phoenix

Hội Viên Ưu Tú
  • Số nội dung

    1.107
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    2

Everything posted by phoenix

  1. THƯỜNG THỨC VỀ TỔ TÔM VÀ ĐÁNH CHẮN Tổ Tôm là một trò chơi bài lá dân gian phổ biến của người dân Việt Nam, có lẽ được du nhập từ Trung Quốc. Tên gọi của trò chơi được đọc chệch ra từ chữ "Tụ Tam" nghĩa là hội tụ của ba lại hàng Văn, Vạn và Sách. Trong các ngày lễ, Tết, Tổ Tôm thường được nam giới và người già chơi vì nó có một số luật khá khó, nhiều nước biến hoá, thanh niên và phụ nữ thời xưa ít chơi. Tổ Tôm không phổ biến và bình dân bằng trò chơi Tam Cúc. Do Tổ Tôm khá khó nên người xưa có câu ca dao đề cao Tổ Tôm, nó thể hiện trình độ và cái oai phong của bậc quân tử : Làm trai biết đánh Tổ Tôm Uống chè mạn hảo xem nôm Thuý Kiều Cũng có tài liệu nói rằng Tổ Tôm xuất phát từ Nhật Bản do các hình vẽ đều là hình vẽ theo kiểu của Nhật, theo lối tranh mộc bản (mokuhan) đơn giản và tất cả các nhân vật đều mặc "Kimono" thời Edo (trước khi Nhật hoàng Minh Trị lên ngôi và trị vì 1868-1912), trong số này có 18 hình đàn ông (có 8 người bó chân), 4 hình phụ nữ và 4 hình trẻ em. Các hình cá chép, trái đào, thành, thuyền cũng là những hình ảnh rất Nhật.Bài Tổ Tôm có 120 quân, gồm có 3 hàng Vạn (萬), Văn (文), Sách (索). Các hàng quân này được viết bằng chữ Nho và cách nhận biết 3 hàng quân này theo câu "Vạn vuông, Văn chéo, Sách loằng ngoằng". Bên phải các quân bài có chữ số từ Nhất đến Cửu. Loại quân đặc biệt có tên gọi là Thang Thang, Lão và Chi Chi. Các quân bài đều có hình minh họa, có thể ghi nhớ bằng hình nếu như không thuộc được hết chữ Nho. Bài Tổ Tôm cũng được làm bằng bìa, mặt sau giống hệt nhau để tránh lộ bài. Có hai cách chơi đánh chắn, trong dân gian gọi là Bí tứ : chơi chắn 4 người và Bí ngũ : chơi chắn 5 người. Mục đích của trò chơi này là làm tròn bài thông qua chắn và cạ cùng với việc ăn bài theo giá trị của các hàng quân mà bài của mỗi người có thể tiến tới ù. Trong đánh chắn, bộ bài Tổ Tôm sẽ bị bỏ bớt đi hàng Nhất và hàng Yêu (quân Thang Thang và Lão). Như vậy, bộ bài bây giờ chỉ còn 100 quân, gồm các quân có số Nhị, Tam, Tứ, Ngũ, Lục, Thất, Bát, Cửu (mỗi số đều có 3 hàng Vạn, Văn, Sách, mỗi hàng 4 quân) và Chi Chi (chính là hàng Nhất Văn, có 4 quân). Trong 100 quân có 20 lá bài đỏ (các quân Bát Sách, Bát Vạn, Cửu Sách, Cửu Vạn và Chi Chi) và 80 lá bài trắng (các quân bài còn lại). Một số thuật ngữ Chắn : là hai lá bài giống hệt nhau cả về hàng lẫn số. Ví dụ : hai lá bài lục Vạn tạo thành 1 chắn lục Vạn, hai lá bài thất Sách tạo thành 1 chắn thất Sách. Cạ : là hai lá bài giống nhau về số nhưng khác hàng. Ví dụ : hai lá bài tam Văn và tam Sách tạo thành cạ tam Văn-Sách. Ba đầu : là ba lá bài cùng số nhưng khác hàng. Ví dụ : tam Văn, tam Sách, tam Vạn được gọi là ba đầu tam. Cửa trì: là cửa ở bên tay phải người chơi. Đây là cửa người chơi được ưu tiên khi ăn quân và ù. Tríu: Khi có một người nào đó đánh một quân, mà trên tay người chơi cùng đã có 3 quân cùng tên, cùng số thì người này có quyền lấy lá bài đó về và đánh trả lại một bài khác vào cửa đó. Trong trường hợp này quyền ưu tiên ăn quân ở cửa trì không áp dụng. Thiên khai: trên bài có 4 quân giống nhau. Ăn bòn: từ một chắn trên bài, tách ra, ăn thêm được hai chắn để dưới bài. Trường hợp, ăn thêm một chắn mà ù thì gọi là ù bòn. Lá què : là những lá bài không thể xếp lại với nhau thành chắn hoặc cạ. Tôm: Là một nhóm quân gồm thất văn, tam sách, tam vạn Lèo: là một nhóm quân gồm cửu Vạn, bát Sách, Chi Chi Ù bạch thủ: khi đã có 5 chắn, và ăn thêm được 1 chắn nữa để ù. Với lá bài chờ ù là Chi Chi, thì chỉ được chờ bạch thủ. Có nghĩa là khi ù, tính cả chắn ù, là 6 chắn và còn lại là 4 cạ. Bạch định: là bài không có một quân đỏ nào. Tám đỏ: khi ù, bài có 8 quân màu đỏ. Thập thành: là khi ù, bài ù có 10 chắn. Tôm: Là một nhóm quân gồm thất văn, tam sách, tam vạn. Ù thông: khi ù ván thứ hai liên tiếp. Hoa rơi cửa Phật: là trường hợp khi bài dưới chiếu có một chắn ngũ Vạn hoặc cạ ngũ trong có ngũ Vạn, người chơi lại bốc lên được lá bài nhị Vạn (hình cánh hoa đào) đúng ở cửa trì. Nguyễn Hạnh (St) - tuhai.com.vn
  2. " Chơi Xuân " đã dễ mấy người... Nguyễn Dư Ngày xưa Xuân thắm quê tôi... Mỗi năm hoa đào nở... Khách tha hương chạnh nhớ Tết quê nhà. Nhớ tha thiết muôn vàn hình ảnh, hương vị. Nhớ những mẩu chuyện kỷ niệm của cha mẹ, ông bà kể làm quà cho con cháu. "Ngày xưa Tết đến, làng ta tổ chức hội hè vui chơi. Muôn màu muôn vẻ...". Một vài nét điển hình của hội hè cổ truyền ngày Tết đã được các nghệ sĩ dân gian trình bày cô đọng trong một tấm tranh với bài thơ nôm quen thuộc. Đây là " một bức tranh dân gian làng Hồ, nhan đề Du Xuân Đồ (bức vẽ chơi Xuân) được "chú thích " bằng bốn câu thơ Nôm : Thời bình mở hội Xuân Nô nức quyết xa gần Nhạc dâng ca trong điện Trò thưởng vật ngoài sân " (1). " Từ cảnh vui Xuân ngày Tết của tầng lớp vua quan, quý tộc, xa hoa ăn uống rượu chè, đàn hát phục dịch trong cung điện, đến những trò vui chơi của nhân dân : đánh vật, bắt chạch, đánh bài lấy giải ở ngoài sân đều được phản ánh trong tranh "Du Xuân đồ", kèm theo bốn câu thơ nôm phụ họa ở góc tranh : Thời bình mở hội Xuân ... Trò thưởng vật ngoài sân " (2). "Tranh Du Xuân Đồ vẽ những cảnh vui chơi hội hè gồm có hát ả đào, đánh vật, đánh bài phu. Có bốn câu thơ đề vịnh (...)" (3). Tấm tranh Du Xuân đồ và bài thơ nôm nổi tiếng này được in trong sách Imagerie populaire vietnamiennecủa Maurice Durand (4). Thoạt nhìn tấm tranh, mới đọc bài thơ, khách thưởng lãm thích thú, sảng khoái ... " Bài thơ được minh họa bằng cảnh nhạc công và ca sĩ đang biểu diễn trước mặt hai ông quan ngồi ( uống