài Ngày mai là phiên chợ. Người dân phố huyện cũng phấp phỏng. Nhà nhà sáng điện thật khuya. Những đôi trai gái dắt tay nhau dạo quanh phố núi. Tôi một mình lang thang quanh chợ. Rất nhiều đồng bào Mông, Dao, Nùng đã về chợ từ hôm nay. Họ đến nhà anh em, nhà người quen ngủ. Nhưng cũng rất nhiều người ngủ tại chợ. Phụ nữ cũng thản nhiên nằm ngủ trên các sạp hàng bỏ trống. Nam giới thì giản đơn hơn, vài tàu lá dưới nền chợ. Quán ăn đêm tưng bừng chào mời. Tiếng chạm bát chén huyên náo trong sự bình yên của phiên chợ vùng cao. Tôi rủ Tuyên vác chiếu xuống chợ nằm. Tuyên can tôi... Khi tỉnh dậy thì phiên chợ Cốc Pài đã đông nghịt người. Sắc áo xanh của người Nùng từ Thèn Phàng, Chí Cà bán đỗ tương, gạo Già Dui (thứ gạo nổi tiếng của Hà Giang mà huyện đang có ý định xây dựng thương hiệu). Giá gạo 6.000 đồng/kg, đỗ tương 8.000 đồng/kg. Nhìn người bán hàng thì biết năm nay Xín Mần được mùa đỗ tương. Sắc áo đen của người Dao, họ mang rau quả, gà, dê, dụng cụ sản xuất đến chợ. Tôi nhấc một chiếc lưỡi cày hỏi giá. Chàng trai người Dao trả lời: 60.000 đồng một lưỡi. Nó nặng khoảng 6 kg. Bán một con ngựa thồ xuống chợ mua được từ 10 đến 12 lưỡi cày. Người Mông xuống chợ với sắc mầu lộng lẫy nhất, ngập tràn mầu đỏ, mầu hồng. Tình cờ gặp lại hai người mà hôm qua đã gặp ở chợ Mốc 5. Ðó là ông Vàng Xuếnh Mìn, 63 tuổi ở khu Xúc Chải, xã Chí Cà. Người chuyên bán chim khướu và chim họa mi. Mỗi con khướu bán từ 200 đến 400 nghìn đồng. Họa mi thì giá cao hơn, tùy theo chất giọng và khách mua. Vàng Xuếnh Mìn có cái miệng rất "ấn tượng". Ông ta chụm môi "hót" lảnh lót như khướu, êm dịu như họa mi. Hằng ngày Xuếnh Mìn lên đồi bẫy chim rồi mang đến phiên chợ bán. Chính cái miệng ấn tượng ấy là kế sinh nhai của cả gia đình. Người thứ hai tôi không rõ tên là gì, mặc dù bà đã nói đến ba lần mà tôi không phiên âm nổi. Một người phụ nữ Mông khó đoán tuổi. Bà địu một chiếc chảo ghênh đường kính cỡ một mét, mua từ chợ Mốc 5, đi ba mươi cây số về bán ở chợ Cốc Pài, lấy chênh lệch từ 15 đến 20 nghìn đồng. Tôi vất vả lắm mới nhấc được chiếc chảo ghênh đó. Chợ Cốc Pài chủ yếu bán hàng nông sản, thực phẩm do bà con làm ra. Họ chia mô, chia đống hoặc đong theo ống, theo bơ, theo chai để bán, không dùng đến cân. Gà, dê, lợn, ngựa bán theo con. Ớt tươi, lạc luộc hai nghìn đồng một bơ. Chè khô một nghìn đồng một vốc tay. Ngô nếp non một nghìn đồng 5 bắp. Rất nhiều mặt hàng lạ như hạt tiêu rừng, vôi bột để nhuộm chàm, dưa chuột quả vàng, mận Nàn Ma cuối vụ, bí non... Tôi tha thẩn quanh chú bé bán ớt. Thứ hàng nào cũng tươi rói, tươi hơn cả là nụ cười của người bán. Họ hồn nhiên trong sáng, tự hào vì