phoenix

Hội Viên Ưu Tú
  • Số nội dung

    1.107
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    2

Everything posted by phoenix

  1. Nguồn: http://www.vietimes.com.vn Nõ Nường: Phồn thực và "linh tinh tình phộc" Thứ sáu, 22/2/2008, 07:00 GMT+7 ...Nữ cầm cái Nường đưa lên, nam cầm Nõ “phộc’’ vào và phải làm ba lần như thế. Trong đêm tối, chủ tế nghe “cạch’’ đủ ba tiếng đèn sáng lại. Phút ấy gọi là phút “thiêng’’, “dập’’ chiêng trống để mừng và kính cáo với thần linh, thiên địa biết “lễ mật tắt đèn’’ đã thành công... Vịnh miếu Trò Xưa bà ẵm cháu, mẹ bồng con Xem tích Trò Trám nay vẫn còn Tiên tổ truyền kỳ di vật báu Miếu Trò linh nghiệm dấu vàng son Ai vãng Đền Hùng thăm đồ trận Nhớ về miếu Trò nẻo sườn non Nén hương vọng dâng vật kỳ tích Ngàn thu đá tạc mãi trường tồn “Trò Trám’’ là tên gọi của địa phương, giới nghiên cứu gọi lễ hội “phồn thực’’, còn chúng tôi gọi lễ hội “Nõ Nường’’- tức lễ hội “vòng đời” - là loại hình sinh hoạt cộng đồng cổ xưa nhất còn truyền kỳ lại đến ngày nay; nơi tập trung các hình thái hoạt động “ hèm tục’’ hàm chứa bản sắc văn hoá cộng đồng - rõ nét cá biệt của từng địa phương. Đặc điểm của lễ hội “vòng đời’’- Trò Trám là “lễ mật’’, “tắt đèn” xướng diễn trò “linh tinh tình phộc” vào giờ “lành” nửa đêm (giờ tý). Hôm sau tiến hành lễ rước lúa “thần’’ và mở hội trình trò Tứ dân: “Sĩ, Nông, Công, Thương’’ để minh giải diễn trình tư tưởng của lễ hội trên các “kênh” khác nhau: phạm trù tâm linh và hiện thực. Ở đây, động thái “linh tinh tình phộc” và “chày cối” là hiện tượng “tục hèm” trừ đuổi tà ma triệt tiêu hiểm hoạ, cho vật thịnh dân an xóm làng trù phú “khuyển kệ minh kê”. Về tính hiện thực, động thái “linh tinh tình phộc’’ đó là phút “ khởi nguyên’’ sự sống cho một vòng đời, nên gọi là lễ “cầu đinh”. 1. Miếu trò xóm Trám Ngôi đền thờ linh vật Một ngôi miếu cổ ẩn mình bên ngòi nước trong khu rừng Trám, ở đây (cứ 2 hoặc 4 năm 1 lần – năm chẵn ) vào đầu xuân, nhân dân mở lễ hội diễn nhiều tích trò, nên gọi là miếu Trò, còn vì miếu Trò nằm trong rừng Trám nên gọi là miếu Trò Trám (nay rừng Trám không còn). Và xóm ở cạnh cũng gọi xóm Trám, hay Phường Trám, tên chữ xóm Cổ Lãm, thuộc làng có tên tục là Kẻ Gáp, tên chữ là Thạch Cáp, nay là xã Tứ Xã (có 32 xóm trong đó xóm Trám và xóm Bùi có đầu tiên) nằm trong vùng di tích đồ đá cũ của người Việt cổ như Gò Mun, Đồng Đậu con ,v.v… ở huyện Lâm Thao tỉnh Phú Thọ. Cách Đền Hùng khoảng 5km về phía đông nam và nằm bên bờ tả ngạn sông Thao, trước đây chưa có con đê thì Tứ Xã là vùng đồng trũng ngập nước, thỉnh thoảng nổi nên những đồi gò (chỗ ở của người Việt cổ), lúa chỉ làm một vụ, quanh năm sinh sống bằng nghề vó bè, cá mú nên chuyện tát hôi hay được nhắc đến trong hát Trò Trám: Không đâu vui bằng phường ta Đàn ông đi tát đàn bà đi hôi Tứ Xã xưa là vùng quê nghèo, nhưng có truyền thống hiếu học, có người đỗ đạt cao như Nguyễn Quang Thành - đỗ tiến sĩ lúc 24 tuổi (1680 đời vua Lê Hy Tông ) làm quan đến chức Thiểm đô ngự sử, hoặc quan võ Chử Đức Cương trấn ải biên thuỳ - được phong tứơc Quận công và còn có nhiều ông Cử, ông Cống khác như Nhất nguyên Nguyễn Tất An người soạn bài Văn tế miếu Trò... Ngoài ra còn có Chánh tổng Nguyễn Quang Hoà (cháu chắt của quan Nghè Nguyễn QuanThành) biệt danh “Tổng Cóc’’ một văn nhân hào hoa, giàu có trong “tình sử’’ với nữ sĩ Hồ Xuân Hương, con gái cụ Đồ Nghệ theo cha ra dậy học ở vùng đó. Phải chăng nữ sĩ Hồ Xuân Hương nhờ gắn bó với lời ca Nõ Nường của lễ hội Trò Trám, nên mới có được những bài thơ kiệt tác để lại cho đời. Nói điều này, để thấy lễ hội Trò Trám là sản phẩm “lấp lánh’’ nền học vấn uyên thâm kia: “địa linh, nhân kiệt". Ngày nay Tứ Xã là nơi giàu có phù trú - có chợ trung tâm của cả vùng: đường lớn, ôtô khách ghé Đền Hùng xuôi Việt Trì, về Hà Nội. Hiện tại Sở văn hoá Thể thao và Du lịch tỉnh Phú Thọ đang tiến hành lập hồ sơ đưa Tứ Xã vào danh mục Cụm du lịch gồm ba điểm: Lễ hội Trò Trám, Di chỉ khảo cổ Gò Mun và nhà tưởng niệm Hồ Xuân Hương và Tổng Cóc, với tình sử lãng mạn đầy chất thơ, lung linh huyền ảo. 2. Lễ mật giờ lành Miếu Trò thờ vật linh - sinh thực, tên tục gọi là bà “ Đụ Đị’’ (Dụ Dị) tên nôm Nõ Nường (hình 2) làm vật “hèm’’ để trừ tà, đuổi ma, triệt tiêu hiểm họa tai ương, cầu yên cầu phúc, cầu lộc cầu tài. Văn tế của miếu có đoạn viết: Cảm tất thông Cầu tất ứng Bảo vật hộ dân ức niên trường tại Vạn cổ như tân Bài Văn tế có 21 câu, nội dung ngợi ca vật “hèm’’ Nõ Nường: Anh linh tuấn kiệt, Băng sương cốt cách, Kim ngọc tinh thần ... Linh vật “nõ - nường”. Tiến trình của lễ: Lễ mật tắt đèn, xướng diễn trò “linh tinh tình phộc’’ Tiến trình của hội: Rước lúa “thần’’ trình trò Tữ dân, lời ca Nõ Nường. Đặc điểm của lễ: Linh thiêng huyền bí thần chú vật hèm . Đặc điểm của hội: Trò -vè - hí tiếu - trêu - ghẹo - múa vui Nghĩa là toàn bộ trò diễn ở đây đều phải tuân theo chức năng hoạt động của Nõ Nường “ linh tinh tình phộc’’ - tức là “Đụ Đị’’. “Đụ Đị’’ là ngôn từ thuộc tầng ngôn ngữ cổ, ngữ nghĩa của nó hiện nay ở miền Trung đang còn hiểu: “Đụ’’ vừa là hành động, vừa là hình vật - cái Nõ, còn “đị’’ là hình ba góc - cái Nường. Dân ca Miền Nam có câu: Bông xanh bông trắng Rồi lại vàng bông Ơ “Nường’’ ơi ! Chữ “Nường’’ ở đây là tên gọi theo đặc điểm của giới tính cái (Nõ Nường), do đó giới nghiên cứu gọi lễ hội này là lễ hội “Phồn thực’’- nghĩa hẹp, chúng tôi gọi lễ hội “Nõ Nường’’( vòng đời) - nghĩa rộng - Nõ Nường là biểu tượng CON NGƯỜI. Lễ hội kéo dài một đêm và một ngày: bắt đầu vào tối ngày 11 và kết thúc vào chiều ngày 12 tháng giêng âm lịch. Các trò diễn ra trong lễ ngoài hội, theo tuần tự. Đầu hôm ngày 11 gọi là cáo tế, dâng sớ. Sau lễ cáo tế dâng sớ có lễ hát cúng đệm “đàn giằng xay’’ do cụ Từ thể hiện, đồng thời có lễ chầu chực . Lễ chầu chực là ngồi ngóng đợi giờ lành gồm các bô lão và do chức sắc phân làm hai nhóm: nhóm chức sắc cao thì ngồi cùng cụ Từ hát thờ ở miếu, nhóm chức sắc thấp thì ngồi ở điếm Trám - cách miếu trò khoảng 200m (có cả đôi trò đã hoá trang , đến giờ thì một bô lão dẫn vào miếu ). Nghe tiếng gà gáy là nửa đêm, đến giờ lành (giờ tý) bước vào giờ chính lễ “Lễ mật’’. Nghi lễ: “linh tinh phộc”. Trước linh vị thần miếu - thần Nõ Nường, “ đôi trò’’ nam thanh, nữ tú đứng sau chủ tế, hướng mặt vào nhau, sẵn sàng đợi lệnh diễn trò. Chủ tế, sau khi khấn xong lời thần chú - cầu xin, gieo quẻ âm dương và lạy xong ba lạy thì bước lên cạnh bàn thờ, mở hòm lấy vật “hèm’’ (ngày trước vật hèm là cái mo nang và dùi gỗ vông, xong việc thì thả xuống hồ ngâm lấy nước tưới ruộng, để diệt trừ sâu rầy cho mùa màng cây trái xum xuê (thời chưa có thuốc trừ sâu); nay làm bằng gỗ, sơn đỏ, xong việc là cất vào hòm đặt trong tủ, để trên gác xép sau bàn thờ, còn gọi là bàn thờ thượng, có cầu thang, đến giờ chủ tế lên bê xuống lấy Nõ trao cho nam, lấy Nường trao cho nữ, rồi bước ngang sang phải (bàn thờ) ba bước, quay lại, chếch hướng về đôi trò, miệng hô: “linh tinh tình phộc’’ đồng thời hai tay khoát lên tạo thanh hình chữ “V’’ trước trán - đèn tắt, tuần tự hô ba lần. Theo lệnh tuần tự của mỗi lần hô, đôi trò vừa múa (đứng tại chỗ, hai tay cầm vật “hèm’’ đưa sang đưa về) miệng hát: Bên kia có nứng cùng chăng. Bên này lủng lẳng như giằng cối xay Hát xong hai câu này thì nữ cầm cái Nường đưa lên, nam cầm Nõ “phộc’’ vào và phải làm ba lần như thế. Trong đêm tối, chủ tế nghe “cạch’’ đủ ba tiếng đèn sáng lại. Phút ấy gọi là phút “thiêng’’, “dập’’ chiêng trống để mừng và kính cáo với thần linh, thiên địa biết “lễ mật tắt đèn’’ đã thành công. Sau đó chủ tế dẫn đầu “đám trò’’ chạy quanh miếu ba vòng theo ngược chiều kim đồng hồ, theo sau là dân làng: vừa chạy vừa la hét và gõ dùi vào mẹt để đuổi ma quỷ trừ hiểm họa cả năm cho dân làng, cùng mùa màng cây trái và gia súc... Khi nghe hiệu chiêng trống “dập’’ và tiếng la hét ở ngoài miếu thì số người ở nhà trong phường cũng đồng loạt “gõ’’ dùi vào mẹt hoặc dùng chày “giã’’ vào cối và la hét theo để đuổi ma quỷ. Sau đó những đôi vợ chồng cũng phải thực hiện lễ thức “tình phộc’’ và những đôi nam nữ cùng dân làng đang ở quanh rừng Trám ngoài miếu, cũng phải thực hiện lễ thức “tình phộc’’ bổ sung “bồi’’ thêm, và ngày mai trong hội hát trình nghề Tứ dân chi nghiệp, cái nọ “phộc’’ vào cái kia và lời ca ẩn ngữ Nõ Nường lại “bồi’’ thêm lần nữa “quá tam ba bận’’. Tức là “tôi luyện’’ cho vật “hèm’’ đầy đủ linh nghiệm, thần hộ mệnh của toàn phường. Tình phộc ngoài rừng Trám Theo phong tục ngoài rừng trám các đôi trai gái và dân làng, cũng thực hiện lễ thức “ tình phộc’’ và nữ phải giữ một vật của nam để làm tin như khăn đội đầu. Cô nào có chửa trong dịp đó là lễ “hèm’’ của làng thành công, đem lại điều may mắn cả năm cho gia đình và toàn phường. Phường sẽ đứng ra lo liệu tổ chức lễ cưới cho họ và không phải nộp khoản tiền “cheo’’. Đứa con sinh ra trong dịp “lễ mật’’ này là của quí, vật cưng của gia đình và toàn phường. Ngoài ra, cô gái có chửa ấy, nếu từ chối lấy anh gặp tối qua, mà muốn lấy một anh khác thì dân làng cũng vận động người con trai đó và anh ta cũng rất vui vẻ tự nguyện. Đồng thời những bà mà có chửa trong đêm đó thì gia đình càng phấn khởi với câu châm ngôn: Cá ao ai về ao ta, ta được. Việc “tình phộc’’ ngoài rừng Trám sau “lễ mật’’ các già làng kể lại với nhiều tình tiết sinh động hấp dẫn, rằng: dù gặp bà Chánh Lý thì cũng thế, vì đi hội là phải theo hội để được “vật thịnh dân an’’. Có những đôi nam nữ sau đó thành chồng vợ và họ đã qua đời vài chục năm nay; vì tục “Tình phộc’’này đến đầu thế kỷ XX đã tàn, không diễn ra nữa. 3. Lời ca ẩn ngữ Nõ Nường Lễ hội Trò Trám là “Lễ hội Nõ Nường’’ do đó toàn bộ tích trò diễn ra ở đây đều tuân theo chức năng hoạt động của Nõ Nường “linh tinh tình phộc’’. Vì thế, nếu lễ hội tại miếu thờ cụ Tổ nghề mộc, thì việc cưa, đục, đó là công việc của nghề thợ mộc. Trái lại, ở lễ hội Nõ Nường thì cái cưa “xẻ’’ gỗ, cái đục “ đục’’ gỗ là tượng trưng cho Nõ “ phộc’’ vào Nường; hoặc Sĩ chiếc bút “quyệt’’ vào nghiên mực, Nông cái cày “cắm’’ xuống đất, cần câu lưỡi “móc’’ vào mồm cá... và lời ca của nhóm “tứ dân chi nghiệp’’ (Sĩ, Nông, Công, Thương) cũng đều ám chỉ việc Nõ “ phộc’’ vào Nường. Lời ca có trên 350 câu thơ Lục bát không kể lời ứng tác tức thì. Xin trích lời ca của một số vai diễn sau đây: Lời ca của cây đàn “Giằng xay’’. Đàn “Giằng xay’’ biểu tượng Nõ Nường, nhân vật trung tâm, giữ vai trò lĩnh xướng trong các vai diễn ở đây. Đàn ông tậu ruộng ba bờ Chớ để kẻ khác mang lờ đến đơm Ruộng ba bờ là hình ba góc - cái “Nường’’ và “Lờ’’ là cái Nõ Hoặc lời ca của người thợ cày: Nhà ta vui cấy, vui cầy Làm ăn vất vả tối ngày không thôi Mong sao như đũa có đôi Tháng năm năm việc, tháng mười mười công Ý phiếm chỉ ở đây là chữ “cấy” và chữ “cày” khi hát được nhấn mạnh. Hoặc lời ca của người thợ cấy: Người ta đi cấy lấy công Tôi nay đi cấy lấy ông chủ nhà Đi cấy thì gốc chổng lên Ngọn thời cắm xuống mới nên mùa màng Trong đoạn hát của người thợ cấy có những từ “gốc” và “ngọn” đều là ẩn ngữ, phiếm chỉ về sự hoạt động của Nõ Nường: ngọn cỏ “cắm xuống” mới nên mùa màng, hoặc “lấy ông chủ nhà” là chồng mình - nghĩa là chị ta đi cấy ruộng nhà. Nếu rạch ròi ra thì cả đoạn này đều mang tính ẩn ngữ. Hoặc lời ca của cô mua bán “xuân”: Còn xuân thì mua xuân đi, Nay lần mai lữa còn gì là xuân “Bán” và “mua” đều ở một chữ “xuân”. Hoặc lời ca của anh đi câu: Cành câu trúc anh đúc lưỡi câu vàng Anh tra mồi nguộc anh sang câu hồ Người ta câu diếc câu rô Anh đây câu lấy một cô không chồng Có chồng thì nhả mồi ra Không chồng thì cắn, thì nuốt, thì tha lấy mồi Hoặc lời hát của anh cung bông: Mặc ai căng lưới ngọn bè Anh người phường Trám làm nghề cung bông Cô nào bông cán đã xong Muốn đi kịp chợ đón cung anh vào Lời của chị kéo sợi: Xin đừng quản thấp lo cao Bông em đã nỏ anh vào mà cung Sợi lôi ra bằng cổ chày Phường chài đón hỏi mua dây kéo thuyền. Trong đoạn này, chữ “cung anh” và “bông em” hoặc sợi bằng “cổ chày”... đều là ẩn ngữ. Hoặc lời ca của anh thợ xẻ: Người ta xẻ gỗ trên ngàn Anh đây cưa lấy một nàng đương tơ Em tài bắt chệch sớm trưa Anh thì giỏi xẻ khéo cưa cùng phường Ở đây các chữ “cưa”, “xẻ”, “bắt chệch” đều là ẩn ngữ. Hoặc lời ca của thầy đồ và học trò: Học trò đi học sách kinh Tay cầm quản bút “quyệt” tình nghiên đây Học trò đi học chữ thầy Học nhồi học nhét bụng đầy văn chương. Lễ hội Nõ Nường là lễ hội ngợi ca về sự cường tráng và hoạt động “linh tinh tình phộc” của Nõ Nường “vật hèm”: Nõ to và dài như “giằng cối xay” còn Nường thì rộng và sâu như “cối xay lúa’’đó là biểu tượng. Ở đây không còn quan niệm “dâm” và “tục” nữa. Lời ca của nhóm hề pha trò: - Gặp đây anh mới hỏi nàng Cái gì lủng lẳng một gang trong quần - Chàng hỏi thì thiếp thưa rằng Cái đeo lủng lẳng là “giằng cối xay”. - Ước gì em hoá ra trâu Anh hoá ra chạc xỏ nhau cả ngày. - Ước gì em hoá lưỡi cày Anh hoá thành bắp lắp ngay bây giờ - Bà già như ruộng đỉnh gò Đang hạng con gái như kho ruộng mềm. Lễ hội Nõ Nường Trò Trám thuộc dòng lễ hội tục hèm, mang đậm đà bản sắc văn hoá của người Việt cổ. Nó được ra đời rất sớm, từ thời dân tộc ta mới hình thành tư tưởng. Đến thời đại văn minh Đông Sơn, dòng lễ hội vòng đời này được hoàn thiện về ý nghiã và nghệ thuật, được ghi lại thành hoa văn trên mặt trống đồng Ngọc Lũ và lan toả, truyền kỳ trong văn hoá đân tộc. Ngày nay việc tìm hiểu và bảo tồn dòng lễ hội này đó là điều cần thiết trong hội nhập quốc tế của đất nước ta. Nhạc sĩ Dương Đình Minh Sơn (*): nguộc là con chẫu chuộc
  2. Phoenix nghĩ là để xem xét một nghi thức văn hóa có "ấu trĩ" hay không thì cần xem xét hoàn cảnh lịch sử của nó. Ở thời đầu phát triển của các bộ lạc, bộ tộc thì Phoenix không nghĩ nó là "ấu trĩ" mà rất thực tế. Khi con người có nhu cầu sinh tồn cao, việc phát triển nòi giống là hữu ích để tạo ra một lực lượng lao động cũng như chiến đấu. Điều này có khi có ý nghĩa sống còn với sự tồn vong của mỗi nhóm người. Ngày nay, với bước đi của văn minh, nếu áp dụng thô thiển thì không thể gọi là văn minh được.