rượu) ở bàn. Hai ông chủ trì một cuộc thi hát, chấm điểm và trao tặng giải thưởng. Giữa tấm tranh vẽ hai đô vật đang thi đấu. Phía trên bên trái, vẽ hai người đàn ông, có lẽ là hai người dự thi đấu vật, đang thò tay vào một chiếc bị. Bên trên hai người là hàng chữ "Hai ta quyết lấy giải làng". Không biết có phải là chiếc bị dùng để bốc thăm tên đô vật hay là hai người này đang chơi trò chơi gì khác ? Khó mà biết chắc được. Căn cứ vào mấy câu thơ nôm của tranh thì giả thuyết thứ nhất có vẻ thích hợp hơn ". (Pour illustrer ces vers nous voyons un musicien et un chanteur en action devant deux mandarins assis à une table. Ceux - ci sont juges des concours de chants et distribuent les récompenses. Au centre, des lutteurs combattent. En haut à gauche, deux hommes, probablement deux candidats au concours de lutte, plongent leurs mains dans un sac. Au-dessus d'eux sont inscrits les caractères Hai ta quyết lấy giải làng " Nous sommes tous deux décidés à gagner les récompenses du village." Le sac contient-il les noms des adversaires qu'ils vont tirer au sort, ou bien le groupe de ces deux personnages fait-il allusion à un autre jeu, il est difficile d'en décider. La première hypothèse, prenant appui sur les vers inscrits en légende, semble la meilleure interprétation.) (4). Qua mấy lời nhận xét trên đây của Durand thì tấm tranh và bài thơ cũng có điều khó hiểu, cần được xem kỹ hơn ? Giả thuyết thứ nhất của Durand, cho rằng đây là hai đô vật đang bốc thăm, có nhiều điểm không hợp lý. Để ý một chút chúng ta sẽ nhận ra rằng tranh vẽ một chàng trai và một cô gái mặc yếm. Họ quàng vai nhau. Tay chàng trai có vẻ như đang sờ ngực cô gái. Hai người này khó có thể là đô vật được. Hơn thế nữa, câu Hai ta quyết lấy giải làng tỏ rằng họ thuộc về cùng một phe của trò chơi. Để ý một chút thì ai cũng nhận ra đây là một cặp trai gái đang chơi trò "quàng vai bắt chạch ". Durand đã lẫn lộn trò chơi này với trò đánh vật. Điều làm cho Durand lúng túng có lẽ là vì bài thơ nôm chỉ nói đến ca hát, đánh vật, chứ không đả động gì tới trò chơi bắt chạch và đánh bài phu ? Người vẽ đã vẽ thừa hay bài thơ còn thiếu chăng ? Thật ra thì ... không thừa mà cũng chẳng thiếu ! Sở dĩ có chuyện thơ không ăn khớp với tranh là vì tấm Du Xuân đồ của Durand không phải là một tấm tranh được sáng tác theo ý tác giả ban đầu của nó! Nghe như chuyện lạ, bông đùa. Nhưng đúng là chuyện thật. Tranh Du Xuân đồcủa Durand đã được ghép từ hai tấm, tôi tạm gọi là tranh A và tranh B, của bộ sưu tập Henri Oger (5). Bài thơ nôm Du Xuân đồ của tranh A như sau : Thời bình mở hội Xuân Nô nức quyết (a) xa gần Nhạc dâng ca trong điện Trò thưởng cuộc (:rolleyes: ngoài sân Bên dưới bài thơ là câu "Hai ta quyết lấy giải làng". (a) Chữ quyết ( quyết tâm, quyết chí ...) của tiếng Việt luôn đứng trước một động từ, thí dụ : quyết tranh đua lấy giải, quyết học hành đến nơi đến chốn v.v. Chữ quyết không thể đi với một trạng từ chỉ nơi chốn. Cụm từ "quyết xa gần " không có nghĩa. Tôi đoán rằng chữ quyết (bộ băng hay bộ thủy) là do chữ khoái (bộ tâm) bị viết nhầm. (Bộ băng, bộ thủy, bộ tâm đứng, viết gần giống nhau). Chữ khoái được đọc sang chữ nôm thành khắp. " Nô nức khắp xa gần " nghĩa là khắp mọi nơi đều nô nức. Câu thơ vừa đúng văn phạm vừa tả đúng không khí ngày hội, ngày Tết ở thôn quê. Các học giả sau này đều chép là "quyết xa gần", chép đúng cả cái sai, cái vô nghĩa của nguyên bản ! (:rolleyes: Chữ cục (hán việt, nghĩa là một ván cờ, đánh bạc) chuyển sang nôm thành cuộc. Cuộc vừa có nghĩa là một ván, một bàn (chén rượu cuộc cờ, cuộc đỏ đen), vừa có nghĩa là đánh cuộc, một hình thức đánh bạc (miền Nam gọi là đánh cá). "Trò thưởng cuộc ngoài sân" là trò chơi quàng vai bắt chạch, vừa có giải thưởng là bánh pháo treo đầu nhà, vừa là trò vui cho mọi người đánh cuộc với nhau. Cặp trai gái nào mà chả háo hức, tự nhủ phen này "hai ta quyết lấy giải làng". Người ghép tranh Durand đã đổi chữ cuộc thành chữ vật cho hợp với trò đánh vật của tranh B. Thế là dùng câu thơ của trò chơi này gán cho trò chơi khác, nên mới vô tình gây ra tình trạng tranh và thơ không ăn khớp với nhau, khập khiễng khó hiểu. Tranh B ( nửa dưới của tranh Durand, từ đây viết tắt là tranh D) không có tên, vẽ cảnh đánh vật và bốn người đàn bà chơi bài phu, ngồi bốn cửa : Bính Giáp Đinh Ất Mỗi cửa có hai câu thơ nôm trình bày diễn tiến của ván bài. Cửa Giáp : Bán chi không đánh nhất văn Bát văn cầm kết muôn phần © giá cao Cửa Ất : Bài tôi ăn thưởng không thang (d) Lục văn cũng nghĩ kết ngang (e) chẳng cầm Cửa Bính : Tam khôi bắt kiệt (g) tưng bừng Tinh thần đứng dậy (h) tâm trường múa lên Cửa Đinh : Hàng văn làng hãy còn nhiều (i) Cầm chơi một ván đánh liều thử xem © Tranh D : bấyphần. Muôn phần, hay muôn vàn thông dụng và nghĩa rõ hơn là bấy phần. (d) Durand giải thích rằng không thang nghĩa là không có quân thang thang (Mes cartes ne présentent point de thang). Nếu đúng như vậy thì câu thơ sáu chữ được hiểu là "bài của tôi được ăn thưởng vì nhờ không có quân thang thang". Điều này cũng có nghĩa gián tiếp là bài có quân thang thang thì bị phạt hay không được ăn ? Không có quân bài nào lại tai hại đến mức như vậy ! Thực ra thì Durand quên rằng chính ông đã cho biết rằng không thang là tên quân bài thường được gọi là thang thang (6). Cỗ bài tổ tôm, cũng dùng để chơi bài phu, gồm có : - Hàng sách, có các quân không thang hay thang thang, nhất sách ... cửu sách. - Hàng vạn, có các quân bách vạn hay ông lão, nhất vạn ... cửu vạn. - Hàng văn, có các quân bán chi hay chi chi, nhất văn ... cửu văn. Câu thơ trong tranh muốn nói rằng "bài của tôi được ăn thưởng nhờ có quân không thang". Xin