phoenix

Hội Viên Ưu Tú
  • Số nội dung

    1.107
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    2

Everything posted by phoenix

  1. Thảo dược chữa ung thư (http://www.khoahoc.com.vn) Không chỉ chữa được viêm da, sỏi mật, viêm gan..., cỏ lưỡi rắn trắng còn giúp phòng trị nhiều loại ung thư. Dân gian từng truyền tụng một bài thuốc chữa ung thư gan hiệu nghiệm được cho là của một tử tù, với 2 cây thuốc là cỏ lưỡi rắn trắng và bán biên liên. Trong Đông y, cỏ lưỡi rắn trắng có tên là bạch hoa xà thiệt thảo, còn có tên là bồi ngòi bò, xà thiệt thảo, xà châm thảo, long thiệt thảo. Tên khoa học là Hedyotis diffusa Willd, thuộc họ cà phê. Đây là loại cỏ mọc bò, sống hàng năm, có thể cao tới 30-40 cm. Lá mọc đối, hơi thuôn dài, không có cuống lá, có khía răng ở đỉnh. Hoa mọc đơn độc hoặc thành đôi ở kẽ lá, có màu trắng. Quả nang khô dẹt ở đầu, có nhiều hạt màu nâu nhạt. Cây thường mọc hoang nơi đất ẩm ướt. Ngay tại Hà Nội cũng thấy cây này. Nó được dùng toàn cây làm thuốc. Trong y học cổ truyền, bạch hoa xà thiệt thảo được dùng chữa các bệnh viêm họng, viêm đường tiết niệu, viêm gan, sỏi mật, lỵ trực trùng, mụn nhọt, rôm sảy, rắn cắn; dùng ngoài chữa vết thương, côn trùng đốt, đau lưng, đau khớp… Thời xưa, Tuệ Tĩnh thường dùng nó chữa rắn cắn, sởi… Theo y học hiện đại, do tăng cường khả năng của đại thực bào trong hệ thống lưới- nội mô và bạch cầu nên bạch hoa xà thiệt thảo có tác dụng chống viêm. Cây này cũng ức chế tế bào ung thư lymphô, bạch cầu hạt và bạch cầu đơn nhân, tế bào carcinom; ức chế hiện tượng gây đột biến do aflatoxin B1 tạo ra. Nó hỗ trợ điều trị bệnh ung thư nhờ tác dụng ức chế miễn dịch. Trung Quốc dùng bạch hoa xà thiệt thảo chữa bệnh ung thư dạ dày, thực quản, cổ tử cung, bàng quang, trực tràng, đại tràng, thực quản, hạch… Tại Ấn Độ, bạch hoa xà thiệt thảo còn được dùng chữa các bệnh viêm gan virus, sốt, lậu… Tương đồng với y học Ấn Độ, một số nước cũng dùng bạch hoa xà thiệt thảo chữa bệnh viêm gan. Trung Quốc đã bào chế một loại thuốc từ thảo dược với tên Ất can ninh, thành phần có bạch hoa xà thiệt thảo, hoàng kỳ, nhân trần, đảng sâm, hà thủ ô?… Theo các nhà khoa học, Ất can ninh có tác dụng ức chế miễn dịch, ngăn ngừa sự phát triển của virus và phục hồi chức năng gan, có tác dụng tốt trong điều trị bệnh viêm gan virus B. Thảo dược này cũng có mặt trong Lợi đởm thang bên cạnh các thành phần nhân trần, kim tiền thảo, dùng chữa sỏi mật, viêm đường mật ở Trung Quốc. Trong dân gian, cây chủ yếu được dùng dưới dạng thuốc sắc, có thể dùng tươi hoặc phơi khô. Liều dùng có thể tới 60 g thuốc khô, tương đương với khoảng 250 g dược liệu tươi. Dùng ngoài không kể liều lượng. Ở nước ngoài, bạch hoa xà thiệt thảo còn được bào chế thành dạng thuốc tiêm để chữa các bệnh ung thư và viêm nhiễm như viêm phế quản, viêm phổi, viêm họng, viêm ruột thừa… Một số bài thuốc Nam đơn giản Chữa ung thư gan: Bạch hoa xà thiệt thảo 30 g, chó đẻ răng cưa 30 g, cam thảo dây 10 g. Sắc uống ngày 1 thang, chia uống 2-3 lần trong ngày. Chữa