phoenix

Hội Viên Ưu Tú
  • Số nội dung

    1.107
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    2

Everything posted by phoenix

  1. (st) Những phát hiện mới nhất về Tứ bất tử Việt Nam Thứ năm, 20/3/2008, 07:00 GMT+7 Gọi là Tứ bất tử nhưng có đến 6 vị thánh được coi là bất tử trong tín ngưỡng dân tộc Việt. đó là các vị: Tản Viên Sơn Thánh, Chử Đạo Tổ, Thánh Gióng, Liễu Hạnh, Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Không. Những ghi chép trong thư tịch cổ Tài liệu xưa nhất về thuật ngữ Tứ bất tử mà chúng tôi được biết là bản Dư địa chí, in trong bộ Ức Trai di tập, (VHv.1772/3 q.6) do Nhà in Phúc Khê, in năm Mậu Thìn (1868) niên hiệu Tự Đức. Trong tín ngưỡng thờ bách thần của người Việt, “hoặc có vị là tinh túy của núi sông, hoặc có vị là nhân vật linh thiêng, khí thế lừng lẫy về trước, anh linh còn mãi về sau”(Lời tựa sách Việt điện u linh), nhưng có 4 vị thần được dân gian tôn vinh là Tứ bất tử. Đó là bốn vị linh thiêng trường sinh bất tử trong thần điện Việt Nam. Mọi người vẫn cho rằng đó là Tản Viên Sơn Thánh, Chử Đồng Tử, Tháng Gióng và Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Thực ra, trong lịch sử đã đã diễn ra không phải hoàn toàn như vậy, và trong chúng ta không phải ai cũng biết Tứ bất tử là những ai và có từ bao giờ. Bản Dư địa chí mà chúng ta hiện có là một công trình nghiên cứu tập thể. Ngoài lời tập chú của Nguyễn Thiên Túng, lời cẩn án của Nguyễn Thiên Tích và lời thông luận của Lý Tử Tấn, Dư địa chí còn có những phần do người các thời sau (cụ thể là người các thế kỷ 16, 17, 18) đã thêm vào và sửa chữa nhiều lần. Trong số họ, có Thư Hiên Nguyễn Tông Quai (1693-1767). Thư Hiên Nguyễn Tông Quai ở thế kỷ XVII là người đầu tiên giải thích thuật ngữ Tứ bất tử, khi ông chú giải điều 32 trong sách Dư địa chí (VHv.1772/3 tờ 13a) của Nguyễn Trãi. Lời chú ấy như sau: “... Người đời Thanh nói: Tản Viên Đại Vương đi từ biển lên núi, Phù Đổng Thiên Vương cưỡi ngựa bay lên không trung, Đồng tử nhà họ Chử gậy nón lên trời; Ninh Sơn (nay là Sài Sơn) Từ Đạo Hạnh in dấu vào đá để đầu thai. Ấy là An Nam Tứ bất tử vậy”(Nguyễn Thư Hiên viết: ... Thanh nhân xưng Tản Viên Đại Vương chi tự hải vãng sơn; Phù Đổng Thiên Vương chi kỵ mã đằng không; Chử gia Đồng tử chi trượng lạp thăng thiên; Ninh sơn (kim Sài Sơn) Từ Đạo Hạnh chi ấn thạch đầu thai. Vị An Nam Tứ bất tử vân). Giá Sơn Kiều Oánh Mậu (1854-1911) người làng Đường Lâm là nhà học giả nổi tiếng của cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, trong lời Án sách Tiên phả dịch lục (AB.289, tờ 4a), in năm Canh Tuất 1910 có viết: Thánh Gióng “Tên các vị Tứ bất tử của nước ta, người đời Minh cho là: Tản Viên, Phù Đổng, Chử Đồng Tử, Nguyễn Minh Không. Đúng là như vậy. (Vì) bấy giờ Tiên chúa (Liễu Hạnh) chưa giáng sinh nên người đời chưa thể lưu truyền, sách vở chưa thể ghi chép. Nay chép tiếp vào. (Án: Ngã Tứ bất tử chi danh, Minh nhân dĩ Tản Viên, Phù Đổng, Chử Đồng Tử, Nguyễn Minh Không. Đương chi nhiên; thử thời Tiên chúa vị giáng, cố vị cập thế nhân sở truyền, văn hiến khả trung. Kim tục chi). Trên đây là những thông tin về Tứ bất tử trong thư tịch Hán Nôm, hiện đang lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Các tài liệu tiếng Việt hiện đại về Tứ bất tử thì phong phú hơn nhiều. Dưới đây, chúng tôi xin điểm qua những tài liệu đó: Nguyễn Tuân (1910-1987), trong thiên truyện Trên đỉnh non Tản in trong tập Vang bóng một thời, có viết: “... Bốn vị Tứ bất tử nơi thế giới u linh: thánh Tản Viên, chúa Liễu Hạnh, Chử Đồng Tử, và Phù Đổng thiên vương”. Việc phụng thờ Tứ Bất tử là một tín ngưỡng thuần túy Việt Nam, kết tinh từ những truyền thuyết đẹp đẽ và là một bộ phận không thể tách rời trong di sản tôn giáo và tinh thần của đất nước. Và chính người Trung Quốc, từ bao đời nay cũng đã biết đến và ghi nhận tín ngưỡng Tứ Bất tử của Việt Nam. Hà Kỉnh (1922-1995) trong cuốn Truyền thuyết Sơn Tinh viết: “Ở Việt Nam ta có bốn vị thần bất tử là: Phù Đổng Thiên Vương, Chử Đồng Tử, Bà chúa Liễu Hạnh, Tản Viên Sơn Thần”. Vũ Ngọc Khánh và Ngô Đức Thịnh, trong chuyên khảo Tứ bất tử chỉ thấy trình bày về bốn vị thánh bất tử gồm: Tản Viên Sơn Thánh, Chử Đạo Tổ, Đức Thánh Gióng và Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Nhu vậy các vị Tản Viên Sơn Thánh, Chử Đạo Tổ và Thánh Gióng luôn luôn cố định và nhất quán trong các tài liệu, các thời đại. Khi Liễu Hạnh chưa giáng sinh thì Từ Đạo Hạnh hoặc Nguyễn Minh Không được xếp vào hàng Tứ bất tử. Thư tịch cổ cũng cho biết rằng, việc người Việt thờ phụng Tứ Bất Tử được người Trung Hoa biết đến và ghi nhận. Điều đó chứng tỏ việc phụng thờ Tứ Bất tử là một nét tâm linh rất độc đáo và riêng khác của người Việt. Lý giải về Tứ bất tử Trước hết, nói về con số bốn (tứ). Trong tư duy của người Việt, con số này mang tính ước lệ và có ý nghĩa lớn. Tứ (bốn) là một hằng số được dùng để khái quát về một phạm trù nào đó. Ví dụ: Tứ trấn, An Nam tứ đại tài, Tràng An tứ hổ, Sơn Tây tứ quý, Mỗ-La-Canh-Cót tứ danh hương v.v.. Và việc chọn lấy 4, trong toàn thể của một tập hợp là chọn lấy những gì tiêu biểu nhất, độc đáo nhất và có tính thời đại. Từ bất tử cũng là một tập hợp như vậy. Cũng chính vì thế mà có đến 6 vị thánh được coi là bất tử trong tín ngưỡng dân tộc Việt. đó là các vị: Tản Viên Sơn Thánh, Chử Đạo Tổ, Thánh Gióng, Liễu Hạnh, Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Không. Tượng tổ Từ Đạo Hạnh Sơn Tinh - Tản Viên Sơn Thánh: tên gọi của vị Thần núi Tản, vị thần tối cổ trong tâm linh dân tộc Việt. Tản Viên Sơn tức là núi Ba Vì, “núi tổ của nước ta” (Nguyễn Trãi - Dư địa chí). Núi có ba ngọn cao chót vót. Ba anh em Thánh Tản (còn gọi là Tam vị Đại Vương Quốc chúa Thượng đẳng thần) chia nhau cai quản, mỗi người một ngọn núi. Xuất phát từ nhận định cốt lõi tín ngưỡng Sơn Tinh - Tản Viên Sơn Thánh là TÍN NGƯỠNG THẦN NÚI (Sơn Tinh, Sơn thần) nằm trong hệ thống tín ngưỡng các hiện tượng tự nhiên, chúng tôi khẳng định rằng, nói Sơn Tinh - Tản Viên Sơn Thánh là nói tới cả ba anh em thần núi. Như vậy, đương nhiên cả ba vị thần đó đều thuộc Tứ bất tử. Cũng từ cốt lõi của tín ngưỡng thần núi của người Việt, cho nên có hiện tượng công chúa Ngọc Hoa, vợ của Thánh Tản (người anh cả) không được đề cao ngang hàng với Tam vị Tản Viên Sơn Thánh, dù rằng ở một só làng nơi giáp ranh giữa Sơn Tây, Ba Vì, Phú Thọ vẫn có những lễ hội đề cao Ngọc Hoa. Văn tế, sự sắp xếp các ngai thờ, nghi lễ, tự khí... mà chúng tôi khảo sát tại những ngôi đền thờ Thánh Tản ở vùng xung quanh núi Ba Vì càng góp phần làm sáng tỏ cho những nhận định trên đây. Chử Đạo Tổ: Nếu như ở huyền thoại Sơn Tinh - Tản Viên Sơn Thánh, người ta có thể tìm thấy những lớp ý nghĩa cổ xưa nhất của tín ngưỡng chất phác, nguyên thủy bằng cách bóc tách những lớp trầm tích tiềm ẩn trong văn bản thần tích thì với huyền thoại Chử Đồng Tử, công việc trở nên rất khó khăn. Huyền thoại Chử Đồng Tử (Chử Đạo Tổ) là câu chuyện của Đạo Giáo, Đạo Thần Tiên, một tín ngưỡng vốn du nhập từ bên ngoài vào nước ta từ rất sớm. Cốt lõi huyền thoại cũng như tín ngưỡng Chử Đạo Tổ là tín ngưỡng Đạo giáo mang màu sắc tín ngưỡng dân gian thuần Việt. Chử Đồng Tử chính là người đi tiên phong trong cuộc thụ phép thần tiên để tế độ và truyền dạy cho người khác. Dân gian tôn vinh Chử Đồng Tử là Chử Đạo Tổ là vì thế. Khảo sát hệ thống thờ tự ở đền chính thờ Chử Đồng Tử ở Đa Hòa, chúng tôi thấy, từ rất xa xưa, ở đó đã có ba pho tượng đồng và ba pho tượng đất mà cứ vị ngồi ở giữa là Chử Đạo Tổ, hai vị ở hai bên là Tiên Dung và Nội Trạch Tây Cung. Ở đình Tự Nhiên (huyện Thường Tín, Hà Tây), đối diện với Đa Hòa qua sông Hồng, khi mở hội cũng rước ba cỗ long kiệu ba vị kể trên. Mặc dù vậy, nếu xuất phát từ cốt lõi tín ngưỡng Chử Đạo Tổ thì trong số ba vị này, chỉ có Chử Đồng Tử, là thuộc về Tứ bất tử, của tâm thức dân gian Việt Nam. Thánh Gióng là vị “anh hùng độc lập” trong Tứ bất tử. Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Không, Liễu Hạnh và quá trình hội nhập vào Tứ bất tử: Tượng Liễu Hạnh Trước kia, khi Liễu Hạnh chưa xuất hiện (giáng thế) thì Từ Đạo Hạnh hoặc Nguyễn Minh Không là một trong Tứ bất tử có lẽ là từ những “tiêu chí” sau đây: - Cả hai vị đều “giáng sinh” trong một triều đại sớm của lịch sử Việt Nam. - Từ hai vị này đều làm nảy nở những câu chuyện đậm màu sắc Đạo giáo - một tín ngưỡng sớm đến với Việt Nam và có nhiều khả năng hội nhập với tín ngưỡng bản địa. - Hai vị này đều hóa thân sau khi mất, và đầu thai thành nhiều kiếp. Khi Liễu Hạnh “giáng sinh” vào khoảng thế kỷ XVI cũng chính là lúc ý thức hệ Nho giáo ở nước ta đang đi vào con đường suy thoái. Thực trạng xã hội loạn lạc, chiến tranh giết tróc, làm cho nhân dân vô cùng cực khổ, khao khát cháy bỏng về một cõi tâm linh an lạc, siêu thoát. Phật giáo và Đạo giáo có cơ phát triển trong dân gian. Về Phật giáo, quan niệm Tịnh Độ tông với lối sống từ bi hỷ xả, với phương thức thỏa mãn nhu cầu tinh thần của con người, với tính chất dung hòa và phổ cập đã trở nên thắng thế và phổ biến trong suốt các thế kỷ XVI và XVII. Còn Đạo giáo, với những bùa chú, phép thuật, với những lối hành đạo phức tạp bởi những biểu tượng đã nhiều lúc trở thành cứu cánh để người ta tìm về làm chỗ dựa và nuôi dưỡng niềm tin về sự giải thoát. Nội Đạo tràng ra đời vào lúc này và sớm trở nên thịnh hành, được vua Lê thừa nhận. Tín ngưỡng tam phủ, mà trung tâm là thờ Mẫu hình thành và phát triển khá nhanh. Liễu Hạnh “giáng thế” đáp ứng nhu cầu thỏa mãn tâm linh của mọi giai tầng trong xã hội, phù hợp với tâm thức dân gian Việt Nam. Nếu so với Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Không thì sự phụng thờ Liễu Hạnh bắt nguồn sâu xa từ trong tín ngưỡng thuần Việt của tâm thức dân gian, rồi lại xâm thực và hòa đồng vào tín ngưỡng Tứ phủ, nên tín ngưỡng này mang nhiều hơi hướng thời đại, cập nhật và phù hợp với thực tại. Ra đời trong thời kỳ đó, và với vai trò như vậy, việc tín ngưỡng Liễu Hạnh trở thành trung tâm của tín ngưỡng Tứ phủ và hội nhập với Tứ bất tử, trở thành biểu tượng của sự trường tồn là một điều dễ hiểu. “Người đời nhà Thanh (Trung Quốc) nói: Tản Viên Đại Vương đi từ biển lên núi, Phù Đổng Thiên Vương cưỡi ngựa bay lên không trung, Chử Đồng tử chống gậy đội nón lên trời, Từ Đạo Hạnh đập đầu vào đá để đầu thai. Ấy là An Nam Tứ bất tử vậy”(Lời Nguyễn Tông Quai, thế kỷ XVIII) “Tứ bất tử của nước ta, người đời nhà Minh (Trung Quốc) cho là: Tản Viên, Phù Đổng, Chử Đồng Tử, Nguyễn Minh Không. Đúng là như vậy. (Vì) bấy giờ Tiên chúa (Liễu Hạnh) chưa giáng sinh nên người đời chưa thể lưu truyền, sách vở chưa thể ghi chép”(Lời Kiều Oánh Mậu, 1910). Từ đó đến nay, tín ngưỡng Tam phủ rồi Tứ phủ luôn luôn là một trong những trung tâm tín ngưỡng của tâm thức dân gian. Ảnh hưởng của tín ngưỡng Mẫu Liễu Hạnh mang tính bao trùm, có phạm vi rộng lớn hơn so với ảnh hưởng của Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Không là điều đã khẳng định trong dân gian. Tóm lại, trong tâm thức dân gian Việt Nam từng có Tứ bất tử. Các vị từng được coi là có chân trong Tứ bất tử gồm: - Tản Viên Sơn thánh (3 anh em) - Chử Đạo Tổ - Thánh Gióng - Thánh Láng Từ Đạo Hạnh - Nguyễn Minh Không - Thánh Mẫu Liễu Hạnh Qua thời gian, cùng với sự xuất hiện những yếu tố mới, mang tính thời đại về tư tưởng, triết lý, quan niệm thì niềm tin, tín ngưỡng, quan niệm về Tứ bất tử có sự thay đổi, dẫn đến việc Thánh Mẫu Liễu Hạnh thay thế Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh Không, đứng vào hàng Tứ bất tử như là một tất yếu. Đền thờ Nguyễn Minh Không tại Ninh Bình Tuy nhiên, những cắt nghĩa trên đây chỉ là những nét phổ quát nhất, trên mặt bằng tín ngưỡng của dân gian trong phạm vi rộng lớn, mang đặc điểm chung nhất. Ở một số nơi, một số vùng, quan niệm tín ngưỡng vẫn có những nét riêng, và tất nhiên, không phổ biến và chỉ có ảnh hưởng ở phạm vi nhỏ, hẹp. Việc phụng thờ Tứ Bất tử là một tín ngưỡng thuần túy Việt Nam, kết tinh từ những truyền thuyết đẹp đẽ và là một bộ phận không thể tách rời trong di sản tôn giáo và tinh thần của đất nước. Và chính người Trung Quốc, từ bao đời nay cũng đã biết đến và ghi nhận tín ngưỡng Tứ Bất tử của Việt Nam. Tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện (Viện Nghiên cứu Hán Nôm)
  2. Trời khiến ông phải thiệt thòi để vắt kiệt mình nói lên niềm khao khát. Từ những khao khát chắt thành mật ngọt cống hiến cho đời, để người người biết cảm và yêu nhau hơn. Một đời người sống có ý nghĩa cũng chỉ cần đến vậy thôi. (Nguồn: http://www.vietimes.com.vn) Thứ hai, 17/9/2007, 15:57 GMT+7 “Anh có nhà có cửa/ nhưng không vợ không con”. Ấy là lời tự bạch của Xuân Diệu về tình trạng cô đơn của mình trong bài “Khung cửa sổ”. Đúng là không có con, nhưng Xuân Diệu đã từng có vợ. Người phụ nữ đó không ai khác chính là nữ đạo diễn, nghệ sĩ nhân dân – Bạch Diệp. Hai người đã chung sống trong một thời gian ngắn ngủi rồi chia tay. Bạch Diệp nay đã bước sang tuổi cổ lai hy. Gần đây, bà yếu đi nhiều, chân run run do bệnh viêm khớp của tuổi già. Trong căn nhà rộng mà hiu quạnh, bà ngồi lọt thỏm trong bộ ghế sa-lông cứng nhắc, khuôn mặt đăm chiêu nhăn nhúm vết thăng trầm thời gian. Sau một tiếng thở dài, những câu chuyện từ cõi lòng cứ thế mà bật ra. Đôi mắt sắc sảo của bà chợt ầng ậc nước, chợt ráo hoảnh… Mội đôi nhưng hai... nửa Những ngày cuối đông năm 1957, trời Hà Nội rét căm căm. Ngày hôm đó, Tổng biên tập báo Nhân Dân - ông Hoàng Tùng gọi Bạch Diệp ở lại, giọng nửa đùa nửa thật: “Bạch Diệp ế đến nơi rồi, có muốn anh giới thiệu chồng không?”. Bạch Diệp giãy nảy: “Gớm, có già cũng không cần anh giới thiệu đâu. Em quen đầy người, việc gì phải nhờ anh”. Nói rồi, Bạch Diệp nhét tập tài liệu dầy cộp vào túi sách, toan về. “Nhưng… nếu đó là “một ông hoàng?”, “Em không cần tiền!”. Bạch Diêp ngúng nguẩy, tự ái ra mặt. Hoàng Tùng xua tay cười “Em bình tĩnh nghe anh nói đã…”. Hoàng Tùng lôi điếu thuốc ra. Châm lửa. Chậm rãi rít một hơi dài: “Người này anh ngắm kỹ cho em rồi, không ai xứng đáng hơn đâu. Không phải ông hoàng dầu lửa, mà là ông hoàng thi ca – Xuân Diệu đấy!”. Hoá ra, người mà tổng biên tập muốn giới thiệu cho cô phóng viên trẻ chính là Xuân Diệu. Bạch Diệp lúc này đã 27 tuổi, đẹp sắc sảo, mặn mà. Biết bao chàng trai ngưỡng mộ sự thông minh của nàng, nhưng không dám tiến gần, vì sợ nàng “chê”. Bạch Diệp thường vẽ một “bánh vẽ” về người chồng lý tưởng của mình, rồi “gặm nhấm”: “Chồng Diệp phải là người đàn ông tài hoa, lãng mạn. Người đó phải khiến Diệp kính phục. Nếu không, Diệp thà ở vậy còn hơn!”. Bởi thế, khi được “gán” với “ông hoàng của thi ca”, Bạch Diệp bỡ ngỡ lắm. Nàng lao về nhà, đọc đi đọc lại những bài thơ tình của ông: “Em bước điềm nhiên không vướng chân/Anh đi lững thững chẳng theo gần/Vô tâm – Nhưng giữa bài thơ dịu/ Anh với em như một cặp vần… Trông thấy chiều hôm ngơ ngẩn vậy/Lòng anh thôi đã cưới lòng em”. Chắn hẳn, người phụ nữ nào được Xuân Diệu yêu sẽ hạnh phúc vô cùng! Sao không hạnh phúc khi được Xuân Diệu đối xử như một nữ hoàng, và được chàng yêu như trong thơ: “Yêu tha thiết thế vẫn còn chưa đủ?/Anh tham lam, anh đòi hỏi quá nhiều. Anh biết rồi, em đã nói em yêu/Sao vẫn muốn nhắc một lời đã cũ?”. Nghĩ vậy, mấy ngày sau, Bạch Diệp nhận lời “mai mối” của Hoàng Tùng. Bạch Diệp trong công việc của một đạo diễn Xuân Diệu tuy đã 41 tuổi, nhưng trông “rất thơ”. Vầng trán anh nở nang, cao vời vợi, che phủ một phần bởi những mớ tóc loăn xoăn, dấu ấn của con người Bình Định. Bạch Diệp vốn là người mạnh mẽ, nhưng bị “đắm chìm” ngay bởi cặp mắt nhìn đời và thiên nhiên sâu thăm thẳm, tựa như một nhà hiền triết. Thế nhưng, buổi nói chuyện đầu tiên tẻ nhạt hơn nàng tưởng. Những câu làm quen rời rạc, những mạch chuyện chệch hướng. Xuân Diệu không phải là người đàn ông biết đưa đẩy, rào đón phụ nữ. Hoá ra, người thơ và người thực chẳng thể là một. Bạch Diệp thoáng thất vọng. Những buổi hẹn hò sau, hai người thường đèo nhau trên chiếc xe đạp cà tàng ra ngoại thành chơi. Trên những con đường trải đầy nắng và gió đông, Xuân Diệu khẽ khàng ngâm thơ. Bạch Diệp ngồi phía sau, lòng lâng lâng. Có lần, trời đổ cơn giông, Bạch Diệp nằng nặng đòi đội mưa về nhà, bất kể đang ốm. Xuân Diệu liền kéo nàng trú dưới hàng hiên nhà cổ. Anh rút khăn mùi soa, lau từng giọt mưa lấm tấm trên mặt nàng. Sau khi đưa nàng về, Xuân Diệu tặng nàng bài thơ: “Tôi cầm mùi dạ lan hương/Trong tay đi đến người thương cách trùng/Dạ lan thơm nức lạ lùng/Tưởng như đi mãi không cùng mùi hương”. Xuân Diệu rất yêu hoa và là người kỹ tính trong nghệ thuật này. Bất cứ lúc nào, trong nhà ông cũng có hoa tươi để bàn. Thuở đó, ông rất hay mua hoa hồng tặng Bạch Diệp. Những bông hồng tươi thắm, cánh hoa dầy ụ khiến đôi mắt Bạch Diệp thêm long lanh, má Bạch Diệp thêm nồng ấm. Xuân Diệu không có sự quyến rũ mạnh mẽ từ vẻ ngoài, cũng không có những câu nói đưa đẩy làm xiêu lòng phụ nữ. Bù lại, sự chu đáo của anh khiến Bạch Diệp tuy chưa hoàn toàn ưng ý, nhưng cũng “mủi lòng”. Đến gần ngày cưới, Xuân Diệu có qua nhà Bạch Diệp ăn cơm tối. Ba mẹ Bạch Diệp đón tiếp “chàng rể tương lai” rất nồng hậu. Mắt long lanh, anh tự ru mình và mềm mại khi đọc những bài thơ tình. Bạch Diệp nhìn anh say đắm, nhưng anh lại đưa mắt ra ngoài khung cửa sổ, lảng tránh. Dường như bài thơ tình đó không dành cho nàng. Giữa họ, một khoảng cách vô hình le lói hình thành. Có lần, cô bạn đồng nghiệp kéo Bạch Diệp lại, hỏi: “Tao nghe người ta nói anh Xuân Diệu có vấn đề đấy! Mày phải xem lại đi, không nhỡ dở đời con gái”. Bạch Diệp gắt lên: “Vớ vẩn! Người ta ghen ghét, nói xấu anh Diệu thôi. Tao không hiểu anh Diệu thì ai hiểu đây?”