phoenix

Hội Viên Ưu Tú
  • Số nội dung

    1.107
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    2

Everything posted by phoenix

  1. Xứ Lào : Kiêng Cữ & Ma Quỉ 3 (tiếp theo) Hàn Lệ Nhân Theo lẽ còn một số thiên sứ mang hình ảnh Ấn Phật mà người Lào rất sùng kính như Phra In ( Thượng Đế ), Phí Thén, Phí Phrả ( Trời ), Nang Thorani ( nữ thần đất ), Thén Tẻng hay Pissanoukan ( thần mỹ thuật ), Thén Lổ ( thần chủ trì việc hợp nhất và tổ chức nhân quần ) v.v... và có thể lạm bàn liên miên về vô số Phí thuần Lào khác trên đất Lào như Phí Đôồng ( ma đồng ), Phí Pà ( ma rừng ), Phí phửm ( ma núi ), Phí Pủ tà ( tổ tiên, ông bà ), Phí Phò ( cha ), Phí Mè ( mẹ ) ... song thiển nghĩ như trên cũng tạm đủ để hiểu sơ về Phí, nhất là tạm đủ để hình dung tiềm năng tưởng tượng dồi dào của người Lào trong quá trình tạo ra thế giới Phí của riêng họ, trên đất nước họ, trong cuộc sống và lẽ sống của chính họ mà xét ra còn thật hơn thế giới - nghe nói và chỉ mới nghe nói sẽ đồ sộ huy hoàng - mà một nhúm người đã và đang tàn tâm, tàn lực mộng mơ. Dân số Lào quá ít lại quá đôn hậu để có thể thử thách lâu hơn nữa trong việc tạo dựng thế giới đồ sộ huy hoàng viễn mơ nầy. Cũng như ở hải ngoại, chuyện bán đất trên trời trong cộng đồng tị nạn đã đi trước cơ quan NASA của Hoa Kỳ những hai, ba mươi năm nay. Đa số rao giá cả là tùy hỉ, tùy tâm. Bán đất trên trời để ganh đua phóng lao tạo dựng những cơ ngơi nghênh ngang dưới đất vốn chính họ cho là cõi ta bà cát bụi, huyễn mộng, hư không ... : Thằng Tây là kẻ có thừa, Dù cho ngần ấy vẫn chưa thấm gì. Chúng sinh là kẻ mê si, Quẳng đi cái có khổ vì cái không. ( nhái Nguyễn Chí Thiện ) Thời điểm tổ chức nghi lễ cúng Phí Thời điểm tổ chức các nghi lễ cúng bái các Phí nói chung thường tùy địa phương và tùy hoàn cảnh đặc biệt. Đơn cữ Bun Xuồng Hưa ( lễ đua thuyền ) : Ở cố đô LuangPrabang lễ nầy được tổ chức hai lần vào tháng 7 - 8 và tháng 10-11 d.l., trong khi tại Vientiane và Champassak lễ nầy được tổ chức mỗi năm một lần nhằm tháng 10 d.l., và dĩ nhiên nghi thức tổ chức của ba cựu vương triều nầy đều có nhiều dị biệt. Trên phương diện quốc gia, thời điểm quan trọng nhất trong năm để hành lễ hồi hướng các Phí hộ pháp được gọi là Tháng Phí, uyển chuyển giữa tháng 5 và tháng 6 d.l., cọng thêm các buổi lễ thường niên được phối hợp chặt chẻ với các lễ Phật giáo, chẳng hạn Bun Pimay ( Tết Lào ), Bun Phr' Vệt hay Bun MahaSaạt ( ngày Đức Phật qui thăng nhập Niết Bàn ) ; Bun Băng Fay ( lễ cầu mưa ) ; Bun Oọc Vặt Sá ( Oọc = ra khỏi, Vassa theo tiếng Phạn = mưa, oọc vặt sá = ra khỏi mùa mưa và cũng có nghĩa là hết mùa cấm phòng của tăng ni ) ; Bun Xuồng Hưa ( lễ đua thuyền ) ; Bun Thạt Luống ( Hội Chợ That Luang ) ... Các vị chủ lễ Theo chỗ biết của tôi, danh từ Mó trong Lào ngữ có hai nghĩa, với hai giá trị khác nhau, tùy hoàn cảnh mà ứng dụng. Theo nghĩa thông thường, từ Mó là một tiếp-đầu-ngữ ( préfixe ) để chỉ sự khéo léo, chuyên môn trong một nghành nghề, chẳng hạn : Mó Khen = Người biết thổi Khèn. Mó Khoam = Người sinh nhai bằng lời nói = luật sư, trạng sư. Mó Lăm = Người chuyên ngâm, hò thơ văn dân gian, xuất khẩu thành câu, thành cú. Mó Sói = Người hay nói diễu, chọc cười thiên hạ. .... Mó Dà = Thầy lang, thầy thuốc. Mó Đù = Thầy bói. Mó Môn = Thầy bùa, thầy ngải. Mó Phí = Thầy trừ Ma, Thầy nuôi ma ; phù thủy, pháp sư. Mó Phon = Người rành nghi thức cúng bái trong các buổi lễ su-khoắn (1) hay trong các buổi lễ cầu đảo. Mó Thiêm , Nang Thiêm hay Mè Thiêm = Người lên đồng : Đồng cô, dồng cậu. .... nhưng khi ta nói Mó nỉ, Mó nẳn thì nghĩa lại khác, trường hợp nầy Mó là biệt từ để chỉ định ngôi thứ ba, vừa đdàn ông vừa đàn bà, chẳng hạn : Mó nỉ = Anh nầy, cậu nầyn chị nầy, cô nầy. Mó nẳn = Anh kia, cậu kia, chị kia, cô kia. Ì mó nỉ = cái cô nàng nầy, cái con nầy. Bặc mó nẳn = cái anh chàng kia, cái thằng kia. v.v... Mười vị Phí mà chúng ta đã lạm bàn, vị số 1 đến vị số 5 thuộc loại Phí haải tức Phí ác ; vị thứ 6 là Phí phi thiện, phi ác ; 4 vị sau cùng thuộc loại Phí Chày Đì nghĩa là Phí lương thiện, cũng có thể gọi là Phí Hộ Trì. Đối với các Phí Ác thì có các Mó như Mó Koong Koi để trị Phí Koong Koi, Mó Phệt để trị Phí Phệt, v.v... Còn đối với các Phí Hộ Trì cũng có các loại Mó, song mục đích của họ là chủ lễ các buổi cúng bái, cầu nguyện thể hiện lòng tin lên các Phí Hộ Trì : Mó Mương lo việc cúng bái cho Phí Mương, đôi khi phải trực tiếp hay gián tiếp làm trung gian qua ngả Thiêm ( lên đồng ) giữa Phí Mương và dân trong Mương. Mó Bản lo việc Phí Bản... nhưng, vì trong một Mương, một Bản nhiều khi có đến mấy Mó cùng nghề thành thử các phù thậu, phù kè ( Hội đồng bô lão ) trong Mương, trong Bản mới chọn lựa ra một Mó dày kinh nghiệm, cao tay nhất và là phật tử thuần thành, bầu lên làm Mó trách nhiệm, gọi là Chảo Cham. Chảo Cham hay Cham có trách nhiệm đại diện cho cả Mương hay cả Bản mỗi khi có cuộc tế tự chính thức long trọng ( tháng phí chẳng hạn ) hoặc gặp những trường hợp khó khăn, trục trặc mà các Mó non tay ấn giải quyết không xuôi, Chảo Cham mới can thiệp làm trung gian như đã nói trên. Các Mó lên đồng tục gọi là Nang Thiêm ( đồng cô ), Mè Thiêm ( đồng bà ) - miệt Nam Lào gọi là Mè Lăm - Mó Thiêm ( đồng cậu, đồng ông ). Đặc điểm của họ là lên đồng thì không cần nói ta cũng hiểu là họ có cách để tiếp xúc với giới vô hình tức các Phí nói chung. Quan hệ giữa họ và Chảo Cham thường thay đổi tùy địa phương. Ở miền Nam Lào, Mè Lăm nào tiếp xúc nhiều với các Phí Hộ Trì như Phí Mương, Phí Bản được sắp hàng đầu, Chảo Cham là trung gian giữa Mè hay Mó Thiêm và tín hữu. Tại đồng bằng Vientiane, Mè Thiêm là phụ tá của Chảo Cham. Có ba trường hợp để trở thành Mó Phí, Mó Phon ... nói chung : 1. Tự nhiên mà thành, ta gọi là " bẩm sinh ". 2. Theo thầy tu luyện 3. Sau một biến cố quan trọng như trường hợp dưới đây. Một cảnh so tài giữa Phí Pọp và Mó Phí Người Lào dùng động từ Khậu ( vô ) để chỉ tình trạng một người bị Phí chiếu cố ( Phí khậu ). nạn nhân của Phí Pọp thường là trẻ em, người đang dưỡng bệnh, đàn bà con gái mới trả xong món nợ hàng tháng ... Nhưng xét cho cùng vấn đề giống đực, giống cái cũng như chuyện đẹp, xấu của đối tượng không phải là tiêu chuẩn hàng đầu để Phí Pọp " vô ", điểm quan trọng tối hậu của sự chiếu cố là lối " ra " trên thân thể của nạn nhân. Chị A là người Việt sinh trưởng tại S., Lào. Gia đình chị ở trong xóm gồm đa số người Lào. Năm ấy chị đã trên 40, tánh tình cĩng nóng nguội thất thường như trăm vạn người khác, chồng con đã nên nề nên nếp, chỉ cái tội máu ham đen đỏ hơi lậm. Một ngày nọ, thần đen đỏ ám chị sao đó nên chị thua đậm, trở về nhà chị u uất, buồn bực vì lo chồng biết. và trong lúc chị đang lui cui sửa soạn buổi cơm tối cho gia đình thì có một bà cụ hàng xóm người Lào qua " mượn " chị chén nước mắm. Đang bực mình vì thua bạc lại có người đến xin khéo nầy nọ, không những chị không giúp bà cụ mà còn nhân cơ hội giặn cá chém thớt, gay gắt, xéo xỉa bà cụ nặng nề. Bà cụ nín thinh, hai tay nắm chặt cái chén như mốn bóp tan nó ra trăm mảnh, hai mắt mở thao láo ra nhìn trân chị A, mấy phút sau bà cụ vừa gục gặc đầu vừa cười gằn một tiếng rồi bỏ về... «Tối ấy, cơm nước xong mấy đứa nhỏ trong nhà qua nhà ông bà ngoại chơi, trong nhà chỉ còn hai vợ chồng. Vào khoảng 9 giờ, tôi - chồng chị A - xuống bếp tìm cái gạt tàn thuốc thì thấy nhà tôi ngồi thừ người trên ghế đẩu, chén bát bữa cơm tối còn ngổn ngang trong chậu. Theo thói quen, tôi hỏi nhà tôi : - Hôm nay lại " cháy " nữa chứ gì ? Nhà tôi không đáp. Tôi hỏi lại. Nàng vẫn ngồi im. Tôi lập lại câu hỏi thêm lần nữa, hơi gắt giọng. Bất thình lình, nàng ngước đầu lên nhìn tôi, ánh mắt gờm gờm, khiêu khích, môi mím chặt nhưng vẫn không trả lời. Tôi bắt đầu nổi nóng : - Đã nói hoài, đừng chơi với mấy con mụ cờ bạc gạo đó, thời buổi khó khăn mà cứ đem tiền đi nướng ... - Bộ một chén nước mắm đắt lắm hay sao ? - Vợ tôi trả lời bằng tiếng ... Lào, giọng khàn khàn. - Không đắt không rẻ nhưng không tiền lấy gì mà mua ? Tôi vẫn dùng tiếng mẹ đẻ. - Mả cha mầy, chỉ một chén nước mắm mà mầy lại chửi tao thậm tệ. Đồ khốn kiếp, tao cho mầy chết ... Nghe vợ tôi nói - vẫn bằng tiếng Lào - tôi khựng người vì lần đầu tiên nàng cả gan mở miệng chửi cha tôi, tôi nghe như máu chạy lên đầu, dùng tiếng Lào : - Cái gì, mụ vừa nói cái gì ? Đã nướng hết mồ hôi nước mắt của tôi lại còn già hàm hỗn láo, tôi lại cho mấy bạt tai rụng hết răng bây giờ ... - Tuổi tao còn lớn hơn tuổi cha mầy mà dám bảo là tao hỗn láo ? Rụng hết răng ? tao còn răng đâu mà rụng ... Nói xong, vợ tôi nghiến răng trèo trẹo rồi cười rú lên xằng xặc. Tôi để ý càng lúc giọng vợ tôi càng ồ như tiếng đàn ông. Tôi chưa kịp nổi doá thì bất thần nàng tụt quần xuống : - Bạt tai cái con c. tao đây nầy ! - ! ! ! Sống gần gũi người Lào từ thuở lọt lòng mẹ, lại từng biết qua nhiều chuyện huyền bí của họ, tôi cảm thấy có điềm gì không ổn và bắt đầu hoảng : - Bà là ai ? - Đi hỏi con vợ khốn nạn của mầy ! - Đến đây tôi biết ngay là nhà tôi đã bị Phí khậu, tôi hoàn toàn mất hết bình thỉnh, phóng ra khỏi bếp, tung cửa chạy qua nhà ông bà nhạc, mồm hét cầu cứu vang cả xóm ... Đêm ấy người Việt, người Lào trong xóm kéo nhau qua chật cứng nhà tôi. Trong thời gian tôi chạy ra cầu cứu với làng nước, không biết " vợ " tôi làm cách nào mà leo lên giường được, nằm quay mặt vào tường. Ai hỏi gì vợ tôi hay con Phí cũng nín thinh. Đưa nước cho nó, nó không uống mà đòi rượu trắng ; đưa cơm nó đòi xôi và Pà-đẹc ( một loại mắm cá của Lào ), lại đòi hút thuốc lá, đúng hiệu A đèng ( chữ A đỏ ) ... và nhiều yêu sách càng lúc càng kỳ quái khác hẳn thói quen của vợ tôi. Mọi người đều đồng ý con Phí " vô " vợ tôi là Phí đàn ông , nhưng chưa biết đích xác thuộc " Phí " gì. Có vài người bạn tình nguyện ngủ lại. Sáng hôm sau nhằm thứ tư, tôi xin nghỉ việc, ở nhà với mấy người bạn ngủ lại đêm qua, canh chừng nhà tôi, thấp thỏm chờ anh B rước ông thầy pháp tên C đến. Ông C là một việt kiều gốc Quảng Bình, thợ may kiêm nghề pháp sư, chuyên chủ lễ các buổi cúng cháo, cúng sao, lập đàn giải hạn cho các tín hữu việt kiều trong tỉnh S. (2) Đang gắt gỏng, hoặn hoẹ đòi hỏi đủ điều, bất ngờ A - vợ tôi hay con Phí - ngưng bặt, lẳng lặng nằm xuống giường, quay mặt vô tường, kéo mền trùm kín người. Ngoài nhà, có tiếng lao xao chào hỏi bằng tiếng Lào. Tôi vội chạy ra, mới biết pháp sư C bận việc phải về Paksé. Anh B bèn mới một vị khác, người Lào tên D, Mó Đù ( thầy bói ) kiêm Mó Phí ( pháp sư ), khá nổi tiếng. Chắc đã nghe anh B kể qua trường hợp của A nên thầy D không nói không rằng, đi thẳng vào phòng của A. Nhờ anh B đi lấy cho một cái đĩa. Trong lúc đó ông thắp hai ngọn nến. Anh B đưa đĩa vào, ông ra hiệu đặt đĩa lên bàn. Thầy D móc trong bọc vải ra 5 cặp hoa Champa ( hoa sứ, hoa đại ) đặt vào đĩa rồi thắp hai ngọn nến cắm vào hai bên mép đĩa. Hoạt cảnh bắt đầu, bằng tiếng Lào : Thầy D : - Hè hè …Bổn cũ lại tái diễn nữa rồi … Nhà ngươi là ai ? Muốn gì ? Người ta sẽ cho, xong cút ngay. Ta không dễ tánh đâu đa, cãi lời ta, ta sẽ không nương tay … A vẫn trùm mền nằm im. Thầy D giật tung cái mền. A không cựa quậy. Thầy D : - Xin cho biết tên ! Vừa nói, thầy D vừa vươn tay ra bắt ấn, đẩy tới phía A ( như tung chưởng ). A từ từ ngồi dậy, quay mặt lại, nhìn trừng trừng thầy D. Không lên tiếng. Thầy D tung tay ấn, cao giọng : - Ngươi là ai, muốn gì ? Hãy xưng tên mau ! - Đi hỏi con vợ khốn nạn của thằng nầy ! A trả lời, tay phải chỉ vào tôi, tay trái hất nhẹ vào khnôg khí một cái, như đuổi ruồi. - Không được hỗn … À, ra ngươi là một con Pọp già không nên nết. Tại sao lại " vô " người ta như vậy ? - Đi hỏi con vợ khốn nạn của nó! - Người ta đã bị mầy " vô " thì còn nói năng gì nữa. Nhà ngươi là ai ? Muốn gì ? - Tao sẽ cho nó chết … Thầy D lùi lại gần bàn, rót một ly nước lạnh, cầm đưa lên ngang cằm, miệng lâm râm niệm chú một hồi, thổi phù một cái vào ly nước. Lên tiếng : - Được rồi, ngươi không biết điều, thì hãy uống ly nước nầy. Thầy D đưa ly nước cho A. A vừa nhếch mép cười vừa đưa tay ra như muốn nhận ly nước, thình lình đập mạnh vào tay thầy D một cái, làm tung ly nước xuống nền nhà : - Thằng con nít, cút đi cho rảnh mắt tao, không tao lại vật luôn cả mầy. Hè, hè, hè … Thầy D rút trong bọc vải mang trên vai ra một cái roi đen thui dài độ 1 thước tây, quất vào người A. Không né, A chụp lấy roi. Hai bên giằng co. Thấy D niệm chú thành tiếng, nghe như tiếng Khạ. Càng lúc mặt thầy D càng đỏ, mồ hôi lấm tấm trên trán. A tóc tai xổ tung, bất ngờ buông tay một cái, thầy D mất thăng bằng, chới với xuýt ngã ngửa, may có cái bàn giữ lại. A rú lên cười, vỗ tay bôm bốp, nảy tưng tưng như trẻ con : - Thằng chó con ! Mầy còn ngón nào đưa ra hết tao coi … Thầy D lấy từ trong bọc vải ra một sợi chuổi có nhiều kà-thá ( bửu bối ) làm bằng đồng đỏ, đeo vào cổ, chấp hai tay để trưóc ngực, mắt nhắm nghiền, miệng niệm chú không ngừng …A ngưng ngay tiếng cười, khựng lại, nhím mày nhìn trừng trừng vào sợi chuổi. Đột nhiên thầy D thụp người xuống, cùng lúc dùng hai tay cởi sợi chuổi ra khỏi cổ, tung mạnh vào người A … A có vẻ hốt hoảng, lùi lại ngồi xuống bià giường, phát ra một tràng ngôn ngữ lạ, đưa hai tay ra bắt sợi chuổi, định giật đứt nhưng không biết nghĩ sao, tung trả lại phía thầy D. Thầy D bắt lấy chuổi kà-thá, cất vào bọc vải, vói tay tắt hai ngọn nến, không nói không rằng ra khỏi phòng A. Mọi người trong phòng hốt hoảng chạy theo. Thầy D nói với anh B : - Lão Pọp già thật ghê gớm, tôi phải về am lấy thêm vài món khác (3). Luôn tiện anh đưa tôi ra bản K., phải mời cho được thầy E ở đó, có ổng phụ một tay mới trị nổi lão già nầy. Quay qua tôi thầy dặn : - Sau trận thử sức nầy, lão Pọp già sẽ đòi ăn , đòi uống dữ lắm, ông chịu khó lấy lòng lão ta, chúng tôi sẽ trở lại ngay.» CÒN TIẾP kỳ tới : Cuộc đọ sức màn hai Chú thích : (1) Su-Khoắn = Lễ buộc chỉ cổ tay ( xem chi tiết trong bài Đám Cưới Lào, Đám Cưới Việt, cùng soạn giả ). (2) Soạn giả còn nhớ như in cảnh thân sinh soạn giả, sinh thời, đã đạp đổ tan tành đàn giải hạn do pháp sư C lập ra theo lời thỉnh cầu của mẹ soạn giả vốn là thân chủ của ông ta. (3) Đây là tiếng lóng các Mó thường dùng khi tự thấy non tay hơn Phí. (còn tiếp)
  2. Xứ Lào : Kiêng Cữ & Ma Quỉ 2 (tiếp theo) Hàn Lệ Nhân Khi bạn hỏi một người Lào : " Ma là gì, có thật hay không ( Phí mèn nhắng, mi thẻ lứ bò ? " . Họ sẽ thành thật trả lời : " Cũng không biết nữa ( kà bò chắc léo ) hay chằng-và là nơ ( thì thế ). Câu trà lời thứ nhì có ngụ ý Có và Không, tức bạn muốn hiểu sao thì hiểu hay nếu muốn, tùy hoàn cảnh để mà hiểu. Khi bạn hỏi họ đã từng thấy ma ( phí ) chưa mà họ có vẻ hốt hoảng trả lời bạn bằng mấy tiếng " hoày ( oái ) " hay " dzồ ( ồ ) " thì bạn nên tế nhị, lịch sự ngừng ngay việc đặt câu hỏi. Mấy tiếng " hoày ", " dzồ " là một cách biểu lộ sự … kh'lăm của họ ! Họ không thể hoặc không muốn giải thích cho bạn nhưng tựu trung Phí đối với họ là tất cả hay không là gì hết ; hoặc bất cứ một đồ vật, một hình tướng nào cũng có thể tiềm ẩn một linh hồn, một loại Phí với một tên gọi riêng biệt : Nhận Diện Các Phí 1. Phí Koong Koi (Ma Koong Koi) Phí Koong Koi : Ma cô độc, ma rừng núi … thích ăn ruột, gan, lòng thú và … người sống. Phí Koong Koi thường xuất hiện ở miệt Trường Sơn biên giới Lào-Việt dưới dạng một người (đàn ông hay đàn bà ) thấp nhỏ, cao độ 1 thước 20 phân, tóc hung hung đỏ, đi chân không. Phí Koong Koi có hai bàn chân khác thường, ngược chiều : Gót ở phía trước, các ngón chân ở phía sau ! Tên Koong Koi là một nghĩ-thanh-từ ( onomatopée ) vì theo những người sinh sống trong rừng sâu kể lại, vào khoảng 3, 4 giờ sáng Phí Koong Koi thường kêu lên " koong koi, koong koi ", đó là tín hiệu Phí Koong Koi ngưng cuộc săn mồi hàng ngày và sửa soạn trở về sào huyệt. Nhưng sau mấy tiếng " koong koi, koong koi " lại đệm thêm tiếng " koóc " ngắn gọn thì phải coi chừng, đó lại là tín hiệu cho biết Phí Koong Koi đã chụp được một con mồi ( người ). Khi nghe tiếng kêu " koong koi, koong koi " người ta dạy là tuyệt đối không được ngủ và phải đốt lửa lên thành ngọn. Mó Koong Koi là thầy phù thủy chuyên môn săn bắt Phí Koong Koi. 2. Phí Pọp (Ma lai) Phí Pọp là loại ma thâm trầm độc ác, người Việt gọi Phí nầy là Ma Lai hay Ma Chài. Có hai loại Phí Pọp : A. Pọp Môn ( pọp phép ) : xuất xứ từ những người bình thường như mọi người bình thường khác nhưng, một buổi đẹp trời được " khải thị " sao đó bèn ôm mộng có quyền phép siêu nhân, tình nguyện giữ giới để tu luyện bùa ngải ( khoóng đì ) như phép gồng ( môn khôông ), phép lặn lâu ( môn suột nảm )…v.v…(1) rồi vì không chuyên hay không kiêng cữ ( không kh'lăm ), phạm giới này nọ bùa ngải mới tác quái biến họ thành Phí Pọp. Trường hợp bị dị ứng nầy có thể so sánh với trường hợp bị tẩu hoả nhập ma của các nhân vật võ hiệp của Kim Dung, của Ngoạ Long Sinh, của Cổ Long … khi họ bất cẩn trong thời gian luyện tuyệt chiêu kiếm pháp hay bí kíp thất truyền. B. Pọp Sưửa (pọp gia truyền ) : khi người cha Phí Pọp chết đi, Phí Pọp trong xác ông có thể xuất ra, rồi tìm nhập vào một người con hay một người trong quyến thuộc. Đặc điểm của Phí Pọp được di lưu như sau : - Dáng cách lừ đừ, mắt đỏ ngầu lại láo liên thường trực, hay nhìn xuống đất không dám nhìn thẳng vào mặt người đối diện vì, theo truyền thuyết, trong hai tròng mắt của họ có hình hai chú khỉ tí hon lộn ngược ! - Phí Pọp khoái " vô " đàn bà, trẻ con để … rút ruột. 3. Phí Phôông Phí Phôông : Ma thích ăn thịt sống. Hầu như người Lào nào cũng sợ Phí Phôông. Tại sao ? Có gì đâu, từ thuở còn nằm ngửa trong nôi trẻ con Lào đã " được " mẹ hiền đem hai tiếng Phí Phôông ra làm ngáo ộp, mỗi khi chúng mè nheo, mít ướt : Nín đi con, không thì Phí Phôông đến đấy ! Phí Phôông thích hút nước mắt trẻ con lắm đấy ! Cũng như Phí Pọp, Phí Phôông là loại ma ẩn thân trong một người chơi bủa ngải nhưng phạm giới. Khi lên cơn, nó có hai luồng lân quang thò ra thụt vào từ hai lỗ mủi, khi tắt khi tỏ trong đêm tối. Phí Phôông không khoái nước mắt mà chỉ khoái những thức tanh hôi, dơ dáy, đồ thừa thiu thối và cả các ếch nhái chẩu chàng… nên đêm khuya nó đi lùng kiếm ăn ở các thùng rác, các ao tù và nhất là hay vô các làng bị bỏ hoang, do đó mới có câu thành ngữ : " bản hảng dà vè, sáo kè dà chả " nghĩa là : " Làng hoang đừng ghé, gái già đừng ve ". Đến khi chết đi, " hồn " Phí Phôông langthang tìm kiếm một chỗ " trú thân " khác. Nếu có một người nào đó chẳng may bị chết dữ mà Phí Phôông biết được, " hồn " nó sẽ nhập vào hồn kẻ xấu số, tức khắc hai hồn nhập một đó sẽ tự động biến thành Phí Phai. Do đó, khi một người có Phí Phôông trong thân chết đi người ta gom tất cả các bùa ngải của đương sự mang tới giao cho các sư trong chùa để các vị nầy làm phép giải, phép yếm. Khắc tinh của Phí Phôông là Mó Phôông. 