từ đất đá vùng cao đã làm ra hàng hóa. Ðắt rẻ không mấy quan trọng. Mặt hàng chỉ thêu váy áo may sẵn, sạp bán đồ nữ trang người Mông luôn chen chúc các thiếu nữ. Họ ngắm, đo, đeo, mặc thử. Từ ánh mắt, nụ cười, kiểu lườm nguýt cũng thật duyên dáng. Giá một bộ váy Mông từ 200 đến 400 nghìn đồng, túi thổ cẩm 35 nghìn đồng. Ði trong phiên chợ như đi trong cảnh sinh hoạt của ngày hội văn hóa đa sắc tộc. Vừa cá tính, độc đáo, vừa sum vầy, ấm áp. Quá trưa, hàng thắng cố, hàng phở nhộn nhịp. Khói và hương thơm nghi ngút. Tiếng băm chặt, tiếng mời chào cùng tiếng cười ồn ào cả góc chợ. Tôi sà vào một quán thắng cố. Anh Lò Seo Dí, 52 tuổi ở Nông Thang, xã Cốc Rế chìa bát rượu mời tôi uống. Vợ và con anh đang xì xụp ăn cơm trộn với phở (cơm nắm mang từ nhà, phở mua ở quán). Tôi nhấp thử thứ rượu ngô thơm lừng, đặc sản của người Cốc Rế. Anh vui vẻ kể: Nhà anh có bảy khẩu thì có năm lao động. Vụ vừa rồi thu được gần sáu tấn ngô hạt, lúa nước cũng vài ba tấn. Không phải lo cái ăn. Anh nuôi một con trâu, 13 con dê và lợn thì cả đàn... Cốc Rế có hai dân tộc Nùng và Mông. Ðược Nhà nước hỗ trợ giống ngô mới nên năng suất tốt lắm. Không nghèo nữa đâu. Tôi chỉ cháu gái ngồi bên mẹ: Con gái này học lớp mấy? Nó lớp 7, biết cả vi tính đấy - Anh Dí trả lời. Tôi đi tìm ông lão bán điếu cày, vì có một người bạn trước công tác ở vùng cao nhờ mua một "điếu ục". Cả chợ biết ông. Có lẽ hôm nay ông ốm chăng? Tôi hỏi vu vơ mấy thanh niên bán lá cây thuốc lào. Một thanh niên nhanh nhẹn dẫn tôi đi mấy vòng chợ và kéo ông lão bán điếu từ một quán thắng cố ra. Ông Lý Seo Sèn, 71 tuổi, người Dao ở xã Bản Ngò. "Súng cối" các cỡ khoác quanh người ông đã vơi dần. Tôi chọn một chiếc như ý rồi bắt tay ông Sèn. Chiều, xe máy, ngựa, bắt đầu chở hàng về bản, nào dầu, muối, gạo, đỗ, sách vở... Chợ dần thưa vắng. Tôi ngơ ngác, Tuyên cũng thế. Cậu ta mua ngô nếp non về luộc và xui chủ nhà mua bí non về nấu canh xương. Bí non Cốc Pài sao mà ngon lạ lùng. Chỉ cần đập ra thả vào một chút xương hầm đã thật hấp dẫn. Bãi đá cổ Nấm Dẩn Tôi đã nhiều lần ngược phía bắc Hà Giang lên với Yên Minh, Ðồng Văn, Mèo Vạc. Gặp cao nguyên đá, có người gọi là rừng đá, cánh đồng đá. Ðá phía bắc thì sắc nhọn, mầu đen đến rợn người. Lần này về phía tây lại gặp những dòng sông đá, dòng suối đá, cả khu quần thể đá. Ðá phía tây Hà Giang thường tròn hoặc có bề mặt phẳng, mầu sáng. Thiên nhiên đã đẽo gọt chăng, miền quê có độ dốc lớn, mưa nhiều đã trồi ra những khối đá lớn, nhiều hình thù kỳ lạ. Ngược dòng suối đá, theo chân hướng dẫn viên Minh Lý, chúng tôi đến Nấm Dẩn. Ðây là khu dân cư người Nùng. Ruộng bậc thang lúa nước xanh ngắt từ chân lên đỉnh núi. Xen lẫn quần thể lá là nương ngô đã đến kỳ thu hoạch. Nấm Dẩn theo nghĩa tiếng Nùng là "nước lạnh". Một dòng suối mát từ ruột núi và hai bên sườn dốc dồn về. Ðá như những con vật khổng lồ đang đứng nằm, ngổn ngang trên đồng. Tôi trèo lên một khối đá lớn cao tới hơn 5 m, mặt phẳng trên rộng hơn 50 m2, đứng đây thấy như đang cưỡi trên một cụ rùa đá khổng lồ. Ðầu ngóc về phía đỉnh cao nhất của dãy núi, chân phải bước nghiêng về suối. Lòng suối có hàng trăm khối đá lớn nhỏ ẩn hiện. Lại một bất ngờ. Hai phiến đá nằm sõng xoài bên bờ suối. Mặt phẳng đến sửng sốt, giống như người ta xẻ gỗ. Cô bé Hoa công tác ở Trung tâm văn hóa - thông tin huyện, hỏi tôi: "Ðó là hai hay một tảng đá tách ra?". Thật khó mà trả lời chính xác. Ðá đã nằm lên nhau hàng ngàn, hàng vạn năm, mình thì vừa đến. Rồi có ai đó đọc mấy câu thơ về đá rằng: "Ðá chồng lên đá hững hờ/Như là ướm thử, như vờ thế thôi/Mà sao mấy triệu năm rồi/E tình hóa đá, ai ngồi ngóng ai". Ðến bãi đá còn lưu lại nhiều dấu tích văn hóa cổ, theo khảo cứu của các nhà khoa học, tại đây đã phát hiện tám phiến đá lớn có nhiều hình khắc cổ, nằm rải rác trên diện tích 8 ha. Chúng tôi dừng trước phiến đá lớn có hình một con rùa. Tại phần mai rùa diện tích khoảng 20 m2, các nhà khoa học đã phát hiện 79 hình vẽ, trong đó có 40 hình tròn, hai hình chữ nhật, một hình vuông, sáu hình hồi văn, năm hình biểu tượng sinh thực khí phụ nữ, hai hình bàn chân người... Nét khắc chìm thô sơ trực tiếp vào bề mặt đá. Theo các nhà khoa học, những nét chạm khắc trên có niên đại hơn một nghìn năm. Việc giải mã vẫn còn là điều bí ẩn. Anh Lù Văn Ngán, 50 tuổi là Phó ban quản lý di tích quần thể văn hóa đá cổ, cho biết: Từ nhiều đời nay dân bản vẫn gọi khu này là: "Nà phẩu lai shử" (khu ruộng đá có nhiều chữ). Hằng năm vào ngày mồng một tháng sáu âm lịch, đồng bào mổ lợn cúng Thần Ðá. Nghi thức được tổ chức ngay tại di tích đá cự thạch. (Các nhà khoa học nhận định cự thạch ở Nấm Dẩn có thể liên quan đến tục thờ Thần Ðá của các cư dân cổ). Quần thể văn hóa đá cổ luôn gắn liền với đời sống văn hóa của người Nùng ở đây. Cả thôn có 81 hộ, hơn 500 khẩu. Hiện nay thôn còn bốn hộ nghèo. Cây lúa nước, cây ngô là lương thực chính. Vật nuôi chủ yếu là trâu, bò, dê, lợn, gà, vịt. Gia đình anh Lù Kháy Sèng, 54 tuổi là một điển hình sản xuất giỏi. Hơn một nửa số hộ trong bản có xe máy, sáu nhà có tủ lạnh. Nấm Dẩn đã có điện lưới được bốn năm nay. Giống lúa, ngô chủ yếu do Nhà nước trợ giúp, đầu tư. Trò chuyện với Bí thư Huyện ủy Lê Quang Minh, được biết hơn bảy tháng qua Xín Mần gặp không ít khó khăn do thời tiết xấu: khô hạn, bão lốc, mưa