mở dấu ngoặc để nói thêm rằng hai tiếng tổ tôm là đọc trại từ Tụ Tam ( ba quân bài để làm thành một phu). Nhân sinh quý thích chí Chẳng gì hơn vui cuộc tụ tam ( Nguyễn Công Trứ, 1778-1859) Bực chăng nhẽ anh hùng khi vị ngộ Như lúc đen chơi cuộc tổ tôm ( Trần Tế Xương, 1869-1906) Tụ Tam biến thành tổ tôm.Tổ tôm là ... Nid de crevettes (6). Ngày xưa người ta "Đố ai biết đâu là tổ con chuồn chuồn", ngày nay có thể thêm" Đố ai biết đâu là tổ con tôm "! (e) Kết ngang : ba quân bài cùng bậc của ba hàng, thí dụ lục văn, lục sách, lục vạn. (g) Tranh B viết chữ hồng ( thần chú bằng tiếng Phạn (Thiều Chửu), như trong câu Úm ma ni bát minh hồng). Chữ hồng âm nôm có thể đọc là hỏng (?). Nhưng bắt hồng hay bắt hỏng đều không hợp nghĩa. Tôi cho rằng đây không phải là chữ hán, người viết dùng một nửa chữ kiện và bộ khẩu để viết chữ nôm kiệt. Quân bài kiệt (hay cạn), tức là quân bài hiếm. " Đánh tổ tôm, nước ăn, nước bốc cũng lắm nước cao, mà được trúng ý mình thì thích chí lắm. Có lúc bốc được những con bài kiệt thì sướng vô cùng, cho nên có câu rằng :"thiên tử bất như tứ vạn" (7). Ù tam khôi ( bài vừa có tôm, vừa có lèo) ăn rất lớn. Chờ quân bài kiệt để được ù tam khôi mà tinh thần nôn nao như chỉ chực đứng dậy, tâm trường bị kích thích tưởng chừng như muốn múa lên ! (h) Tranh D : bắt ngỏ. Chữ ngỏ (nôm) được viết bằng chưõ ngọ (hán việt). Bắt ngỏ nghĩa là làng đánh ra bất cứ quân gì mình cũng ăn được. (i) Tranh D : Mừng bỏ đứng dậy. Ván bài chưa xong, còn đang chờ bắt ngỏ thì làm sao có thể mừng bỏ đứng dậy được ? Hai câu thơ của tranh D ý không thông. (j) Tranh D : còn cầm. Hai câu thơ không hợp vần. Tranh dân gian, đặc biệt là tranh Tết, từ xưa đến nay được nhiều người ưa thích. Các nghệ nhân một mặt phải cố gắng sáng tác tranh mới, mặt khác phải lo phục hồi vốn cổ, khắc lại những tấm ván tranh bị mòn hỏng, để bảo đảm cho dòng tranh được tiếp nối liên tục. Phục hồi vốn cổ là việc làm đáng được biểu dương, cổ vũ nhưng đồng thời nó lại hay gây ra tình trạng "tam sao thất bản", "râu ông nọ cắm cằm bà kia", như trường hợp tấm Du Xuân đồ được nói tới trong bài này. " Chơi Xuân" đã dễ mấy người... biết tranh ? Thói quen tuỳ tiện sửa đổi thơ, thậm chí thay đổi cả bố cục của tranh thường chỉ làm giảm cái hay của thơ, làm mất cái đẹp hài hòa của tranh. Nguyễn Dư (7/11/2000) (1) Trần Quốc Vượng, Hội hè dân gian, Nguyệt San Trăm con, số 8, Canada, 1993. (2) Nguyễn Bá Vân - Chu Quang Trứ, Tranh dân gian Việt Nam, tr. 71, Văn Hóa, 1984. (3) Nguyễn Bá Lăng, Tranh Tết, trong Phong tục Tết Việt Nam và các lân bang, Đông Nam Á, Paris, 1986. (4) Maurice Durand, Imagerie populaire vietnamienne, EFEO, tr. 48, Paris, 1960. (5) Henri Oger,Technique du peuple annamite, Hà Nội, 1912. (6) Pierre Huard, Maurice Durand, Connaissance du Vietnam, tr. 244, EFEO, Paris, 1954. (7) Phan Kế Bính, Việt Nam phong tục, tr. 353, Tổng hợp Đồng Tháp, 1990.
  3. Thú tổ tôm (Nguyễn Công Trứ) Nhân sinh quí thích chí, Cuộc ăn chơi chi hơn thú tụ tam, Tài kinh luân xoay dọc xoay ngang, Cơ điều đạc quân ăn đang đánh. Gọi một tiếng, người đều khởi kính, Dạy ba quân, ai dám chẳng nhường ? Cất nếp lên, bốn mặt khôn đương; Hạ bài xuống, tam khôi chiếm cả! Nay gặp hội quốc gia nhàn hạ, Nghĩ ăn chơi thú nọ cũng hay, Gồm hai văn võ trong tay!
  4. Lúc Phoenix còn bé sống cùng ông bà nội ở phố Huế (Hà nội) rất quen thuộc với thú chơi tổ tôm. Mỗi lần có giỗ hay lễ gì, các cụ trong họ và quen biết từ khắp chốn trong và ven Hà nội (có cả ở Sơn Tây, Thường Tín, Văn Giang, Ninh Bình ...) lại lục tục kéo về từ ngày hôm trước. Bốn chiếc phản vuông rộng đều kín chiếu tổ tôm. Các cụ ăn mặc rất chỉnh tề (áo dài, vấn khăn), thong dong lên phản, vén tà áo, soạn chỗ ngồi, chọn nhà cái rồi thong thả chia bài. Thế nào cũng phải có cơi trầu đồng, khay trà mạn và đĩa chè đỗ đãi làm mồi. Các cụ ngồi từ giờ Tỵ hôm trước, xuyên qua giờ Dậu hôm sau, lúc chiều nhá nhem mới lục tục sắp sửa ra về. Ngoài thủ lễ nhang đèn và thưởng cỗ thì các cụ chỉ miệt mài say mê với mấy bộ bài. Đặc biệt là các cụ chơi rất thong thả, thi thoảng thì reo lên khoái chí hay vỗ đùi đen đét. Phoenix lúc đó hay lon xon bên mép phản hóng hớt. Nhặt những cây chui ngắm nghía mà ngoài hình ra thì chả hiểu nó quy ước cái gì. Cho nên lúc đó thấy các cụ thật thần thông. Ngày ấy và cho đến cả bây giờ không thấy tổ tôm giống như trò bài bạc tý nào. Trái lại nó là thứ logic văn minh và hình như chỉ dành cho những người có đầu óc tư duy giỏi. Thế nên mới có Vạn, Sách, Văn chăng??? Giờ các cụ đã là người năm cũ, về với ông bà tổ tiên. Chả còn mấy ai cả. Cái thời Hà nội bình lặng, thanh tao và nho nhã cũng đã quá xa rồi. Lập topic này lại nhớ về Hà nội với đôi guốc gỗ quai đen lóc cóc trên vỉa hè gạch hình tổ ong. Không gian thanh vắng thật khó xóa mờ. Mấy câu này để tặng các cụ. Giờ không biết ở bên thế giới kia có cơ hội tụ hội Tổ tôm hay không? Nhà thơ Nguyễn Khuyến với bài "Tự trào" : ...Mở miệng nói ra gàn bát Sách Mềm môi chén mãi tít cung Thang Nghĩ mình lại gớm cho mình nhỉ Thế cũng bia xanh cũng bảng vàng Còn nhà thơ Trần Tế Xương : Bực chăng nhẽ anh hùng khi vị ngộ Như lúc đen chơi cuộc tổ tôm Nhà thơ Nguyễn Công Trứ đã viết cả một bài thơ, câu nào cũng có tên một quân bài Tổ tôm, tương truyền là để khất nợ : Thân "bát văn" tôi đã xác vờ. Trong nhà còn biết "bán chi" giờ? Của trời cũng muốn "không thang" bắc, Lộc thánh còn mong "lục sách" chờ. Thiên tử "nhất văn" rồi chẳng thiếu. Nhân sinh "tam vạn" hãy còn thừa. Đã không "nhất sách" kêu chi nữa? "Ông lão" tha cho cũng được nhờ! Tổ tôm tên chữ gọi "hà sào", Ðánh thì không thấp cũng không cao. Ðược thì vơ cả, thua thì chạy, Nào!