. Nói thế nhưng Bạch Diệp không khỏi nghi hồ. Hai người sắp nên vợ nên chồng mà vẫn chẳng thể là một. Xuân Diệu lúc nào cũng “bâng khuâng”, “lãng đãng”. Hay vì nhà thơ thường như thế? Trước đám cưới vài ngày, Bạch Diệp giục Xuân Diệu đăng ký kết hôn nhưng anh lại ậm ừ cho qua, kêu bận sáng tác. Mấy hôm đó, nàng cũng thao thức không ngủ được. Chỉ mấy ngày nữa thôi, nàng sẽ trở thành “bà Xuân Diệu”, là “nữ hoàng” của thơ ông, thay thế tất cả những “người tình thơ” trước đó. Sau này, người yêu thơ sẽ nhắc đến nàng như nguyên mẫu, là nguồn cảm hứng duy nhất trong thơ Xuân Diệu. Rồi hạnh phúc vợ chồng, nàng chưa biết gì ngoài những lời thủ thỉ của bạn bè đồng trang lứa. Nghe hứa hẹn, sẽ “ngọt ngào” lắm… Đám cưới diễn ra vào cuối tháng 4 năm 1958, do báo Nhân Dân đứng ra tổ chức. Có rất nhiều bạn bè của Xuân Diệu tới chúc mừng. Họ toàn là những nhà thơ, nghệ sĩ tên tuổi. Bạch Diệp trong bộ áo dài đội voan trắng muốt, hạnh phúc vô cùng. Trước sự chứng kiến của mọi người, chàng và nàng nguyện "kề vai sát cánh đến suốt cuộc đời". Đêm tân hôn của… thi ca Đôi vợ chồng trẻ được thu xếp trong một căn phòng nhỏ, nhưng ấm cúng. Phía đầu giường là dòng chữ “Hỉ” đỏ chót dán lên tường. Chú rể vẫn chu đáo vậy, đun nước sôi, trút xuống chậu men, nhúng tay thử độ ấm và bảo nàng đi tắm. Rũ sạch mọi mệt mỏi, mùi xà phòng hương lài quận quanh người khiến nàng thêm khoan khoái. Bạch Diệp trong xưởng phim ...và cùng nghệ sĩ Trà Giang Nàng đã tưởng tượng ra khung cảnh như thế này, từ lâu lắm rồi: một căn phòng nhỏ leo lắt nến và hoa hồng. Cô dâu mới phải e lệ, ngượng ngùng ngồi đợi chồng bên mép giường. Chú rể vén rèm, bước vào. Hai người uống chung một ly rượu, cho men tình thêm say! Luồng sáng trong phòng phải mờ mờ ảo ảo. Bóng tối sẽ khiến hai người thêm tự nhiên và gần gụi. Sau một đụng chạm khẽ khàng, hai người yêu nhau như tự nhiên nó thế… Một bàn tay mềm mại đặt lên vai. Tim nàng đập thịch. Má đỏ bừng. “Em này, có thấy bút đâu không?”. Giật mình, nàng ngơ ngác: “Để làm gì hả anh?”. Xuân Diệu không trả lời, lục tung bàn, cúi xuống gầm giường tìm bút. Rồi anh thắp thêm nến. Ánh sáng khiến căn phòng như rộng ra, rộng mãi. Xuân Diệu ngồi bên bàn, cầm bút, giấy loay hoay, hì hụi. Đầu anh gục xuống, mái tóc bồng bềnh rối tung. Bạch Diệp ngỡ ngàng: “Chẳng nhẽ anh ấy muốn làm thơ trong lúc này?”. Sau một hồi, Xuân Diệu hí hửng, đọc thơ cho nàng nghe. Bạch Diệp cố nhấn nhịn. Đọc xong, chàng lại hì hụi viết tiếp, mắt nhìn ra cửa sổ bâng khuâng. Nàng bàng hoàng: chẳng nhẽ đêm tân hôn là như vậy? Đêm đó, Bạch Diệp thêm một lần mất ngủ. Vị ngọt rượu vang nơi đầu lưỡi hồi chiều đã nhanh chóng biến thành vị đắng. Đến sáng, hai người rẽ sang hai ngả đường. Đêm đêm, chàng vẫn miệt mài làm thơ. Nàng thở dài, kéo chăn đi ngủ trước. Mọi người tò mò hỏi chuyện đôi vợ chồng trẻ, nàng chỉ mỉm cười, mắt biêng biếc buồn. Nàng đang phải cắn-quả-sấu-của đời mình. Ba tháng sau ngày cưới, Bạch Diệp trò chuyện cùng mẹ. Bà mẹ hạnh phúc nhìn con gái, hỏi nhỏ: “Thế mày đã có gì chưa? - Có gì là có gì ạ? Bọn con đã có chuyện gì đâu?”. Mẹ Bạch Diệp tái mặt. Bà cứ ngỡ, con gái lấy chồng sẽ nhanh chóng sinh cho bà đứa cháu kháu khỉnh, ngờ đâu… Tức giận, bố Bạch Diệp gọi chàng rể đến. Lúc đó, mọi người mới té ngửa: Xuân Diệu bị bệnh “tiên thiên”, không thể chữa trị. Mẹ Bạch Diệp thương con gái, khóc cạn nước mắt. Bà bắt hai người phải chia tay ngay, để Bạch Diệp khỏi lâu ngày mang tiếng xấu. Bố Bạch Diệp can ngăn: “Khuyết tật này chẳng ai muốn có. Hơn nữa con mình là người tri thức có tiếng, nên giữ thể diện cho nó. Bây giờ tìm mọi cách chữa trị trong ba tháng. Sau ba tháng nếu Xuân Diệu tròn nghĩa vụ làm chồng, hai đứa phải chia tay”. Bạch Diệp giờ biết chuyện của chồng, thương xót vô cùng. Suốt ba tháng đó, ngày ngày nàng đun thuốc nam cho chồng uống, tuyệt nhiên không một lời than phiền, trách móc. Mẹ Bạch Diệp đôn đáo xuống Hà Tây, Hải Dương, Hải Phòng xem bói. Nào là, “thằng chồng nó bị ma ám, phải đem lá bùa này về đốt, lấy tro phá với nước lã, bắt nó uống”. Rồi “xoay giường ra hướng khác, hướng này khí độc”… Xuân Diệu thương vợ nhiều, nhưng không thể làm cho vợ hạnh phúc. Hơn nữa, Xuân Diệu càng biết lòng mình, qua cuộc hôn nhân với Bạch Diệp. Thời gian này, những bài thơ tình vẫn được tuôn rào rạt. Vẫn cuồng nhiệt vô bờ: “Hãy khăng khít những cặp môi gắn chặt/Cho anh nghe đôi hàm ngọc của răng/Trong say sưa, anh sẽ bảo em rằng/Gần hơn nữa thế vẫn còn xa lắm”. (Xa Cách) Một đêm nọ, Xuân Diệu không làm thơ. Chàng ôm vợ mình, siết chặt, nhẹ nhàng hôn lên môi, mắt và trán nàng. Rồi những nụ hôn cuống quýt, nồng ấm. Nàng lâng lâng. Dòng máu nóng chạy dọc suốt cơ thể. Nàng không còn bẽn lẽn, rụt rè. Nàng sẵn sàng đón nhận sự khát khao bị dồn nén bấy lâu. Nàng sắp bùng nổ…Nhưng chàng dừng lại. Bỏ ra ngoài phòng. Để lại sau lưng giọt nước mắt mặn chát của người vợ trẻ. Sau này, khi hai người chia tay, họ vẫn coi nhau là bạn. Một lần vô tình gặp trên phố, khi Xuân Diệu đương mua hoa. Họ chào nhau, hỏi chuyện như những người bạn lâu ngày gặp mặt. Đến khi ra về, Bạch Diệp nhìn dáng Xuân Diệu mãi, cho đến lúc anh nhạt nhoà vào đám đông, chợt đắng đọt: “Sao anh ấy cháy bỏng và nồng nhiệt trong thơ dường vậy, lại không thể nồng nhiệt trong đời thực?”. Gần năm mươi năm sau, không một lời oán trách, Bạch Diệp khẽ khàng: “Có lẽ ông ý chưa hiểu hết mình nên mới lấy tôi. Đừng viết gì về ông ấy, có viết, viết về những bộ phim của tôi đây này”. Dù không nói ra, nhưng những tiếng thở dài đau đáu đã nói lên tất cả. Không muốn chạm sâu thêm vào nỗi đau đó, tôi từ bỏ ý định muốn xem tấm ảnh cưới của bà và Xuân Diệu. Bởi với bà, “Xuân Diệu là những gì hư ảo trong cuộc đời, những kỷ niệm vô cùng đẹp nhưng không có thật”. Bạch Diệp hiện đang sống một mình, trong nhà chỉ có thêm một chú mèo... Nên chăng, hãy để chúng nằm yên như nỗi đau được chôn giấu tự thuở nào. Mãi đến năm 40 tuổi, Bạch Diệp mới đi bước nữa, với ông Nguyễn Đức Tường, người thực sự thắp ngọn lửa yêu thương trong cuộc đời bà. Ngày 18 tháng 12 năm 1985, Xuân Diệu qua đời, sau một cơn đau tim đột ngột tại Hà Nội. Bạch Diệp đến, đặt một bó hoa trắng lớn (chứ không phải vòng hoa) lên nắp quan tài. Lần này, bà “tặng” ông bó hoa cuối cùng. Trong tiết trời đông lạnh cóng, bà đã đứng “bên ông”, đưa ông về nghĩa trang Văn Điển. Một cách trọn vẹn, Bạch Diệp là người phụ nữ duy nhất trong cuộc đời Xuân Diệu. Xuân Anh (VieTimes)
  3. Nguồn: http://vtc.vn Những người bị thả… “bùa yêu”? Không biết từ bao giờ, câu chuyện đường rừng thực thực hư hư, bên bếp lửa bập bùng, nơi rừng xanh núi đỏ, luôn có sự bí ẩn với mọi người. Lần nào đi vùng cao cũng vậy, chúng tôi đều được nghe kể về thứ bùa kỳ bí được truyền từ nhiều đời nay. Người thì cho là bùa là phép thuật cao siêu, người thì cho đó là những thông tin huyễn hoặc, nhảm nhí… Người thợ mộc và sự đồn thổi bị bỏ bùa mê… Cho đến bây giờ, những người dân ở xã Tuấn Đạo – Sơn Động – Bắc Giang vẫn đinh ninh cho rằng, anh Tuyến nhà làm thợ mộc ở cuối xóm đã bị chính người vợ của anh bỏ bùa mê khiến anh không tài nào mà dứt đi nổi. Đi đâu, làm gì anh đều phải hỏi ý kiến vợ của mình. Mọi thứ vợ anh đều quyết định, anh về quê hay đi làm, vợ hẹn “hai ngày là đúng hai ngày”, “ba ngày là đúng ba ngày”… Mặc dù công việc chưa xong, anh muốn làm thêm, hay nán lại ở chơi cũng không thể được. Bản thân cũng chưa muốn trở về nhà nhưng không hiểu sao, lúc ấy, trong lòng anh nóng như lửa đốt, đứng ngồi không yên, cho dù mưa gió bão bùng, anh cũng phải mau chóng trở về nhà nhìn thấy mặt vợ con. Những hình vẽ kỳ quặc này được người dân ở đây coi là bùa chú linh thiêng. Chuyện chẳng có gì, nếu như anh Tuyến là người dân vùng ở đây. Anh Tuyến là dân dưới xuôi lên đây làm mộc, đẹp trai, khoẻ mạnh, lại có tài ăn nói hoạt bát. Trong một lần được thuê về để đóng chiếc hòm cáng đựng thóc tại nhà vợ anh bây giờ, anh Tuyến không sao bước chân ra được khỏi đó. Ai cũng bảo, anh Tuyến bị vợ chài. Gia đình nhà vợ đã nhờ thầy bốc bùa cao tay người Mán sơn đầu ở chân núi Yên Tử làm bùa để chài khiến anh không làm sao dứt bỏ được, cho dù đó chỉ là trong…ý nghĩ. Đến giờ, anh Tuyến cũng chẳng thể lí giải được làm sao mình lại yêu, lại mê muội vợ đến thế. Suy nghĩ là vậy, nhưng cũng chỉ xa vợ được hai hôm, đến ngày thứ ba… là anh đã thấy nhớ, thấy thương, người ngợm bứt dứt, sống không thể nào thiếu hình bóng cô ta được. Thế là, anh lại khăn gói quả mướp, bắt xe lên miền ngược để chung sống với người vợ của mình. Đã nhiều lần, nghe những người dân xung quanh mách nước chỉ đường cho anh cách để giải bùa mê, thuốc lú cho đầu óc khỏi bị mê muội. Thôi thì đủ cách, đủ trò, cho dù ai đó bảo sao anh làm vậy. Nhiều người còn bảo anh, phải cạo mùn ở “tấm ván thôi chôn người chết” để uống, anh cũng đã làm mà không sao dứt bỏ được. Anh cũng đã nhiều lần, gặng hỏi người vợ của mình, nhưng lần nào chị vợ cũng đều gạt đi và cười một cách khó hiểu. Nhiều lần anh cũng đã tìm vào tận chân núi Yên Tử kia, để tìm người thầy làm bùa ngày trước để xin giải thoát cho mình, theo anh được biết, chỉ có người làm bùa kia mới nắm được bí mật giúp anh thoát. Nhưng thật không may cho anh, ông thầy làm bùa kia đã chuyển nhà đi nơi khác, hiện mai danh ẩn tích ở đâu, còn sống hay đã chết, mọi người xung quanh đều không hề biết. Cho đến bây giờ, anh Tuyến vẫn cứ yêu thương vợ mình một cách vụng dại và khó lí giải, điều này, chính anh cũng không giải thích nổi… Bùa yêu không chỉ để yêu… Hàng ngày, nếu ai đã đi qua con đường Lê Thánh Tông, thành phố Hoà Bình thì đều biết chàng trai suốt ngày lang thang tha thẩn dọc con phố, thỉnh thoảng lại mỉm cười rất duyên và đưa ánh mắt đầy tình tứ mỗi khi thấy bóng hồng đi qua. Trong trạng thái nửa tỉnh nửa mê của một người tâm thần, người đàn ông luôn miệng nói: Anh yêu em… Người con trai ấy tên Đinh Văn Cường. Theo những người dân quanh đây thì anh Cường quê ở xã Đồng Nghê, Đà Bắc, trước đây Cường rất đẹp trai được nhiều người yêu mến rồi, không biết trong số các cô gái thích Cường đó, có người đã không được đáp lại tình yêu đã bỏ bùa yêu khiến anh Cường phải ra nông nỗi này. Những chuyện đan xen, khiến những người chứng kiến thì cho là bùa chú là phép thuật cao siêu, người nghe thì cho là những thông tin huyễn hoặc, nhảm nhí… Bây giờ, thi thoảng bắt gặp những cô gái xinh đẹp, anh Cường lại nói như hét lên: “Anh không yêu em, tại sao lại hại anh!”. Nói xong, trên khuôn mặt rất hiền đó lại hiện rõ vẻ lo lắng sợ sệt đến ngây dại. Nhiều hôm, anh chàng dở điên dở dại ấy lại tỏ ra rất sợ các cô gái, hễ thấy họ là anh tránh xa, lấy tay che mặt hoặc đứng núp vào một chỗ nào đó, chờ họ đi qua, Cường mới dám lộ mặt… Chúng tôi tìm về Đồng Nghê, trong ngôi nhà của Cường, gặp chị Đinh Thị Yên, chị gái của Cường. Không giấu được vẻ buồn rầu, chị Yên cho biết, hơn 10 năm trước, Cường là một thanh niên khoẻ mạnh, đẹp trai làm nghề buôn luồng (một loại cây cùng họ Tre). Công việc của Cường là lên các huyện miền núi mua luồng, rồi xuôi sông về bán. Trong những nơi Cường qua, có nhiều cô gái thích chàng trai mua luồng nhưng do mải làm ăn, cậu ta vẫn chưa chính thức ngỏ lời với ai hết. Năm 2000, sau một chuyến buôn luồng dài ngày trở về, thì Cường tự nhiên lầm lì, ít nói, tính khí thất thường. Ai hỏi gì cũng chỉ cười ngây ngô một cách khó hiểu, gia đình dỗ dành mãi thì Cường chỉ ậm ừ, do không yêu nên bị người ta bỏ “bùa mê thuốc lú” làm hại. Từ đó, bệnh tình của Cường ngày càng nặng, suốt ngày lảm nhảm, anh yêu em và đến cuối năm 2001 thì bỏ nhà đi. Rồi chị Yên nói: “Tôi tin chắc là nó đã bị bỏ bùa. Trước đây nó hiền lành và làm ăn chăm chỉ lắm. Gia đình tìm đủ mọi cách để giải bùa những chưa có thầy nào cao tay giải nó được”. Trong lúc lang thang ở xã Đồng Nghê, chúng tôi còn được nghe một câu chuyện về một bác sĩ trẻ về thực tập tại huyện này. Trong thời gian thực tập, anh đã đem lòng yêu một cô sơn nữ vốn là bệnh nhân của mình. Trước lời ngọt ngào có cánh của chàng trai, cô gái người dân tộc ấy đã yêu say đắm và dâng hiến cái “quý giá” nhất của mình. Nhưng rồi thời gian thực tập của chàng đã hết, chàng bác sỹ trẻ kia, lộ mặt ngay là một gã hợ “sở”, định cao chạy xa bay, bỏ mặc cái thai đang dần lớn lên trong bụng cô gái. Nhưng, thật không may cho chàng trai, lúc yêu nhau, cô gái vô tình có được mấy sợi tóc của chàng trai. Bố cô vốn là thầy bùa nổi tiếng, đã dùng mấy sợi tóc kia để chế bùa, khiến cho chàng bác sỹ kia nửa điên nửa dại. Một thời gian sau, không biết ai mách bảo, gia đình nhà chàng trai kia phải mang lễ lạt đến cầu xin tha thứ mãi, bố cô gái vì “thương con quý cháu” mới tìm cách giải bùa. Những câu chuyện thực thực hư hư ấy đã khiến bao nhiêu người tin để làm rõ việc này chúng tôi luôn tâm niêm phải gặp thầy để xin bùa. Đúng như mong ước, trong một lần đi công tác tại xứ Mường, chúng tôi đã được diện kiến một thầy bùa… (Còn tiếp) Bùi Lương Việt
  4. Nguồn: http://vietimes.vietnamnet.vn “Bùa yêu hay chỉ là thuốc phiện?” - Tự thuật của một người Tày... Thứ năm, 27/9/2007, 14:05 GMT+7 Biết tôi là người Tày, rất nhiều người đã hỏi tôi những câu hỏi đại loại là: Có thật người miền núi có bùa yêu không? Anh có biết làm bùa yêu không? Rồi họ nhìn ngó tôi như thể tôi có thêm một cái đuôi. Đặc biệt là các cô gái trẻ, chuyện bùa yêu với họ thật sự hấp dẫn. Họ hỏi tôi rất nhiều như thể họ đang muốn thả bùa ai đó. Và bao giờ câu chuyện của bùa yêu cũng làm cho họ say sưa. Những lúc như thế tôi chỉ muốn bật cười… Vậy bùa yêu có thật hay không? Và nó như thế nào? Liệu những cô gái trẻ Hà Thành kia có thể sử dụng nó trong thành phố ồn ã đầy toan tính này? >> Trinh tiết miền rừng và đêm tân hôn của người Tày Bùa mê chỉ có từ những nụ cười - (Ảnh: baothainguyen.org.vn) Câu chuyện thứ nhất Vào năm tôi mười tuổi ở cái làng Pác Tháy bé nhỏ của tôi xảy ra một chuyện có thể gọi là kỳ lạ. Cô Nhình con bà Lành ở đầu bản - một sơn nữ có ngoại hình rất xấu: da đen, chân tay ngắn, mắt lé, mũi to… Nói chung không thể xấu hơn được nữa. Vậy mà cô ta sắp lấy chồng - anh Thành - bộ đội người dưới xuôi, đẹp trai nhất nhì đồn biên phòng gần đó. Ban đầu người trong bản và cả chiến sỹ trong đồn đều nghi hoặc về tin này. Người ta chỉ thấy đêm đêm anh Thành đi lại vật vờ như một bóng ma. Và bao giờ anh cũng đến nhà cô Nhình ngồi rất lâu. Quá tò mò với chuyện này, bọn trẻ chúng tôi thường bò vào nhìn trộm. Chỉ thấy bên bếp lửa bập bùng, cái anh bộ đội to cao và cô gái Tày nhỏ thó đó dựa vào nhau, tay nắm tay, trò chuyện thân mật, bóng họ nhảy nhót trên tường gỗ và lâu lâu cô Nhình lại khúc khích cười. Việc anh Thành mê cái Nhình làm không ít các cô gái trong bản ghen tức, trong đó có cả chị họ tôi. Bà chị tôi quả quyết rằng con Nhình đã đến nhà bà Sẳn lấy “bua” , tức là bùa yêu để chài anh Thành, nếu không có mà trời sập cũng chẳng yêu được anh bộ đội đẹp trai như thế. Nhắc đến bà Sẳn, bọn trẻ con trong bản chúng tôi đều biết. Đó là người đàn bà cô độc bí ẩn, già đến nỗi không ai biết bà bao nhiêu tuổi. Ngôi nhà cũ kỹ của bà nằm ở cuối bản, hàng ngày bọn tôi vẫn thấy bà ngồi một mình đan lồng gà. Hình như bà sống bằng nghề đó. Trong vườn bà lúc nào cũng đầy hoa quả: cam, quýt, ổi, chuối… chín thơm lừng nhưng chẳng đứa nào dám vào hái trộm vì người ta đồn bà đã yểm bùa những cây đó, nếu ai lấy trộm sẽ bị điên, trừ khi bà ta cho hoặc bán. Có lần, quá thèm mấy quả ổi chín, tôi rủ thằng bạn trèo lên hái trộm. Đó là một hành động thật liều lĩnh, nhưng mùi thơm quyến rũ của ổi chín đã làm tôi quên sợ và tôi cũng không tin lắm vào chuyện yểm bùa của mấy người già nên làm liều. Khi trèo lên tít ngọn cây để hái quả, tôi nhìn thấy bà Sẳn đang ngồi đan lồng gà trên sàn gỗ. Trong ánh nắng rực rỡ của mùa hè, bà ngồi lặng lẽ làm việc, xung quanh những con chim sẻ thản nhiên nhảy nhót không hề sợ hãi. Thỉnh thoảng bà đưa tay lên vuốt tóc, những sợi tóc bạc lấp lánh trong ánh nắng cùng khuôn mặt già nua nhăn nhúm làm tôi rất sợ. Cuối cùng, tôi cũng hái đầy hai túi ổi, nín thở leo xuống. Khi tôi đang rón rén định chui qua hàng rào, bỗng nhiên bà lên tiếng: “Cẩn thận gai đâm vào chân đấy…”. Tôi sợ đến đứng tim, rồi ù té chạy, hai túi ổi rơi đâu hết. Thằng bạn tôi cũng sợ không kém, nó quả quyết đã thấy những quả ổi rơi ra từ túi quần của tôi và lăn vào sân nhà bà Sẳn. Nó kết luận: “Bà Sẳn yểm bùa nên ổi tìm về với chủ, mày cẩn thận, điên đấy…”. Đêm đó tôi không tài nào ngủ được, và gặp ác mộng. Tôi thấy bụng mình chướng lên đau đớn rồi vỡ tung, từ đó những quả ổi thi nhau bay ra, mỗi quả ổi là một khuôn mặt của bà Sẳn nhìn tôi cười chế giễu. Từ bữa đó cứ nhắc đến bà Sẳn, tôi sợ không còn hồn vía. Cái việc cô Nhình lấy bùa với bà Sẳn có lẽ là thật rồi. Và đám cưới của cô Nhình cùng anh Thành cũng diễn ra. Đêm đó thật vui, đại diện nhà trai là bộ đội biên phòng, họ đến rất đông, ăn uống cười nói và diễn cả văn nghệ. Bọn trẻ chúng tôi cũng được dịp xôi thịt no nê. Trong đám cưới chúng tôi nghe loáng thoáng mấy anh bộ đội nói, gia đình dưới xuôi của anh Thành không đồng ý nên chẳng ai lên dự đám cưới cả. Và họ cũng hỏi chúng tôi chuyện bùa ngải, một anh còn rỉ tai tôi hỏi: “Này nhóc, có loại bùa nào dùng cho con trai chài con gái không? Tớ rất thích chị gái nhóc đấy…”. Sau đám cưới tôi thấy anh Thành chuyển về sống với mẹ con cô Nhình. Anh ta vui vẻ lên nương, lên rừng như bất cứ gã trai bản nào. Trông anh ta rất hạnh phúc. Bây giờ, sau hơn hai mươi năm, tôi đã trở thành gã đàn ông, cuộc tình của anh Thành và chị Nhình thỉnh thoảng vẫn hiện về. Bây giờ họ vẫn sống ở đó, hạnh phúc, rất hạnh phúc. Vừa rồi về quê, tôi có ghé qua cái đại lý bán hàng tổng hợp của anh chị. Có thể nói họ là người giàu có nhất vùng; Anh Thành đã ra quân, ở nhà phụ chị Nhình bán hàng. Họ có ba cô con gái, hai cô đầu đã lấy chồng, còn cô út làm giáo viên. Khi tôi đến họ vẫn nhận ra tôi. Anh Thành dứt khoát mời tôi ở lại uống rượu. Trông anh rất vui, chẳng có vẻ gì bị bùa ngải cả. Còn chị Nhình bây giờ đỡ xấu hơn, nếu không muốn nói là đẹp ra. Chị béo tốt, trắng trẻo, cái vẻ đen đúa nhỏ thó ngày nào biến đâu mất. Chị cười nói liên tục, thêm tí rượu hai má ửng hồng, trông chị như một thiếu phụ đang hồi xuân đầy sức sống, cũng chẳng thấy có hương vị của bùa ngải. Khi rượu đã ngà ngà tôi hỏi về việc ngày xưa người trong bản đồn chị dùng bùa của bà Sẳn để quyến rũ anh Thành. Chị cười tít mắt, anh cũng cười tít mắt, chẳng ai trả lời, rồi chị Nhình nói to: “Đúng đấy, tôi bùa ông ấy đấy…”. Rồi chị lại cười tít mắt. Cái hình ảnh anh chị ngồi với nhau bên bếp lửa ngày nào lại hiện về. Bây giờ tôi mới hiểu thời khắc đó họ đang say đắm với tình yêu. Chỉ có anh và chị mới biết hương vị ngọt ngào của nó, chúng tôi - những người ở ngoài làm sao nhìn thấy. Còn việc bùa ngải như người bản tôi vẫn đồn thì sao, có thật không? Tôi không dám trả lời, nhưng nếu bỏ bùa mà hạnh phúc như thế, tôi đây - gã người Tày chính hiệu - cũng xin một liều để thử. Sợ gì! Câu chuyện thứ hai Ngày ấy, việc cô Nhình lấy được một anh chồng đẹp trai, lại là bộ đội làm nhiều cô gái khó chịu lắm. Vẫn là bà chị họ tôi, cứ mỗi lần nhắc đến chuyện này lại trề môi nói đến bùa ngải. Chị tôi khẳng định đã nhiều lần trông thấy cô Nhình đến nhà bà Sẳn lấy bùa. Nếu không tin cứ đến ngày rằm mà xem. Đúng là có lần trên đường dong trâu về chuồng tôi có thấy cô Nhình đi vào nhà bà Sẳn, họ nói gì đó với nhau rồi đi vào phía chân núi. Sự tò mò lại làm tôi quên sợ và rất muốn theo dõi họ. Tình yêu tự nguyện như mối thiên duyên giữa trời và đất Một buổi chiều khi đang chăn trâu dưới bãi sông, chúng tôi thấy bà Sẳn một mình lặng lẽ đi vào chân núi. Sự tò mò một lần nữa làm chúng tôi quên sợ, theo sát bà. Bà Sẳn đi sâu vào khe núi một lát rồi đi ra vẻ rất bí mật. Khi bà ta đi khỏi, tôi và hai thằng bạn cũng mò mẫm vào khe núi đó. Đây là khe núi có một mỏ nước, nhưng người trong bản không dùng vì nó quá xa, hơn nữa chỗ này dây leo chằng chịt, ẩm thấp khó đi. Chúng tôi cứ men theo dòng nước nhỏ đến cái mỏ thì thấy một cái hốc trông như cái miếu con. Ở đó có một bình hương đang cháy nghi ngút. Phía trong hốc đá là một khóm cây rất lạ - một loại cây trông như cây lúa có những hạt màu đỏ. Chúng mọc thành khóm thân cong vút vì trĩu hạt. Khói hương nghi ngút, cùng khóm cây lạ và cái hốc âm u làm chúng tôi rất sợ nên chỉ đứng nhìn chẳng đứa nào dám đụng vào. Lúc này khuôn mặt nhăn nheo và cơn ác mộng ngày nào lại ập đến, tôi sợ quá quay lưng chuồn thẳng. Từ bữa đó tôi lại càng tin vào chuyện bà Sẳn có bùa. Ngoài việc bí ẩn về bùa ngải bà Sẳn lại biết rất nhiều bài thuốc, người trong bản mỗi khi bị ốm đều đến xin thuốc của bà. Tôi cũng đã từng là bệnh nhân của bà ấy. Một lần phi ngựa cùng đám bạn, tôi bị ngã. Con ngựa đực bướng bỉnh của tôi không dừng lại mà còn kéo lê tôi một đoạn. Đêm đó tôi rên rỉ vì đau đớn, pa tôi sờ nắn và phát hiện tôi gãy mất hai chiếc xương sườn. Ngày đó đến bệnh viện rất xa mà phải đi bộ, nên pa tôi quyết định không đưa tôi ra bệnh viện huyện mà đến nhờ bà Sẳn. Tôi chỉ nhớ bà ta sờ nắn một lúc rồi bảo pa tôi vót vài cái nẹp tre. Bà tay lấy rất nhiều rau ngải cứu, sao lên rải xuống dưới chiếu bắt tôi nằm im trên đó. Khi tôi đã nằm im, bà bóp rất mạnh vào mạng sườn tôi đau khủng khiếp, rồi bà ta bảo pa buộc những cái nẹp tre kia vào người tôi. Thật kỳ lạ, tôi chỉ nằm có một đêm mà sáng hôm sau có thể ngồi dậy đi lại bình thường. Cũng chỉ nằm trên cái giường lót rau ngải cứu ấy có ba hôm là tôi hết đau và hai ngày sau là pa tôi đã tháo nẹp, xương tôi liền hoàn toàn. Từ hôm đó tôi đỡ sợ, thỉnh thoảng dong trâu qua trước cửa nhà bà ta, tôi chào và bà nhoẻn cười. Cười đấy nhưng khuôn mặt nhăn nhúm, bỏm bẻm nhai trầu vẫn toát lên sự bí ẩn đáng sợ. Có lần bà Sẳn nhờ mấy người trong bản đến sửa nhà. Pa tôi cũng được bà ấy nhờ tới, tất nhiên ai cũng sẵn lòng giúp, tôi cũng phải theo vì pa muốn tôi đi cùng. Cả buổi làm việc tôi thấy bà im lặng chỉ lúi húi nấu nướng trong nhà. Vì sợ nên tôi chỉ dám đứng ở sân, thỉnh thoảng đưa cái cưa, cái đục cho những người ở trên mái. Đến bữa trưa mọi người ngồi ăn ngay cái sàn gỗ trước cửa. Bà Sẳn vẫn im lặng đi lại rót rượu cho mọi người. Đang ăn uống bỗng pa bảo tôi vào nhà lấy nước. Dù rất sợ cái nhà tối om om ấy nhưng miễn cưỡng tôi phải vào. Mò mẫm mãi tôi cũng vào được bếp vớ lấy cái siêu nước đang sôi. Toan quay ra ngoài thì tôi nhìn thấy trên giá bếp có rất nhiều cái vòng được tết bằng những hạt gạo đỏ - thứ hạt mà tôi đã nhìn thấy trong khe núi. Lại vì tò mò, tôi đứng nhìn và nảy ra ý định lấy trộm một cái, ngay lúc đó tôi nghe tiếng động đằng sau. Bà Sẳn đứng đó từ bao giờ, nhìn tôi bằng con mắt lạnh lùng. Sợ quá tôi lủi luôn. Vài ngày sau, tôi đem chuyện những hạt gạo đỏ và cái miếu trong khe núi hỏi ông bác ruột. Chẳng cần suy nghĩ, bác tôi nói luôn: “Bùa thật đấy”. Rồi bác tôi nói thêm đó là cây “Khẩu phia” (gạo núi) mọc đầy trên núi, chúng rất độc, ăn vào chết luôn. Nhưng phải là người như bà Sẳn mới biết chế nó thành bùa. Loại bùa này rất công hiệu, cũng chỉ bà Sẳn mới biết cách giải bùa… Rồi bác tôi kết luận: Đại loại nó giống như thuốc phiện ấy, mới hút thì nhớ, hút nhiều thì nghiện, mà nghiện rồi làm sao dứt ra được. Còn thằng Thành bộ đội có bị bùa hay không làm sao tao biết được. Nó lấy con Nhình vì nó thích, con Nhình xấu bên ngoài nhưng bên trong ai mà biết. Giờ đây ngẫm lại, tôi thấy ông bác tôi đúng. Cái hạt gạo đỏ ấy có thể là chất liệu cho việc làm bùa bí ẩn của bà Sẳn, cũng có thể bà ta biết làm một loại thuốc dạng hướng thần theo kiểu thuốc phiện như bác tôi giải thích. Nhưng tôi khẳng định bà là lang y rất cừ vì mấy cái xương sườn gãy của tôi chỉ trong 6 ngày bà ta đã chữa khỏi. Bây giờ thì bà Sẳn đã về trời, ngôi nhà cũ kỹ của bà chỉ vương lại mấy viên đá. Còn cái khe núi đầy dây leo ngày nào giờ cũng không còn vì người bản tôi chặt phá. Cái miếu cũng vậy, mỏ nước cũng kiệt khô. Người bản tôi cũng chẳng nhớ đến bùa ngải. Họ đi xe máy ầm ầm, uống bia, chửi tục, xem phim Mỹ, nghe nhạc rock… hiện đại khủng khiếp! Các cô gái chẳng còn mấy ai mặc áo chàm, má ửng hồng, quẩy nước vào buổi sớm như xưa kia. Bây giờ họ cũng quần bò, áo phông, cũng son phấn, cũng nhuộm tóc, chẳng cô nào cần bùa ngải mà thanh niên dưới xuôi vẫn cứ xúm vào. Câu chuyện về bùa yêu đã mất hẳn trong những cái đầu bị nhiễm nền văn hóa khác. Nếu bà Sẳn có sống lại thì cái bùa bằng hạt gạo đỏ ấy cũng chẳng có tác dụng với những con người như thế. Tôi dám chắc như vậy. Và câu chuyện ở thành phố Gần đây tôi mắc vào một chuyện có thể nói là rất phiền toái. Cũng chỉ vì thích đùa khi người ta cứ hỏi mãi về chuyện bùa ngải. Có lần tôi nói khoác là biết làm bùa yêu. Rồi tôi kể một cách ly kỳ về những hạt gạo đỏ, về bà Sẳn bí ẩn, tôi bịa thêm việc bà ấy truyền cho tôi bí kíp làm bùa yêu. Thế là một cô bạn đã năn nỉ tôi làm giúp. Ban đầu cô ta không nói là muốn thả bùa ai, nhưng tôi bảo phải biết là ai tôi mới có cách làm. Hoá ra cô ta định bùa chính ông chồng mình, buồn cười quá! Cái cô bạn tội nghiệp của tôi, tốt nghiệp Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, làm thêm thạc sỹ về Tâm lý lại đi xin tôi bùa để quyến rũ chính chồng của mình. Cô thật tội nghiệp ! Và tôi có quyền nghi ngờ về cái gọi là kiến thức trong đầu cô. Cô muốn cứu vãn cuộc hôn nhân sắp đổ vỡ của mình. Chồng cô là một đại gia, không hiểu lý do gì gần đây anh ta muốn chia tay cô. Họ đã sống ly thân, anh ta cho vợ mỗi tháng chục triệu, để chi tiêu miễn là đừng làm phiền anh. Rồi hứa thêm nếu chấp nhận ly hôn sẽ chia cho cô nhiều tài sản. Cô bạn tôi đã suy sụp và không muốn mất đi cái danh phận vợ đại gia nên đã tin vào câu chuyện bịa của tôi. Mỗi lần gặp tôi, cô ta đều nhắc lại chuyện bùa yêu, có lần còn ngỏ ý xin trả một số tiền lớn. Tôi đã thú thật rằng, tôi không biết làm bùa yêu, đó chỉ là bịa đặt. Nhưng cô ta lại càng tin. Mỗi lần nói chuyện cô ấy mếu máo nói về tiền bạc, về tài sản, về danh phận… Và tôi thấy việc ông chồng muốn bỏ cũng rất có lý. Tôi tự hỏi, một người đàn bà xinh đẹp, có học thức tại sao lại có lối nghĩ thô thiển như vậy? Có bao giờ cô ấy tự hỏi, người chồng kia tại sao muốn ly hôn với mình? Cái gì đã làm cho anh ấy muốn thế? Cũng có thể cô ta có bằng cấp nhưng văn hóa thì không. Ở thành phố tôi thấy rất nhiều người như vậy. Tất nhiên, chẳng có bùa ngải nào giúp được cô ta cả. Ở thành phố bùa yêu mất thiêng - tôi giải thích với cô như thế! Đến đây tôi xin khẳng định: chẳng có bùa yêu huyền bí nào hết, chẳng ai làm được bùa yêu! Trừ khi chính trái tim chúng ta tạo ra nó và quyến rũ người khác. Tôi nghĩ cái cô Nhình xấu xí ở bản tôi là thế. Cô ấy đã tự làm ra một thứ bùa yêu kỳ lạ - thứ bùa yêu lung linh và lộng lẫy. Cô ấy đã thành công. Nhưng đó là câu chuyện của ngày xưa, của những ngày người bản tôi còn trong sáng, thuần khiết. Còn bây giờ cái bùa bằng hạt gạo đỏ đã theo bà Sẳn về trời rồi, nó đã vĩnh viễn mất đi. Chính chúng ta đã xua đuổi nó, chỉ còn lại vợ chồng anh Thành là kết quả minh chứng cho tình yêu đẹp, cho thứ bùa yêu được dệt bằng sự thổn thức của trái tim tinh khiết sơn nữ ngày nào. A Sáng (VieTimes)
  5. Nguồn: http://vietimes.vietnamnet.vn Nữ thầy mo và những bí mật về hôn nhân Thứ tư, 16/4/2008, 07:00 GMT+7 ... Việc trở thành nữ thầy mo cũng chẳng lạ gì với người Tày quê tôi. Tất nhiên, từ nay cuộc sống của họ sẽ hoàn toàn khác. Công việc của họ cũng phải khác, nhưng sẽ tốt hơn nếu nữ thầy mo ấy chưa lập gia đình. Và một điều chắc chắn hôn nhân của họ sẽ phải đổ vỡ, hình như nó là một quy luật, dù không có bất cứ quy định bắt buộc nào của thần linh… Trong cuộc sống tinh thần của người Tày, thầy tào ở đẳng cấp cao nhất, tiếp sau là thầy mo. Hai đẳng cấp này đều có khả năng giao tiếp với thế giới thần linh. Nhưng với thầy mo chỉ có một nhãn thần được khai mở, vì thế chưa đủ khả năng hướng dẫn thần linh. Họ chỉ đủ khả năng cầu khấn, hiểu một cách khác, họ chỉ biết cách đề nghị trước thế giới thần linh. Chính vì điều đó, đẳng cấp thầy mo, người quê tôi vẫn thường gọi bà bụt, phần lớn thuộc phái nữ. Người đàn bà và con chim - Tranh: A Sáng Những người phụ nữ trở thành thầy mo không trải qua quá trình học nghề, có thể một lúc nào đó “Dia Hoa” (bà bụt) xuất hiện, trao cho họ một nhãn thần và họ trở thành nữ thầy mo. Điều này cũng chẳng liên quan đến tuổi tác: họ có thể là một cô bé, cũng có thể là một bà già… Nói chung, không thể biết bà bụt xuất hiện lúc nào, ở đâu, trao cho ai cái quyền linh thiêng đó. Hồi còn bé, tôi đã từng chứng kiến sự xuất hiện nhãn thần với chính bà chị họ của tôi. Đó là một sơn nữ rất đẹp, con gái cưng của anh trai pa tôi. Chị ấy là niềm khát khao của biết bao trai bản. TIN LIÊN QUAN Ngơ ngác vầng trăng nơi phố xá (Phần II) Ngơ ngác vầng trăng nơi phố xá! Băng tuyết: Bi kịch của nỗi đau và... vẻ đẹp Không chỉ "bướm đêm" giả trang mà "sơn ca" cũng thế! Những "loài bướm đêm" giả trang! Bí mật của cuộc - đời - buổi - sáng “Bùa yêu hay chỉ là thuốc phiện?” - Tự thuật của một người Tày... Lấy chồng được hai năm, chị sinh một cháu trai kháu khỉnh, cuộc sống của chị vẫn diễn ra bình thường như bao người khác. Thế rồi vào một đêm tháng giêng rét buốt, cả cái bản Pác Thay của tôi ầm ầm như núi lở. Người trong bản thi nhau thắp đuốc, đổ về hang Ngườm Vài. Tôi cũng theo họ đến đó, người trong bản đã tụ tập rất đông, đèn đuốc sáng rực, họ quỳ xuống khấn vái và hát những câu bùa chú của người Tày. Ở giữa hang chị họ tôi đang nhảy múa. Lúc này trông chị tôi thật đáng sợ, tóc chị rối mù, hai mắt mở trừng trừng, trắng dã, miệng luôn gào thét điều gì đó, và đặc biệt chị tôi chỉ di chuyển bằng năm đầu ngón chân như diễn viên múa ba lê vậy. Mé tôi thì thào: “Te Leeng luồng phụt da né…” (Cái Leeng bị bụt nhập rồi). Người trong bản, sau khi thấy chị họ tôi ngồi xuống mắt nhắm nghiền lại thì lập tức vác đến một bó gai găng. Những cây gai sắc nhọn ấy nhanh chóng được xếp lại như một cái ghế. Thế rồi mé tôi tiến lại phía chị nói gì đó, chị từ từ mở mắt, thản nhiên đi đến cái ghế được làm bằng vô vàn những cây gai sắc nhọn kia và ngồi xuống. Không những ngồi xuống, chị còn bắt đầu đu đưa và ca hát. Cho đến bây giờ tôi vẫn không thể quên được hình ảnh kì dị đó. Chị họ tôi ngồi hát và đu đưa trên cái “ghế” chết người đó chừng một tiếng đồng hồ thì đứng dậy, chạy như có ai đuổi và cũng chỉ chạy bằng năm đầu ngón chân. Đá núi, gai nhọn hình như không làm chị đau đớn, chị cứ thế chạy, người trong bản cứ thế đuổi theo, cho đến dưới một gốc cây bưởi, chị tôi giật lấy một nắm lá rồi ăn ngấu nghiến. Một lát sau chị tôi sùi bọt mép và ngất xỉu. Bấy giờ người bản tôi mới bảo anh Bường - chồng chị - cõng về nhà. Tôi nhớ rất rõ khuôn mặt sợ hãi của anh Bường lúc ấy, cả đứa con trai hai tuổi kia nữa. Anh rể tôi vừa khóc vừa cõng chị về, còn thằng bé, nó gào lên sợ hãi. Rất nhiều ngày sau, chị Leeng nằm liệt giường, mê sảng cho đến một buổi chiều chị ngồi dậy, tự mình thắp hương rồi hát những bài ca thần bí. Người trong bản bảo, chị tôi đã trở thành “mé Pụt” (nữ thầy mo). Việc trở thành nữ thầy mo cũng chẳng lạ gì với người Tày quê tôi. Tất nhiên, từ nay cuộc sống của họ sẽ hoàn toàn khác. Công việc của họ cũng phải khác, nhưng sẽ tốt hơn nếu nữ thầy mo ấy chưa lập gia đình. Và một điều chắc chắn hôn nhân của họ sẽ phải đổ vỡ, hình như nó là một quy luật, dù không có bất cứ quy định bắt buộc nào của thần linh. Từ ngày trở thành thầy mo, chị tôi phải đi lễ rất nhiều, người trong vùng luôn mời những nữ thầy mo đến làm lễ cho họ, những cái lễ linh thiêng: đầy tháng tuổi cho trẻ sơ sinh, rước cô dâu mới về nhà, dựng miếu mạo, chặt hạ cây cổ thụ, dựng nhà mới… Tất cả những công việc ấy người Tày đều cần thầy mo cầu khấn trước thần linh. Vì thế chị tôi đi tối ngày và cũng chỉ sau một năm anh Bường - chồng chị - quyết định ly hôn. Tôi nhớ, anh Bường gom tất cả chăn màn, quần áo, đồ nữ trang của chị tôi vào cái rương gỗ rồi cùng em trai gánh về trả lại nhà bác tôi. Như thế với người Tày chính là một hình thức ly hôn. Còn đứa con, sau rất nhiều lần bàn thảo, chị tôi được quyền nuôi nó và gửi về cho bác tôi chăm sóc. Có một cái gì đó đã diễn ra sau ngày trở thành thầy mo tệ hại đó. Nhưng ngày ấy tôi còn bé nên không biết gì, tôi chỉ thấy các sơn nữ bản tôi và nhiều sơn nữ khác rất sợ bà bụt chọn mình làm thầy mo, câu cửa miệng của họ khi muốn mắng mỏ ai đó đều là: “Mầu luồng Pụt né…”(Mày bị bụt nhập à?). Việc trở thành nữ thầy mo chẳng vinh dự gì ngoài sự sợ hãi, nhưng chẳng ai biết lúc nào mình trở thành thầy mo, vì thế nó luôn ám ảnh những sơn nữ quê tôi. Họ rất sợ điều đó! Sau này, khi tôi làm phóng viên cho tờ báo địa phương, rất nhiều lần tôi trở về quê và chứng kiến chị tôi làm lễ. Cuộc sống thầy mo đã làm chị tôi khác đi rất nhiều. Và cuộc hôn nhân của chị với anh Bường ngày nào vẫn luôn ám ảnh tôi. Đã vài lần tôi gợi ý trò chuyện cùng chị nhưng chị đều né tránh, chị chỉ cười và nói: “… Người ta bỏ chị chứ chị có bỏ đâu, nhưng làm bụt thì ai dám lấy…”. Rồi chị im lặng, trong đôi mắt thâm quầng vì phải thức đêm ứa ra nước mắt, tôi biết chị rất cô đơn. Cuộc sống vật chất của chị không vất vả gì, đặc biệt bây giờ người Tày cũng không trả lễ chị bằng gạo nếp, gà thiến mà họ cũng “thương mại hoá” bằng cách trả tiền cho bà bụt, tất nhiên chẳng nhiều nhặn gì, nhưng với thu nhập ấy, chị và đứa con đủ sống một cách khá dư dả. Ngay cả đứa con trai chị, nó đã lớn và trở thành trai bản, nhưng nó cũng không thích nhắc đến mé nó. Có một rào cản mơ hồ nào đó giữa chị tôi và nó. Chẳng bao giờ nó kể về mé nó, nếu không muốn nói nó xa lánh chị. Một lần tôi gặp lại anh Bường ở trụ sở UBND xã, anh ấy bây giờ làm cán bộ địa chính xã và đã có gia đình mới. Gặp tôi, anh rất mừng. Với anh ấy, gia đình tôi vẫn là chỗ thân thiết vì anh thường qua lại để thăm con trai. Trong bữa cơm, tôi đã gợi ý anh kể về những ngày tháng chị tôi trở thành thầy mo. Ban đầu anh Bường cũng né tránh, nhưng sau rất nhiều lần gợi ý, cùng hơi rượu ngà ngà, anh Bường đã kể câu chuyện bí ẩn ấy. Anh kể: Những ngày đầu khi mới thành thầy mo, chị tôi vẫn bình thường, chỉ thỉnh thoảng phải vắng nhà vì đi làm lễ xa. Nhưng dần dần anh thấy chị có cái gì đó rất khác trong người, đặc biệt là chuyện ân ái, chị ấy rất sợ gần gũi chồng. Chị thường lỉnh đi ngủ riêng, hoặc chờ chồng ngủ thật say mới vào giường. Có lần không từ chối được chị phải chấp nhận nhưng… Kể đến đây anh Bường tu thêm bát rượu, nuốt ực một cái. Tôi có cảm giác cổ họng anh đang khô khốc, hai con mắt đỏ ngầu và rơm rớm nước mắt. Anh ngập