lớn, thiên tai. Dịch rầy nâu bùng phát, một số bệnh dịch trên đàn gia súc. Giá cả hàng hóa vật tư, phân bón có nhiều biến động. Không nao núng, Ðảng bộ và nhân dân Xín Mần đã vượt qua khó khăn đứng vững và làm chủ tình hình. Dựa vào sức mạnh của khối đại đoàn kết các dân tộc, Xín Mần đã hoàn thành và hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu kế hoạch kinh tế - văn hóa - xã hội, bảo đảm an ninh biên giới và nội địa. Với mục tiêu trong năm 2007: Tập trung cải cách hành chính; xây dựng nông thôn mới, xóa đói, giảm nghèo, phát triển bền vững. Xín Mần, mảnh đất còn nhiều khó khăn nhưng cũng có rất nhiều tiềm năng đang được nhân dân các dân tộc ở đây khai thác, phát huy và gìn giữ. Vẻ đẹp nguyên sơ, hùng vĩ của núi rừng, sông suối cùng với tấm lòng thân thiện, ấm áp và kho tàng văn hóa vật thể, phi vật thể của đồng bào các dân tộc ở đây đang dang rộng vòng tay chào đón du khách. LÊ NA
  20. Phát hiện di tích cự thạch ở Xín Mần Nguồn: http://baohagiang.vn/?lang=V&func=newsdetail&newsid=652&CatID=109&MN=30 (HGĐT)- Trong thời gian tiến hành điều tra khảo sát khảo cổ học tại huyện Xín Mần vào cuối năm 2006 và đầu năm 2007, cán bộ Viện Khảo cổ học Việt Nam và phòng VH-TT huyện Xín Mần đã phát hiện 2 di tích cự thạchở thôn Nấm Dẩn, xã Nấm Dẩn. Hai di tích cự thạch này nằm ở quãng giữa và bên trái con đường mới mở từ UBND xã Nấm Dẩn đến khu di tích bãi đá cổ Nấm Dẩn. Khảo sát xung quanh khu vực này cho thấy, trước khi có con đường chạy qua, thì vị trí của 2 di tích nằm ở dưới thung lũng giữa một bên là dãy núi Tây Đản nằm ở phía Bắc và dãy núi đồi Nấm Dẩn nằm ở phía Nam. Hai dãy núi này nằm song song và cách nhau chừng hơn 100m. Di tích cự thạch nằm cách chân dãy núi đồi Nấm Dẩn chừng 40m, có một con suối nhỏ Nậm Khoòng chảy qua cách di tích chừng 30m về phía Bắc. Trong thung lũng đá cổ có rất nhiều tảng đá trầm tích lớn nằm dọc suối Nậm Khoòng. Có nhiều tảng đá có hình thù kỳ thú khoác trên mình rất nhiều truyền thuyết cổ, như bàn cờ cho các ông Bụt chơi, có tảng đá lạ kỳ là nơi an tọa của các thần linh nhà trời thưởng ngoạn, có ngai vua... Hai trong những tảng đá đó chính là di tích cự thạch (còn gọi là di tích đá lớn) mà người tiền sử để lại. Di tích thứ nhất nằm cách bãi đá có hình khắc cổ Nấm Dẩn khoảng 700m về phía Đông. Di tích gồm một tấm đá phiến magma biến chất (gọi là tấm trầm), có hình khối khó xác định, dài từ 2,3m - 2,4m, rộng từ 1,0 đến 1,10m, dày từ 0,35m - 0,40m, với hai bề mặt khá phẳng. Trên bề mặt và ở các rìa cạnh của tấm đá còn giữ nguyên trạng thái phong hóa tự nhiên. Không có dấu vết gia công của con người để lại trên bề mặt khối đá. Người