4. Phí Phai Phí Phai : Loại ma thích hút máu tươi, một thứ ma cà rồng nhưng hiện hình dưới dạng gà hay chim đêm lông trắng, vỗ cánh bay lượn dưới chân những ai hay thơ thẩn một mình ở các nơi vắng vẻ hay ở các nhà xác. Khi Phí Phai chết đi sẽ biến thành Xáng tức loại ma ghê gớm, hung ác hơn cả cọp, nói một cách khác, Xáng là loại ma ở cấp hai tức Ma của Ma. Nhưng theo truyền thuyết, Ma Xáng không còn lai vảng gần chúng sinh nữa, may thay ! Thành ngữ Lào có câu : " Phí Xáng haải phôộc chọp kin ván Bò thò khôn hau lón loọc kin kăn thẻ ". Nghĩa là : " Ma Xáng hung ác lại rình ăn ngọt Đâu bằng con người lọc lừa để ăn nhau thật " Thầy phù thủy trị Phí Phai tục gọi là Mó Phai. 5. Phí Nha Vay Đây hẳn là một loại Ma đã tuyệt giống, các tự điển Lào chính thức nói chung vắng mặt tên Phí Nha Vay, mà quí vị Mó Phí dày kinh nghiệm cũng không biết tới, dù đã cố công truy tìm trong các tài liệu nghiên cứu về nhiều loại Phí soạn bằng văn tự cổ sơ. Ông Serc Voravongsa miêu tả Phí Nha Vay như sau : " Phí Nha Vay hiện thân dưới dạng một con vượn bạch tạng, mặt lọ khổng lồ, di chuyển từ cành cây nầy qua cành cây khác bằng tứ chi dài ngoằng. Bạn lỡ gặp Phí Nha Vay điều cần tránh là đừng bao giờ ngó thẳng vào mắt nó vì nó cho đó là sự trêu chọc, khiêu khích ; dù có súng tốt cũng đừng manh tâm bắn nó, chỉ tổ làm nó điên tiết, tàn nhẫn hơn. Có một cách để giết Phí Nha Vay là dùng Ngua-tha-nu ( bùa ngải hình bò mộng ) phóng vào đầu nó. Nhưng sau khi chết nó sẽ biến thành gì ?" Đố bạn đọc đấy. 6. Phí Phệt Phí Phệt là loại Ma duy nhất được Phật giáo Lào công nhận như một hiện hữu chính thức, cho đó là các vong linh của những kẻ lúc sinh thời tạo nhiều nghiệp dữ ( kằm haải ), gây nhiều tội ác ( hệt bạp ), nên sau khi chết hồn không được siêu thoát mà phải vất vưỡng trầm luân để trả nghiệp ( sảy kằm ), đền tội ( sảy bạp ). Phí Phệt thường hiện hình dưới nhiều loại bóng khác nhau, kỳ dị và dễ sợ nhưng không dọa người, không ác độc. Hàng năm vào 14 hạ tuần tháng 9 Lào (tháng 8 d.l.) người Lào tổ chức bun " Hò Khậu Pă Đắp Đinh " và ngày trăng tròn tháng 10 Lào ( tháng 9 d.l.) thì tổ chức bun " Hò Khậu Sà Lặc " tức hai ngày lễ chính thức dành cho người quá cố, dĩ nhiên Phí Phệt cũng có phần ; tương tự mỗi rằm tháng 7 tức lễ Vu Lan người mình tổ chức lễ xá tội vong nhân, lễ thí thực cô hồn, lễ phóng sinh, lễ cầu siêu cho oan hồn uổng tử chóng được siêu thoát, tái sinh... Đối với Phật giáo Lào mọi Phí đèu là Phệt tức mọi thứ Ma đều có thể tái sinh làm người rồi sau cùng thành Phật. Còn người Lào - Phật tử hay không - thì phân loại rõ ràng : Có loại ma hiền lành, tốt bụng ; có loại ma hung dữ, ác độc. Loại ma hung dữ ác độc ( phí chày haải )thì xin miễn dài dòng. Loại ma lương thiện, tốt bụng ( phí chày đì hay thevada, tạm dịch là Thần) gồm bất luận phí hộ trì nào bảo vệ ruộng nương, thôn làng cho họ hoặc phí nào hoan hỷ đáp lại nào cầu xin, nào nguyện vọng của họ như tiền của, may mắn, đỗ đạt, danh vọng, trường thọ ... ; số đề, số lô-tô, v.v... Dĩ nhiên, khi cầu xin thân chủ không quên hứa khả với Phí chày đì là nếu được - một phần - như ý họ sẽ làm bun ( lễ ) thật long trọng trong chùa, hồi hướng công đức ; trường hợp là Phí Phệt thì có thể sớm đi đầu thai. (1) 7. Phí Mương Phí Mương là Phí chày đì ( ma lương thiện ) có nhiệm vụ bảo vệ cho cả tỉnh ( mương ) và các vùng phụ cận. Phí Mương không có mẫu hình tượng và miếu thờ ( Hó ) nhất định mà tùy sự diễn đạt của từng địa phương. Phí Mương tại cố đô LuangPrabang được thờ cúng trong 12 ngôi Hó, vì dăn ở đây tin rằng Phí Mương có phép biến hoá thành nhiều vị, đứng đầu là các Thê Va Đa Luống ( Thevada = thần thánh, luống = lớn ) gồm hai vị tổ tiên của dân tộc Lào tục gọi Pu Nho Nhà Nhơ, tương tự Âu Cơ và Lạc Long Quân bên ta, sau đó là các vị vua ( chẩu si-vít = chủ sinh linh ) sùng tín tín ngưỡng nầy. Thời quân chủ Lào ( trước 1975 ), tại cố đô LuangPrabang song song với Phí Mương còn có Lắc Mương ( cột trụ trấn tỉnh ). Có ba huyền thoại về Lắc Mương được kể lại như sau : A. Một ngày kia, nhân xuống tắm dưới sông Nam Khan ( chi lưu sông Mékong, LuangPrabang ), một lão bà bắt gặp một thân cây đàn hương màu đỏ, do linh cảm bà biết đây là một thánh vật bèn vớt lên và đem trồng. Khi mọi người vừa đào xong hố để trồng thánh vật thì một thiếu nữ trong làng, cũng do linh cảm muốn kết duyên với vị thần mới nầy, nhảy xuống để được chôn theo chồng hầu chia sẻ nhiệm vụ bảo vệ số phận của tỉnh. B. Lắc Mương là một trong bốn cột trụ do hai vị ẩn sĩ cắm xuống đất để phân ranh lập kinh đô trong tương lai ( LuangPrabang ). C. Năm 1563, để tránh sự dòm ngó của Miến Điện, vua Setthathirat quyết định chọn Vientiane làm kinh đô mới - kinh đô cũ là LuangPrabang - cho Vương Quốc Lản Xảng, tên cũ của nước Lào. Trong khi vua và quần thần đang sửa soạn để trồng cây Lắc Muơng thì có một thiếu phụ tên Sáo Sí đang mang thai, do linh cảm hay được khải thị sao đó, nhảy xuống theo và hiển linh thành thần hộ trì của kinh đô Vientiane. Ngày nay tại Vientiane vẫn còn dấu tích, đó là phường Sí Mương ( Sí Mương = Tỉnh của bà Sí ), Vặt Sí Mương ( chùa trong tỉnh của bà Sí ) và Hó Mè Sí Mương ( miếu thờ Mẹ Sí ). 8. Phí Bản Phí Bản còn được gọi là Phí Hặc Sá Bản ( Ma hay thần bảo vệ thôn làng ) hay Phí Hặc Bản ( Ma hay thần yêu thôn làng ). Phí Bản có một đặc tánh rõ nét, chính xác hơn Phí Mương vì thôn làng ở Lào thường có lối sinh hoạt tự trị, giữ vững bản sắc của mình, ít bị chi phối bởi trung ương. vai trò của Phí Bản là bảo vệ đất thôn đất làng, đồng thời bảo đảm sự thịnh vượng vật chất cho dan thôn, dân làng, sức khoẻ và sự trường tồn của con người và gia cầm. Chỗ thờ phượng Phí Bản thường là một cái miếu nhỏ bằng gỗ tục gọi là Hó Phí Bản nằm trên một lùm cây ven làng. Người Việt gọi Phí nầy là Thành Hoàng hoặc Định Phúc Thần. 9. Phí Khun Vặt Hầu như mỗi chùa Lào đều có một Phí Khun Vặt ( thần chùa ) tức vị hộ pháp bảo vệ chùa mà biểu tượng dĩ nhiên là Đức Phật. Hó Phí Khun Vặt là một bàn thờ nhỏ thường do một người thế tục chăm nom việc nhang khói, cúng đơm. Chùa Việt nhiều nơi có thờ hai tượng hộ pháp là ông Khuyến Thiện và ông Trừng ác hoặc Tam Châu Hộ Pháp tức Vi Đà Thiên tướng quân, một vị thiên tướng tuân sắc chỉ của nhà Phật hộ trì Phật-Pháp trong ba châu : Đông châu, Tây châu và Nam châu. 10. Phí Hươn Phí Hươn ( Thần hay ma nhà ) có nhiệm vụ cai quản và bảo vệ gia quyến, nhà cửa cho tín chủ, có tầm quan trọng ngang với Phí Bản. Có thể nói Phí Hươn là một loại Phí hợp thể giữa Phí Bản ( thổ công ), Lắc Mương ( cột trụ trấn tỉnh ) và Phí Pù Tà ( vong linh các tổ tiên ) của gia chủ. Hó an vị Phí Hươn thường được đặt ngay cửa chính trong nhà hoặc cạnh cầu thanh lên nhà sàn. Người Lào tin rằng nhờ Phí Hươn mà các Phí Haải ( ma ác ) không xâm nhập quấy phá, làm hại những người trong nhà. Do đó khách đến viếng và ngủ lại nhà người Lào phải làm lễ xin phép Phí Hươn, đặc biệt chú rể mới, trước khi chính thức về nhà cha mẹ vợ, phải nhớ mang lễ vật tới cúng Phí Hươn. Việt nam có câu " đất có thổ công, sông có hà bá ". Thổ công Việt, Phí Hươn Lào đều là đệ nhất gia chi chủ của bên nầy hay bên kia núi Trường Sơn. Còn Tiếp Ký tới : Cuộc đấu phép giữa Ma Lai và thầy phù thủy Chú thích (1) Bên Pháp, chính phủ đứng chủ cái rất nhiều trò chơi cờ bạc, ví dụ Loto là lối chơi mà người chơi chọn 7 trên 49 số, từ 1 đến 49. Chỉ cần 6 số trúng cũng đã đủ lãnh lô độc đắc đôi khi lên tới 2,3 chục triệu Euros, nhưng để viết bài nầy, chính tôi đã chứng kiến một buổi hầu đồng tại vùng phụ cận Đông Paris, có tín chủ người Lào rất thành khẩn xin Khun Phò ( cha, một vị ma thiện ) giáng khẩu cho đủ 7 số trúng ! Chắc ăn mà. (còn nữa)
  3. Ảnh Giá cô Bơ - Áo xanh Nguồn: http://www.langven.com
  4. Một hình ảnh lên đồng - Nguồn: www.photo.vn ">
  5. Ảnh "Cậu” Tâm đang nhập vai trong một giá đồng - Hình ảnh trong bài Lễ Hội Lên Đồng đã giới thiệu
  6. Lạc vào thế giới hầu đồng Nguồn: www.vtc.vn/phongsu Đó là một thế giới rộn ràng tiếng nhạc,nỉ non lời hát văn, nghi ngút khói hương và ngùn ngụt những đàn đại mã bị khoá kiếp thành tro. Thế giới của những đền, những phủ, những đồng cô, đồng cậu, với mê muội những con nhang, đệ tử trong các buổi hầu đồng, khấn bóng. Lao vào thế giới đó, ngoài những người làm ăn buôn bán, còn có cả những người được gọi là trí thức, thậm chí, có cả những người đang nắm quyền chức ở bộ nọ, ngành kia... Con đường vào đồng Tiến là con út trong gia đình có 6 anh em, đã từng là một trong những tay anh chị có tiếng ở ga Trần Quý Cáp, Hà Nội từ hồi chưa giải phóng về tiêu thụ hàng ăn cắp, dưới trướng có đến vài chục đứa lưu manh, sẵn sàng phục vụ. Ai cũng nghĩ cả đời hắn sẽ gắn với kiếp lưu manh chuyên nghiệp. Nhưng một điều bất ngờ đã xảy ra mà ngay cả hắn và gia đình cũng không nghĩ tới. Hắn rũ bỏ tất cả để đi theo con đường tu hành, do tình cờ một lần mua vé tàu hộ một nhà sư vào Huế. Rồi sau đó được nhà sư giác ngộ đến mức hắn đi tầu trốn vé, từ Hà Nội vào Huế để tìm nhà sư. Trải qua 8 năm ăn chay, niệm Phật, có lẽ đời hắn cũng lại một lần nữa không ngờ khi hắn không có duyên với Phật. Chính nhà sư nhận hắn vào chùa đã cho hắn tiền để trở lại Hà Nội. Về nhà một thời gian, rồi chỉ qua một giấc mơ, thế là ngày hôm sau hắn tìm đến đền Ghềnh, Gia Lâm. Khi lễ xong, hắn được ông đồng già ở đây đồng ý cho hắn làm chấp tác, thay hương, dầu trong đền. Cũng không hiểu tại sao 8 năm tu hành vào tận xứ Huế hắn chẳng thể nào nhớ nổi một trang kinh Phật, nhưng mới làm chấp tác tại đền Ghềnh vài ngày, hắn đã thuộc làu làu các vị thánh, ông hoàng, bà chúa. Click this bar to view the full image. " Nghi lễ" Chỉ ít ngày sau, hắn được ông đồng già truyền cho cách mở phủ lập điện. Như có Thánh giáng, ông Hoàng nhập, hắn nhảy đồng lập phủ trôi chảy, khéo léo đến khó tin. Cho tới bây giờ, Tiến gù cũng đã ngót ngét 60 tuổi rồi, đã là đồng thày nổi tiếng trong giới đồng bóng khắp trong Nam ngoài Bắc, với 12 va li khăn trầu, áo ngự đã cất, con nhang, đệ tử không thiếu, ngay cả những người có quyền cao chức trọng, có địa vị trong xã hội, mà cũng phải nể lắm thì đồng Tiến mới lập điện, mở phủ cho. Trừ khi ngồi đồng lúc thánh giáng còn ở ngoài đời, không ai có thể đoán được tuổi của của người đàn ông tự nhận là “bà” này. Quần áo đồ hiệu chính cống, nhẫn vàng đeo đầy tay, móng tay lúc nào cũng được sơn sửa một cách điệu đàng, kỹ càng, và tất nhiên, điện thoại “bà” dùng cũng phải là đời cao, gọi không tiếc tiền. Mới chỉ mỗi việc sắp lịch và đi dự những buổi hầu của các đồng trẻ thôi cũng đủ làm “bà” đồng Tiến bận rộn đêm ngày. Tuy ít tuổi hơn thầy đồng Tiến cả một giáp, nhưng cũng nổi tiếng không kém về tài mát tay mở phủ, kêu thay, cầu đỡ với những động tác nhảy đồng dẻo không ngờ đến nỗi những người đàn bà trong giới đồng bóng cũng phải bái phục và kính nể, đó là "Hải bơm", ở Quán Thánh Hà Nội. Không giống như đồng Tiến, phải đến lúc thanh niên mới phát hiện ra mình có căn, có quả, nên mới quyết định đi theo thánh, mà theo lời mẹ của “cô” đồng "Hải bơm" thì lúc mới 6 tuổi, thằng bé Hải – con trai thứ 3 trong gia đình bà, đã bắc ghế với vỏ bao hương để ngậm cho môi đỏ. Lúc đầu, bà chỉ nghĩ đó là chuyện của trẻ con. Nhưng càng ngày bà càng thấy con trai mình không như những bé trai cùng phố, chỉ thích chơi những trò cùng con gái như nhảy dây, bán đồ hàng, đặc biệt là Hải rất thích búp bê. Điều làm bà bàng hoàng nhất là khi bà phát hiện ra trong người thằng con trai của mình lúc 16 tuổi có một bộ đồ của phụ nữ. Vừa xấu hổ, hoang mang, vừa thương con, bà và những người anh của Hải đã khuyên răn, kể cả đánh đập Hải. Sau một thời gian thấy không có kết quả gì, bà đành phải nuốt nước mắt chiều lòng con, để cho nó theo nghề đồng bóng. Bà tự an ủi mình rằng “nó bị như vậy cũng là gánh quả kiếp cho cả nhà rồi!” Bây giờ, ngay tại tầng 3 của nhà bà là một gian điện thờ tam toà tứ phủ khá to đẹp và sạch sẽ do con trai bà là “cô” đồng "Hải bơm" ngày ngày đèn nhang, hương nến. Hiện tại, thu nhập của cả gia đình bà trông cả vào lộc thánh của “cô” đồng Hải. Sau một thời gian dài kỳ thị, nay những người ở khu phố từ người già đến trẻ con, đều gọi người đàn ông 42 tuổi có dáng đi nhẹ nhàng, giọng nói khó phân biệt là giọng nam hay nữ bằng cô. Nếu có ai lỡ mồm gọi bằng bác, chú, hay anh thì thế nào cũng bị “cô” đồng Hải té tát cho một trận nhớ đến già. Thế giới hầu đồng Nếu không tận mắt chứng kiến một buổi hầu đồng mở phủ, thì không ai có thể tưởng tượng hay tin được rằng: để có được một buổi hầu đồng hoàn hảo thì khổ chủ phải bỏ ra bao nhiêu tiền mua mã, sắm lễ, trang bị quần áo, thuê phường hát văn. Tuy đã chuẩn bị sẵn tinh thần, nhưng chúng tôi cũng không thể nghĩ được rằng một buổi hầu đồng tại đền Bồ Đề – Gia Lâm cách đây ít hôm lại quy mô và kéo dài đến như vậy. Giới hầu đồng vẫn có câu “tuỳ tiền biện lễ”, và phải chứng kiến tận mắt mới hiểu được sự vô cùng trong giới này. Để chuẩn bị được một buổi hầu đồng thì trước đó 1 tuần, các thợ mã chuyên nghiệp của Hà Tây đã phải đến đây tập kết nguyên vật liệu để làm một đàn đại mã, có tên Long Tu Phượng Mã. Long Tu Phượng Mã bao gồm 3 ngựa: đỏ, vàng và trắng. Mỗi con đều to hơn những chú ngựa vẫn chạy trong rạp xiếc 1 voi xám với tỉ lệ 1/1 so với những chú voi thật, ngoài ra còn có một thuyền rồng dài 3,5m rộng 0,8m được trang trí cầu kỳ. Tất cả những thứ trên được đặt ở sân đền vì chúng quá to để có thể đưa được vào bên trong hậu điện, nơi gần với các Thánh, các Ngài, ông Ba, ông Bẩy. Đền là nơi ngự trị của 4 toà sơn trang với khoảng 60 hình nhân cao từ 1,2 - 1,6m có bốn màu: đỏ, xanh, vàng, trắng, tượng trưng cho bốn hướng. Đi cùng với đàn mã có giá chính xác là 7 triệu đồng này là 13 suất lộc tố hảo thuộc loại lộc ngon, đắt tiền để trong khi nhảy, đồng cô sẽ phát lộc cho khách dự, có tới 13 bộ quần áo của các ông hoàng, bà chúa, cô bơ, ông bốn. Sau mỗi một giá đồng, đồng cô lại thay 1 lần quần áo. Nhưng những thứ như trên cũng chỉ là điều kiện cần. Để làm nên một buổi nhảy đồng thần bí, một thành phần không thể thiếu được là đoàn hát văn với đầy đủ đàn, sáo, trống, nhị. Tham gia trong buổi hầu đồng này, toàn là những nghệ sỹ chơi nhạc cụ dân tộc xuất sắc của các đoàn nghệ thuật truyền thống có tiếng của Trung ương, và người chỉ huy hát văn cũng là một nghệ nhân mà cách đây mấy năm đã đoạt giải cao trong cuộc thi hát văn toàn quốc. Nghệ nhân này vừa làm người hát vừa là pháp sư tuyên sớ. Dưới tiếng nhạc hối hả và giọng hát kể lể, cô đồng là một thanh niên da trắng, môi đỏ, my dài xuất hiện trong trang phục trắng toát từ chân tới đầu. Hai người hầu nhanh chóng dâng lên cô một bên tay hương, một bên tay áo, khoác lên người cô bộ quần áo đàn bà màu đỏ may khá cầu kỳ, ấn vào tay cô bó hương, trùm tấm khăn lên đầu cô. Cô bắt đầu khấn vái. Thủ nhang, đồng đền, thủ anh, lính chị xin phép được hầu. Ngài pháp sư cũng khẩn trương tuyên sớ. Sớ có nội dung bao gồm ngày, tháng, kêu cầu cho ai, địa chỉ ở đâu, cầu về việc gì. Sau đó là một quá trình hầu với những màn khua hương, múa lửa, nhảy nhót rất điệu nghệ của cô đồng. Cô đồng dâng tiền, vỗ gối, và cứ mỗi lần nghe hát văn hay, cô lại vỗ vào chiếc gối có năm lớp thêu hình rồng, từ tay cô bay ra những tờ tiền có mệnh giá lớn. Trong suốt khoảng 3 tiếng đồng hồ lên đồng, cô đồng đã thay 13 bộ quần áo, phát 13 mâm lễ và cũng từng ấy lần nhảy múa quay cuồng, châm đến 4 bao thuốc để hút và phát lộc. Có một điều rất lạ là toàn bộ con nhang, cô đồng ai ai cũng hút được thuốc lá bất kể là đàn ông hay đàn bà. Chúng tôi đợi đến tàn canh hầu thì không khỏi sốt ruột. Theo nhận xét của bà đồng thầy đi cùng chúng tôi thì cô đồng này hầu khá nhanh, không bị hỗn đồng và làm một cách tuần tự, đúng sách. Buổi hầu kết thúc khi toàn bộ 13 mâm lễ với hoa quả, bia, các đồ ăn khác đươc phát cho khách. 7 triệu tiền mã đã được hoá vàng hết, trả lại vẻ rộng rãi vốn có của nhà đền. Đoàn hát văn ngoài số tiền công đã trả trước 1,5 triệu còn được thưởng gấp đôi vì hơn 30 lần vỗ gối khoái chí của cô đồng. Ước tính người hầu đồng lần này đã phải chi ra một khoản tiền không dưới 20 triệu đồng để chuốc lấy một tuần vất vả chuẩn bị và một buổi hầu đồng. Không biết mức giá này là đắt hay rẻ đối với họ nhưng sau buổi hầu đồng này, ai cũng thấy hớn hở ra mặt. Danh sách con nhang Nhiều người cho rằng chi phí cho một buổi lên đồng là rất tốn kém nên chỉ những người làm ăn buôn bán, kinh doanh thiếu hiểu biết mới là con nhang, đệ tử của những cô đồng, bà bóng. Suy nghĩ đó hoàn toàn sai lầm bởi lên đồng còn thu hút được cả những người giàu có, hay những người cảm thấy ăn năn về quá khứ của mình. Người ta đua nhau đi tán lộc khiến cho bản danh sách của các đồng thầy ngày một dài hơn. Chúng tôi không khỏi giật mình khi xem danh sách của một đồng thầy. Danh sách đó có cả tên của một ông tiến sỹ đang công tác trong ban phòng chống ma tuý học đường. Ông có thói quen lập phủ linh đình. Mỗi lần mở phủ, ông bỏ ra ít nhất là 30 triệu đồng. Ông sùng đạo đến mức xây nguyên một ngôi điện tại tầng thượng nhà mình để tiện cho việc cúng bái. Ngôi điện của ông được đánh giá là bề thế và đẹp nhất trong số điện của giới đồng tại Hà Nội hiện nay. Cứ ngày rằm hay mồng 1, một số anh chị em cán bộ trong Bộ lại tới nhà ông để khấn bái và công đức. Không chỉ có lập điện tại nhà mà ông còn xây cả một ngôi đền bề thế tại xã Hoằng Ngọc huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa và tổ chức một buổi hầu làm nhiều người phải giật mình. Theo thầy đồng Tiến ông tiến sỹ trên chưa phải là người đứng đầu trong danh sách những người hầu đồng phủ hiện nay. Danh hiệu đứng đầu thuộc về một quan chức của ngành hàng không tên Đ. Mỗi lần mở phủ chỉ tính khách thôi thì mỗi người cũng đã được chiếu lộc không dưới bạc triệu/người. Ngoài ra còn tiền bồi dưỡng cho thầy đồng và đoàn hát văn. Sở thích hầu đồng không chỉ ông có mà cả đại gia đình nhà ông gồm anh, em, con, cháu đều tham gia một cách tích cực. Không biết họ tham gia vì thấy có lợi cho mình hay tham gia để làm vừa ý ông. Trong những năm gần đây, hiện tượng đồng cô, đồng bóng có chiều hướng gia tăng. Số người gia nhập vào đội quân này ngày một nhiều. Không biết bao nhiêu người đã hao tiền, tốn của, khánh kiệt tài sản vì những đàn đại mã, những mâm lộc tố hảo...