  5. :rolleyes: Gõ mấy thứ vào cho diễn đàn vui một tý. Vợ ... chồng Câu chuyện thứ nhất, thứ 2 và .... Câu chuyện 1: Một buổi tối nọ ngườii ta nghe thấy tiếng từ nhà đôi vợ chồng trẻ mới cưới : - Vợ : Từ từ đã anh ... - Chồng :Từ từ là thế nào ? em kêu khẽ thôi! Thôi em cho anh quay lại. Cứ bắt nó dựng đứng thế này thì anh khó nghĩ quá ... - Vợ : Ừ thì nằm ... ÿi! anh lại trật rồi .... - Chồng : Thế ... ngửa mặt lên ... rồi... thôi, kiểu này khó quá. ÿể anh quay lại nhé, cho dễ ... - Vợ : Nhanh lên ... thế, nhét nó vào ... HỪ...HỪ ...!!! - Chồng : Nhưng anh sợ ko vừa ... - Vợ : Cứ nhét vào ... đàn ông gì mà ... - Chồng : Làm sao ?? - Vợ : Thôi, em đi ngủ đây, chơi xếp hình với anh chán bỿỏ xừ.
  6. HÁN ĐẾ BIỆT CHIÊU QUÂN Dương Bé chuyển Soạn giả: Viễn Châu Trình bày: Ngọc Hương & Thanh Hải (TH) Ái khanh ơi, buổi đưa tiễn thêm ngỡ ngàng dạ trẫm, Vạt cẩm bào ướt đẫm lệ quân vương. Nén tim đau khanh cất bước lên đường, Ôm đoạn thảm trẫm ngày thương đêm nhớ (Thơ / NH) Hớn Hồ đôi ngã tình dang dỡ, Duyên kiếp ngàn năm cách biệt rồi. Mấy tiếng tỳ bà bao ngấn lệ, Bên bờ biển thẳm gió chơi vơi. (Vọng vổ / TH) Ái khanh ôi, Nhạn Môn quan chia tay đầy nước mắt, trẫm xót đau như ai cắt đoạn can... tràng. Nhìn mặt khanh, trẫm càng thêm tủi thẹn với chiếc ngai vàng. Mấy thu qua mỏi mòn trong cung lạnh, trẫm để cho nàng vò võ kiếp hồng nhan. Năm canh sầu mộng , sáu khắc tư lương, đốt đỉnh trầm hương soi lại dung nhan gầy héo võ vàng khi nghe tiếng trống sang canh liên hồi khởi điểm. Trẫm đã vô tâm phụ phàng một bông hoa thắm để cho đoá hoa xuân phải rã cánh phai tàn. Khúc nhạc ái ân đã dỡ dang bản Phượng cầu hoàng. Có nhiều đêm trẫm nghe từ xa vọng lại những tiếng tỳ bà réo rắt nỉ non. Trẫm cứ ngỡ đó là nhạc điệu sầu thương của một cung phi đã tàn phai hương sắc, chớ có ngờ đâu đó là tiếng lòng thổn thức của kẻ vô phần sớm lỡ một đời hoạ (NH) Quân vương ơi, xin đừng nói những lời tha thiết, Tiếng ân tình như muối xát dạ Chiêu Quân. Buổi trước kia đã ruồng rẫy một dung nhan, Nay nhắc chuyện đá vàng thêm thẹn tủi. (Thơ / TH) Chia tay duyên thắm hồn tê tái, Nhấp chén ly bôi dạ rã rời. Người ngọc đi rồi ta ở lại, Nỗi niềm tâm sự tỏ cùng aị Đường tơ thôi đã dứt, Đầy vơi lệ cảm hoài. Chiêng trống vang vang sầu viễn cách, Lá vàng ải nhạn gió tung baỵ (Vọng Cổ / TH) Bệ hạ ôi, thần thiếp ra đi hôm nay như chim chiều bạt gió, như hoa trôi bèo dạt ở ven... gành. Duyên kiếp trời xui như một mối tơ mành. Ðã không hưởng nhờ ơn võ lộ mà lại còn chịu tấn cống Hồ bang. Thiếp muốn gượng điểm trang nhưng thêm tủi cùng son phấn thì thôi mượn chiếc tỳ bà chùng dây long phím để dạo lên một bản đoạn ly tình. Bệ hạ ôi, kiếp này duyên đã lỡ, nguyện tái sanh cây lá giao tình. Rồi đây khi thu mãn đông sang, xuân mang về cho ngự uyển một nguồn hương sắc mới, bệ hạ có nhớ đến thiếp thần xin hảy nhìn cánh hoa đào còn cười cợt gió đông để nhớ người cung nữ một đi không trở lại. Chưa được gần bên chín bệ lại phải cống Hồ để trả nợ quân vương. Nợ gì đâu mà lãnh cung mòn mỏi, Duyên gì đâu mà Hồ Hớn đôi đường. (Thơ / TH) Ái khanh ơi, bởi Mao Diên Thọ đem lời sàm tấu Trẫm vô tâm không suy nghĩ cạn cùng (Thơ / NH) Ðày thiếp thần giữa chốn lãnh cung Năm tháng chịu lạnh lùng sương tuyết phủ (Thơ / TH) Nay vận Hán gặp hồi điên đảo Phải đưa khanh tấn cống sang Hồ Cậy nhờ khanh giản cứu một cơ đồ Lòng quá đứt xót xa niềm tủi hận (Nhạc / NH) Nhạn Môn quan, đây ngày chia ly, đây ngày chia lỵ.. Dưới mưa rơi tiếng tỳ bà vắng bóng bê tha Mây nước bao la, chia rẽ tình tạ (Nhạc / TH) Thôi khanh ôi, cơn biến nguy đành rẽ đôi, Duyên đôi ta như khói mây bèo nước trôi. (Nhạc / NH) Tạ non nước tấm thân này có nài bao, Nếu quân vương vẫn nặng tình khi nhớ nhaụ (Thơ / NH) Ban ơn cha yếu mẹ già, Thần hôn quãng dưỡng hải hà nặng mang. (Vọng Cổ / TH) Ái khanh ơi, trao đoá hoa xuân cho một người xa lạ trẫm thấy nghẹn ngào tuôn trong tấc dạ buổi chiạ.. lìa.. Khanh ra đi đâu có hẹn được ngày về. Từ đây lãnh cung vắng tiếng đàn ảo não và muôn đời dứt đoạn nghĩa phu thệ Khanh có oán trách trẫm chăng, trẫm cũng cam lòng nhận chịu.. Khi nhìn khanh đau khổ mà lòng trẫm nát tan như trường giang cuộn sóng ba đào. (Thơ /TH) Trống chiêng giục giã lời ly biệt, Cây cỏ còn đau nỗi đoạn tràng. (Thơ / NH) Một thuở ra đi sầu vạn kiếp, Hoa lòng héo hắt mộng lòng tan. (Thơ / TH) Tỳ bà bặt tiếng tình ly cách, Một dãi sông xanh lệ mấy hàng. Sương khói chiều nay mờ ải vắng , Lệ tình ướt đẫm Nhạn Môn quan. (Vọng Cổ / NH) Quân vương ơi, phút chia ly giọt châu rơi tầm tã trong khi tiếng trống chiêng rộn rã đổ liên... hồi.. Từ đây Hồ Hớn đôi phang vĩnh biệt nhau rồi.. Bến chia ly đượm một màu tang tóc và tiêu điều ải Nhạn Môn quan. Mấy dặm trường đình chứng kiến cảnh ly tan, bệ hạ đối với thiếp thần đã tròn đạo nghĩa.. Kìa sương lam phủ giăng cây cỏ, xin quân vương hãy trỡ lại xe rồng. Từ đây có gặp gỡ nhau chăng, hãy chờ khi nghe tiếng trống điểm tàn canh, lầu tây nghiêng bóng nguyệt, hồn thần thiếp sẽ hiện về trong giấc mộng để giây phút cận kề gần gũi lệnh thiên nhan. Quân vương ơi, hãy lau giòng lệ chia ly, quay mặt đi đừng nhìn theo chiếc thuyền loan từ từ tách bến mà thiếp đây thêm tê tái tâm hồn. Buồm đã căng lên đón gió trùng dương và đưa Chiêu Quân về miền xa lạ, mang theo một tâm sự não nùng với tiếng tơ đồng giữa Nhạn Môn quan. (st)