xưa đã hợp sức nhau kê đặt, xếp chồng tấm đá này lên trên tảng đá lớn bên dưới bằng 3 khối đá nhỏ hơn, kê theo hình tam giác. Tấm đá được kê cao khoảng 20cm so với tảng đá to ở dưới 1. Chính sự tác động của con người vào cách sắp đặt lại cấu trúc các tảng đá theo chủ đích nhất định đã khiến nó phân biệt hẳn với các tảng đá tự nhiên khác. Di tích thứ hai nằm cách di tích thứ nhất 70m về phía Tây. Về kết cấu và cách sắp đặt các hòn đá kê bên dưới tương tự như di tích thứ nhất, sự khác nhau chỉ là ở chỗ kích cỡ và hình dáng tấm đá trần bên trên. Qua khảo sát kỹ tại địa bàn và điều tra dân tộc học, các nhà nghiên cứu cho rằng, đây chính là loại hình di tích khảo cổ mà chúng ta còn ít bắt gặp trên đất nước ta. Đó chính là loại hình di tích Dolmel, một trong những loại hình của văn hóa cự thạch (Megalithic culture). Di tích Dolmen ở Nấm Dẩn có cấu trúc gần gũi với di tích cự thạch ở huyện Hòa An (Cao Bằng), hoặc ở Nà Hang (Tuyên Quang). Theo các tài liệu khảo cổ học, Dolmen là một trong những loại hình di tích cự thạch được phát hiện nhiều nơi trên thế giới. ở khu vực Đông Nam á, loại hình di tích này tìm thấy nhiều ở Lào, Malaisia, Indonesi v.v... Trong quá trình nghiên cứu và khai quật, người ta đã phát hiện được nhiều hiện vật khảo cổ chôn theo trong các Dolmen như đồ đá mài, đồ gốm và đồ kim loại bằng đồng hoặc sắt. ở nước ta, loại hình di tích này phát hiện chưa nhiều. Đến nay, việc xác định ý nghĩa của các kiến trúc Dolmen vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau. Nhiều nguồn tài liệu cho rằng, chúng thường là mộ của thủ lĩnh cộng đồng, là chỗ tưởng nhớ những nhân vật lỗi lạc, hoặc có thể là khu đất thiêng, thần thánh của thị tộc hay bộ lạc, hoặc là chỗ tưởng niệm, thờ cúng tổ tiên. Theo các nhà nghiên cứu, di tích cự thạch Nấm Dẩn còn có thể liên quan đến tục thờ thần đá của các cư dân tiền sử ở đây. Việc xác định niên đại cho di tích cự thạch ở Nấm Dẩn cũng là vấn đề cần tìm hiểu thêm. Trước mắt, các nhà khảo cổ xếp di tích cự thạch Nấm Dẩn có niên đại khoảng gần 2000 năm cách ngày nay. Điều đó khá phù hợp với những dữ kiện khảo cổ học về loại hình di tích đá lớn ở khu vực Đông Nam á. Việc tìm hiểu mối liên hệ giữa chủ nhân các di tích cự thạch và chủ nhân các hình khắc vẽ cổ ở Nấm Dẩn cũng là điều lý thú, thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu trong thời gian tới. TS Trình Năng Chung (Viện Khảo cổ học Việt Nam)