  7. Nhắc đến chuyện "lên đồng" mà không nói tới Phủ Giầy thật là thiếu sót. Nếu ai đã từng đến với Hội Phủ Giầy chắc chắn sẽ có những ấn tượng khó quên với những đêm hội không ngủ tràn ngập ánh đèn và phách nhịp khúc hát văn. Thấp thoáng trong sương đêm là lập lòe ánh nến và một không gian quện chặt của tâm linh huyền hoặc. Cho đến ngày nay, Phủ Giầy vẫn là một trung tâm lễ hội của tục "lên đồng". Không những nó lưu truyền một nét văn hóa Việt đều đặn trong bước đi của lịch sử mà mỗi ngày lại thêm sôi nổi và muôn mặt. Nguồn: http://lacviet.wordpress.com Hội Phủ Giầy Phủ Giầy có tên cổ là Kẻ Giầy, từ sau khi Liễu Hạnh được sắc phong công chúa thì được gọi là Phủ. Thực ra ở phủ Giầy có một hệ thống kiến trúc liên quan tới Liễu Hạnh, đó là phủ chính, phủ Vân Cát và lăng Chúa Liễu. Phủ chính là một kiến trúc khá qui mô, gồm ba lớp điện thờ, mặt đều quay về hướng nam, trước điện là giếng tròn và cột cờ, trên sân rộng phía trước có xây các nhà bia, nhà trống, nhà chiêng, kiến trúc kiểu bốn mái hai lớp. Chúa Liễu và hệ thống Tứ Phủ được thờ ở tòa điện trong cùng, Mẫu Thượng Thiên hóa thân thành Liễu Hạnh thờ ở trung tâm, bên trái là Mẫu Thoải, bên phải là Mẫu Địa, phía trước là Mẫu Thượng Ngàn (Nhạc Phủ). Tại làng Vân Cát, cách không xa phủ Giầy có kiến trúc phủ Vân Cát. Phía trước đền có hồ bán nguyệt, nối với bờ bằng cầu đá, chạm trổ rất công phu. Phủ Vân có Ngũ Môn và bốn cung, trung tâm thờ Chúa Liễu, bên trái là chùa thờ Phật, bên phải thờ Lý Nam Đế. Lăng Chúa Liễu nằm gần phủ Chính, được dựng bằng đá, kiến trúc công phu và rất đẹp, độc đáo, xây dựng vào những thập kỷ của nửa đầu thế kỷ này. Trung tâm lăng là ngôi mộ hình bát giác, mộ ở thế đất cao, có bốn cửa và bậc thang lên xuống. Xung quanh mộ, còn có tường vây quanh theo kiểu lan can đá, lớp nào cũng có cửa vào ở bốn phía. Bốn góc của lớp tường vây quanh và hai trụ cửa ra vào đều chạm đá hình nụ sen (60 nụ sen) lô nhô như một hồ sen đá. Ngoài hai phủ chính và lăng kể trên, xung quanh phủ Giầy còn có nhiều đền miếu bao quanh, như đền Khâm Sai, đền Công Đồng, đền Thượng, đền Quan, đền Đức Vua, đền Giếng, đền Cây Đa, đình Ông Khổng… Tất cả quần thể kiến trúc ấy gần như tập trung trong phạm vi xã Kim Thái, xưa là xã An Thái, thuộc huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Hà, cách thành phố Nam Định khoảng 15 km. Đó là vùng đồng bằng với những cánh đồng lúa bát ngát, có những ngọn núi đá thấp nằm rải rác, làng mạc trù phú, có dòng sông hiền hòa uốn khúc quanh co, tạo nên cảnh sắc thiên nhiên và văn hóa rất nên thơ. Người ta tin rằng Bà Chúa Liễu vốn là con gái của Ngọc Hoàng, vì phạm lỗi nên bị đầy xuống trần gian, thác sinh vào nhà họ Lê. Khi cất tiếng khóc chào đời, bố mẹ đặt tên là Giáng Tiên, tới năm 18 tuổi thì gả chồng. Lấy chồng mới được ba năm thì hết hạn đầy bị gọi về trời. Nhưng vì nhớ chồng con, Ngọc Hoàng lại phải cho nàng trở về hạ giới. Lần này trở lại, nàng thích vân du khắp nơi, gặp danh sĩ Phùng Khắc Khoan và họa thơ với ông ở Lạng Sơn và Hồ Tây, sau lại kết duyên với một thư sinh ở xứ Nghệ và giúp cho chồng đỗ đạt làm quan. Vừa lúc đó nàng lại có lệnh về trời. Trái lệnh vua cha, một lần nữa nàng lại giáng sinh. Lần này nàng không ở một nơi mà cùng hai thị nữ chu du thiên hạ. Thấy vùng Phố Cát là nơi phong cảnh đẹp, nàng hiển linh thành cô gái bán nước ven đường để trêu ghẹo, trừng phạt những kẻ ác, gia ân cho người hiền. Triều đình nhà Trịnh lúc đó cho là yêu quái nên đem quân, dùng pháp thuật để trừ. Hai bên đã dàn quân đánh nhau, đó là “Sùng Sơn đại chiến”. Do lập mẹo quân triều đình có cơ thắng, nhưng vừa lúc đó đức Phật ra tay, giảng hòa, cứu Liễu Hạnh. Nàng được triều đình phong thần là Nữ Hoàng Công Chúa rồi Chế Thắng Đại Vương. Từ đó Liễu Hạnh công chúa không gây kinh sợ cho mọi người, mà luôn luôn ban phát ân đức, được nhân dân tôn thờ là Thánh Mẫu. “Tháng tám giỗ Cha, tháng ba giỗ Mẹ”. Đó là câu nói cửa miệng của bất cứ người Việt nào dù họ sinh sống trên quê hương hay đã tha hương nơi đất khách quê người. Trong tâm thức dân gian, vui Hùng là ông Tổ, nên “Dù ai đi ngược về xuôi nhớ ngày giỗ Tổ mồng mười tháng ba”, còn Liễu Hạnh là Mẫu (Mẹ), Trần Hưng Đạo là Cha, cả dân tộc coi cộng đồng mình như một gia tộc, có tổ tiên, cha mẹ. Tháng ba, vào cuối tiết xuân, những người nông dân đang buổi nông nhàn, rủ nhau mở mùa trảy hội. Từ muôn nơi người ta đổ về phủ Giầy, nơi có phong cảnh non nước tươi đẹp, công trình đền miếu nguy nga, nơi con người có thể cầu mong Mẫu mang lại những điều tốt lành, may mắn, tài lộc. Trong mười ngày hội phủ, người về dự tính tới hàng vạn, đứng trên non Gôi nhìn xuống, dòng người trảy hội rực rỡ áo quần, từ muôn ngả đổ về, trườn đi từ từ như con rồng uốn khúc trên thảm lúa xanh non đang thì con gái. Xưa kia, hội phủ kéo dài trong mười ngày bắt đầu từ 30 tháng hai. Ngày đầu hội là nghi thức cúng tế, ngày cuối hội rước Thánh Mẫu, ngoài ra còn có các trò vui chơi dân dã khúc. 30 tháng hai và mồng một tháng ba là ngày dành cho dân làng tế kỵ, từ ngày mồng ba trở đi là ngày quốc tế, ngày tế của các quan chức hàng tỉnh, hàng huyện. Xưa, quan tổng đốc hàng tỉnh vào làm chủ tế, rồi đến quan tri huyện cùng với chánh, phó tổng cũng vào chủ tế hàng huyện và hàng tổng. Nghi thức tế lễ cũng giống như nhiều cuộc khác, có các tuần dâng hương, dâng hoa, dâng rượu… Tiêu biểu nhất trong hội phủ Giầy là nghi lễ rước Thánh Mẫu từ phủ Chính lên chùa Gôi vào ngày mồng 6 và hội kéo chữ vào ngày mồng 7. Kiệu rước bát nhang Thánh Mẫu phần lớn do các bà, các cô đảm nhận, y phục rực rỡ, xúm xít dưới kiệu vàng, võng điều, cờ quạt, tán, lọng, phướn đủ màu rực rỡ tung bay trước gió lồng lộng vào tiết cuối xuân, đầu hè. Theo đoàn rước còn có đội nhã nhạc, bát âm. Các cô gái đồng trinh của đồng quê được cử vào khiêng long đình, rước võng, khiêng kiệu, che tán, che quạt, các bà trung niên thì cầm phướn, vác cờ, dẹp đường. Đoàn rước tiến bước giữa tiếng loa thét, rừng cờ phướn tung bay trong đoàn thiện nam tín nữ đi trẩy hội. Nghi thức rước Thánh Mẫu giữa phủ thờ và chùa không phải chỉ diễn ra ở phủ Giầy, nó phản ánh thực tế có sự giao kết giữa tín ngưỡng thờ Mẫu dân gian và Phật giáo. Trong huyền thoại về Chúa Liễu, trận Sùng Sơn thể hiện sự xung đột giữa Chúa Liễu và triều đình phong kiến, sau đó phải cần tới sự cứu giúp và can thiệp của đức Phật. Tương truyền, chúa Liễu sau đó đã nhận mũ áo nhà Phật, noi theo Phật, chỉ làm việc thiện ban phát ân đức. Hiện nay, trong nhiều ngôi chùa thờ Phật Việt Nam đều có điện thờ Mẫu, theo kiểu tiền Phật hậu Mẫu. Sinh hoạt tín ngưỡng Mẫu trở thành một bộ phận của sinh hoạt nhà chùa. Ngày 7 tháng ba là ngày hội kéo chữ, nét độc đáo nhất của hội phủ Giầy. Theo lời kể của nhân dân địa phương thì sự tích hội kéo chữ như sau: Thời hậu Lê ở thôn Đông Khê, tổng Đồng Nội, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định có một người kỹ nữ tài sắc tuyệt vời, đó là Phùng Thị Ngọc Đài. Sau khi lấy lẽ hết ông Quận Công Ngà, đến quận Công Hiển, Ngọc Đài trở về ở xã Bảo Ngũ, huyện Vụ Bản là nguyên quán của ông Quận Công Hiển. Năm 1623 vua Lê Thần Tông phong chức Thành Đông Vương cho chúa Trịnh Tráng, chúa ra lệnh mở tiệc ăn mừng, cho tuyển nhiều ả đào đẹp ở các địa phương tiến dẫn về Thăng Long để múa hát mua vui trong bữa tiệc. Ngọc Đài tuy đã góa chồng, nhưng nhan sắc xinh đẹp, kiều diễm, nên lần đó nàng cũng xin đi ứng tuyển. Trước khi lên đường, nàng đến phủ Giầy quì trước bàn thờ Thánh Mẫu và cầu khẩn: “nếu lần này đi mà được vua yêu, chúa dùng thì không bao giờ quên Mẫu, xin hứa làm cái gì để ghi nhớ Mẫu mãi mãi về sau”. Quả nhiên, lời cầu xin của Ngọc Đài được ứng nghiệm. Trong bữa tiệc, biết bao ca kỹ dung nhan tuyệt vời, giọng hát hay mà chúa Trịnh Tráng chỉ say đắm một mình Ngọc Đài. Sau bữa tiệc, nàng được vời vào dinh, được chúa sủng ái và phong cho chức Vương Phi. Thời kỳ Ngọc Đài làm Vương Phi trong phủ chúa thì cuộc xung đột Trịnh - Nguyễn nổ ra dữ dội hơn, chúa Trịnh ra lệnh bắt phu về Thăng Long xây dựng hệ thống phòng thủ kiên cố, phòng chúa Nguyễn tấn công. Trong số phu bị bắt về Thăng Long, có những người quê ở Vụ Bản. Bà Vương Phi biết tin này nên tìm cách cứu giúp dân phu của quê hương bản quán mình, nên đã mật báo cho dân phu khi về tới Kinh chỉ mặc áo rách và ăn cháo cám mà thôi. Một hôm chúa và cung phi cùng đi thị sát dân phu, chúa thấy đám phu ngồi ăn cháo cám. Chúa hỏi mới biết là người Vụ Bản. Nhân lúc đó, Vương Phi tỏ ra buồn rầu, khiến chúa Trịnh vặn hỏi. Khi được biết dân phu đó chính là người cùng quê với Vương Phi, chúa Trịnh tức khắc ra lệnh miễn phu cho họ, cấp lương thực, quần áo về quê quán làm ăn, sinh sống. Hơn thế nữa, chúa còn cấp lương thực vải vóc cho toàn bộ dân làng Bảo Ngũ, làng Vương Phi đã ở trước khi vào cung. Ghi nhớ công đức đó, nay dân làng thờ Vương Phi là Thành Hoàng làng. Sau khi nhận được gia ân của chúa Trịnh, Vương Phi muốn làm điều gì đó để lại ghi nhớ sự phù trợ của Thánh Mẫu nên dặn dân làng phủ Giầy là cứ sau ngày rước Mẫu từ phủ Chính lên chùa Gôi, thì dân làng đem xẻng, cuốc, mai, thuổng đến trước phủ Giầy vứt ngổn ngang xuống đất, tỏ ý nhờ linh ứng của Thánh nên dân làng không phải chịu cảnh nhọc nhằn phu phen, rồi xếp người thành hai chữ “Cung tạ”. Từ đó về sau, năm nào cũng có tục kéo chữ. Trước kia, hàng năm cứ tới ngày này mỗi tổng trong huyện Vụ Bản góp 10 phu cờ tuổi từ 20 tới 35 tới dự hội. Cả huyện có mười tổng, gộp thành 100 phu cờ. Ngoài ra còn có một số tổng khác, như Mỹ Lộc, Bình Lục, nhưng văn nhớ tục cũ, cũng góp thêm người vào cuộc hội này. Phu cờ ăn mặc đồng phục, áo cánh vàng quần trắng, đầu đội khăn đen, có phủ dải lụa vòng ra ngoài, đi chân đất. Mỗi người còn vác một cây gậy dài bốn, năm thước, trên đầu gậy buộc một cái ngù bằng lông gà các đốt gậy đều dán vòng giấy mầu xanh, đỏ có tua. Chỉ huy toàn bộ những phu cờ là Tổng cờ. Đoàn phu cờ hẹn tập trung tại một địa điểm nào đó, rồi lần lượt theo chỉ huy của Tổng cờ đi hàng đôi tiến vào khoảng đất rộng trước Phương Du của phủ Chính. Khoảng trưa, có lệnh Tổng cờ cho phu cờ chuẩn bị đến giờ xếp chữ (ngả chữ). Giữa tiếng trống cái, trống con gõ liên hồi rộn rã, theo cờ lệnh trong tay Tổng cờ, các phu cờ tiến lùi đứng lên, ngồi xuống thành hình chữ. Khi ngồi xuống, các phu cờ vứt gậy xuống đất, như mô phỏng lại tục vứt cuốc xẻng xưa của dân phu trước đền Thánh Mẫu. Việc xếp chữ gì do những người tổ chức hội hàng năm qui định, nhưng thường là “Mẫu Nghi Thiên Hạ” (Đức mẹ của muôn dân), “Thiên hạ thái bình”, “Thạch cập sinh dân” (1938), “Vân hành vũ thi” (1939). Nói tới hội phủ Giầy ngày giỗ Thánh Mẫu không thể không nói tới hình thức hát văn và hầu đồng. Đây là hình thức sinh hoạt tín ngưỡng - văn hóa tiêu biểu cho tín ngưỡng thờ Thánh Mẫu. Xưa, trong những dịp này, trong và ngoài đền phủ Chính, phủ Vân Cát, người ta tổ chức hát văn chầu và cùng với nó là lên đồng. Đây là hình thức diễn xướng tổng hợp giữa âm nhạc, hát, thờ cúng, nhảy múa. Ban văn chuyên tấu nhạc và hát văn chầu theo làn điệu và bài bản riêng, sao cho phù hợp, ăn khớp với người lên đồng. Hát văn có làn điệu riêng, độc đáo, nhưng trong đó cũng thu hút nhiều hình thức dân ca khác, như ca trù, trống quân, quan họ, cải lương… Người lên đồng để cho hồn các thần linh của tín ngưỡng Tứ Phủ nhập vào thân xác mình, rồi làm các nghi lễ trước bàn thờ, ăn mặc, nhảy múa, phán truyền theo tư cách và địa vị của thần linh ấy. Đó là các vị thần thuộc hàng các Thánh Mẫu, Quan lớn, các Chầu, các ông Hoàng, các Cô, Cậu… Xưa kia, trong các ngày hội hình thức lên đồng bị lợi dụng, mang nặng tính mê tín, buôn thần, bán thánh, nên ngày nay bị chính quyền đia phương hạn chế nhiều. Trong những ngày hội, nhân dân còn tổ chức nhiều hình thức vui chơi khác như xem hát tuồng, hát chèo, trống quân, kể cả hát xẩm, ca trù, các hình thức thi đấu mang tính thượng võ, như vật, múa võ, kéo co, đánh cờ, chọi gà… Ngoài các nghi thức tế, rước sách, kéo chữ, xem biểu diễn… hội phủ Giầy còn là ngày hội Chợ. Nơi đây trong ngày hội, người ta bày bán các sản phẩm của địa phương, người đi xem thường là tiện dịp mua sắm thêm vài thứ vật dụng trong ngày hội. Hội không chỉ là sự thể hiện đời sống tâm linh, thưởng thức sinh hoạt văn hóa mà còn thúc đẩy hoạt động kinh tế, thương mại. Các mặt hàng bày bán thật đa dạng, phong phú, từ cái kim sợi chỉ, chiếc cần câu, lưới, vó, dậm, nơm để đánh bắt cá. Các loại giường, tủ, bàn, ghế sản phẩm của làng mộc La Xuyên kề cạnh, các loại giầy, dép, các loại đồ đan, áo tơi. Các mặt hàng sơn mài của phủ Giầy vốn có tiếng từ lâu, các loại gỗ khảm trai, các bức hoành phi, câu đối cũng được bán ngoài chợ trong ngày hội. Nói tới đi hội không thể không thưởng thức các món ăn, nhất là các món đặc sản địa phương mà ở phủ Giầy nổi tiếng là món thịt bò tái, tương gừng, rất hợp vị với tiết trời tháng ba. Vui hội như vậy, nên người nào đã trẩy hội phủ Giầy một lần là còn muốn đến nữa: Còn trời còn nước còn non Mồng năm rước Mẫu ta còn đi xem Ai về nhắn chị cùng em Bảo nhau dắt díu đi xem hội này./.
  8. Hậu trường sân khấu còn ... bốc sư, đồng bóng - Đi xem bói với... nghệ sĩ Nguồn: http://cailuongvietnam.com/clvn 30.07.2004 Thỉnh thoảng tôi vẫn nhận được tin nhắn của một cô đào trẻ rủ rê đi xem bói. N. dẫn tôi tới một con hẻm trên đường Nguyễn Đình Chiểu. Lối vào nhà bà thầy vừa đủ cho một chiếc xe gắn máy. Bên trong đã có 6 thân chủ ngồi chờ. N. cho biết mỗi tuần cô đến bà thầy này một lần, mỗi quẻ xem chỉ tay tốn 50.000 đồng. N. rù rì: “Bả nói đúng lắm anh ơi! Tuần rồi nghệ sĩ M. được bả cảnh báo sẽ mất của do cái nốt ruồi ở “chỗ kín” của ảnh... Ảnh hổng tin, tối dắt... trai về nhà bị nó lột mất chiếc nhẫn kim cương 6 ly”. Sáng tạo nhờ vào bói toán (?) Qua N. tôi biết nhiều nghệ sĩ, ca sĩ, diễn viên nổi tiếng cũng là khách quen của địa chỉ này. Bà thầy có đôi mắt tinh đời đã từng phán anh L. muốn đoạt giải thưởng uy tín của sân khấu cải lương phải chọn bạn diễn có tuổi Dần, mạng kim, cung tốn (!) mới hạp với anh. Dù làm đúng lời thầy nhưng L. không nhận được huy chương vàng mà mất toi 5 triệu đồng cho lễ “khai quan điểm nhãn”. Bà còn giúp diễn viên D. tạo cái “duyên hài” qua những câu dung tục, bậy bạ. Mỗi khi D. nhận vai mới phải đưa kịch bản cho bà... duyệt (!). Bà biểu bỏ câu thoại nào, sửa lời văn nào thì phải tuân theo. Hoặc diễn viên K. nhất quyết không chịu mặc áo sọc trên sân khấu, còn D. kỵ màu mắt nâu, L. ca chữ nào chạm húy gia tộc thì tránh, C. vô vọng cổ phải trên 100 chữ mới khá... Hỡi ơi! Những nguyên tắc sáng tạo nghệ thuật lại bị lệ thuộc vào thầy bói! Lọ nước thánh 200 triệu đồng Ở hậu trường một sân khấu kịch, thỉnh thoảng V. dẫn một thầy bói “bóng cậu” vào xem bói “tập thể”. Chỉ cần một bộ bài, người muốn xem vận may rủi xào 7 lần, chia 7 lá bên trái, 7 lá bên phải, thầy sẽ nói rõ vận may, điềm xui và chỉ cách hóa giải. Tôi bần thần khi thấy vị quản lý của sân khấu này... ra lệnh mở màn trễ 30 phút để thầy xem cho cả gánh hát. Tôi phải đóng vai người... nhắc tuồng để được cậu phán một quẻ. Cậu nhìn lá bài của tôi cười rất tươi: “ Tháng sau anh sẽ đổi đời, hết làm nghề nhắc tuồng và sẽ làm “sếp” một siêu thị lớn ”. Ấy thế mà những diễn viên tên tuổi như: X, O, Y... lại tin như sấm. O. được phán 7 lá bài bên trái của cô xui “ bạt mạng ”. Cô đang có tình duyên nhưng nếu tháng 7 này cưới thì chỉ giữ được chồng hai năm, còn cưới ngay tháng sau thì sẽ hạnh phúc cả đời (!?). Lân la vào hậu trường ở các rạp cải lương, tôi biết cậu bóng này là một ả bán vé chợ đen ở rạp Thủ Đô. Bỗng dưng ả phất lên tậu một chiếc Attila còn mới nước sơn. Ả đã dụ một anh kép nộp 200 triệu đồng để mua... lọ nước thánh chữa bệnh cho mẹ nuôi là một Việt kiều đã bỏ tiền xây biệt thự cho anh ta, nhưng tội một điều là bà bị đau khớp chân, chạy thầy, chạy thuốc mấy năm không hết. Tự dưng tôi nhớ vở kịch Số đỏ: Một tên đại bịp như Xuân tóc đỏ mang nước rong rêu cho cụ cố uống, tự dưng cụ khỏe ra và xem Xuân tóc đỏ là ân nhân cứu mạng. Thật ngao ngán... “Em phải có người hộ tống” Trong giới, ai mà chẳng biết nghệ sĩ T., danh hài S., đạo diễn H., ông bầu A. là những người mê tử vi bói toán. Để sở hữu những diễn viên có chút tên tuổi, nhiều ông bà bầu lôi kéo họ nhập làng thờ phụng các bà thầy xem tử vi, bói chỉ tay, bói tướng, bói chữ ký... Một bà bầu nọ lập gánh hát đã chọn hậu đài, diễn viên, chuyên viên âm thanh, ánh sáng đều phải hạp tuổi với bà; một ngôi sao kịch muốn nhận đệ tử cũng xem tuổi. Buồn cười thay nghề nghiệp của họ chẳng tiến triển tới đâu, chỉ thấy lặp lại bản sao của ngôi sao bệnh hoạn này. Một dạo anh ta nghe một ông thầy bói, là Việt kiều từ Pháp về, phán tháng 12 phải có người theo bảo vệ: “Đời em phải có người hộ tống để họ rước cái xui của em”. Thế là đêm nào cũng có 5 người bỏ hết công việc theo làm đuôi ngôi sao. Hễ gặp chuyện xui xẻo gì ngôi sao này cũng đều đổ lỗi cho họ. Anh luôn mỉa mai bạn diễn... Tính tình đồng bóng của anh đã khiến cho nhiều đồng nghiệp phát sợ. Vì anh ghét ai thì “toàn nữ ban” đó phải ghét theo, anh yêu ai thì cả sân khấu đó phải nể trọng (?). Chẳng ai dám... góp ý vì chén cơm manh áo, hơn nữa anh chỉ tin lời thầy bói mà thôi! Nạn nhân của trò lừa bịp Tôi biết G. là một gương mặt triển vọng, nhưng từ khi nghe lời thầy bói đi sửa mũi, mặt G. trông dữ dằn khó vào vai đào thương; cô đào M. sau khi cắt mí mắt theo lời bà thầy ở Đa Kao, tự dưng đôi mắt “híp” lại, lúc nào cũng như buồn ngủ; đào H. đi phá nốt ruồi đến nỗi phải nhập bệnh viện vì bị nhiễm trùng... Nghệ thuật bị hỏng bét từ những cuộc phiêu lưu cùng thầy bói và sửa sắc đẹp thẩm mỹ. Chưa kể đến những trường hợp “tán gia bại sản” vì tin lời thầy bói. Nghệ sĩ Q., B., diễn viên D., tác giả Y... phải cầm nhà bán xe trả nợ vì những chuyến bỏ vốn làm bầu đại nhạc hội, làm bầu sô mà thiếu suy tính. Sân khấu ngày càng có biểu hiện xuống cấp do tâm lý của một số nghệ sĩ không... bình thường. Hóa ra thứ nghệ thuật mà họ mang tới phục vụ khán giả lại xuất phát từ những lời “phán” bệnh hoạn của những thầy bói lừa bịp. “Lên đồng” tìm. .. hậu vận Một số nghệ sĩ sân khấu cải lương và kịch nói rất mê “ lên đồng” xem chuyện... tương lai. Từ đây, đã xảy ra bao chuyện dở khóc, dở cười chỉ vì quá tin lời “đồng cô, bóng cậu”. Từ mồng 1 tháng 4 âm lịch trở đi, không hẹn mà nhiều nghệ sĩ rủ nhau đi chầu “đồng cô, bóng cậu”. Tôi tò mò đi theo một nữ nghệ sĩ cải lương. Chị xách theo một giỏ trái cây, một xấp tiền mới toanh và dặn tôi phải đặt trọn niềm tin vào những vị thánh. Thần thánh cũng biết... đánh ghen Tôi đèo chị bằng xe gắn máy đến khu miếu nổi, dừng lại trước một cái miếu. Biết chị là nghệ sĩ nên đám đông vây quanh chào hỏi. Duy nhất một gã đàn ông ốm như que củi ngồi nhìn chị lừ lừ. Tôi thấy chị chắp tay vái người này. Khi tiếng nhạc trỗi lên, ba hồi trống liên thanh thúc giục, mọi tín đồ trở nên nôn nóng. Người đàn ông đó là cô Năm bắt đầu đội lên đầu chiếc khăn đỏ sẫm lắc lư theo điệu nhạc. Điều lạ là cô Năm toàn nhập hồn vào các bậc mẫu nghi thiên hạ. Khi “lên đồng”, cô Năm hát loạn xạ, rồi hươ nhang quanh người. Tôi thấy kép M. và một số nghệ sĩ sụp lạy lia lịa. Thỉnh thoảng cô Năm nhìn kép M. đắm đuối. Khi phát lộc cho mọi người, tôi thấy cô Năm dúi vào tay kép M. một nắm ít nhất cỡ 10 tờ 100 USD vàng mã, còn các tín đồ khác cô chỉ cho giấy bạc 10.000, 20.000 đồng (!?). Bỗng dưng tôi thấy cô Năm tiến gần đến một nữ thân chủ, dí bó nhang đang cháy vào bàn tay cô ta. Theo phản xạ cô gái la lên, nhưng mọi người chung quanh bảo cô hãy im lặng. Cô gái sắp khóc vì bị bỏng nặng. Chị nghệ sĩ cùng đi với tôi nói nhỏ: “Chết con này rồi, nó bị cô Năm ghen vì dám cặp bồ với kép M.”. Tôi quan sát thấy kép M. lúng túng. Hóa ra... thần thánh cũng biết ghen! “Đừng sợ, để thầy ếm cho!” Theo Hoàng Túc, Phó Tổng Thư ký Hội Nghệ sĩ Múa TPHCM, loại hình múa bóng rỗi, múa “lên đồng” là một nét đẹp văn hóa lâu đời của dân tộc. Vào những mùa gặt lúa, những vụ bội thu sau những ngày đồng áng cực nhọc, người dân đồng bằng Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ thường tổ chức những buổi lễ cúng Thần Nông và tập tục múa bóng rỗi, múa “lên đồng” xuất phát từ việc nông dân cầu cho mùa màng năm sau thắng lợi. Nét đẹp độc đáo của múa “lên đồng”và múa bóng rỗi chính là điệu hát chầu văn được phối hợp nhịp nhàng, uyển chuyển và cái tài của người múa là sự ứng biến theo điệu nhạc, nâng cao sự huyền bí trong các điệu múa. Dần dà về sau, múa “lên đồng”, múa bóng rỗi bị lạm dụng và chuyển sang màu mê tín. Trong giới nghệ sĩ có rất nhiều người thích múa “lên đồng” để gọi hồn thánh nhân xem chuyện tương lai. Có nhiều nghệ sĩ, ca sĩ, diễn viên kịch bị mê hoặc bởi những lời phán “có một không hai”. Ví như cậu bóng Mẫn ở xóm Cây Điệp từng phán nữ nghệ sĩ D. năm nay sẽ được Nhà nước phong tặng danh hiệu ưu tú (!). Bà bóng Xóm Liễu ở quận 8 nổi tiếng giao du với nhiều nghệ sĩ cải lương, thường tổ chức “lên đồng” ngay tại nhà các nghệ sĩ. Ai cầu gì bà cũng hứa. Theo chân nghệ sĩ G., tôi được gặp cậu Chín Mén “lên đồng”” tại một chung cư ở quận Gò Vấp. Cậu Chín chuyên ““lên đồng” phán chuyện ăn thua cho một số nghệ sĩ có máu bài bạc. Rồi ông thầy Lục ở Thủ Thiêm, thờ Thiên Linh cái - nghe đâu là cái đầu lâu của người con gái còn trinh bạc mệnh. Thầy Lục chuyên ban phép, bùa để kép L., đào M. dụ các đối tác làm ăn. Vừa qua, trong giới cải lương đồn chuyện kép C. dụ dỗ một cô gái tuổi vị thành niên lên khách sạn. Gia đình cô biết được đòi đền bù 30 triệu đồng, nhưng thầy Lục đã phán “đừng sợ, để thầy ém cho con trắng án”... Giao du đồng bóng, đánh đổi giới tính! Điều bất thường là một số diễn viên, ca sĩ, nghệ sĩ trẻ của sân khấu TPHCM cũng bắt đầu mê các “đồng cô, bóng cậu”. Tôi biết Q. là diễn viên trẻ ban đầu vào trường sân khấu trông rất... đàn ông, tự dưng giờ gặp lại Q. đổi hẳn giới tính. Hỏi ra mới biết Q. là đệ tử của một nghệ sĩ thích “lên đồng” Vợ chồng nghệ sĩ T. lo ngại chuyện con gái của anh chị đang bị biến đổi giới tính. Tự dưng thích hút thuốc, mặc quần đùi và áo thun, ăn nói huênh hoang. Tôi biết bên sân khấu kịch nói một số diễn viên trẻ cũng bị lây nhiễm căn bệnh này. Họ bất chấp thủ đoạn miễm sao được nổi tiếng, sẵn sàng đánh đổi cả giới tính để có được một chỗ đứng trên sân khấu I, X, S... Những gương mặt diễn viên trẻ như: Đ., K., T... mà tôi biết, trước đây họ rất nam tính, sau khi theo chân các nghệ sĩ đàn anh đi hầu “đồng cô, bóng cậu” giờ yểu điệu như thục nữ. Cách diễn của họ cũng trở nên ẻo lả, tính nết xéo xắc, sân si giống như một ngôi sao nhiễm bệnh nặng. Sự xuất hiện bệnh hoạn của họ trong một số vai diễn gần đầy đã khiến người xem ngao ngán. Nhiều phụ huynh bảo rằng họ không dám cho con em xem một số vở kịch, vì tác dụng giáo dục giới tính ở đó có thể gây phản ứng ngược. Trẻ con dễ bị tiêm nhiễm cách ăn nói bỗ bã, dáng điệu ẻo lả của một vài diễn viên mê đồng bóng mà... hậu quả là họ tự hủy hoại tài năng của mình. Lệ Thủy: " Tin vào lời bói toán, đồng bóng để thay đổi quan điểm sáng tạo là một việc làm trái với đạo đức diễn viên. Tôi cho rằng khán giả yêu sân khấu sẽ tẩy chay những nghệ sĩ, diễn viên cố tình bóp méo nghệ thuật theo ý đồ xấu của những người mê tín dị đoan. Điều quan trọng là cả giới sân khấu đồng lòng xóa nạn mê tín, giáo dục thế hệ diễn viên trẻ tránh xa những tệ nạn này thì hậu trường sân khấu sẽ trong sáng. " THANH HIỆP
  9. Nguồn: http://www.thongthienhoc.com Đồng cốt và sự truyền cảm thụ động Trích trong Những Phương Pháp Phát Triển Tâm Linh MỘT ĐẶC ĐIỂM VẬT CHẤT Người nào muốn ngồi đồng phải có khả năng xuất ra khỏi xác; thể xác y còn phải có một đặc điểm khác là sự kết hợp lỏng lẻo giữa các phần tử dĩ thái và các phần khác của nó. Đặc điểm nói trên thường có từ lúc mới sanh, nhưng nó cũng có thể được khai mở thêm ở những nơi được gọi là “Câu lạc bộ phát triển”. Nó không chứng tỏ rằng người có nó tiến cao hơn mọi người khác. Thường thì trường hợp trái lại xảy ra : khả năng lên đồng là dấu hiệu một linh hồn kém tiến hóa mặc dù có vài ngoại lệ. Lý do là khả năng nầy không vượt qua phạm vi thể xác : khi thể xác có một vài đặc điểm cần thiết thì người ta có thể ngồi đồng. Nó không đòi hỏi một tánh tình thanh cao hay một cố gắng nào về sự trau luyện tinh thần. Bản chất thanh cao của con người không được lưu ý. Nhưng người ta nghĩ sai rằng khả năng ngồi đồng là một bằng chứng của sự phát triển tâm linh. Nhiều người còn hiểu rằng : tin ở các vong linh và ở đời sống bên kia của tử là dấu hiệu của sự phát triển cao quí ấy, rằng chấp nhận những giáo lý vô vị ở các buổi nhập đồng là chứng tỏ một sức mạnh tinh thần còn say mê những hiện tượng này nọ là sự mộ đạo. NHỮNG ĐIỆN TÍN PHI PHÀM Xem sự lên đồng như là một tôn giáo và kính trọng lời lẽ của các vong linh do đồng cốt chuyển lại như là những giáo lý cao siêu thì không khác nào quì ở một trung tâm vô tuyến Marconi để nghe những điện tín chuyển đến từ một cõi xa xăm và tôn kính các điện tín ấy như là thông điệp của trời. Thái độ ấy không hợp lý. Trong hai trường hợp, lời lẽ vẫn phát xuất từ một người thường, có khác chăng là một đàng, nó được chuyển đến do máy móc, còn một đàng do xác đồng. Việc một người chết dùng xác đồng giống như việc ta dùng điện thoại : sự kiện không có tánh cách tâm linh gì cả. Chúng ta có thói quen gọi người vừa bỏ xác thân là “vong linh”. Thói quen nầy gây nhiều sự hiểu lầm khiến ta tôn sùng và tin tưởng người chết quá mức. Ngay bây giờ, chúng ta cũng là những linh hồn, và sau khi từ trần, chúng ta chỉ mất thể xác thôi chứ chúng ta vẫn y như trước. Nếu trong lúc sanh tiền, anh Ất ăn nói dài dòng, thì chết anh cũng thế. Anh có muốn nhờ miệng đồng cốt để giảng đạo đi nữa thì lời lẽ của anh cũng không có giá trị gì hơn lúc anh còn sống. Chúng ta bao trùm cái chết và những điều ở bên kia cửa tử bằng một bức màn bí mật và tỏ một thái độ kính trọng. Việc ấy không có ích chi cả. Khi một người đồng thốt một điều gì, ta nên đón tiếp như lời một bạn quen, có thế thôi. TRINH NỮ DÂNG HƯƠNG Đồng cốt là một phương tiện liên lạc xưa nhất và dễ nhất giữa cõi trần và cõi vô hình. Lịch sử và các sự nghiên cứu huyền môn xác nhận đồng cốt đã có trên hai ngàn năm nay. Người có huệ nhãn khi quan sát ở quá khứ, trong những đền thờ vĩ đại của Châu Atlantide, của Ai Cập hay Hi Lạp ngày xưa thì các Trinh nữ dâng hương, vũ nữ và đồng nữ hiện ra trong những xác thân trinh khiết trước những bàn thờ tôn nghiêm và các tín đồ yên lặng và tin tưởng, để chuyển lại lời lẽ quí báu của các Đấng Thánh linh. Nhưng hoàn cảnh hiện tại khác hẳn hoàn cảnh ngày xưa. Trước kia, các trinh nữ đó thuộc những gia đình quí phái và được nuôi dưỡng trong các đền thờ thanh khiết, linh thiêng. Họ ăn những thức ăn chọn lọc và được ngừa những ảnh hưởng và tư tưởng xấu xa. Ðược chăm nom cẩn thận như vậy, họ tránh được mọi tai hại cho họ, đồng thời nói lên được những giáo lý cao siêu do các bậc Chưởng giáo nhập vào truyền dạy. Việc rời bỏ xác thân để một vị cao cả sử dụng nó không phải là một điều nguy hại. Sự thực thì có những nhà huyền môn và các bậc điểm đạo làm như vậy khi họ biết rõ vị nào sẽ sử dụng xác thân của họ. Trong lúc họ rời khỏi xác thân, họ ý thức được những điều xảy ra. Họ còn có dịp đứng bên vị Chưởng giáo để nghe các lời chỉ dạy. Nguy hại của đồng cốt hiện nay Việc sử dụng đồng cốt hiện nay gây nhiều tai hại khiến các nhà huyền môn khuyến cáo nên xa lánh. Nguyên nhân các tai hại đó là điều kiện sinh sống bẩn thỉu, nhớp nhúa của đồng cốt. Họ không được tiến hóa đến mức có thể chọn những vị cao cả cho nhập vào xác mình. Khi họ rời thể xác, họ mê và không còn hoạt động được. Tâm thức của họ vì không được luyện tập nên phất phơ như trong giấc mộng với những tư tưởng quen thuộc hằng ngày. Trong lúc đó, một vong linh nhập vào xác trống và giảng dạy trước một cử tọa kính cẩn. ôi khi những vong linh được gọi là "kẻ dìu dắt", có mặt và cố gắng che chở đồng cốt. Tuy nhiên, các vong linh ấy cũng tầm thường như chúng ta chứ không phải toàn năng hay toàn tri để có thể bảo vệ kiến hiệu. Nếu chúng ta biết rằng ở cõi vô hình (nhứt là ở các tầng thấp mà các đồng cốt thường tiếp xúc), có một số vong linh đàn ông, đàn bà bất hảo, thì chúng ta đừng ngạc nhiên khi một vong linh du đảng, thô bỉ, trụy lạc toan chiếm xác thể người đồng, mặc dầu có sự ngăn trở của vong linh dìu dắt. Kết quả thể xác người đồng bị hành hạ và trở nên ô uế. Dù vong linh có thanh cao hơn, sự xâm chiếm ấy cũng không tốt vì mấy ai không còn ích kỷ và dục vọng. Những nơi ô uế Chúng ta hãy đến dự một buổi lên đồng phải trả tiền vào cửa và nhìn xem cảnh vật chung quanh. Trong các người hiện diện, ít ai học rộng và thương người, họ đến vì tính tò mò hay để thoả mãn một dục vọng cá nhân. Họ thường ăn thịt, uống rượu, lắm khi không được sạch sẽ nên phát ra những hôi hám ô uế. Người đồng cũng không cử rượu thịt nên từ điện của họ rất dơ bẩn. Như vậy, các bậc tiên thánh làm sao có thể sử dụng được thể xác của y ? Thể xác của y như một bộ quần áo dơ, làm sao một người sạch sẽ có thể mặc vào? Do đó, những giáo lý do đồng cốt thốt ra không có giá trị, vì các nhân vật quan trọng không đến nhập, dầu nơi đó có mặt thân nhân của họ. Kết quả là những vong linh tầm thường đến và rất hãnh diện xưng vị này, đấng nọ để truyền dạy những điều vô vị. Những điều kiện lý tưởng Nếu các điều kiện trên được thay đổi, nếu các người đến dự gồm các người trong sạch, vị tha và có khuynh hướng tâm linh, nếu người đồng cốt đừng ham mê thú vui vật chất, tinh lọc tư tưởng và giữ gìn thân thể sạch sẽ thì kết quả sẽ tốt đẹp hơn nhiều. "Văn Phòng Julia" do cố W.T. Stead thành lập đã cố gắng nhiều trên phương diện này. Bao giờ các điều kiện còn bê bối như hiện nay, đồng cốt sẽ mất hết phẩm giá và trở thành nô lệ các tập quán đê tiện, bị loạn óc hoặc điên cuồng. Nếu khoa thần linh muốn có một địa vị quan trọng trong giới tôn giáo và khoa học, nó phải nhận định khuyết điểm đó và huấn luyện đồng tử từ lúc nhỏ đừng để chúng bị lợi dụng do những người dốt nát, ích kỷ, chỉ biết chạy theo những hiện tượng có vẻ lạ đối với phần đông nhưng không có một giá trị tâm linh nào. Sự hiện hình làm suy yếu thần kinh Sự hiện hình không nên được khuyến khích bất kỳ với một lý do nào vì nó gây tai hại cho sức khoẻ và cả cho sinh mạng của đồng cốt. Lý do là khi chất dĩ thái được rút ra khỏi thể xác để hiện hình thì luồng sinh lực nuôi dưỡng thể xác bị bớt nhiều làm cho nó kiệt sức. Các bộ phận của nó đều bị xáo trộn nhất là quả tim, bộ tiêu hóa và thần kinh hệ. Bộ này bị căng thẳng và suy yếu đến đỗi đồng cốt phải dùng những chất kích thích. Do đó, một số người trở nên nghiện rượu. Sự ô nhiễm Khi chất dĩ thái của thể xác được một vong linh dùng để hiện hình, chất ấy sẽ thu hút một phần từ khí của vong linh đó và thu nhận ít nhiều các rung động của y. Nếu vị ấy dâm dật, xảo trá, chất dĩ thái bị ô nhiễm, và khi nó được hoàn lại cho đồng cốt, nó vẫn giữ ảnh hưởng nguy hại đó. Vì vậy, chúng ta cần tránh sự hiện hình dưới mọi hình thức. Các người dự những buổi họp này cũng bị rút một ít chất dĩ thái của mình để phụ với đồng cốt và vì thế họ cũng bị ô nhiễm phần nào. Sự ám ảnh Nếu một buổi lên đồng được quan sát bằng thần nhãn, người ta sẽ thấy vong linh đến dự rất đông đảo. Một vài vong linh nhập vào đồng cốt, còn những vị khác thì tìm cách ảnh hưởng cử tọa. Lắm khi, một vong linh xé rách được màn lưới bảo vệ như nói ở chương trước và từ đó có thể lộng hành đối với nạn nhân bằng cách ám ảnh y và gây cho y đủ thứ đau buồn. Một khi màn bảo vệ bị xé, sự bảo vệ thiên nhiên không còn thì con người dễ bị ám ảnh bởi những vong linh xấu xa. Các vong linh này muốn trở lại cõi trần sống một đời sống vật chất để thoả mãn những thèm khát của họ nên đôi khi không còn chút lương tâm nào đối với nạn nhân. Vì vậy, một người bị xé rách màn lưới là một người rất vô phước. Trong trường hợp màn lưới không rách, một vong linh cũng có thể để ý đến một người nào và theo y về nhà để phá rầy y đủ cách. Ðiều này sẽ nguy hại nhiều hơn khi nhà có con nhỏ, vì trẻ con dễ bị ám ảnh. Bởi thế, nhà huyền môn không phản đối việc sử dụng đồng cốt nhưng cần nêu những tai hại của sự lên đồng trong những điều kiện thê thảm hiện nay. Các buổi họp riêng ít nguy hiểm hơn vì cử tọa được chọn lọc, tuy nhiên, nguy tai vẫn còn. Lý tưởng là áp dụng các điều kiện của thời Trinh nữ dâng hương.