  3. Thiếu hát văn thì "hầu đồng" không còn là lễ hội nữa. Các "giá đồng" không thể thăng hoa cảm xúc để nhập đồng khi thiếu tiếng nhạc rộn rã, da diết nhưng nhịp nhàng của những bài hầu văn. Để hầu đủ 36 giá đồng thì bấy nhiêu bài văn cũng phải tương ứng. Vì số lượng bài rất nhiều và bài nào cũng dài cả nên Phoenix sẽ tách riêng Topic và gioi thiệu cùng ACE sau. Ở đây chỉ giới thiệu một bài tổng hợp làm ví dụ. Nguồn:yeublog.com Hát văn --một hình thức hát thờ, hát trong khi hầu thánh Công Đồng Tứ Phủ Văn Văn công đồng-bản văn ca ngợi các vị thánh trong hệ thống tứ phủ.Văn công đồng thường được hát trước khi hát văn hầu thánh(văn trong Lên Đồng hầu bóng) hoặc hát vào các dịp lễ hội , các ngày rằm mồng một.Bản văn này mang tính tâm linh mẫu mực, hát rất khó, chuyển giọng nhiều. Ngày trước quan niệm cứ hát trôi chảy bản Văn Công đồng mới là biết hát văn .Còn ngày nay 1 phần bởi vì Văn Công Đồng dài có nhiều từ là tiếng hán khó thuộc 1 phần là do đồng tiền bát gạo các cung văn không học hát văn công đồng mà chỉ hát các bản văn thường có trong hầu bóng mà thôi.Bản Văn Công Đồng dưới đây không được chính xác tuyệt đối vì còn rất nhiều từ tiếng hán mà bản thân tôi chưa thể hiểu hết được.Vì thế rất mong sự góp ý của các bạn để bản văn được hoàn chỉnh hơn Công Đồng Tứ Phủ Văn Thần kim ngưỡng khải tấu chư tôn, Toạ thượng dương dương nghiễm nhược tồn. Nguyện thỉnh pháp âm thi nghệ lực, Tuỳ cơ phó cảm nạp trần ngôn. Tiết hạ thiện tâm thành khấu thử Tiến văn chầu tứ phủ vạn linh. Cửu trùng thánh mẫu thiên đình Bản thiên Công chúa quế quỳnh đôi bên Hội bàn tiên khăn điều áo thắm Chốn Quảng Hàn cung cấm vào ra Cờn Môn tứ vị vua bà Công Đồng thánh mẫu tam tòa chúa tiên Dền Sòng Sơn -Địa Tiên Vương Mẫu Đất phủ Giày nổi dấu thiên hương Thỉnh mời tiên thánh Đệ Tam Xích Lân Long Nữ ngự đền Thủy Cung Tướng uy hùng năm quan hoàng tử Lĩnh sắc rồng cai ngự bốn phương Quyền cai sơn thoải đại giang Đông Cuông Tuần Quán thượng ngàn tối linh Khắp tam giới đình thần tứ phủ Hội Công Đồng văn võ bá quan Tả mời Thái Tuế Dương Niên Hữu Quan Dương Cảnh Thành Hoàng quản coi Tiền hậu lai Lê Triều Thái Tổ Quản chư thần thừa trị hôm mai Thỉnh mời Tứ Phủ Khâm Sai Thủ Đền Công Chúa đáng tài thần thông Thỉnh tam thập lục cung tiên thần nữ Lệ tùy hầu thừa sự sớm trưa Pháp vân Pháp vũ uy nghi Pháp vân Pháp điện hộ trì bốn phương Tướng thiên cung mũ đồng áo sắt Lốt thủy tề năm sắc phi phương Thỉnh mời bát lộ sơn trang Bên thời thập nhị tiên nương chầu vào Các bá quan cơ nào đội ấy giáng bản đền lừng lẫy uy nghi Thổ Công Thổ Địa thần kỳ Ngoại Giang hà Bá sơn kỳ thần linh Sắc cẩn thỉnh thiên binh lưc sĩ Ngũ Hổ thần vạn vị hùng binh Thỉnh mời liệt vị bách linh Binh tùy binh bộ cùng binh bản đền .................................................. Hội tam đa , trình tương ngũ phúc Độ cho người hưởng lộc trường sinh Thỉnh mời Phật giáng lưu ân Thần giáng lưu phúc thiên xuân thọ trường
  4. Bài sưu tầm “Nướng” tiền cho đồng cô, đồng bóng Hiền, chủ một công ty thời trang ở Phố Huế (Hà Nội), mới 27 tuổi nhưng mê đồng bóng. Cô kể, cứ 2-3 tháng lại phải làm một “đêm hầu”. Không chỉ riêng cô mà cả 3 chị em và bà mẹ già ở Thanh Oai (Hà Tây) cũng vậy. “Chúng em làm ăn buôn bán, ai cũng tin vào may rủi. Em đã đi gặp nhiều thầy, ai cũng bảo, làm ăn muốn phát đạt thì phải mở vài giá đồng”, cô tâm sự. Bởi vậy, cứ thấy “nặng căn”, làm ăn không gặp là cả đại gia đình cô lại chung tiền, rủ nhau đi “mua” một đêm hầu để giải hạn. Hiền “chơi” giá hầu nhiều đến nỗi, đến nay cô đã thuộc làu từng địa chỉ chuyên hầu đồng ở Hà Nội. 300 triệu đồng để vui 36 giá đồng Cảnh múa đồng tại nhà “cô” đồng Nguyễn Thị Luyến, thôn Đục Khê, xã Hương Sơn (Mỹ Đức, Hà Tây) với những màn múa hương, múa nến, múa lửa, hút thuốc lá... Ảnh: MINH ĐIỀN Giữa tháng 2-2006, chúng tôi theo mẹ Hiền lọt vào một “sới” hầu đồng nằm sâu trong khu Thuốc Bắc (Hà Nội). Hiền kể, để thuê được giá hầu đồng đêm nay, cô phải xếp hàng đặt lịch với “cô” trước cả tuần lễ. Bắt đầu từ 17 giờ, trong nhà “cô” đã não nuột nhạc, rực rỡ đèn, nến, lửa và mù mịt khói nhang, trầm. Giữa nhà, một ban thờ trưng bày hương án, hoành phi, câu đối cổ, cờ quạt, mũ áo, hoa quả, đồ tế lễ… Nền nhà trải kín chiếu cói. “Cô” mà Hiền gọi lại là một anh mặt trắng đầy phấn, môi lòe loẹt son. 19 giờ, “cô” mặc áo tế xanh đỏ, đầu thắt khăn vàng, thêu rồng phượng, lửa và lua tua bắt đầu cầm 2 cán cờ, bước đi bước lại, sang phải lùi trái, “đảo” như chong chóng trước hương án. Cứ mỗi giá 25-30 phút, “cô” lại lui vào “hậu cung” đổi sắc phục, khí cụ rồi nhảy ra “diễn” tích mới. Đội cung văn (nhạc công) khi não nuột, khi réo rắt, khi phầm phập như rock, rap. Mẹ con Hiền quỳ trên chiếu, bên chân “cô”, sì sụp lạy và vâng, dạ nghe “cô” phán những lời được nói ra từ... miệng người cõi âm. Tranh thủ giờ giải lao giữa các giá, cô lại tất tả ôm rổ lộc (kẹo, bánh, hoa quả, mì tôm, xôi, oản) và tiền đi phân phát cho các con nhang đệ tử, nhạc công ngồi hầu chung quanh. Cứ như vậy, giá hầu của cô được kéo dài cho đến sáng. Theo Hiền, “giá” được hiểu là một màn, tiết mục múa và hát. Tùy theo từng “tích”, “ghềnh” mà chọn nhạc điệu, ca từ khác nhau. Một cuộc hầu đồng trọn vẹn có 36 giá. Tuy nhiên, tùy lượng tiền của tín chủ mà thỏa thuận số lượng giá. Ít thì 9, 12 giá. Nhiều thì 21, 23 giá... Thời lượng mỗi giá cũng khác nhau, ngắn chỉ khoảng 20-30 phút, dài có thể tới 1 giờ đồng hồ. Nếu diễn đủ 36 giá lớn, cả cô đồng và tín chủ phải thức suốt 2-3 đêm liền. Hiền bảo, có đi hầu đồng mới biết bây giờ người ta đang đua nhau “chơi” đồng bóng. “Mỗi cuộc mở đồng như vậy, chúng em ít tiền, chỉ dám chơi 15-16 triệu đồng. Nhưng một giá đồng ra trò thực sự thì phải 20-30 triệu đồng”. Đắt, nhưng người ta vẫn đổ xô đi hầu đồng. Nhiều khi, vào những ngày lễ, rằm, tết, các sới hầu ở Hà Nội chật kín lịch, mẹ con cô phải dắt nhau hầu tận các điện, phủ lớn và được đồn là linh thiêng ở Thái Bình, Thanh Hóa, Nam Định, Hà Tây… Còn Nhung, một phụ nữ khoảng 45 tuổi, chủ cửa hiệu karaoke, mát-xa thư giãn ở Thụy Khuê (Hà Nội) thì bảo: “tôi đi hầu đồng nhiều đến nỗi bây giờ nghiện”. Cứ hễ đâu mở giá đồng, Nhung lại bỏ nhà cửa đến xem giá, thức thâu đêm để xin lộc. “Không một tụ điểm đồng bóng nào ở Hà Nội tôi không thuộc. Tôi còn thuộc làu cả tên, tuổi, tiểu sử của các “cô”, “cậu” và đám cung văn đàn hát”, cô kể. Thậm chí, cô còn quen và thuộc tên của nhiều vị khách sộp là quan chức, nhà doanh nghiệp, dân chơi... Theo cô, phần lớn các vị “con nhang đệ tử” chịu chơi, khách sộp ít khi muốn hầu ở nhà thầy, mà thường thuê hẳn “cô”, “cậu” về tư dinh, lập điện, mở phủ nguy nga, tráng lệ để múa. Họ thuê cả dàn cung văn nổi tiếng về đàn, hát suốt canh thâu. Mỗi cuộc như vậy, chi phí bỏ ra khoảng gần 100 triệu đồng. Tuy nhiên, mức chơi trên vẫn chưa bằng một vị quan chức ở Hà Nội, mới đây đã chi tới 300 triệu đồng, thuê cả một chiếc du thuyền ở Hồ Tây để đưa “cậu” đồng và đám cung văn, con nhang, tín chủ… lên say sưa nhảy múa suốt 3 ngày đêm giữa mênh mông sóng nước, nhảy múa đủ 36 giá. Trong đó, “cô” đồng được thuê là một giáo sư tên T. rất nổi tiếng trong giới hầu đồng hiện nay. Còn cung văn được tuyển từ những nghệ sĩ hát chèo, quan họ, diễn viên sân khấu… đang nổi. Tiền “cát-xê” chi cho “cô” sau 3 ngày đêm khoảng 120 triệu đồng. Gần 70 triệu đồng trả cung văn và hàng chục triệu tiền “lộc” cho quan khách. Bùng nổ cung văn, hầu bóng, điện thờ tư “Ngồi hát ăn bát vàng” là câu mà các cung văn đồng bóng thường bảo nhau. Bởi vậy, hiện nhiều người đang đua nhau đi làm cung văn. Trong đó, 2 làng Tam Sơn và Phù Lưu Tế (thuộc huyện Từ Sơn, Bắc Ninh) nổi tiếng là đất quan họ với những giọng ca vang, rền, nền, nảy. Nhưng không mấy ai còn tha thiết hát quan họ nữa. Cứ sau hội Lim, hơn 20 đàn ông ở đây lại xách sáo, nhị, đàn nguyệt theo phục vụ các giá hầu. “Nay ở Hà Nội, nhưng mai đã ngồi tận Thanh Hóa, Nghệ An rồi”, Nguyễn Đức Hải, 41 tuổi, một tay đàn nguyệt kiêm hát chầu văn mới nổi, quê ở Tam Sơn, tiết lộ. Dẫu vậy, Hải vẫn chỉ là bậc đàn em của các tay chuyên hát đồng nức tiếng, chỉ nghe tên đã khiến dân nghiện đồng bóng mê mẩn, như X.H, Q.A, Q.Tr… “Cát-xê” của họ tiềm tiệm cũng 15-20 triệu đồng/tháng, cao có thể tới 40-50 triệu đồng/tháng. Món hời từ nghiệp hầu bóng cũng lôi kéo nhiều sinh viên khoa âm nhạc dân tộc Nhạc viện Hà Nội ra trường đi làm cung văn. Cung văn nhiều, “cô” đồng cũng lắm. Ở các huyện Mỹ Đức, Thạch Thất, Thanh Oai, Thường Tín (Hà Tây) gần đây xuất hiện nhiều “làng cô đồng”. Trong đó, hoạt động sôi động hơn cả là làng Hòa Nam và khu chùa Hương, thuộc huyện Mỹ Đức. Ban đầu, họ chỉ là những thầy cúng, thầy bói, nhưng thấy nghiệp “cô” đồng nhanh “lên đời” hơn, nên chuyển sang làm đồng cô, bóng cậu, với những “cô” Kha, “cô” Tiến, “cô” Vân, “cô” Luyến… nườm nượp khách. Nhiều đêm, con nhang, tín chủ tứ xứ kéo về. Gần thì Hà Tây, Hà Nội, Bắc Ninh, Phú Thọ. Xa tận Thừa Thiên-Huế, TPHCM. Ô tô đỗ kín đê làng. Tuy nhiên, muốn tìm “sào huyệt” của giới cung văn, hầu bóng phải về Phủ Dầy (Nam Định), cách Hà Nội 90km. Khách muốn ngồi đồng ở đây thường phải đăng ký trước cả tuần… Ngày rằm, mùng một, có thời điểm cùng lúc 5-6 đám nhảy đồng cùng múa may, thu hút hàng trăm con nhang, đệ tử. Họ đến từ khắp các tỉnh thành: Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Thái Bình, Quảng Ninh, Yên Bái, thậm chí từ TPHCM, Bình Dương, Nha Trang… Giá hầu mỗi “sô” ở đây đắt nhất khoảng 20-30 triệu đồng, rẻ cũng 3-4 triệu đồng. Theo giáo sư Trần Lâm Biền, một người chuyên nghiên cứu về Phật giáo, lễ hội, tín ngưỡng dân gian, thì thời phong kiến, tệ nạn hầu đồng, hầu bóng đã bị cấm khá nghiêm ngặt. Tuy nhiên, khởi thủy của lễ hầu đồng lại mang ý nghĩa khá tốt đẹp, tôn vinh phong tục thờ Mẫu, nặng về yếu tố giải trí, chữa bệnh. Thông qua “cô đồng” để người hầu được tiếp cận với vũ trụ, cõi siêu nhiên. Nhưng gần đây, cùng với đời sống tâm linh phồn thịnh trở lại thì những hệ lụy của trò hầu đồng cũng được khơi lại, thậm chí còn trở nên ngày càng tiêu cực và lệch lạc hơn. Phần lớn người đi hầu đồng đều vì mục tiêu cầu tài, cầu lộc, giải hạn, rửa tội... hơn là nhu cầu giải trí tinh thần. Được thời, những kẻ bói toán, tử vi, tà thuật... chớp lấy cơ hội, thi nhau mở điện thờ tư, lập phủ riêng tại gia đình để kiếm lời từ “dịch vụ” hầu đồng. Chỉ tính riêng trên địa bàn Hà Nội, hiện đã có tới hàng trăm điện thờ tư như vậy. Trong đó, riêng phường Chương Dương (quận Hoàn Kiếm) có 6 điện thờ, phường Giảng Võ (quận Ba Đình) có 13 điện, phường Phúc Tân có 6 điện tư. Chủ mỗi điện thờ tư trên là một thầy cúng kiêm “cô”, “cậu” đồng. Sở VH-TT Hà Nội đã từng yêu cầu các “thầy” ký cam kết không tổ chức lễ hầu đồng, bói toán… nhưng hoạt động này hiện vẫn vô cùng sôi động, nhất là vào các tháng đầu năm 2006. Những tháng lễ hội mùa xuân cũng là thời điểm các giới kinh doanh, buôn bán, cán bộ, công chức, nhà doanh nghiệp đua nhau đi đến các đền, phủ, điện mở giá đồng, tiếp tục “nướng” tiền cho các đồng cô, bóng cậu... Nhiều “sào huyệt” của đồng bóng ở Phủ Dầy (Nam Định), Ứng Hòa (Hà Tây), Giảng Võ (Hà Nội) là chốn để các con nhang, đệ tử tiêu xài, lãng phí và các đồng cô, bóng cậu thỏa sức nhập hồn, xuất ngôn bừa bãi, làm cho không ít gia chủ điêu đứng, tàn lụi vì trót để hầu đồng “mê hoặc”. VĂN PHÚC HẬU
  5. Một số hình ảnh Ban thờ Tứ phủ và biểu tượng lên đồng - Nguồn: http://images.google.com.vn Nguồn: http://www2.vietbao.vn Một cảnh lên đồng ở Châu Âu - Một cảnh lên đồng của Helen Duncan (Ảnh: forteantimes.com)' Bức tranh "lên đồng" nổi tiếng của họa sĩ Nguyễn Phan Chánh Trích hồi ký của họa sĩ Nguyễn Phan Chánh: " Lúc còn nhỏ, họa sĩ chứng kiến nhiều cuộc cầu tiên, lên đồng, rước nồi hương hóa ở quê. Khi ở Hà Nội, họa sĩ gặp được một thiếu phụ rất đẹp chừng hai nhăm, hai sáu tuổi, thường hay gọi là bà Phán, nét mặt nết na, hiền hòa, vui lòng ngồi làm mẫu nên ông nảy ý vẽ bức tranh Lên đồng. Khi đó họa sĩ đang dạy ở trường Bưởi (nay là trường Trung học phổ thông Chu Văn An, Hà Nội). "... Về ưu điểm bố cục thì tương tự như tranh Chơi ô ăn quan: bên ngồi ba người, bên ngồi một người, chỉ khác tranh Chơi ô ăn quan là ba người ngồi bên tay phải, một người ngồi về phía trước. Cũng như bức tranh Chơi ô ăn quan, các nhân vật rất khăng khít tình cảm với nhau, lại được cái hay hơn là chỉ có một người cúi mặt xuống, còn ba người kia ngồi bên phải trông sang phía trước nên linh động hơn. Chị ngồi phía trước giơ tay cầm hướng sang chị bên trái. Người thứ hai bên phải ngồi kề phía sau lưng chị trước, tay cầm quạt. Còn người thứ ba bên phải chỉ trông thấy nửa mặt. Cũng khác hơn tranh Chơi ô ăn quan về cách ăn mặc trang sức. Người ngồi đồng bên trái là một thiếu phụ trạc ba mươi tuổi, đầu tóc quấn seo gà, hai tay buông xuống, chắp trước ngực như sẵn sàng chịu lệnh đức Phật nhập vào mình nên vẻ mặt xinh xắn đầy vẻ tín ngưỡng. Gần hơn cả là người nhiều tuổi nhất, đầu quấn tròn một cái vành khăn, trông ra vẻ nghiêm nghị lắm, tay cầm nén hương thư vào mặt người lên đồng. Bà ta đeo chiếc khăn tay đỏ trên vai và thắt lưng màu lục ngồi chĩnh chọe trước mặt chị lên đồng. Sau lưng bà ta là một thiếu nữ trạc mười bốn, mười lăm tuổi, cầm quạt, quạt cho bà đồng. Nhưng cô dè dặt mỗi khi quạt, sợ rằng tàn hương bay vào mặt cô đầu quấn khăn mỏ quạ và cả cô ngồi đằng sau nữa (cũng quấn khăn mỏ quạ). Giữa bức tranh, về đằng sau, có bát hương đã khăm sẵn một chùm hương đương đỏ và ngọn khói bay phấp phới lên. Nói về bố cục thì bức tranh này còn hơn bức tranh Chơi ô ăn quan vì có hai liễn câu đối dong thẳng xuống về bên trái. Như vậy phía bên cô ngồi đồng được chặt chẽ, thẳng thắn hơn, khỏi bị ngồi một mình lỏng lẻo. Cũng như về phía bên phải bức liễn làm cho phía bên này thẳng thắn chắc chắn hơn, lại lấp được chỗ trống sau lưng ba người. Hai bức liễn này làm cho bức tranh chặt chẽ, cứng cáp và có vẻ nghiêm nghị hơn. Mầu sắc cũng hơn bức tranh Chơi ô ăn quan, tuy màu ấm với màu lạnh cũng như vậy nhưng ở đây sáng sủa hơn, đẹp hơn. Cô ngồi đồng mặt áo dài màu gụ, là màu phụ nữ thích nhất lúc bấy giờ, rất hợp với màu đen quần thâm, đặc biệt là bên nách áo có mầu ngói làm lưng quần nên phân biệt được nếp áo, lưng quần. Cũng nhờ câu liễn màu hồng đậm bên cạnh mặt cô lên đồng làm nổi hẳn khuôn mặt trắng trẻo của cô lên, thêm nữa trên đầu cô đồng quấn khăn nhiễu cũng hợp với màu áo. Hai tay cô ngồi đồng chắp lại đằng trước, nên nổi bật được màu trắng nõn của hai bàn tay. Nói về bà đồng thì màu khăn vàng bịt đầu, màu khăn hồng vắt vai, màu lục thắt lưng, đều nổi bật lên nhờ màu áo xanh đậm bà mặc. Còn em cầm quạt, vì em đang còn nhỏ tuổi nên mặt áo nâu non ngắn, quần trắng, làm tươi hẳn lên. Bức tranh không bị ảnh hưởng do màu áo của bà đồng mà trái lại, màu áo nâu non và quần trắng lại rất hòa hợp với màu xanh đậm này. Làm cho bức tranh tươi hẳn lên, sáng sủa hơn còn vì màu hai bức liễn phía sau, bên ngoài, hơn nữa màu hồng hồng của hai bức liễn cũng rất hòa hợp với màu phông. Cô em ngồi đằng sau, tuy người nhỏ hơn nhưng lại cao hơn là người ngồi trước. Bức liễn bên trái màu đậm hơn bức liễn để bên phải, để chỉ đó là một khoảng trống ở bên kia. Mầu phông đậm ở giữa làm nổi bật khói hương lên, hòa hợp màu hương và làm nổi bật bát hương lên nữa ...". Một hình ảnh giá đồng uy nghi - Nguồn: wikimedia.org Tranh minh họa thời xưa - Nguồn http://nhandan.com.vn