  21. Phát hiện bích họa cổ khắc đá tại huyện vùng cao Xín Mần 05/01/2005 08:18 Nguồn: http://www.hanoimoi.com.vn/vn/43/33951 Lần đầu tiên tỉnh Hà Giang phát hiện được bích họa cổ khắc trên đá tại xã Nấm Dẩn, huyện Xín Mần. Trong đợt khảo sát khảo cổ học tại huyện Xín Mần, cán bộ chuyên môn của Viện khảo cổ học Việt Nam và Bảo tàng tỉnh Hà Giang đã phát hiện các tảng đá có khắc hình vẽ cổ tại bãi đá granít nằm rải rác ở những chân ruộng bậc thang của bản Nấm Chanh, xã Nấm Dẩn. Đặc biệt, có một tảng đá với bề mặt rộng trên 10m2, tương đối bằng phẳng, có hơn 40 hình khắc vẽ, với những họa tiết: hình tròn, hình thang, hình bàn chân người, hình người và những họa tiết biểu tượng sinh thực khí. Các nét khắc rộng khoảng 2 cm và khá nông do bị phong hóa. Theo Tiến sỹ Trình Năng Chung, Viện khảo cổ học Việt Nam thì những hình khắc trên đá phát hiện ở Nấm Dẩn có phong cách tạo hình và mô típ gần giống với những hình khắc ở bãi đá cổ Sa Pa. Bước đầu, các nhà khảo cổ học xác định những hình khắc trên đá ở Nấm Dẩn, Xín Mần ở niên đại cách ngày nay trên dưới 2.000 năm. Chủ nhân của những hình khắc và việc giải mã những hình khắc cổ này còn là bức màn bí ẩn, cần có sự nghiên cứu của các nhà sử học, dân tộc học.
  22. Hà Giang phát hiện thêm phiến đá cổ tại huyện Xín Mần(11:42 19/01/2007) Nguồn: http://www.monre.gov.vn/monreNet (web của Bộ tài nguyên và Môi trường) function goto_link(ID) {window.location = '/monreNet/default.aspx?tabid=207&ItemID='+ID;}Cách đây hơn 2 năm, các nhà khảo cổ học đã phát hiện được bãi đá cổ với nhiều hình, họa tiết hoa văn lạ tại bản Nấm Dẩn, xã Nấm Dẩn, huyện Xín Mần (Hà Giang). Gần đây, cũng tại khu vực bãi đá cổ này, bà con trong bản lại phát hiện thêm một phiến đá cổ có bề mặt rộng trên 3 m2, dày 30 cm, được đặt trên trên 3 trụ đá bằng phẳng, cách bãi đá cổ hơn 200 mét về phía Đông-Nam. Ngay sau khi nhận được tin, các nhà khảo cổ học thuộc Viện Khảo cổ học Việt Nam đã đến để xác minh, nghiên cứu. Theo nhận định ban đầu của các nhà khảo cổ học: đây là phiến đá có niên đại cách đây khoảng trên 2.000 năm và được người tiền sử kê làm nơi thờ các vị tộc trưởng. Phiến đá mới phát hiện tại bản Nấm Dẩn, xã Nấm Dấn đã được các nhà klhảo cổ học(Viện Khảo cổ học Việt Nam) lập hồ sơ, lập mẫu, định dạng, nghiên cứu. Huyện Xín Mần đã vận động bà con các dân tộc xã Nấm Dẩn tham gia bảo vệ tốt bãi đá cổ để giúp các nhà khoa học nghiên cứu thuận lợi. Văn Phát
  23. Xín Mần đón nhận Bằng xếp hạng Di tích Quốc gia Khảo cổ (7/4/2008) Nguồn: http://baohagiang.vn (HGĐT)- Sáng 4.4, huyện Xín Mần tổ chức Lễ đón nhận Bằng xếp hạng Di tích Quốc gia Khảo cổ học Bãi đá cổ xã Nấm Dẩn. Đảng bộ và nhân dân huyện Xín Mần đón nhận Bằng xếp hạng Di tích Quốc gia Bãi đá cổ Nấm Dẩn. Tới dự có các đồng chí: Ly Mí Lử, Thường vụ Tỉnh ủy, Trưởng ban Dân vận Tỉnh ủy; Nguyễn Bình Vận, Thường