  10. Chữa bệnh bằng... đấm, đá!? Thứ Hai, 31/03/2008 Vừa đấm, đá bệnh nhân vừa chửi thề luôn miệng... là kiểu chữa bệnh kỳ quái của thầy Võ ở Q.Thủ Đức, TP.HCM. 16g ngày 24-3, chúng tôi có mặt tại nhà thầy Võ ở 131/12 đường số 8, P.Linh Xuân, Q.Thủ Đức. Đồng nghiệp của tôi vào vai bệnh nhân tâm thần với gương mặt ngớ ngẩn, đầu tóc bù xù, quần áo xốc xếch... Còn tôi cùng đi với "người bệnh" trong vai người nhà. Gặp chúng tôi, vợ và dì của thầy đon đả: "Cứ mở cửa vào nhà ngồi, 5 giờ thầy mới về". Đánh người bệnh để đuổi... "ma nhập" Hơn 17g, một người đàn ông thấp nhỏ, da đen, có nốt ruồi to gần miệng, chạy xe máy vù vào nhà. Đó là thầy Võ. Ông ta nhìn "người bệnh" (đồng nghiệp của tôi) soi mói: "Đưa nó vô nhà đi". Thầy Võ lấy nhang thắp lên bàn thờ xong quay qua phán liền: "Bệnh của người này cũng tại gia đình. Kể từ khi nó phát bệnh, gia đình cứ nghĩ là thuốc men thôi. Không có nghĩ tới chuyện thầy bà. Gặp tôi ngay từ đầu thì đâu có ra vậy". Ông ta gườm gườm nhìn sát vào mặt "bệnh nhân", rồi dùng móng tay bấm thật mạnh nhiều chỗ trên khuỷu tay và nói: "Bệnh của nó là do ma nhập xác. Sắp tới sẽ còn bị thụt lưỡi, co rút tay chân và cả người". Thầy cũng nói thẳng ở đây chữa bệnh bằng đấm, đá. Thầy đặt điều kiện với tôi là không được nóng ruột, không được cản thầy trong lúc trị bệnh. Khi tôi chấp nhận kiểu chữa bệnh này, thầy Võ kêu tôi đưa "bệnh nhân" ra quì gối trước bàn thờ nhà thầy. Thầy bắt đầu lên đồng và nhắc đi nhắc lại hơn chục lần: "Nghe đây, xác người ta thì thả người ta ra đi. Buông người ta ra đi! Người phàm không biết mày là ai, nhưng tao biết mày nè! Mày là lão già, mày già lắm. Mày đánh lộn không lại đây đâu". Ảnh minh họa Nói tới đây, thầy tự dùng tay đấm mạnh vào ngực mình, rồi đi vòng ra sau đồng nghiệp của tôi, dồn hết sức đá mạnh vào lưng, khiến anh ngã quị xuống đất. Thấy vậy, thầy nói: "Đ.M., mới có chừng đó mà chịu không nổi hả mày?!". Để triệt hạ "con ma" tới nơi tới chốn, thầy lấy kéo cắt một lọn tóc dày của "bệnh nhân" đem đốt cháy, rồi bỏ vào ly nước cúng cùng một lá bùa ghi chữ nguệch ngoạc, sau đó bắt "bệnh nhân" phải uống. Chưa hết, thầy Võ còn cầm nhiều nén nhang đang cháy đỏ rực gí sát vào mặt "bệnh nhân" huơ qua huơ lại. Thầy ngậm nước, phun phì phì vào đầu, vào mặt "bệnh nhân", miệng nhắc đi nhắc lại: "Chịu buông tha cho người ta nghe mày. Chịu không? Chịu không?". Đồng nghiệp của tôi giả bộ ú ớ gật đầu, thầy liền gọi tôi và vợ chồng một bệnh nhân khác đến chứng kiến cảnh "con ma" đã chấp nhận lời hứa trả xác. Thầy hỏi: "Mày có chịu buông xác người ta ra không? Chịu hả. Chắc chưa. Trong vòng ba ngày phải buông xác người ta ra, không thì chết mẹ mày với tao. Đ.M. mày. Tao ghét thứ này lắm! Buông xác ra cho ta, nghe chưa...". Sau đó, thầy dùng một sợi dây màu vàng, đỏ bảo đó là bùa và đeo vào cổ "bệnh nhân". Xong thầy tiếp tục bắt đồng nghiệp của tôi quì lạy xin lỗi thân chủ - là tôi - và bàn thờ nhà thầy. Rồi thầy tiếp tục đấm như trời giáng vào vai "bệnh nhân", khiến đồng nghiệp của tôi ngã quay lơ, bật ho vì tức ngực. Trước khi chúng tôi về, thầy Võ khuyên: "Về nhà không được cho uống thuốc nữa, không cho nó cởi dây bùa ra. Vô nước biển ngay cho mát. Nội trong đêm nay phải canh nó. Những dụng cụ như dao, búa... đem để chỗ khác. Có thể nó chết do nó tự vẫn vì con ma biết không dùng được xác nữa nên giết chết". Ảnh hưởng tinh thần, thể xác Bác sĩ Đào Trần Thái - chủ nhiệm bộ môn tâm thần Đại học Y dược TP.HCM - cho biết thực tế có không ít người nhà đã đưa bệnh nhân đến các thầy lang, thầy bùa điều trị kiểu như vậy. Theo bác sĩ Thái, kiểu chữa bệnh kỳ quái này vẫn tồn tại là do bệnh nhân tâm thần thường phải điều trị lâu dài, nhất là với loại bệnh tâm thần phân liệt. Ngoài ra, triệu chứng của người bệnh tâm thần phân liệt nhiều lúc giống như "thần bí”, có những biểu hiện, hành vi hoang tưởng kỳ quái, người ngoài nhìn có cảm giác như có ai đó "nhập" vào người bệnh. Bệnh nhân luôn nghe tiếng nói của ai đó trong tai mình. Vì vậy, nếu không hiểu biết, gia đình rất dễ đưa người thân đến những "thầy bùa, thầy ngải". Người bệnh tâm thần phân liệt hay lên cơn kích động với người thân nhưng lại thường "dễ bảo" và luôn ngoan ngoãn làm theo yêu cầu của nhân viên y tế hoặc người ngoài. Vì vậy, khi người nhà đưa bệnh nhân đến "thầy bùa, thầy phép" nào đó để dọa dẫm hoặc đấm, đá thì người bệnh ngồi êm ru. Có khi bệnh có vẻ giảm do bệnh nhân sợ nên người nhà lầm tưởng thầy "mát tay" chữa lui bệnh và nghe lời thầy không cho bệnh nhân uống thuốc. Theo bác sĩ Thái, người bệnh tâm thần thường có nhân cách và thể chất yếu, nếu bị "điều trị” theo kiểu đánh đập thì không chỉ gây chấn thương về thể xác mà còn gây thêm chấn thương về tâm lý nặng nề hơn, khiến bệnh khó điều trị và dễ tái phát hơn. Người bệnh sẽ không phân biệt được đâu là bác sĩ, đâu là ông thầy lang đấm đá mình. Sau này khi người nhà muốn đưa bệnh nhân đến bác sĩ điều trị sẽ càng khó khăn hơn vì bệnh nhân không hợp tác, sợ bị đánh. Lập hồ sơ quản lý "thầy" Qua tìm hiểu, thầy Võ có tên thật là Cao Ngọc Võ, 50 tuổi. Trước đây thầy làm công nhân ở một nhà máy sản xuất giấy tại Thủ Đức, sau đó nghỉ ở nhà làm ruộng. Hiện thầy không có nghề nghiệp gì và thường "lên đồng, lên cốt" để chữa bệnh tâm thần. Người dân ở khu vực xung quanh nhà thầy cho biết họ thường xuyên nhìn thấy cảnh thầy đấm, đá người bệnh rất kinh khủng nhưng họ không dám can thiệp. Thiếu tá Phạm Đức Liêm - trưởng Công an P.Linh Xuân, Q.Thủ Đức - thừa nhận đúng là ông Võ có hành nghề chữa bệnh mê tín dị đoan từ năm 2004. Công an phường có biết và thường xuyên giám sát nhưng lâu lâu ông vẫn lén lút nhận điều trị bệnh nhân theo kiểu mê tín dị đoan. Khi nhận được tin báo của PV Tuổi Trẻ, Công an P.Linh Xuân đã mời ông Võ lên làm việc, yêu cầu viết bản tường trình và lập hồ sơ quản lý. Trong bản tường trình, ông Võ cam kết không tái phạm và thừa nhận có xán người bệnh vài bạt tai, không gây thương tích gì. Trong quá trình "điều trị”, thầy cũng chỉ thắp nhang chứ không lên đồng. Theo Tuoitre Online
  11. Nguồn: http://www.cinet.gov.vn Lần đầu tiên với... festival "lên đồng" !06/10/2006, 15h31 "Tháng Tám giỗ Cha"... Người "Cha" đó là Anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo, được nhân dân tôn xưng là "Đức Thánh Trần". Tháng 8 Âm lịch hằng năm, tại Côn Sơn - Kiếp Bạc, nhân dân lại biểu thị lòng tôn kính Ngài bằng nghi lễ hát văn Hầu Thánh linh thiêng. Sau một thời gian dài gián đoạn, ngày 7-10 năm nay, lần đầu tiên Liên hoan diễn xướng dân gian Hầu Thánh sẽ được Bộ VH-TT chỉ đạo tổ chức công khai và bài bản tại đây... 1. Là một loại hình sinh hoạt văn hóa tâm linh thuộc về dân gian có từ lâu đời, nghi lễ "Hầu Thánh lên đồng" có ý nghĩa tôn vinh các nhân vật lịch sử cùng với công trạng của họ dưới hình thức diễn xướng có nghi lễ và hát văn.... Tuy nhiên, có một thời gian dài do hoàn cảnh đất nước chiến tranh, điều kiện kinh tế xã hội chưa cho phép, cho nên nó chưa trở thành một hoạt động bình thường trong đời sống lễ hội ở Việt Nam. Ông Nguyễn Khắc Minh, Trưởng ban quản lý di tích Côn Sơn - Kiếp Bạc cho biết: "Năm nay là năm đầu thực hiện "Đề án Lễ hội" đã được UBND tỉnh Hải Dương phê duyệt nhằm nâng cấp lễ hội này thành lễ hội quốc gia. Do đó, việc tổ chức thử nghiệm festival Hầu Thánh nhằm khẳng định bản sắc độc đáo của Lễ hội Côn Sơn - Kiếp Bạc. Đồng thời, qua mẫu hình Hầu Thánh được tổ chức có bài bản, có hướng dẫn sẽ hạn chế những yếu tố mê tín dị đoan, những mặt tiêu cực của nghi lễ này. Phần liên hoan Hầu Thánh có sự phối hợp nghiên cứu chỉ đạo của Viện Văn hóa, Bộ VH-TT. Kịch bản và đạo diễn lễ hội do Viện Văn hóa đảm nhiệm". Theo ông Minh, điều lo lắng nhất là Lễ hội mùa Thu và những nét mới như vậy chắc chắn sẽ thu hút nhiều người quan tâm, vì vậy, khách về hội có thể quá tải. Chính vì thế, tại Kiếp Bạc - Côn Sơn những ngày chính hội, công tác an ninh trật tự được chú ý tăng cường để bảo đảm lễ hội lành mạnh, trang nghiêm... 2. Đối với Hầu Thánh lên đồng , yếu tố chủ đạo là nghi thức nhập hồn của các vị thần linh vào ông đồng, bà đồng. Nhưng để thể hiện nghi thức ấy, cần có môi trường cho hoạt động diễn xướng. Ấy là không gian thờ cúng trang nghiêm, tại các đền, điện... Các bàn thờ phải được trang trí rực rỡ màu sắc, với những đồ thờ cúng sang trọng. Bên cạnh đó còn có âm nhạc, hát văn, múa đồng để làm nền cho lễ nghi tín ngưỡng. Một giá đồng thực sự là một sân khấu dân gian đặc thù, một sân khấu tâm linh, một kiểu sân khấu còn ở dạng "nguyên hợp" giữa các yếu tố nghệ thuật và tín ngưỡng... âm nhạc, hát văn và múa thiêng không thể tách rời nghi lễ nhập hồn. Người trình diễn, và người xem như là nghệ sĩ và khán giả vậy. Sự hứng khởi của người xem tác động không nhỏ đến tâm lý người hầu bóng, tạo nên sự giao tiếp đồng cảm vừa tâm linh lại mang tính nghệ thuật. Liên hoan Diễn xướng dân gian Hầu Thánh từ 15 giờ đến 23 giờ ngày 16-8 Â.L (tức ngày 7-10) với sự tham gia của các đoàn đến từ nhiều địa phương như Hải Phòng, Hà Nội, Hải Dương, Nam Định... Tiếp theo đó sẽ là Lễ Ban ấn từ 23 giờ ngày 8-10 đến 2 giờ ngày 9-10... Lễ hội sẽ kéo dài đến 12-10. Việc nhân thần hóa và lịch sử hóa các vị Thánh Tứ phủ dược phản ánh trong các bài văn chầu kể lai lịch, sự tích liên quan đến các huyền thoại truyền thuyết về cuộc đời, sự nghiệp của các vị tiên hiền... Lòng yêu nước thông qua việc tôn vinh các vị thần đã được tín ngưỡng hóa, linh thiêng hóa. Tín ngưỡng tứ phủ thông qua đó khẳng định vị thế của mình về phía dân tộc, nhân dân, một thứ chủ nghĩa yêu nước đi vào thế giới tâm linh của con người... Nhiều vị thánh cũng là các nhân vật lịch sử: Quan lớn Tuần Tranh là danh tướng thời An Dương Vương. Ông Hoàng Bảy là quan triều đình trấn giữ vùng Lào Cai, Yên Bái. Ông Hoàng Mười là quan văn thời Lê trấn giữ vùng Nghệ An... Những vị thần tứ phủ có cả người các dân tộc vùng cao như Chầu Thác Bờ là phụ nữ Mường. Bà chúa Xứ là phụ nữ Chăm... Điều đó khẳng định định trong tín ngưỡng tứ phủ xa xưa người Việt Nam đã mang tinh thần đoàn kết, bình đẳng như một nhà, không hề có phân biệt đối xử hay kỳ thị... Hát văn hầu bóng là sinh hoạt văn hóa cộng đồng. Ở đây yếu tố tín ngưỡng và văn hóa đan quyện vào nhau làm cho người dự cùng lúc đáp ứng được nhu cầu tâm linh và nhu cầu mỹ cảm thông qua hưởng thụ những giá trị văn hóa nghệ thuật của diễn xướng dân gian... Điều đó lý giải vì sao hầu thánh vẫn là sinh hoạt không thể bị loại bỏ khỏi đời sống hiện đại. Diễn xướng dân gian Hầu Thánh vẫn tồn tại trong dân gian và sẽ sai lầm nếu không có sự quan tâm của cơ quan chức năng. Tổ chức liên hoan Hầu Thánh ở Kiếp Bạc lần này có thể nói là một festival độc đáo để bảo tồn một di sản phi vật thể, đồng thời "gạn đục khơi trong" làm cho sinh hoạt này lành mạnh, đáp ứng nhu cầu của đời sống xã hội... Q.T (Theo TT&VH)
  12. Một góc nhìn từ đạo Cao Đài: Một Phương Trời Mới Nguyễn Tấn Hưng Phàm sinh ra làm người, hầu như ai cũng có một góc trong tâm linh có niềm tin mơ hồ vào thần quyền. Hễ tin tưởng đến thần quyền thì tin tưởng rằng ngoài cõi hữu hình là nơi chúng ta đang sống còn có thế giới vô hình. Và tương tự như vậy, hễ tin tưởng đến thần quyền thì cũng tin tưởng rằng ngoài thân xác hữu hình chúng ta đang đi đứng, nói cười, ăn ngủ v.v... còn có cái gọi là linh hồn vô sắc tướng. Mặc dù đã nói là tin tưởng, tức là đôi lúc không thể giải thích được, nhưng khoa học cũng đã từng chứng minh rằng... có thế giới bên kia mà bằng mắt phàm ta không thể nào, không tài nào nhìn thấy! Thật ra, cũng chẳng cần chi đến khoa học tân tiến hiện đại của thế kỷ 21, từ ngàn xưa, người ta đã chứng minh được sự hiện hữu của thế giới bên kia bằng cách tạo mối liên lạc giữa hai thế giới hữu hình và vô hình. Mối liên lạc dễ hiểu, dễ nhận hơn hết có thể nói là: sự cầu cơ và sự lên đồng. Cầu cơ có nhiều cách. Cách dễ nhứt mà ngay từ hồi còn nhỏ chúng ta thường làm là cắt miếng ván (lựa ván hòm từ các mả lạn thì tốt hơn, theo kinh nghiệm) hình trái tim để lên trên một mảnh giấy có viết sẵn các mẫu tự ABC... và năm dấu sắc huyền nặng hỏi ngã trên một vòng cung hình bán nguyệt. Cộng thêm hai chữ "Thăng", "Giáng" phía bên dưới là xong. Kinh cầu cơ cũng có nhiều bài, hoặc như bọn nhỏ tôi ở những năm đầu thời trung học, vẫn lấy một đoạn trong "Văn Tế Thập Loại Chúng Sinh" của cụ Nguyễn Du làm lời cầu mời: Mỗi người một nghiệp khác nhau Hồn xiêu phách lạc, biết đâu bây giờ Hoặc hồn ẩn dọc bờ, dọc bụi Hoặc hồn nương ngọn suối, chân mây Hoặc là bụi cỏ, bóng cây Hoặc là cầu nọ, quán nầy bơ vơ Hoặc hồn tựa Thần từ, Phật tự Hoặc hồn nương đầu chợ, cuối sông Hoặc là thơ thẩn đồng không Hoặc nơi gò đống, hoặc vùng lau tre Mấy thu chịu nhiều bề thắm thiết Dạ héo khô, gió rét căm căm Dãi dầu biết mấy trăm năm Khóc than dưới đất, ăn nằm trong sương Nghe gà gáy tìm đường lánh ẩn Tắt mặt trời, lẩn thẩn dò ra Lôi thôi ẵm trẻ, dắt già Có khôn thiêng hỡi, lại mà chứng minh ... Lẽ dĩ nhiên, có thể đọc ra tiếng hay đọc thầm trong miệng cũng được miễn là niềm tin và lòng dạ của các người cầu cơ đang đặt ngón tay trỏ của mình lên hình cơ (ba, bốn hoặc nhiều càng hay vì điển càng mạnh, cơ chạy càng nhanh) có thành khẩn hay không mà Thánh, Thần (giả hay thiệt cũng khó biết) hay yêu, tinh, quỉ, ma... oan hồn uổng tử sẽ nhập vào... Cơ chạy vòng vòng rồi mũi cơ (chót trái tim) chốc chốc sẽ ngừng lại, chỉ vào từng mẫu tự một để mình ráp vần thành từng chữ mà hiểu cơ muốn nói gì... Ðó là cầu cơ ma! Còn các cách cầu cơ khác có tính chất thiêng liêng thường được áp dụng trong các hội thánh trên khắp thế giới, nhất là các hội thánh, thánh thất Cao Ðài, chưa hề thấy ngoài dân dã. Bằng cách kê một cái bàn con nghiêng nghiêng (hai chân cao hai chân thấp), để khi các đấng thiêng liêng, Trời Phật Tiên Thánh Thần, giáng điển thì sẽ nhắc hai chân thấp lên mà gõ xuống nền... Tùy theo ước hiệu, gõ 1 tiếng là A, hai tiếng là B, v.v..., mà ráp lại thành chữ. Hoặc cao hơn một bực là sử dụng "ngọc cơ" hoặc "đại ngọc cơ" (một cái giỏ tre đan có gắn ngòi viết hình con chim loan bằng cây ở đằng đầu) để cơ viết thẳng ra từng chữ một lên mặt kiếng có rải bột gạo, bột phấn hay tưới một lớp rượu mỏng... "Lên đồng" thì tùy theo căn cơ của "đồng tử" mà cũng chia làm hai thành phần. Một là đồng bóng của mê tín dị đoan ở các nơi cầu hồn, nhập xác trong thôn, xóm, nhà riêng mà các đồng cốt, bà bóng thường là kẻ phàm tục chẳng phải người tu hành. Ðiều này hầu hết chúng ta ai ai cũng đều, ít nhứt một vài lần, đã từng chứng kiến hay kinh nghiệm qua. Hai là "đồng tử thứ thiệt," không phải là một người con trai còn nhỏ, mà là những người đã trường chay, tuyệt dục, đạo hạnh cao... nam cũng như nữ, được các đấng thiêng liêng chọn lựa để dùng vào vai trò "thủ cơ chấp bút." Viết thẳng ra từng chữ (như trình bày bên trên) hoặc nói ra thẳng ra từng tiếng (dễ cảm nhận hơn vì không bị mất thời gian tính)! Và, trong trường hợp này, từ ngữ "lên đồng" không còn mang ý nghĩa thông thường nữa, mà phải hiểu là một "đàn cơ" với nhiều người có từng nhiệm vụ khác nhau như "Chứng đàn, Pháp đàn, Hộ đàn (tất cả mọi người tham dự), Ðồng tử, Ðộc giả, Ðiển ký...," v.v... Ðặc biệt, qua sự "cầu cơ" hay sự sử dụng "đồng tử" theo chiều hướng "huyền diệu thiêng liêng," kể từ năm 1926, trên mặt quả địa cầu này, toàn thể nhân loại trên thế giới có thêm một đạo mới: Ðạo Cao Ðài! Qua đức Cao Ðài Tiên Ông Ðại Bồ Tát Ma Ha Tát, tá danh của đức Huyền Khung Cao Thượng Ðế, tức Trời nhưng vẫn thường hay xưng là Thầy! Và đương nhiên, riêng đối với người Việt Nam chúng ta, hầu như ai ai cũng biết qua cơ đạo này, không nhiều thì ít. Lịch sử thành lập đạo từ buổi sơ khai đến hồi phổ độ, truyền bá trong dân gian, và rồi chia chi lập phái... rất là dông dài nếu muốn đi sâu vào chi tiết! Nhưng, đại khái, bằng những lời cơ lúc nhặt lúc khoan, lúc như ra lịnh lúc như đùa vui, các vị Thần Thánh Tiên Phật và Thầy đã dìu dắt và chiếm trọn lòng tin của mười hai đệ tử đầu tiên, toàn là những người học thức cao, có địa vị trong xã hội đương thời. Tên của mười hai vị này được lồng trong ba câu đầu (viết chữ hoa) của bốn câu thơ: CHIÊU KỲ TRUNG độ dẫn HOÀI sanh BẢN đạo khai SANG QUÍ GIẢNG thành HẬU ÐỨC TẮC CƯ thiên địa cảnh HƯỜN MINH MÂN đáo thủ đài danh... Ba vị sau trong câu cuối, mặc dù không có mặt trong buổi cầu cơ này, nhưng Thầy đã cho biết trước rồi họ sẽ có dịp "nhập cuộc" ở những ngày sắp tới trong một tương lai gần. Và, qua kinh nghiệm của vị đệ tử đầu tiên CHIÊU, ngài NGÔ VĂN CHIÊU, Thầy còn dạy thờ thánh tượng Thiên Nhãn với ngụ ý như sau: Nhãn thị chủ tâm Lưỡng quang chủ tể Quang thị thần Thần thị thiên Thiên giả ngã giả Tạm hiểu là... mắt làm chủ cái tâm, hai luồng sáng làm chúa tể, ánh sáng là thần lực, thần lực là thiên lực, thiên lực là ta, tức Trời, tức Thầy... Ðó là chuyện xa xưa đã 76 năm qua, ngày nay vào thời buổi 2002, nếu ai có "computer" và hay "surf the net," muốn tìm hiểu điều gì về Việt Nam, chỉ cần "search" (qua Yahoo.com hoặc Google.com chẳng hạn) chữ "Viet Nam" không dấu là có đủ mọi thứ, từ ăn chơi đàng điếm cho đến tu tâm dưỡng tánh... đều được trình bày, bàn thảo công khai bởi người Việt lẫn người ngoại quốc, mặc sức mà nghiên cứu, tìm tòi, học hỏi... Hiển nhiên, trong khi "search" chữ "Viet Nam" sẽ có "Du Lich Viet Nam"! Và trong "Du Lich Viet Nam", ngoài Huế, Sài Gòn, Hà Nội..., ngoài vịnh Hạ Long, Bái Tử Long, China Beach (ở Ðà Nẵng, vùng Ngũ Hành Sơn), Nha Trang Beach, v.v... ta lại thấy địa phận tỉnh Tây Ninh với Thánh Thất Cao Ðài được vẻ kiểu, xây cất do lời chỉ dạy của Bề Trên qua cơ bút, hiện ra như một kỳ quan thế giới cho mọi người cùng chiêm ngưỡng, nhất là đối với người ngoại quốc... Rồi trong chữ "Cao Dai" hay "CaoDai" lại có thêm "Caodai.com," "Caodai.net," "Caodai.org," v.v..., nói chung, Cao Ðài Mỹ, Cao Ðài Canada, Cao Ðài Pháp, Cao Ðài Ðức, Cao Ðài Úc Châu, v.v... lần lượt hiện ra, mỗi nơi mỗi vẻ, ôi thôi muôn hình vạn trạng! Mà, tình cờ, trong một ngày đẹp trời hôm đó, tôi có dịp lướt qua! Ðể rồi sau cùng tôi dừng lại ở "homepage" Thiên Lý Bửu Tòa * , vì nơi đây có mục... "thỉnh kinh miễn phí" xem ra rất phù hợp với tánh của tôi là thích đọc kinh, sách cầm trên tay hơn là đọc trên NET! Download và in ra cũng được nhưng... hơi phiền toái và không đẹp đẻ cho lắm! Well, nói theo đạo Phật thì có lẽ do thập nhị duyên sanh, còn nói theo đạo Cao Ðài thì có lẽ do... thiên cơ dĩ định, vì tôi cũng cứ đinh ninh rằng Thiên Lý Bửu Tòa lại là một chi phái nào đó mà mình chưa biết, chưa từng nghe qua, ai ngờ..., lại hai chữ ai ngờ, đây là nơi Thầy và các chư Phật, Tiên, Thánh, Thần... về cơ trở lại. Ở San Jose ngay trên xứ Mỹ văn minh tột cùng này mới là điềm lạ, điềm lành cho nhơn loại, chúng sanh. Ðể Thầy mở Ðệ Nhị Thiên Khai, Ðại Ðạo Tam Kỳ Phổ Ðộ ngoài xứ Việt Nam thân yêu của chúng ta. Bên ngoài xem ra không có gì bề thế nhưng bên trong lại tiềm ẩn nhiều điều đáng nói, đáng nêu! Quả đúng là "chùa rách có Phật vàng," như chính Thầy đã ban: Bửu-tòa CAO chẳng mấy thước đo, Thiên-lý ÐÀI Tiên ý chẳng dò, Chùa rách THƯỢNG Nguơn nhồi Ðức-Thánh, Phật vàng ÐẾ Ðạo dựng nền Nho. Thì ra cơ Trời vẫn luân chuyển, máy Tạo vẫn vần xoay... như đã "tiên tri" trong kinh sách, rằng Ðạo Cao Ðài sẽ lan truyền khắp năm châu bốn bể. Trong âm thầm, lặng lẽ nên ít người để ý tới. Trong số đó có tôi. Ngoại trừ những ai có căn cơ tiền kiếp, sớm tìm ra lẽ Ðạo (vốn không là món hàng rao bán vì Trời Phật vốn chẳng phải con buôn - Thánh Ngôn Hiệp Tuyển), chớ còn hầu hết chúng ta ngay từ lúc sinh ra cho đến lúc trưởng thành, đã bị dồn dập cuốn lôi vào dòng đời phong ba bão tố, mạnh được yếu thua. Bằng những học tập nhồi nhét kiến thức vào đầu, hầu làm hành trang để bương chải tìm kế sinh nhai. Lắm khi chẳng còn thì giờ nhìn lại những đoạn đường đã đi qua. Ðến lúc giựt mình tỉnh ngộ thì bóng xế, chiều tà. Mới chợt nghe văng vẳng bên tai tuồng như tiếng kêu thảng thốt của Phật Trời hằng bao năm qua đang từ xa vọng lại: Hảo Nam bang, hảo Nam bang! Tiểu quốc tảo khai hội Niết bàn... Mà, nương vào biến cố có một không hai trong lịch sử nhân loại đó, người Việt chúng ta tự cảm thấy, không ít thì nhiều, hãnh diện về đạo đức, căn cơ của dân tộc mình, xứ sở mình. Vũ trụ, vạn vật luôn luôn đổi thay và mỗi người chúng ta, do thời thế đẩy đưa, thường hay bắt gặp những hoàn cảnh mới, những hạnh ngộ mới, những vận hội mới... như những khúc quanh lịch sử của cuộc đời, để có thể tạo nên những cơ nghiệp mới. Nhưng, theo thiển ý của riêng tôi, việc bắt gặp... một phương trời mới, hướng ta về nơi nuôi dưỡng mạch sống tâm linh, mới là điều ta đáng quan tâm hơn hết... (Bài kế: Một vài điều đáng suy nghĩ)
  13. Nhớ một bài thơ của Tú Xương Lên đồng Khen ai khéo vẽ sự lên đồng Một lúc lên ngay sáu bảy ông Sát quỉ, ông dùng thanh kiếm .. . gỗ, Ra oai, bà giắt cái .. . khăn hồng. Cô giương tay ấn, tan tành núi, Cậu chỉ ngọn cờ cạn rốc sông. Đồng giỏi sao đồng không giúp nước ? Hay là đồng sợ súng thần công ?