  6. Nguồn: http://www.sgtt.com.vn Linh đồng Theo Thiền Uyển tập anh thì lên đồng xuất hiện ở nước ta sớm nhất là vào thế kỷ 12. Cuốn sách chính thức nghiên cứu về hiện tượng lên đồng là Vân Cát thần nữ xuất bản năm 1990. Hội thảo khoa học quốc tế lần đầu do nhà nước tổ chức vào năm 2001. Và Liên hoan diễn xướng hầu Thánh - lên đồng được tổ chức công khai lần thứ nhất tại Kiếp Bạc, Hải Dương tháng 10.2006. Giải cứu tâm linh Giá hầu bà chúa Thác Bờ Hoà Bình là một trong Tứ vị Chầu Bà, hoá thân trực tiếp của Tứ vị Thánh Mẫu (Mẫu thượng thiên, Mẫu địa, Mẫu thoải, Mẫu thượng ngàn). Bà có vai trò coi sóc miền thuỷ phủ. Khác hẳn với không khí nghiêm trang trong giá hầu Mẫu, Trần triều hay các hàng Quan, khi tới các giá hầu hàng Chầu, hàng Cô không khí buổi lên đồng vui nhộn lạ thường. Từ người lên đồng tới các con nhang đều nhảy múa, reo hò phấn khích. Sự giao đãi mạnh mẽ giữa Thánh và người trần tạo ra một hiệu quả tâm linh, một "xung" tâm lý đặc biệt khiến mọi người đều dễ rơi vào trạng thái ngây ngất Liên hoan diễn xướng hầu Thánh -chỉ là một cách gọi chệch, khác đi của cái tên “cúng cơm” - hầu đồng hay lên đồng. Cũng giống như cách đây 16 năm khi xuất bản những cuốn sách đầu tiên (trong hệ thống quản lý của nhà nước) nghiên cứu về hầu đồng, các nhà khoa học cũng phải xướng ra một cái tên rất u ơ, lòng vòng nhưng an toàn như Vân Cát thần nữ, Hát văn... Liên hoan diễn xướng hầu Thánh - một kiểu câu chữ rất đúng phông ngôn ngữ hành chính đang thông dụng ở chốn công quyền, có phần hơi dông dài và chưa thoát khỏi ám ảnh bệnh "sợ đủ thứ". Nhưng với tôi, bỗng chốc cả cụm chữ loằng ngoằng ấy thoắt trở nên đáng yêu vô cùng khi nó đang lừ lừ khẳng định một sự kiện văn hoá không hề nhỏ. Nếu được bình chọn, tôi coi đây là sự kiện văn hoá lớn nhất trong năm. Hàng chục năm cấm kỵ, lần đầu tiên hầu đồng được chính quyền tỉnh Hải Dương và Bộ Văn hoá đã tổ chức thành cuộc biểu dương công khai trong một lễ hội có tầm cỡ quốc gia - lễ hội Kiếp Bạc thờ Đức Thánh Trần, người được dân Việt tôn xưng là Cha. Tiếp theo những định hướng lý luận từ các cuộc hội thảo khoa học, vượt qua cái đơn lẻ vài gánh diễn trò đem đi xuất khẩu văn hoá, hội lên đồng Kiếp Bạc lần thứ nhất có dáng dấp một cuộc giải cứu tâm linh, một tín hiệu cho thấy thái độ cởi mở, khoa học hơn của nhà nước khi tiếp cận một hiện tượng khá phức tạp, vốn tồn tại bền bỉ và có ảnh hưởng nhất định trong đời sống cộng đồng. Đêm mơ Một không gian thật lý tưởng để con người có thể thăng thoát, phát lộ những khả năng siêu việt, để gần gũi hơn khi tiếp xúc với thế giới thần linh và tâm linh Trời Nam có Đức Hoàng Mười Phong tư nhất mực tuyệt vời không hai Nền chí dũng, bậc nhân tài Văn thao võ lược tư trời thông minh Tiêu dao di dưỡng tang tình Thơ tiên một túi Phật kinh trăm tờ Điện lên đồng được dựng lên ngay trên sân tiền tế. Người đến xem đông như nêm cối. Cứ hai tiếng một lần, các cơ cánh thay nhau lên đồng. Tôi ngắm nghía một cách thích thú những người đàn bà nông thôn, già có, trẻ có, đang dán mắt vào những giá đồng, mặc kệ những đứa con hay cháu đang lăn lóc ngủ trên manh chiếu xốc xếch do nhà đền dọn ra trong dịp đại lễ. Những giấc ngủ phớt lờ muỗi đói. Lúc này đã hơn 2 giờ sáng, nhẽ thường ngày những người nông dân kia vừa hưởng một giấc đẫy và chuẩn bị thức dậy để lo cho những chuyến đò dọc, một lần đi xa hay một phiên chợ sớm tong tả mang nông sản vừa ngon lành vừa rẻ mạt về cho phố, thị... Những con mắt vốn quen nhíp lại ngay khi gà mới vào chuồng nay vẫn tỉnh queo, đôi lúc còn ánh lên vẻ tinh anh hiếm hoi khi cô Bơ, cô Chín giáng nhập vào cô đồng, bà cốt. Họ say sưa dõi theo những bước nhún mô tả cảnh vượt rừng đại ngàn nơi Nhạc phủ hay bàn tay phe phẩy khăn đỏ nhịp nhàng như đang khua mái chèo nơi Thuỷ phủ. Những ánh mắt suốt một đời cắm sâu vào bùn chua, cỏ dại, gốc rạ oải mục nay có phần hốt hoảng khi ngửa mặt chiêm ngắm bức tranh Tứ phủ như ôm trùm sân điện. Đồng Nhàn trong giá hầu Ông Hoàng Mười đang giáng bút. Ông Hoàng Mười có gốc tích là con Long Thần Bát Hải đại vương, một người tài hoa thích giao du, hiểu biết văn chương và... đa tình. Ông Hoàng Mười được nhân dân gắn với Nguyễn Xí, một danh tướng thời Lê, có công đưa vua Lê Tư Thành lên làm vua. Ông còn được gắn với Chiêu Trưng vương Lê Khôi, một anh hùng của nghĩa quân Lam Sơn, cháu của Lê Lợi... Bức tranh dân gian Hàng Trống ấy lần đầu tiên được in phóng cỡ lớn có quy tụ đủ mặt các vị thánh thần ở bốn miền Thiên phủ, Địa phủ, Nhạc phủ, Thoải phủ. Kìa trên chóp đỉnh có Ngọc Hoàng, tiếp theo là hàng Thánh Mẫu, hàng Quan, hàng Chầu, hàng ông Hoàng, hàng Cô, hàng Cậu. Những cặp mũi nhăn nheo tạm quên mùi ẩm mốc của những xó nhà thường lưu cữu chút thóc lượm gặt được của mùa trước hay chồng, vắt những bộ quần áo khá nặng mùi mồ hôi bởi ít có sự can thiệp của Omo hay Tide siêu sạch. Những ngóc ngách khứu giác nhướng phồng hết cả lên vì mùi hương quyện với hương hoa tươi, táo thơm, cam ngọt và thật khó bỏ qua những kích thích rất đáng ngờ từ son, phấn, nước hoa mác nhãn châu Âu nhưng made in... Quảng Châu. Thương nhất là những vành tai đã nhỏ như tai chuột, đã mỏng như lá muống thì chớ lại còn cụp về phía sau gáy như cánh chuồn chuồn bay ngược cơn dông. Xét từ phía "tai học", tiền lộc dĩ nhiên là không và khó dừng đọng ở những phận này. Những vành tai chỉ quen lưu đọng tiếng mắng chửi của chồng, những lời thì thầm toan tính bán đất, ruộng, tậu mua xe "rim Tàu" để ngược xuôi buôn bán của các quý tử... Đêm nay, những vành tai ấy như quắn hết cả lại mỗi khi cung văn dài cằm, căng gân cổ để vào các điệu Xá thượng trong các giá chầu cô Bé, cô Sáu, cô Đôi hay điệu Bỉ chim thước ở giá Cậu, điệu Bỉ thơ ở giá ông Hoàng... bất chấp sự tra tấn của trang âm tồi tàn. Có lẽ không nhiều lần trong đời những gương mặt nông dân hiền lành, chất phác kia lại hướng tới gần, lại cận kề những giấc mơ lớn của đời mình đến thế. Giấc mơ được một lần ngất ngây trong rực rỡ đèn, lung linh nến, được mọi người ngắm nhìn, được mũ áo xênh xang, được đi những bước khoan thai, được phán truyền những điều lớn lao, được ban phát những tín chỉ phúc lộc... Từ bến sông linh Giấc mơ được một lần ngất ngây trong rực rỡ đèn, lung linh nến, được mọi người ngắm nhìn, được mũ áo xênh xang, được đi những bước khoan thai, được phán truyền những điều lớn lao, được ban phát những tín chỉ phúc lộc... Tôi lặng lẽ rút ra khỏi nơi đang hầu đồng và bước dọc con đường Thượng đạo để đi về phía sông Lục Đầu. Hình như đã canh hai hay canh ba, cả vùng đền Kiếp Bạc lặng lẽ, tịch mịch hơn. Núi sông, trời mây khoác một vẻ huyền ảo. Trăng mười bảy bàng bạc, khéo làm nổi bật dãy núi Rồng uốn theo hình chiếc ngai mà hai nhánh là Nam Tào, Bắc Đẩu cùng chầu về Lục Đầu giang. Một không gian thật lý tưởng để con người có thể thăng thoát, phát lộ những khả năng siêu việt, để gần gũi hơn khi tiếp xúc với thế giới thần linh và tâm linh. Nếu coi những điều ghi lại cuộc trò chuyện của thầy trò nhà sư Khánh Hỷ trong cuốn Thiền Uyển tập anh là chứng lý thì việc xuất hiện lên đồng sớm nhất của nước ta là vào hồi thế kỷ 12. Cuốn sách chính thức nghiên cứu về hiện tượng lên đồng là Vân Cát thần nữ được xuất bản năm 1990. Hội thảo khoa học quốc tế lần đầu do nhà nước tổ chức vào năm 2001. Và đến hôm nay lên đồng mới chính thức được tổ chức công khai. Một hành trình quá chậm chạp, nhọc nhằn. Kiếp Bạc, nơi địa linh tụ hội khí thiêng sông núi từng giúp nhà Trần dựng công nghiệp vẻ vang. Hôm nay, cũng từ nơi đây, một lộ trình tâm linh rộng rãi, hanh thông? Khi xưa: Lục đầu vô thuỷ bất thu thanh - nước sông Lục Đầu luôn vang dội tiếng quân reo. Chẳng biết từng lớp sóng Lục Đầu hôm nay có đủ sức chuyên chở nổi những ngọt ngào thanh âm của mùa thu cùng bao trầm tích văn hoá dân tộc để bồi đắp yên lành, đẹp đẽ cho miền Tứ phủ?
  7. Nguồn: http://www.hue.vnn.vn/vanhoa/ "Hầu bóng" - một loại hình nghệ thuật diễn xướng dân gian16:09' 11/10/2006 (GMT+7) Tháng 8 Âm lịch hằng năm, tại Côn Sơn-Kiếp Bạc, nhân dân lại biểu thị lòng tôn kính vị Anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo, người được nhân dân tôn xưng là Đức Thánh Trần bằng nghi lễ hát văn Hầu Thánh linh thiêng. Sau một thời gian dài gián đoạn, từ ngày 7 đến 12/10 năm nay, lần đầu tiên Liên hoan Diễn xướng dân gian “Hầu Thánh” được Bộ Văn hóa-Thông tin chỉ đạo tổ chức công khai và bài bản tại đây... Đền thờ đức Trần Hưng Đạo tại số 36 Võ Thị Sáu, quận 1, TP.HCM "Hầu bóng" (còn gọi là “hầu Thánh” hoặc “lên đồng”) - một loại hình nghệ thuật diễn xướng dân gian được Bộ Văn hóa-Thông tin cho phép tổ chức với sự tham gia của một số đoàn từ nhiều địa phương, là một sự công nhận chính thức đối với giá trị tâm linh của loại hình nghệ thuật này. Việc Bộ Văn hóa-Thông tin cho khôi phục và tổ chức công khai các giá đồng hầu thánh có ý nghĩa tích cực, phù hợp với xu thế xã hội hiện nay. Hiến pháp năm 1992 đã quy định: người dân có quyền tín ngưỡng và không tín ngưỡng. Nhưng đã có một thời gian dài, chúng ta không phân biệt rõ giữa tín ngưỡng và mê tín dị đoan, dù thực tế có những yếu tố mê tín "ký sinh" vào "hầu bóng" như bói quẻ, xóc thẻ... Ngày nay, các nhà quản lý văn hoá đã phân biệt rõ mê tín và tín ngưỡng, cùng với tính dân chủ trong văn hoá mở rộng, vai trò các cá thể có điều kiện xuất hiện hơn, nên đã tôn vinh đúng giá trị của "hầu bóng". Theo Giáo sư, Tiến sĩ Tô Ngọc Thanh, việc công nhận "hầu bóng" có hơi muộn, nhưng muộn còn hơn không. Vì nhận thức là cả một quá trình. Sinh hoạt "lên đồng" của nhân dân và tín đồ khác với biểu diễn của các đoàn. Nhưng các đoàn có thể khai thác chất lượng nghệ thuật của "hầu bóng" hơn là yếu tố tâm linh, vì cùng một hiện tượng văn hoá có thể khai thác ở nhiều khía cạnh khác nhau, không thể hạn chế tính đa dạng của văn hoá. Từ giá trị tâm linh... Là một loại hình sinh hoạt văn hóa tâm linh thuộc về dân gian có từ lâu đời, nghi lễ "Hầu Thánh”, ”lên đồng" có ý nghĩa tôn vinh các nhân vật lịch sử cùng với công trạng của các vị dưới hình thức diễn xướng có nghi lễ và hát văn... Tuy nhiên, có một thời gian dài, do hoàn cảnh đất nước chiến tranh, điều kiện kinh tế xã hội chưa cho phép, cho nên nó chưa trở thành một hoạt động bình thường trong đời sống lễ hội ở VN. "Hầu bóng" bắt nguồn từ tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt. Thực chất, nó xuất phát từ thế giới quan của người Việt cho rằng mỗi thế giới hữu hình luôn tồn tại song song với một thế giới vô hình, như câu của người Việt nói rằng: "bên âm, bên dương" chứ không phải "trên dương, dưới âm" như của đạo Phật. Người Việt cổ cho rằng có bốn thế giới: Thế giới trên trời (ở nước nông nghiệp như ta chỉ đơn thuần coi thế giới trời là nơi trú ngụ các tác nhân gây mưa); thế giới dưới nước; thế giới rừng (nơi sinh ra, nơi quần tụ của tổ tiên ta); thế giới người. Điểm đặc biệt ở VN là các thế giới này đều do các bà mẹ (Mẫu) cai quản. Mẫu Thượng Thiên, Mẫu Thoải, Mẫu Thượng Ngàn và với riêng Mẫu Liễu Hạnh như một sáng tạo của nhân dân thế kỷ 16 - một thế kỷ loạn lạc luôn luôn. Đức Thánh Mẫu trở thành chỗ dựa tâm linh để "cứu khổ cứu nạn cho người dân". ... đến giá trị nghệ thuật "Hầu bóng" là một trạng thái thăng hoa của con người do tự kỷ ám thị thánh nhập vào mình, dẫn đến chỗ vô thức, tái diễn lại những cử chỉ, động tác của vị thánh đó cùng với lời hát, tiếng đàn của cung văn. "Hầu bóng" là một phức thể văn hoá, nó tạo ra một không gian "ảo"; do đó không thể tách rời riêng từng giá trị của làn điệu, lời ca hay động tác, mà nó là một sự tổng hoà. Đối với “Hầu Thánh”, “Lên đồng”, yếu tố chủ đạo là nghi thức nhập hồn của các vị thần linh vào ông đồng, bà đồng. Nhưng để thể hiện nghi thức ấy, cần có môi trường cho hoạt động diễn xướng. Đấy là không gian thờ cúng trang nghiêm tại các Đền, Điện thờ... Các bàn thờ phải được trang trí rực rỡ màu sắc, với những đồ thờ cúng sang trọng. Bên cạnh đó còn có âm nhạc, hát văn, múa đồng để làm nền cho lễ nghi tín ngưỡng. Một giá đồng thực sự là một sân khấu dân gian đặc thù, một sân khấu tâm linh, một kiểu sân khấu còn ở dạng "nguyên hợp" giữa các yếu tố nghệ thuật và tín ngưỡng...; âm nhạc, hát văn và múa thiêng không thể tách rời nghi lễ nhập hồn. Người trình diễn và người xem như là nghệ sĩ và khán giả vậy. Sự hứng khởi của người xem tác động không nhỏ đến tâm lý người hầu bóng, tạo nên sự giao tiếp đồng cảm vừa tâm linh lại vừa mang tính nghệ thuật. Việc nhân thần hóa và lịch sử hóa các vị Thánh Tứ phủ được phản ánh trong các bài văn chầu kể lai lịch, sự tích liên quan đến các huyền thoại truyền thuyết về cuộc đời, sự nghiệp của các vị tiên hiền... Lòng yêu nước thông qua việc tôn vinh các vị thần đã được tín ngưỡng hóa, linh thiêng hóa. Tín ngưỡng Tứ phủ thông qua đó khẳng định vị thế của mình về phía dân tộc, nhân dân, một thứ chủ nghĩa yêu nước đi vào thế giới tâm linh của con người... Nhiều vị Thánh cũng là các nhân vật lịch sử: Quan lớn Tuần Tranh là danh tướng thời An Dương Vương; Ông Hoàng Bảy là quan triều đình trấn giữ vùng Lào Cai, Yên Bái; Ông Hoàng Mười là quan văn thời Lê trấn giữ vùng Nghệ An... Những vị thần Tứ phủ có cả người các dân tộc vùng cao như Chầu Thác Bờ là phụ nữ Mường; Bà chúa Xứ là phụ nữ Chăm… Điều đó đã khẳng định trong tín ngưỡng Tứ phủ xa xưa người VN đã mang tinh thần đoàn kết, bình đẳng như một nhà, không hề có phân biệt đối xử hay kỳ thị. Hát văn hầu bóng là sinh hoạt văn hóa cộng đồng. Ở đây, yếu tố tín ngưỡng và văn hóa đan quyện vào nhau làm cho người dự cùng lúc đáp ứng được nhu cầu tâm linh và nhu cầu mỹ cảm thông qua hưởng thụ những giá trị văn hóa nghệ thuật của diễn xướng dân gian... Điều đó lý giải vì sao “hầu Thánh” vẫn là sinh hoạt không thể bị loại bỏ khỏi đời sống hiện đại. * Liên hoan Diễn xướng dân gian “Hầu Thánh”: cần "gạn đục khơi trong" Ông Nguyễn Khắc Minh, Trưởng ban quản lý di tích Côn Sơn - Kiếp Bạc cho biết: "Năm nay là năm đầu thực hiện "Đề án Lễ hội" đã được UBND tỉnh Hải Dương phê duyệt nhằm nâng cấp lễ hội này thành Lễ hội quốc gia. Do đó, việc tổ chức thử nghiệm “Festival Hầu Thánh” nhằm khẳng định bản sắc độc đáo của Lễ hội Côn Sơn - Kiếp Bạc. Đồng thời, qua mẫu hình “Hầu Thánh” được tổ chức có bài bản, có hướng dẫn sẽ hạn chế những yếu tố mê tín dị đoan, hạn chế những mặt tiêu cực của nghi lễ này. Phần liên hoan “Hầu Thánh” có sự phối hợp nghiên cứu chỉ đạo của Viện Văn hóa, Bộ Văn hóa-Thông tin. Kịch bản và đạo diễn lễ hội do Viện Văn hóa đảm nhiệm". Theo ông Minh, Lễ hội mùa Thu và những nét mới như vậy chắc chắn thu hút nhiều người quan tâm. Chính vì thế, tại Côn Sơn - Kiếp Bạc, những ngày chính hội, công tác an ninh trật tự được chú ý tăng cường để bảo đảm lễ hội lành mạnh, trang nghiêm... Diễn xướng dân gian “Hầu Thánh” vẫn tồn tại trong dân gian và sẽ sai lầm nếu không có sự quan tâm của cơ quan chức năng. Tổ chức “Liên hoan Hầu Thánh” ở Kiếp Bạc lần này có thể nói là một Liên hoan độc đáo để bảo tồn một di sản phi vật thể; đồng thời "gạn đục khơi trong" làm cho sinh hoạt này lành mạnh, đáp ứng nhu cầu của đời sống xã hội... Theo TTO - TTXVN