vụ Tỉnh ủy, Giám đốc Công an tỉnh; Tiến sĩ Trình Năng Trung, lãnh đạo Viện Khảo cổ học, lãnh đạo Báo Hà Giang, Sở VH - TT, Bảo tàng tỉnh, lãnh đạo các huyện: Bắc Quang, Quang Bình, Hoàng Su Phì, huyện Bắc Hà (Lào Cai) cùng nhiều quan khách thập phương. Các hình khắc trên phiến đá cổ ở xã Nấm Dẩn (Xín Mần). (Ảnh chụp từ bản dập trưng bày tại Bảo tàng tỉnh). (Ảnh: Yến Khanh) Bãi đá cổ xã Nấm Dẩn được phát hiện ở 5 điểm thuộc xã Nấm Dẩn, có tổng cộng 79 hình khắc đá có ký tự khác nhau của người sơ tiền sử, được Viện Khảo cổ học Việt Nam đánh giá và xác định có từ khoảng 2.000 năm trước. Các hình trạm khắc trên đá có nhiều họa tiết rất đáng chú ý như: Các hình tròn, hình bàn tay, bàn chân và hình khắc sinh thực khí của phụ nữ thuộc thời kỳ mẫu hệ. Các nhà khảo cổ nhận định: Các ký tự được khắc trạm tại Bãi đá cổ Nấm Dẩn có quan hệ qua lại, tương đồng với Bãi đá cổ Sa Pa cách đây 2.000 năm tuổi rất có ý nghĩa để nghiên cứu, xác định nguồn gốc văn hóa người Việt cổ. Được sự giúp đỡ của Viện Khảo cổ học qua nghiên cứu lịch sử, Bộ Văn hóa - Thông tin và Thể thao đã xét cấp Bằng công nhận xếp hạng Di tích Quốc gia Bãi đá cổ Nấm Dẩn để bảo tồn, nghiên cứu. Được sự ủy quyền của Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin và Thể thao, đồng chí Nguyễn Trùng Thương, Giám đốc Sở VH - TT tỉnh đã trao Bằng công nhận xếp hạng Di tích Quốc gia Bãi đá cổ Nấm Dẩn cho Đảng bộ, nhân dân các dân tộc huyện Xín Mần. Nguyễn Hùng
  24. Phát hiện phiến đá cổ niên đại 2.000 năm Nguồn: TTXVN showarticletop("http://vietbao.vn","65079037") http://vietbao.vn/vi/Van-hoa/Phat-hien-phi...m/65079037/181/ Người dân huyện Xí Mần, Hà Giang, vừa phát hiện một phiến đá cổ khá đặc biệt có bề mặt rộng 3m2, dày 30cm, được đặt trên 3 trụ đá bằng phẳng.Địa điểm phát hiện phiến đá này nằm trong khu vực bãi đá cổ đã được phát hiện cách đây hai năm tại thôn Nấm Dẩn, xã Nấm Dẩn. Theo các nhà khảo cổ học, đây là phiến đá được người tiền sử kê làm nơi thờ tự các vị tộc trưởng có niên đại cách đây khoảng 2.000 năm. (Theo TTXVN)
  25. Bãi đá cổ thứ hai thành di tích quốc gia Nguồn: http://beta.baomoi.com/Home/VanHoa/DuLich/...gia/1535282.epi TP - Di tích khảo cổ học bãi đá cổ Nấm Dẩn (xã Nấm Dẩn, huyện Xín Mần, tỉnh Hà Giang) vừa được công nhận di tích quốc gia. Đây là bãi đá cổ thứ 2 (sau Sa Pa) tìm thấy ở Việt Nam và được xếp hạng. Tại đây phát hiện 7 phiến đá có chạm khắc cổ và 2 di tích Cự Thạch (đá lớn). Khu vực có di tích nằm trong một thung lũng rộng thuộc địa phận thôn Nấm Dẩn, xung quanh là những dãy núi cao bao bọc. Trên bề mặt thung lũng này là nhà cửa và ruộng, giữa thung lũng có dòng suối Nậm