  14. Trích từ Chương 7- Hồi ký Phạm Duy ..."Trong xã hội Việt Nam, cũng đã có từ lâu một phương cách hiệu nghiệm để giải toả ẩn ức như nhẩy đầm. Đó là sự lên đồng. Tôi không biết truyền thống đồng cô bóng cậu có mặt ở nước ta từ bao giờ nhưng vào lúc tôi còn bé, tôi thấy trong gia đình tôi có nhiều người lúc nào cũng muốn nhập vào bóng bà Mẫu Thoải, bà Chúa Thượng Ngàn, Ngũ Vị Vương Quan hay Thập Tam Hoàng Thái Tử... Từ lúc còn bé, tôi đã được tham dự không biết bao nhiêu lần những buổi lên đồng, nghe không biết bao nhiêu lần những điệu hát chầu văn vô cùng phong phú và hấp dẫn. Về sau này tôi còn được làm quen với ông vua của làng cung văn là Tư Quất, khi tôi soạn những chương trình âm nhạc dẫn giải cho một Đài Phát Thanh ở Saigon. Người Việt Nam, từ xưa cho tới ngay bây giờ -- 1989 -- dường như không bao giờ chống đối sự lên đồng. Trước 1975, tuy ở cả hai miền Nam Bắc đều có những cuộc ''cách mạng'' cả nhưng tại điện Hòn Chén ở Huế vẫn còn có những cuộc lên đồng tập thể với sự tham dự của hằng trăm phụ nữ giầu cũng như nghèo. Trong cộng đồng tị nạn ở Hoa Kỳ và ở Âu Châu hiện nay, vẫn còn có những nơi để phụ nữ tới lên đồng. Trong cuốn Đặc Khảo Về Dân Nhạc -- nhà xuất bản Hiện Đại, Saigon 1972 -- tôi cho rằng... phụ nữ Việt Nam nhờ ở sự lên đồng đ giải toả những ẩn ức và để thể hiện những nguyện vọng thầm kín của mình. Người đàn bà Việt Nam suốt đời bị lép vế đã nhờ ở sự lên đồng đ ''hoá thân'' thành thần thánh và ban ơn cho mọi người. Đó cũng là một hành động tốt để làm cho xã hội được quân bình và không sinh ra nhiều tội ác... Không biết các bà lên đồng rồi mê cung văn có phải là một tội ác hay không nhỉ ? Một bà bạn của mẹ tôi đã bỏ chồng đi theo một anh cung văn hát hay. Họ sống cũng có vẻ hạnh phúc lắm. Nói tới chuyện lên đồng của thời tôi còn bé thì phải nói tới Cô Bé Tý ở Hàng Bạc, một cô me Tây rất ngộ nghĩnh mà tôi có hân hạnh được tới gần. Cô Bé Tý được coi như ngang hàng với người nổi danh trong làng me Tây là cô Tư Hồng nhưng cô Bé Tý được nhiều người yêu mến vì tính đồng bóng của cô. Trước hết, cô Bé Tý là người rộng rãi, ai xin tiền cô cũng cho. Rồi tới cái ngông của cô là ở ngay giữa thành phố, cô cho xây một Sở Thú (Zoo) nhỏ với một dẫy chuồng nhốt khỉ, gấu và những con thú (cô làm thành quái vật) như gà ba chân và lợn hai mõm. Ai đi qua nhà cô cũng phải dừng chân lại để coi Sở Thú tí hon này. Tôi và thằng Bảo là bạn ở cạnh nhà (cháu của Chu Viên, em rể của Duy Lam, Thế Uyên) được cô rất yêu. Được cô cho vào chơi. Vào trong nhà cô là như lạc vào trong truyện vẽ bằng tranh, vào trong truyện thần tiên. Nào là những xác chim, xác hổ được nhồi bông. Nào là những con rắn sống uốn mình quanh chiếc ngai sơn son thếp vàng trên đó có cô Bé Tý ngồi bảnh choẹ và lên đồng thường xuyên giữa một đám đầy tớ toàn là những người lùn. Ai vào nhà Cô thì đều phải gọi Cô là Bà Chúa. Đối với tôi, cô Bé Tý với thế giới gà ba chân, lợn hai mõm, những người lùn, những đồng cô bóng cậu mặc y phục lộng lẫy, múa gươm hay chèo thuyền trong khói nhang nghi ngút, với chiêng trống tưng bừng... giống như chuyện ảo tưởng có thực. Tôi luôn luôn cho rằng những người như Cô Bé Tý, người chào không biết mỏi ở phố Hàng Dầu -- và sau này nhà thơ Bùi Giáng -- là những người sung sướng nhất, vì họ được luôn luôn sống trong cảnh dị thường. Được sống đầy đủ với cô Bé Tý trong một thế giới thần tiên nên sau này tôi không còn ham mê đọc những tác phẩm giả tưởng của Andersen và cũng không còn thích coi những phim hoạt hoạ của Walt Disney nữa. Hà Nội ngày tôi còn bé, luôn luôn có những cơn sốt dị đoan như hiện tượng bàn ma xẩy ra trong một thời gian khá lâu. Nhà nào cũng có một cái bàn nhỏ ba chân rồi người ta ngồi chung quanh cái bàn đó, hai tay đặt vào thành bàn, sau khi khấn khứa với con ma bàn, người ta hỏi chuyện nó. Hỏi chồng bà này chết bao nhiêu năm rồi ? Hỏi mẹ của bà nọ ở bên kia thế giới có vui hay không ? Vui thì chân bàn gõ hai cái, buồn thì chân bàn gõ một cái... Cái bàn ma đã trả lời vanh vách với tiếng chân bàn gõ canh cách. Vừa run rợ vừa thích thú vì thấy mình như lạc vào cõi ma, nghe được thông điệp của người chết, tôi lại càng sợ hơn khi thấy có người đào mả lấy gỗ quan tài để làm thành cái bàn ma..." (Hết đoạn trích)
  15. Ảnh lên đồng giá ông Hoàng Bảy - Nguồn: vnphoto.net
  16. Lên đồng để giải chuyện tình âm dương Với những người chậm tình duyên thì cô đồng thường phán rằng kiếp trước có hẹn hò với một người, nên phải làm đám cưới âm cho người tiền kiếp. Phải đăng đàn, làm lễ thật lớn để cắt tiền duyên giống như ly hôn với người cõi âm... Thế mới mong lấy được chồng. Cô đồng người rung rung, tay phải đặt vào ngực, tay trái đặt lên trán, mắt nhắm nghiền, miệng lẩm bẩm. Cô đang nói chuyện với người cõi âm. Hai khách hàng ngồi bên cạnh cô chừng 26-27 tuổi, mặc váy ngắn công sở ngồi chắp tay thành kính. Ngồi phía ngoài là 4 cô gái khác, trạc tuổi ấy, gương mặt chờ đợi. Trước mặt họ, bàn thờ bày mâm ngũ quả có treo ảnh Phật Bà Quan Âm. Khói hương nghi ngút trong căn phòng tập thể chật hẹp. Bất động một hồi vì bận nói chuyện với người cõi âm, cô thình lình quay sang khách hàng: "Phải cắt tiền duyên thôi nếu em muốn có người yêu và lấy chồng suôn sẻ". Cô đồng có khuôn mặt xinh đẹp, nổi bật với váy đen áo tím. Cô xoay chân cho đỡ mỏi rồi nhoẻn một nụ cười thấu hiểu: "Gần đây, khách hàng của chị đa số là những cô gái 25-28 tuổi, thậm chí các chàng trai 30 tuổi. Tất cả đều gặp trở ngại trong đường tình yêu, hôn nhân. Nhiều người như thế lắm, nhiều đến mức mà chị chẳng cần hỏi đến thánh thần cũng có thể nhắm mắt mà nói về các em. Không hiểu sao bọn trẻ bây giờ khó lấy chồng lấy vợ. Các em yêu muộn, lười yêu mà nhiều cô xinh đẹp giỏi giang nhưng lại cứ để cho mình già dần". Một khách hàng tỏ ra rất thành kính. Cô đã đi 4 bà đồng, 2 nhà ngoại cảm và cả một thầy chuyên tìm mộ liệt sĩ. Ai cũng bảo cô phải cắt tiền duyên. Cô làm ở một công ty dầu khí, tháng kiếm được hơn 3 triệu chỉ đổ tiền vào trang điểm, học khiêu vũ, offline với các chatter, học đến nát bét mấy quyển giáo trình lớp tiếng Anh buổi tối. Trông cô không quá hấp dẫn nhưng cũng duyên dáng, đáng yêu. Vậy mà cô vẫn chưa có mối tình nào trọn vẹn. Cô đồng lại đặt tay phải lên ngực, tay trái lên trán. Người cô vẫn run lên: "Phải cắt tiền duyên, cắt mối tình kiếp trước của em đi. Kiếp trước em có hẹn hò với một người. Hai người đã hẹn thề yêu nhau đến kiếp sau. Nhưng kiếp sau em đầu thai được, còn người ta thì không. Người ta cứ theo em như duyên nợ. Em muốn làm gì, yêu ai đều trượt". Mặt cô đồng lại đỏ hơn, rung rung. Về sau cô giải thích rằng: "Chị nói chuyện với người cõi âm mất nhiều sinh khí lắm". Giọng cô ngày một thánh thót. "Trước hết, phải làm một đám cưới âm cho người tiền kiếp của em. Phải dỗ dành nịnh nọt để anh chàng của em đồng ý với đám cưới âm đấy. Anh chàng này có công năng mạnh lắm, lại có chức sắc trong cõi âm. Thế này thì em phải lên phủ Tây Hồ với chị rồi. Phải đăng đàn, làm một lễ thật lớn và cần đến sự giúp đỡ của quan giám sát. Em phải hiểu là cắt tiền duyên giống như một cuộc ly hôn với người cõi âm vậy. Còn chưa ly hôn được em còn chưa yêu được ai, chưa lấy được người nào". Đến vị khách hàng thứ 3 mà mối quan tâm lớn nhất vẫn là chuyện tình duyên nhọc nhằn khi muộn tuổi. Lần này thì cô đồng đổi bài: "Em bị một vong nữ đi theo. Người ta theo em cách 2 năm nhân dịp em vào đền. Việc trước tiên của em là đọc kinh đủ 9 ngày. Sau 9 ngày em quay lại đây làm lễ giải hạn. Nếu việc đọc kinh 9 ngày, đủ 9 vía mà thành công thì em làm lễ nhỏ tạ ơn hết khoảng 200 nghìn đồng. Nhưng sau 9 ngày mà vẫn chưa có dấu hiệu chuyển biến, chưa có người bạn trai nào có ý định thực sự đến với em thì phải đăng đàn trên phủ đấy. Tốn kém hơn nhưng làm đi cho nó nhẹ lòng". Các cô gái văn phòng đồn với nhau rằng: cô đồng này có tiếng lắm, một năm trở lại đây rất linh, đặc biệt trong vấn đề cắt tiền duyên. Nhà cô ở phòng cuối cùng trong một khu tập thể "cổ kính" nhất Hà thành. Cầu thang vừa tối vừa ẩm thấp. Lịch làm việc của cô rất chuyên nghiệp. Ai muốn đến phải hẹn trước qua điện thoại. Cứ đợi cô ghi vào sổ, sắp xếp chán rồi mới đến lượt. Cô ngồi lên đồng, điện thoại di động để trước mặt. Chuông đổ liên hồi. Cô dùng một số City phone để giao dịch cho tiện. Khách của cô, số lớn là do một ông thầy chấm tử vi trên phố Hàng Trống giới thiệu. Ông bảo: "Ngoài xem số tử vi phải đến cô để cắt âm khí thì mới trọn vẹn được". Cô thì bảo: "Sau khi cắt âm phải chấm tử vi mới biết được cuộc đời mình ở tầm rộng và xa". Thầy và cô bổ sung cho nhau. Vậy mà vẫn có rất đông khách hàng trẻ tuổi đến chầu chực ngồi bên cô thành kính đến mù quáng. Họ nghĩ mình được vỗ về, ve vuốt tâm linh. Một lễ cắt tiền duyên cô lấy chừng 2 triệu đồng. Có cô cắt tiền duyên đến 3 lần rồi mà vẫn chưa có người yêu. Tên khách hàng cứ xếp dài bên cạnh quyển danh bạ. Ngày càng đông đảo hơn những cô gái văn phòng đến xếp hàng đợi cô đồng cắt duyên kiếp trước. Quyển sổ những người đã được cô xem thì dày cộp trong đó ghi chi chít tên tuổi nghề nghiệp. Trang nào cũng có ít nhất một khách hàng khai báo nghề nghiệp: sinh viên. Trong sổ cô đồng ghi cơ man các số điện thoại liên hệ. Bên cạnh đó là danh mục lễ sắm. Một buổi đăng đàn chừng hơn một triệu. Lễ nhỏ thì bốn trăm rưỡi, năm trăm. Tiền công của cô một lần ra phủ là 200 nghìn. Mọi thứ cô đều ghi chi tiết ở sổ: Tổng số là bao nhiêu, đặt trước là thế nào. Một lễ cắt tiền duyên trên dưới 2 triệu, tuỳ vào âm vận tốt xấu của khách hàng. Khách xem xong thì lên ban đặt "lễ". "Lễ" nhỏ thì 30-50 nghìn. Khách đặt xong cô đến thắp tuần hương mới, thu "lễ" về... Trong phòng của cô nhiều sách lắm: Lịch vạn niên thực dụng, Chúng ta thoát thai từ đâu, Khoa học nhận dạng, Cảm xạ học thực hành, Can chi thông luận... cả Phụ nữ và ăn chay hay quyển Tự học Hán văn. Cô là thánh thần chắc cũng do con đường tự học. Cô ghi chép rành rọt như một người thợ may ghi số đo khách hàng. Người giữ xe dưới tầng một khu tập thể nhà cô bảo: "Ngày trước cô làm thợ may. Khách hàng ít lắm không giống như bây giờ". Trong căn "điện" chật chội của cô còn đặt chình ình một cái máy khâu hết tác dụng. VnExpress.net
  17. Một tấm ảnh lên đồng từ www.photoworld.com.vn
  18. Lên Đồng Tác giả: Phan Lạc Tiếp - Truyện Ngắn 1. Lên Đồng Chú Châu tôi là con út của ông trẻ tôi. Ông trẻ và các chú lớn đi làm ăn xa, tận trên mạn ngược, đâu như Hà Giang, Bắc Mục. Những địa danh xa tít, đầy lam sơn trướng khí, mịt mù huyền hoặc. Lâu lâu gia đình ông trẻ tôi mới về. Lúc nhỏ chú Châu có theo gia đình lên trên đó. Sau chú bị báng, bụng cứ to ra, da bủng và vàng ệch. Người ta bảo là chú ngã nước. Có người lại bảo tại chú nghịch ngợm sao đó bị ma nó ốp, bị người Thổ họ thư. Vì thế chú về lại làng uống thuốc. Khi khỏi bệnh chú không lên mạn ngược nữa, sợ ma nó nhớ, nó bắt. Tuy theo vai vế chú gọi thầy tôi là anh, nhưng chú chỉ nhỉnh hơn anh hai tôi đâu có một hay hai tuổi gì đó, nên chú xưng với thầy tôi là "em" và gọi thầy tôi là "bác". Chú nhập bọn với các anh lớn của tôi và các con của cô tôi. Tất cả năm, sáu người ở tuổi mười lăm, mười sáu, cười đùa rinh rích, nhưng mỗi khi thầy tôi lại gần, cả bọn lại im như không, như là ngoan lắm vậy. Nhưng cả bọn không dấu được tài ăn của họ. Họ ăn nhanh và ăn nhiều quá. Nhà có giỗ chạp gì, mâm của họ, thức ăn không bày ra đĩa, mà xúc vào bát lớn. Mới bày ra, loáng cái đã nhẵn bóng. Các bàn trên, các cụ vừa ăn vừa nhâm nhi câu chuyện, thức ăn còn lại "thôi đưa xuống cho bọn trẻ", ngoảnh đi ngoảnh lại đã hết veo. Thầy tôi bảo "Quái. Tụi này ăn nó không nhai chắc.". Đấy là vừa ăn vừa nói. Họ nói với nhau bằng những tiếng lóng, chả ai hiểu họ nói gì, chỉ thấy chốc chốc lại phá lên cười. Tôi đoán là có nhiều điều "láo lếu" lắm đây. Mà thật. Một điều láo lếu mà tôi biết, biết mà phải giữ kín, nín thinh trong bao nhiêu năm. Đến khi có thể nói ra được thì tôi đã ở xa quê quá đỗi. Các người trong cuộc kẻ mất người còn mà vai chính là chú Châu. Câu chuyện thế này... Giỗ chị Hân đã xong. Lễ hoá vàng cũng đã xong. Tro cũng đã được hốt đổ xuống ao, nhưng bác gái tôi vẫn bồi hồi nhớ chị Hân. Chị chết oan uổng, đau đớn. Bác gái tôi cho gọi ông thầy cúng đến để phụ đồng chị Hân lên. Bác tôi mong rằng sống khôn thác thiêng, bác muốn hỏi cho ra lẽ về cái chết của chị. Trời đã tối. Mảnh sân hoá vàng còn nóng hôi hôi hổi. Bác gái tôi cho bày một bàn thờ riêng ở gian bên, có hình chị Hân trên bàn thờ. Hình chị Hân tô mầu cu-lơ, chị mặc áo nhung, đeo kiềng vàng, vấn tóc trần. Quanh ảnh chị có hoa tươi, trà, một đĩa xôi đậu, một con gà luộc. Mỏ gà cắp một đoá hoa hồng, ngắt ở ngoài vườn. Hai cây nến trắng lung linh, bát hương nghi ngút khói. Đặc biệt có một mâm bồng cam Bố-Hạ. Thứ cam to, mỏng vỏ, ngọt mát mà ngày xưa chị Hân rất thích ăn. Ông cung văn và cô đồng đón đâu từ xa đến, được bác tôi đãi ăn rất hậu. Bác tôi còn hứa "nếu hồn về trót lọt, trả lời xuông sẻ, tôi sẽ còn thướng thêm". Cơm nước xong, trước bàn thờ, ông cung văn ngậm cái tăm trên miệng, nhẹ nhàng ngồi vào góc chiếu lên giây đàn: phừng phừng. Phừng phứng phưng... Những ngón tay dài khẳng khiu nắn buông trên các phím, phô cái khuỷu tay áo the đã rách. Mọi người đã tề tựu. Bác gái tôi đã có mặt. Cô đồng được mời vào. Cô đồng trạc độ trên dưới 40, là vợ của ông cung văn, nổi tiếng là người có căn, hồn dễ nhập. Cô được mời ngồi vào giữa chiếu. Đèn măng-xông thắp sáng. Cô e dè ngồi lê dần vào vị trí trước bàn thờ. Ông cung văn phủ lên đầu cô một cái khăn đỏ rộng chùm đầu, che kín cả vai và lưng. Trên đầu cô, một bát nhang được nhẹ nhàng đặt lên. Cô đồng từ từ dơ hai bàn tay lên, run run, úp vào mặt. Cung văn bắt đầu hát: "Ơ cô. Cô đẹp cô xinh... Ấy a hồn rằng hồn thác ban ngày. Thương cha nhớ mẹ (chứ) hồn dày thác đêm". Bác gái tôi bắt đầu tấm tức khóc. Không lễ, vì cha mẹ không phải lễ con, nhưng bác tôi nói nho nhỏ: "Sống khôn thác thiêng, con có điều gì oan khuất thì xin nhập vào đồng, nói cho mẹ biết". Ông cung văn vẫn cao giọng vừa đàn, vừa hát. Mắt ông không dời nhìn vào cô đồng. Vì theo kinh nghiệm thông thường, hát chưa xong một khúc, đồng đã đảo. Nhưng khúc hát đã chuyển mà đồng vẫn cứ lặng yên, chỉ thấy hơi run run như lo, như sợ. Hết khúc hát khen, ông cung văn chuyển sang khúc tán. Giọng ông lúc cao vút như gió gió cuốn trên ngàn, lúc lại chùng chùng xuống như thác đổ đầu gềnh. Cô đồng vẫn ngồi im như cũ. Bỗng cô đồng buông tay, đỡ bát nhang trên đầu xuống, để ở trước mặt. Tháo khăn phủ đầu xuống. Ông cung văn cũng bỡ ngỡ, bỏ dở tiếng đàn, tiếng hát. Cô đồng mặt mày nhợt nhạt, cúu đầu, chấp tay lễ hai lễ, rồi lễ phép thưa: "Xin cụ bỏ lỗi cho. Nhà cháu không hợp căn, hồn không nhập được". Mọi người ngơ ngác. Ông cung văn cũng hạ cây đàn xuống, để dài trên chiếu. Chiêu một ngụm nước lớn, lấy tay gãi nách, rồi thưa: "Hồn cô cao lắm, nhà cháu không hợp căn cơ, không đậu được hồn về. Ở đây có ai ngồi được xin mời vào ngồi hộ cho". Trên bàn thờ, nhang đã cháy hết một nửa. Hai ngọn nết vẫn lung linh, leo lét. Bỗng có ai tắt bớt ngọn đèn măng-xông. Bàn thờ bỗng trở nên u linh, huyền hoặc. Hình chị Hân trên bàn thờ lúc sáng lúc mờ theo ánh nến. Ông cung văn lại nhắc: "Ai có căn xin ngồi hộ. Ông cung văn chiêu một nhụm chè mạn đặc, nhưng nét mặt ông lo lắng thấy rõ. Như thế là tiếng tăm của cô đồng mất, việc làm của vợ chồng ông sẽ xa sút chăng. Đợi một lúc, ông cung văn lại hỏi: "Ở đây ai có căn cơ hầu đồng được thì xin ngồi hộ đi". Ngoảnh đi ngoảnh lại không thấy ai. Sau một tuần trà nước nữa, cuộc hầu-đồng tưởng đã bỏ ngang, thì cửa phòng bỗng mở. Một luồng gió tạt vào, lạnh toát. Chú Châu tôi xuất hiện, khẽ nói: "Nếu không có ai thì để tôi ngồi thử xen sao". Có ai đáp "phải đấy". Cô đồng lê ra cạnh chiếu, nhường chỗ cho chú Châu tôi ngồi vào giữa chiếu. Đầu chú phủ khăn đỏ, và không quên để bát hương lên đầu. Hai tay chú bưng mặt. Tiếng đàn lại nổi. Tiếng hát của ông cung-văn lại cất. Lúc đầu đầu đồng quay nhè nhẹ, rồi theo nhịp đàn, theo tiếng hát, đầu đồng quay rộng vòng hơn, ngả ra phía trước, ngả ra phía sau. Tiếng đàn hát mỗi lúc mỗi thêm hưng phấn. Mọi người trố mắt dõi theo vòng đảo chao chát của đồng. Bỗng tiếng đàn như chùng, tiếng hát nhẹ như ru, như dỗ: "Chẳng mấy khi xa loan giá ngự về đ.. ồ..n.. g.". Bây giờ đồng đảo mạnh, mềm như không có xương, rạp xuống phía trước, ngả ra phía sau, vậy mà bát hương trên đầu đồng không đổ. Mọi người ngồi xung quang im phăng phắc, nét mặt ai nấy đăm chiêu, sợ hãi. Bác gái tôi thì xuýt xoa. Đồng đảo một vòng rất sâu rồi từ từ ngưng lại. Tiếng đàn thưa thớt theo lời như khấn, như dỗ dành: "Đêm có khuya, ngày có rạng. Xin đồng ngả tay đồng xuống để ăn trầu uống nước...". Đồng chìa bàn tay run run ra phía trước. Mọi người nín thở. Hai tay đồng đón bát hương trên đầu xuống, trịnh trọng để ngay trước mặt, rồi nhẹ nhàng vén mảnh vải đỏ ra. Mọi người nín thở. Chú Châu bây giờ khác hẳn. Mặt mày đỏ ửng, hai mắt khép hờ, rồi từ từ mở ra, thất thần như đang còn chìm vào một cõi huyền hoặc nào xa. Đồng đảo mắt một vòng rồi bỗng oà khóc. Khóc như mưa, chan hoà, nức nở. Bác gái tôi thì có vẻ sợ mà nước mắt cũng đầm đìa. Tiếng đàn lại nổi, và giọng ông cung văn như dục, như mời: "Xin hồn hãy bớt lo toan, đừng khóc nữa. Hồn có điều gì oan khuất thì có mẹ hồn đây, hồn có thể giãi bày vài lời cho thoả..." Hồn vẫn khóc, khóc lớn hơn. Bác gái tôi trong nước mắt nghẹn ngào: "Con ơi, con chết oan chết uổng, khổ sở thân con. Mà con có biết hôm nay là ngày gì của con không..." Hồn khẽ gật đầu, nói: "Biết. Ngày giỗ đầu của con." Thế là bác gái tôi oà khóc và hỏi: "Mẹ có thửa mã cho con đủ cả. Nhà Tây, xe cao-su, hài thêu, quần áo, người hầu, không thiếu một thứ gì. Con có nhận được không." Hồn lại khóc và khẽ đáp: "Con chỉ nghe được tiếng trống cúng xa xa thôi. Vì lũ quỷ nó cướp mất cả, con chả được gì." Thế là bác gái tôi lại khóc nấc lên não nuột: "Khốn khổ con tôi. Thế con đã ăn uống gì chưa." Hồn lắc đầu và ra chiều buồn bã quá. Hồn nhìn lên bàn thờ mình, trong lúc tiếng đàn của ông cung văn lại nổi lên rộn rã, reo vui: "Hồn đói, hồn khát, thương quá hồn ơi..." Thế là bác gái tôi bảo đem con gà luộc trên bàn thờ xuống, xé cái đùi gà ra chặt vội vã bày trước mặt hồn. Hồn ăn một miếng thịt gà rồi lại khóc. Bác gái tôi lại hỏi: "Thế con làm gì ở dưới âm ty". Hồn đáp: "Con nghèo khổ quá, phải đi buôn rau buôn chè". Đó là nghề ít vốn mà những người cùng quẫn của làng tôi mới làm. Nghe thế bác gái tôi lại khóc và nói: "Khốn khổ quá con tôi...". Ông cung văn vẫn hát, hồn khen "hát hay" và bảo "hồn cần tiền để thưởng cho ông cung văn." Bác gái tôi liền móc túi lấy mấy đồng bạc đưa cho hồn. Hồn cầm tiền bỏ cả vào túi, chỉ lấy ra có mấy xu thưởng cho ông cung văn. Ông cung văn đón lấy tiền thưởng và cao giọng hát tiếp, ý chừng sẽ còn nhận được thêm tiền thưởng: Âm dương cách trở đôi đàng Khuất oan hồn cứ thực lòng kể ra Này anh, này mẹ, này cha Này là chú bác toàn là người thân. Tiếng đàn càng trở nên quấn quýt, rộn rã như thục dục, như tươi vui: Á à a hồn ơi, hồn chớ ngại ngần... Có ai đó lấy từ trên bàn thờ xuống một quả cam Bố-Hạ đỏ au, vỏ mỏng như giấy, bóc ra đưa cho hồn. Hồn nhận và cho vào miệng một lần 4 múi. Quả cam vừa hết, mọi người hy vọng hồn sẽ thổ lộ thêm về cái chết oan khuất của hồn thì hồn bỗng lăn ra và... thăng. Ông cung văn hốt hoảng ngưng đàn hát. Bác gái tôi thì xững sờ, hai tay quơ quơ như muốn bám víu, muốn giữ hồn ở lại. Chú Châu tôi lồm cồm ngồi dậy, mắt nháo nhác như vừa tỉnh một cơn mê. Chú vái vội vàng mấy vái trước bàn thờ rồi nhanh chân lui ra. Mọi người còn ngơ ngác. Bác gái tôi mếu máo: "Thế là nó đi. Mẹ con âm dương cách trở, mới gọi được hồn lên, chưa hỏi đươc ngọn ngành nó đã thăng....". Trong cái không khí bàng hoàng đó, chú Châu đã nhanh chân lẻn ra ngoài. Anh cả tôi chạy theo. Tôi cũng chạy