ngừng rồi kể tiếp: Chị ấy nằm cứng đơ, hai mắt mở trừng trừng, và kêu đau đớn. Ân ái xong, anh Bường sợ hãi thấy máu chảy khắp giường, máu chảy không chịu ngừng dù anh chị đã làm hết cách… Giấc mơ - Tranh: A Sáng Anh Bường ngừng kể, tu thêm hơi rượu nữa, lần này tôi thấy cổ họng anh như đã cháy, anh nhìn tôi nói đau đớn: “Cậu biết không, đêm ấy anh chị dùng cả cái màn băng lại máu của chị ấy mới cầm được…”. Cũng từ bữa đó, chị tìm cách xa lánh anh, tất nhiên chỉ duy nhất chuyện ấy mà thôi. Chị năng đi lễ hơn, đi dài ngày, tìm mọi cách để tránh chuyện đó. Chị biết anh buồn nên tìm cách bù đắp bằng việc chăm sóc, hay những việc khác, nhưng cứ mỗi lần gần gũi nhau chị lại sợ hãi, lại đau đớn, lại chảy máu. Chị không thể thực hiện được việc đó. Thế rồi anh chị đưa nhau đi khám ở bệnh viện tỉnh, bác sĩ nói anh chị chẳng việc gì cả, rất bình thường. Khi nghe chị kể về việc hãi hùng đó, bác sĩ cũng cho vài viên thuốc đông máu, nhưng sự việc chẳng khá gì hơn, máu vẫn chảy và mỗi lúc một nhiều. Cuối cùng, vì không thể chịu được, anh đã quyết định ly hôn. Anh Bường lại uống, cổ họng hình như vẫn cháy khô, anh nhìn tôi rồi nói: “…Thực ra chị cậu là người tốt, anh không có gì chê trách chị ấy, chỉ có cái gì đó rất bí ẩn từ ngày bị Luồng Pụt (Bụt nhập), anh sợ nên bỏ chị thôi…”. Anh lại uống, rồi say, nói lảm nhảm gì đó nữa, tôi không nhớ và cũng chẳng thể tin câu chuyện này. Tôi rất muốn tìm đến chị Leeng - bà thầy mo Leeng - để hỏi cho ra nhẽ, để kiểm chứng sự thật này, nhưng tôi cũng biết sẽ chẳng bao giờ chị tôi chịu kể. Hình như khi đã trở thành nữ thầy mo tất cả sơn nữ phải chịu một hình phạt nào đó thì phải. Ở vùng quê tôi, không chỉ riêng chị họ tôi sống cô độc khi trở thành thầy mo, rất nhiều nữ thầy mo khác cũng sống độc thân. Có những người trở thành thầy mo trước khi có gia đình và chẳng bao giờ họ lấy chồng nữa, cũng có những người lấy chồng, nhưng hôn nhân của họ chẳng được bao lâu. Tất cả những người đàn ông đến với họ đều bí ẩn ra đi. Có lẽ câu chuyện của anh Bường là sự thật, mà việc gì anh ấy phải bịa ra để kể với tôi. Cũng không thể vì say rượu mà nói nhảm, cứ nhìn đôi mắt đỏ ngầu và ngấn nước mắt ấy, tôi biết anh không nói dối, người như anh Bường không thể biết nói dối! Vậy đó là cái gì? Cho đến bây giờ vẫn chẳng ai lý giải được. Chỉ việc các nữ thầy mo thường sống cô độc là có thực mà thôi. Chị Leeng của tôi là một người như thế. Sau lần gặp anh Bường, tôi đã hỏi rất kỹ về chuyện trở thành thầy mo với mé tôi. Và được bà giải thích: Những người bị Luồng Pụt thường là Minh nấy (Vía nhẹ), họ bị Gia Hoa (bà Bụt) lựa chọn cũng chính vì cái vía nhẹ ấy. Khi bụt nhập, người ta phải xua đuổi bằng gai găng, nếu ai ngồi lên gai găng cảm thấy đau đớn và chảy máu thì con như bụt không nhập được, còn ai vẫn cứ đu đưa và hát thì bụt không chịu đi, sau đó họ tự ăn lá bưởi rồi ngất đi thì sẽ trở thành bụt. Họ bước trên năm đầu ngón chân là do bụt ở trong người - thần linh bước đi gót chân không bao giờ chạm đất… Còn việc chảy máu khi gần gũi chồng chẳng thấy ai nói thế bao giờ, nhưng các bà thầy mo thường không có chồng, người ta vẫn sợ khi lấy các bà thầy mo vì có thần linh trong người. Mé tôi cũng chỉ giải thích một cách chung chung như thế, tất cả vẫn bí ẩn và câu chuyện của chị tôi cũng bí ẩn như thế. Nhưng dù thế nào đi nữa, chị họ tôi vẫn là một nữ thầy mo - một đẳng cấp cao trong thế giới tinh thần của người Tày. Và hằng đêm chị tôi vẫn hát lên những bài ca thần bí, vẫn cầu khấn trước thần linh những điều tốt đẹp đến với mọi người. Chị không thể thiếu trong cuộc sống tinh thần của con người quê tôi. Sau những buổi hành lễ linh thiêng ấy, chị tôi lại phải trở về với cuộc sống cô độc của mình. Cũng phải thôi vì thần linh đã chọn chị và chị đâu còn là một người bình thường nữa... A Sáng (Vietimes)
  6. Nguồn: http://www.tienphong.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=112998 Thứ Bảy, 01/03/2008, 15:57 Quảng Trị: Bệnh lạ ở trường phổ thông dân tộc nội trú Đakrông TP - Từ ngày 10/2 đến nay, có 36 nữ học sinh thuộc các khối 6,7, 8, 9 ở trường phổ thông DTNT huyện (đóng tại Làng Cát, thị trấn Krông Krang) bỗng dưng mắc căn bệnh lạ. Đặc biệt các em rất sợ màu đỏ. Chiều 29/2, thầy giáo Mai Huy Phương-Trưởng phòng Giáo dục-Đào tạo huyện Đakrông cho biết: Từ ngày 10/2 đến nay, có 36 nữ học sinh thuộc các khối 6,7, 8, 9 ở trường phổ thông DTNT huyện (đóng tại Làng Cát, thị trấn Krông Krang) bỗng dưng mắc căn bệnh lạ. Các em đang ngồi học thì đột nhiên lên cơn la hét thất thanh rồi nhảy tót lên bàn đứng kêu rên khó thở, nhức đầu, nóng bụng và khua chân múa tay, đấm đá nhau túi bụi, sau đó bỏ chạy tứ tung như người mất hồn. Đặc biệt các em rất sợ màu đỏ. Các bác sĩ ở Trung tâm Y tế huyện Đakrông hiện vẫn chưa xác định được nguyên nhân gây nên căn bệnh lạ lùng này. Hữu Thành
  7. Nguồn:http://www.tinvietonline.com Xây trường trên bãi tha ma, học sinh gặp ác mộng - Mấy ngày qua, hàng trăm học sinh trường tiểu học Kohari cùng các bậc phụ huynh đã tụ tập trước tòa thị chính bang Bihar, yêu cầu chính quyền di rời ngay lập tức ngôi trường ra khỏi bãi nghĩa địa Hồi giáo. Vì vị trí “đắc địa” này mà bọn trẻ con đêm nào cũng mơ thấy ma quỷ. “Cháu phải bỏ học cả tháng nay vì đêm nào cháu cũng mơ thấy có người chết từ dưới mộ đi lên, nhắc nhở sáng mai phải đi học đúng giờ” - cậu bé 6 tuổi Raqib Ansari kể với phóng viên bằng giọng chưa nguôi sợ hãi. Vài năm trước, do không được chính quyền cấp đất xây dựng nên ngôi trường tiểu học ở làng Kohari buộc phải tạm bợ mọc lên trên bãi tha ma thành phố - đến nay, nó là nơi học tập của hơn 200 trẻ em quanh vùng. Một phụ huynh tên Riyazuddin Ansari cho biết: “Bọn trẻ thường xuyên cùng nhau ôn bài, nô nghịch quanh các ngôi mộ, thậm chí chúng còn chui cả vào các lăng mộ lát đá sạch đẹp ngồi ăn trưa”. Những giấc mộng mị ma quái ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe và đời sống tinh thần của đám trẻ nhỏ. “Tuy nhiên chúng tôi không còn chọn lựa nào khác. Ngôi trường khác gần nhất cũng phải mất 4 giờ đồng hồ mới tới nơi”. Được biết trong nghĩa trang hiện giờ có hơn một trăm ngôi mộ xây đắp hoành chỉnh, chưa kể những nấm mồ vừa mới chôn cất còn chưa kịp xanh cỏ và một danh sách dài những người “đặt chỗ” trước. Trước tình trạng này, chính quyền bang Bihar hứa hẹn sẽ cấp đất để xây trường mới. “Có lẽ người chết không thích sự ồn ào do bọn trẻ gây ra. Chúng tôi sẽ tiếp tục điều tra sự việc này” - Ram Yash Singh, một quan chức Hội đồng làng Kohari khẳng định. -Hải MinhTheo Reuters-
  8. Nguồn: http://cand.com.vn/vi-VN/xahoi/2008/4/89155.cand Đua nhau đi chữa bệnh… âm 3:55, 15/04/2008 "Bác sỹ nhà trời" đang khấn chữa "bệnh âm". Đơn chữa bệnh ma hành của thầy lang L.H.D. (xã Hương Bình, Hương Khê, Hà Tĩnh) cũng rất đặc biệt: 10h đêm phải ăn lòng đào hai quả trứng gà, cũng thời điểm đó người nhà phải làm thuốc, cộng với bài khấn loằng ngoằng. Nhưng thuốc đó làm xong thì 4h sáng hôm sau mới được uống. Với cách chữa bệnh lạ đời ấy không hiểu vì sao vẫn có hàng chục người đến khám bệnh mỗi ngày. Điều lạ hơn nữa là chính quyền địa phương tới nay vẫn chưa có biện pháp nào xử lý với thầy D. Nghe lời đồn thổi của nhiều người về một "thầy" ở Hà Tây có thể chữa được những bệnh mà "y học bó tay", chúng tôi có mặt ở nhà thầy ở ngoại thành Hà Đông - Hà Tây. Mới 9h sáng nhưng đã có khoảng 20 bệnh nhân đứng lố nhố chờ thầy ngủ dậy. Đa số các bệnh nhân bị các bệnh như: Ung thư, thần kinh tọa, tim… đều "đi khám" bằng... hương vàng, hoa quả. Hơn 10h sáng, thầy T., trạc 40 tuổi, da mái, tóc bết, mắt hơi hiếng, mặc chiếc áo dạ sù sụ, mắt nhắm mắt mở ra nhìn đám bệnh nhân rồi chép miệng: "Mấy người này ám khí nặng lắm, may mà đến thầy sớm không thì âm nó hành cho đến chết"... Bệnh trời ơi, đất hỡi! Người được khám đầu tiên là một chị tên Thanh ngoài 40 tuổi, với lời khai: "Em thường xuyên đau đầu và đau bên ngực trái". Khi chị thắp hương lạy như tế sao xong thầy gật gù, suy nghĩ một lúc rồi phán: "Thực ra bệnh của cô là từ quá khứ mà ra. Là do sinh ra nhưng không dưỡng, nghĩa là hồi trẻ cô có thai nhưng không để sinh mà bỏ đi. Bây giờ chúng quay về hành mẹ nó đấy!". Chị Thanh ngồi thần ra rồi gật đầu. Thầy vừa nói vừa kéo chị lại gần, ra vẻ bí hiểm: "Đứa bé này theo cô từ mới lọt lòng, thiêng lắm. Cô không biết lỗi mà thờ cúng, dâng lễ, nên nó giận, nó phá, yểm bệnh từ cơ quan trung ương yểm ra, từ não đến tim... Nếu cô không kịp thời tạ, thì bệnh sẽ phát ra ngoài da, phù nề...". Chị Thanh nghe xong hãi lắm, một mực nhờ thầy giải hộ, hết bao nhiêu tiền không thành vấn đề. Người tiếp theo được vào yết kiến thầy là chị Hoa, có anh là Nguyễn Bá Dũng (30 tuổi, ở Đông Hưng, Thái Bình) hết nhập viện Bạch Mai, Xanh Pôn, E nhưng chưa tìm ra bệnh. Các hội chẩn đều nói chung chung: "Có khả năng bị viêm dây thần kinh liên sườn". Hơn một tháng trời điều trị mà bệnh vẫn không thuyên giảm. Khi được chị Hoa kể về bệnh tình của anh mình, thầy chỉ tay ra vườn bắt đặt đủ lễ ở các nơi có bát hương. Rồi thầy khấn vanh vách: "Người này bị cô Ba theo suốt, lại hay chế giễu Thánh, Mẫu phải không? Thánh phạt nên hành ghê lắm, suýt mất mạng đấy. May mà tìm đến thầy sớm". Đoạn rồi thầy rỉ rả bắt chị "ra" lễ giải hạn, gồm nhiều thứ, trong đó phải đủ 150 triệu đồng tiền âm phủ, 1 triệu đồng tiền thật. Sau khi giải hạn, thầy phán: "Tuần sau ra viện, an toàn, khỏe mạnh". Ai thì không biết chứ riêng anh Dũng tôi biết rõ rằng, sau khi mất gần 5 triệu tiền "chữa bệnh âm" đến nay bệnh vẫn không thuyên giảm. Còn thầy T. cách đây 3 năm còn là một tay xe ôm ở chợ Hà Đông, sau một lần uống rượu về cảm gió nằm li bì 1 tuần liền khi tỉnh dậy mắt hơi bị hiếng, ăn nói lung tung, tự xưng là danh y chữa được bách bệnh. Những người hàng xóm của thầy T. cho biết hầu hết người đến chữa bệnh là từ tỉnh xa về. Còn dân trong làng, trong xã chẳng có ai đến nhà thầy để mà chữa bệnh cả. Chữa bệnh "độc chiêu" Nhưng so với thầy H. ở ngay cạnh ga Cẩm Giàng, Hải Dương thì tay nghề còn một trời một vực. Thầy (thực ra là một phụ nữ đẫy đà ngoài 40 tuổi) đặc biệt hơn ở chỗ ngoài chữa bệnh thông thường của cơ thể, thầy còn chữa được một số bệnh xã hội như: "Bệnh" đánh vợ, "bệnh" rượu chè, cờ bạc, "bệnh" nghiện hút và cả "bệnh" ngoại tình... Cũng có lẽ vì những ngón "đặc biệt" như vậy nên sân nhà thầy rất đông khách, mới 7h sáng mà đã có 30-40 người xếp hàng ngồi chờ. Sau khi khấn vái, thầy gọi chị Lan Hương (ngõ Thổ Quan, Đống Đa, Hà Nội) nói: "Chồng cô không phải là người lăng nhăng, cũng có người phụ nữ tóc vàng, tóc xanh dụ dỗ nó đấy nhưng nó không theo. Nó bị nhiễm bệnh cờ bạc thôi, ngấm vào máu rồi. Đấy là do vợ chồng cô không hương khói cẩn thận, nên cô Chín xui đi đấy, lắm đêm còn giữ lại không cho về nhà". Cách chữa bệnh cũng kì quái: "Cô phải chuẩn bị lấy của chồng cô 7 sợi tóc, 1 cái áo, 1 cỗ tú-lơ-khơ, 1 cỗ tổ tôm, một mâm lễ thánh và 1,5 triệu đồng xuống đây vào ngày rằm tôi sẽ chữa cho chồng cô". Nhiều người cho biết: "Hàng xóm láng giềng ở đây chẳng ai tin, vì biết tỏng đó chỉ là trò lừa bịp. Nếu giỏi sao thầy không tự chữa bệnh cho mình, nghe đâu chồng thầy ngoại tình rồi bỏ thầy, bản thân thầy cách đây 6 tháng còn bị một trận thập tử nhất sinh, phải nằm viện cả tháng trời". "Loạn" bác sỹ âm! Thời gian gần đây khắp các tỉnh miền Bắc xuất hiện nhiều người tự xưng là "thầy thuốc", "người nhà trời"… chuyên chữa trị "bệnh âm" mà bản chất chỉ là trò lừa đảo. Mới đây chính quyền xã Hưng Khánh, huyện Trấn Yên (Yên Bái) vừa xử lý trường hợp bà Đỗ Thị Huệ. Bà Huệ tự mệnh danh là "bác sỹ nhà trời", đã khám chữa bệnh thu tiền cho nhiều người. "Đơn thuốc" của bà Huệ là một tờ giấy kích thước 8x10cm trong có ghi: "Thuốc há mồm 3 giây/lần vào lúc 8h sáng, 2h, 4h chiều. Vừa uống vừa xoa tay vào vùng đau". Giữa tờ giấy có ghi Đỗ Thị Huệ. Mặt sau tờ giấy ghi: "Mỗi lần uống khấn: Con lạy các bác sỹ nhà trời cho con uống thuốc ạ!". Nhận được thông tin này, UBND xã Hưng Khánh đã gọi bà Huệ lên nhắc nhở và yêu cầu bà không được khám chữa bệnh trái phép, nhưng bà Huệ vẫn tiếp tục hành nghề. Còn tại Hà Tĩnh đang xôn xao về một ông thầy có loại thuốc "đuổi được ma ám". Chỉ cần mang một cái áo, miễn là có mùi mồ hôi người bệnh là ông ta có cách trị "ma". Đó là thầy lang L.H.D. (xã Hương Bình, Hương Khê, Hà Tĩnh). Khi khách đến khám thầy trải chiếc áo lên bàn, cầm hai que hương, thầy múa rất điêu luyện, vừa múa vừa lẩm bẩm cái gì đó không ai có thể nghe được. Múa xong, thầy miết hai quả trứng khắp cái áo sau đó đập chúng ra một cái đĩa bên cạnh. Cầm kính lúp soi rất tỉ mỉ khắp áo rồi lại chuyển sang soi đĩa trứng. Sau đó thầy sẽ phán bệnh bốc thuốc. Đơn chữa bệnh ma hành của thầy cũng rất đặc biệt: 10h đêm phải ăn lòng đào hai quả trứng gà, cũng thời điểm đó người nhà phải làm thuốc, cộng với bài khấn loằng ngoằng. Nhưng thuốc đó làm xong thì 4h sáng hôm sau mới được uống. Với cách chữa bệnh lạ đời ấy không hiểu vì sao vẫn có hàng chục người đến khám bệnh mỗi ngày. Điều lạ hơn nữa là chính quyền địa phương tới nay vẫn chưa có biện pháp nào xử lý với thầy D. Những cách chữa "bệnh âm" chỉ là những trò lừa bịp đánh vào thói mê tín của nhiều người thiếu hiểu biết. Hy vọng bài viết này sẽ cảnh tỉnh cho những ai có ý định đi vái thầy chữa bệnh kiểu này... Huy Kiên
  9. Bài sưu tầm: Thuật phong thủy và thị trường chứng khoán năm Tý Thứ bảy, 16/02/2008 Liệu thị trường chứng khoán năm Tý có khởi sắc? Reuters Gạt những đồ thị bảng biểu và dự đoán của các chuyên gia kinh tế sang một bên, các nhà đầu tư tại Châu Á đang dựa vào các thầy phong thủy để tiên đoán hướng phát triển của thị trường trong năm Tý. Theo dự đoán của nhiều thầy phong thủy, năm 2008 sẽ chứng kiến một thị trường chứng khoán ảm đạm. Đây là tin không mấy tốt lành đối với những người vẫn trông chờ điều tươi sáng hơn sau những phiên sụt giảm liên tục của thị trường chứng khoán, đặc biệt giữa những mối lo ngại về nền kinh tế Mỹ. “Con chuột sẽ rất hung hăng vào cuối năm và yếu tố nước ẩn chứa trong nó sẽ hạ cơn sốt thị trường chứng khoán”, Vincent Koh, thầy phong thủy tại Trung tâm Phong Thủy Singapore phán. Tại Hongkong và Singapore, giới doanh nhân sùng bái thuật phong thủy tới nỗi các công ty hỏi ý kiến chuyên gia phong thủy trước khi tiến hành bất cứ việc gì từ lập chiến lược kinh doanh đến thiết kế nội thất cho văn phòng. Hãng giải trí danh tiếng Disneyland từng cho xây lại cổng chính dẫn vào công viên Disneyland tại Hongkong sau khi nghe tư vấn của một thầy phong thủy. Công ty môi giới chứng khoán CLSA tại Singapore cũng phát cho mỗi khách hàng một tờ ghi nhớ trong đó tiên đoán thị trường chứng khoán sẽ tăng trong khoảng từ tháng 5 đến tháng 8 và đồng Đô la vẫn không thoát khỏi sự yếu thế. Lời khuyên ghi trong tờ thông báo là: “Hãy cẩn thận với khoản đầu cơ của bạn, đặc biệt là vào quý ba.” Raymond Lo, một thầy phong thủy nổi tiếng tại Hongkong chuyên xem tướng số cho các công ty cho rằng những ngành có liên quan đến đất và kim loại sẽ phát đạt trong năm Tý. “Chuột là biểu tượng của tiền đối với các ngành liên quan đến mặt đất. Yếu tố nước mạnh mẽ trong năm Tý ám chỉ hiệu quả và nhiều hoạt động sôi nổi trong các ngành luyện kim”, thầy Lo nói, không quên nhắc các nhà đầu tư rót tiền vào bất động sản, ngành khai khoáng và thị trường vàng. Thầy Koh dự đoán thị trường chứng khoán năm nay sẽ chững lại và có nhiều điều chỉnh vì những yếu tố đất và nước mạnh mẽ trong năm Tý, lấn át yếu tố lửa có ảnh hưởng tới cổ phiếu. Trong bối cảnh thị trường chứng khoán từ Nhật tới Mỹ đang có chiều hướng sụt giảm kể từ đầu năm bởi mối lo ngại suy thoái kinh tế toàn cầu, những người đa nghi có thể cãi rằng chẳng cần có thầy phong thủy cũng đoán trước được hướng đi của thị trường. Tuy nhiên, thầy phong thủy người Malaysia Yap Boh Chu tỏ ra lạc quan khi cho rằng thị trường khu vực Đông Nam Á sẽ ổn định trở lại sau sự khởi đầu không mấy xuôi chòe mát mái. “Nhìn chung, bức tranh thị trường chứng khoán năm nay giống hình ảnh hạt cây nảy mầm từ đất, ban đầu sẽ có những khó khăn.” Lim, nhân viên của Công ty môi giới Singapore thường mời thầy phong thủy về xem sự nghiệp đầu mỗi năm âm lịch. Phòng làm việc của ông được trang trí bằng những bức tượng bò với hy vọng sẽ kiếm được bộn tiền từ thị trường chứng khoán. Dẫu vậy, ông Lim vẫn phải chịu thiệt hại khi chỉ số Straits Times của Singapore sụt giảm 15% kể từ đầu năm nay. “Tôi không thể nói chắc chắn về việc thuật phong thủy có giúp ích cho việc làm ăn kinh doanh hay không. Khi toàn bộ thị trường có vấn đề, khó tránh được việc mất tiền.” Terence Tea, tổng giám đốc công ty tái chế đồng Advance SCT, cũng cho mời thầy phong thủy về xem bản thiết kế công ty trước khi tiến hành xây dựng công sở, nhà xưởng và các cơ sở khác. Mặc dù là người sùng bái thuật phong thủy, ông Tea vẫn khẳng định rằng sự giàu có và thành công của ông không nhờ hoàn toàn vào thuật phong thủy. “Tôi nghĩ thuật phong thủy giúp cho việc kinh doanh của tôi, nhưng làm việc chăm chỉ mới là yếu tố căn bản.” Rất nhiều ý kiến hoài nghi về việc thuật phong thủy và những phương thức bói toán khác có thể mang lại sự giàu sang cho tín chủ. Ngay cả đối với công ty CLSA đã nói ở trên, mọi việc đều có giới hạn. “Tiếc là thuật phong thủy cũng chẳng giúp chúng tôi biết được đội vô địch Euro 2008 hoặc ai sẽ là vị tổng thống tiếp theo của nước Mỹ”, CLSA nói.