Khoòng, dọc ven suối có nhiều tảng đá lớn nằm ngổn ngang. Nhân dân địa phương gọi khu vực này là Nà Lai (ruộng nhiều chữ) vì trên một số tảng đá có hình khắc, vẽ. Năm 2004, Viện Khảo cổ học và Bảo tàng Hà Giang phối hợp khảo sát điều tra khảo cổ học ở Xín Mần, và phát hiện có một bãi đá cổ tại đây. Các nhà nghiên cứu tạm chia các hình khắc vẽ trên thành 7 nhóm: các dạng hình học như hình tròn, hình chữ nhật, hình vuông- môtip họa tiết giữ vai trò chủ thể, nhóm hình hoa văn vuông và tròn, nhóm những vạch đục khắc song song, nhóm biểu tượng sinh thực khí, hầu hết là biểu tượng nữ tính, với hình tam giác có rãnh dọc ở giữa, nhóm hình bàn chân người với kích thước như thật, ngón chân khắc lõm sâu vào trong đá, nhóm hình người trong tư thế giơ hai tay, dạng hai chân như trong các bích họa thời tiền sử, và nhóm hình khắc chưa xác định hình dáng. Ngoài hơn 80 hình khắc vẽ, bề mặt tảng đá còn có khoảng 80 lỗ vũm với đường kính trung bình 5- 6cm, sâu 1- 2cm, phân bố chủ yếu ở đầu phía Tây của tảng đá. Theo TS Trình Năng Chung (Viện Khảo cổ học), để tạo được những hình khắc này người xưa đã sử dụng kỹ thuật đục khắc rất thô sơ, dùng đục sắt có sự trợ giúp của búa, đục trực tiếp trên mặt tảng đá. Cho đến nay, ở Việt Nam, những dấu tích nghệ thuật tạo hình thời tiền sử còn tìm thấy khá ít. Giá trị nghiên cứu khoa học của bãi đá cổ rất cao bởi hầu như chưa có sự xâm hại của con người thời sau, di tích hầu như nguyên trạng. Điều này khác với khu di tích Sapa còn nhiều khó khăn bởi sự chằng chéo của nhiều môtip thể hiện của nhiều thời kỳ khác nhau. Bước đầu, các nhà khảo cổ cho rằng những hình khắc vẽ trên đá ở Nấm Dẩn, huyện Xín Mần có niên đại trên 1.000 năm, khởi đầu là sau công nguyên khi mà đồ sắt đã được sử dụng rộng rãi. Ở VN phát hiện chưa nhiều loại hình di tích Cự Thạch, và ý nghĩa của chúng vẫn chỉ là những tranh luận. Nhiều nguồn tài liệu cho rằng chúng thường là chỗ tưởng nhớ những nhân vật lỗi lạc, có thể là khu đất thiêng, thần thánh của thị tộc hay bộ lạc hoặc chỗ tưởng niệm, thờ cúng tổ tiên. Theo các nhà nghiên cứu, di tích Cự Thạch Nấm Dẩn có thể liên quan đến tục thờ Thần Đá của các cư dân tiền sử ở đây. Bãi đá Nấm Dẩn có 2 di tích Cự Thạch. Giới khảo cổ xếp di tích Cự Thạch Nấm Dẩn có niên đại khoảng gần 2.000 năm. Điều đó cũng phù hợp với những dữ kiện khảo cổ học về loại hình di tích Cự Thạch ở khu vực Đông Nam Á. Khi so sánh nghệ thuật cổ Xín Mần các nhà khoa học cho rằng những hình khắc trên bãi đá cổ Nấm Dẩn cổ xưa hơn ở Sa Pa. Nguyễn Phương ** Ảnh chưa upload được: - Bãi đá cổ Nấm Dẩn - Những hình khắc vẽ trên bãi đá cổ được in ra. Ảnh: N.P Phoenix