  7. Anh với em như hai bàn tay vậy Chỉ một bàn làm sao vỗ được em Thế cho nên khi em có giận hờn Có nổi nóng, có ầm nhà cũng tại Bàn tay phải vỗ vào bàn tay trái Bàn tay anh đụng vang tiếng tay em Hai bàn tay hãy thử nghĩ mà xem Cùng nhau san sẻ với nhau đời khó nhọc Hãy giăng dây và cùng nhau đóng cọc Cho vườn hoa xuân nở muôn màu Hãy cùng nhau cầm lấy chiếc gầu Cùng tát cạn bể đông em nhé Phơn phớt trên môi, nụ cười nhỏ bé Bởi vì ta không lớn tiếng bao giờ Ta sợ rằng chỉ một tiếng đơn sơ Có lúc lỡ phá tan ... tình chồng vợ! Hạnh phúc mình như hoa xinh hé mở Hai bàn tay chỉ một lẽ nâng niu. Tay ngày ngày ủ ấm bởi thương yêu. (st&sc)
  8. Nghệ thuật sống hạnh phúc Giá trị nội tâm Muốn được hài lòng, sung sướng, nhiều người làm đủ cách để chiếm hữu được tất cả những gì họ ưa thích hay thèm muốn. Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng như các tu sĩ Phật Giáo khác cho quan niệm này là sai lầm. Sau khi đạt được ham muốn này thì tâm ta lại khởi lên ham muốn khác, lại phải chạy theo nó, và hầu như không bao giờ ta thấy đủ. Cho tới khi chúng ta gặp phải những ham muốn mà mình không thể thỏa mãn... Phương cách tốt hơn để sống hạnh phúc, theo các nhà sư Phật Giáo, đó là biết hài lòng với những gì mình có. Và một nguồn hạnh phúc khác từ nội tâm chúng ta chính là lòng tự tin vào giá trị của nội tâm con người mình. Đạt Lai Lạt Ma lấy kinh nghiệm của ngài làm thí dụ: "Trường hợp tôi, nếu tôi không có tình nhân loại sâu xa, không có khả năng kết bạn mới, thì khi tôi mất nước, phải sống lưu vong, chắc hẳn sẽ rất khó khăn. Khi còn ở xứ Tây Tạng, vì địa vị chính trị, người dân có nhiều kính nể đối với văn phòng Đạt Lai Lạt Ma, và họ thương kính tôi. Nhưng nếu chỉ liên hệ bề ngoài như thế, thì khi tôi mất nước, mọi sự sẽ khó khăn vô cùng. Nhưng trong liên hệ giữa người với người, phải kể tới một nguồn suối của giá trị và phẩm chất khác. Bạn có liên hệ với mọi người vì bạn là một nhân vị trong cộng đồng xã hội. Chúng ta chia sẻ mối dây tương quan đó. Và sự liên hệ đó đủ để làm phát khởi ý thức về giá trị và phẩm cách. Liên hệ đó có thể trở thành một suối nguồn an ủi trong biến động mà bạn mất đi đủ mọi thứ." "Chẳng may trong lịch sử, bạn thấy nhiều đại đế hoặc các ông hoàng trong quá khứ, khi mất ngôi vì biến cố chính trị, họ phải lưu vong, và sau đó, cuộc đời họ không được tốt đẹp nữa. Tôi cho rằng khi không có những tình cảm thân thương và liên hệ với mọi người thì đời sống rất khó khăn." "Thông thường chúng ta thấy có hai loại người. Một là những người rất thành công và giàu có, chung quanh đầy dẫy bà con, thân thuộc. Nếu căn bản giá trị và phẩm hạnh của người đó chỉ thuần vật chất, thì khi nào còn của cải, người đó mới được an ổn. Khi của cải mất đi, người đó sẽ đau khổ vì không còn chỗ nương tựa nào khác. Trái lại, nếu một người có tiền bạc rồi rào, nhưng đồng thời có lòng tốt, biết thương xót và từ bi - tức là có một căn bản giá trị khác. Khi có ý thức về phẩm cách, người đó có một cái neo khiến cho họ không phiền não dù của cải không còn... Theo lập luận này, bạn thấy được giá trị thật sự của lòng tốt và tình thương, trong việc phát triển ý thức tự tin vào giá trị nội tâm mình..." Bản chất thực của con người "Giáo thuyết về "Phật tánh" của đạo Bụt là nguồn gốc của niềm tin vào bản chất thực sự hiền hòa, không gây hấn của loài người. Tuy nhiên, người ta vẫn có thể tiếp nhận quan niệm đó mà không cần phải căn cứ vào thuyết Phật tánh hay Phật tâm. Tôi có niềm tin đó, cũng nhờ vào nhiều luận cứ khác. Tôi nghĩ rằng tình thương yêu và lòng từ bi của con người là điều không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày." "Trước hết, chúng ta hãy nhìn vào cuộc đời mình, từ thuở ấu thơ cho tới lúc chết đi, ta sẽ thấy mình luôn luôn được nuôi dưỡng trong tình thương mến của những người khác. Bắt đầu từ lúc ra đời, hành động đầu tiên là rúc vào bú mẹ hay bú một người khác. Cho bú là một hành động từ bi, không được bú thì chúng ta không thể sống còn. Rõ ràng là vậy. Và hành động cho bú kia không được hoàn hảo nếu như không có liên hệ thân tình giữa hai người. Nếu đứa bé không thấy có ràng buộc, quấn quít vời người cho nó sữa, thì nó cũng không bú được. Và người mẹ cũng vậy, nếu không thương con thì sữa cũng không chảy ra nhiều. Đó là chuyện thực. "Cơ thể chúng ta cũng hình như được cấu tạo để thích hợp với các tình cảm thương yêu, từ ái. Chúng ta đều nhận thấy khi ta bình an, có tình thương và tấm lòng thiện, thì sức khỏe thể chất và tinh thần chúng ta được tốt đẹp hơn. Ngược lại, sự thất vọng, sợ hãi, bứt rứt và giận dữ làm cho sức khỏe ta vị nguy hại." "Chúng ta cũng thấy rõ những cảm xúc thương yêu làm cho tâm ta được thơ thới. Cứ quan sát cảm xúc của mình khi ta được người khác bày tỏ cảm tình nồng ấm thì rõ. Cũng như ta có thể quan sát nội tâm của chính mình, khi ta khởi lên những tình cảm yêu thương. Những cảm xúc hiền hòa và những hành xử thiện lành đưa ta tới cuộc đời hạnh phúc hơn trong gia đình cũng như trong cộng đồng. Vậy thời chúng ta có thể kết luận rằng bản chất tự nhiên của loài người là sự hiền hòa. Và chúng ta nên cố gắng hết mình để sống sao cho thích hợp với bản chất dễ thương, tử tế đó..." Đạt Lai Lạt Ma (St.)