  10. Gần đây, Phoenix khi đọc qua mấy diễn đàn bàn luận về chứng khoán có gặp một lời xuýt xoa là "giá mà mời được chú Thiên Sứ" tham gia diễn dàn để luận đoán về thị trường chứng khoán thì tuyệt vời". :lol: Nếu công ty CLSA biết tiếng Việt và thực sự quan tâm đến VHPD thì họ có một cơ hội lớn ở đây. Nhưng không dễ gì mà giá trị văn hiến Việt Cổ lại phục vụ túi tiền của mấy doanh nhân chỉ tin học thuật cổ khi thấy tiền chảy vào túi họ. Chắc họ còn chưa đủ duyên để mà gặp. :lol:
  11. (tiếp) Diện kiến thầy bùa…. Bùa yêu bắt phải yêu khi không có tình yêu, bắt căm ghét khi đang là kẻ si tình, chia cắt những cặp tình nhân cuồng say, tạo nên những cuộc tình tay ba tay tư đầy rắc rối, hận thù… Tất cả những tình huống đó đều nằm trong “tầm tay” của những tấm bùa yêu như lâu nay dân tình nhiều nơi vẫn truyền nhau câu chuyện li kỳ hư hư thực thực xung quanh nó. Song thật giả thế nào thì chưa mấy ai dám quả quyết... “Bảo bối” giữ tình yêu Người chúng tôi cần tìm là một cụ già người dân tộc Mường vừa bước qua tuổi thất thập đang sinh sống tại khu 19 Mai Thịnh, xã Địch Quả (Thanh Sơn - Phú Thọ). Qua thông tin của một số người quen và dân bản xứ, được biết, ông Hà Văn Bày hiện là một trong số ít những người có thể thả bùa yêu hoặc cắt tiền duyên rất uy tín. Tuy nhiên, để tiếp cận được một “nghệ nhân tình cảm” nhằm tìm hiểu những thông tin tối thiểu về lĩnh vực mang đầy tính thần thoại, mê tín này là chuyện không hề dễ. Chúng tôi đã phải đóng vai người bạn đi giúp một nữ đồng nghiệp trong cơ quan tìm người có thể khiến cho anh chồng của cô rời xa ả nhân tình mà quay về với vợ con. Và người cần tìm đích thị là thầy bùa Hà Văn Bày. Thầy bùa Hà Văn Bày. Vượt qua thị trấn Thanh Sơn (hay còn gọi là Phố Vàng) chừng 10km là đến địa phận xã Địch Quả. Mặc dù đã biết tên người và nơi cần tìm nhưng việc hỏi địa chỉ chính xác lại không phải chuyện dễ. Hỏi mười người thì có đến một nửa lắc đầu không biết, số còn lại thì nhìn chúng tôi chằm chặp một cách khó hiểu rồi hỏi lại mục đích của chúng tôi. Tìm mãi rồi cũng đến được một căn nhà vách đất lợp mái cỏ tranh đã mục nát mái. Ông chủ nhà vừa phe phẩy chiếc quạt lá cọ vừa móm mém nhai ra đón chúng tôi. “Vâng, tôi Bày đây. Các anh đến chơi hay có việc gì không?”. Đợi cụ chủ nhà đưa cái ống điếu thuốc lào lên cao rít sòng sọc, thả làn khói bạc dày đặc lên mái nhà chúng tôi mới trình bày cho ông nghe câu chuyện bi đát của cô đồng nghiệp ảo. “Suốt ba năm nay rồi bác ạ, cô bạn cùng cơ quan tôi đã biết chồng ngoại tình nhưng nhẫn nhịn mong giải thích cho chồng hiểu mà về. Không những anh chồng không nghe mà còn say sưa, mê mệt hơn đến mức khuân dần hết hết đồ đạc, tài sản, tiền nong đi cho tình nhân. Mấy tháng nay thì chẳng còn nhịn được nữa và cũng chẳng hiểu ai mách nước cho cô ấy là đi xin bùa cắt duyên, còn biết rõ tên và địa chỉ của bác. Nấn ná mãi lại sợ cô ấy nghĩ quẩn nên chúng tôi quyết tâm tìm đến bác xem bác có giúp được không...”. Nghe chuyện xong, ông Bày ráo trước: “Nếu đúng chuyện như thế thì tôi giúp được chứ bảo làm cho người ta bỏ vợ bỏ chồng mà theo mình thì thất nhân thất đức lắm. Vậy khoảng cách nơi ở giữa chồng, vợ và người phụ nữ kia là bao nhiêu?". Ông không quên nhắc nhở: "Phải nói chính xác thì bùa mới hiệu nghiệm kẻo lại mất công lần sau lên đây làm lại. Tôi làm xong các anh đưa bao nhiêu tiền thì đưa, đấy là lòng hảo tâm đối với thánh thần, tổ tiên, còn khi việc đã thành thì bắt buộc các anh phải quay lại làm lễ tạ”. Ngẫm nghĩ một lát ông Bày lại tiếp như còn e ngại điều gì: “Các anh phải nói thật tôi mới giúp được. Chuyện của ba người nhưng tôi phải làm 4 hình nhân, một cái dành cho anh vì anh đã tham gia giúp đỡ họ. Nhưng yên tâm, anh sẽ chẳng liên quan gì đến chuyện tình cảm của họ đâu, chỉ có anh chồng thì có thể sẽ chủ động kết thân và rất quý anh”. Nói xong, ông Bày bắt đầu lật ngược 4 cái chén sứ đặt sẵn trên ban thờ rồi rót vào mỗi cái một ít nước sôi để nguội. Ông thắp ba cây nhang cắm lên ba bát nhang rồi chắp tay khấn. Rít thêm một hơi thuốc lào, ông cầm cây quạt cọ phe phẩy cho đỡ ngột ngạt, nóng nực rồi đứng dậy tiếp tục công việc. Lấy hai sợi chỉ đỏ và một sợi chỉ đen trong chiếc hộp gỗ đặt sẵn trên bàn thờ ra, cẩn thẩn xếp chúng vào miếng giấy bạc thuốc lá và gói lại rất kỹ càng. Đợi cháy hết tuần nhang, ông đưa cho chúng tôi gói giấy bạc và dặn: “Trong này có ba sợi chỉ, hai đỏ và một đen. Anh đem nó về bảo chị bạn giữ một sợi đỏ và tìm cách đặt sợi chỉ đen vào túi áo, túi quần hay bất cứ cái gì anh chồng mang theo người, sợi chỉ đỏ còn lại thì anh phải giữ lấy. Sau từ 7 ngày đến 13 ngày mà chưa thấy anh chồng có chuyển biến gì thì tốt nhất là cố gắng đưa chị vợ lên đây, đem theo được cái áo lót của anh chồng thì càng tốt để tôi làm lại”. Sự thật về những lá bùa yêu Người mê tín thì bảo bùa yêu có thật, vì thầy bùa chỉ cần tìm cách khiến cho người ta bén hơi nhau hay kỵ hơi nhau là được. Người không mê tín thì lại xuê xoa, “ôi dào, có bùa yêu thì còn lấy đâu ra những kẻ thất tình mà thẩn thơ nữa”. Nhưng theo như thầy bùa Hà Văn Bày thì việc làm cho con người ta yêu ghét là chuyện không khó, chỉ có điều chuyện yểm bùa cũng phải có luật lệ, đạo đức của nó. Tôi hỏi vui: “Vậy tôi muốn người tôi đã đeo đuổi đơn phương suốt từ khi còn ngồi trên ghế trường Đại học theo mình có được chăng? Cô ấy cũng chưa chồng?”. Ông Bày cười: “Đấy là chuyện thường. Chúng tôi chỉ không làm cho vợ chồng, con cái bỏ nhau, chỉ không làm cho người này ghét người kia trong khi họ... vốn yêu nhau mà thôi”. Ông Bày kể thêm: “Cách đây gần một tháng có hai người đàn ông đi ô tô từ tận Yên Bái xuống tìm tôi. Nói chuyện lâu lâu, một người rút ra xấp tiền dày, chắc phải đến mấy triệu bảo, “tôi đang rất yêu một người nhưng người ta lại đang có chồng, nếu bác làm cho họ bỏ nhau mà theo tôi được thì bác muốn bao nhiêu tôi biếu bác chừng ấy”. Tôi bảo, những chuyện như thế thì tôi không làm vì nó thất đức lắm....”. Nói là nói thế thôi vì chính thầy Bày cũng đã kể mấy câu chuyện mang đầy tính “liêu trai chí dị”. Ông kể là chỉ có người Mường là làm được bùa yêu nhưng bùa là nhẹ, nếu hai người thiếu nhau khoảng nửa tháng là phải đi tìm nhau, giống như soi gương mà chẳng thấy bóng mình. Hình thù kỳ quái này được thầy Bầy cho là bùa chú. Thế nhưng, người Mán (H’Mông) còn làm được ngải, một thứ bùa còn nặng nề hơn, man rợ hơn nhiều. Ông kể, trước đây ông đã từng sống với người Mán, họ có thể làm ngải yêu trong bất cứ trường hợp nào. Nếu đã bị bỏ ngải mà vắng nhau hai tuần thì phải tìm bằng được nhau, nếu không sẽ ốm quặt ốm quẹo, thậm chí thiếu lâu còn dẫn đến cái chết. Đã có rất nhiều người bị bỏ bùa ngải, khi chồng hoặc vợ không may mất đi mà chưa kịp nhờ thầy giải giúp thì họ cứ ra ôm mộ mà khóc, một tuần sau cũng sẽ theo về thiên cổ. Nét mặt thầy Bày chợt chùng xuống: “Khi tôi cùng một đồng đội khác đi thanh niên xung phong về rồi ở lại Văn Chấn (Yên Bái) sinh sống. Bỗng bốn tháng sau anh bạn tôi say mê như điếu đổ một bà Mán bản bên. Họ quấn quýt nhau suốt ngày đêm. Chẳng may một hôm làm rẫy, bà vợ bị lũ cuốn trôi mất xác. Đau khổ quá, ông ấy không nói năng gì rồi ba ngày sau thì tìm lên rẫy. Kể từ đó không ai nhìn thấy ông ấy đâu cả. Tôi biết ông ấy bị bỏ ngải nhưng vì vợ chết đột ngột không kịp giải nên ông ấy cũng tìm cách đi theo. Người mà mất bóng mình thì rõ là ma còn gì. Tôi đã có một người vợ nên sau chuyện ấy mà tôi phải đưa vợ tìm xuống Thanh Sơn sinh sống”. Các thầy bùa bảo làm bùa là giúp đỡ nhân tình thế thái, song theo quan sát của chúng tôi thì nguồn thu từ chuyện bùa ngải cũng chẳng đến nỗi nào. Để được ba sợi chỉ bùa chúng tôi đã phải đặt trước lên ban thờ nhà thầy 100.000 đồng. Nói là tuỳ theo cái tâm thì quả thật vô cùng lắm. Đó là chúng tôi lấy bùa mà không cần dùng đến tác dụng của nó (nếu có) chứ nhiều người đang gặp phải tình cảnh khó khăn, bế tắc trong yêu đương đến nỗi phải tìm đến bùa ngải thì chắc chắn “cái tâm” không thể là vài chục nghìn đồng. Đặt trước rồi, khi bùa có hiệu quả thì người ta còn phải mang lễ về tạ thánh thần, tổ tiên kèm theo những món tiền không nhỏ. Mấy bà con đang làm vườn ở đầu làng cho biết, cứ vài ba ngày lại thấy có người đến tìm thầy nhờ làm bùa, giải bùa. Người gặp phải cảnh nhân duyên trắc trở thì nhiều, có người đến thầy một lần rồi thôi, hiệu quả thế nào không ai rõ, cũng có người phải đi lại vài ba lần mới xong. Tính ra như thế, mỗi tháng thầy cũng kiếm được một khoản tiền không nhỏ so với mức sống của một vùng quê miền núi. Gần đây còn có mấy người khác làm bùa được, ví dụ như ông Thiết Sách ở Mai Thịnh, ông Nhung ánh ở phía xã Minh Đài chẳng hạn. Còn ông Nống Nhờ thì thấy người ta bảo giỏi lắm nhưng giờ già rồi, không làm được nữa. Hình như nếu muốn làm bùa được thì phải chưa rụng hết răng, khi làm bùa lại phải nói lưỡi không chạm răng nhưng không hiểu thật giả thế nào. Có nhiều người “mua” bùa về chưa kịp yểm thì đã thấy tác dụng, có người yểm xong thì tác dụng thành ra ngược lại, cũng có người đạt kết quả được đúng như thầy phán (hoặc do một sự trùng hợp ngẫu nhiên nào đó), có người muốn giải bùa nhưng thầy cũ đã mất thì phải tìm được thầy “cao tay” hơn... Bùa yêu: Chuyện nhãm nhí! Trao đổi với VTC News, ông Đinh Công Thoa, Phó bí thư thường trực Đảng uỷ, xã Định quảng Thanh Sơn Phú Thọ nhấn mạnh: Tất cả những chuyện “bùa chú” như các anh vừa trình bày đều là không có thật. Riêng người dân ở địa phương chúng tôi thì chẳng bao giờ tin vào cái chuyện nhãm nhí đó cả. Có chăng cũng chỉ là người nơi khác cứ nghe tin đồn về chuyện “bùa yêu” và đến thôi còn không biết thực hư thầy làm thế nào. Còn với trường hợp ông Hà Văn Bày có thể làm được bùa chú thì bây giờ chúng tôi mới nghe thấy. Bùi Lương Việt
  12. Nguồn: http://www.vietimes.com.vn Chuyện người dám trùng tu những "thiền cốt" Thứ năm, 13/3/2008, 07:00 GMT+7 Với chòm râu dài và cặp kính to, dày như cái đít chai, thoạt nhìn Đào Ngọc Hân thật giống với một ông đồ nào đó hơn là một nhà khoa học. Thế nhưng, hễ nghe ai đó nhắc đến hai từ “cổ vật”, hai mắt gã lại sáng quắc, và gã lại nói say như đang nhập đồng. Gã bảo, cứ khi nào rảnh là gã lại trốn vợ, một mình vác balô tung tẩy khắp trong Nam, ngoài Bắc. Nhưng những chuyến đi mà gã hay nói là “đi chơi” ấy, nhiều khi vẫn khiến gã đau nhói, buồn đến mất ăn mất ngủ mỗi khi phải chứng kiến một bảo vật nào đó của nước nhà, vì một nguyên nhân nào đó đã mất hút khỏi hiện tại, hoặc đã bị chính bàn tay con người phá hỏng. Ngôi nhà của gia đình Đào Ngọc Hân nằm trong một con ngõ nhỏ trên Đường Láng. Ngôi nhà chỉ rộng vài chục mét vuông, nhưng từ hai năm nay, nó còn là trụ sở của Công ty TNHH Bảo tồn cổ vật Hà Nội, đồng thời cũng là công xưởng làm việc của gần chục công nhân, với sơn, với mực, với máy mài và hàng trăm thứ cổ vật với đủ các loại vật liệu ngổn ngang. Vì vậy, đến nhà của Đào Ngọc Hân lúc nào tôi cũng có cảm giác như mình đang lạc vào một cái tổ ong, hoặc một đại công trường nào đó. Theo được nghề vì… lãng mạn quá Đào Ngọc Hân. Đào Ngọc Hân kể, cho đến bây giờ anh vẫn theo được với nghề, có lẽ tại vì cái tính anh nó lãng mạn quá. Anh bảo, học ngành Mỹ thuật truyền thống (trường Đại học Mỹ thuật công nghiệp Hà Nội), đã ít sinh viên theo học, mà khi ra trường, nếu lại làm đúng chuyên môn thì tẻ nhạt và vất vả vô cùng. Chẳng thế mà trong số bốn sinh viên sau khi ra trường, hai người đã đi làm hoạ sĩ trình bày báo, người còn lại thì làm giáo viên. Còn anh, chẳng hiểu sao, lúc nào cũng thích thú tìm đến các đền chùa và bảo tàng. Sau khi tốt nghiệp, anh cũng chả biết làm gì, hơn nữa, chuyên môn của anh khi ấy cũng không mấy nơi cần đến. Vì vậy, anh cứ triền miên đi thăm thú nơi này nơi kia. Thảng hoặc, các thầy và các bậc đàn anh trong nghề nhận được công trình, anh lại được gọi làm cái chân hậu cần, phục vụ “điếu đóm, chè nước”. Những năm 90 trở về trước, khi Việt Nam chưa có luật di sản, để trùng tu được một cổ vật vất vả và phức tạp vô cùng. Xin được giấy phép trùng tu đã khó, nhưng xin được rồi thì Nhà nước cũng không có nguồn kinh phí cung cấp cho việc trùng tu. Anh Hân kể, năm 1990, một phật tử ở Hải Phòng, sau ba năm vất vả ngược xuôi mới xin được giấy phép của Sở Văn hoá cho phép trùng tu lại bức tượng vị tướng Trần Quốc Bảo. Bức tượng có niên đại trên 300 năm tuổi nhưng đã bị xuống cấp trầm trọng. Xin được giấy phép, vị phật tử này đã lên tận Hà Nội đề nghị giáo sư Nguyễn Lân Cường phục dựng. Lần này, anh cũng được giáo sư Cường gọi đi làm công tác “hậu cần”. Nhưng lần này anh được tham gia với tư cách một chuyên gia, phụ trách việc sơn và hoàn tất giai đoạn cuối cho bức tượng. Sáu tháng sau, bức tượng đã được phục dựng thành công. Khổ nỗi, vì không có kinh phí nên trong suốt 6 tháng trời, vị phật tử kia ngày nào cũng phải cơm nước và đi vận động tiền bạc mua vật liệu phục vụ việc trùng tu. Năm 1992, một sự kiện thu hút rất nhiều sự quan tâm của giới khảo cổ Việt Nam là phát hiện ra pho tượng bó cốt của thiền sư Chuyết Chuyết ở chùa Phật Tích (Bắc Ninh). Khi được phát hiện, pho tượng đã bị vỡ thành mấy trăm mảnh và vứt ngoài vườn sắn. Lúc này, Viện Khảo cổ đã phải đứng ra nhận trách nhiệm trùng tu, nhưng hoàn toàn không có kinh phí. Nhiệm vụ lần này lại được giao cho giáo sư Nguyễn Lân Cường. Việc trung tu một bức tượng bó cốt là một công việc phức tạp, rất tốn kém và cần phải có một ê kíp những người có chuyên môn tham gia, mà nhân sự khi ấy lại thiếu vô cùng. Đào Ngọc Hân kể: Ngày ấy giáo sư Cường đã mời rất nhiều chuyên viên bảo tàng các tỉnh về cùng tham gia, nhưng kết cục, ông không thể chọn được người có đủ chuyên môn. Vì vậy, công việc trùng tu cuối cùng chỉ có hai thầy trò. Thế nhưng, việc trùng tu ở chùa Phật Tích bị ảnh hưởng bởi du khách đến tham quan ngày càng đông. Vì vậy, ê kíp thực hiện đã phải chuyển làm việc ở Viện khảo cổ. Vậy mà tại đây, mỗi ngày vẫn có hàng trăm du khách, phật tử khắp nơi tìm đến khấn vái và thắp hương nghi ngút. Và, một lần nữa, ê kíp lại phải bí mật chyển pho tượng đến một ngôi nhà trên phố Ngã Tư Sở. Công việc trùng tu bí mật đến nỗi, ngay cả những người hàng xóm sống liền kề cũng không biết họ đang làm gì. Gần một năm sau, pho tượng bó cốt mới được phục dựng xong. Gần một năm làm việc vất vả, không hề có kinh phí hay trợ cấp; thậm chí, cả tiền ăn uống của nhóm cũng hoàn do một nhóm phật tử của chùa cung tiến và phục vụ. Sau sự kiện trùng tu thành công bức tượng bó cốt thiền sư Chuyết Chuyết, Đào Ngọc Hân tiếp tục được mời trùng tu các tượng bó cốt của thiền sư Vũ Khắc Minh và Vũ Khắc Trường, ở chùa Đậu (Thường Tín, Hà Tây) và tượng thiền sư Như Trí, ở chùa Tiêu Sơn (Bắc Ninh). Tuy nhiên, những công trình trùng tu sau này đều có kinh phí nên công việc tiến hành đã gặp ít khó khăn hơn... Nơi báu vật bị "phá" nhiều nhất là... bảo tàng? Tượng Thiền sư Như Trí chùa Tiêu Sơn đã được bảo quản. Từ trái sang: Họa sỹ Đào Ngọc Hân, PGS-TS Nguyễn Lân Cường, Tỳ kheo Thích Kiến Nguyệt (Tổng Thư ký Thiền viện Trúc Lâm Đà Lạt) Cổ vật Thuyền Chùa Keo đã được trùng tu hoàn chỉnh. Mặc dù đã tham gia trùng tu rất nhiều cổ vật nổi tiếng trong nước, nhưng ra trường đã mười mấy năm, Đào Ngọc Hân vẫn không xin vào làm việc chính thức trong cơ quan nào. Anh bảo, làm tự do và tự do “xê dịch” vẫn sướng hơn. Thế nhưng, anh đã phải rất vất vả làm đủ nghề để “nuôi” cái sở thích có vẻ "điên điên" ấy của mình. Đã có một thời gian dài, hầu hết tiền bạc kiếm được từ cửa hàng đá quý của gia đình, anh đều nướng hết vào các chuyến đi, rồi mua vật liệu làm những công trình, mà lẽ ra, anh phải được nhận thêm tiền từ chính những công trình này. Thế nhưng, đi càng nhiều, tiếp xúc với cổ vật càng lắm, anh càng đau khi phát hiện ra một thực tế là: nơi lưu giữ nhiều cổ vật nhất, cũng là nơi cổ vật bị bỏ bê nhiều nhất lại chính là hệ thống các bảo tàng địa phương và những ngôi chùa hàng trăm năm tuổi với rất nhiều pho tượng quý. Anh bảo, có vào kho của các bảo tàng địa phương thì mới thấy sự thiếu thốn về tài chính của đất nước mình. Chẳng hạn Bảo tàng Vĩnh Phú trước kia chỉ là một ngôi nhà mượn, kho của bảo tàng được nhét đủ các loại bảo vật, với đủ loại chất liệu gỗ, vải, đá chồng chất, san sát nhau. Hay như bảo tàng Hưng Yên, dù đã có kho bãi, nhưng cổ vật không hề được phân loại, cứ để lung tung. Thậm chí, nhiều bảo tàng còn để nhiều bảo vật ở ngoài trời như Bảo tàng Thanh Hoá, để những con chó đá, rồng đá rất quý ở ngoài trời mà chẳng có che chắn gì. Vì vậy, những trận mưa có axít gần đây đã làm mất hết các hoa văn trên tượng đá. Tại Bảo tàng Hải Dương, tình trạng cổ vật cũng bị bỏ mặc tương tự. Từ nhiều năm nay, tại Bảo tàng Hải Dương, mấy chục bộ mộ thuyền có niên đại trên 2000 năm, rất quý cũng để phơi mưa nắng ở ngoài trời. Biết là kinh phí để trùng tu những cổ vật này là rất lớn, tỉnh không thể có, nhưng bỏ mặc những cổ vật như thế thật đau xót... Việc những báu vật nước nhà bị bỏ mặc do thiếu kinh phí, thiếu nhân lực trùng tu còn có thể thông cảm. Nhưng có tiền mà đem cổ vật đi làm hỏng như một số người vẫn đang làm thì đó dường như lại là một tội ác. Anh Hân kể, mấy năm gần đây, nhiều gia đình có vật gia bảo, rất quý đã đem đến nhờ tu bổ. Thế nhưng, vì thiếu hiểu biết nên những gia chủ này nhất quyết yêu cầu làm theo ý mình, nghĩa là phải làm cho vật gia bảo càng mới, càng giống với nguyên bản càng tốt. Thậm chí, nhiều nhà buôn, nhà sưu tập cổ vật, cũng muốn bảo tồn cổ vật cho thật giống như nguyên bản để dễ bán cho những người thiếu hiểu biết để kiếm lời. Họ đâu biết rằng, bảo tồn cổ vật là làm gia tăng thêm giá trị cho chúng, chứ không phải là làm cho chúng mới hơn. Vì vậy, với những khách hàng cứ khăng khăng yêu cầu thợ làm theo ý mình thì anh chỉ còn cách bảo họ đi đến những cơ sở khác, chứ nhất định anh không làm hỏng đi những báu vật lịch sử ấy được. Cũng theo anh Hân, hiện rất nhiều đình chùa cổ ở ta cũng trong hoàn cảnh tương tự. Nhiều ngôi chùa, ngôi đình bị mất đi rất nhiều giá trị, cổ vật thì càng sửa càng hỏng không phải do không có tiền, mà vì sự thiếu hiểu biết của chính những người chủ trì và người thợ trùng tu. Vì vậy, rất nhiều cổ vật lần lượt được làm mới, sự cổ kính, tôn nghiêm và những nét đẹp cổ xưa đã hoàn toàn biến mất sau mỗi lần tôn tạo… Mười mấy năm làm công tác bảo tồn cổ vật, anh Hân bảo, giữa cổ vật và người thợ bảo tồn luôn có một mối nhân duyên kỳ lạ. Có thế, họ mới gặp nhau và người thợ mới có điều kiện làm sống lại những giá trị văn hóa, lịch sử của cổ vật. Thế nhưng, trong hàng trăm mối nhân duyên mà anh đã gặp, dù rất tâm huyết, anh cũng không thể cứu được hết những cổ vật khỏi xuống cấp, khỏi vấn nạn “mới hóa” và lòng tham đầy bất trắc của một số người. Trọng Tuyến (Vietimes)