  8. Chuyện "cắt tiền duyên" Phoenix được nghe và chứng kiến không ít. Có vô vàn lý do để "cắt tuyền duyên" trong đó cơ bản nhất là để dễ lập gia đình cho những người muộn màng. Thậm chí có nhiều người lập gia đình rồi vẫn đi "cắt tiền duyên" cho hôn nhân được thuận. Cung cách thì mỗi thầy mỗi kiểu. Ngay gần đây không lâu có một cô bạn kể cho Phoenix nghe chuyện gia đình đi "cắt tiền duyên" cho cô ấy vì kiếp trước cô ấy là "con thỏ ngọc của Hằng Nga". Mặc dù không xa lạ với những nguyên do nhưng lý do có vẻ "ngộ nghĩnh" này cũng đã làm Phoenix cười âm ỉ mất 1 tối. (Cười vì thấy có một lý do thú vị chứ không phải là bài bác cô bạn ấy. Nhân nhớ chuyện này, Phoenix post lại một bài báo liên quan. Mời các ACE cùng đọc. Nguồn: http://www.nguoi-viet.com [/font]Chuyện lạ ở Hà Nội: “Ly hôn” với người cõi âm để dễ lấy chồng Monday, August 30, 2004 HÀ NỘI 31-08.- Các báo ở Hà Nội cho biết tại các trung tâm bói toán, lên đồng ở Hà Nội gần đây có hiện tượng khá lạ lùng rất nhiều cô gái xếp hàng dài chờ đợi để làm cuộc ly hôn với người cõi âm, để dễ có người yêu và dễ lấy chồng. Cô đồng người rung rung, tay phải đặt vào ngực, tay trái đặt lên trán, mắt nhắm nghiền, miệng lẩm bẩm. Cô đang nói chuyện với người cõi âm. Hai khách hàng ngồi bên cạnh cô chừng 26-27 tuổi. Hai cô gái váy ngắn công sở ngồi chắp tay thành kính. Ngồi phía ngoài là 4 cô gái khác, trạc tuổi ấy, gương mặt chờ đợi. Trước mặt họ, bàn thờ bày mâm ngũ quả có treo ảnh Phật Bà Quan Âm. Khói hương nghi ngút trong căn phòng tập thể chật hẹp. Bất động một hồi vì bận nói chuyện với người cõi âm, cô thình lình quay sang khách hàng: “Phải cắt tiền duyên thôi nếu em muốn có người yêu và lấy chồng suôn sẻ”. Cô đồng có khuôn mặt xinh đẹp, nổi bật với váy đen áo tím. Cô xoay chân cho đỡ mỏi rồi nhoẻn một nụ cười thấu hiểu: “Gần đây, khách hàng của chị đa số là những cô gái 25-28 tuổi, thậm chí các chàng trai 30 tuổi. Tất cả đều gặp trở ngại trong đường tình yêu, hôn nhân. Nhiều người như thế lắm, nhiều đến mức mà chị chẳng cần hỏi đến thánh thần cũng có thể nhắm mắt mà nói về các em. Không hiểu sao bọn trẻ bây giờ khó lấy chồng lấy vợ. Các em yêu muộn, lười yêu mà nhiều cô xinh đẹp giỏi giang nhưng lại cứ để cho mình già dần”. Khách hàng vẫn thành kính. Cô đã đi 4 bà đồng, 2 nhà ngoại cảm và cả một thầy chuyên tìm mộ liệt sĩ. Ai cũng bảo cô phải cắt tiền duyên. Cô làm ở một công ty dầu khí, tháng kiếm được hơn 3 triệu chỉ đổ tiền vào trang điểm, học khiêu vũ, offline với các chatter, học đến nát bét mấy quyển giáo trình lớp tiếng Anh buổi tối. Trông cô không quá hấp dẫn nhưng cũng duyên dáng, đáng yêu. Vậy mà cô vẫn chưa có mối tình nào trọn vẹn. Cô đồng lại đặt tay phải lên ngực, tay trái lên trán. Người cô vẫn run lên: “Phải cắt tiền duyên, cắt mối tình kiếp trước của em đi. Kiếp trước em có hẹn hò với một người. Hai người đã hẹn thề yêu nhau đến kiếp sau. Nhưng kiếp sau em đầu thai được, còn người ta thì không. Người ta cứ theo em như duyên nợ. Em muốn làm gì, yêu ai đều trượt”. Mặt cô đồng lại đỏ hơn, rung rung. Về sau cô giải thích rằng: “Chị nói chuyện với người cõi âm mất nhiều sinh khí lắm”. Giọng cô ngày một thánh thót. “Trước hết, phải làm một đám cưới âm cho người tiền kiếp của em. Phải dỗ dành nịnh nọt để anh chàng của em đồng ý với đám cưới âm đấy. Anh chàng này có công năng mạnh lắm, lại có chức sắc trong cõi âm. Thế này thì em phải lên phủ Tây Hồ với chị rồi. Phải đăng đàn, làm một lễ thật lớn và cần đến sự giúp đỡ của quan giám sát. Em phải hiểu là cắt tiền duyên giống như một cuộc ly hôn với người cõi âm vậy. Còn chưa ly hôn được em còn chưa yêu được ai, chưa lấy được người nào”. Ðến vị khách hàng thứ 3 mà mối quan tâm lớn nhất vẫn là chuyện tình duyên nhọc nhằn khi muộn tuổi. Lần này thì cô đồng đổi bài: “Em bị một vong nữ đi theo. Người ta theo em cách 2 năm nhân dịp em vào đền. Việc trước tiên của em là đọc kinh đủ 9 ngày. Sau 9 ngày em quay lại đây làm lễ giải hạn. Nếu việc đọc kinh 9 ngày, đủ 9 vía mà thành công thì em làm lễ nhỏ tạ ơn hết khoảng 200 nghìn đồng. Nhưng sau 9 ngày mà vẫn chưa có dấu hiệu chuyển biến, chưa có người bạn trai nào có ý định thực sự đến với em thì phải đăng đàn trên phủ đấy. Tốn kém hơn nhưng làm đi cho nó nhẹ lòng”. Các cô gái văn phòng đồn với nhau rằng: Cô đồng này có tiếng lắm, một năm trở lại đây rất linh, đặc biệt trong vấn đề cắt tiền duyên. Nhà cô ở phòng cuối cùng trong một khu tập thể “cổ kính” nhất Hà thành. Cầu thang vừa tối vừa ẩm thấp. Bác trông xe dưới tầng một vừa chỉ đường vừa cười: “Cô đồng ấy à, mới khự đấy chứ. Chắc khâu quảng cáo của cô ấy tốt”. Lịch làm việc của cô đồng rất chuyên nghiệp. Ai muốn đến phải hẹn trước qua điện thoại. Cứ đợi cô ghi vào sổ, sắp xếp chán rồi mới đến lượt. Cô ngồi lên đồng, điện thoại di động để trước mặt. Chuông đổ liên hồi. Cô dùng một số City phone để giao dịch cho tiện. Cô đang lên đồng, mặt đỏ gay nhưng vẫn quát cô bé con chừng 10 tuổi ở gian ngoài đang nô nghịch hay chạy lên đuổi mèo khi cậu miu quanh quẩn bên điện. Khách của cô, một số lớn là do một ông thầy chấm tử vi trên phố Hàng Trống giới thiệu. Ông bảo: “Ngoài xem số tử vi phải đến cô để cắt âm khí thì mới trọn vẹn được”. Cô thì bảo: “Sau khi cắt âm phải chấm tử vi mới biết được cuộc đời mình ở tầm rộng và xa”. Vậy mà vẫn có rất đông khách hàng trẻ tuổi đến chầu chực ngồi bên cô thành kính đến mù quáng. Họ nghĩ mình được vỗ về, ve vuốt tâm linh. Một lễ cắt tiền duyên cô lấy chừng 2 triệu đồng. Có cô cắt tiền duyên đến 3 lần rồi mà vẫn chưa có người yêu. Tên khách hàng cứ xếp dài bên cạnh quyển danh bạ. Ngày càng đông đảo hơn những cô gái văn phòng đến xếp hàng đợi cô đồng cắt duyên kiếp trước. Quyển sổ những người đã được cô xem thì dày cộp trong đó ghi chi chít tên tuổi nghề nghiệp. Trang nào cũng có ít nhất một khách hàng khai báo nghề nghiệp: Sinh viên. Trong sổ cô đồng ghi cơ man các số điện thoại liên hệ. Bên cạnh đó là danh mục lễ sắm. Một buổi đăng đàn chừng hơn một triệu. Lễ nhỏ thì bốn trăm rưỡi, năm trăm. Tiền công của cô một lần ra phủ là 200 ngàn. Mọi thứ cô đều ghi chi tiết ở sổ: Tổng số là bao nhiêu, đặt trước là thế nào. Một lễ cắt tiền duyên trên dưới 2 triệu, tùy vào âm vận tốt xấu của khách hàng. Khách xem xong thì lên ban đặt “lễ”. “Lễ” nhỏ thì 30 đến 50 nghìn. Khách đặt xong cô đến thắp tuần hương mới, thu “lễ” về... Trong phòng của cô nhiều sách lắm: Lịch vạn niên thực dụng, Chúng ta thoát thai từ đâu, Khoa học nhận dạng, Cảm xạ học thực hành, Can chi thông luận... cả Phụ nữ và ăn chay hay quyển Tự học Hán văn. Cô là thánh thần chắc cũng do con đường tự học...
  9. Nguồn:www.vnmedia.vn Pháp sư" hay người đàn bà... "điên loạn"? Cập nhật lúc 10h16" , ngày 24/10/2007 "Pháp sư" Loan đang nhập hồn (lên đồng) Đức Thánh Trần để ra sức... "phán" về số phận của Phóng viên Vitinfo (PV trong vai người đi xem bói) Tự xem mình là người “cứu thế”, thánh, thần ban cho sức mạnh siêu nhiên, việc trần tường- việc âm biết tận, quyền năng, pháp thuật vô biên… Bà Trần Thị Loan (thôn 2, xã Sa Sơn, huyện Sa Thầy (KonTum) đang khiến nhân dân và chính quyền địa phương bất bình. Phóng viên báo chí đã về địa phương để tìm hiểu sự việc trên… Tự xem mình là người “cứu thế”, thánh, thần ban cho sức mạnh siêu nhiên, việc trần tường- việc âm biết tận, quyền năng, pháp thuật vô biên… Bà Trần Thị Loan (thôn 2, xã Sa Sơn, huyện Sa Thầy (KonTum) đang khiến nhân dân và chính quyền địa phương bất bình. Phóng viên báo chí đã về địa phương để tìm hiểu sự việc trên… Nhận diện… “pháp sư” Loan “Pháp sư” Loan tên thật là Trần Thị Loan, năm nay khoảng 36 tuổi, quê huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. Bà Loan vào KonTum theo diện kinh tế mới năm 1968 cùng với chồng và 2 con. Theo những người quen biết bà Loan thì bà Loan đã có thời gian hành nghề coi bói từ năm 20 tuổi. Vào Sa Sơn tiếp tục làm nông, nhưng cuộc sống của bà Loan cũng không khấm khá gì vì bà vốn tính lười lại hay… “buôn chuyện”. Nhiều người quả quyết rằng, có đôi lúc thần kinh bà Loan không ổn định hình như hoang tưởng. Không ít lần chị ta coi bói, đoán vận cho mọi người, nhưng không ai tin… Mọi việc bắt đầu vào những tháng cuối năm 2006, đầu năm 2007, khi xã Sa Sơn liên tục có 4 người chết (2 người chết vì tai nạn giao thông, 1 người tai biến mạch máu lão, 1 người điện giật). Mặc dù đây là những tai nạn ngoài ý muốn, nhưng đang sẵn dụng tâm truyền bá mê tín dị đoan nhằm thu hút được nhiều người đến xem bói toán, bà Loan đã rêu rao khắp thôn 1, thôn 2 trong xã Sa Sơn rằng: “Nhân danh thánh thần, ta phán rằng: Dân xã Sa Sơn huyện Sa Thầy tỉnh Kon Tum đang bị tà ma từ cõi âm trù úm nên sắp đến thôn 1, thôn 2… sẽ tiếp tục có người chết!”. Chẳng biết lời đoán của “pháp sư” Loan “độc” tới cỡ nào, hay do mâu thuẫn nảy sinh trong gia đình mà Vũ Hữu Kỳ - con trai cả của bà Loan đã… thắt cổ tự vẫn ngay tại nhà. Ấy vậy mà nỗi đau mất con chưa kịp nguôi ngoai thì bà Loan lại tiếp tục lên đồng để biến thành “pháp sư” và phán: “Đức thánh, đức thần chỉ dạy rằng: Do tên, tuổi của đứa con trai ta trùng với bà con trong dòng họ tổ tiên thời vua chúa nên họ đã từ cõi âm trở về bắt nó đi nhằm truyền pháp thuật cho ta giúp dân, cứu cả trần gian này!”. Và như khẳng định lời “tiên đoán” của mình về thế lực ma quỷ đang trù úm nhân dân xã Sa Sơn và với trách nhiệm của nhà… “tiên tri cứu thế” là đánh đuổi tà ma, bà Loan đã lôi kéo được ông Trần Xuân Hải – Thôn trưởng thôn 2 chung tay huy động hơn 130 hộ dân trong thôn, góp mỗi hộ 100.000 đồng nhằm xây dựng miếu thờ Thần Hoàng đánh đuổi tà ma. Chứng kiến hoạt động tuyên truyền mị dân, truyền bá mê tín dị đoan từ nhiều năm qua của bà Loan, ông Phan Thanh Tứ, Hội người cao tuổi xã Sa Sơn bức xúc: “Làm người Việt Nam, ai cũng có truyền thống hiếu đạo thờ cúng tổ tiên, nhưng kiểu cúng bái nhập đồng, nhập bóng, bói toán vận số và việc gom tiền của dân nghèo xây miếu thờ thần thánh là việc làm mê tín dị đoan. Theo cụ Phan Thanh Tứ, dưới sự giúp sức của trưởng thôn Trần Thanh Hải, hầu hết các hộ dân trong thôn 2 đều đã đóng tiền xây miếu thờ thần cho bà Loan. Biết rõ những hoạt động trái pháp luật này, Đảng uỷ, UBND xã Sa Sơn đã nhiều lần yêu cầu bà Loan chấm dứt các hoạt động bói toán, đồng bóng, bác bỏ đơn xin lập miếu thờ thần, hoàn trả lại tiền đóng góp cho người dân. Nhưng, có lẽ, biện pháp xử lý còn quá nhẹ tay của chính quyền địa phương nên hoạt động truyền bá của bà Loan vẫn ngày một phát triển, hoạt động trắng trợn ngay tại nhà… Ông Bùi Xuân Mạnh, Trưởng Công an xã Sa Sơn, cho biết nhiều khi cán bộ xã đến làm việc, bà ta còn ngang ngược la hét, đuổi cán bộ ra khỏi nhà… Mượn thuật “ngoại cảm”, xúc phạm anh linh các liệt sỹ Thuật “lên đồng”, nhập bóng của pháp sư Loan không chỉ dừng lại ở đó. Vào giữa tháng (9/2007), bà Loan lại một phen làm người dân thôn 2 hoảng loạn khi lên đồngvà phán rằng: “Dưới vườn sau và nền chuồng chăn nuôi bò nhà bà có hài cốt các liệt sỹ. Để minh chứng cho những lời phán ấy, cuối tháng (9/2007), bà Loan đã hùng hổ bỏ nhà đi… biệt tăm suốt một tuần liền. Ngay sau khi trở về nhà, bà Loan đã nói với mọi người dân thôn 2 biết rằng, bà đã được ngộ đạo, đồng thời là người duy nhất tại Tây Nguyên có khả năng thiên phú là triệu hồi được các linh hồn tại cõi âm. Để chứng minh khả năng thiên phú ấy, ngày (4-5/10), bà Loan đã thuê người xới tung khu vườn sau và nền chuồng bò nhà mình để tìm hài cốt liệt sỹ. Nhưng, sự thật là thế nào? Ông Ngô Công Phương - Phó chủ tịch UBND xã Sa Sơn, cho biết nhận được tin từ bà con thôn 2, về việc bà Loan đào vườn, nền chuồng bò nhà mình để đào hài cốt liệt sỹ. Chính quyền UBND xã đã cử cán bộ MTTQVN, Hội Cựu Chiến binh cùng xuống hiện trường để chứng kiến. Nhưng, sau khi kiểm tra thực tế tại nhà bà Loan, chúng tôi khẳng định, những lời bà Loan nói là hoàn toàn bịa đặt. Tại hiện trường, không có di vật nào chứng tỏ đó là nơi chôn cất các anh hùng liệt sỹ. Tất cả những gì đào được tại hiện trường trong ngày (5/10/2007), chỉ là một chiếc áo rách cũ mang hiệu Duleted R Italia!. Những việc làm lừa bịp của bà Loan không chỉ dừng lại ở đó. Không biết từ nguồn tin nào hay của chính bà Loan, ngày (9/10/2007), Phòng Nội vụ- LĐ&TB-XH, UBND huyện Sa Thầy đã giới thiệu nhà ngoại cảm Nguyễn Hữu Thuận cùng đoàn ngoại cảm của (Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người) về tận nhà bà Loan để truy tìm 10 bộ hài cốt liệt sỹ! Nhưng, theo ông Bùi Xuân Mạnh Trưởng công an xã thì, khi yêu cầu xuất trình giấy tờ, nhà ngoại cảm Nguyễn Hữu Thuận chỉ đưa ra bản photocopy giấy giới thiệu sô 85/TT của TT nghiên cứu tiềm năng con người do bà Nguyễn Thị Tuyết Mai – Giám đốc TT ký và giấy giới thiệu của phòng nội vụ- LĐ&TB- XH huyện Sa Thầy. Tuy nhiên, là người có mặt suốt quá trình khai quật tại vườn nhà bà Loan, ông ANhíh, Chủ tịch UBMTTQVN xã Sa Sơn nói: Việc cơ quan Quân sự, phòng nội vụ - LĐ&TB - XH huyện Sa Thầy khẳng định khu vực chuồng bò và khu vực vườn sau nhà bà Loan có hố chôn tập thể các liệt sỹ là hoàn toàn vô lý. Điều hiển nhiên, đã là mộ tập thể thì những người hy sinh phải cùng một thời điểm. Thế nhưng, ngày hy sinh của các liệt sỹ (theo thống kê của nhà ngoại cảm Nguyễn Hữu Thuận) được chôn tại đây lại có thời điểm lệch nhau: 1người hy sinh năm 1967, 1 người hy sinh 1968, 1 người 1970, 3 người 1971, 2 người 1972. Vả lại, khi khai quật lên hoàn toàn không có một di vật gì, không có một mảnh xương nào! Thế nhưng, họ cứ lấy từng nắm đất tại hiện trường và cho đấy là: “hài cốt các anh hùng liệt sỹ” khiến nhiều người dân trong xã vô cùng bất bình. Tất cả những việc làm trên đây của bà Loan, rõ ràng là những hoạt động mê tín dị đoan, gây hoang mang bất bình cho nhân dân xã Sa Sơn. (Theo Nguyễn Thanh - Vitinfo)
  10. (tiếp) Ông Hoàng Bơ đang nghe hát. Đoạn nào hay là ông vỗ bộp bộp mấy cái xuống cái gối tựa tay. Rồi đến giá ông Hoàng Bảy. Ông Hoàng Bảy đánh giặc, chết ở Bảo Hà - Lào Cai. Vì thế đền Bảo Hà rất thiêng. Ông Hoàng Bảy áo xanh, nổi tiếng ăn chơi. Vì thế bài hát ca ngợi ông là ca ngợi các thú ăn chơi: chơi gái, chơi cờ bạc, uống trà, uống rượu, hút thuốc phiện. Đến giá này thì điếu thuốc cho đồng thường có tẩm ít thuốc phiện Những tay chơi cờ bạc rất máu xin lộc của ông Hoàng Bảy. Sau đến giá ông Hoàng Mười. Ông này chuyên về văn chương thơ phú thanh tao, văn chầu rất nho nhã bay bướm. Ai cầu công danh học hành thì xin lộc ông này. Ông mặc áo vàng, múa cờ rất dẻo. Ông Hoàng Mười chết ở Nghệ An, thành thần ở đó.