  9. Anh với em như hai bàn tay vậy Chỉ một bàn làm sao vỗ được em Thế cho nên khi em có giận hờn Có nổi nóng, có ầm nhà cũng tại Bàn tay phải vỗ vào bàn tay trái Bàn tay anh đụng vang tiếng tay em Hai bàn tay hãy thử nghĩ mà xem Cùng nhau san sẻ với nhau đời khó nhọc Hãy giăng dây và cùng nhau đóng cọc Cho vườn hoa, xuân nở muôn màu Hãy cùng nhau cầm lấy chiếc gầu Cùng tát cạn bể đông em nhé Phơn phớt trên môi, nụ cười nhỏ bé Bởi vì ta không lớn tiếng bao giờ Ta sợ rằng chỉ một tiếng đơn sơ Có lúc lỡ phá tan ... tình chồng vợ! Hạnh phúc mình như hoa xinh hé mở Hai bàn tay chỉ một lẽ nâng niu. Tay ngày ngày ủ ấm bởi thương yêu. (st&sc)
  10. Phoenix đoán em bé sinh giờ Thìn nên phải hỏi mới xác định được. Năm nay gia đình có chuyện tang ma không (hay là bạn xẩy thai vào năm nay?) Bản thân em bé hay người trong gia đình có được nhận giấy khen hay chứng nhận gì không?
  11. Hi, trường hợp này là Phúc phận tùy duyên đây :)
  12. Chichbong cho hỏi, em bé này nước da, khí chất thế nào? Lúc 3 tuổi có ốm, đau, bệnh gì hay VC có bỏ em bé nào không? Hiện tại em bé có bị vấn đề gì về tiêu hóa không?
  13. <H1 class=documentFirstHeading>Bí ẩn từ di tích bãi đá cổ Nấm Dẩn Những người dân xã Nấm Dẩn bên phiến đá có Nằm chênh vênh trên triền núi cao quanh năm mây phủ, bên những bản người Mông của xã Nấm Dẩn, huyện Xín Mần (Hà Giang) có khu di tích đá cổ chạm khắc các hình vẽ từ cách đây cả nghìn năm.Những người dân xã Nấm Dẩn bên phiến đá có chạm khắc hình vẽ cổ. Khác với di tích đá cổ ở Sa Pa (Lào Cai), bãi đá cổ Nấm Dẩn còn được ít người biết đến nhưng về mức độ tập trung của di tích và vẻ đẹp các hình vẽ cùng những điều bí ẩn quanh các phiến đá thì không kém phần hấp dẫn.Chúng tôi lên khu di tích bãi đá cổ Nấm Dẩn theo trục đường từ huyện Bắc Quang qua đèo Gió đi Xín Mần. Sau trận mưa rừng lớn, dọc con đường núi gồ ghề, khá nhiều dân bản, thanh niên tình nguyện và các đội công nhân giao thông mải miết san lấp những đoạn đường bị sạt lở đất cùng những ổ voi, ổ trâu. Anh Hải, Phó Giám đốc Sở Thương mại - Du lịch Hà Giang nói với chúng tôi: "Biết có đoàn các doanh nghiệp lữ hành lên khảo sát bãi đá cổ Nấm Dẩn, lãnh đạo huyện đã túc trực cả tuần ở những cung đường bị tắc nghẽn do mưa lớn để chỉ đạo, động viên giải tỏa. Cái chính là nhân dân ở đây rất nhiệt tình ủng hộ vì họ mong muốn du khách lên với Xín Mần, với Nấm Dẩn và hiểu những lợi ích mà du lịch sẽ mang lại cho cộng đồng". Mỗi lần xe ô-tô đi qua, nhiều người dân bên đường và công nhân giao thông đều ngẩng lên cười, vẫy tay chào đầy tình cảm và lưu luyến. Anh Hải giải thích, người vùng cao là thế, gặp ai cũng hồ hởi dù mới chỉ gặp lần đầu bởi đất rộng, người thưa, nhìn thấy nhau cũng đã là quý lắm rồi. Ðể lên khu di tích bãi đá Nấm Dẩn có chạm khắc các hình vẽ cổ, đoàn khảo sát đã phải dừng xe ô-tô và làm một cuộc lội bộ băng suối và leo qua một quãng đồi núi chừng khoảng hơn 1.000 m, xuyên qua thung lũng bạt ngàn ngô xanh đang mùa trổ bông. Dọc hai bên đường là một số di tích cự thạch mới được các cán bộ Viện Khảo cổ học Việt Nam phát hiện vào cuối năm 2006 và đầu năm 2007. Theo hướng dẫn của chị Lý, Trưởng phòng Văn hóa - Thông tin huyện Xín Mần, các di tích cự thạch này nằm giữa dãy núi Tây Ðản phía bắc và dãy núi đồi Nấm Dẩn ở phía nam, ngay gần sát với con suối Nậm Khoòng. Suối không lớn nhưng cũng đủ để tạo thành các thác nước nhỏ nhiều ghềnh đá và chảy xiết bởi độ dốc cao với cảnh quan khá đẹp. Nhiều tảng đá trầm tích lớn nằm dọc bờ suối với hình thù đa dạng và độc đáo, có tảng đá như một bàn cờ phẳng, có tảng lại giống tấm phản nằm hay một chiếc ghế ngồi. Mỗi tảng đá đều gắn với những câu chuyện ly kỳ mang dấu ấn tín ngưỡng, thể hiện sự linh nghiệm cầu ứng các đấng thần linh của nhân dân các dân tộc thiểu số trong vùng. Trong số các di tích này có hai tảng đá được gọi là cự thạch (đá lớn) của người tiền sử để lại. Di tích thứ nhất nằm cách bãi đá có hình khắc cổ khoảng 700 m về phía đông, là một tấm đá phiến magma biến chất (gọi là tấm trầm), có hình khối khó xác định, dài từ 2,3 m đến 2,4 m, rộng từ 1 m đến 1,1 m, dày từ 0,35 m đến 0,40 m, bề mặt khá phẳng. Trên bề mặt và ở các rìa cạnh của tấm đá còn giữ nguyên trạng thái phong hóa tự nhiên. Không có dấu vết gia công nhân tạo mà chỉ có sự sắp đặt lại của các cư dân cổ khi xếp chồng tấm đá này lên trên tảng đá lớn bên dưới bằng ba khối đá nhỏ hơn, kê theo hình tam giác. Sự tác động trong sắp đặt cấu trúc các tảng đá theo chủ đích nhất định đã khiến nó phân biệt hẳn với các tảng đá tự nhiên khác. Di tích thứ hai nằm cách di tích thứ nhất 70 m về phía tây với kết cấu, sắp đặt các hòn đá kê bên dưới tương tự như di tích thứ nhất. Chị Lý cho biết, các nhà nghiên cứu của Viện Khảo cổ học và nhiều nhà dân tộc học khi lên đây đã cho rằng, di tích cự thạch Nấm Dẩn là loại hình di tích khảo cổ có niên đại khoảng 2.000 năm và rất hiếm có ở Việt Nam. Loại hình di tích này còn được gọi là Dolmel, một trong những loại hình của văn hóa cự thạch (Megalithic culture), có thể là di tích mộ của thủ lĩnh cộng đồng hoặc