  13. Nguồn: http://www.vietimes.com.vn Vặt hoa anh đào và những chuyện nhiều nước mắt Thứ năm, 10/4/2008, 07:00 GMT+7 Tôi đã có mặt trong đám đông nhốn nháo, xô đẩy, đè lên nhau để hái những cành hoa anh đào hôm ấy. Tôi đã dúm dó khi nhìn những ánh mắt vui sướng, những cú nhẩy cẫng hân hoan của đồng bào mình, từ học sinh, sinh viên đến giảng viên đại học khi họ cầm trên tay những cành anh đào héo hắt. Anh đào trong Lễ hội - Ảnh: VNN Trong khi người ta đang tung hô cho những chiến dịch bầu chọn thắng cảnh Việt Nam lọt vào những kỳ quan thế giới, thì chính những kỳ quan đó đang trở nên nham nhở vì sự vô ý thức của chính chủ nhân của chúng. Nếu có một dịp nào đó đi thăm những hang động của Hạ Long, đến Phong Nha - Kẻ Bàng hay trở về cội nguồn Đền Hùng, bạn sẽ thấy ken đặc trên bề mặt những hang động, đền chùa các dòng chữ vẽ nguệch ngoạc. Nào là lớp 8A1, 9C2, khoa Lý ĐHSP X, Khoa Kinh tế ĐHKH Y, H yêu L, T mãi mãi nhớ A… Một lần, khi đến thăm Bảo tàng dân tộc Việt Nam trên đường Nguyễn Văn Huyên, tôi thấy trên mặt chiếc trống cổ được tìm thấy ở Hưng Yên cũng chi chít những dòng chữ ghi lại bằng bút tẩy trắng. Một du khách người Pháp đã hỏi đi hỏi lại tôi, bà không hiểu những chữ viết đó có phải dấu tích của người Việt cổ để lại không? Tôi đã chết đứng vì không dám trả lời bà, đó chẳng phải là một dấu tích lịch sử, mà chỉ là cách ghi lại “dấu ấn” của một số những bạn trẻ đang được coi là tương lai của đất nước Việt Nam. Đến những khu di tích, lễ hội khác, hành động nhổ nước bọt, phỉ kẹo cao su, ngồi lên bia tiến sĩ, leo lên tượng rùa, voi, hái lá, bẻ cành, hái hoa làm kỷ niệm của các “nam thanh nữ tú” đã không phải là chuyện hiếm. Tôi không biết nên gọi tên những hành động kiểu này của giới trẻ là gì, một bản năng hồn nhiên, một sự a dua theo đám đông, một cách chơi trội để khẳng định, hay là một sự xuống cấp về ý thức và văn hóa đã đến mức báo động? Nhưng tôi dám chắc rằng, nếu cỗ máy thời gian quay ngược lại mười đến hai mươi năm trước, cái chết của một con cá, con mèo, thậm chí cả một con dế mèn cũng khiến chúng phải khóc ròng. Lúc ấy, chúng còn là những đứa trẻ, mà trong thế giới của trẻ con, thiên nhiên, con vật chính là thế giới thiêng liêng, diệu kỳ, chứa đựng bao bí ẩn để khám phá, chứa đựng bao yêu thương để nâng niu, sẻ chia. Thời gian cứ trôi dần qua, không hiểu có một điều nào đó đã tàn phá tâm hồn một đứa trẻ biết nhỏ lệ trước nỗi đau của một cái cây trở thành một người lớn lạnh lùng, vô cảm, sẵn sàng bẻ gãy từng cành hoa bằng sức mạnh của cơ bắp? Thời thơ ấu, khi đọc cuốn truyện Totochan - cô bé bên cửa sổ, tôi đã nhớ mãi những dòng tự sự của tác giả về ngài hiệu trưởng Kobayasi - người đã dạy cho con gái mình tình yêu thiên nhiên bằng cách dẫn cô đến một cây cổ thụ, chỉ cho cô biết các cành lá đung đưa trong gió như thế nào. Ông cũng nói cho cô biết mối quan hệ giữa lá, cành và thân cây; lá cây đung đưa khác nhau là tuỳ theo tốc độ của gió. Họ đứng im quan sát những hiện tượng như vậy, và khi không có gió họ cứ đứng ngửa mặt lên trời, kiên trì đợi chờ một làn gió thoảng đến. Không những họ chỉ đứng để quan sát gió mà còn quan sát cả những dòng sông. Hai cha con họ đã thường ra bên bờ con sông Ta-ma gần đó để ngắm nhìn nước chảy và họ không bao giờ cảm thấy mệt mỏi khi làm những chuyện đó. Sau này, tôi đã gặp lại những bài học rất đỗi dung dị, giản đơn mà tràn đầy ý nghĩa đó trong những cuốn sách, bộ phim, tài liệu về giáo dục thiên nhiên của trẻ em phương Tây. Ngay từ mẫu giáo, nhà trường đã thường xuyên tổ chức những chuyến đi picnic, dã ngoại đến tham quan những công viên quốc gia, rừng nhiệt đới, những buổi cắm trại ngoài trời để học về thiên nhiên. Lên đến cấp một, cấp hai, chúng đã tự tổ chức những chuyến tham quan đến các danh lam thắng cảnh, kỳ quan thiên nhiên của hàng trăm quốc gia, với sự khuyến khích ủng hộ nhiệt tình, thậm chí “thả cửa” của chính phụ huynh và nhà trường. Trong những chuyến đi này, lũ trẻ phải thu thập những mẫu cây, ngọn cỏ về làm thí nghiệm, tự quan sát, chụp ảnh, tìm hiểu các vấn đề của tự nhiên theo những chủ đề mà chúng yêu thích. Ý thức giữ gìn tự nhiên qua các hành động cấm vứt rác, không dẫm lên cỏ, không vặt hoa, bẻ cành không chỉ được giáo dục sinh động, cụ thể trong nhà trường mà còn được triển khai thành những chiến dịch lớn của đất nước được cả cộng đồng tôn trọng. Trong lúc đó, bao quanh những trường học ở các đô thị lớn Việt Nam là một khung cảnh nhộn nhạo của những hàng game, quán nước, cửa hàng quần áo, phố xá ồn ã còi xe, dày đặc khói bụi đến khó thở. Phía sau những bức tường bao quanh trường học thành một pháo đài kiên cố là một khuôn viên chật hẹp được chia năm xẻ bảy thành những sân chơi xập xệ, thiếu thốn trầm trọng cây xanh và một không gian cho những đứa trẻ hít thở. Những giờ “Tìm hiểu tự nhiên” được “phân biệt, đối xử” như một môn phụ ít cả về thời lượng lẫn chuyên môn giảng dạy. Các chuyến tham quan dã ngoại ngày càng ít đi thay vào đó là những giờ học nặng nề của toán, văn, ngoại ngữ lên ngôi như một thứ giá trị thời thượng của xã hội.. Tình yêu thương con người, lòng nhân ái bao dung, cách đối xử tôn trọng giữa con người với con người, giữa con người và tự nhiên không thể nhồi nhét bằng những mớ kiến thức hàn lâm, nặng nề, khô cứng. Đáng tiếc, đó lại là một sự thật đang diễn ra hàng ngày trong những giờ giáo dục công dân của các trường học hiện nay. Một nhà xã hội học nổi tiếng của TP Hồ Chí Minh đã từng phân tích: “Người ta chỉ, và chỉ có thể dạy bằng chính con người (nhân cách) của mình”. Một môi trường không cần nhiều lời nói nhưng tác động mạnh mẽ đến cá nhân. Gương của người lớn không chửi thề, không gây gổ, không dối trá, không vô ý thức với tự nhiên… sẽ làm cho các em tuân thủ một cách dễ dàng mà không cần kêu gọi, nhắc nhở. Thế những, với cách cách người lớn đang hành xử trong các trường học, từ chuyện thầy cô đánh học sinh, nhận tiền cho điểm đến các cách luồn lách, chạy chọt, chà đạp lên nhân phẩm để đạt quyền chức, tiền bạc đầy rẫy ngoài xã hội đã và đang ảnh hưởng một phần không nhỏ đến sự phát triển nhân cách và tâm hồn của những người trẻ. Và hành động xông vào bẻ cây, hái hoa, lấy trộm đèn lồng trong lễ hội hoa anh đào vừa qua không chỉ là một thói quen bột phát mang tính “bầy đàn” tự nhiên của loài người. Đó chỉ là hệ quả khởi đầu của quy luật “gieo gió gặt bão” khi mà văn hóa, sự tôn trọng, yêu thương, bao dung giữa con người với con người, con người với tự nhiên bị chà đạp, dìm xuồng trước những lợi ích tiền bạc trước mắt. Người dân Philippines đang thay đổi ý thức, cách ứng xử và hành động của mỗi thành viên trong xã hội bằng “Mười hai điều bé nhỏ bạn làm cho Tổ quốc”, từ cấm xả rác bừa bãi , nói “không” với hàng lậu, đóng thuế đầy đủ, tuân thủ pháp luật, tuân thủ giao thông, tôn trọng cảnh sát giao thông, công an, nhân viên hành chính…đến việc đóng góp cho một quỹ từ thiện hoặc nhận nuôi một đứa trẻ mồ côi. Đất nước nhỏ bé đó sẽ lớn lên bằng những điều giản dị như vậy. Còn Việt Nam? Giá như các cấp chính quyền, Đoàn Thanh niên đến các cơ quan truyền thông cùng phối hợp thực hiện một cuộc vận động lối sống đẹp hiệu quả như cuộc vận động cho Vịnh Hạ Long thành kỳ quan thiên nhiên thế giới thì hàng triệu cú click bầu chọn sẽ thành hàng triệu những hành động “cải tạo” hình ảnh về một đất nước và con người Việt Nam ấn tượng trong lòng nhân loại. Đó mới là thứ kim cương không nhạt màu cùng thời gian! Sơn Khê (Vietimes)
  14. Nguồn:http://www.vietimes.com.vn/vn/chuyende/4462/index.viet Luy Lâu: Thượng nguồn dòng sông Phật giáo Đông Á Thứ ba, 5/2/2008, 07:00 GMT+7 Trong Lịch sử hình thành Phật giáo Việt Nam nói riêng và Phật giáo châu Á nói chung, Luy Lâu được coi là chiếc nôi của Phật giáo. Nó được coi là Trung tâm Phật giáo xuất hiện sớm nhất trong ba trung tâm Phật giáo thời kỳ khởi thuỷ ở khu vực Đông Á và Đông Nam Á: Trung tâm Phật giáo Luy Lâu; Trung tâm Phật giáo Lạc Dương và Bành Thành (thuộc Trung Hoa). http://www.vietimes.com.vn/vn/nhietkevanhoa/4341/index.viet Điều đặc biệt nhất, “khai sinh” ra Trung tâm Phật giáo Luy Lâu không phải bắt nguồn từ đất nước Trung Hoa rộng lớn, mà nó lại được bắt nguồn và mang đậm dấu ấn của Phật giáo Ấn Độ, theo con đường truyền bá của các tăng sỹ và các thương lái, nhà buôn người Ấn Độ bằng đường biển. Và quan trọng nhất, Phật giáo Việt Nam cho đến bây giờ, đó là sự hoà hợp của Phật giáo Ấn Độ với tín ngưỡng bản địa, chứ không phải là sản phẩm của 1.000 năm Bắc thuộc. Phóng viên Vietnamnet đã có buổi trò chuyện cùng hoạ sỹ, nhà phê bình Mỹ thuật Phan Cẩm Thượng – tác giả của cuốn sách Chùa Dâu và Nghệ thuật Tứ pháp về vấn đề này. Chùa Dâu Thưa hoạ sỹ Phan Cẩm Thượng, có thể chứng minh Luy Lâu là trung tâm Phật giáo ra đời sớm nhất dựa trên những góc độ nào? Hoạ sỹ Phan Cẩm Thượng (HS PCT): Theo Lịch sử Phật giáo VN, Phật giáo Việt Nam chịu ảnh hưởng của Phật giáo Ấn Độ theo con đường từ Tây Tạng đi sang. Khi người Trung Quốc muốn truyền Phật giáo sang Việt Nam thì Phật giáo đã vào Giao Châu rồi, Việt Nam đã có được mấy bộ kinh, mấy chục ngọn tháp rồi. Khi đó, ở Luy Lâu có tín ngưỡng thờ thần tự nhiên, mây mưa sấm chớp. Phật giáo Ấn Độ vào Việt Nam tìm cách hoà hợp với tín ngưỡng này, nên mới sinh ra truyền thuyết về Man Nương, là nguồn gốc để có hệ thống tín ngưỡng Tứ pháp cho đến tận bây giờ… Gắn với truyền thuyết Man Nương ở vùng Dâu (Thuận Thành - Bắc Ninh), nghệ thuật và lễ hội Tứ pháp hiện vẫn thịnh hành, tuy những lễ cầu đảo hô phong hoán vũ không còn nữa. Truyền thuyết kể rằng: vào thời Sỹ Nhiếp, viên Thái thú người Tàu cai trị Giao Chỉ, có sư Khâu đà la từ Tây Trúc sang Giao Châu. Thoạt tiên, đến vùng Phật Tích, sau đó đến Luy Lâu (Dâu). Ở đây, ngài được vợ chồng Tu Định rất mộ đạo, cho con gái mình là Man Nương theo hầu. Một hôm, Khâu đà la đi chơi về, thấy Man Nương ngủ ở bậu cửa, không nỡ đánh thức bèn bước qua. Chẳng ngờ cô gái động mình có thai. Vợ chồng Tu Định rất giận, chờ con gái sinh hạ, bế đứa bé trả lại nhà sư. Khâu đà la đem đứa bé vào rừng, nói với cây Dung thụ (cây Dâu): nếu có thiêng thì hãy nhận lấy hài nhi này. Cây bèn mở thân, sư đặt đứa bé vào đó, cây khép lại. Khâu đà la sau đó về Tây Trúc, trao cho Man Nương cây gậy, dặn lúc nào hạn hán thì chọc xuống đất, chỗ đó sẽ có nước. Nhiều năm sau, sông Dâu dân nước lụt khắp vùng, cuốn trôi cây Dung thụ, không ai vớt được. Man Nương bèn lấy dải yếm kéo cây vào. Sỹ Vương cùng dân chúng xẻ cây làm bốn khúc, tạc thành bốn tượng Mây, Mưa, Sấm, Chớp, thờ ở bốn chùa Vân – Vũ – Lôi - Điện. Riêng cành cây cũng tạc thành một tượng Pháp, thờ ở chùa Keo, gần đó. Đứa bé trong cây biến thành tảng đá, gọi là Đức Thạch Quang, cũng thờ trong chùa Dâu. Theo Việt Nam Phật giáo sử luận (tác giả Nguyễn Lang - Nhà xuất bản Văn học Hà Nội – 1979): “Ðạo Phật được truyền vào Việt Nam khoảng đầu kỷ nguyên Tây lịch. Tài liệu chắc chắn cho biết rằng vào hạ bán thế kỷ thứ hai, tại nước ta đã có một trung tâm Phật giáo phồn vinh và quan trọng rồi, nhưng có thể đạo Phật đã du nhập vào nước ta trong thế kỷ đầu của kỷ nguyên. Các tài liệu như Hậu Hán Thư trong đó có câu chuyện Sở Vương Anh theo Phật giáo, sách Lý Hoặc Luận của Mâu tử viết tại Việt Nam vào hạ bán thế kỷ thứ hai, kinh Tứ Thập Nhị Chương và một số tài liệu khác, có tính cách lặt vặt hơn, cho ta thấy rằng trong đời Hậu Hán (thế kỷ thứ nhất và thứ hai) ngoài hai trung tâm Phật giáo ở Trung Hoa, còn có một trung tâm Phật giáo rất quan trong khác ở Giao Chỉ, tức Việt Nam, lúc bấy giờ đang nội thuộc Trung Quốc. Hai trung tâm ở Trung Hoa là trung tâm Lạc Dương và trung tâm Bành Thành. Lạc Dương là kinh đô Trung Hoa vào đời nhà Hán, Hiện nay là một huyện ở tỉnh Hà Nam, còn Bành Thành thì ở về hạ lưu sông Dương Tử, hiện thuộc tỉnh Giang Tô. Ở nước ta thì có trung tâm Luy Lâu: Luy Lâu là trị sở bấy giờ của Giao Chỉ, hiện nay thuộc phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. … Có nhiều dữ kiện khiến cho chúng ta nghĩ trung tâm Luy Lâu được thành lập sớm nhất, và trung tâm này đã làm bàn đạp cho sự thành lập các trung tâm Bành Thành và Lạc Dương ở Trung Hoa.”. Cũng theo truyền thuyết, các chùa Tứ pháp được xây dựng ngay từ thời Sỹ Nhiếp, tức là thế kỷ 2, nhưng các di tích này không còn gì. Năm 580, Thiền sư Tây Trúc Tì ni đa lưu chi (Vicitaruci), sang Giao Châu truyền đạo, lập ra dòng Thiền đầu tiên ở chùa Dâu. Nhưng phải đến thế kỷ 13 – 14 mới có di tích còn để lại đến nay. Mạc Đĩnh Chi trạng nguyên thời Trần cho xây lại chùa, xây cầu chín nhịp, tháp chín tầng, nay tháp đã đổ chỉ còn ba tầng. Nguyên uỷ, nơi thờ Tứ pháp chỉ là một kiến trúc mặt bằng hình vuông, chính giữa đặt Tứ pháp, hai bên có Kim đồng - Ngọc nữ. Trước mặt là hòn đá thiêng và tượng đức thánh tải (con của Tứ pháp), sau lưng là tượng sư Khâu đà la. Khi đạo Phật đồng hoá tín ngưỡng này, ban thờ Phật được thêm ra, kiến trúc cũng giống như các chùa kiểu nội công ngoại quốc đồng bằng Bắc bộ, ban thờ Tứ pháp đặt trước, ban thờ Phật đặt sau, gọi là tiền Thánh hậu Phật. Yếu tố Ấn Độ lưu giữ ở Trung tâm Phật giáo Luy Lâu có thể kể đến những dấu ấn nào? HS PCT: Trước hết đó là vật thờ có hình linga, chính là Đức Thạch Quang, trong truyền thuyết là đứa bé được Khâu đà la đưa vào thân cây Dung thụ hoá thành. Thứ hai, cách tạo tượng mây mưa sấm chớp giống hệt tượng dòng Ấn Độ - Khơme. Có lẽ, do ảnh hưởng của tạo hình Phật giáo nguyên thuỷ, được các nhà sư Ấn Độ đưa sang. Các tượng Tứ Pháp đều cởi trần, quấn xà rông, nhân tướng theo kiểu Ấn Độ, mũi cao, lõ… Nhưng những thân hình đều là Phật mẫu nên mang vẻ đẹp gợi cảm của phụ nữ, rất đặc biệt trong nghệ thuật Phật giáo Việt Nam. Từ tượng bà Man Nương đến các tượng Bà Trắng, Bà Đỏ và Kim đồng - Ngọc nữ… đều rất gợi tình, gần với một thứ nghệ thuật thế tục hơn là tôn giáo. Tượng Pháp Vân thì nghiêm trang thần bí, Pháp Vũ phồn thực đầy đặn; Pháp Lôi thì thô mạnh; Pháp Điện là em út nên xinh đẹp thanh tú. Đứng về mặt nghệ thuật, không nơi đâu ở Việt Nam có một tập hợp điêu khắc gắn bó với truyền thuyết huyền thoại, với tính gợi tình và cái đẹp nữ tính huyền bí đến như vậy. Dấu ấn Ấn Độ còn thể hiện trên những ván khắc chữ Phạn, tuy niên đại không lâu, phần lớn ở thế kỷ 19 nhưng vẫn còn nguyên chữ Phạn. Thời đó, các nhà sư Trung Quốc muốn sang Ấn Độ nghiên cứu về Phật giáo Ấn Độ đều phải qua Giao Chỉ để học chữ Phạn; ngược lại, các nhà sư Ấn Độ muốn sang Trung Quốc cũng phải qua Giao Chỉ để học chữ Hán… Đó là những dấu ấn quan trọng cho thấy, Luy Lâu được hình thành và mang đậm những nét đặc trưng của Phật giáo Ấn Độ. Về kiến trúc, Luy Lâu mang đậm dấu ấn của trường phái nào, Ấn Độ hay Trung Quốc, thưa hoạ sỹ? HS PCT: Kiến trúc chùa Dâu có vẻ giống kiến trúc đời Đường. Tháp Hoà Phong của chùa Dâu giống tháp Đại Nhạn ở Tây An. Còn tạo hình tượng Phật thì rất Việt Nam, và còn dấu tích của thế kỷ 13 ở các vì kèo gỗ. Luy Lâu trở thành trung tâm Phật giáo, vì nó còn có yếu tố nằm ở trung tâm đồng bằng Bắc bộ. Kiến trúc Luy Lâu, về tổng thể có con đường đi từ Bắc xuống Nam và con đường từ Tây sang Đông. Theo hướng Bắc Nam từ Móng Cái về đến Luy Lâu, qua mấy con sông, bây giờ là đường 183 chạy từ Phú Thị sang gần Phả Lại, con đường Tây Đông xuyên Hà Bắc, Bắc Ninh, xuyên ngã tư Đông Côi về Cẩm Giàng xuống mạn Hải Dương. Trước tiên, Luy Lâu nằm ở vị thế thuận lợi cho giao thông. Thứ hai, nó nằm ở vùng đồng bằng kẹp giữa con sông Cầu và con sông Hồng, lại có một con sông nối từ sông Cầu sang sông Hồng, đó là sông Dâu. Thực ra, sông Dâu phải “kinh qua” sông Tiêu Tương (ông Tiêu Tương nối sông Cầu và sông Hồng, gặp sông Dâu ở Đình Bảng. Sông Dâu chạy từ Đình Bảng về vùng Dâu (Luy Lâu) và chạy xuống sông Châu Giang). Chùa Dâu cách đường giao thông Đông Côi khoảng 6km, và nằm sát sông Dâu. Do điều kiện thuận tiện cho việc đi lại nên chính quyền đô hộ Trung Quốc chọn đây làm nơi đóng thủ phủ, đó là một điều dễ hiểu. Chùa Dâu Về kiến trúc cụ thể, có mấy phân khu như sau: thành Luy Lâu nằm ngay ngã tư Dâu, và nằm sát con sông Dâu. Đây là thủ phủ của chính quyền đô hộ phong kiến, có trường dạy chữ Nho của Sỹ Nhiếp. Thứ hai, vùng Dâu là vùng cư dân Trung Quốc ở nhiều, cho nên mộ Hán còn rất nhiều ở nơi đây. Phật giáo Tứ pháp là một Phật giáo lớn, bao giờ cũng gồm ít nhất 5 ngôi chùa: chùa Tổ (chùa thờ Man Nương) và bốn chùa con (Pháp vân, Pháp vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện). Đứng về mặt kiến trúc cụ thể, thành Luy Lâu hiện tại chỉ còn một khu thành đất, có trung tâm, nhưng dấu tích còn lại không nhiều về kiến trúc bên trong như thế nào. Hiện trên thành Luy Lâu chỉ còn đền thờ Sỹ Nhiếp, tương truyền là trường dạy học của ông; và một ngôi chùa sát đó có tên chùa Bình (nơi bình văn của các nho sỹ). Còn như chùa Dâu, trước đó thoạt tiên là một mặt bằng hình vuông, thờ tượng Pháp ở chính giữa, chỉ có thế chứ không có gì khác. Đến thời Trần có thêm cầu chín nhịp, có tam quan, có tháp, có thêm trước trước sau sau, mới hình thành kiểu kiến trúc nội công ngoại quốc, tất cả quy mô và kiến trúc tương đối giống nhau… Phật giáo Ấn Độ, khi sang Việt Nam thì có yếu tố nữ tính không? Nguồn gốc Trung tâm Phật giáo Luy Lâu “Trung tâm Luy Lâu được hình thành do sự viếng thăm của những tăng sĩ Ấn Ðộ. Các vị tăng sĩ này tới viếng Việt Nam bằng đường biển, theo các thuyền buôn người Ấn. Nhưng trước khi các vị tăng sĩ Ấn Ðộ tới Việt Nam, các thương gia Ấn Ðộ cũng đã tới Việt Nam rồi và cũng đã mang theo sinh hoạt Phật Giáo tới xứ ta. Hồi bấy giờ (đầu kỷ nguyên), Ấn Ðộ đã có liên hệ thương mại trực tiếp với Trung Ðông và gián tiếp với các nước vùng Ðịa Trung Hải, Ðế quốc La Mã tiêu thụ rất nhiều vàng, lụa, hương liệu, trầm, quế, tiêu, ngà voi, châu báu... Ðể có đủ hàng cung cấp cho thị trường ấy, các thương gia Ấn Ðộ đã dong thuyền đi mãi về Viễn Ðông. Những thương thuyền này theo gió mùa Tây nam đi về Ðông Nam Á, tới bờ biển Mã Lai, Phù Nam và Giao Chỉ. Thương gia Ấn Ðộ phải ở lại đây cho đến năm tới, chờ cho gió mùa Ðông bắc để trở về Ấn Ðộ. Trong thời gian này, họ lại sống với dân bản xứ và đã ảnh hưởng tới dân bản xứ bằng lối sống văn minh của họ. Vì sự có mặt của những thương gia Ấn Ðộ mà dân ta hồi đó đã biết đến ít nhiều về kỹ thuật canh tác, y thuật và tôn giáo Ấn Ðộ. Ta có thể nói rằng chính những thương gia Ấn Ðộ đã trước tiên đem Phật giáo vào nước ta. Những thương gia kia, tuy vậy, không phải là những nhà truyền giáo, và mục đích của họ khi đến xứ ta là để buôn bán chứ không phải là để truyền đạo. Trong thời gian lưu lại Giao Chỉ, họ thờ Phật, đốt trầm, đọc kinh và cúng dường những pháp Phật nho nhỏ mà họ mang theo. Người Giao Chỉ ta đã áp dụng những điều hay về canh nông và về y thuật do họ chỉ bày, cố nhiên là cũng tỏ ra mến chuộng tôn giáo của họ. Nhưng nếu hồi đó có những người Giao Chỉ theo đạo Phật thì đạo Phật đây cũng mới chỉ là những sinh hoạt tín ngưỡng đơn sơ của người cư sĩ, giới hạn trong sự tụng đọc tam quy, cúng dường Phật tháp và bố thí cho người ốm đau đói khổ, chứ chưa có sự học hỏi kinh điển và chế độ tăng sĩ. Trong các chuyến đi xa hàng năm với nhiều tháng lênh đênh trên biển cả như thế, các thương gia Ấn cũng thờ cúng và cầu nguyện đức Phật và các vị Bồ Tát hộ trì cho trời yên biển lặng và mọi sự yên lành. Các thương thuyền này thường thờ đức Quán Thế Âm (Avalokitesvara) và đức Nhiên Ðăng (Dipankara), được nổi tiếng là những vị che chở cho thủy thủ được an lành ngoài biển khơi. Cũng trong mục đích cầu nguyện và cúng dường tam bảo, họ thỉnh theo thương thuyền một vị tăng sĩ. Chính những vị tăng sĩ đi theo thương thuyền này sẽ lập nên trung tâm Phật giáo Luy Lâu tại Giao Chỉ. Tuy nhiên, những vị tăng sĩ đi theo các thương thuyền Ấn Ðộ không phải chỉ mục đích giảng đạo và cầu nguyện cho các Phật tử trong thương thuyền. Vào cuối thế kỷ thứ nhất trước Tây lịch, khuynh hướng Phật Giáo đại thừa đã nẩy nở tại Ấn Ðộ, và vào đầu th ế kỷ thứ nhất của kỷ nguyên Tây lịch, các trung tâm Amaravati và Nagarjunakonda ở miền duyên hải Ðông nam Ấn Ðộ dần dần trở nên những trung tâm Phật giáo truyền báo vào các nước xa là một trong những hoa trái của đạo Phật đại thừa; chính ý hướng này đã thúc đẩy những vị tăng sĩ đi theo vơi các thương thuyền về Ðông Nam Á. Trung tâm Phật Giáo Luy Lâu được thiết lập do sự viếng thăm của thương gia và tăng sĩ Ấn Ðộ tới bằng đường biển, đó là một điều tất cả các học giả đều phải đồng ý. Ðạo Phật tại Giao Châu do từ Ấn Ðộ truyền sang trực tiếp, không phải là từ Trung Hoa truyền xuống.”