  11. (tiếp) Một canh đồng khác nữa nhá. Ở đây là đồng cậu, tức là nam. Tớ thấy đồng là nam múa hăng hơn đồng nữ, điệu bộ cũng đặc biệt hơn. Cũng là giá Chầu Lục, đồng này nhai trầu, hút thuốc, mắt long lanh rất chi là .... đồng bóng Hết giá Chầu đến giá ông Hoàng. Thường lên ba giá ông Hoàng Bơ, Hoàng Bảy, Hoàng Mười. Giá ông hoàng Bơ. Ông này là ở miền biển cả. Xưa Dương Thái hậu (không biết đời nào) chạy giặc, đem ba con nhảy xuống biển, ông Hoàng Bơ linh ứng. Những người làm ăn về đường sông biển thường xin lộc ông Hoàng này. Ông hoàng Bơ áo trắng. Ông Hoàng Bơ uống rượu, xung quanh phải xúm xít vào che cho ông uống
  12. (tiếp) Chầu Lục phát hoa quả
  13. (tiếp) Tiếp cảnh hầu đồng này. Các giá Chầu đủ loại, có Chầu là người miền núi, lại có cả miền xuôi. Lúc thì mang hoa quả, lúc lại chèo thuyền. Thường lên các giá Chầu Đệ nhị, Chầu Lục, Chầu Bát, Chầu Bé. Chầu Bát hình như là bà nữ tưỡng Bát Nàn của Hai Bà Trưng xưa kia nữa cơ. Giá Chầu bao giờ cũng phát lộc nhiều hơn các giá khác, vì các Chầu thì vui tươi, "dễ tính hơn". Nhạc giá chầu rất vui, nhộn nhịp, không khí sôi động. Dưới đây là cảnh Chầu phát lộc, bằng cách ném tiền ra xung quanh, ai cũng cố vớ lấy một ít. Thường là ném tờ 200-500đồng. Những loại tiền 10 nghìn chỉ đưa cho gia chủ, tiền 50nghìn chỉ đưa cho phụ đồng. (Riêng tớ thì Chầu còn nhằm vào mình mà ném quả, và sai phụ đồng đưa ra hẳn 10 nghìn )
  14. (tiếp) Giá Quan Đệ ngũ Tuần Chanh là giá khá sôi nổi. Quan Tuần Chanh là vị tướng thời vua Hùng 18, đánh giặc ở sông Chanh (???) và các sông khác. Tòan những sự tích kì dị, chẳng hề có trong bất cứ sách sử nào. Quan đệ ngũ múa long đao. (Đây là một canh hầu khác) Hết giá Quan sang giá Chầu. Có Mười chầu, nhưng thường chỉ lên một số giá nhất định. Giá Chầu là vui nhất. Nhạc hát rất vui vẻ, chiêng trống phèng la rầm rĩ, mọi người xung quanh cũng hào hứng. Khi giá Chầu múa, thì xung quanh vỗ tay và khen ngợi kiểu "Lạy chầu, chầu múa đẹp quá" thì đồng càng múa hăng. Chủ yếu thì cũng chỉ là nhún nhảy, múa tay, quay vòng.... Giá Chầu cũng là mặc lòe loẹt nhất. Vì Chầu chủ yếu là miền núi, nên phải mặc như người miền núi, trang trí trên đầu rất cầu kỳ, vấn khăn gấm, cổ, tai đeo hoa, đeo vòng lủng lẳng.... Quá trình thay đổi trang phục cho Chầu. Đầu tiên đội khăn vành dây, mặc xiêm vào Rồi mặc áo, đeo vòng.... Đội khăn mũ, thế là xong
  15. (tiếp) Sau giá Quan Giám sát đến Quan đệ tam Thủy phủ. Ông này là Tam thái tử của vua hồ Động Đình, cai quản vùng sông nước. Giá này múa song kiếm. Sau đó Quan đệ tam nghỉ ngơi, ông hút thuốc, uống rượu, và đặc biệt là phát lộc. Ông lấy hàng tệp tiền để trong cái hộp gỗ trước án thờ, phát cho cơ cánh của mình, cho gia chủ, vài người xung quanh. Một số người ở ngoài đưa vào một đĩa để tiền, ông làm phép bằng cách huơ que hương qua, thế rồi ông thích lấy hết thì lấy, mà thích ban lại cho người kia thì tùy. Có lúc ông không chỉ trả lại cho người ta, mà còn cho thêm tiền người ấy, hoặc cho thêm đồ như thuốc, lon bia,... Nói chung là tùy ông thích làm gì thì làm, người ta được ông nhận cho, làm phép cho là tốt lắm rồi. Những giá Quan bao giờ nhạc cũng hùng tráng. Ở giữa có đoạn quan uống rượu hút thuốc nghe nhạc. Nếu cung văn hát đến đoạn nào hay, ông vỗ gối ba bốn cái, rồi có thể thưởng tiền. Các Quan phát lộc thì thường chỉ phát lộc cho người trong cơ cánh và gia chủ, và chủ yếu là tiền to, không phát lộc ra đến ngoài. Mỗi khi uống rượu (giả vờ hoặc thật, tùy), thì 4 phụ đồng phải xòe quạt ra che xung quanh. Động tác rất dẻo và đẹp. Sau đến giá Quan Khâm sai áo vàng. Bao giờ lúc đầu cũng là dâng nắm hương, rồi cầm một bó hương (đã nhúng dầu sẵn) cháy đùng đùng mà nhảy một lúc, rồi bỏ hương ra nhảy múa thêm một hồi. Giá các Quan nhiều lúc chỉ có nhạc mà không có lời hát. Cuối mỗi giá, lại phủ vải đỏ lên đầu, là lúc thánh xuất ra, để thánh khác nhập vào Một số trong đồ lễ. Đồ lễ cho một giá đồng còn tùy vào số tiền. Thường có các mâm đồ ăn thức uống thông thường. Có mâm đường cát trắng, mâm mì chính, mâm mì ăn liền, mâm bánh ngọt, mâm bánh sữa, mâm hoa quả (nhiều loại), mâm bia lon, mâm nước ngọt, mâm thuốc lá,.... Khi lên Giá nào mà vị thánh ấy có liên quan, thì đồng sẽ lấy đồ ấy ra phát. Chẳng hạn giá các Chầu trên rừng núi thì phát lộc hoa quả, giá các Cô, Cậu trẻ con thì phát bánh ngọt, kẹo, đường trắng, mì chính đồ ăn, giá các Quan thì thuốc, rượu bia, giá ông Hoàng thì bánh.....
  16. (tiếp) trích: QUOTE(mưa @ Mar 4 2006, 05:49 PM)QUOTE(chitto @ Mar 4 2006, 02:28 AM)Một canh đồng ở phủ Giày hạng rẻ nhất là 6 triệu đồng. Hạng cao có thể 60-70, đến cả trăm triệu đồng cũng có. Tức là ai tổ chức? Ai trả tiền? Tiền vào túi ai? Căn cứ vào đâu để chọn đồng? Trả lời của chitto:À, cái này thì lắm chuyện rồi, vì nó mang tính xã hội rất lớn chứ không phải chỉ là tín ngưỡng. Cố nói ngắn gọn thế này: 1. Tổ chức có thể là "Gia chủ", không thể tự lên đồng, tức là những người muốn cầu đồng để xin lộc, giải hạn, cầu làm ăn. Thường là cả một gia đình hoặc tập hợp một số người, bạn cùng buôn bán. Loại này không thể tự lên đồng thì phải mời đồng. Gia chủ phải chịu chi phí hết. Cũng có thể chính Đồng tự tổ chức, tức là tự chi phí. Vì chính Đồng cũng là người làm ăn buôn bán, cầu thánh cầu thần. Cũng có thể con nhang đệ tử của đồng góp lại để cầu. 2. Tiền bỏ ra cho những việc sau: - Cho Nhà đền, khoảng 1/4 - 1/3 số tiền - Thuê cung văn. Mỗi chiếu đồng 2-3 cung văn hoặc hơn, hát càng hay tiền càng nhiều - Mua các đồ cúng lễ để rồi phân phát (rất nhiều thứ, post ảnh sẽ thấy) - Trả cho đồng (nếu không tự mình lên đồng) Đặc biệt quan trọng nhất, là số tiền mà khi nhập đồng, Đồng phân phát, ném ra xung quanh. Khi lên đồng, vào giá nào thì là vị thánh ấy. Vị ấy thích phát lộc cho ai thì phát, không ai dám cản. Lúc đó giá đồng cầm tiền đưa khắp xung quanh, người không quen biết lớ xớ ở ngòai cũng có phần. (Như tớ ở ngòai cũng được mấy chục nghìn). Tất nhiên đồng sẽ phát cho Cơ cánh của mình là chủ yếu, phần gia chủ ít hơn, người ngoài càng ít. Ngòai ra đồng cũng tự phát lộc cho mình rất nhiều. 3. Căn cứ chọn đồng dựa vào sự nổi tiếng của đồng. Nếu ít tiền thì chỉ có thể mời được đồng bình thường, kém lộc. Nhiều tiền mới mời được đồng hay. Cái này người trong nghề mới biết.
  17. (tiếp) Sau 3 giá Mẫu Tam tòa, có thể có giá Bà chúa Thác Bờ. Bà chúa Thác Bờ cũng có thể hiểu là chúa Thượng ngàn, có đền chính là đền Thác Bờ, hiện ở một hòn đảo trong hồ Thác Bà (tháng 4 này đi Yên Bái, sẽ cố ra đó xem sao, người ta nói lên đồng ở Thác Bờ còn hay hơn phủ Giày). Trong lời hát chầu văn, thì Mẫu Đệ nhị còn có ở Đền Sòng, Thanh Hóa nữa. Tiếp đến là 5 giá Quan, gồm các vị Tôn quan, hay Ngũ vị Quan lớn. Những vị này lại lịch huyền bí, chỉ là những thần tích rời rạc mơ hồ. Quan Đệ nhất Thượng thiên, mặc áo đỏ. (Lưu ý là đồng đã thay áo mới rồi, không phải áo hầu Mẫu nữa đâu). Rồi đến giá Quan Đệ nhị Giám Sát. Vị này mặc áo xanh, múa kiếm
  18. (tiếp) Dưới đây bắt đầu là một canh đồng. Tớ cắt từ cảnh quay nên hơi nhỏ, các bác thông cảm. Đoạn sau chụp thì đẹp hơn. Bà đồng này mới thành đồng 3 năm. Giá đồng này khá lớn. Đầu tiên bao giờ cũng là Hầu Tam tòa Thánh Mẫu. Nhưng các vị Mẫu là tối linh thiêng, tối cao cả, nên ở đây cũng chỉ là Hầu bóng, nghĩa là “xa giá” của các Mẫu Đệ nhất, Đệ nhị, Đệ tam chỉ lướt qua đồng, mà không nhập cốt. Do đó đồng phải để nguyên vải đỏ trùm đầu, chỉ đảo người, tay bắt quyết. Tiếng hát của cung văn rất nỉ non, ca ngợi công đức các Mẫu. Đặc biệt là tiếng gõ mõ, tụng kinh, ca ngợi cả cảnh Phật nữa. Vì Mẫu là Thánh, Tiên, Phật. Hai người đàn ông hai bên là phụ đồng, trong cùng cơ cánh. Xem các động tác tay của đồng lúc lên giá Mẫu
  19. Tổng hợp bài viết của chitto - thành viên diễn đàn http://www.langven.com - về chủ đề "hầu đồng". Thông qua những chia sẻ của chitto chúng ta có thể hình dung được một canh đồng trên thực tế khá rõ ràng. Nguồn: http://www.langven.com "Trước tiên, phải nói qua về Tín ngưỡng thờ Mẫu này, là cơ sở của việc lên đồng. Tín ngưỡng này còn rất thô thiển, chưa thể thành một tôn giáo được". Những người tin vào Đồng cốt thường tự hào rằng tín ngưỡng này có từ thời các vua Hùng, và lối hát chầu văn là một sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng có từ thời thượng cổ đó truyền lại. Mặc dù các vị thần thánh của tín ngưỡng này pha trộn rất tạp, của đủ mọi thời đại, không thống nhất mà cũng chẳng hấp dẫn gì (mà tớ sẽ kể ra dưới đây), nhưng theo họ thì “cung cách ứng xử với thần linh” đã có từ rất lâu đời. Trước khi có ý định tìm hiểu sâu hơn về nó, tớ xin liệt kê hệ thống thần thánh chính của tín ngưỡng này. Hệ thống này có 5 bậc chính: Mẫu, Quan, Chầu, Hoàng, Cô Cậu. I - Mẫu: Tức Thánh Mẫu, gồm Tam tòa Thánh mẫu: 1 - Mẫu Đệ nhất Thiên tiên – công chúa Liễu Hạnh. 2 - Mẫu Đệ nhị Thượng Ngàn – công chúa Quế Hoa. 3 - Mẫu Đệ tam Thủy Cung, hay Mẫu Thoải – công chúa Thụy Nương. II - Quan, tức Ngũ vị Tôn quan, hay Vương quan. Năm vị Quan lớn, gồm: 1 - Quan Đệ nhất Thượng thiên. 2 - Quan Đệ nhị Giám sát. 3 - Quan Đệ tam Thủy phủ. 4 - Quan Đệ tứ Khâm sai. 5 - Quan Đệ ngũ Tuần Chanh. III - Chầu. Mười vị Chầu Bà, những người hầu cận của các Mẫu. IV - Hoàng. Tức các ông Hoàng. Có các ông Bơ, ông Hoàng Bảy, ông Hoàng Mười là nổi nhất V - Cô, Cậu. Có đến mười mấy vị, nổi tiếng nhất là cô Bơ, cô Bé, cô Chín, cậu Bơ, cậu Bé,… * Một buổi lên đồng từ đầu đến cuối gọi là một Canh đồng. * Người chủ vị trong lễ lên đồng gọi là Thanh đồng, có thể là nam hoặc nữ. * Khi lên đồng, họ trở thành “Giá” – tức là cái ghế cho Thánh thần ngự vào. * Mỗi lần một vị ngự vào Thanh đồng, gọi là một giá đồng. * Nếu như được các vị ngự vào hẳn, thì đồng có Cốt – có thần của các vị ấy ở trong. Khi ấy Đồng được gọi là Hầu. * Nếu các vị ấy chỉ lướt qua, thì chỉ là Bóng. Vì thế mới có Hầu Quan đệ tứ; Bóng Chầu đệ nhất, tức là Đồng được Quan đệ tứ nhập vào, hoặc Đồng chỉ có bóng của Chầu đệ nhất lướt qua thôi. * Mỗi lễ lên đồng, Thanh đồng có bốn người phụ đồng, tạo thành một Cơ Cánh. Cơ cánh có thể có các cung văn hát chầu văn của riêng cơ cánh, hoặc cung văn của đền phủ (người ta gọi là Nhà đền). Trong Cơ cánh thì 2 phụ đồng bên trên để dâng trà rượu thuốc, hương hoa, thay trang phục, phải rất thành thạo và vất vả, 2 phụ đồng dưới nâng khăn sửa túi, sửa áo, truyền lộc của đồng ra bên ngoài, nhàn rỗi hơn. * Khi Thanh đồng được thánh thần nhập, trở thành Giá đồng, hay Đồng cốt, thì phải ăn mặc như vị thánh thần ấy, hành vi điệu bộ ngôn ngữ cũng phải thế. Người xung quanh cũng gọi đồng như thế. * Dù đồng là nam hay nữ thì khi lên giá Quan, cũng phải mặc đồ tướng, quấn khăn xếp, múa kiếm. Nếu có nói thì xưng là Quan, người xung quanh thì khấn “Lạy Quan”. * Nếu lên giá Chầu, phải mặc đồ đàn bà, cài hoa đeo khuyên tai, xưng là Chầu, xung quanh khấn “Lạy Chầu, Chầu múa đẹp quá”. Đến giá ông Hoàng Bảy thì phải hút thuốc, uống rượu, xưng Ông. Đến giá Cô thì mặc đồ sặc sỡ, và là Cô….. Tối đa thì không biết có bao nhiêu Giá. Thường nói 36 giá đồng, cũng chỉ là một con số ước lệ. Thường một canh đồng chỉ lên khoảng dưới 20 giá đồng. Tuy nhiên có những giá đồng rất lớn, thâu đêm suốt ngày, thì ngoài mấy chục giá truyền thống, còn có các giá riêng, như giá Đức thánh Trần, giá Trần Nguyên Hãn,... Đây là nơi lên đồng trong phủ Vân Cát - phủ Ngoại của phủ Giày. Có một cái sập trước bàn thờ, trên có một cái ngai, chính giữa có một tấm gương. Tấm gương là thứ cốt yếu của lễ lên đồng, để Đồng soi vào đó, cũng như bóng thánh nhập vào. Khi không lên đồng thì tấm gương được phủ vải đỏ. Ảnh dưới là cho các bác thấy kích thước của một chiếu đồng (lúc này người ta ngồi lễ chứ không phải lên đồng). Rất bé. Đồng chỉ nhảy múa trong phạm vi đó thôi. Bốn phụ đồng ngồi bốn góc sập. Gia chủ, người khác ngồi xung quanh. Người có thể lên đồng là người có "căn", có "mệnh", thường là người mà thần kinh, hồn phách (vía) yếu, nên thần thánh mới có thể dễ dàng nhập vào. Khi thần thánh nhập vào, thì hồn phách Thanh đồng sẽ chuyển sang nhập vào cái gương, sau khi thần thánh "xa giá hồi cung" rồi thì hồn phách mới nhập lại thanh đồng. Vì thế cái gương chỉ bỏ vải đỏ khi lên đồng, không thì sợ người thường vía yếu, đi qua nhìn vào đó cũng bị lạc phách. Biểu hiện để có thể lên đồng có nhiều dạng; thường là sau một lần bị điên, bị động kinh, bỗng nói là mình có thánh nhập. Hoặc một người ốm nặng liệt giường liệt chiếu, người nhà hoặc chính mình cầu khấn, bỗng nhiên khỏi bệnh, bảo rằng do thánh thần nhập vào chữa cho. Hoặc là chết hụt, chết đi sống lại, chết lâm sàng sống lại,..., nếu có căn cơ thì xin thánh thần nhập vào, rồi trở thành đồng. Vì thế có cả đồng nam và nữ. Có đồng rất trẻ, mới mười mấy tuổi; cũng có người đến 40-50 tuổi mới thành đồng. Ngoài đời đồng vẫn sống bình thường, chỉ khi lên điện, vào phủ thì mới nhập. Phủ Giày Một canh đồng ở phủ Giày hạng rẻ nhất là 6 triệu đồng. Hạng cao có thể 60-70, đến cả trăm triệu đồng cũng có. Khi lên đồng, đồng thường không nói gì, chỉ hét á á... thôi . Sau có nói thì chỉ nói nhỏ riêng với phụ đồng, người ngoài không nghe được. Khi muốn cho lộc ai thì thông qua phụ đồng, hoặc giơ tay chỉ vào người đó. Phủ Giày có 4 cung. Gọi là Cung, thực ra là các nếp nhà ngang liền sát nhau. Cung Đệ nhất gồm 2 nếp nhà ngang. Trong cùng là "Cung Cấm", một khu vực luôn đóng kín cửa bức bàn. Chỉ người thủ nhang mới có chìa khóa vào. Do có quen biết nên tớ cũng được vào riêng, nhưng không dám chụp ảnh, vì thủ nhang ngồi đó dè chừng. Vào qua cửa phải xịt nước hoa vào tay. Trong đó có 3 pho tượng Mẫu. Ở giữa là Thánh Mẫu Liễu Hạnh, tức Mẫu đệ nhất Thiên thiên, mặc áo đỏ. Bên trái là Mẫu Đệ nhị Thượng Ngàn, mặc áo xanh. Bên phải là Mẫu Thoải, Mẫu Đệ tam Thủy Cung, mặc áo trắng. Các pho tượng không được đẹp lắm, có thể do mới sơn phết lại. Mà trình độ sơn phết lại không thể được như tiền nhân, nên trông các Mẫu không được sinh động cho lắm. Lúc ra được cho một cành lộc, cùng một miếng vải đỏ nhỏ bằng ba ngón tay. Theo tín ngưỡng thì đó là vải cắt từ tấm khăn phủ tượng Mẫu ra. Tất nhiên chả thể có nhiều, nên người ta lấy vải đỏ cúng vái rồi cắt sẵn ra đấy thôi. Liền bên ngoài Cung Cấm là một gian có chiếu đồng. Cả chiếu đồng nữa mới gọi là Cung Đệ nhất. Chiếu đồng này bé nhất trong phủ, nhưng cũng là thiêng nhất, vì gần với Mẫu nhất. Tiếp bên ngoài là Cung đệ nhị, gồm 2 nếp. Nếp trong có 4 tượng nữ quay mặt vào giữa, gọi là Tứ vị chầu Bà. (cách dùng ngôn từ trong Tín