là khu đất thiêng, thờ cúng thần linh, tổ tiên và các nhân vật lỗi lạc của cộng đồng dân cư. Ngoài ra, di tích cự thạch Nấm Dẩn còn có khả năng liên quan tục thờ thần đá của các cư dân tiền sử ở đây. Vượt qua khu di tích cự thạch, đi thêm khoảng gần 500 m đường mòn ven theo triền núi, chúng tôi lên tới khu bãi đá có hình vẽ chạm khắc cổ ở ngay giữa bản người Mông thôn Nấm Dẩn. Trong toàn khu vực xã Nấm Dẩn có bốn tảng đá chạm khắc hình vẽ cổ nhưng tảng đá ở thôn Nấm Dẩn có nhiều hình vẽ được chạm khắc nhất với tổng số 79 hình cụ thể gồm: 40 hình tròn, hai hình chữ nhật, một hình vuông, sáu hình hồi văn hình vuông, hai hình hồi văn hình tròn, sáu hình vạch khắc song song giống như bậc thang, năm hình biểu tượng sinh thực khí nữ, hai hình bàn chân người, bốn hình người trong tư thế giơ hai tay, dạng hai chân, một số hình như mô tả ruộng bậc thang, đồi núi, còn lại là những hình với nhiều hình thù khác nhau. Dựa vào sự so sánh tạo hình, mô-típ thể hiện với các di tích đồng dạng trong khu vực, các nhà nghiên cứu đã đi tới những kết luận ban đầu khi cho rằng hình vẽ trên đá ở Nấm Dẩn có niên đại khoảng hơn 1.000 năm. Nhưng điều bí ẩn là những hình vẽ đó nói lên điều gì thì vẫn là một vấn đề chưa được giải mã. Ðã có nhiều ý kiến cho rằng, các hình vẽ này là sự ghi chép đồ họa, hình họa tương tự như bản đồ về một vấn đề gì đó của khu vực hoặc là những hình vẽ gắn với tín ngưỡng thờ mặt trời, v.v. Một trong những bí mật khác cũng chưa có lời giải đáp đang cần sự quan tâm của các nhà khoa học còn là mối liên hệ giữa chủ nhân các di tích cự thạch và chủ nhân các hình khắc vẽ cổ ở Nấm Dẩn. Tuy nhiên, điều quan trọng là các giá trị đặc biệt về văn hóa, lịch sử, tín ngưỡng của di tích bãi đá cổ và sự quan tâm bảo vệ, phát huy những giá trị đó trong khai thác du lịch, thu hút khách đến với Xín Mần của các cơ quan chức năng. Một ban quản lý bãi đá cổ với sự tham gia tự giác của người dân địa phương, sự chỉ đạo của huyện đã được thành lập. Tỉnh Hà Giang và huyện Xín Mần cũng đã cho xây dựng tại đây một nhà sàn văn hóa làm nơi đón khách và lập hàng rào kiên cố bảo vệ chung quanh di tích đá cổ. Thời gian tới, đang có khá nhiều hãng lữ hành có ý định đưa di tích này vào là điểm đến trọng điểm trong chương trình du lịch đi bộ, thăm các bản làng ở Hà Giang. (Nhân Dân) Nguồn: http://www.quehuong.org.vn</H1>
  14. Nokia6681 nhờ ông Cẩm Lũy chuyển cho. Nếu chết cũng được bồi thường. Nếu sống vừa có phúc vừa có chỗ để xe hơi thì tốt quá rồi. Nhưng theo thiển ý của Phoenix thì di chuyển cây đi cũng bị ảnh hưởng ít nhiều. Chấp nhận rồi hãy liều không thì lỗi lại thuộc về lý số phong thủy :)
  15. Mất ăn mất ngủ về cái hướng nhà đến phát ốm thì mua làm gì??? Có nhiều bệnh không chữa bằng thuốc hay dao kéo hay phong thủy đâu. Phoenix mà ốm thì việc đầu tiên phải xem là mình ốm vì cái gì? Phoenix không ham nghèo đâu anh, nhiều người biết Phoenix còn ham vật chất nên không học lý số đó :P . Phoenix chẳng động gì đến đạo đức, chỉ là vấn đề tư duy. Rao giảng hay không là cảm giác của người nghe. Nếu cảm được, thấy tốt thì người khen thế này thế khác; Nếu không muốn tiếp nhận thì sẽ có đủ lý do để bài bác, đối với Phoenix chẳng quan trọng. Bệnh chữa là tùy duyên mà. Nhưng có một thứ chắc chắn sẽ thành bệnh khó chữa là: "Ham muốn vô độ". Khi có đủ thứ và khổ sở về nó người ta mới đi tìm bài thuốc mà anh chê đó. Nói nữa hơi thừa nhỉ. Ngưng cho mọi người bàn luận không lạc chủ đề của topic. Ai muốn trao đổi tiếp về chủ đề này thì mở topic mới nhé.
  16. Lòng mẹ đúng là khôn cùng. Nhưng thử ngẫm lá số mình trước xem mình có đáng thương không? Vẫn sống tốt chả sao nhỉ :) Cái được lớn nhất của con cái là: - Cha mẹ có đức - Cha mẹ có trách nhiệm - Cha mẹ hiểu biết Hôm trước Phoenix giảng về định hướng mục tiêu. Trong lớp có 1 bà mẹ mang bầu tháng thứ 4. Phoenix hỏi kế hoạch sinh con của bạn đó diễn ra thế nào? Câu trả lời cuối cùng là chỉ có dự định cảm tính mà chẳng có một kế hoạch nào. Vậy cái gì đảm bảo cho đời sống một em bé sẽ tốt trong tương lai? Không có tiêu chí nào để đánh giá cho bà mẹ này. Chỉ là những ý tưởng chung chung mang tính lý tưởng (có tiền, có hạnh phúc, có việc làm...). Còn làm thế nào và chuẩn bị thế nào để đạt được thì hoàn toàn ... chưa tính cụ thể. Bố mẹ nào cũng sợ con lớn lên khổ nhưng đa phần không nghĩ rằng chúng khổ hay không là do chịu ảnh hưởng của bố mẹ khá nhiều. Cứ làm tròn vai trò cha mẹ là con sẽ được vui vẻ hạnh phúc thôi. Mọi khó khăn là thử thách giá trị một con người. Chẳng nên lo quá làm gì. Chỉ riêng tâm lý lo lắng của người mẹ đã làm tác động ảnh hưởng đến tâm lý của con cái rồi. Những đứa trẻ nhạy cảm sẽ lập tức bị ám ảnh về tự ti, tự kỷ và khó thành công trong đời. Nên chăng là dành thời gian lo chuẩn bị dạy con những kỹ năng sống cần thiết, tư duy lành mạnh và thiết thực. Với xã hội đầy rẫy khó khăn bây giờ thì 10 năm nữa áp lực cuộc sống có thể làm nhiều người nổi điên. Đức năng đó của cha mẹ có thể làm con thắng số. Con gái VCD còn không đáng lo bằng con trai VCD, như vậy đã thấy hên rồi.