. (Việt Nam Phật giáo sử luận; tác giả Nguyễn Lang - Nhà xuất bản Văn học Hà Nội – 1979) HS PCT: Phật giáo Ấn Độ căn bản đều là hình tượng nam. Ngay như Phật Quan Âm cũng là nam. Sang Trung Quốc, Việt Nam mới “nữ hoá” đi. Việt Nam và Trung Quốc có tục thờ các bà mẹ, gọi là thờ mẫu. Nếu không kể Tứ pháp thì chúng ta đã có tín ngưỡng thờ mẫu: mẫu thượng thiên, mẫu thượng ngàn, mẫu thuỷ cung, đó là tam toà thánh mẫu… Phật giáo Ấn Độ nhập với tín ngưỡng bản địa mà có sự phân hoá: Thánh mẫu thượng thiên nhập vào Quan âm thị giả, hay Quan âm vô uý; Thánh mẫu thượng ngàn thành Quan âm toạ sơn; Thánh mẫu thuỷ cung thành Quan âm Nam Hải… Nó cộng hình tượng nam với hình tượng nữ, Phật cộng với Man Nương ra hình tượng Phật mẫu Man Nương. Đó là dấu ấn bản địa, dấu ấn của một giai đoạn mẫu hệ còn tồn tại. Cho đến bây giờ vẻ đẹp của tượng Phật Việt Nam vẫn là vẻ đẹp nữ, chứ không phải vẻ đẹp nam. Nhất là những tượng Phật ở chùa Dâu, rất nữ tính, đôi tay và ngực rất nõn nà, đẹp gợi cảm. Chùa Bút Tháp Phật giáo Trung Quốc tuy sang sau nhưng là một hệ thống, cùng với cả bộ máy cai trị của chính quyền phong kiến Trung Quốc. Tính hệ thống của tổ chức chính quyền đô hộ phong kiến Trung Quốc thời kỳ đó có vai trò quan trọng trong việc phát triển Phật giáo Trung Quốc tại Việt Nam. Trong truyền thuyết, tạc tượng, xây chùa… là Sỹ Nhiếp đứng ra thuê người làm. Thực ra, lúc đó Phật giáo Trung Quốc cũng chưa sang đến Việt Nam. Chính quyền phong kiến Trung Quốc chỉ mượn Phật giáo như một thứ công cụ để cai trị. Dấu ấn Phật giáo Ấn Độ vẫn là chính, là mạnh. Chính quyền đô hộ là chính quyền Trung Quốc, chứ tôn giáo là Phật giáo Ấn Độ du nhập với tín ngưỡng bản địa Việt Nam, thành ra Phật giáo Việt Nam. Cần phải biết được chính quyền phong kiến lấy Nho giáo làm căn bản, Sỹ Nhiếp cũng chỉ dạy đạo Nho. Đạo Nho không phải là tôn giáo. Ngay cả đạo Phật cũng không phải là Tôn giáo, lúc đầu là triết học. Nhưng khi đi đến các vùng xa xôi, đưa học thuyết thế này thế kia, người dân không hiểu. Cho nên những người truyền đạo, tốt nhất cứ gọi Phật là một ông thần. Tất cả những vùng mà Phật giáo đi qua, họ đều biến Phật thành một ông thần, có phép thiêng này khác… Phật giáo là một trường phái triết học, chứ không phải là một tôn giáo. Kinh Phật không hề có tính chất tôn giáo, không bảo thờ ai, không bảo cúng ai, cũng không có một vị tối cao, tối thượng nào cả, hoàn toàn là triết học về mặt nhận thức luận. Cái vỏ bên ngoài của Phật giáo Việt nam từ thời đó, buộc phải nằm dưới cái vỏ của tín ngưỡng. Sau này, nó lại hoà trộn giữa tam giáo: Nho – Lão - Phật; cộng thêm tín ngưỡng dân gian mới ra Phật giáo bây giờ, viết sớ viết bùa, tụng kinh gõ mõ mà không cần hiểu nội dung kinh kệ. Đi theo đạo Phật gọi là tu, tu tức là học, học tức là nhận thức, giống như Phật giáo thời Trần, nhận thức, chứ Phật không phải là thần có tay có mắt để cứu nhân độ thế. Sự giác ngộ là giác ngộ của bản thể. Đối với nhân dân, nói như thế thì người ta không hiểu, họ cứ coi Phật là một vị thần; khi nào khó khăn thì cầu thần khấn phật giúp đỡ phù hộ. Phật bảo: “Ta chỉ là ngọn đuốc dẫn đường, còn đi thế nào là các người tự đi”… Sơ đồ hoá hệ thống Phật giáo Luy Lâu cũng theo đó mà hệ thống các ngôi chùa được sắp xếp dựa trên những yếu tố tâm linh? HS PCT: Chùa Man Nương quay về hướng Nam. Bốn chùa con (chùa Tứ pháp) đều quay về hướng chùa tổ, hướng Tây, chầu về hướng mẹ. Điều này là đặc trưng riêng của Phật giáo Luy lâu… Tín ngưỡng Tứ pháp là một vùng rất rộng, kéo dài từ huyện Gia Lâm (chùa Ninh Hiệp, chùa Nành cũng thờ Pháp Vân), qua sông Đuống sang bên này là huyện Mỹ Văn (Hưng Yên), qua con sông Hồng sang bên kia là Thường Tín, kéo lên tận Giáp Bát bây giờ cũng có chùa Pháp Vân. Nó là một vệt liền nhau của 3, 4 tỉnh. Gia Lâm ngày xưa cũng thuộc về Bắc Ninh, cũng nằm trong huyện Siêu Loại, mà Luy Lâu là thủ phủ của huyện Siêu Loại. Đấy có phải là sự truyền bá rộng rãi của đạo Phật hay là tín ngưỡng của một vùng lãnh thổ bản địa? HS PCT: Tín ngưỡng thờ thần tự nhiên là một vùng rộng, vì người dân trông lúa nước ở đồng bằng Bắc Bộ nên họ phải thờ các hiện tượng tự nhiên. Thời Trần, Mạc Đĩnh Chi cho xây tháp giống như tháp Đại Nhạn của Trần Huyền Trang (tháp Đại Nhàn nguyên là nơi chứa Kinh). Ông Mạc Đĩnh Chi đã cải biến chùa Dâu mang tính chất tu tập, tượng trưng nhiều hơn so với tính chất thờ cúng. Hết thời Trần, đạo Phật suy vong. Nhà Lê (vua Lê Thái Tổ) ra đạo luật hạn chế sư sãi, yêu cầu tổ chức thi cho các sư, và chỉ những người trên 50 tuổi mới được thi. Những người còn lại phải trở về làng, trở về cuộc sống thường ngày, tham gia cày cấy… Trong cái rủi có cái may. Những nhà sư này về làng đã tiếp tục truyền bá đạo Phật vào dân gian, và như thế đạo Phật mới có cơ hội phát triển vào trong dân gian. Vai trò Trung tâm Phật giáo của Luy Lâu bị mất đi từ khi nào, thưa hoạ sỹ? Năm 2002, tác phẩm “Chùa Dâu và Nghệ thuật Tứ pháp” của Hoạ sỹ - Nhà phê bình Mỹ thuật Phan Cẩm Thượng được hoàn thành. Đó là công trình sau gần 20 năm tìm hiểu, nghiên cứu các ngôi chùa cổ ở Bắc Ninh nằm trong quần thể Trung tâm Phật giáo Luy Lâu của Phan Cẩm Thượng, được giới nghiên cứu và hội hoạ đánh giá là công trình đầy đủ nhất và có nhiều phát hiện mới nhất về Chùa Dâu nói riêng và Nghệ thuật Tứ pháp nói chung. HS PCT: Các di tích của chùa Dâu đều là dấu ấn từ thế kỷ 16 đổ về đây là chính. Đến thế kỷ 19, con sông Dâu bị cạn, sông Tiêu Tương và sông Dâu biến thành hai con sông chết. Điều này cũng có nguyên do của nó. Thuở đó, sông Dâu và sông Tiêu Tương chảy theo hướng Bắc – Nam, hướng có độ dốc lớn, thường gây ra lũ do lượng nước dồn về nhanh. Cả vùng Dâu – Keo, Đình Bảng ngày xưa đều thường xuyên có lụt. Người dân Kinh Bắc mới khơi con sông Thiên Đức (sông Đuống bây giờ) theo hướng Tây - Đông để chia nước sông Hồng. Khi đó, con sông Thiên Đức cũng chỉ là một con sông nhỏ, người dân bắc cầu tre đi qua được. Đình làng Đông Hồ nguyên là bên kia sông, khi khơi sông mới di về bên kia. Người ta làm chết hai con sông kia đi, nuôi con sông Thiên Đức lớn lên cắt Bắc Ninh ra làm hai phần: nam phần Bắc Ninh (gồm bốn huyện Gia Lâm, Thuận Thành, Gia Bình, Lang Tài); bắc phần Bắc Ninh (gồm ba huyện: Quế Võ, Tiên Du và Yên Phong). Có thể nói, sự có mặt của con sông Thiên Đức cùng với sự biến mất của con sông Dâu và sông Tiêu Tương là thời điểm đánh dấu vai trò của trung tâm Phật giáo Luy Lâu mất dần. Nhưng thực tế, thời điểm chính quyền đô hộ chuyển từ Luy Lâu về Thăng Long (thế kỷ thứ 5 – 6), vai trò kinh tế, chính trị của Luy Lâu đã giảm đi rồi, theo đó vai trò truyền bá về mặt học thuật của Luy Lâu cũng giảm. Đến thời Lý, trung tâm Phật giáo nằm ở phía Bắc (Chùa Phật Tích và chùa Dạm) bên Tiên Du và Quế Võ. Thế kỷ 17, vai trò Phật giáo lại thuộc về Bút Tháp, một ngôi chùa gần đó . Khi sông Dâu bị lấp, giao thông đường thuỷ không còn nữa. Đến thế kỷ 17, người ta về Bút Tháp, về vùng Dâu vẫn đi bằng đường thuỷ, bằng thuyền. Dấu ấn còn lại của con sông Dâu bây giờ, chỉ là những cái ao dài còn sót lại ở các làng Bút Tháp, làng Tư Thế và đoạn sông chạy từ Dâu đến chợ Nôm. Ca dao có câu “ Lên đênh ba bể bốn bề/ Chiếc xuôi Hà Nội, chiếc về sông Dâu”… Như vậy, đến thế kỷ XIX, khi Thăng Long được đổi tên là Hà Nội thì con sông Dâu vẫn còn. Xin cảm ơn hoạ sỹ Phan Cẩm Thượng! Di Linh (Vietimes) thực hiện
  15. Trả lời nốt câu cuối: Phoenix được quẻ Tử Tốc Hỷ. Một vật bằng kim khí, có thể là chiếc bút (con dao) có vỏ màu đỏ hoặc mực đỏ (cán đỏ)
  16. Ảnh Phoenix lấy là ngẫu nhiên trong thư viện ảnh của Phoenix. Hơn nữa topic này là để luyện cảm ứng theo tượng nên muốn nghiên cứu nó phải thử các trường hợp: - Tự gặp hình đoán quẻ - Từ hình tìm ra quẻ ứng với câu trả lời - Từ câu hỏi tìm ra hình ..... Lật xuôi, lật ngược, lật phải, lật trái mới có thể xem thấu đáo một vấn đề. Phoenix thấy nếu đã coi lý số là một khoa học thì nên như vậy.
  17. Nguồn: www.vanhoahoc.edu.vn KINH DỊCH VỚI THIỀN CAO ĐÀI Đã đăng tạp chí Thông tin khoa học và công nghệ. Huế: Sở Khoa học, Công nghệ và Môi trường Thừa Thiên - Huế, số 3(25).1999. LÊ ANH DŨNG SUMMARY: YIJING AND CAODAI MEDITATION A miraculous classic of both Confucian and Taoist learning, Yijing today still provides its mystic theories for Caodai meditation practice. This essay surveys the most fundamental understanding of some Caodai meditation concepts. It also explains a few daily and seasonal schedules followed by Caodai meditation practitioners. SOMMAIRE: LA MÉDITATION CAODAÏQUE ET LE YI JING Ce chapitre traite de la relation entre certains concepts de base du Yi jing ( livre sacré du Confucianisme et du Taoĩsme (et la méditation pratiquée par les adeptes du Caodai en vue de la libération spirituelle. * I. KINH DỊCH KHÔNG PHẢI CHỈ LÀ SÁCH BÓI TOÁN, TRIẾT LÝ HAY Y THUẬT Thông thường, kinh Dịch vẫn được xem là sách bói toán, hoặc là sách triết lý, trong đó bao gồm vũ trụ quan, nhân sinh quan, sử quan... Ngoài ra, còn một xu hướng nữa là ứng dụng kinh Dịch vào phép dưỡng sinh hay trị bịnh theo y thuật cổ truyền phương đông. Tuy nhiên, phạm vi ứng dụng của kinh Dịch vào đời sống không chỉ dừng lại ở bao nhiêu đó. Kinh Dịch còn một ứng dụng khác, không được phổ biến rộng rãi. Đó là ứng dụng kinh Dịch vào việc tu tập thiền định để giải thoát luân hồi sinh tử. Những người đi theo con đường tu luyện này gọi là hành giả. Theo truyền thống có từ lâu đời, những gì hành giả được truyền thụ, đã thực hành và thực chứng trong đời sống thiền đều phải giữ kín, với nguyên tắc pháp môn tu luyện không được dễ duôi, khinh suất truyền cho người khác (đạo pháp bất khinh truyền). Nói cách khác, có một pháp môn được giữ kín, gọi là bí pháp và chỉ được truyền thụ hạn chế, cẩn mật trong một số người tuyển chọn thu hẹp. Bí pháp này phương tây gọi là esoterism, đạo Nho gọi là hình nhi thượng học và Cao Đài gọi là nội giáo tâm truyền. Ngoài phương diện nội giáo tâm truyền, các ứng dụng của kinh Dịch vào bói toán, triết lý và y thuật thường được nhiều người biết tới chính là phương diện được phương tây gọi là exoterism, đạo Nho gọi là hình nhi hạ học và Cao Đài gọi là ngoại giáo công truyền. II. KHÁI NIỆM VỀ THIỀN CAO ĐÀI Việc thực hành thiền với ứng dụng kinh Dịch tạo ra một dòng thiền khác biệt với các dòng thiền có nguồn gốc Tây Tạng như Mật tông, hoặc có nguồn gốc Ấn Độ như yoga và thiền nhà Phật... Các đạo sĩ Lão giáo ở Trung Quốc chính là những người nắm được bí quyết ứng dụng lý thuyết âm dương, ngũ hành và các quẻ Dịch để tu luyện ngõ hầu biến cải con người từ phàm phu chịu sự chi phối của luật sinh tử luân hồi trở thành bậc chân nhân siêu sinh thoát tử. Họ tạo thành một trường phái thanh tĩnh vô vi, chuyên luyện nội đan, tức là phái tu tiên, tu chân. Phái này chủ trương bên trong thân người đã sẵn có những yếu tố thần minh và nếu biết khai phóng đúng phương pháp, con người sẽ đạt được trường sinh bất tử. Để luyện thuốc trường sinh bất tử [1], họ chỉ sử dụng những vị thuốc, dược liệu tạo hóa đã dành cho mỗi người, ai ai cũng sẵn có trong thân (nội dược). Đối lập với họ là phái ngoại đan, chủ trương tìm kiếm các dược liệu ở ngoài thân (ngoại dược) để luyện thuốc trường sinh bất tử; như từng dùng các chất độc là chì (diên), thủy ngân (hống), chu sa (thần sa)... [2] Ngoài kinh Dịch, phái nội đan còn ứng dụng Đạo đức kinh trong tu luyện. Đối với các hành giả này, Đạo đức kinh không phải chỉ là sách triết; tám mươi mốt (9x9) chương của Đạo đức kinh cũng là tượng số, liên quan đến thuật ngữ cửu chuyển công thành hay cửu chuyển đan [đơn] thành của các đạo sĩ. [3] Các hành giả quan niệm rằng có hai bộ kinh Dịch: (1) Chu dịch là bộ Dịch với sáu mươi bốn quẻ; (2) Đạo đức kinh là bộ Dịch không mang quẻ. Cao Đài kế thừa một phần thiền của đạo Lão, canh tân cho phù hợp với hoàn cảnh sinh sống và tâm sinh lý của con người trong thời đại ngày nay. Cao Đài gọi tên thiền pháp thời đại Tam kỳ Phổ độ là tân pháp Cao Đài. [4] Dòng thiền Cao Đài khởi từ đầu năm Tân dậu (tháng 02-1921), trên đảo Phú Quốc với ông Ngô Văn Chiêu (1878-1932), đến nay đã trải qua gần tám mươi năm. [5] Dòng thiền Cao Đài phát triển và lần lần hình thành nhiều tịnh trường (nơi mở khóa tu thiền tập thể) tại nhiều địa phương khác nhau, chủ yếu ở miền Nam; trong đó có thể kể Cao Đài Tiên thiên, Cơ quan Phổ thông Giáo lý, và nhất là Cao Đài Chiếu minh... Mỗi tịnh trường phân thành các cấp tu luyện với những bài khóa tương ứng. Phương thức truyền thụ pháp môn tuy có một số điều khác nhau, nhưng nguyên tắc chung của hành giả vẫn là thực hiện nếp sống của người tu tại gia (cư sĩ), hoàn thành đầy đủ các nghĩa vụ của con người đối với gia đình, xã hội, đồng bào, đồng loại. [6] III. KHÁI QUÁT VỀ BA ỨNG DỤNG CƠ BẢN CỦA KINH DỊCH TRONG THIỀN CAO ĐÀI Ứng dụng kinh Dịch vào nội giáo tâm truyền trong tân pháp Cao Đài đương nhiên vẫn là những điều không được công truyền, theo đúng truyền thống đạo học phương đông; và như đã chép ở Đạo đức kinh -- Người biết không nói, người nói không biết [7] -- nên ngay cả những người trong cuộc là chính các hành giả cũng không dễ dàng tùy tiện thổ lộ cho nhau các bí quyết ấy. Tuy nhiên, để minh họa rất khái quát về ứng dụng của kinh Dịch trong thiền Cao Đài, có thể nêu ra đây ba ứng dụng cơ bản. Nói cơ bản vì những khái niệm đầu tiên này người mới học thiền Cao Đài, mới tập sự làm hành giả, đều phải biết qua về phương diện lý thuyết. Nói cơ bản vì đây chính là những kiến thức khá sơ đẳng và phổ thông trong kinh Dịch có thể dễ dàng tìm thấy trong các quyển kinh Dịch đã được công truyền từ lâu. Ba khái niệm cơ bản của kinh Dịch được ứng dụng trong thiền Cao Đài là: (1) bát quái tiên thiên và bát quái hậu thiên; (2) tương ứng giữa các quẻ Dịch với tuổi con người; (3) tương ứng giữa các quẻ Dịch với giờ, tháng và tiết. 1. Khái niệm về bát quái tiên thiên, hậu thiên Theo truyền thuyết, Phục Hy tạo ra bát quái tiên thiên, các quẻ theo thứ tự: Càn, Đoài, Ly, Chấn, Tốn, Khảm, Cấn, Khôn (Hình 1). Văn vương tạo ra bát quái hậu thiên, các quẻ theo thứ tự: Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài, Kiền, Khảm, Cấn (Hình 2). Theo các hành giả, bát quái tiên thiên với “trục” nam bắc là Càn-Khôn chính vị, diễn tả bản thể con người, theo đó tâm con người là tâm trời đất (thiên địa chi tâm) không bị điên đảo thị phi hay ô nhiễm kết tập. Hình 1: Bát quái tiên thiên Hình 2: Bát quái hậu thiên Bát quái hậu thiên cho thấy Càn bị lệch về hướng tây bắc, Khôn bị lệch về hướng tây nam. “Trục” nam bắc là Ly-Khảm. Ly (hỏa) là tâm còn Khảm (thủy) là thận, diễn tả hiện tướng con người, theo đó tâm người là phàm tâm, bị thị phi điên đảo chi phối, có xu thế gần vật dục mà xa tâm linh. Bát quái hậu thiên diễn tả cái dụng của con người. Tuy con người hậu thiên không phải là tiên phật nhưng trong bản thể con người đã sẵn tiềm ẩn một giá trị thiêng liêng, nếu biết tu bổ, trau giồi cái tiềm ẩn ấy thì con người sẽ từ phàm nhân trở nên tiên phật. Cái sẵn có trong con người, đó là âm dương. Không biết luyện thì âm dương theo sự vận động hậu thiên, nam nữ giao hợp, tinh huyết kết thành thai nhi, rồi cứ thế tạo hoài những chu kỳ sinh lão bệnh tử hay thành thịnh suy hủy. Biết tu luyện, chuyển âm dương hậu thiên (Khảm, Ly) trở lại âm dương tiên thiên (Khôn, Càn), thì con người đắc đạo, thoát vòng luân hồi sanh tử, trở thành tiên phật. Hình 3: Chiết Khảm điền Ly (Khảm Ly đổi lại Khôn Càn) Hình 4 &5: Hỏa thủy vị tế - Thủy hỏa ký tế Diễn tả khái niệm này, các hành giả có thuật ngữ chiết Khảm điền Ly, nghĩa là hoán đổi vị trí hào hai dương (cửu nhị) ở quẻ Khảm với vị trí hào hai âm (lục nhị) ở quẻ Ly (trong bát quái hậu thiên) để có được kết quả mà các hành giả gọi là Khảm Ly đổi lại Khôn Càn, chính vị như trong bát quái tiên thiên (Hình 3). Vị trí “trục” nam bắc của Ly, Khảm ở bát quái hậu thiên gợi ý về lý do cấu tạo quẻ sáu mươi bốn, quẻ chót hết của kinh Dịch, là quẻ Hỏa thủy vị tế (Hình 4). Vị tế nghĩa là chưa xong, chưa hoàn tất. Tại sao kết thúc kinh Dịch lại bày ra chuyện “dở dang”? Vì sao quẻ Vị tế lại phải nối tiếp Ký tế (đã xong, Hình 5)? Theo Cao Đài, một điểm tiểu linh quang từ Thượng đế (Đại linh quang) phóng phát, làm loài kim thạch (khoáng chất) rồi tiến hóa dần lên làm thảo mộc, thú cầm, trải qua biết bao nhiêu kiếp mới được mang thân làm kiếp con người (hóa nhân). "> Hình 6: Nhơn vật tiến hóa [Đại thừa chơn giáo 1950 Tuy vậy vẫn chưa phải là đỉnh cao của quá trình tiến hóa, mà mới chỉ là tạm xong cái hiện tướng con người với tấm thân huyết nhục cấu thành từ âm dương và ngũ hành, để có đủ điều kiện lập công, bồi đức, bền chí tu luyện cho đạt được cái “chưa xong” của sứ mạng làm người là tiến hóa lên làm tiên phật,[8] điểm tiểu linh quang (con người) trở về hiệp nhất với Đại linh quang (Trời, Thầy), hoàn tất chu trình tiến hóa (Hình 6). Các hành giả Cao Đài vì thế coi ba cặp quẻ (1) Càn-Khôn, (2) Ly-Khảm, và (3) Ký tế - Vị tế là những cặp có quan hệ với nhau. Thuật ngữ chiết Khảm điền Ly còn diễn tả chỗ dụng công của hành giả là chuyển hóa âm thành dương. Muốn nắm được bí quyết này con người phải tu. Trong quãng đời ngắn ngủi của kiếp người ở cõi thế, tu lúc nào là tốt nhất? Câu trả lời đặt trên cơ sở cho rằng con người theo tuổi tác tháng năm bị hao mòn dần, bị “âm hóa” từ chỗ thuần dương trở thành thuần âm, như một bình điện (ắc quy) cứ dùng mãi, không bồi bổ thì sẽ đến ngày hết điện, cạn bình. Có sáu quẻ Dịch minh họa quá trình con người bị âm hóa dần dần theo tuổi tác mà thuật ngữ kinh Dịch gọi là dương tiêu âm trưởng. (còn tiếp)