ngưỡng Mẫu rất lộn xộn, nửa Hán việt, nửa Việt). Rồi có tượng Vua Cha - tức Ngọc Hoàng Thượng đế, cha của Mẫu Liễu Hạnh. Hai bên có Nam Tào, Bắc Đẩu. Gian bên ngoài nữa có tượng 5 vị tôn quan, mặc áo đỏ, xanh, trắng, vàng, đen theo màu ngũ hành. Bên dưới có một chiếu đồng nữa. Bên ngoài nữa là cung đệ tam, có bàn thờ các ông Hoàng, hai bên có bàn thờ Trần Triều, gồm Hưng Đạo vương và nhị vị Vương cô (con gái Hưng Đạo vương). Cung này không có chiếu đồng. Cung ngoài cùng gồm nếp nhà dài nhất, 7 hay 9 gian gì đó, là ban Công Đồng, tức là đại diện tất cả các thần thánh khác nữa, về tề tựu ở đấy. Cung này cũng có một chiếu đồng. Như vậy toàn phủ Giày có 3 chiếu đồng. Nhiều lúc chiếu trong cùng và ngoài cùng đồng thời lên đồng, nhưng khác nhau về các Giá. Không rõ có lúc nào cả 3 chiếu lên đồng cùng lúc không. Trong một canh đồng, quan trọng nhất là cung văn, chiếm đến 60% hiệu quả. Cung văn hát có hay, gõ phách, gõ nhịp có chuẩn thì đồng mới múa dẻo, người ngoài mới hào hứng. Cung văn ở phủ Giày hàng năm đều phải tổ chức thi, người nào được đủ hạng mới được hầu các canh đồng trong phủ, và cũng tùy hạng mà được trả tiền nhiều hay ít. Cung văn thường có 3 người, một người chơi đàn nguyệt, một người chuyên trống cái, một người phách, trống con, sênh, chiêng nhỏ. Đa phần là nam, nhưng cũng có nữ. Giọng nam hát khi cần thì rất bi hùng, hoặc rất bi ai, uyển chuyển. Cung văn hát cũng phải tùy thanh đồng, đồng là nữ thì cũng nỉ non hơn, đồng là nam thì có phần hào hùng hơn, đập mạnh hơn. Tớ đã đứng cạnh người cung văn đánh trống, vào giá Chầu là giá múa may nhiều nhất, thấy họ đập trống theo đúng nhịp đập của tim, nên có tác dụng rất mạnh. Nó cộng hưởng với nhịp mạch đập, khiến cho mình thấy cũng như muốn nhảy lên. Nói gì đồng lúc đó có nhai trầu, uống trà, rượu, hút thuốc, thậm chí có thuốc phiện, nên càng bị kích động. Đồng lại là người có thần kinh hơi yếu, nên lúc này càng tạo nên cảm giác hưng phấn. Cũng tựa như nghe rock bị kích động, nhưng kích động của nhạc chầu văn biến ảo hơn. Có khoan có nhặt, lên bổng xuống trầm, rất hay. Trong các cung văn, Xuân Hinh thuộc loại hàng đầu. Mỗi canh chầu được trả mấy triệu đồng. Ông này cũng từng lên đồng nhiều rồi. Khi lên đồng, thanh đồng sử dụng một tấm vải đỏ lớn trùm lên đầu, là lúc thánh nhập vào. Sau đó nếu tung tấm vải ra, thì tức là thánh đã nhập vào, và hành động lời nói lúc đó là của thánh. Sau đó đến cuối giá đồng, cung văn hát “Xe loan xa giá hồi cung” thì lại trùm vải đỏ vào, đảo người, bắt quyết. Có thể vị này xuất thì vị khác lại nhập vào. Cứ như thế mấy chục giá đồng. Mỗi khi có vị khác nhập vào, thì lại phải thay trang phục ứng với vị ấy. Phụ đồng sẽ giúp việc bỏ trang phục cũ, mặc trang phục mới. Trang phục thường được chuẩn bị sẵn có thứ tự, mặc vào khá nhanh. Hàng chục tấm áo gấm xếp thành chồng cao đến nửa mét. Cả chục bộ khăn vành dây, khăn xếp, khăn gấm kiểu người Tày, người Thái, mấy hộp khuyên đeo tai, vòng đeo cổ, đeo tay, các loại trâm thoa, hoa cài đầu. Thường đồng sẽ chọn trước sẽ hầu giá vị nào, cung văn biết trước để hát bài cho phù hợp với vị ấy. Các bài hát có khá nhiều, ngoài những bài truyền thống, cung văn được quyền sáng tác thêm cho hoa mỹ, hay ho. Vì thế cùng là văn về một vị, các bài hát chỉ giống nhau ở danh vị, địa phương, công đức, còn cụ thể thì rất biến ảo. (Còn tiếp)
  20. Giới thiệu một số hình ảnh về "hầu đồng" Nguồn: vietnamphoto.com.vn (tiếp) Ảnh hầu đồng, đột bát hương, cắt tiền duyên cho các cô gái khó lấy chồng - Đền Ông Hoàng Mười
  21. Giới thiệu một số hình ảnh về "hầu đồng" Nguồn: vietnamphoto.com.vn Ảnh hầu đồng, đột bát hương, cắt tiền duyên cho các cô gái khó lấy chồng - Đền Ông Hoàng Mười Lên đồng
  22. Nguồn:www.baophutho.org.vn Chân tướng một nhà "ngoại cảm" PTO- Một anh thợ sửa chữa xe công nông thoắt bỗng trở thành nhà “ngoại cảm”, chuyên đi tìm những ngôi mộ thất lạc. Ba, bốn năm nay, tiếng tăm “ thầy” Thuận ở khu 5 xã Phú Lộc, huyện Phù Ninh nổi như cồn, nhất là từ khi có gia đình nhờ thầy tìm được hài cốt liệt sĩ từ trong Nam chuyển ra Bắc. Thông tin này mở ra nhiều hy vọng cho những gia đình có liệt sĩ hiện phần mộ còn đang mất tích. Tuy vậy, có những điều ngẫu nhiên khó hiểu, là hầu hết hài cốt liệt sĩ mà “ thầy” Thuận tìm thấy đều nằm trong những ngôi mộ ở các nghĩa trang liệt sĩ vô danh phía Nam!? Bài viết này ghi lại lời kể của ông N.V.S, một người từng theo “ thầy” Thuận đi tìm mộ anh rể ở Quảng Trị. BÁN TÍN, BÁN NGHICậu Thuận mới ngoài ba mươi tuổi, cũng chạc tuổi con tôi, lại là hàng xóm nên hoàn cảnh gia đình có lạ gì nhau. Mấy năm trước, cậu ấy mở xưởng sửa chữa xe công nông, cũng đông khách vì tay nghề khá. Rồi nghe tin cậu ấy nổi đồng, chuyên đi tìm mộ thất lạc. Năm 2004, tìm mộ bố cho bà T cùng xã, đào mãi nát cả vườn hàng xóm không thấy, sau phát hiện ra một đám đất màu đen, bảo đó là hài cốt lâu quá bị mủn, bốc đem về chôn cất lại. Cuối năm ngoái, bà N cùng khu với nhà tôi cũng nhờ thầy Thuận tìm mộ chồng là liệt sĩ chống Mĩ. Thầy gọi hồn, thấy hồn bảo mộ thất lạc tận trong Khe Sanh. Đích thân “thầy” Thuận dẫn gia đình đi tìm và thấy ngay ở khu liệt sĩ vô danh nghĩa trang tỉnh Quảng Trị. Anh rể tôi hi sinh năm 1972. Theo lời kể của một đồng đội cũ thì trận địa đơn vị bị máy bay Mĩ ném bom ban đêm, anh từ trong hầm chạy ra báo cho mọi người ẩn nấp thì dính mảnh bom vào đầu, hi sinh tại chỗ. Nơi ấy là làng Vĩnh Phước, không biết thuộc xã nào của huyện Gio Linh- Quảng Trị. Lúc gia đình tôi đặt lễ nhờ “thầy” Thuận tìm giúp mộ anh, “thầy” nhận lễ rồi hẹn ba ngày nữa mới xem được vì đông khách quá. Thì ra ai đến nhờ xem tìm mộ cũng phải chờ như vậy. Thật buồn là hôm đến lượt nhà tôi, chị tôi ngồi ghế đồng nhưng hồn không nhập vào được, mà lại nhập vào một đệ tử của “thầy” Thuận. Tôi đã nghi ngờ cuộc gọi hồn vì thấy “anh” về mà không nhận ra bà chị dâu từ trên huyện Hạ Hoà cùng ngồi trong nhóm người nhà, nhưng khi “thầy” Thuận bảo nhìn thấy anh tôi là người cao lớn, hiện được chôn cất ở một nghĩa trang nhỏ của địa phương nào đó thì chị tôi nhen lên niềm hi vọng tìm thấy chồng. Gia đình tôi quyết định cử 4 người, thuê xe đưa “thầy” Thuận vào Nam tìm mộ. “Thầy” Thuận mang theo hai đệ tử nữ còn khá trẻ, nói vào trong đó họ còn làm thủ tục cúng bái. Xe đến thành phố Việt Trì còn dừng lại hai lần đón thêm hai phụ nữ nữa. Lúc đầu tôi tưởng họ là người đi nhờ xe, hoặc cùng đi tìm mộ, nhưng vào đến Quảng Trị, mới biết họ cũng là con nhang đệ tử theo phụ giúp “thầy”. Cùng đi với chúng tôi, còn có anh V người hàng xóm cũng vào Kon Tum tìm mộ anh trai theo chỉ dẫn của “thầy” Thuận. Nếu vào đến Quảng Trị, tìm được mộ anh rể tôi rồi, “thầy” Thuận tiếp tục đưa anh V vào Kon Tum. Cả quãng đường hơn 700 cây số, ngoài miệng thì trò chuyện, nói cười, nhưng trong lòng chúng tôi thấp thỏm lo lắng, không biết có tìm thấy mộ người thân? THẤT VỌNGThì ra việc tìm mộ anh tôi chẳng có khó khăn gì. Ở nhà “thầy” Thuận nói nhìn thấy mộ anh ở một nghĩa trang địa phương nhỏ nào đó, nhưng vào đến Quảng Trị, lại đưa chúng tôi thẳng đến nghĩa trang tỉnh. Có vẻ như “thầy” Thuận đã đến đây rồi vì thấy bắt tay chào hỏi bác nhân viên quản trang rất thân mật (sau đó bác quản trang nói đã nhìn thấy “ông thầy” này mấy lần đến đây tìm mộ). Khi nhang được thắp lên, “thầy” Thuận “nhập thần” để tìm mộ, hai cô đệ tử đi theo từ ngoài nhà vào cũng nhập đồng múa may, quát tháo loạn cả lên. “Hồn về đến cổng nghĩa trang rồi! Người nhà liệt sĩ đâu! Có ra đón ngay không chết cả bây giờ.” Khổ thân chị tôi người to béo mà phải chạy lên, chạy xuống hang chục bậc thang chỗ đài tưởng niệm, thở muốn đứt hơi. Tôi rất hoang mang vì khi vào cổng nghĩa trang đã thấy một tờ thông báo to đùng dán ở đó cảnh báo mọi người về các nhà “ngoại cảm”, trong đó có nhà ngoại cảm V.B vừa bị công an Quảng Trị tạm giữ vì tội lừa đảo người nhà liệt sĩ trong việc đi tìm mộ. Sau một hồi cầm nhang đi tìm, “thầy” Thuận chỉ một ngôi mộ phía trong nghĩa trang và bảo. “Đây rồi! Người nhà khẩn trương đào lên mang về.” Lời “thầy” nói như đinh đóng cột, củng cố thêm lòng tin của chị gái tôi, rồi “thầy” lên xe đi tìm mộ chỗ khác. Gia đình tôi chuẩn bị lễ lạt thắp hương cho anh rể. Tôi nhìn phía trên mộ, thấy phần bia mộ vừa bị đục đi thì nghi ngờ. Một loạt ngôi mộ xung quanh cũng trong tình trạng bị đục mất bia như vậy. Tôi đi xung quanh tìm người, may gặp một số nhân viên đang sửa sang mộ chí gần đó. Một người đến xem ngôi mộ rồi bảo tôi. “ Tất cả các ngôi mộ ở đây đều có tên cả. Chúng em đang tu sửa lại nên bỏ bia cũ làm bia mới. Gia đình có thể hỏi người quản lí ở đây thì biết ngay.” Anh em quản trang cũng nhiệt tình với chúng tôi, tìm sơ đồ khu mộ, lô số…hàng số…mộ số… “Đây là mộ của liệt sĩ Nguyễn Văn Sơ, quê ở Thái Bình. Có đúng là tên thân nhân của gia đình không?” Chúng tôi bàng hoàng, toát mồ hôi hột. Tí nữa thì nhầm to. Nếu không hỏi lại, tối nay đào lên mang hài cốt về quê thì phiền phức lắm. Lập tức chúng tôi điện thoại di động hỏi “thầy” Thuận. “Sao lại chỉ chúng tôi vào ngôi mộ của người khác? Mộ ấy có tên liệt sĩ ở Thái Bình cơ mà?” “Thầy” Thuận ấp úng một lúc rồi nói. “ Chắc là Thánh thử ta đấy. Thôi! Đợi ngày mai cháu ra sẽ chỉ chỗ cho.” Lại một ngày đêm ăn chực nằm chờ ở nghĩa trang. Hôm sau “thầy” Thuận ra, lại hương khói, lên đồng, dẫn chúng tôi đi lòng vòng một hồi rồi chỉ một ngôi mộ nằm trong khu nghĩa trang của liệt sĩ vô danh. “Chắc chắn là đây rồi!” Thầy khẳng định như vậy, giục chúng tôi khẩn trương đem hài cốt về quê, để lâu không tốt. Rồi lại quày quả ra đi cùng đám đệ tử xinh đẹp. Lần này tôi thận trọng đi dò hỏi những người đang sửa sang nghĩa trang, xem họ có biết những ngôi mộ trong khu vô danh quy tập từ địa phương nào về? Một người bảo. “Toàn là hài cốt các liệt sĩ mới quy tập bên Lào về đó.” Chúng tôi hoàn toàn thất vọng. Anh tôi hi sinh ở làng Vĩnh Phước, Quảng Trị, làm sao lại đưa từ bên Lào về được? Chúng tôi thắp hương, đặt lễ cho tất cả các liệt sĩ xung quanh. Tôi thầm khấn. “Thưa anh em! Tôi cũng là người lính từng chiến đấu ở chiến trường này, nay quay lại tìm người thân. Người ta chỉ anh tôi nằm trong này, nhưng không biết có phải không? Mong anh em thông cảm, lượng thứ cho. Chúng tôi thắp hương tưởng niệm các liệt sĩ chứ không dám nhận mộ vì sợ đụng chạm đến vong linh liệt sĩ khác.” Chúng tôi quay ra Bắc với tâm trạng vô cùng chán nản. Không phải vì tiếc gần chục triệu đồng gồm tiền đặt lễ, tiền xe và lưu trú dọc đường mà do niềm tin bị rơi mất. Hi vọng tìm thấy mộ người thân thế là tan biến. Hai ngày sau anh V cũng từ Kon Tum quay về với vẻ thất vọng. “Thầy” Thuận cũng tìm thấy mộ anh trai V trong một nghĩa trang liệt sĩ vô danh, cũng giục anh khẩn trương mang về, nhưng anh V không dám. Có một người cùng dự trận đánh đêm ở đồn Bàu Chuối Tây Ninh năm 1968 đã chứng kiến anh trai anh V hi sinh như thế nào. Giờ sao có thể quy tập ở Kon Tum, cách Tây Ninh hơn 800km? Thôi thì đành chịu tốn kém vậy, chứ mang hài cốt người khác về, sợ vong hồn anh mình lại tủi. TÔI NGHI NGỜSau khi về nhà tôi còn dự một buổi lên đồng của một lái xe người Việt Trì tại nhà cậu Thuận. Một thánh tướng nhập vào anh ta, hô hét loạn cả lên. “Ta là tướng Việt Nam đây! Ta về đến cầu Việt Trì, các vua Hùng còn phải ra đón cơ mà. Liệt sĩ nào mất tên, ta chỉ cần đạp vào mộ là phải chui lên khai báo tên tuổi ngay. Không chịu lên ta đái vào mộ là nhoi lên tất.” Tôi phì cười vì chuyện vớ vẩn, nhưng bà mẹ cậu Thuận thì chắp tay vái Thánh tướng lia lịa. “Lạy thánh mớ bái! Thế mộ liệt sĩ Hợp có đúng không ạ?” Thánh đỏ mặt quát. “Thằng Hợp (tên liệt sĩ anh trai anh V) là thằng ương bướng. Nó không chịu lên khai tên thì biết tay ta.” “ Lạy thánh! Thế còn trường hợp mộ liệt sĩ Hoàng ạ?” (là tên anh rể tôi) “ Liệt sĩ Hoàng thì đúng rồi! Hi sinh ngày mùng 6 tháng tư. Sao chưa mang về?” Tôi vừa khó chịu vừa buồn cười nghĩ đến câu tục ngữ . “Hòn đất mà biết nói năng…” Tôi không hiểu nhà “ngoại cảm” ở đây sao phải lên đồng nhiều thế? Có bà C đệ tử của cậu Thuận khi lên đồng toàn nói “Bác Hồ nhập vào”???. Cứ theo chỉ dẫn của Bác là tìm thấy liệt sĩ. Khi khách chưa kịp đặt lễ còn giục. “Sao không trả công cho Bác? Bác lấy tiền dương chứ không lấy tiền âm phủ đâu nhé.” Những chuyện đồng cốt nhảm nhí như vậy, lại còn lấy danh nghĩa lãnh tụ, lẽ ra chính quyền địa phương nên can thiệp. Còn chuyện đi tìm mộ của nhà “ngoại cảm” Thuận, bây giờ tôi vẫn tạm gọi như thế, nhưng tôi nghi ngờ khả năng ngoại cảm của cậu bởi các hài cốt liệt sĩ tìm thấy toàn nằm trong các nghĩa trang liệt sĩ vô danh, hoặc vu vơ như trường hợp anh rể tôi. Chỉ một ngôi mộ vô danh nào đó và bảo là mộ ông A, anh B, thật dễ dàng, chỉ cần chịu khó đi thăm một số nghĩa trang liệt sĩ hoặc có một số “chân rết” tại nơi có nghĩa trang là có thể chỉ ra được. Tôi đã gặp một cô gái ở nghĩa trang Quảng Trị và được cô ta giới thiệu về khả năng tìm mộ của nhà ngoại cảm X ở Hà Nội, lại đưa cả cácvidít của nhà ngoại cảm. Mới đây, cậu Thuận lại đưa một gia đình trong xã đi tìm mộ liệt sĩ và đã tìm thấy ở nghĩa trang liệt sĩ vô danh tỉnh Khánh Hoà!? Người nhà nói hài cốt liệt sĩ vẫn còn và đã mang về nghĩa trang liệt sĩ xã Phú Lộc. Hàng ngày, người dân quanh khu phố vẫn chứng kiến rất đông các thân nhân liệt sĩ từ khắp nơi chầu chực trước nhà “thầy” Thuận để chờ vận may tìm thấy hài cốt người thân.. Sự nghi ngờ dẫn đến nỗi lo lắng trong lòng, dù chỉ là riêng tôi, rằng không biết có bao nhiêu liệt sĩ còn nằm lại đâu đó trên các chiến trường xưa chưa được trở về với gia đình và có bao liệt sĩ bất đắc dĩ phải trở thành cha, chồng, anh của những người xa lạ? Hoàng Thụy