  17. Các sir đâu có muốn Phoenix loe xoe cái miệng ở đây. Các sir không thích thì Phoenix đi ra thôi. Phoenix là ngoại đạo mà :)
  18. Kính chú Thiên Sứ, Phoenix không thấy trong diễn đàn có quy định vào mục Tư vấn phong thủy thì chỉ được nói chuyện phong thủy. Hơn nữa, Phoenix không dám lạm bàn về đạo đức, chỉ là vấn đề nhận thức và quan niệm thôi. Phoenix rút kinh nghiệm không tham gia vào những chỗ các nhà nghiên cứu bàn luận không thành ra "ném đá hội nghị" :)
  19. Anh Cương nói chuyện về Phong thủy chẳng sai. Giống như là các giáo sư chuyên ngành giảng các bài thì chẳng có môn khoa học nào mà không có ý nghĩa cả. Phoenix chẳng phản bác phong thủy, nhưng như chú Thiên Sứ nhiều lần nói: khi chưa biết đến vi tính thì người ta cho vi tính là điều thần diệu, như một phép lạ. Phong thủy tốt chưa chắc Phong thủy đã là tối cao. Con người có nhiều ham muốn sinh ra cầu toàn và chăm chắm lo cho mình được an toàn điều này, điều khác. Nhiều khi quên mất cái thực đáng lo. Đôi khi, khoa học không làm người ta sáng suốt mà vô tình cổ súy cho sự ham muốn khôn cùng. Quan điểm của Phoenix thì lúc nào cũng công khai, rõ ràng. Nếu không phù hợp ở diễn đàn thì sẽ lui sang một bên cho các anh chị, cô bác bàn luận. Vì tranh luận không phải là mục đích của Phoenix ở diễn đàn này.
  20. Thời bé, nhà bà nội Phoenix có nhiều đồ chạm khắc bằng gỗ, đồng và bát đĩa vẽ hình long lân, quy phụng, chim sẻ, nghê.... nên rất nhớ những hình ảnh này. Sau này được biết bên nhà ngoại có bị mất một con nghê bằng đồng đen nên hay để ý thông tin về nghê. Chuyện về nghê cũng lắm thứ để bàn.
  21. " ... Lam Kinh cách thành phố Thanh Hóa hơn 50km, bạt ngàn những cánh đồng mía. Đền thờ vua Lê Thái Tổ nằm sát bên đường còn rêu phong và vẫn nguyên vẹn. Tượng đồng Vua Lê Lợi được đúc từ ngày xưa đến giờ vẫn uy phong, lẫm liệt. Tượng Lê Lai cứu chúa, tượng Nguyễn Trãi bằng đồng đen trầm mặc bút nghiên và đèn sách. Từ ngôi đền cổ kính của vua Lê Lợi, rẽ sang thị trấn là qua cầu Bạch Ngọc trên sông Ngọc (tên gọi ngày xưa là cầu Tiên Loan, Giá Kiều), du khách sẽ chạm mặt 138 cột đá chạm trên diện tích 10.360m2 có kiến trúc từ thế kỷ XV. Vẫn còn nguyên trên bậc cửu trùng thiên hình đôi rồng thời Lê nằm vuốt râu, đuôi cá quả, sừng nai, tai thú, mũi sư tử, vây cá chép, mắt chim ưng. Trên thế đất hình chữ Vương, có Hồ Tây rộng gần 10ha bao bọc, Lam Kinh còn được rào chắn bởi cây lim, sui, hàng trăm năm tuổi. Qua bậc cửu Trùng Thiên là 3 tòa nhà Thái Miếu được xây dựng lại bằng gỗ lim mua từ Lào. Ba tòa Thái miếu sẽ khánh thành vào mùa Xuân 2008 này, với kinh phí ước tính khoảng 9 tỷ đồng. Ba tòa Thái Miếu còn đóng kín cửa, tòa thứ 3 đang trong khâu nước rút. Đó là những cánh cửa Thái miếu mang văn hóa cung đình. Từ Thái miếu du khách sẽ đi thăm lăng Lê Lợi, nơi có sân chầu với hàng nghê đá từ năm 1433. Những con nghê có vẩy cá chép, râu dê, mắt quỷ, sừng lân, mũi heo, có sóng nước ở bờm, tượng ngựa, hổ, voi và tượng quan văn, quan võ. Từ lăng Lê Lợi sanglăng Lê Hiến Tông không xa. Lăng Lê Hiến Tông còn nguyên cả sân chầu.Quan văn vẫn nhìn sang Hồ Tây ở Lam Kinh mà chép sử. Rêu phong phủ trên mình những con nghê đá..." (trích: Di tích Lam Kinh: Rêu phong có đổi thay? - Hoàng Việt Hằng) Một khái niệm về Con Nghê Bắc Kinh: ".......Con Nghê Bắc Kinh: Nghê là con vật thần thoại, hình thù giống con mèo, trên lưng có 2 cánh, thường được người Trung Hoa dùng làm chủ đề trang trí. Tại Lăng Ông, tượng các con nghê bằng sành màu xanh được đặt trên các trụ cột cổng ra vào, trên các trụ bức tường vây quanh Sân Nhang Đèn và khu Mộ Ông..." (Trích: NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ TẠI LĂNG ÔNG BÀ CHIỂU - Trần Vinh) Vài câu hát nhắc đến con Nghê: Cưả Hàn , nằm ở trong xa Ngoài mủi Sơn chà lại có Con Nghê. Con Nghê chớn chở (? ) dị kỳ Chỗ này Phật ẩn/yểm thiê.t thì thừa thiên ( ? )(/Phật về Tây thiên ) Ngoài thời nội ngoại (?) sóng xao Ta sẽ lần vào Bãi dãi (/ dứa)Con Nghê Con Nghê , chớn chở dị kỳ Ra nằm nước mặn, thiệt thì Cam linh (đây là núi Con Nghê ở Sơn chà) Anh đi làm thợ nơi nao Để em gánh đục gánh bào đi theo?... Bốn cửa chạm bốn con nghê Bốn con nghê đực chầu về xứ Đông Bốn cửa chạm bốn con rồng Ngày thời bắt chuột tối thời rồng leo... "Mỗi người đều có một nghề/Con công thì múa con nghê thì chầu"
  22. Con lân gốm Chu Đậu của Lưu Quốc Bình-TpHCM tham dự và đoạt giải Lân vương trong bình chọn Đại hội Lân - Nghê - Long mã của web phomuaban.
  23. Đĩa men lam vẽ hình nghê - rồng của một hội viên trên web phomuaban
  24. Đây là hình con nghê trên bình gốm Bát tràng của cụ Nguyễn Văn Tuệ - 77 tuổi -thành viên CLB cổ vật PHÁT DIỆM huyện kim sơn - NINH BÌNH (st)
  25. Nghê đá ở cố đô Hoa Lư (st)