theo xem sao. Trời đêm tối như mực. Đom đóm đâu đó kéo về bay nháo nhác đầy sân. Chú Châu vỗ vào túi áo, nói nhỏ với anh cả tôi: "Đi. Đi ăn phở". Chú cho tôi đi theo và nhắc khẽ, lời nói sắc, gọn như chỉ lọt qua kẽ răng: "Câm. Phải câm nghe không". Vâng, lúc ấy vì sợ chú, vì bỗng dưng được đi ăn phở, tôi đã "câm", không dám hở cho ai hay. Hình ảnh chú Châu bao giờ cũng vẫn thế, như lời thầy tôi nói: "bao giờ cho đứng đắn đây". Rồi cái tuổi "láo lếu" ấy cũng qua đi, chú Châu lấy vợ. Vì cụ Trẻ Ba đi làm ăn xa, không có mặt ở nhà, nên thầy tôi phải "quyền huynh thế phụ", thay mặt cụ Trẻ Ba, đại diện nhà trai lo liệu. Hôm đi "đánh tiếng" chú sang nhà tôi khi thầy tôi vừa ăn cơm xong, chú nói: "Bác mặc cái áo dài vào đi lại nhà gái cho em...". Thầy tôi bảo: "Để anh uống ngụm nước cái đã". Chú dục: "Thế nào nhà gái cũng mời mình uống nước mà". Đám cưới chú Châu như tất cả các đám cưới khác trong làng, tôi chỉ nhớ được mấy điều. Khi nhà trai mang lễ vật đến nhà gái, có cụ Từ Vang mặc áo thụng xanh cầm hương đi đầu. Sau là mấy người trai trẻ bưng các mâm cau, trầu và những chai rượu Văn Điển. Kế đến là chú rể, phù rể và họ hàng nhà trai. Khi đám đón dâu rẽ vào xóm Ngõ Mắm, cái ngõ có lát gạch nhưng hẹp dí. Tụi trẻ con trong xóm đã căng mấy giây mùng tơi để cản đường đám đón dâu. Mùng tơi là một thứ dây leo mềm, rất dễ đứt, tượng trưng cho tình nghĩa vợ chồng, phải nương nhau mà gìn giữ. Cũng vì thế sợi giây căng ra cản đường mà không ai dám động vào, sợ đứt thì không nên, không tốt. Cũng chẳng ai dám bước qua. Trẻ con biết thế, cứ căng ra để mè nheo, đòi tiền chăng-giây. Kỳ kèo, nhì nhằng một lúc cho có lệ, tụi trẻ cũng mở giây để nhà trai tiếp tục đi. Đến cổng nhà gái, thì cổng đã đóng chặt. Tụi trẻ con nhà gái giữ cổng lại đòi tiền mở-cổng. Lại nhì nhằng mà cả mãi, cổng mới được mở ra. Đám đón dâu ùn lại trễ đến nửa giờ. Khi cánh cổng nhà gái vừa được mở ra, một bánh pháo Điện Quang buộc ở cành na, trước sân bắt đầu nổ vang đì đùng. Khói pháo mù mịt. Cụ cầm hương xêng sang bước tới. Chú rể và họ nhà trai quần áo chững chạc bước vào lòng sân gạch còn đầy xác pháo hồng và mù mịt khói thơm. Khi hai họ đã tề tựu, lễ vật đã được bày trước bàn thờ gia tiên, có một bà cô nào đó bên nhà gái đỏng đảnh ngỏ lời: "Thay mặt cho nhà gái, chúng tôi muốn được biết đồ dẫn cưới gồm những gì đây..." Áo dài, áo cánh, váy lụa, sà-tích bạc và một gói tiền được bày ra. Bà đại diện nhà gái lại nói: "Nói trên có các cụ bỏ lỗi cho, chứ cháu gái tôi đáng giá có ngần ấy thôi sao?" Tuy biết đây chỉ là lời đối đáp theo thủ tục cho có lệ, nhưng cũng làm cho mọi người khựng lại. Chú Châu tôi đứng ở hàng sau, nóng mặt nói lớn: "Không nhận lễ thì con gái để đó mà làm mắm à..." Mọi người bỗng cười ồ. Nhà gái vội nhận lễ vật và đem vào buồng cho cô dâu thay áo mới. Cô dâu bước ra, áo dài tứ thân bên ngoài, áo cánh nâu non bên trong, yếm trắng tinh, thắt lưng hoa lý, giây xà-tịch bạc buông dài bên gối, đủng đỉnh, thẹn thùng. Nhờ có mấy người đẩy, cô dâu mới bước tới ra chào hai họ. Lúc ấy thì bà đại diện nhà gái lại tươi cười lên tiếng trước: "Dạ, trên có các cụ hai họ, dưới là tất cả gia đình hai bên. Cháu gái tôi được về làm dâu họ Phan là một điều sung sướng. Nhưng cháu nó có nhớn mà chả có khôn. Thôi thì khôn thì các cụ dạy ít, dại thì các cụ dạy nhiều...". Tiếp sau đó là các bà dì, bà cô, họ hàng sà vào, tíu tít: "Dì thì nghèo. Dì chả có gì nhiều cho cháu, gọi là có, dì cho cháu cái thoi... Cô tuy có tiếng mà chả có miếng, cô có tấm vải cô cho cháu đem về làm dấn làm vốn..." Sau mục họ hàng cho quà, cỗ bàn được bày ra. Ngoài những bát canh, bát om, đĩa thịt mỡ thái quân cờ như thường lệ ở làng, cỗ cưới bao giờ cũng có một gói nem. Nem là bì thịt lợn trộn với thính, được gói bằng lá chuối xanh vuông vức, buộc bằng hai cái lạt màu đỏ, để ở cạnh mâm như một thứ trang trí rất đẹp, rất vui mắt. Những tay xính rượu, trước khi đi dự đám cưới đã thủ sẵn một nhúm lá ổi non để nhắm với món mem này. *** Sau bao nhiêu năm xa cách, trước phút vợ chồng tôi lên đường ra phi trường từ Mỹ để về thăm Việt Nam, anh Hai tôi từ Úc gọi qua, anh dặn thêm: "...như thế là chu tất. Có điều em nhớ thăm chú Châu cho anh. Nhớ biếu chú một món quà cho anh..." Tôi vâng lời mà lưỡng lự. Anh tôi hiểu ra và tiếp: "Sở dĩ anh nhắc em điều ấy là vì anh em mình chịu chú một cái ơn..." Câu chuyện thế này. Lúc ấy là cuối năn 1954, hiệp định Geneve đã ký. Ai muốn đi Nam thì đi, ai ở lại cũng được. Anh Hai tôi lúc ấy là Trung Uý, thường gọi là Quan Hai. Sau mấy tuần nằm nhà thương vì bị trúng đạn ở chân trong một trận đụng độ khá ác liệt đâu như ở Thái Bình, Phủ Lý gì đó, nhờ có khả năng ngoại ngữ, anh Hai tôi được chỉ định ở lại Hà Nội, phụ trách việc liên lạc với Hải Quân Hoa Kỳ trong việc đưa đồng bào vào Nam. Trung Uý trẻ, được phát một cái xe jeep mui trần mới tinh, sau giờ làm việc, buổi chiều lái loanh quanh Hà Nội. Anh Cả tôi và hai cô em gái từ quê ra bảo: "Chú ở lại đi. Đi Nam làm gì. Hai năm nữa tuyển cử mà. Ở lại không sao đâu, họ bảo thế." Anh Hai tôi chỉ cười, nhưng lòng cũng hoang mang. Cho đến những ngày cuối phải giao Hà Nội cho Việt Minh, chú Châu tôi từ quê ra tìm gặp anh Hai tôi và hỏi: "Quan Hai, có xe ô tô riêng oai nhỉ. Thế vào Nam họ có cho lon Quan Hai nữa không ?". Anh Hai tôi cười và nói: " Vẫn thế và có thể còn từ từ lên cao hơn nữa chứ...". Nghe thế, chú Châu nói nhỏ bảo anh tôi: "Chú nói thật. Chạy đi. Ở lại không được đâu. Đi đi. Tin họ thế nào được..." Nhờ lời nhắn nhủ đó, anh em tôi đã có mặt ở trong Nam suốt 21 năm. Chúng tôi, như đa số đồng bào từ Bắc vào Nam, nhờ chịu khó, hầu như ai cũng có cuộc sống no đủ. Riêng anh em tôi, chúng tôi, ngoài nỗi nhớ quê nhà, nhớ Hà Nội, chúng tôi đã có cơ hội đi học lại, học thêm và thăng tiến. Ở Miền Nam, dù chúng tôi không thuộc đảng phái nào, cũng đã được xã hội đối đãi đầy thương mến. Chúng tôi có bằng hữu, có những chân tình giữa đồng đội, xóm giềng. Nhiều lần khi còn ở Việt Nam, anh em tôi thường nói với nhau: "Miền Nam hiền hoà, đơn giản. Miền Nam đã rộng lòng bao bọc chúng ta". Chúng tôi cũng đã hết lòng làm một công dân lương thiện. Chúng tôi cũng đã cố gắng làm tròn nhiệm vụ của mình. Tôi nghĩ rằng đại đa số người Bắc vào Nam năm 1954 đều có ý nghĩ như tôi. Nhưng xa hơn một chút, nếu không có chú Châu lặn lội từ quê ra Hà Nội nhắc "đi đi..." thì chưa chắc chúng tôi đã quyết liệt đi như thế. Bao nhiêu năm xa cách. Bao nhiêu chia lìa, tan tóc, giờ cuộc chiến đã tàn. Những gian lao cơ cực của người tỵ nạn lúc đầu với tôi đã tạm qua. Chúng tôi đã có cuộc sống ổn định. Các con, dù rất chật vật, chúng tôi cũng đã nuôi dạy, học hành coi như xong. Tốt nghiệp đại học, có công ăn việc làm, không còn tuỳ thuộc vào cha mẹ nữa. Tôi tạ ơn Miền Nam, và cũng xin tạ ơn miền đất mới xa lạ này. Tất nhiên tôi không thể quên lời nhắc nhở của chú Châu. 40 năm xa cách, khoảng thời gian quá dài. Tôi nhắm mắt lại để cố hình dung ra chú Châu. Chắc chú đã già, râu tóc đã bạc, nhưng chú có còn cười đùa, nghịch ngợm như xưa? Chịu. Hình ảnh chú Châu với tôi chỉ là một thanh niên ngoài 30 tuổi, đùa nghịch, nghịch tinh và như thầy tôi nói "biết đến bao giờ mới đứng đắn đây". Ở Hà Nội mấy ngày rồi chúng tôi về quê. Sau những gặp gỡ, lễ lạc chính, tôi bảo chú em "cho anh thăm chú Châu..." Chú em tôi như một thoáng ngỡ ngàng: "A, cụ Châu. Vâng thì mình hãy thư thả". Sợ quên, nhất là lời dặn của anh Hai tôi, tôi nhắc: "Cứ cho anh thăm cụ Châu trước, sợ rồi bề bộn công việc...". Chúng tôi đi theo con đường chính giữa làng. Xưa tôi thấy nó thêng thang đỏ au gạch chỉ, nay sao nó bé quá, hai bên nhà cửa chen chúc mọc đầy, khác hẳn quanh cảnh ngày cũ. Nhưng khi đi qua bờ ao Hậu thì tôi nhớ ra rồi. Con đường này, ngày đám cưới chú Châu, hai họ đã đi qua đây. Cụ cầm hương mặc áo thụng xanh đi đầu. Khói hương bay lượt thượt. Chú rể áo the, khăn lượt vừa đi vừa cười. Cô dâu nón thúng quai thao, bao xanh hoa lý, xà-tích bạc óng ả, thẹn thùng đi giữa các cô phù dâu. Cạnh ao là dinh cơ của bác Tham tôi. Một dinh cơ cất theo lối mới nhưng vẫn là "thượng gia hạ trì", nhà trên ao dưới, tường hoa phủ kín hoa tường vi vàng ối. Nay dinh cơ ấy vẫn còn mà sao bề bộn, cũ kỹ quá. Dọc theo chiều dài bên kia ao là nhà thờ Quan Bác. Những năm cụ Thiếu về quê ăn Tết, nhà Quan Bác sửa soạn nhà thờ từ trong năm. Dù, lọng óng ả. Bát bửu, y môn, câu đối được lau lại, treo lên thật rực rỡ, uy nghi. Giờ là một căn nhà tối đen, thấp tè ẩn hiện qua mấy khóm tre um tùm mọc ở mé ao. Tôi vừa đi vừa nhớ lại. Những vết tích cũ đều đã phai nhoà, tàn tạ, khiến lòng tôi buồn bã bâng khuâng. Đang miên man suy tưởng thì chú em tôi nói: "Dạ xin bác vào đây..." Tôi theo chú em rẽ vào một con ngõ nhỏ, tường gạch ong đen, hai bên cống rãnh dật dờ, mùi hôi phảng phất. Chúng tôi dừng lại trước một căn nhà nhỏ. Một bà cụ mặc áo cánh nâu bạch thếch, đầu vấn tóc trần nhìn ra. Chú em tôi lên tiếng trịnh trọng, to tát: "Thưa cụ, bác cháu từ Mỹ về lại thăm hai cụ". Tôi cúi đầu chàu "thím". Bà cụ ngỡ ngàng một chút, dơ hai tay lên trời và kêu lên: "Ấy cháu...". Tôi nắm lấy đôi tay bà cụ. Đôi cánh tay gầy bọc trong hai ống tay áo bạc màu, đã rách. Rồi bà thảng thốt nói lớn vào phía trong: "Ông ơi ! cháu nó từ bên Mỹ về...". Tôi cúi đầu bước vào nhà. Căn phòng ánh sáng mập mờ. Một cụ già từ trong góc chiếu đưa đôi tay quờ quạng ra phía trước: "A ờ, cháu về thật à..." Đôi mắt cụ kém, tay run run và cái đầu lúc lắc không yên. Tôi nắm bàn tay "chú", cố tưởng tượng ra hình ảnh ngày xưa, một ông chú trẻ luôn đùa nghịch mà đành chịu. Trước mặt tôi là một cụ già mà sức khoẻ cũng như tinh thần đã lụn, đã tàn. Trước chỗ ngồi là những ly nước chè đóng váng cáu đen. Cái điếu bát đầy tàn thuốc... Tôi ngồi xà xuống bên cạnh chú. Chú vòng tay qua ôm lưng tôi. Một chút hơi ấm pha mùi thuốc lào cay nồng. Thật là hết, hết hẳn hình ảnh chú Châu ngày cũ. Tôi nhắc lại chuyện cũ, nhắc lại lời anh Hai tôi nói cám ơn chú, chú chỉ "ờ ờ...". Đôi lúc chú lại nắm lấy cổ tay tôi và nói: "Cháu, cháu thật à...". Tôi nhẹ nhàng bỏ một phong thư vào túi áo chú. Chú cười cười. Tôi nói đùa: "Để chú ăn phở". Chú lại cười, khoe hai hàm răng chỉ còn có lợi. Trên đường về nhà trời chiều đã tối. Những căn nhà nhô ra, thụt vào lấp loáng ánh đèn. Người đi kẻ lại, nói cười, chào hỏi mà tôi không nhìn rõ mặt, chẳng nhận ra ai là ai, như bóng dáng của những người từ một thửơ nào đã mờ xa, không thật. Bước những bước chập choạng lạ lùng trên con đường cũ bao năm xa cách, tôi thấy mình như đang chìm ngợp giữa một cơn mê chập chờn qúa khứ và hiện tại mờ nhoà không phân định. Ở cuối tầm mắt, ẩn hiện sau một tàn cây đen sẫm, ngôi sao hôm xanh ngắt, lấp lánh như một ánh mắt của ai cũ e lệ, kín đáo dón dén đón mừng. 2007-12-22 04:02:50 (http://www.vantuyen.net)
  19. Nguồn: http://www.vnexpress.net Lên đồng nhìn từ góc độ khoa học Cho đến nay, chưa có nhà khoa học nào thực sự khẳng định “có” hay “không” sự tồn tại của một thế lực siêu nhiên trong việc xuất nhập hồn. Nhưng có lẽ điều đó xuất phát một phần từ lòng tin, sự tự ám thị, nhu cầu chữa bệnh và cả tâm lý phấn chấn, bí hiểm do chính các buổi lên đồng tạo ra. Một hội thảo quốc tế về Tín ngưỡng thờ Mẫu và lễ hội Phủ Giầy vừa diễn ra trong hai ngày tại Câu lạc bộ Báo chí Hà Nội. Chủ đề chính được bàn luận là các hình thức xuất nhập hồn trên thế giới và việc gọi tên là Shaman còn gây nhiều tranh cãi. Trước khi ngồi vào bàn thảo luận, các nhà khoa học quốc tế đã sang Phủ Giầy, trung tâm thờ Mẫu của người Việt, “mục sở thị” các lễ hầu đồng. Trong số khoảng 40 tham luận, hơn 1/3 bàn về lịch sử, tín ngưỡng thờ Mẫu, còn lại là những nghiên cứu bước đầu về nghi lễ hầu đồng của người Việt, nghi lễ Then của người Tày, Mỡi của người Mường… Và rất nhiều hình thức Shaman (xuất nhập hồn) trên thế giới. Chân dung những thầy pháp, người lên đồng được miêu tả khá kỹ. Những người này hầu hết đã trải qua những biến cố bất thường về tinh thần, đa số đã đi đến khủng hoảng, bế tắc. Nhân tố ám thị Khảo sát trên 10 người hầu đồng tại khu vực Phủ Giầy Nam Định, bác sĩ Trần Mạnh Cường đưa ra kết luận: Lên đồng lễ hội Nam Định là một trạng thái biến đổi ý thức do nhân tố ám thị và tự ám thị gây ra. Nhân tố mạnh nhất là lòng tin truyền thống của người hầu đồng cũng như gia đình và những người xung quanh vào sự tồn tại của thần linh và khả năng tiếp xúc giữa người trần với thần linh qua thân thể của người hầu đồng. Rồi nhạc cụ gõ, màu sắc kích thích (đỏ và vàng), nhạc, hương khói, hát chầu văn, chất kích thích (rượu, thuốc lá, trầu cau…), sự say mê và nhiệt tình của con nhang đệ tử… cũng là những yếu tố thúc đẩy trạng thái biến đổi ý thức của người hầu đồng. Nhu cầu chữa bệnh Nhạc lên đồng - chầu văn, có người ví là rock Việt Nam với hai đặc trưng là sự lặp đi lặp lại của trật tự các nghi lễ và tính chất mạnh mẽ, náo nhiệt của tiết tấu nhảy, phù hợp với nhiều kiểu vận động và trạng thái tình cảm khác nhau, lúc thì khiến tâm hồn người ta bay bổng, lúc đau đớn buồn thương, lúc lại hừng hực khí thế, lúc phấn chấn say mê… Nhìn từ phương diện y học, lên đồng không phải là một trạng thái tâm lý đặc biệt… và rõ ràng trong xã hội có tồn tại một nhu cầu chữa bệnh bằng hình thức lên đồng (tham luận của Tiến sĩ Nguyễn Kim Hiền, Viện Nghiên cứu Tôn giáo). Các đại biểu tham dự hội thảo cũng được giới thiệu nhiều hình thức có tính nhập, xuất hồn như: Hiện tượng giáng bút ở Việt Nam; Hiện tượng diễn xướng sử thi; Phi Một - phương pháp chữa bệnh của người Thái; Shaman giáo của người H’Mông ở Lào Cai, Shaman của người Malaysia; Hôn nhân huyền bí và việc tích luỹ sức mạnh Shaman giữa các dân tộc Bana (miêu tả và nghiên cứu giấc mộng về quan hệ nam nữ với thần thánh của người được chọn là Shaman)… Tưởng tượng chứ không ghi nhớ Trường hợp các nghệ nhân Mường, Bana, Mnông, Êđê, Raglai… ngồi và nằm kể sử thi cũng như một trạng thái nhập thần. Bà Pinăng Mutơt, năm nay 95 tuổi, người Raglai ở Khánh Sơn, Khánh Hoà khi kể sử thi trạng thái tâm thần không bình thường như lúc chuyện trò, bà thấy hiện ra trước mặt các nhân vật như Uđai-Ujà, phong cảnh núi non sông suối. Có nghệ nhân kể sử thi một lèo suốt 42 tiếng và vì thế việc kể thuộc lòng một khối lượng rất lớn sử thi không phải là khó hiểu nếu chúng ta cho rằng nghệ nhân đang thuật lại những gì hiện lên trong đầu chứ không phải huy động trí nhớ (tham luận của PGS. TSKH Phan Đăng Nhật). Về hiện tượng giáng bút, GS Vũ Ngọc Khánh đề nghị giới khoa học phải nhìn nhận nghiêm túc hơn để theo dõi. Cùng với giáng bút, sinh hoạt đạo giáo như cầu cơ và những trò chơi dân gian: phụ đồng chổi, đồng chén, đồng ếch… đều là những hình thức mang tính chất gần gũi với tục lên đồng. Cho đến nay việc nghiên cứu cơ chế trị liệu của lên đồng nói riêng và các hình thức trị liệu dân gian khác về phương diện tín ngưỡng - tâm linh còn ít được chú ý đến ở Việt Nam. (Theo Tiền Phong, 12/4)
  20. Nguồn: http://www.vnexpress.net/Vietnam/Xa-hoi/2004/12/3B9D9A7F/ Dân gay lên đồng Một giá đồng. Trước kia, Song chỉ là tay "gay" đứng đường đón khách ở hồ Thiền Quang. Hai năm sau, Song "tậu" được xe Dylan đời mới, còn bạn tình thì thay như thay áo. Một khách quen của Song thì thầm: "Nhờ lộc các Thánh đấy! Tay này có tiếng là rất bạo trong đám đồng cô". Hiện tại, cái tên Song "Gái" cúng cơm của anh ta đã chết. Thay vào đó là một cái tên hoàn toàn mới: "cô" Phúc. Ở Hà Nội, hiện tại có đến 70% những người đứng giá hầu đồng là dân gay, cũng cạnh tranh khốc liệt như bất kỳ nghề nào. "Cô" Phúc ngả ngớn với mấy cậu trai trẻ. Trên tay trái của bọn họ đều đeo một cái khuyên nhỏ nhắn, dấu hiệu tìm bạn tình. Dân "gay" ở đây nhẵn mặt nhau. Nam được "cô" Phúc mời ngồi "cùng làm vài ly". Một anh bạn hỏi: "Chị dạo này làm ăn thế nào? Tháng này chị lên đồng được mấy đám hả?". Nhổ toẹt miếng bã trầu trong miệng ra, nhấp ngụm rượu mạnh, "cô" Phúc thong thả đáp: "Dạo này không có khách mấy nên tháng vừa rồi chạy được hơn chục vụ, chỉ kiếm được mấy nghìn đô tiêu vặt". Một lúc sau, Phúc than vãn, "cô" Ánh, "cô" Bình vừa trúng quả đi mở phủ ở Hà Tây, Ninh Bình, kiếm hàng trăm triệu. Phúc nói: "Ối dào! "Con" ấy giọng thì chua loét, đức độ không có, nghiện ngập, thế mà mấy thằng bóng cứ mê tít, cúng cho nó hàng trăm triệu". Hôm sau, theo lời giới thiệu của người quen, Nam đến gặp "cô" Lộc ở Giảng Võ, Hà Nội. Vừa gặp Nam, "cô" cất giọng eo éo: "Giời ơi! Em là có căn cơ đấy nhá. Ra hầu đồng, lộc đè chết người". Thì ra, "cô" Lộc đang xem Nam là "khách". Muốn hầu một giá đồng phải tìm được những "nhà tài trợ". Đó là nhân vật sẽ chi từ A đến Z cho cuộc lên đồng đó. Thấy Nam ngẩn ngơ chẳng hiểu gì, "cô" cầm tay Nam vuốt vuốt vai, thẽ thọt: "Đầy người "mất sạch sành sanh mà chẳng được manh áo đỏ" đấy! Theo "cô" thì mặt hoa da phấn, ăn sung mặc sướng. Nếu không theo, sẽ gặp vận hạn cả đời đó". Những lời của các "cô" sao mà ngọt ngào chí lý đến vậy. Nam ngồi nghe mà mê mẩm cả tâm thần. Thế mới biết không ít người hiểu biết, từng trải, có học hẳn hoi mà vẫn bị các "cô" vần vào bẫy. Khi con mồi đã say đòn cũng là lúc các "cô" luộc gà. Thủ tục trước nhất là sắm áo, khăn, đai, hài. Những bộ quần áo xanh xanh, đỏ đỏ dành cho giới lên đồng chỉ có bán ở một chợ duy nhất, phố Hàng Nón. Các "cô" và những tay chủ này đã nhấm nháy với nhau từ trước. Một bộ áo xống gồm áo, khăn, quần đai giá thật chỉ 1-2 triệu đồng. Thế nhưng khi các "cô" dắt đi mua, giá của nó lên tới 8-10 triệu đồng. Riêng đai có những cái rất đắt, lên tới 5 triệu đồng. Số tiền chênh lệch đó "cô" xơi đến 2/3, khách tỏ ý chê đắt hoặc tiếc của, "cô" tru tréo: "Gớm cái nhà này. Đừng tiếc tiền. Bỏ ra 1 thánh thưởng cho 10, tha hồ mà hưởng. Hôm trước, "cô" dẫn cái Hồng ở Thuỵ Khuê lên đây, nó sắm bộ áo xống những 15 triệu đồng cơ". Khoản sắm lễ cúng cũng là một nguồn thu bất tận cho các "cô". Những người hay đi hầu chủ yếu là dân buôn bán lớn, nhà giàu, vợ con các đại gia... ngại ra Hàng Mã mua đồ lễ nên khoán trắng cho các "cô". Vấn đồng lớn chỉ khoảng 2-3 triệu đồng, "cô" tố lên 7-8 triệu đồng, ung dung nhét túi 5-6 triệu đồng mà chẳng mất tý công sức nào. Một kiểu làm tiền khác của các "cô" là khi chuẩn bị đi hầu ở một nơi nào đó, các "cô" gọi điện cho các con nhang: "Này! vài ngày nữa là "cô" đi hầu ông Hoàng Bẩy đấy! Có đi cùng để "cầu tài đắc tài, cầu lộc đắc lộc, cầu bình an đắc bình an" không?". Nếu đệ tử đó bận không đi được thì: "Thôi gửi cô chút ít lễ gọi là nhờ cô cầu cho vài câu để con ở nhà được mát lòng, hởi dạ". "Một ít" của họ có khi là dăm bảy trăm nghìn đồng, có khi là vài triệu bạc. Tất cả đều "chui" gọn vào túi các "cô". Dân mê đồng bóng còn nhớ chuyện "cô" Giang ở Phủ Giầy, Nam Định. Cứ gặp con nhang nào, "cô" cũng chỉ tay vào đôi hoa tai bằng bạc nói: "Cô thắt lưng buộc bụng, nhịn ăn, nhịn uống hòng sắm đôi hoa tai hơn 3 triệu đồng này để thờ Mẫu đấy! Bây giờ nợ nần còn chưa trả xong, khổ quá!". Thế là ai cũng móc túi ra, người thì dăm bảy chục nghìn đồng, người vài trăm nghìn đồng an ủi đưa "cô". Mãi sau này, một bà nghe chuyện bực mình quá mới nói: "Thôi xin "cô". Cái vòng đó là của ông Hàm ở Hàng Bạc tháng trước đi kính Mẫu. Thế mà "cô" đưa ra dùng nó để moi tiền thiên hạ còn ra thể thống nào nữa?" Một bà giàu có ở Hàng Bông mê mẩn nghe lời các "cô" giấu chồng con hiến hẳn một mảnh đất bên Gia Lâm để "lập phủ". Biết chuyện, mấy cậu con kéo đến đập phá ầm ĩ. Chị Thanh Bình, buôn bán nhỏ ở chợ Đồng Xuân là một con nhang tích cực suốt 10 năm nay, chán nản nói: "Nghe dụ ngon, dụ ngọt đi cầu được giàu sang phú quý, lên xe xuống ngựa, người hầu kẻ hạ. Thế mà tôi nghèo vẫn hoàn nghèo, mất bao nhiêu tiền của, giờ mới tỉnh ngộ". Thế nhưng, "hậu vận" của nhiều "cô" cũng chẳng sáng sủa gì. Kẻ kiếm tiền về cống nạp cho mấy tay trai tơ ăn chơi hết, kẻ thì nghiện ngập, cờ bạc. Không ít người bị gia đình, xã hội ruồng bỏ. (Theo Tiếp Thị và Gia Đình)