  23. Phoenix có vài lần được nghe kể về chuyện tâm linh xứ Lào, Campuchia và những tác động ảnh hưởng mạnh mẽ của nó với đời sống con người. Nhiều chuyện là người thực, việc thực. Thấy đời sống tâm linh thật phức tạp. Xin giới thiệu bài viết của tác giả Hàn Lệ Nhân về những chuyện tâm linh ở xứ Lào đã được đăng trên trang viendu.com theo sự đồng ý của tác giả. Nguồn: viendu.com Xứ Lào : Kiêng kỵ & Ma Quỉ 1Hàn Lệ Nhân Mỗi người sống lâu năm trên đất Lào dù muốn dù không đều giấu trong tâm linh cùng lúc hai hai niềm tin. Một niềm tin có định nghĩa thoát tục, xa vời : Tôn giáo. Một niềm tin với định nghĩa trần thế, hiện tiền : Dị đoan, mê tín hay tín ngưỡng dân gian. Trên lý thuyết hai niềm tin nầy đã được phân ranh rõ ràng, với hai nội dung, hai hình thức và hai cứu cánh khác nhau. Qua dị đoan, mê tín người Lào cầu tìm hạnh phúc và sức khoẻ, sự an toàn và sự bảo bọc trước mắt và tức khắc cho mỗi cá nhân và cho cộng đồng ; còn qua tôn giáo ( Phật giáo tiểu thừa nói riêng ), ngoài cứu cánh nói trên, họ cầu một giải pháp tạm thời cho các hệ lụy tâm linh trong đời sống hiện tại tức hiện sinh hay hư sinh đồng thời dự phóng một sinh lộ siêu thời gian, ngoài kiếp người tức siêu sinh hay niết bàn. Trên thực tế tại đất nước Lào, hai niềm tin nầy sinh hoạt bổ túc hài hoà, cởi mở tự nhiên trong tâm linh 6 triệu con người, đến nổi chính họ, trong đời sống hàng ngày hay trong các dịp lễ lạc, hầu như không còn băn khoăn bóc tách giữa niềm tin tôn giáo ( thứ Phụt = thờ Phật ) hay niềm tin dị đoan ( thứ Phí = thờ Ma ). Có thể khẳng định mà không sợ lầm lẫn rằng hai niềm tin nầy trên đất Lào có một mối tương quan kỳ lạ tạo nên một cấu trúc tín ngưỡng đặc thù cho đại thể dân tộc Lào (1). Các dịp lễ có tính cách dị đoan như Bun Bang Phay ( Hội pháo thăng thiên, lễ cầu mưa ), Bun Suồng Hưa ( Hội nước, lễ đua thuyền ) … vẫn được tập họp, tổ chức trong chùa ; đa số các vị chủ lễ các nghi lễ chính thức về Phí ( thần, ma …) đều thuộc thành phần phật tử thuần thành : Trước 1975, vua Lào vừa là người bảo vệ giềng mối quốc giáo là Phật Giáo Lào ( Theravada = tiểu thừa hay nguyên thủy ) vừa là người trách nhiệm mọi tế tự đối với các Phí hộ trì cho vương triều ; trong chùa vẫn hiện diện các hình thức mang ý nghĩa mê tín ; các biểu tượng Phật giáo và các biểu tượng về Phí vẫn được trình bày, nhang khói trong cùng một hang động được cho là Sắc-sít ( thiêng liêng ) … Do đó, khi bàn về tín ngưỡng của dân tộc Lào thì khó phân định được lằn ranh giữa niềm tin tôn giáo và niềm tin dị đoan, nói rõ là giữa Phật giáo Lào và thế giới thần linh hay Linh Hồn giáo. Khó phân định được lằn ranh không có nghĩa là có sự hỗn độn trong tín ngưỡng của dân tộc Lào mà, theo thiển ý, hiện tượng nầy hàm ý thức tránh trạng thái độc tôn trong tín ngưỡng, hơn nữa phản ánh thật rõ nét nếp sống và tập quán cũng như vũ trụ quan của họ. Nhưng chủ đích của bài nầy, như tựa đề đã nêu, là hạn chế trong vài tục kiêng cữ ( Kh'lăm ) và Phí ( thần, ma, quỉ ) trên đất Lào - bất kể xuất xứ hay du nhập từ đâu - vốn là niềm tin mà trào lưu tiến hoá khoa học cơ giới cho là dị đoan, mê tín hay niềm tin sai lạc với thiên nhiên, cho nên trong bài nầy Phật giáo Lào và cả Linh Hồn giáo ( đa thần giáo ) chỉ được nhắc tới khi thật cần thiết. Đề tài về hai tín ngưỡng nầy sẽ được triển khai trong một bài riêng. Rất nhiều tục kiêng cữ, cấm kỵ ở Việt Nam đã theo bước các bậc trưởng thượng người Việt di cư qua đất Lào từ những năm 1930, 1945 và cho tới ngày nay ảnh hưởng vẫn nguyên vẹn như ở quê nhà. Tóm lại, trong mỗi người Việt - theo bất cứ chính giáo nào - sinh sống tại Lào nói riêng đều giấu thêm trong hồn, ít nhất, một tín ngưỡng như đã nói trên trong tinh thần " nhập giang tùy khúc, nhập gia tùy tục " với hai danh xưng khác nhau : 1. Tục cấm kỵ, kiêng cữ mang theo từ quê cha đất tổ. 2. Tục kh'lăm của dân tộc bản địa. 1. Vài tục cấm kỵ, kiêng cữ VN trên đất Lào Đầu năm mới : - Người Việt nói chung đều cẩn trọng trong mọi sinh hoạt vì sợ bị " giông ". - Kiêng sự gây gổ, gắt gỏng e gây gổ nhăn nhó suốt năm. - Kiêng quét nhà sợ tiền tài tẩu thoát theo … rác hoặc cả năm làm ăn khó khăn, ít lợi. - Kiêng nói tục, chửi thề vì sợ nói tục, chửi thề quanh năm. - Trước đêm 30 Tết, con nợ phải lo trả nợ trong năm cho hết, còn không phải đi trốn chủ nợ đến giờ giao thừa mới dám trở về nhà vì sợ bị người đòi nợ cả năm. Phần chủ nợ tối 30 Tết phải làm mọi cách để đòi cho hết nợ vì sợ phải đi réo nợ trọn năm. Ca dao có câu " giàu có ba mươi Tết mới hay " là vậy. - Kiêng ăn mặc y phục màu trắng vì màu trắng là màu tang tóc. Đầu năm mặc màu trắng, dùng chữ Chết cho là điềm gở. Vài tục cấm kỵ, kiêng cữ khác : - Kiêng gả chồng cho hai con gái liền vì sợ đứa nầy giành hết lộc của đứa kia. - Người có đại tang tránh đi ăn cưới, e gây điềm xúi quẩy, không may cho cô dâu và chú rể. - Kiêng không cho đàn bà có mang ở nơi khác tới sanh trong nhà mình vì tin rằng Tử lành, Sanh dữ. - Cha mẹ kiêng không theo đưa con gái về nhà chồng. - Kiêng không để người chết ở lộ thiên vì tin rằng chỉ người vô phúc, bất đắc kỳ tử mới chết lộ thiên. Trường hợp ướp và trưng bày xác, người còn chút lương tri đều cho là chuyện quái đản, hao tài tốn của thậm vô duyên, phỉ nhổ phong tục tập quán của tổ tiên. - Khi quàng xác kiêng để cho chó mèo nhảy qua e người chết sống lại và thành quỉ nhập tràng. - Kiêng dùng vật dụng của người chết để lại. - Đánh bạc kiêng bị người khác vịn vai, kiêng ăn đầu vịt, cơm khê, kiêng đàn bà chửa ngồi cạnh … e thua. - Đi chùa kiêng ăn thịt chó. - Kiêng dùng đồ ăn cắp dâng lễ và không được ăn cắp đồ lễ trước khi cúng (điểm nầy phải hỏi lại các đàn anh trong nhóm Mélia tại SV thuở trước). - Kiêng cho trẻ con ăn trứng lộn, ăn cơm cháy … sợ trẻ con học ngu. ( toàn thứ khoái khẩu cả ). - Kiêng cho trẻ con ăn chân gà sợ chúng viết run tay ! ! ! - v.v… 2. Tục Kh'lăm của dân tộc Lào Kh'lăm dịch nguyên nghĩa ra tiếng việt là Kiêng kỵ. Từ ngữ kh'lăm đối với dân tộc Lào mang một ý nghĩa sâu rộng đến nổi chưa một người Lào nào dám tự nhận mình thông suốt, cũng như xưa và nay không một người Lào nào, gồm cả những người cộng sản Lào, dám phủ nhận kh'lăm. Những tục kh'lăm - vốn chỉ được khẩu truyền trong gia tộc, làng bản - thường biến thiên theo không và thời gian : Một sự kiện kh'lăm ở Bắc Lào có thể không kh'lăm ở Nam Lào ; điều kh'lăm hôm qua không còn giá trị hôm nay, điều kh'lăm hôm nay có thể khác hẳn điều kh'lăm ngày mai. Tuy nhiên ta có thể hiểu kh'lăm là một hình thức tự vệ, một sự kiêng kỵ được truyền thừa lại bằng kinh nghiệm và nhân bản bao hàm lợi ích cho chính mỗi cá nhân ; một sự hạn chế tự nguyện trong chính các tự do của mỗi người đối với những hậu quả không hay trong đa số những việc làm và cách hành xử của mình. Không một hình luật Lào nào cấm người bản xứ và ngoại kiều quan sát, nhận định, phê bình kh'lăm cũng như không có hình phạt chế tài cho sự vi phạm tức không tôn trọng kh'lăm, trừ trường hợp sự " không kh'lăm " làm tổn hại đến vật chất, tài sản công và tư nói chung thì đã có luật pháp. Do đâu người Lào kiêng kỵ điều nầy, cấm cản điều kia như thế ? - Sao hôm nay bác không làm việc ? - Kh'lăm ! - Tại sao tôi không thể vô làng ? - Kh'lăm ! - Mời thím ăn thử món nầy. - Cám ơn, kh'lăm… - Chị có thể cho tôi cầm xem món đồ kia không ? - Không được, kh'lăm ! - Anh dùng dầu gì mà tóc anh mướt đẹp thế, cho tôi sờ tí được không ? - Không, kh'lăm ... Kh'lăm ! Kh'lăm ! Cái gì cũng kh'lăm ! Bạn sẽ nổi nóng khi gặp cảnh huống nầy, nhưng sự thật là vậy đó. Giữa người Lào với nhau hoặc giữa người Lào và ngoại kiều sinh sống lâu năm trên đất Lào thì đó là chuyện thường, đôi khi họ còn chọc ghẹo nhau trong niềm thông cảm như sau : " Kh'lăm ? Pạc pàu khen ! Khá lăm ". ( dịch nghĩa: " Kiêng kỵ ? Mồm thổi khèn ! Chân múa ". Khá tiếng Lào có nghĩa là Chân, lăm có nghĩa là Hò nhưng ở đây lại ngụ ý là Múa ). Nói rõ hơn đây là cách chơi chữ bằng cách đọc trại chữ kh'lăm ( một chữ, phải đọc nhanh âm kh' / khă ) thành khá-lăm ( kéo dài âm kh' ra thành chữ Khá rồi đọc chữ Lăm ). - Khi đi qua một làng ( bản ) Lào mà bạn thấy nơi cổng vào làng có một sợi dây kết bằng bông vải giăng ngang hoặc một ký vật, một ký hiệu đặc biệt, tục gọi Tà-léo - tùy địa phương - thì phải hiểu là dân trong làng nầy cấm ( kh'lăm )người lạ vào làng. Thường là vì trong làng đang có trường hợp bệnh lạ hay người chết một cách khó hiểu có thể gây sự truyền nhiễm ; hoặc hôm đó nhằm một ngày kh'lăm của làng. - Khi một người Lào từ chối không ăn một thức ăn nào đó có nghĩa người ấy đã theo lời khuyên của Mó-dà ( thầy lang ) hầu giữ gìn sức khoẻ cho bản thân hoặc món ăn đó thuộc giới cấm của bửu bối phòng thân trên người họ. - Một ngày kh'lăm có thể là một ngày nghỉ ngơi không làm việc, hoặc nhằm một văn-sính ( ngày rằm ). - Khi một người Lào không bằng lòng cho bạn sờ mó một đồ vật của họ, có thể vì món đồ đó là một vật hiếm dễ khơi lòng tham, cũng có thể vì một lý do rất giản dị là đối với người ấy vật kia mang một giá trị tinh thần đặc biệt hoặc món đồ đã được sư sụt môn ( làm phép ) nên không muốn ai khác cầm tới. - Sờ hay vỗ đầu một người Lào (đặc biệt đàn ông ) không những là một kh'lăm mà còn là một sự xúc phạm nặng nề, có thể dẫn tới chuyện ấu đả, đổ máu. Vài tục kh'lăm khác - Kiêng hớt tóc, cạo râu ban đêm. - Kiêng hớt tóc ngày thứ tư vì là ngày Đức Phật thí phát xuất gia, và kiêng gội đầu ngày thứ năm. - Kiêng bò bốn chân trong rừng e cọp đến. - Khi lấy xôi trong típ ( giỏ đựng xôi ) phải nhớ đậy nắp lại. - Luôn luôn chừa lại ít nhất một vắt xôi trong típ, gọi là khoắn típ ( khoắn = viá hay hồn ). - Kiêng cán một nắm xôi ( lớn ) mà phải dùng một tay cầm nắm xôi, tay kia ngắt ra từng vắt nhỏ và mỗi lần ăn bỏ trọn vào miệng. - Kiêng nằm ăn uống e biến thành rắn. - Học trò không được ngồi chỗ cao hơn thầy cô. - Thần dân không được ngồi chỗ cao hơn ông hoàng, bà chúa ( nay là chủ tịch, thủ tướng … ) - Phật tử không được ngồI cao hơn tăng ni. - Vợ không được ngồi chỗ cao hơn chồng. - Vợ chồng không nằm chung giường trong ngày sinh nhật của một trong hai người. - Vợ phải đi ngủ sau chồng, thức dậy trước chồng. - Con cái không được ngồi chỗ cao hơn cha mẹ. - Khi ngủ không được hướng đầu về phía cửa ra vào. - Không được mang người chết vào nhà, dù là thân bằng quyến thuộc. - Không giã cối trống. - Đàn ông không chui qua dây có phơi quần áo đàn bà. - … Ngoài những điều kh'lăm thông thường trên, trong tâm linh người Lào còn điều quan trọng khác, đó là niềm tin vào Phí ( thần, ma, quỉ ). Phí trên đất Lào Người ngoại quốc nói chung, người Việt nói riêng, thường hiểu và dịch một cách đơn giản chữ Phí thành ma quỉ. Ý nghĩa chữ Phí không đơn giản như vậy. Phí theo quan niệm Lào gồm nhiều nghĩa : là yêu ma, quỉ quái, thần thánh, tà tiên, âm binh, âm tướng, oan hồn,uổng tử … và nhiều thứ khác gom lại. Tín ngưỡng dân gian Lào, theo soạn giả, chia thế giới thần linh làm ba cấp : 1. Thiên Sứ như Thén Phra Khun, Thén Tèng, Thén Lổ, Nang Thorani …Thén nghĩa là Trời. 2. Địa Sứ gồm các Phí Hặc Sá như Phí Mương, Phí Bản, Phí Hươn … là các thần tổ tiên hộ trì thôn bản, dân cư, gia tộc. 3. Nhân Sứ gồm các Phí Haài như Phí Pọp, Phí Kong Koi … là các ma quỉ, yêu quái biến thái từ con người trần tục. Tín ngưỡng dân gian nầy thường được gộp chung vào danh xưng Linh Hồn Giáo. Giáo Hội Phật Giáo Lào ( PGL ) không chính thức công nhận Linh Hồn Giáo Lào( LHGL ) như một tôn giáo vì LHGL không có thánh địa, không có giáo chủ, không có giáo lý, giáo luật cố định trên giấy trắng mực đen ; không đề ra một cứu cánh tối thượng hay chân lý sau cùng như PGL , song như đã nói trên, cho tới nay, 2005, LHGL vẫn cọng tồn song hành trong tương dung, hài hoà với tín ngưỡng PGL hệ tiểu thừa vốn là quốc giáo của người Lào từ nhiều thế kỷ, nhưng mãi đến khi giành lại được nền độc lập từ thực dân Pháp và qua bản hiến pháp ngày 11 tháng 5 năm 1947, được tu chính trong tháng 3 năm 1965, PGL mới đưọc hợp hiến thành quốc giáo. Phải chăng sự tương dung, tương kính nầy là hạt nhân hiếm quí mà kết quả cụ thể không thể phủ nhận là sự khác biệt giữa con người Lào và con người ở các quốc gia lân cận mỗi khi có khúc rẻ nghiệt ngả trên con đường Lịch Sử mang danh cách mạng. Phật Giáo Lào - như ở mọi nơi khác - trên phương diện thế tục, tập trung và xuất phát từ chùa và tăng già, biểu tượng tôn kính duy nhất là Đức Phật dưới nhiều hình tướng khác nhau. LHG nói chung thường được thể hiện trong các thôn làng, rải rác theo các hình thức ước lệ như Hó ( miếu ), Thạt ( tháp ), Phu ( núi ), Pà ( rừng ) hoặc Hín Nhày (Tảng Đá ), Tổn Mảy ( gốc cây ) … và Mó Phí , Mó Phon ( phù thủy, ông đạo, pháp sư, bà đồng…) độc lập. Còn tiếp Bài tới : Ma quỉ trên đất lào Chú thích (1) Trong bài nầy, ba từ " dân tộc Lào" là để chỉ định bộ tộc ( Phầu) Lào, 1 trong 68 bộ tộc hiện diện ở Lào. Bộ tộc Lào là bộ tộc đông người nhất và là bộ tộc chủ thể, tương tự người Kinh trong số 54 bộ tộc ở VN. Xem thêm chú thích trong Đặc Trưng bài Đám Cưới Lào Đám Cưới Việt, Bùa Ngải Trên Đất Lào cùng một soạn giả. (còn tiếp_
  24. Xứ Lào : Kiêng Cữ & Ma Quỉ 5 (Hết) Hàn Lệ Nhân Trung tuần tháng Tư năm 1993, nhằm mùa Pimay Lao ( Tết Lào ) tôi về lại Lào nhân chuyến công tác thiện nguyện cho Hội Học Đường Không Biên Giới ( Ecoles Sans Frontière ) và đã được nhìn tận mắt một cảnh lạ tại Ban That, cách Savannakhet 15 cây số, nơi tọa lạc tháp IngHang nổi tiếng, trong đó, theo truyền thuyết có lưu giữ xá lợi của Đức Phật là một sợi tóc. Cảnh lạ đó là một gốc dứa ( thơm / khóm ) lại kết được những hăm mốt ( 21) trái ! Con rể chủ vườn là người Việt, em trai của một người bạn cũ nay đã qua đời. Lần thứ nhất tôi theo gia đình ra xem, chùm dứa 21 trái, mỗi trái to cở nắm tay người lớn. Thâm tâm tôi thắc mắc nhưng chưa dám mạo muội kiểm chứng. Khách viếng tấp nập. Mỗi đầu người vào xem phải cúng dàng 100 Kịp ( tiền Lào ) để góp phần vào việc tu bổ các chùa trong vùng. Truyền hình Lào có đến thu hình và cho phổ biến khắp nước. Một tuần sau tôi ra xem lại, đi cùng cô bạn học cũ tên L. từ HongKong về thăm nhà, 21 trái dứa đã to hơn chút đỉnh và đã được chủ vườn làm hai vòng hàng rào bao quanh, lại có thêm hương hoa nhang khói nghi ngút, người Lào gọi là Bu-Sa. Mấy tuần sau, xong công tác giảng dạy ở Vientiane, trở lại Savannakhet, tôi và L. ra xem lần nữa. Lần nầy, nhằm thứ hai, chỉ có chúng tôi là khách viếng cảnh lạ nên đánh bạo xin phép chủ vườn cho chui qua hai vòng rào để chụp hình và đếm. Ông ta bảo : " Bò đảy, kh'lăm. Phờn bò hạy " ( Không được, kiêng. Ngài không cho). Chúng tôi năn nỉ mãi, ông ta bèn trả lời : " Thôi được. Đây là một sự kiện hy hữu linh thiêng chưa từng xảy ra ở bất cứ nơi nào. Quí vị từ nước ngoài về đây, âu cũng là một duyên may. Muốn kiểm chứng thì cứ vào gần mà quan sát. Nhưng tôi phải nói trước với quí vị, nếu quí vị hữu phước thì tốt cho quí vị ; nếu quí vị vô phước có chuyện gì xảy ra chúng tôi không chịu trách nhiệm à ". Nói xong, ông ta kính cẩn chấp tay xá chùm dứa một cái. Thấy vậy, hai đứa tôi cũng nghiêm trang làm theo rồi mới thực hiện điều mong muốn. Đúng là một gốc mà có tới 21 trái. Chúng ta nên nhớ là ở Lào, bấy giờ, chưa biết dùng thuốc kích thích trong canh tác. Cho đến nay, mỗi đứa chúng tôi trở lại nơi chốn tạm dung, vẫn