  18. Phoenix không được hết các hình lên. Chờ QTDD vậy.
  19. Khái niệm về sự tương ứng giữa các quẻ Dịch với giờ, tháng và tiết Việc tu luyện của hành giả trong ngày và trong năm có một thời khóa biểu bắt buộc. Sự tuân thủ chặt chẽ thời khóa biểu này giúp hành giả thực hành có hiệu quả quá trình phục dương (âm tiêu dương trưởng) để chế ngự quá trình con người bị âm hóa (dương tiêu âm trưởng). Hình 7 ( Biểu đồ 2: Tương quan giữa 12 quẻ Dịch, 12 giờ trong ngày và 12 tiết trong năm. Để định thời khóa biểu tu luyện cho hành giả trong năm và trong ngày, có mười hai quẻ Dịch được ứng dụng, tương ứng với mười hai tháng âm lịch trong năm và mười hai giờ trong ngày.Biểu đồ 2 (Hình 7) trên đây cho thấy sự tương ứng này bao gồm quá trình âm tiêu dương trưởng trong nửa chu kỳ đầu, và quá trình dương tiêu âm trưởng trong nửa chu kỳ sau. Biểu đồ 2a dưới đây trình bày quá trình khí dương tăng trưởng trong trời đất, từ giờ Tý (23.00-01.00) đến giờ Tỵ (09.00-11.00), từ tháng 11 đến tháng 4 âm lịch, từ tiết Đông chí đến tiết Lập hạ. Một dương sinh từ quẻ Phục (hào sơ cửu) và cực thịnh ở quẻ Càn (sáu hào dương). Giờ TÝ SỬU DẦN MẸO THÌN TỴ Tháng 11 12 01 02 3 4 Tiết ĐÔNG CHÍ ĐẠI HÀN VŨ THỦY XUÂN PHÂN CỐC VŨ LẬP HẠ Quẻ PHỤC LÂM THÁI ĐẠI TRÁNG QUẢI CÀN Biểu đồ 2a: Âm tiêu dương trưởng Biểu đồ 2b dưới đây trình bày quá trình khí âm tăng trưởng trong trời đất, từ giờ Ngọ (11.00-13.00) đến giờ Hợi (21.00-23.00), từ tháng 5 đến tháng 10 âm lịch, từ tiết Hạ chí đến tiết Lập đông. Một âm sinh từ quẻ Cấu (hào sơ lục) và cực thịnh ở quẻ Khôn (sáu hào âm).Ở Đông chí và Tý, nhân khi có một dương sinh (hào sơ cửu quẻ Phục), hành giả phải tấn dương hỏa để tăng thêm cho mình điểm dương. Ở Hạ chí và Ngọ, vì có một âm khởi (hào sơ lục quẻ Cấu) nên hành giả phải thối âm phù để chế giảm âm. Ở Xuân phân và Thu phân, ở Mẹo và Dậu, hành giả phải mộc dục để ôn dưỡng, giữ gìn khí dương đã có (thu liễm) được. Giờ NGỌ MÙI THÂN DẬU TUẤT HỢI Tháng 5 6 7 8 9 10 Tiết HẠ CHÍ ĐẠI THỬ XỬ THỬ THU PHÂN SƯƠNG GIÁNG LẬP ĐÔNG Quẻ CẤU ĐỘN BĨ QUÁN BÁC KHÔN Biểu đồ 2b: Dương tiêu âm trưởng · Kinh Dịch là một kỳ thư, với nhiều ứng dụng kỳ ảo vào các lãnh vực của đời sống con người. Riêng ứng dụng của Dịch trong thiền Cao Đài là một khía cạnh hầu như ít người biết (ngoại trừ các hành giả Cao Đài), và những điều khái quát trong bài này thật sự chỉ mới là một chút tơ tóc nhỏ nhoi, thô thiển nếu đem so cùng toàn thể nội dung nền nội giáo tâm truyền của đạo Cao Đài, một dòng thiền mới, và chữ “mới” này dĩ nhiên không phải chỉ hiểu đơn giản theo ý nghĩa về bề dày lịch sử hình thành. LÊ ANH DŨNG (01-3-1994) CHÚ THÍCH [1] Trường sinh bất tử hiểu theo dân gian là sống lâu dài, không chết. Hiểu theo đạo Cao Đài, chỉ có tu cho thành bậc kim tiên hay phật mới thoát ra vòng luân hồi, không còn bị luật sinh tử chi phối, và đó mới thực là trường sinh bất tử. [2] Chu, thần và đan (đơn) đều là màu đỏ thắm như son; sa là cát. Đạo Lão có môn phái thần tiên đan đỉnh dùng một thứ đá cát quến thành cục (sa thạch), lấy tay bóp vụn ra thành bột được. Đá cát này không mùi, vị lạt, có màu đỏ thắm như son, nên được gọi tên là chu sa, thần sa, đan sa. Cũng có sách cho rằng thần sa là chu sa của Thần châu. Đông y cho rằng chu sa có nhiều sắc đỏ khác nhau, càng thẫm màu càng tốt. Để thử, lấy tay bóp chu sa vụn thành bột, nếu màu đỏ không dính tay (không ăn da), đó là loại hảo hạng. Chu sa (cinnabaris) là hợp chất trong đó có chứa 86,2% thủy ngân (Hg: hydragyum) và 13% lưu huỳnh (S: sulfur). Khi đun chu sa, khí độc SO2 bốc ra, còn lại thủy ngân cũng là chất độc. Vì vậy, sách y cổ chỉ định phải dùng chu sa sống (mài với nước, không được đun nấu); những người lạm dụng chu sa có thể hóa ra si ngốc. Theo Đỗ Tất Lợi, Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam. Hà Nội: Nxb Khoa học Kỹ thuật, 1981, tr. 796-797; dẫn lại trong [Lê Anh Dũng 1995a: 82-83.] [3[ [Lê Anh Dũng 1995b: 59-65]. [4] Cao Đài gọi chung giáo lý của Nhất và Nhị kỳ Phổ độ là cựu pháp. Một số nội dung của cựu pháp vẫn được kế tục trong tân pháp Cao Đài, như duy trì luân lý đạo Nho (nhân đạo), ngũ giới cấm (đạo Phật), công quá cách (đạo Lão, nhưng gọi là vô ngã kiểm), v.v... [5] [Lê Anh Dũng 1996: 66-75]. [6] Có câu: Muốn tu đạo trời (tu giải thoát, tu thiền) trước phải tròn đạo làm người. Đạo làm người không vẹn vẽ thì đạo trời còn xa xôi vậy. (Dục tu thiên đạo, tiên tu nhân đạo. Nhân đạo bất tu, thiên đạo viễn hỹ.) [7] Chương 56: Tri giả bất ngôn, ngôn giả bất tri. [8] Theo Cao Đài, Trời và người đồng bản thể, bản thể ấy là linh quang (ánh sáng thiêng liêng). Vì đồng thể với Trời nên người sẵn có tính Trời (Thượng đế tính); và người cũng là một thiêng liêng ở cõi trần. Thánh giáo Cao Đài: Con là một thiêng liêng tại thế, Cùng với Thầy [Trời] đồng thể linh quang... (Ngọc Hoàng Thượng đế). Vì đồng bản thể với Trời cho nên người có thể học làm Trời: Tu hành là học làm Trời, Phải đâu kiếp kiếp làm người thế gian. (Lê Đại tiên) [9] Thiên quý: Quý là can chót trong thập thiên can (Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý). Quý thuộc thủy, ứng với thận. Thận là nơi con trai chứa tinh, con gái chứa huyết. Thiên quý ám chỉ thời kỳ trai gái tinh huyết đầy đủ, có thể sinh con. [10] Nội kinh: Nữ thất tuế (1x7), thận khí thịnh, xỉ canh phát trường; nhị thất (2x7) nhi thiên quý chí, nhâm mạch thông, thái xung mạch thịnh, nguyệt sự dĩ thời hạ, cố hữu tử... Nam tử bát tuế (1x8), thận khí thịnh, xỉ canh phát trường; nhị bát (2x8) thận khí thực, thiên quý chí, tinh khí dật tả, âm dương hòa, cố năng hữu tử... Dẫn theo [Đỗ Đình Tuân 1992: 173-174]. [11] Vì tinh màu trắng, thuật ngữ thiền gọi là trảm bạch hổ (chém cọp trắng). Vì huyết màu đỏ, thuật ngữ thiền gọi là trảm xích long (chém rồng đỏ). Thuật ngữ thiền có khi nói hàng long phục hổ (thu phục rồng cọp) cũng là ám chỉ việc “chế ngự” hai hiện tượng nói trên ở hành giả nữ, nam. [12] Theo [Đỗ Đình Tuân 1992: 118], nữ 49 (7x7) tuổi thì bặt kinh nguyệt. SÁCH BÁO THAM KHẢO CHỌN LỌC [Đại thừa chơn giáo 1950] Đại thừa chơn giáo. Sài Gòn: Chiếu minh đàn xb. [Đỗ Đình Tuân 1992]. Dịch học nhập môn. Long An: Nxb Long An. [Lê Anh Dũng 1995a]. Tìm hiểu Kinh cúng tứ thời. Huế: Nxb Thuận hóa. [Lê Anh Dũng 1995b]. Giải mã truyện Tây du tân biên. Hà Nội: Nxb Văn hóa-Thông tin. [Lê Anh Dũng 1996]. Lịch sử đạo Cao Đài thời kỳ tiềm ẩn 1920-1926. Huế: Nxb Thuận hóa. [TGST 1966-67] Thánh giáo sưu tập năm Bính Ngọ và Đinh Mùi (1966-1967). Sài Gòn: Cơ quan Phổ thông Giáo lý Cao Đài giáo Việt Nam xb. [TGST 1970-71] Thánh giáo sưu tập năm Canh Tuất và Tân Hợi (1970-1971). Sài Gòn: Cơ quan Phổ thông Giáo lý Cao Đài giáo Việt Nam xb. [TGST 1972-73] Thánh giáo sưu tập năm Nhâm Tý và Quý Sửu (1972-1973). Sài Gòn: Cơ quan Phổ thông Giáo lý Cao Đài giáo Việt Nam. (Hết)
  20. 2. Khái niệm về sự tương ứng giữa các quẻ Dịch với tuổi con người Các sách nghiên cứu Dịch thường cho rằng con trai thuộc dương, ứng với số 8; con gái thuộc âm, ứng với số 7. Số 8=1+2+5 gồm hai số dương 1, 5 và một số âm 2; dương nhiều, âm ít, nên 8 là số thiếu âm. Số 7=1+2+4 gồm hai số âm 2, 4 và một số dương 1; âm nhiều, dương ít, nên 7 là số thiếu dương. Nội kinh viết: Con gái bảy tuổi (1x7), thận khí thịnh, răng thay tóc dài; mười bốn tuổi (2x7) thiên quý [9] đến, mạch nhâm thông, mạch thái xung thịnh, có kinh nguyệt, nên có thể có con được... Con trai tám tuổi (1x8), thận khí thịnh, răng thay tóc dài; mười sáu tuổi (2x8) khí thận đầy đủ, thiên quý đến, tinh khí đầy tràn, âm dương hòa, nên có thể có con được...[10] Vậy con trai mười sáu tuổi và con gái mười bốn tuổi thông thường bắt đầu có tinh khí và kinh nguyệt; nếu giao hợp có thể sinh con đẻ cái trong vòng luân hồi sinh tử. Nhưng nếu muốn đoạn lìa sinh tử luân hồi cũng có thể khởi tu thiền từ tuổi này. Với con trai thì luyện tinh hóa khí, luyện khí hóa thần. Với con gái thì luyện huyết hóa khí, luyện khí hóa thần. Sự tu hành được ấn chứng bằng hiện tượng khô tinh ở nam; ở con gái là hiện tượng bặt dứt kinh nguyệt.[11] Nếu không tu khi còn dồi dào tinh huyết, đợi đến khi nam sáu mươi bốn (8x8) tuổi, tinh khí khô kiệt, nữ năm mươi sáu (8x7) tuổi, kinh nguyệt không còn, sẽ khó tu luyện (cũng giống như cây khô không còn sinh bông trái, tuổi đó cũng không mong sinh con đẻ cái chi được). Căn cứ theo đoạn văn trích từ Nội kinh như dẫn trên, các điểm “mốc” tuổi của con người là các bội số của 8 (với nam) hay 7 (với nữ), như được trình bày trong biểu đối chiếu sau đây: Tuổi 8 16 24 32 40 48 56 64 Nam 1x8 2x8 3x8 4x8 5x8 6x8 7x8 8x8 Tuổi 7 14 21 28 35 42 49 56 Nữ 1x7 2x7 3x7 4x7 5x7 6x7 7x7 8x7 Tuổi con trai 16, con gái 14 là lúc còn thuần dương, tượng trưng bằng quẻ Bát thuần càn (sáu hào dương, sáu vạch liền). Sau đó, con trai cứ mỗi tám năm, con gái cứ mỗi bảy năm lại “hao mòn” bớt một hào dương, đến khi nam 64 và nữ 56 tuổi [1][1] thì hoàn toàn thuần âm (sáu hào âm, sáu vạch đứt), đi đến chung cuộc của bát quái hậu thiên. Quá trình âm hóa này tương ứng với sáu quẻ Dịch: Cấu, Độn, Bĩ, Quán, Bác và (Bát thuần) khôn. Tuổi Nam Tuổi Nữ 16 14 24 21 32 28 40 35 48 42 56 49 64 56 Quẻ CÀN CẤU ĐỘN BĨ QUÁN BÁC KHÔN Biểu đồ 1: Quá trình dương tiêu âm trưởng trong đời người Theo Cao Đài, con người tu thiền vào tuổi nào trong đời là do nhân duyên và căn nghiệp của mỗi người. Tuy nhiên, về mặt ý thức, trên nguyên tắc lục dương (quẻ Bát thuần càn, sáu hào dương) biến thành lục âm (quẻ Bát thuần khôn, sáu hào âm) như Biểu đồ 1 trên đây, rõ ràng con người tu thiền còn trẻ chừng nào càng tốt chừng đó; giống như khi cỗ máy còn mới, biết bảo dưỡng thì vẫn tốt và dễ hơn là đại tu một cỗ máy cũ nát, rệu rã.(còn tiếp)
  21. Chị ui. Sửa lại như dưới đây mới đúng ạ: "Tâm lý của người hỏi mà được 1 câu đúng là mãn nguyện lắm rồi . Quan2nguyen đạt được 55% ĐÚNG ! ĂN XIỀN rùi . 1 chút tài = dầy công nghiên cứu + năng lực mới ĐÚNG được ngần ấy ! Đáng khen thay !" :lol: :lol: :lol: :P Phoenix thì dốt mấy khoản này lắm. Ì ạch thôi chị à.
  22. Đôi mắt này có chiều sâu nhưng rất vô cảm. Đó là cảm nhận của Phoenix.
  23. Phoenix cảm quẻ Sinh Lưu Niên: - trước mặt Thancodieutoan có một cái bát. Hỏi trong bát đựng quả gì ? Quả của một thứ cây trồng lâu năm. Vỏ màu có sắc xanh đậm nhưng không đều. Đoán là quả cam. - bao nhiêu quả ? Chỉ có 1 quả. - Bên cạnh cái bát có 1 cái đĩa, trên đĩa đựng gì Câu này để trả lời sau vì đang luận lại có người chen ngang. Hic :lol:
  24. Thancodieutoan thân mến, ACE Lạc Việt độn toán đúng là có rất nhiều cơ hội luyện tập. Nhưng ở topic này, Phoenix định tập trung vào luyện cảm ứng quẻ theo tượng. Và sẽ tổng kết các trường hợp đã luận để theo dõi kết quả cũng như rút kinh nghiệm chung. Do vậy Phoenix sẽ post giúp Thancodieutoan 1 hình ảnh nhé. ">
  25. Đi tìm cổ mẫu trong văn học Việt Nam- nguồn: http://www.vienvanhoc.org.vn PGS. TS Nguyễn Thị Thanh Xuân Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh 1. Năm xưa, trong khi nói về vô thức tập thể, C. G. Jung đã dành nhiều hứng thú cho cổ mẫu[1], ông trình bày rất tinh tế cái thế đứng cheo leo của cổ mẫu như là những cây trái mọc lên nơi giáp ranh của khu vườn lý trí và khu rừng bản năng. Không chỉ dừng lại ở đấy, C.G. Jung còn bàn sâu vào những biểu hiện của cổ mẫu trong văn học nghệ thuật. Trên phương diện này, tôi nghĩ rằng người đồ đệ số một của Sigmund Freud đã đi rất xa so với Thầy mình, trong những gợi ý quan trọng cho người làm văn chương. Không khẳng định cách tiếp cận cổ mẫu của mình là duy nhất đúng, là tối ưu, C. G. Jung xác định ngay một thái độ chọn lựa trong nhiều chọn lựa, và mời gọi ta trên tinh thần thoả thuận một cách đọc, khá khiêm tốn mà xác tín: “nhìn từ bên ngoài”. Nhìn từ bên ngoài, hẳn nhiên không thể bằng và do đó hoàn toàn không thể thay thế cách nhìn từ bên trong, đó là logic tự nhiên, và C.G. Jung nói rõ: “Có thể, nó (nghệ thuật - NTTX) như chính tự nhiên, đơn giản là hiện hữu nhưng không “biểu đạt” cái gì. Liệu có phải mọi “giá trị” chỉ đơn giản là sự giải thích mà lí trí thèm khát ý nghĩa cứ muốn nhất định buộc ràng cho sự vật? Có thể nói rằng nghệ thuật là cái đẹp, trong cái đẹp có sự đầy đủ và tự mãn của mình. Nó (nghệ thuật) không cần bất kỳ “ý nghĩa” nào cả (…) Khi tôi nhìn nghệ thuật từ bên trong, tôi đành phải tuân theo sự thật của quy luật này. Ngược lại, khi chúng ta nói về quan hệ của tâm lý học đối với tác phẩm nghệ thuật, chúng ta đã đứng bên ngoài nghệ thuật, và khi đó không còn lại gì khác cho chúng ta ngoài việc buộc phải suy ngẫm, buộc phải giải thích, để sự vật có giá trị - bởi khác đi, chúng ta nói chung không suy nghĩ được về chúng (…) Từ đó, cái lúc trước là hiện tượng thuần túy sẽ trở thành hiện tượng biểu đạt một điều gì trong chuỗi các hiện tượng kế cận nhau, trở thành sự vật có vai trò nhất định, phục vụ cho những mục đích nhất định, tạo ra tác động nghĩa”[2]. Và như vậy, đọc cổ mẫu là cách nhìn tác phẩm văn chương từ bên ngoài. Nhưng cách nhìn từ bên ngoài này không quy chiếu những chuẩn mực và tiêu chí có trước vào tác phẩm, để mà giải thích nó. Đọc cổ mẫu là đi tìm, chăm chú ghi nhận các hiện tượng cùng những cuộc gặp gỡ thường rất bất ngờ của chúng trong tác phẩm, xuyên qua thời gian và không gian, tra vấn và thử trả lời.Tác phẩm văn chương đầu tiên của nhân loại mà cổ mẫu ngả bóng vào là huyền thoại, hay nói khác đi, khi đến với khu rừng hào phóng rậm rịt huyền thoại, người đọc cổ mẫu có nhiều hy vọng tìm thấy những cái cần tìm đã được bảo chứng. Nói như S. Freud, “huyền thoại là những giấc mơ trần gian của nhân loại ở tuổi thiếu niên” và giấc mơ thuở ấy của con người, theo Gaston Bachelard, « mạnh hơn kinh nghiệm thực tiễn”. Bởi vì, « đối với người nguyên thuỷ, tư duy là sự mơ mộng được tập trung, còn đối với người văn minh, mơ mộng là một tư duy được thư giãn” [3] Trong trạng thái mơ mộng tập trung ấy, cái gọi là tư duy của người đời xưa rất khác với cái gọi là tư duy của người hôm nay : một bên mơ mòng/ một bên tỉnh thức ; một bên dùng trực giác/ một bên dùng luận lý ; một bên để vô thức ùa lên đến mức tối đa/ một bên xưng tụng giá trị của ý thức. Nhưng cổ mẫu không chỉ náu mình trong huyền thoại. Người đọc cổ mẫu sẽ không chỉ tìm về những trang viết của quá khứ mù xa ngất tạnh, mà còn phải đắm mình trên dòng sông chữ nghĩa hôm nay. Thế thì, có lối nào đi để gặp ? Khi gặp rồi, làm sao biết đó là cổ mẫu, đứa con lọt lòng của C.G. Jung ? Hay là cổ mẫu như ta quan niệm ? C.G. Jung đã dự liệu trước những vấn nạn đó cho chúng ta vì ông là người trải nghiệm. Ông nói : “Tác phẩm hiện ra trước chúng ta là hình tượng được chế tác hiểu theo nghĩa rộng nhất của từ này. Hình tượng này có thể phân tích được chừng nào chúng ta có khả năng nhận biết biểu tượng trong nó (…) ta có thể lấy luận điểm của Gherhart Haufman làm nền tảng: làm nhà thơ - nghĩa là cho phép đằng sau từ vang lên Nguyên - từ (NTTX nhấn mạnh). Dịch sang ngôn ngữ tâm lí học, vấn đề hàng đầu của ta được đặt ra như sau: có thể đưa hình tượng được khai triển trong tác phẩm nghệ thuật này đến nguyên-sơ-tượng (tức siêu mẫu-ĐLT) nào của cái vô thức tập thể” [4]. Theo phát biểu này, có thể nghĩ rằng đọc một tác phẩm theo tinh thần cổ mẫu là đi từ hình tượng đến biểu tượng, trong biểu tượng, lần ra cổ mẫu. Những tác phẩm không mang biểu tượng sẽ không là đối tượng của đọc cổ mẫu, hẳn nhiên. Nhưng có những tác phẩm mang biểu tượng hẳn hoi, cũng trượt ra ngoài tầm ngắm của chúng ta. Vậy là có biểu tượng và biểu tượng. C.G. Jung đã chia sẻ với chúng ta những thách thức có thật ngay từ việc nắm bắt biểu tượng: “Biểu tượng nhô lên như một lời trách cứ thường xuyên đối với khả năng suy xét và cảm nhận của chúng ta”. Trước hết, theo ông, đọc cổ mẫu sẽ không tính đến những biểu tượng văn học, như là một sản phẩm của ý thức, bởi vì : “Tác phẩm dự định có tính biểu tượng từ trước thì không đòi hỏi phải tinh tế đến vậy. Bằng ngay thứ ngôn ngữ đa nghĩa được dùng, nó như bảo chúng ta: “Tôi định nói nhiều hơn cái tôi nói thực; ý nghĩa của tôi cao hơn tôi”, mà chỉ quan tâm đến những biểu tượng văn học như là kết tinh của vô thức. Nhưng nếu những kết tinh từ vô thức cá nhân chỉ đưa ra tính triệu chứng, thì những kết tinh từ vô thức tập thể mới làm nên tính biểu tượng cổ mẫu. « Không bị dồn ép và không bị lãng quên», «Vô thức tập thể cũng không tồn tại tự nó và cho nó, do nó chỉ là khả năng, cụ thể là khả năng mà ta được thừa kế từ thời xa xưa dưới dạng một hình thức nhất định của những hình ảnh được ghi nhớ trong cấu trúc của đầu não, nói theo giải phẫu học, (…) Chúng bộc lộ chỉ trong chất liệu đã được tạo tác về mặt lí thuyết với tư cách là những nguyên tắc điều khiển sự tạo lập chất liệu…”(Sđd, tr.79). Thoát thai từ vô thức tập thể, nhưng cổ mẫu có tính tự trị của mình, bởi vì nó « sinh ra từ một khởi nguyên độc đáo và một năng lượng đặc thù. Chúng có thể, vừa bổ sung trong dạng thức biểu tượng riêng của nó, một sự chuyển dịch mang ý nghĩa, vừa tham gia vào một tình huống có sẵn với những xung năng riêng và những tư tưởng riêng của chúng. Trên phương diện này, chúng có vai trò như những mặc cảm. Chúng đi và đến tự do, bất ngờ, và thường thường, chúng chống lại hay điều chỉnh những dự định có ý thức một cách khó lường nhất »[5]. Bên cạnh hình tượng và biểu tượng, C.G. Jung còn dùng khái niệm motif, một đơn vị nhỏ hơn hình tượng. Người đọc văn học theo phương thức cổ mẫu thường dõi theo những motif lặp đi lặp lại trang tác phẩm để xác định cổ mẫu. Có mặt trong huyền thoại và rồi tái sinh, hoá thân trong tác phẩm văn học thành văn nhiều thế kỷ, cho đến nay, cổ mẫu đã có một hành trình rất dài cùng nhân loại, vậy khuôn mặt vóc hình của nó có gì thay đổi ? Theo C.G. Jung, « .. .sự hiện diện này có thể thay đổi rõ rệt trong tiểu tiết, nhưng không làm mất đi cái cơ chế nền tảng của nó” và với những biểu hiện kép về chức năng, cổ mẫu luôn tương tác với những cổ mẫu khác dệt nên một tấm thảm độc đáo về cuộc sống [6]. Trong một hứng thú rõ rệt, C.G. Jung nói đến khoảnh khắc xuất hiện tình huống huyền thoại và khoảnh khắc trải nghiệm huyền thoại, như là một giao cắt tương ngộ, giữa người viết và người đọc. Có thể gọi đó là khoảnh khắc hạnh phúc, bởi nó « bao giờ cũng được đánh dấu bởi cường độ cảm xúc đặc biệt ». Cắt nghĩa trạng thái này, C.G.Jung cho rằng, trong cuộc sống thường nhật, con người phải luôn nép mình để thích nghi, nên “do đó không có gì ngạc nhiên nếu ta gặp một tình huống bất ngờ, hoặc cảm thấy được giải phóng triệt để, thấy mình như mọc cánh bay, hoặc như có một sức mạnh không sao cưỡng nổi túm lấy mình. Vào những lúc ấy ta không còn là một thực thể cá nhân nữa, mà là chúng ta, là giống loài, giọng nói của toàn nhân loại thức dậy trong ta. Vì vậy, chỉ một cá nhân riêng rẽ không thôi sẽ không thể nào phát huy được hết các sức mạnh bản năng trong mình. Và cái chìa khoá để khai mở sức mạnh đó sẽ không bao giờ tìm thấy được bằng một ý chí tự giác quen thuộc không thôi[7]. Cổ mẫu lay động chúng ta, «bởi vì nó khơi dậy trong ta một giọng nói to hơn giọng nói của chính ta» và «Người nói bằng nguyên tượng dường như nói bằng hàng nghìn giọng, nó mê đắm và khuất phục, nó nâng cái mình mô tả từ chỗ ngắn ngủi một lần và tạm thời, lên chỗ tồn tại muôn đời, nhờ đó giải phóng trong ta tất cả những sức mạnh cứu vớt vốn từ xưa đã giúp cho loài người tránh thoát được mọi tai hoạ và thậm chí nén chịu được qua cái đêm dài nhất”[8]. C.G. Jung diễn tả rõ cảm xúc của mình khi tiếp xúc với cổ mẫu: «Trải nghiệm về cổ mẫu là một trải nghiệm căng thẳng và xáo trộn. Chúng ta dễ dàng khi nói một cách điềm tĩnh về cổ mẫu, nhưng đối diện thực sự với chúng là một việc hoàn toàn khác hẳn. Sự khác biệt ấy giống hệt như khi chúng ta nói về một con sư tử và khi chúng ta phải đứng ngay trước con sư tử ấy. Đứng trước một con sư tử, trong ta hiện lên một trải nghiệm căng thẳng và sợ hãi, và điều này có thể để lại dấu ấn lâu dài trong bản ngã chúng ta”.[9] Nhưng ai là người có được những khoảnh khắc đặc biệt ấy ? Làm sao nối kết tương giao với vô thức tập thể? Ghi nhận hiện tượng những «khuynh hướng tinh thần hoặc phương châm cuộc sống» vốn phiến diện, trong cá nhân, dân tộc và thời đại, C.G. Jung nói đến sự khác nhau giữa con người bình thường và con người khác thường: “Con người bình thường có thể chịu phụ thuộc vào phương châm toàn cầu mà không hề hấn gì; con người đi theo những con đường vòng, đường bên rìa thì không thể đi cùng với người bình thường trên những con đường bằng phẳng, rộng rãi, nhưng nhờ thế nó lại thành người khám phá được cái nằm bên vệ đường đang chờ được đưa vào cuộc sống ý thức. Sự khó thích ứng của nghệ sĩ thực sự là ưu thế của ông ta, nó giúp ông ta tránh được kiểu luận văn khô khan, biết đi theo niềm đam mê tinh thần và có được những cái người khác bị mất mà tự mình cũng không ngờ”. Không chỉ từ chối con đường thênh thang có sẵn, người sáng tác và người tiếp nhận cổ mẫu cần phải lắng nghe tinh tế ngữ điệu của nó :“Những ai không quan tâm đến tính tác động đặc biệt ngữ điệu cổ mẫu sẽ chỉ thấy mình ở trong một đống những quan niệm mang tính huyền thoại, và khi ấy người ta chắc chắn có thể thu thập theo kiểu để chứng minh rằng toàn bộ cái ấy đều có một ý nghĩa, nhưng điều ấy hoàn toàn sai. Những thi hài thường luôn luôn đồng nhất về mặt hoá học, nhưng những sinh thể thì không như vậy. Các cổ mẫu chỉ bắt đầu sống lại khi người ta nỗ lực và kiên trì phát hiện tại sao và làm thế nào chúng có một ý nghĩa đối với từng sinh thể như vậy”[10]. Những ý tưởng của C.G. Jung - trong những hiểu biết còn quá sơ sài của người viết tham luận này - quả thực là hấp dẫn, và lời mời gọi ân cần C.G. Jung cách nay 84 năm, vẫn còn sức vọng đối với tôi: «Nhưng có lẽ tôi có quyền hy vọng là các thính giả của tôi đã kịp suy nghĩ, không phải về những điều tôi nói, mà chính là về sự vận dụng cụ thể tất cả những điều đó vào tác phẩm thơ ca -nghệ thuật, như thế là đắp da đắp thịt cho bộ khung xương tư tưởng trừu tượng của tôi »[11], cũng như những tìm tòi thú vị mới đây của các nhà nghiên cứu Việt Nam: Đỗ Đức Hiểu, Đặng Anh Đào, Đỗ Lai Thúy…, tất cả đều đã khích lệ chúng tôi rất nhiều. Và tôi lên đường, đi vào khu rừng văn học của dân tộc mình, khu rừng biểu tượng, để mong tìm ra cổ mẫu… …(Còn nữa)