  21. Lễ hội lên đồng Nguồn: tuoitre.com.vn TT - Sân khấu sáng rực ánh đèn, hệ thống âm thanh hiện đại với đôi loa thùng công suất lớn đặt hai bên..., chưa bao giờ người dân bên đền Kiếp Bạc (xã Hưng Đạo, Chí Linh, Hải Dương) lại được thưởng thức một “bữa tiệc” hầu bóng hoành tráng như vậy... Đó là lần đầu tiên những ông đồng, bà cốt trình diễn những màn nhập hồn đầy màu sắc tâm linh trên… sân khấu lấp lánh ánh đèn, chứ không phải là điện thờ nghi ngút khói hương. Theo lịch sắp xếp của ban tổ chức, đoàn “cậu” Tâm (ông đồng người Kim Thành, Hải Dương) đảm nhiệm màn lên đồng đầu tiên của liên hoan hầu thánh. “Cậu” Tâm vận chiếc áo phông đỏ chót, quần bò bạc màu, lăng xăng chạy đi chạy lại chỉ đạo các “đệ tử” bài trí ban thờ… Bên hông sân khấu, con nhang, đệ tử của “cậu” tất bật sắp sửa lễ vật, bày biện mâm quả... Giữa sân đền, ngay trước nhà tiền lễ, sân khấu nơi những ông đồng bà cốt sắp trình diễn nổi bật lên với ánh đèn sáng rực, long đình (ban thờ) nghi ngút khói hương, bập bùng ánh nến. Hai bên treo bốn bức tranh cách điệu hình bốn vị quan võ nom uy nghi lộng lẫy. Tôi lại gần các con nhang, đệ tử của “cậu” Tâm bắt chuyện. Chị T., một “đệ tử ruột” cùng quê với “cậu” Tâm, hồ hởi khoe: “Đêm nay tôi phụ đồng cho “cậu”. “Cậu” mở điện ở nhà đông đệ tử lắm, nhưng đến tham gia hội diễn này chỉ thân cận của “cậu” mới được đi cùng thôi, bây giờ có mặt tại đây cũng phải gần 100 người…”. Đêm 7-10 (tức 16-8 âm lịch), Liên hoan diễn xướng dân gian hầu thánh đã diễn ra với sự tham gia của các đoàn “hầu bóng” danh tiếng đến từ nhiều địa phương như Hải Phòng, Hà Nội, Hải Dương, Nam Định… Liên hoan hầu thánh kéo dài tới hết đêm 11-10 (20-8 âm lịch, ngày giỗ Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn) với sự tham dự của hàng vạn khán giả… Gần tới giờ khai mạc, bà con kéo về nườm nượp. Ngoài những cụ già, mệnh phụ phu nhân, còn có rất nhiều bạn trẻ cỡ U-20. Tất cả ngồi chen chúc trên tấm thảm đỏ trải rộng trước long đình. Ban tổ chức giục oang oang trong loa thúc nhân viên đền huy động tất cả chiếu của nhà đền trải chỗ cho bà con ngồi xem. Đúng 20g, sau bài phát biểu khai mạc của giám đốc Sở VH-TT tỉnh Hải Dương Đặng Việt Cường, “cậu” Tâm bước ra chiếu đồng trong tiếng vỗ tay nồng nhiệt. “Cậu” mặc bộ quần áo lụa trắng, tóc vuốt keo bọt, mặt tô son điểm phấn, mai tóc để dài như con gái. “Cậu” cúi đầu chào khán giả thành thục như một ca sĩ. “Cậu” từ từ ngồi xuống chiếu đồng trước cặp mắt hồi hộp dõi theo của hàng ngàn khán giả và con nhang, đệ tử. Theo chân “cậu”, bốn phụ đồng (hai nam, hai nữ) nhanh chóng chuẩn bị trang phục, lễ lạt… Cánh cung văn nổi nhạc, tiếng đàn khoan thai, trống phách dồn dập, giọng hát văn vụt bổng bao trùm lên không gian sân đền. Những giá đồng vùn vụt trôi qua, khi thì “cậu” hóa thân thành một vị tướng trấn giữ miền biên ải tiến lui múa đại long đao vun vút, khi thì là một mệnh quan lớn uy nghiêm oai vệ, lúc lại hóa thân thành một cô gái miền cao đang tung tăng nhảy múa giữa bạt ngàn núi rừng. Giọng hát văn lúc dìu dặt, lúc vui nhộn tưng bừng, tâm trạng buồn vui của khán giả cũng biến đổi theo từng giá đồng. Có lúc cả đám đông say mê vỗ tay hòa cùng nhịp trống phách, có lúc vẻ mặt ai cũng buồn não nề theo tiếng đàn, giọng hát ai oán kể về nỗi niềm oan khuất của người anh hùng. Mỗi lẫn “cậu” Tâm trình diễn đến cao trào, hai đệ tử thân cận của cậu ngồi sẵn bên cánh gà chiếu đồng lại nổ pháo giấy trong tiếng vỗ tay cổ vũ nồng nhiệt của khán giả. 3 giờ sáng, màn diễn thứ tư của đêm hội “lên đồng” do ông đồng Vũ Khắc Long, Hải Phòng thể hiện. Trong khi cánh khán giả U-20 có vẻ thấm mệt, một số rời chiếu đồng ra về, thì nhiều cụ già cỡ 70-80 tuổi vẫn trắng đêm cùng “hầu bóng”. Bà cụ Yên, hơn 80 tuổi, nhà ngay sau đền Kiếp Bạc, cho biết: “Tôi cùng mấy cụ trong làng rủ nhau đến xem. Cánh cung văn hát hay thật. Chưa bao giờ tôi được xem một giá hầu như thế này”. - Lên đồng (hay còn gọi là hầu bóng) là nghi lễ phổ biến nhất của đạo Mẫu. Trong nghi lễ này, người ta tin rằng linh hồn của các vị thần sẽ nhập vào người lên đồng để nghe lời cầu khấn của người đi lễ. Đạo Mẫu là một tín ngưỡng dân gian VN thờ các nữ thần (thường gọi là các Thánh Mẫu). Đạo Mẫu là một phần quan trọng trong hệ thống tín ngưỡng dân gian và bản sắc dân tộc của VN, được thờ tại các đền, phủ. Ở miền Bắc VN, các chùa cũng có bàn thờ Mẫu (tiền Phật, hậu Mẫu). Đạo Mẫu không chú trọng vào cuộc sống sau khi chết mà quan tâm đến cuộc sống hiện tại, và câu hỏi làm thế nào để người ta có thể đạt được một cuộc sống hạnh phúc và đầy đủ trên trần gian. Đạo Mẫu có hai dịp lễ hội quan trọng: “Tháng tám giỗ cha, tháng ba giỗ mẹ”, kỷ niệm ngày mất của Đức Thánh Trần (cha) và Liễu Hạnh công chúa (mẹ). - Ông Nguyễn Khắc Minh, trưởng Ban quản lý khu di tích Côn Sơn - Kiếp Bạc: “Thực chất “hầu bóng” là một sinh hoạt văn hóa tâm linh thuộc về dân gian có từ lâu đời, có ý nghĩa tôn vinh các nhân vật lịch sử cùng với công trạng của họ dưới hình thức nhập hồn và hát văn. Về nghệ thuật diễn xướng dân gian, đây là một tổng hợp nhiều diễn xướng khác. Có toàn bộ dàn nhạc dân tộc; có hát chèo, hát văn; có kịch múa, nhảy, hóa trang, lễ nghi. Một người diễn những 36 giá đồng, hóa thân vào 36 nhân vật với những tâm trạng diễn xuất khác nhau. Đây là hội của dân, chúng tôi chỉ đứng ra chủ trì để người dân tự làm”. TRỌNG PHÚ
  22. Nghi lễ lên đồng Chủ nhật, 2/3/2008, 07:00 GMT+7 Từ bao đời nay, trong các làng thôn, ngõ phố, trong các đền đài nghi lễ lên đồng vẫn là một nghi lễ tín ngưỡng được nhiều người thành tâm thực hiện. Nhiều nơi, dù điện đài không trang hoàng lộng lẫy, dù không có được các cung văn đàn ngọt hát hay, đồ dâng cúng cũng rất sơ sài, nhưng với sự thành tâm, một cuộc lên đồng vẫn được thực hiện, và những người dân lam lũ vẫn trong một thoáng chốc đã được hưởng cảm xúc tiên giới một cách đủ đầy. Lên đồng thực chất là sự thăng hoa của các điệu múa dân gian nhưng hiện nay nó đã bị nhuốm quá nhiều "chất" mê tín... Theo quan niệm dân gian, vũ trụ gồm tứ phủ: Thiên phủ (miền trời), Địa phủ (miền đất), Nhạc phủ (miền rừng núi), Thuỷ phủ (miền sông nước). Mỗi một miền này có một nữ thần, thay quyền tạo hóa cai quản nhân gian. Các vị nữ thần đó là Mẫu Cửu Thiên cai quản miền trời, Địa Mẫu cai quản miền đất, Mẫu Thượng Ngàn cai quản miền rừng núi, và Mẫu Thoải cai quản miền sông nước. Từ bao đời nhân dân đã sống trong sự chở che của các Mẫu. Tôn vinh các Mẫu, người dân thờ phụng Mẫu ở khắp nơi, bất kể là thành thị hay nông thôn, đồng bằng hay miền núi. Thờ Mẫu trở thành một nét văn hóa giàu giá trị nhân văn và độc đáo trong văn hóa Việt. Và điệu hát chầu văn cùng nghi lễ lên đồng là một sự thể hiện niềm tôn kính đó đối với các Mẫu. Lên đồng là hình thức ca múa nhạc tín ngưỡng dân gian của Việt Nam có mục đích tôn vinh thần thánh và tạo cảm xúc, theo niềm tin tín ngưỡng, giúp con người giao tiếp với thần linh. Hiện chưa có các tài liệu khẳng định thời điểm ra đời của lên đồng - hầu bóng. Tài liệu khảo cổ duy nhất hiện biết và đáng tin cậy, với niên đại được xác định là thế kỷ XVIII, là bức chạm gỗ một cảnh lên đồng ở đình Cô Mễ, tỉnh Bắc Ninh. Tuy vậy, các nhà khoa học đều khá thống nhất cho rằng lên đồng - hầu bóng ra đời vào khoảng thế kỷ XVI, gắn với sự hiển thế / giáng sinh của Liễu Hạnh - vị nữ thần duy nhất trong Tứ Bất Tử của thần điện Việt. Dân gian còn hòa đồng Liễu Hạnh vào với Cửu Thiên Thánh Mẫu. Câu chuyện bà Liễu Hạnh giáng sinh và hoạ thơ với Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan ở Lạng Sơn và Hồ Tây cho thấy sự manh nha của việc giáng bút rất phổ biến ở thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Hát chầu văn lên đồng là hát lên các bài văn bài thơ có nội dung ca ngợi sự linh thiêng của thần thánh và vẻ đẹp tiên giới. Tuỳ thuộc tính cách của vị thần mà nội dung lời thơ, tiết tấu giai điệu âm nhạc, điệu múa được trình diễn. Trong sự phấn khích của niềm tin và sự cộng cảm, cùng các chất men kích thích của trầu, rượu, thuốc lá, trong ánh sáng lung linh của đèn nến và mùi hương trầm thơm ngát của không gian huyền ảo, cuộc gặp gỡ của con người và các Thánh mẫu được bắt đầu. Các Mẫu giáng về, nghe lời ca tụng của các đệ tử, nghe thơ, nhạc, và nghe cả những lời thỉnh nguyện của họ. Thánh Mẫu hoan hỉ ban tài phát lộc cho “bách gia trăm họ”, và mọi người đón nhận lộc thánh với niềm hân hoan vô bờ. Tất cả mọi người đều hướng về Thánh Mẫu và thầm mong được phù hộ. Một buổi hát chầu văn có thể được coi là cuộc hội nhập của thi ca âm nhạc, vũ đạo và hội hoạ mang đậm phong cách dân gian thuần Việt. Về thi ca: Các bài thơ để hát trong lên đồng bên cạnh các thể thơ tiếp thu từ văn học cổ Trung Hoa như phú, thơ luật, là những bài sử dụng lối thơ dân gian rất quen thuộc như: lục bát, song thất lục bát, hát nói. Các bài thơ này có lời văn chau chuốt, đẹp đẽ, ca ngợi vẻ đẹp nơi tiên giới, uy linh của các vị thần tự thân đã rất ý vị và giàu nhạc tính. Các bài thơ này, khi được hát lên, theo các làn điệu khác nhau (khoảng vài trăm làn điệu), thì mang lại một xúc cảm gấp bội. Về âm nhạc: Nhạc khí chủ đạo của hát văn là đàn nguyệt, và bên cạnh nó là phách, cảnh, sênh, trống chầu, chuông, trống… Hình thành trên các lối ngâm truyền thống, có tiết tấu và cao độ rõ ràng phụ thuộc vào lời thơ, hát văn không những hình thành nên những liên khúc có khả năng thể hiện những nội dung lớn của huyền thoại một cách sinh động mà nó còn tiếp thu thâu nhập những nét đẹp của dân ca các miền để làm phong phú sự thể hiện của mình. Về vũ đạo: Múa trong lên đồng còn gọi là múa thiêng, thể hiện niềm kính trọng đối với các thánh mẫu và các vị thần linh. Múa thiêng lên đồng xây dựng các hình tượng thần linh và một tiên giới giữa cõi trần. Trong lên đồng, múa thiêng mang đầy đủ các hình thức thể hiện của ngôn ngữ múa như: múa tính cách (thể hiện rất rõ tính cách khá riêng biệt của từng vị thần linh), múa trang trí (chú trọng đến ngôn ngữ tạo hình, vươn lên đến cái đẹp), múa mô phỏng (cưỡi ngựa, ngã ngựa, chèo thuyền, quảy hàng), … Về hội hoạ: Nếu như ta đến một hội làng, ta sẽ thật phấn chấn khi gặp một không gian rực rỡ sắc màu của cờ phướn, trang phục, xe kiệu… thì ta sẽ còn ngạc nhiên hơn khi đến xem một buổi lên đồng. Lên đồng có bao nhiêu giá (thường lên mươi, mười lăm giá; nhưng nếu lên đầy đủ có thể lên tới hàng trăm giá), thì có bấy nhiêu trang phục và đi kèm với các trang phục này là các khăn chầu, cờ quạt, đồ hầu dâng nữa. Rồi đèn, nến, rồi lễ vật, và các trang trí nhiều khi tỏ rõ sự phô trương. Có lẽ vì thế mà các hội làng và các buổi lên đồng thường gây nhiều cảm hứng cho các họa sĩ. “Hơn bất kỳ một quyển sách khô cứng, một bức tranh hay một bức tượng nào, lên đồng là một bảo tàng sống động. Người Việt đã triển lãm nền văn hóa Việt Nam cho người Việt và người nước ngoài. Những người tham gia hầu đồng chính là những người quản lý nhà bảo tàng, những người bảo vệ cho văn hóa Việt Nam. Việc làm của họ đảm bảo cho các thế hệ tương lai vẫn sẽ tiếp tục có cơ hội được chiêm ngưỡng những khía cạnh khác nhau của văn hóa Việt Nam, mà chúng đang dần bị nhạt nhòa đi trong đời sống xã hội hàng ngày, chỉ còn hiện diện trong điện thần của đạo Mẫu”. Chúng tôi xin mượn lời của GS.TS. Frank Proschan của Smithsonian institution Washington DC của Mỹ để kết thúc bài viết này. TS. Nguyễn Xuân Diện (Viện Nghiên cứu Hán Nôm) - Nguồn: Vietimes
  23. Thương nòi giống thần tiên giáng bút "Cầu cơ" là một khái niệm khá phổ biến đối với đạo Cao Đài. Xung quanh nó là biết bao câu chuyện hư thực. Xin giới thiệu bài viết của Tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện (Viện Nghiên cứu Hán Nôm) về chủ đề này. Thứ ba, 11/3/2008, 07:00 GMT+7 Trong các nghi lễ của người Việt thời trước, có một không gian nghi lễ khá đặc biệt rất đáng để ý là thiện đàn. Ở đấy diễn ra một hình thức sinh hoạt văn hóa tâm linh độc đáo là giáng bút - một hiện tượng văn hoá tâm linh có thực trong xã hội Việt Nam, tức là cầu Thánh - Thần - Tiên - Phật cho mình những bài thơ, thông qua một người có năng lực đặc biệt. Song vì nhiều lý do mà giới nghiên cứu đã coi đó là một vùng cấm và không dành cho nó một sự quan tâm thích đáng, ngoại trừ hai học giả là Nguyễn Văn Huyên (Tục thờ cúng thần tiên ở Việt Nam, 1944) và Đào Duy Anh (Hồi ký Nhớ nghĩ chiều hôm, 1989). Giáng bút là hiện tượng “nhập thần” trong đó thực hiện nghi lễ cầu cúng để mong muốn có sự phán truyền dạy dỗ của thần linh thông qua văn tự (Hán Nôm) mà thư viện Viện Hán Nôm hiện đang lưu trữ 254 cuốn thơ văn giáng bút, với hàng vạn bài thơ, bài văn. Một cảnh cầu tiên ở giữa Đền Bích Câu. Tài liệu có niên đại sớm nhất là năm 1825 được in tại đền Hà Khẩu, huyện Thọ Xương, nay là di tích Việt Đông hội quán, số nhà 22 Hàng Buồm, Hà Nội. Về niên đại xuất hiện nhiều bản giáng bút nhất là các năm 1870 - 1898 và 1906 - 1911. “Thuật bói tiên lấy cành đào làm thành hình mỏ hạc treo lên một cần trúc, lấy một cái sọt tre đựng đầy ắp cát sạch, đặt cần trúc bên cạnh rồi đốt bùa đọc phép, cái mỏ hạc tự nhiên chuyển động, vạch thành chữ trên cát”(Đường An Đan Loan Phạm gia thế phả - Phạm Đình Hổ). Giáng bút là hiện tượng “nhập thần” trong đó thực hiện nghi lễ cầu cúng để mong muốn có sự phán truyền dạy dỗ của thần linh thông qua văn tự (Hán Nôm) mà thư viện Viện Hán Nôm hiện đang lưu trữ 254 cuốn sách, với hàng vạn bài văn thơ. Năm 1825 là niên đại của tài liệu sớm nhất hiện biết trong kho sách Hán Nôm. Thế nhưng, Phạm Đình Hổ (1768 - 1839) một danh sĩ, nhà khảo cứu nổi tiếng thời cuối Lê đầu Nguyễn, trong Đường An Đan Loan Phạm gia thế phả (A.909) có thuật chuyện ông ngoại của mình như sau: “Cụ có thuật bói tiên, thường lấy cành đào làm thành hình mỏ hạc treo lên một cần trúc, lấy một cái sọt tre đựng đầy ắp cát sạch, đặt cần trúc bên cạnh rồi đốt bùa đọc phép, cái mỏ hạc tự nhiên chuyển động, vạch thành chữ trên cát”. Lời thuật này rõ ràng cho biết ông ngoại của Phạm Đình Hổ là người thực hiện nghi lễ giáng bút cầu văn tự. Qua đây cho thấy, chúng ta có thể vẫn tìm thấy các văn bản giáng bút có niên đại sớm hơn năm 1825 là bản xưa nhất có trong thư viện Viện Hán Nôm. Học giả Việt Nam đầu tiên quan tâm đến giáng bút có lẽ là Lê Quý Đôn. Trong khi đi sứ nhà Thanh (Trung Quốc) ông đã quan tâm tìm hiểu, sưu tầm được sách Âm chất văn chú. Năm 1839 Âm chất văn chú được khắc in theo bản cũ do Lê Quý Đôn mang về từ Trung Quốc. Sách dày chừng 350 trang in. Nhưng bản Âm chất văn chú in năm 1839 không phải là bản in giáng bút sớm nhất mà ta thấy được trong kho sách Hán Nôm. Ngay từ năm 1825, tại đền Hà Khẩu, huyện Thọ Xương (Hà Nội) đã tổ chức khắc in bộ sách Quan Phu tử kinh huấn hợp khắc (AC. 408), 150 trang in. Sách này chép lời giáng bút của Quan Thánh đế quân (Quan Phu tử, Quan Vân Trường). Suốt nửa cuối thế kỷ XIX, đã có nhiều thiện đàn được mở ra ở hầu khắp các tỉnh ở Bắc bộ: Hà Nội, Nam Định, Hà Đông, Sơn Tây, Hải Dương, Bắc Ninh, Bắc Giang, Thái Bình, Thái Nguyên, Hải Phòng, Ninh Bình, Hưng Yên, Phúc Yên... Nội dung và hình thức thơ ca giáng bút càng về sau càng khác lúc ban đầu. Thời gian đầu là giáng bút của các vị thần của Đạo giáo Trung Quốc như Văn Xương Đế quân, Quan Thánh Đế quân... Các bài thơ văn giáng bút này được in trong một quyển sách và chúng không phải là văn bản có được sau một cuộc giáng bút cầu văn tại Việt Nam. Hay nói khác đi, nó chỉ như một cuốn danh ngôn mà những người tu đạo tâm niệm. Nội dung, do vậy mang tính chung chung. Văn giáng bút ở đây đều bằng chữ Hán, được diễn đạt bằng thơ luật. Về sau, do yêu cầu mới của đời sống xã hội, thơ giáng bút đã thay đổi. Các vị thần linh giáng bút không chỉ là có nguồn gốc Trung Quốc nữa, mà còn có các tiên nho liệt thánh Việt Nam, như Trần Hưng Đạo, Phạm Ngũ Lão, Trưng Vương, Liễu Hạnh... Thơ do yêu cầu phải đến với quảng đại quần chúng nên đã có nhiều thơ lục bát, song thất lục bát. Văn giáng bút cũng phần nhiều không dùng chữ Hán mà dùng chữ Nôm. Các bản sách văn giáng bút cũng được sưu tập ngay từ đàn giáng bút và đưa đi khắc in ngay. Có tình hình ấy là do bối cảnh chính trị, xã hội Việt Nam đã có nhiều thay đổi. Ví dụ như khi các sĩ phu Hà thành lập ra hội Hướng Thiện, do Tiến sĩ Vũ Tông Phan làm Hội trưởng thì mục tiêu đặt ra là: Hướng mọi người làm việc thiện, xây dựng một lối sống tốt đẹp, theo chuẩn mực của truyền thống. Về sau, hội Hướng Thiện mở mang thêm các hoạt động văn hoá như: tu sửa tôn tạo di tích đền Ngọc Sơn... Thực trạng kinh tế, xã hội Việt Nam từ khi Gia Long lên ngôi đến khi Tự Đức cắt ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ cho Pháp tuy đang trong giai đoạn xây dựng kiến thiết nhưng đã dần được củng cố. Việt Nam là một nước độc lập, thống nhất và phát triển có đường hướng. Triều đình Tự Đức sau nhiều “khự nự” đã hoàn toàn bất lực trước sự lấn lướt của Thực dân Pháp và sự “đe dọa” của văn minh phương Tây. Trong triều đình ấy, nội bộ cũng đã có sự phân hóa, chia ra làm hai phái rõ rệt: chủ chiến và chủ hòa. Vua Tự Đức thì ở phái chủ hòa. Một quan chức trong triều là Dương Khuê dâng sớ đề nghị đánh Pháp. Vua đã phê vào sớ: “ Bất thức thời vụ”, và đày ông đi sơn phòng, trông nom việc khai khẩn ở miền sơn cước. Chỉ sau khi Tự Đức băng, thì phái chủ chiến trong đám quần thần mới dần chiếm ưu thế, bởi được vua Hàm Nghi và một trọng thần quyền thế là Trương Đăng Quế làm hậu thuẫn. Năm 1885 phong trào Cần Vương được phát động chính thức và phát triển sâu rộng khắp Trung kỳ, Bắc kỳ. Một giá trị rất đặc biệt của thơ văn giáng bút cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, là dưới ảnh hưởng của các phong trào yêu nước, đã làm phát khởi những biểu tượng mới trong văn hóa Việt Nam mà trước đó ít khi được nhắc đến. Đó là những biểu tượng về Quốc hồn, Quốc túy, Quốc dân, Nòi giống, Giống Lạc Hồng, Con Rồng Cháu Tiên được nhắc đến rất nhiều, rất khẩn thiết và nhằm đến đối tượng là các tầng lớp nhân dân lao động. Viện Nghiên cứu Hán Nôm có 254 cuốn thơ văn Nôm giáng bút lời của Tiên - Phật –Thánh - Thần sưu tập từ 98 thiện đàn nằm ở hầu hết các tỉnh ở châu thổ Bắc bộ. Nội dung thơ văn giáng bút cũng chính là nội dung, mục đích hoạt động của các thiện đàn do các nhà Nho chủ trương. Đó là một chương trình tuyên truyền rộng khắp suốt thời gian cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX tập trung vào hai vấn đề: Kêu gọi lòng yêu nước thương nòi và Chấn hưng văn hóa dân tộc. Phong trào Cần Vương đi vào suy thoái bằng sự thất bại của cuộc khởi nghĩa Hương Sơn do nhà sĩ phu khoa bảng Phan Đình Phùng làm thủ lĩnh. Từ sau năm 1897 khởi nghĩa Hương Sơn thất bại, nhiều nơi trong nước đã từng có những cuộc khởi nghĩa hay nổi dậy lẻ tẻ. Đòi hỏi của lịch sử về cứu nước, giành lại giang sơn tổ quốc trở nên cấp bách hơn bao giờ hết. Thơ văn yêu nước thời kỳ này nhằm đến một quần chúng nhân dân đông đảo. Và để phù hợp với việc kêu gọi lòng yêu nước và tự hào dân tộc, các hình thức diễn đạt quen thuộc với đông đảo bình dân được lựa chọn. Thơ lục bát và song thất lục bát được ưa dùng. Những lối nói ẩn dụ về nòi giống, tổ quốc, giang sơn... giàu sức biểu cảm được dùng phổ biến trong các lời văn giáng bút. Các sinh hoạt văn hoá, văn nghệ trong dân gian có lồng ghép thêm những nội dung mới, nhằm thức tỉnh lòng yêu nước. Trong các sinh hoạt văn hoá, văn nghệ dân gian, thì kê đàn giáng bút là một hoạt động tín ngưỡng đặc biệt. Ở đó con người giao tiếp với thế giới của Thánh - Thần - Tiên - Phật qua một người có biệt năng. Người này sẽ chuyển các thông điệp bằng văn thơ có nội dung khuyên bảo, răn dạy, kêu gọi của Thánh, Thần cho con người trên cõi trần gian. Hơn nữa giáng bút lại là một hoạt động tín ngưỡng ngưng kết nhiều thành tố đặc sắc của văn hoá dân gian như: thơ ca dân gian, múa dân gian, nghi thức tín ngưỡng... Tham gia vào giáng bút là tham gia vào tín ngưỡng, tham gia vào sáng tạo văn hoá văn nghệ dân gian nhằm tiếp xúc với một tiên giới trong tâm tưởng. Cũng chính vì hoạt động giáng bút là một hoạt động mang tính tổng hợp như vậy nên đã thoả mãn được nhiều giai tầng công chúng cho dù là các nhà khoa bảng, học hành đỗ đạt cao, nhà nho ở nông thôn, cho đến tầng lớp tiểu thương nơi phố thị, nông dân chốn quê mùa. Sức sống của giáng bút cũng ở đấy. Và sức sống của việc tuyên truyền yêu nước cũng ở đấy. Nó nương vào tôn giáo, tín ngưỡng, nương vào công xã nông thôn để hoạt động và thúc giục quần chúng. (còn nữa) Tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện (Viện Nghiên cứu Hán Nôm)