bình yên vô sự nhưng thâm tâm cá nhân tôi, tôi vẫn chịu - dù chưa hiểu - lòng tin và hình thức sùng bái của người Lào nói chung, của ông chủ vườn nói riêng, trước một hiện tượng theo lẽ không tự nhiên ( theo khoa học thì là bất thường ) vì trước nay mỗi mùa mỗi gốc dứa chỉ sinh một trái duy nhất. Song dù sao, việc kh'lăm nầy ít ra cũng giữ cho " hiện tượng " được an toàn nẩy nở theo chu kỳ tự nhiên của hoa trái, hơn nữa nhờ đó các chùa quanh vùng cũng nhận được hơn một triệu Kịp công quả từ gia đình ông chủ vườn chân chất. Chỉ tiếc một điều, ông không cho chúng tôi biết chữ Phờn ( Ngài ) trong câu " Phờn bò hạy " ( Ngài không cho ) là ai, nếu là Phí ( Ma ) hay Thê Va Đa ( thần ) thì tên gì ? Hai năm sau tôi lại quay về thăm gia đình, nhắc lại chuyện cây dứa, con rể ông chủ vườn bảo " thì nó chín, rụng dần rồi rã thành đất " ! Tôi tiếc hùi hụi, bảo " sao chú mầy không cho chích thuốc, giữ lại như ...". Nó trả lời " Mô Phật, tụi Thái Lan năn nỉ mua với giá cao, ông cụ đã không bán còn " nổ " cho một trận. Mấy anh học Tây, Mỹ cho lắm vào rồi nhìn cái gì cũng chỉ tính chuyện sinh lợi ..." Thay lời kết Tín ngưỡng vốn muôn hình, nghìn sắc thành thử không riêng gì Lào và các nước lân cận mới còn tồn tại nhiều cái gọi là mê tín, dị đoan. Mà sống trong văn minh khoa học tân tiến cao cũng không bảo đảm việc không có dị đoan, mê tín, nếu không muốn nói rằng con người càng tiên tiến về khoa học vật chất thì niềm tin càng đi xa hơn để giải quyết những ưu tư, thắc mắc, mong muốn còn đọng lại trong tâm giới họ vì bộ óc con người dù thông minh, tinh vi đến đâu cũng chỉ là sản phẩm của vũ trụ, không làm cách chi vượt ra ngoài sự chi phối và giới hạn của thiên nhiên để trở thành tạo vật chủ được, cho nên khoa học, vốn phải dựa trên kết quả thực nghiệm, chẳng bao giờ theo kịp tín ngưỡng vốn chỉ cần một niềm tin, nói chi việc giải quyết được ý thức tín ngưỡng. Đơn cử trường hợp người Âu-Mỹ vốn được chúng ta cho là mẫu mực của văn minh, khoa học cao, thế mà ở đầu thế kỷ XXI nầy họ vẫn giữ nhiều sự kiêng kỵ khó hiểu ; ví dụ họ ghét ( hay thích ) con số 13 : không dùng cơm tối với 13 người ( liên tưởng tới Juda, kẻ bán Chúa ), sợ ngày thứ sáu 13 ( Vendredi 13 ) ; kiêng dùng một que diêm để châm thuốc lá cho ba người, kỵ làm đổ muối xuống đất, kiêng chui qua gầm thang, cữ đặt ổ bánh mì nằm ngửa, v.v... Ngược lại, khi nhặt được một chiếc lá chĩa ba có 4 cánh ( trèfle à 4 feuilles ) họ cho là điềm may mắn ... Tại Âu-Mỹ, bói toán nói chung là một nghề dễ hốt bạc và hầu như nằm ngoài hay nói cho thật đúng là ngồi trên cái gọi là khủng hoảng kinh tế. Ở Bắc Mỹ người ta biết cựu đệ nhất phu nhân Hoa Kỳ, bà Nancy Reagan, là một người mê tín, đặc biệt bà đã công khai công nhận sự kiện nầy, nhất là chuyện bà rất tin thầy bói để ảnh hưởng tới mọi quyết định của đấng phu quân, cố tổng thống Ronald Reagan. Nhiều nguyên thủ quốc gia bên châu Mỹ la-tinh vẫn thường tham khảo, tìm lời khuyên từ các bốc sư, chẳng hạn cựu tổng thống xứ Pérou, ông Alberto Fujimori ( gốc nhật bản ) đã thú nhận : " Tôi thường hỏi ý kiến một nhà tiên tri tên Carmelli. Bà thầy không nói rõ ra chuyện gì, bà chỉ phán tổng quát, chung chung ... Tôi rán suy đoán rồi đi đến quyết định". Cựu tổng thống Argentine, ông Carlos Menem khoe rằng ông thường hay đi coi bói với chiêm tinh gia tên Hilda Evelia Romanelli, và trong khi tiến hành thủ tục ly dị vợ, ông thường xuyên mời thầy bùa, thầy pháp, cô đồng, bà cốt đến nhà để gỡ ếm, trừ tà. Riêng tại Pháp, các chiêm tinh gia nổi tiếng như quí bà Soleil, Elisabeth Teisseir, Yaguel Didier, Catherine Aubier ... và quí ông như Didier Derlich ( đã qua đời ), Claude Naisse, Marcel Picard ... đều có cuộc sống vật chất cấp triệu phú trở lên, có lẽ nhờ một số đông tín hữu thuộc tầng lớp " chăn dân " ( tổng thống, bộ trưởng, dân biểu), các nhà đại tư bản ... mà các bốc sư chỉ mới chịu khui tên một số rất ít. Hầu như mọi tờ tuần báo tại Pháp đều có mục Tử Vi, đôi khi Tử Vi Tây và Tử Vi Tàu vui vẻ cọng tồn song hành trong một tờ báo, chưa kể cả chục nguyệt san chuyên đề nầy như Astres, Horoscope, Destins... Theo sách LaVoyance của ông bà Joseph và Annick Dessuard thì hiện nay nước Pháp có khoảng 40.000 bác sĩ tổng quát đang hành nghề, so với 30.000 bốc sư đủ loại ( thiên văn, lịch phổ, bói toán, thuật số v.v... ; riêng thủ đô ánh sáng Paris có trên 240 bốc sư gieo quẻ " cách diện " qua mạng Minitel hay Internet và, từ 1986, một công ty nặc danh ( Société Anonyme ) có chi nhánh tại Cannes, tại Nice, chuyên " thuật số " qua điện thoại hay các mạng mới nói trên với con số thu hoạch khai báo chính thức với sở thuế vụ là ...10 triệu francs ( 1,6 triệu Euros ) trong năm 1993 ! Đó là công ty Divinitel SA của ông Claude Naisse, tọa lạc tại số 85 Rue de Rivoli 75002 Paris. Theo tạp chí Challenger số 77 ( 01/1994 ) : Sinh thời tổng thống Pháp, ông François Mittérand, là một tín chủ của các bốc sư bên Cận Đông. Câu hỏi ông nầy thường tham khảo các bốc sư là : " Tôi nên chọn ngày nào để nói với quốc dân Pháp hầu được họ hiểu rõ ?". Trong cuộc chiến vùng vịnh lần thứ nhất năm 1991, tại sao ông Mittérand đã cương quyết chọn ngày 09/01/1991 để nói với dân Pháp về những đe dọa của Saddam Hussein ? - Ấy vì một trong các bốc sư ruột của ông đã bật đèn xanh cho ông ta đấy. Và trong khi ông Mittérand đi cầu thầy bói tận bên các xứ Ả-rập thì đương kim quốc vương Juan Carlos của xứ Tây Ban Nha, từ 25 năm nay, lại thường xuyên xem bói bằng thư với bà Elisabeth Teisseir của xứ Pháp ! Thật là Bụt nhà không thiêng ! Ngoài ra mấy vị cấp lãnh đạo nước Pháp như Valéry Giscard d'Estaing, Jacques Chirac, Edith Cresson, Jack Lang, Robert Badinter ... cũng là thân chủ của chiêm tinh bói toán. Theo các chiêm tinh gia hay bốc sư nổi tiếng tại Pháp, mỗi lần có cuộc bầu cử, 1 trên 2 dân biểu ( ứng cử viên ) cầu đến tài năng gieo quẻ của họ. Trong cuốn Tự Do trong Lưu Đày, đương kim Đức Đạt Lai Lạt Ma kể lại chính ông từng tham dự nhiều cuộc lên đồng, gieo quẻ. Chẳng hạn việc ông quyết định tị nạn qua Ấn độ cũng do cậu đồng chỉ đường vạch lối. Tôi tâm đắc nhất khi ông bảo " Con người khi cùng đường, thường cầu đến thần linh ... Còn thần linh khi cùng đường thì hay ... nói láo " ! Trên đây là những tín hữu thuộc giới chính trị, vậy trong giới khoa học kỹ thuật thì sao ? 1. Hãng xe hơi Citroën của Pháp, khi tung xe Citroën AX qua thị trường Thụy Sĩ đã nhờ bà Elisabeth Teisseir (E.T.) " thuyết trình " trước 500 khán thính giả về đề tài " các cơ may thành công " của ... AX. 2. Văn phòng quảng cáo của hãng nước hoa Lancôme trứ danh cũng nhờ bà E.T. gieo quẻ trước khi tung nước hoa hiệu Sagamore ra thị trường. 3. Tháng 6 năm 1993 : Hãng vi tính nổi tiếng thế giới Hewlett-Packard ( HP, Hoa Kỳ ) đã cầu đến " ánh sáng " của bà Yaguel Didier ( Pháp ) trong một đại hội về hạnh phúc tại Mandelieu-La-Napoule ( gần Cannes, Nam Pháp). 4. Cụ thể là năm 1970, cả thế giới đã bàng hoàng hoảng hốt và đồng loạt tổ chức những buổi lễ cầu nguyện cho các phi hành gia trên phi thuyền Apollo XIII của Mỹ được bình an trở về trái đất. Tại sao ? - Chỉ vì khi được phóng lên mặt trăng, Apollo XIII bị trục trặc máy móc và trong nhất thời những bộ óc khoa học thúc thủ, mất bản năng tự tín phải quay về với tín ngưỡng. ............ Tóm lại, kh'lăm trên đất Lào hay sự húy kỵ, kiêng cữ ở các nơi khác cũng chỉ là hình thức, phản ứng biểu hiện sự băn khoăn, sợ hải của con người đối với thiên nhiên, đối với nguồn gốc của cơ năng vũ trụ mà con người chưa tìm ra đáp số. Trong lúc lần mò truy ra dần dần các đáp số, con người phải lấy căn bản suy tư làm chủ đích cho sự tin tưởng của khối óc làm đường hướng cho ý thức sinh tồn, tức cố gắng duy trì sự hiện hữu của mình trong qui luật của thiên nhiên, mà một trong những kết quả của căn bản suy tư là Tín Ngưỡng ( chính thống hay dân gian ), điểm tựa cuối cùng cho mọi bế tắc. Hàn Lệ Nhân Tài liệu tham khảo chính : Au pays du millions d'éléphants : Le kh'lăm, Katay D. Sasorith, France Asie 107-1956 * Le lotus et le dragon célestre, Serc Voravongsa, bản thảo 1985 * Dictionnaire Lao-Français, T1 & T2, Marc Reinhorn , CNRS 1970 * VatChaNaNouKom Lao, BQGGD-VQAL, 2505 * Vatchananoukom Phasa Lao, Thongkham Onmanysone, VT 1992 * Paphéni Lao, Anada Thera * Superstition laotienne, Bourlet A., Missions catholiques N° 38-1906 - Superstitions laotiennes, Excoffon, P. BSME 1923-2 * Les génies dans la péninsule indochinoise, P.B. Laffont, BEFEO, tV-2, 1942 * Le Phi Kong Koy, Levy B. PRL * Paphéni bouran, Maha Sila Viravong, VT 1958 * Les sorciers au Laos, Vô Danh * Le code des bons usages, Pierre S. Nginn * Miami Herald 7/93 * Le langage Secret des tarots ( nxb Tchou ) và Le tarot ( nxb Albin Michel * La Voyance ( loại sách Que Sais-je ? ), J.A. dessuard * Challenger số 77, 01/1994 *
  25. Xứ Lào : Kiêng Cữ & Ma Quỉ 4 (tiếp theo) Hàn Lệ Nhân « Sau nầy anh B kể lại, hình như thầy E đã biết trước sự cầu viện nầy nên khi anh và thầy D đến nhà thầy trong bản K., ông ta đã khăn gói chỉnh tề ngồi nhập định trước bàn thờ trong nhà. Thầy E là Chảo Cham của làng K., đã trên 60, lừng danh khắp tỉnh S. và vùng phụ cận. Từ khi nhậm chức Chảo Cham, cùng lắm thầy mới trực tiếp ra tay và thường có tính cách hổ trợ khi đồng nghiệp gặp địch thủ lợi hại. Đang ăn uống nhồm nhoàm, bổng A ngưng ngang, leo lên giường nằm quay mặt vào tường, trùm mền nằm im. Tôi biết anh B, thầy D đã trở lại và có thể có luôn thầy E, nên chạy ra đón họ vào phòng A. Thầy E đích thân thắp hai ngọn nến, cũng cắm vào hai bên mép đĩa " khai " của thầy D. Chấp tay khấn một hồi lâu, thầy tiến lại gần giường A đang nằm, điềm đạm lên tiếng bằng tiếng Lào : - Thân chào bạn ( sa bai đi sà-hái ). Tôi là Chảo Cham làng K., đến đây thăm bạn. Mọi sự trên đời đều có thể thương lượng, bạn đồng ý chứ. Để tránh mọi sứt mẻ và đổ vở, nhân danh gia chủ, xin bạn cho biết tên và ý muốn, chúng tôi sẽ làm vừa lòng bạn. A không quay lại nhưng đáp : - Đi hỏi con khốn nạn ! - Thế thật sự bạn muốn gì ? - Muốn vật cho nó chết ! - Bạn không thể vô cớ làm hại người ta ... - Ai bảo là vô cớ ? - Thì xin bạn cho biết nguyên cớ. - Đi hỏi con khốn nạn ! - Khoắn ( viá hay hồn ) người ta đã bị bạn hớp rồi, làm sao mà ăn nói. - Tao không nói ! - Bạn nhất định cứng đầu ? - Ừ, bọn mầy làm gì được tao ? Nghe A thách thức, thầy E thọc tay vào bọc vải đeo trên vai, lấy ra một cái khăn rộng đan mắt cáo trông như cái lưới chài cá cỡ nhỏ, một đầu có cột sợi dây, chụp xuống người A, A thét dựng lên, ngồi bật dậy, nhảy xuống giường, qùy xuống lạy như tế sao : - Xin nương tay, xin nương tay ! - Bạn là ai ? Nói mau ! Vừa hét, thầy E kéo tấm lưới phủ lên người A. - Tôi xin nói, tôi xin nói. A lăn dưới đất. Xin lấy tấm lưới ra ... hừ, hừ. Xin lấy nó ra ... - Được. Nhưng giở trò thì đừng trách. Thầy E thu tấm lưới lại. - Tôi là ... Bất ngờ A ré lên cười : - Tao là cha của mấy thằng Mó Phí hôi tanh như mầy ... Thì ra nảy giờ A chỉ đóng kịch, diễu thầy E. Biết bị A chơi khăm, tay trái thầy E tung lưới lên chụp A, tay phải rút ra một cái roi lởm chởm sần sùi : - Thế thì cho mầy nếm mùi " sẹ phra kăm " (1). Thầy E quất túi bụi vào người A. Lần nầy A rú lên đau đớn thật sự, quằn quại co rúm lại như con tôm : - Xin thầy ngừng tay, tôi xin nói ... Thầy E vẫn không ngừng tay. Điểm lạ ở chỗ roi " sẹ phra kăm" vụt mạnh vào người như mưa, mồm rú lên đau đớn thế mà người A không hề bị trầy trụa tí nào. Chắc roi chỉ " đánh " vào con Pọp " trong " người A, chứ thứ roi nầy mà quất vào da thịt người phàm thì còn gì thịt da. - Xin thầy tha mạng, tôi xin nói, tôi xin nói ... A vừa van xin vừa rên xiết : - ... em gái tôi ở trong xóm nầy. Hôm qua nó sang mượn con A một chén nước mắm. Đã không cho mượn nó còn chửi mắng em tôi thậm tệ. Tôi phải trả thù cái nhục nầy ... - Nhưng mầy là ai, từ đâu đến ? Thầy E hỏi và ngừng tay. - Tôi là Thảo F (2), cũng ở trong xóm nầy ... - Láo ! Cả tỉnh S. nầy có bao nhiêu Pọp mà tao không biết. Vừa hét thầy E vừa tung " sẹ phra kăm " quất một cái vào người A. A oằn người đau đớn : - Dạ, tôi là Pọp trong Thảo G, ở tận Mương Phin ... Thảo G chết tôi mới nhập vào em gái nó là Nang H, mới dọn ra S., ở trong xóm nầy. Xin thầy tha mạng. - Mọi việc cũng đã lỡ, mầy hãy " ra " đi. Và phải rời khỏi tỉnh S. về quê cũ mầy ngay. - Ai bảo con A mất dạy ... - Gia chủ sẽ làm lễ tạ lỗi. Thầy E ra hiệu cho thầy D, thầy D liền đưa cho thầy E ly nước lạnh. Nâng ly nước ngang cằm, cũng như thầy D đã làm, thầy E lâm râm niệm chú, thỏi phù một cái vào miệng ly, ra lệnh : - Uống ly nước nầy rồi " ra " ngay ! - Xin cho " ra " bằng đường " trên " ( mồm ). - Không được ! Phải " ra " đường "dưới " . - Tôi không quen ... - Không quen cũng phải " ra " . - Xin thầy ... A năn nỉ. - Đã bảo không được là không được ! - A há mồm uống cạn ly nước phép xong, vội vàng nói : - Xin cho " ra " ngoài nhà cầu. - Cũng không được. Phải " ra " ngay tại đây ! Thình lình A nằm lăn xuống nền nhà, ngất lịm. Váy ướt đẩm. Thầy E thu hồi bửu bối vào trong bọc vải. Tắt nến. Bước ra khỏi phòng, thầy nói : - Việc khó khăn đã được giải quyết. Những gì phải làm sau nầy đã có thầy D đây lo liệu, khỏi cần liên lạc với tôi. Dù sao quí vị hãy nhớ câu nầy : " Hạy đì chày phí, đì chày khôn " ( cho vui lòng ma thì vui lòng người )". Duy có một điều ... Thầy E bỏ lững câu nói. Anh B đưa thầy E về . Thầy E về rồi, thầy D vực nhà tôi lên giường, dặn cứ đểcho nàng ngủ, sáng sớm mai nàng sẽ tỉnh. Bấy giờ đã hơn 10 giờ tối. Gần một tuần sau sức khoẻ nhà tôi mới hoàn toàn hồi phục. Theo lời dặn của thầy E, chúng tôi nhờ thầy D chủ lễ một buổi Bun Hươn ( lễ nhà ), để tạ lỗi cùng Phí Pọp G ( giữ lời hứa của Chảo Cham E ) đồng thời làm su-khoắn ( gọi vía hay gọi hồn ) cho nhà tôi và Pôông khai ( lệ phí trả ơn ) cho thầy D chứ không phải cho thầy E. Đó là luật bất thành văn giữa các Mó Phí. Bà lão hàng xóm người Lào rời khỏi tỉnh S. khi nào không ai hay ». Một thời gian sau mọi người mới hiểu câu nói bỏ lững của Chảo Cham E " duy có một điều ...": Chị A bỏ cờ bạc, tánh tình đằm lại, có lối sống kín đáo hơn ... rồi bỗng dưng trở thành Mó Đù ( thầy bói ). Phòng chị tiếp khách cũng bày biện đầy đủ lễ bộ của một Mó Đù chuyên nghiệp, đặc biệt khi nhập định hành nghề chị dùng tiếng Lào. (Còn tiếp ) Chú thích : (1) Tiếng Lào, Thảo = Ông, anh ...; Nang = Bà, cô ... (2) Đuôi thằn lằn to lớn, loại lưỡng thê động vật - lézard amphibie, tức loại vừa ở dưới nước vừa ở trên cạn.