  24. Thương nòi giống thần tiên giáng bút Phần III Thứ sáu, 14/3/2008, 07:00 GMT+7 …Một giá trị rất đặc biệt của thơ văn giáng bút cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, là dưới ảnh hưởng của các phong trào yêu nước, đã làm phát khởi những biểu tượng mới trong văn hóa Việt Nam mà trước đó ít khi được nhắc đến. Đó là những biểu tượng về Quốc hồn, Quốc túy, Quốc dân, Nòi gGiống, Giống Lạc Hồng, Con Rồng Cháu Tiên... Nội dung thơ văn giáng bút Nội dung thơ văn giáng bút cũng chính là nội dung, mục đích hoạt động của các thiện đàn. Đó là một chương trình tuyên truyền rộng khắp trong suốt thời gian nửa cuối thế kỷ XIX và nửa đâù thế kỷ XX tập trung vào hai vấn đề: Kêu gọi lòng yêu nước thương nòi và Chấn hưng văn hoá dân tộc. Hạc bút của Tiên cùng với mâm đồng. Kêu gọi lòng yêu nước thương nòi Đây là một chủ đề lớn của thơ văn giáng bút nói riêng và thơ văn yêu nước cách mạng nói chung. Trong thơ văn giáng bút, điều này được thể hiện ở những khía cạnh sau: - Giáng bút lời của các vị anh hùng liệt nữ của dân tộc như: Trần Hưng Đạo, Phạm Ngũ Lão, Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Bà Liệt nữ “Tiết hạnh khả phong” ở làng Đông Ngạc... - Giáng bút lời của các vị Thần tiên trong thần điện Việt Nam như: Tản Viên sơn thánh, Phù Đổng Thiên Vương, Liễu Hạnh công chúa, Từ Đạo Hạnh... - Giáng bút lời các tiên nho, các nhà văn hoá của Việt Nam như Tô Hiến Thành, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan, Bà tổ nghề thao ở Triều Khúc... Ngoài ra thơ văn giáng bút còn nhắc nhớ thúc giục lòng yêu nước, thương yêu giống nòi, thấy được nỗi nhục của dân mất nước. Chấn hưng văn hoá dân tộc, xây dựng nếp sống mới: Về nội dung này, thường được biểu hiện như sau: - Đề cao việc nâng cao dân trí - Bài bác hủ tục - Đề cao phụ nữ (giáng bút lời Thánh mẫu cho phụ nữ) - Khuyên sống lương thiện, thương yêu đùm bọc nhau - In ấn kinh sách về tôn giáo, lịch sử, văn học, ngôn ngữ Hình thức và Nghệ thuật thơ ca giáng bút Bà chúa Liễu Hạnh trở về Trời. Về mặt văn tự Thơ ca giáng bút chủ yếu viết bằng chữ Nôm - một sáng tạo của người Việt, dùng ký tự Hán để ghi âm Việt nên không gặp trở ngại về mặt văn tự đối với người bình dân nhất là trong việc truyền miệng. Ta biết rằng, trong khi triều đình nhà Nguyễn tổ chức Nhà nước và các thiết chế văn hoá theo Nho giáo rập khuôn nhà Thanh (Trung Quốc), thì trong dân gian, tư tưởng và văn chương bình dân lại dường như cũng có một sức sống riêng. Ví dụ rõ nhất là khắp các nơi trong nước hàng loạt các hiệu, đàn, trai, đường, lâu... đã ra đời làm nở rộ nghề in. Tại các nhà in này, mảng truyện Nôm đặc biệt phát triển so với trước đó. Thời kỳ này ngoài việc tái bản những cuốn cũ còn có thêm nhiều đầu sách mới nhằm đáp ứng nhu cầu đời sống tinh thần người dân. Riêng cuốn Phạm Công - Cúc Hoa, từ năm 1907 đến năm 1936, được in cả thảy 15 lần (trong phạm vi cả nước). Đặc biệt là Truyện Kiều được in cả thảy là 32 lần. Trong số 25 lần in có ghi rõ thời gian và nhà tàng bản thì có tới 16 lần được in tại Hà Nội. Về việc sử dụng chữ Nôm và chữ Hán trong một tài liệu giáng bút, chúng ta ghi nhận một số điều sau: Có cuốn toàn Nôm, có cuốn là Hán xen Nôm. Văn giáng bút chữ Hán thường là giáng bút của các vị thần linh Trung Quốc, hoặc các vị Nho học, hoặc hướng đến đối tượng là người có chữ nghĩa. Văn giáng bút chữ Nôm, ngược lại, thường là giáng bút của các vị thần linh Việt Nam, hoặc là các Thánh mẫu, hoặc dành cho đối tượng là đông đảo tầng lớp bình dân. Một vấn đề khác, các bài giáng bút chữ Nôm bao giờ cũng dài hơn các bài giáng bút bằng chữ Hán. Còn về thể loại, văn giáng bút Nôm thường chọn các thể thơ lục bát hoặc song thất lục bát, hoặc các thể thơ có khả năng diễn đạt phong phú nhiều nội dung. Thơ văn giáng bút, để đạt được mục tiêu phát hành và tuyên truyền như trong lời nói đầu bộ Cổ kim truyền lục là: “Thư lai địa địa, tuyên truyền vạn vũ” (Sách đến mọi nơi, tuyên truyền khắp chốn) thì nhất định phải dùng chữ Nôm. Về mặt thể loại Thơ văn giáng bút nhằm đến nhiều đối tượng khác nhau, với mỗi loại đối tượng đã dùng các thể thơ khác nhau. Các tài liệu giáng bút thường ghi rất rõ về thời điểm giáng bút (giờ, ngày, tháng, năm) và thậm chí có tài liệu còn ghi rõ bài thơ văn giáng bút này là dành cho ai quê quán ở đâu. Ví dụ trong cuốn Bản thiện kinh (AB.355) có ghi tường tận như vậy. Phù hợp với từng đối tượng, từng nội dung tuyên truyền, về mặt hình thức, các thể thơ sau được dùng là phú, thơ luật, lục bát, song thất lục bát, phong dao, hát xẩm, từ khúc, hát nói (ca trù), gửi thư (ca trù), ngụ ngôn, tiểu thuyết... Kinh Đạo Nam. Về việc minh họa Tài liệu giáng bút hiện có trong kho sách của Viện Nghiên cứu Hán Nôm chủ yếu là sách in bản khắc gỗ (226 bản in / 254 bản sách) Trong đó có một số các văn bản thơ văn giáng bút hiện có tại thư viện Viện Hán Nôm có nhiều cuốn có các đồ họa. Thiết nghĩ, rồi đây những đồ họa này sẽ trở thành những tài liệu cho một công trình chuyên khảo về Đồ họa Đạo giáo nói riêng và Nghệ thuật Đạo giáo nói chung. Kết luận Với 98 thiện đàn hiện biết tại các địa phương trong hầu khắp các tỉnh miền Bắc là nơi có lưu truyền/sáng tác/in ấn/tàng bản kinh văn giáng bút cho thấy sự hoạt động sôi nổi của các Hội Hướng Thiện, Thiện đàn tồn tại trong khoảng 100 năm từ 1845 đến 1945. Các thiện đàn và Hội Hướng Thiện, trong đó tiêu biểu nhất là Hội Hướng Thiện đền Ngọc Sơn đã có những đóng góp lớn trong việc chấn hưng văn hoá dân tộc. Tư liệu thơ văn giáng bút tại thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm hiện còn 254 cuốn. Kinh giáng bút được in nhiều vào các khoảng thời gian các năm 1870 - 1898 và 1906 - 1911. Nội dung thơ văn giáng bút cũng chính là nội dung, mục đích hoạt động của các thiện đàn. Đó là một chương trình tuyên truyền rộng khắp trong suốt thời gian nửa cuối thế kỷ XIX và nửa đầu thế kỷ XX tập trung vào hai vấn đề: Kêu gọi lòng yêu nước thương nòi và Chấn hưng văn hoá dân tộc. Văn thơ giáng bút càng về sau càng sử dụng nhiều chữ Nôm và các thể thơ ca dân gian để thể hiện các lời dạy dỗ của các thần linh đất Việt. Điều này càng khẳng định chữ Nôm vẫn giữ vai trò nhất định trong khoảng thời gian cuối thế kỷ XIX và nửa đầu thế kỷ XX, trong khuôn khổ các phong trào yêu nước. Trong hoạt động của mình các thiện đàn đã sử dụng thành công chữ Nôm trong việc kêu gọi lòng yêu nước và chấn hưng văn hoá dân tộc. Một giá trị rất đặc biệt của thơ văn giáng bút cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, là dưới ảnh hưởng của các phong trào yêu nước, đã làm phát khởi những biểu tượng mới trong văn hóa Việt Nam mà trước đó ít khi được nhắc đến. Đó là những biểu tượng về Quốc hồn, QuốctTúy, Quốc dân, Nòi giống, Giống Lạc Hồng, Con Rồng Cháu Tiên được nhắc đến rất nhiều, rất khẩn thiết và nhằm đến đối tượng là các tầng lớp nhân dân lao động. TS Nguyễn Xuân Diện (Viện nghiên cứu Hán Nôm)
  25. Thương nòi giống Thần tiên giáng bút Phần II Thứ năm, 13/3/2008, 07:00 GMT+7 Thực dân Pháp thực sự hoang mang và bối rối khi phải xử trí với tình hình nở rộ của các thiện đàn và các hoạt đông giáng bút ở khắp nơi. Không tìm được chứng cớ khả dĩ kết tội, đàn áp, thực dân Pháp đã mất ăn mất ngủ với các hoạt động nửa tôn giáo, nửa cách mạng đang lan tràn và phát huy tác dụng và thanh thế ở khắp nơi. Tại Văn Hiến đường, xã Hạ Mỗ (huyện Đan Phượng, Hà Tây), năm 1930 tay sai đã về tịch thu các ván in và bộ sách Cổ kim truyền lục đã được in ấn và đang lưu hành ở đây. GS Đào Duy Anh, trong bài Tìm hiểu phong trào Thiện đàn đối với cuộc vận động ái quốc - Kinh Đạo Nam dài 25 trang in trong tập hồi ký Nhớ nghĩ chiều hôm (Nxb Trẻ, 1989) có cho biết: GS Đào Duy Anh - Kinh Đạo Nam "Ông Nguyễn Ngọc Tỉnh kể lại rằng trong thời gian giáng bút và ấn hành bản kinh này thì Lý trưởng và Phó lý xã Hạc Châu sợ liên luỵ nên đã báo cáo cho quan lại sở tạị. Chính quyền thực dân giao cho Bùi Bằng Đoàn bấy giờ làm Tri phủ Xuân Trường điều tra. Bùi Bằng Đoàn cho vợ có sai nha đi theo đến đàn để thử, viết một tờ sớ bỏ vào phong bì kín. Hàng ngày khách thập phương qua lại để lễ và xin kinh rất đông, nhiều người sang trọng, cho nên chẳng ai để ý đến đó là bà phủ Xuân Trường. Theo lệ thì người đến lễ đặt phong bì kín lên bàn thờ, Thánh phải giáng bút chỉ tên người ấy, có đúng thì người ta mới tin. Thánh bèn giáng bút cho ngay một câu thơ rằng: Côn dược thiên trùng thương hải ngoại; Bằng Đoàn vạn lý tử tiêu gian. Thế là chỉ rõ tên Bùi Bằng Đoàn ra bằng một câu thơ, mà các nhà Nho học giỏi đều nhận là rất hay, bình thường khó có người tức tịch làm ra được, huống chi người cầm kê đây là người sức học cũng tầm thường. Bùi Bằng Đoàn do đó tin là có Tiên, Thánh giáng bút thực, báo cáo lên tỉnh rằng đó là việc tôn giáo thực chứ không phải là hoạt động chính trị như hương lý báo. Sau đó án sát Nam Định là Mai Toàn Xuân cũng cho vợ đến lễ để đặt phong bì kín và thử như thế. Bùi Bằng Đoàn là người Nho học có tiếng cho nên được giáng bút một câu thơ chữ. Mai Toàn Xuân xuất thân là bồi Tây nên ít học, chỉ được giáng bút một câu thơ Nôm, nhưng cũng vạch rõ cả ba chữ họ tên như vẽ ra: Đầu cành Mai mới điểm hoa; Non sông bốn bể đâu mà chẳng Xuân? Sau đó tỉnh báo cáo lên Thống sứ rằng đây chỉ là một hoạt động tôn giáo, không nên ngăn cấm. Vì thế mà bản kinh in xong vào mùa Đông năm 1923 được phát hành ở Bắc kỳ, rồi sau đó được phát hành bằng quốc ngữ ở Nam kỳ. Các mùa hè năm 1924, 1925, 1926 ông Nguyễn Ngọc Tỉnh đều được Đồng Lạc Khuyến Thiện đàn ở Nam Định mời đến giảng kinh Đạo Nam cho tín đồ của đàn ấy nghe. Nhưng đến năm 1929, trong cuộc đàn áp dối với các đảng bí mật tiến hành ở khắp Bắc kỳ, chính quyền mới soát nhà mà tịch thu tất cả bản kinh còn lại và các tấm ván in để huỷ đi và bắt đàn chủ là ông Nguyễn Đức Kinh và chủ bút là ông Nguyễn Ngọc Tỉnh làm án giám".(Sđd tr.200-224) Như vậy là, các thiện đàn trong suốt quá trình hoạt động của mình luôn gặp phải sự dò xét của thực dân Pháp và quan lại phong kiến Nam triều. Có một thực tế là chính nhờ vào hình thức giáng bút, như một hoạt động mê tín dị đoan, các bài hát bài thơ yêu nước thương nòi và nặng lòng với văn hoá dân tộc đã được lưu truyền. Các thành viên của các phong trào yêu nước đấu tranh cách mạng cũng nhờ đó mà thoát khỏi sự rình rập và đàn áp của kẻ thù. Thiện đàn với cuộc vận động ái quốc Vận động ái quốc, trước hết các nhà yêu nước kêu gọi lòng thương yêu của những người cùng nòi giống, mà ở đây cụ thể là giống da vàng con Lạc cháu Hồng cùng chung một bọc. Các thiện đàn thường tổ chức các buổi giảng kinh, các bản kinh này thường xin được của một vị Thần thánh nào đó. Thời gian đầu các vị Thánh giáng bút thường là các danh thần võ tướng, các thần linh của thần điện Trung Quốc, song càng về sau các vị Thần giáng đàn lại là các vị danh thần võ tướng các thần linh trong thần điện Việt Nam như Tản Viên sơn thánh, Liễu Hạnh công chúa, Phùng Khắc Khoan, Tô Hiến Thành, Bà Triệu, Hai Bà Trưng, các Thánh Mẫu Những năm đầu thế kỷ này, trước tình hình bị giặc Pháp đàn áp nặng nề, một số cơ sở vận động yêu nước tại Hà Nội và các đô thị phải chuyển về vùng nông thôn phụ cận. Một trong những cơ sở có hoạt động mạnh là Văn Hiến đường ở làng Hạ Mỗ, xã Hạ Mỗ, huyện Đan Phượng (Hà Tây). Văn Hiến đường hoàn thành vào mùa xuân năm Kỷ Dậu (1909), là nơi thờ Thái uý Tô Hiến Thành và các vị tiên hiền của làng. Thực ra thì trước đó, vào năm 1907, thiện đàn ở đây đã cho khắc in bộ sách Cổ kim truyền lục đề tuyên truyền vận động yêu nước. Bộ sách gồm 4 tập Nguyên - Hanh - Lợi - Trinh với gần 400 bài thơ văn, bao gồm nhiều thể loại, viết bằng chữ Hán, do tập thể tác giả đều là người địa phương sáng tác. Văn Hiến đường hiện có đôi câu đối về việc giáng bút và khắc in kinh: Kinh điển bản tàng Tiên hiền giáng bút thuỳ kinh điển Cổ kim truyền lục Vãng thánh di thư diệu cổ kim (Kinh điển bản khắc Tiên hiền giáng bút truyền kinh điển Cổ kim truyền lục Thánh hiền di cảo sáng cổ kim). Tại Hạ Mỗ, không chỉ Văn Hiến đường là nơi có giáng bút mà giáng bút còn được tổ chức trong chùa Hải Giác nữa. Và Cổ kim truyền lục chính là tập thơ văn được tập hợp sau gần 4 tháng giáng bút. Về cách phát hành thì phát cho mọi nhà, biếu tặng các nơi với mục đích: Thư lai địa địa, tuyên truyền vạn vũ (tức Sách đến mọi nơi, tuyên truyền khắp chốn. Văn Hiến đường cũng còn là nơi bốc thuốc chữa bệnh cho nhân dân. Tháng 4 năm 1996, khi về Hạ Mỗ để lấy tài liệu tôi còn thống kê được 14 tên sách / bộ sách Hán Nôm tại Văn Hiến đường như: Thiên ất chân kinh (in, Bảo Đại 8 ), Văn Xương đế quân cứu kiếp bảo sinh kinh (in, 1911), Ngọc Hoàng chân kinh (viết tay), Ngọc Hoàng phổ độ tôn kinh (2 bản in, Bảo Đại 8), Liệt thánh bảo cáo (in), Ngũ phúc kinh .Tập Ninh (in), Tâm pháp thiết yếu chân kinh (2 bản in, Bảo Đại Mậu Thìn), Bảo huấn hợp thiên (in, Tự Đức Bính Tý), Lã Tổ trung hiếu cáo (in, Thành Thái Ất Tỵ), Dược sư kinh,... Thơ văn giáng bút đã được lưu truyền khá rộng rãi trong nhân dân vùng xứ Đoài. Hình thức lưu truyền quảng bá thơ văn yêu nước trong khuôn khổ của một hình thức của tôn giáo, và nhất lại là trong bối cảnh xã hội nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám đã gây ảnh hưởng lớn và có hiệu quả rõ rệt. Thiện đàn với công cuộc chấn hưng văn hóa dân tộc Đóng góp của các thiện đàn trong công cuộc chấn hưng văn hoá dân tộc là một đóng góp quan trọng. Đóng góp này thể hiện trên hai khía cạnh: Xây dựng, giữ gìn nếp sống văn hoá theo chuẩn mực của truyền thống và Tu bổ tôn tạo các di tích lịch sử văn hoá, in ấn các kinh sách. Xây dựng và giữ gìn nếp sống văn hoá theo chuẩn mực của truyền thống là một yêu cầu của xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Trước hết là sinh hoạt của thị dân ở đô thị. Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, người Pháp đã đặt xong nền đô hộ lên Bắc kỳ, Trung kỳ. Sự phân hóa giai cấp diễn ra nhanh chóng trong toàn bộ xã hội. Luân lý cổ truyền cùng các giá trị đạo đức truyền thống rạn nứt trước sự xâm thực của văn minh phương Tây. Nhiều tỉnh lỵ, huyện lỵ được mọc lên bên cạnh những trục đường giao thông lớn nhỏ, kéo theo quá trình “Âu hóa” rất mãnh liệt. Ở nông thôn bộ máy lý dịch đã trở nên tha hóa. Bức tranh nông thôn Việt Nam trong suốt thời gian hàng thế kỷ là một khoảng tối tăm với một đời sống khổ cực và những áp bức nặng nề của bộ máy cường hào, lý dịch. Trong tình hình xã hội như vậy việc gióng lên tiếng trống thức tỉnh cách mạng, kêu gọi chấn chỉnh nếp sống theo mẫu mực truyền thống là một công việc có ý nghĩa. Các thiện đàn đã mọc lên ở khắp mọi nơi và hoạt động khá sôi nổi trong cuộc chấn hưng văn hoá dân tộc. Các buổi giảng thiện được thực hiện đúng theo lịch đã định sẵn, có đông đảo nhân dân tham dự. Việc tu bổ và tôn tạo các di tích được nhiều người hưởng ứng, và rất nhiều văn bia hiện đặt trong các di tích đã ghi lại việc sửa chữa, tôn tạo này. Vai trò của Đền Ngọc Sơn Đền Ngọc Sơn Trong số các thiện đàn đã biết thì đền Ngọc Sơn là một cơ sở tiêu biểu nhất. Đền Ngọc Sơn không những là một cơ sở được thành lập sớm nhất, có đóng góp toàn diện nhất, là một cơ sở in ấn và tàng bản lớn nhất, mà còn có vai trò như là một trung tâm có sức lan toả rất lớn, trong phạm vi khắp cả đông bằng châu thổ Bắc bộ, nếu không muốn nói là trong cả miền Bắc. Theo bài văn bia Ngọc Sơn đế quân từ ký do Tiến sĩ Vũ Tông Phan soạn năm 1843 thì đền Ngọc Sơn do hội Hướng Thiện tạo dựng năm 1842. Ngoài mục đích thờ thần thánh, đây còn là nơi cho “sĩ phu kết bạn với nhau yêu cảnh này, vì mến tên hồ này việc tu dưỡng, du ngoạn, nghỉ ngơi đều có nơi có chốn”. Từ sự thống nhất trong Hội Hướng Thiện, chủ trương chấn hưng văn hoá của Hội được các nhà khoa bảng có uy tín trong hội và khắp Hà thành tán dương và coi là mục đích cao nhất của Hội. Việc đầu tiên mà các nhà Nho hướng đến là hướng dẫn cho mội người tu dưỡng chính bản thân mình, trước hết là ngay là sự chính tâm (ngay thẳng) và ngăn chặn những dục vọng xấu nảy sinh trong ngay chính lòng mình Đền Ngọc Sơn đã được biến thành một giảng đàn là nơi mà đều đặn vào các ngày 2 và 16 âm lịch hàng tháng Hội tổ chức giảng thiện. Cũng tại đây đã tiến hành các buổi giáng bút để xin những lời dạy của Thánh nhân qua một người trung gian. Các bản kinh in ở đền Ngọc Sơn đại bộ phận đều là các kinh giáng bút bằng chữ Hán, ghi lời giáng bút của các vị thần thánh có nguồn gốc từ Trung Quốc như Quan Thánh đế Quân, Văn Xương đế Quân. Tuy nhiên, nội dung lời văn của các bản kinh này lại rất phù hợp với tôn chỉ mục đích của Hội như: Tự giác ngăn ngừa các thói tham lam, độc ác, dâm loạn, gian dối..., khuyên hiếu thảo với cha mẹ, kính trọng người trên, thương kẻ khốn cùng, chuyên cần học tập, chăm chỉ làm ăn... Mượn lời dạy của Thần tiên nhưng các bản kinh được in tại đền Ngọc Sơn không hề đưa lại một tinh thần xuất thế, lảng tránh cuộc đời thực mà ngược lại lại rất tích cực. Và có lẽ cũng chính vì thế, các kinh văn giáng bút được in ra ở đây được lưu truyền rất rộng khắp trên nhiều địa phương cho tới tận Cách mạng Tháng Tám 1945. Một khía cạnh khác trong việc chấn hưng văn hoá dân tộc của Hội Hướng Thiện ở đền Ngọc Sơn là tu bổ tôn tạo các di tích lịch sử văn hoá. Tại khu vực xung quanh Hồ Gươm, Hội Hướng Thiện đã tôn tạo Trấn Ba Đình, trùng tu đền Ngọc Sơn, xây Tháp Bút và Đài Nghiên... Khu vực Hồ Gươm có được khuôn mặt như ngày nay là do những lần tu bổ tôn tạo này. Không những thế, với tình cảm yêu mến Thăng Long, các nhà nho trong Hội Hướng Thiện còn sáng tác biết bao áng văn thơ đề vịnh trên những di tích danh thắng Hà Nội. Đền Ngọc Sơn là một cơ sở in ấn và tàng bản lớn nhất trong suốt khoảng 100 năm (1845 - 1945). Vậy trong khoảng 100 năm ấy tại đền Ngọc Sơn đã có bao nhiêu bộ sách ra đời và đi vào đời sống xã hội? Mới đây, Vương Thị Hường dựa vào hai cuốn sách Các đẳng kinh bản Ngọc Sơn thiện thư lược sao mục lục (A.1116), Cao Vương kinh chú giải (AC.438) cho chúng ta biết danh mục sách Hán Nôm in tại đền Ngọc Sơn gồm 246 tên sách (mỗi tên sách có thể là một bộ với nhiều cuốn) thuộc nhiều môn loại khác nhau như tôn giáo, văn học, sử học... (Xem tạp chí Hán Nôm số 1 -2000). Có một điều đáng chú ý là khi chúng tôi khảo sát các sách in kinh giáng bút thì thấy có hiện tượng một số nơi (các thiện đàn) đã mượn ván in kinh giáng bút của đền Ngọc Sơn về in và phát hành. Như vậy là trong suốt một trăm năm đền Ngọc Sơn đã là một cơ sở in ấn tàng bản lớn của cả vùng châu thổ Bắc bộ, nơi đặt trụ sở của Hội Hướng Thiện với các hoạt động thiết thực trong việc chấn hưng văn hoá dân tộc. Cũng chính vì lẽ đó mà cuối năm 1945, Hồ Chủ tịch đã đến thăm Hội Hướng Thiện, trò chuyện với các hội viên và căn dặn: “Các cụ đã cao tuổi mà vẫn còn giảng Thiện cho bà con theo, thế là rất quý. Tôi xin phép gợi thêm vài ý. Tôi nghĩ điều thiện lớn nhất là yêu nước. yêu dân chủ, điều ác lớn nhất là xâm lược, áp bức. Tôi đề nghị các cụ khi giảng thiện nên chú ý khuyên đồng bào bảo vệ độc lập, tự do và tăng gia sản xuất, xây dựng dân chủ”(Theo Nhân dân, 22 - 8 - 1990). (Còn nữa) Tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện (Viện Nghiên cứu Hán Nôm)