ung thư dạ dày: Bạch hoa xà thiệt thảo 60 g, bạch mao căn (rễ cỏ tranh) 60 g, hạt bo bo 40 g, đường đỏ 40 g. Sắc uống ngày một thang. Chữa viêm họng: Bạch hoa xà thiệt thảo 30 g, bồ công anh 20 g, kim ngân hoa 20 g, cam thảo dây 10 g. Sắc uống ngày 1 thang, chia uống 2-3 lần trong ngày. Chữa phù thũng: Bạch hoa xà thiệt thảo 40 g, rễ cỏ tranh 30 g, râu ngô 20 g, cam thảo dây 10 g. Sắc uống ngày 1 thang, chia uống 2-3 lần trong ngày. Chữa viêm gan vàng da: Bạch hoa xà thiệt thảo 60 g, chó đẻ răng cưa 30 g, nhân trần 20 g, cam thảo dây 10 g. Sắc uống ngày 1 thang, chia uống 2-3 lần trong ngày. Chữa sỏi mật: Bạch hoa xà thiệt thảo 30 g, kim tiền thảo 20 g, màng trong mề gà sao cách cát cho vàng 16 g, cam thảo dây 10 g. Sắc uống ngày 1 thang, chia uống 2-3 lần trong ngày. Hoặc: Bạch hoa xà thiệt thảo 40 g, nhân trần 40 g, kim tiền thảo 40 g. Sắc uống ngày một thang (lợi đởm hợp tễ). Bài thuốc này đã được Trung Quốc áp dụng trên lâm sàng, có tác dụng lợi mật, tăng bài tiết mật. Thường được áp dụng cho bệnh sỏi mật, bệnh đường mật… Chữa lỵ trực trùng: Bạch hoa xà thiệt thảo 30 g, rau sam 20 g, lá mơ tam thể 20 g. Sắc uống ngày 1 thang, chia uống 2-3 lần trong ngày. Chữa lỵ, viêm phần phụ: Bạch hoa xà thiệt thảo 40 g. Sắc uống ngày một thang. (Phúc kiến trung thảo dược). Chữa nhọt lở: Bạch hoa xà thiệt thảo 30 g, kim ngân hoa 20 g, bồ công anh 20 g, bèo cái 20 g, cam thảo dây 10 g. Sắc uống ngày 1 thang, chia uống 2-3 lần trong ngày. Chữa rôm sảy: Bạch hoa xà thiệt thảo, cúc liên chi dại. Hai vị lượng bằng nhau. Dùng để nấu nước tắm. Chữa vết thương sưng đau: Bạch hoa xà thiệt thảo 200 g. Sắc uống ngày một thang, chia uống 2-3 lần trong ngày. Chữa mụn nhọt: Bạch hoa xà thiệt thảo 60 g, bồ công anh 20 g, bèo cái 20 g. Sắc uống ngày một thang, chia uống 2-3 lần trong ngày. Chữa rắn cắn: Bạch hoa xà thiệt thảo 100 g, giã nát, cho thêm nước, bã đắp vào chỗ rắn cắn, còn nước uống. + Bạch hoa xà thiệt thảo 60g, hạt giền gai 20g giã nát, phèn chua phi 4g, cam thảo dây 10g. Sắc uống ngày 1 thang, chia uống 2-3 lần trong ngày. + Bạch hoa xà thiệt thảo tươi 1-2 lạng ta, giã vắt lấy nước uống, hoặc sắc uống ngày một thang (Phúc kiến trung thảo dược). BS. Quách Tuấn Vinh (Tạp chí Sức Khỏe & Đời Sống)
  2. BẠCH HOA XÀ THIỆT THẢO (Herba Oldenlandiae Diffusae) Bạch hoa xà thiệt thảo dùng làm thuốc được ghi đầu tiên trong sách " Quảng tây Trung dược chí" là toàn cây phơi hay sấy khô của cây Bạch hoa xà thiệt thảo (Oldenlandia diffusa (Willd) Roxb.).Cây mọc chủ yếu ở các vùng thuộc các tỉnh phía Nam sông Trường giang Trung quốc. Ở nước ta chưa có sách ghi chép về cây này. Bạch hoa xà thiệt thảo còn có tên là Cây Xà thiệt thảo, Nhị diệp lục. Tính vị qui kinh: Vị hơi đắng, ngọt tính hàn. Qui kinh Vị, Đại tràng, Tiểu tràng. Theo sách: " Quảng tây Trung dược chí": Vị đắng, ngọt tính ôn, không độc, qui kinh Tâm Can Tỳ". Thành phần chủ yếu: Hentriaconotane, Stigmastatrienol, Ursolic acid, Oleanoic acid, beta - sitosterol, p - coumaric, beta - sitosterol - D - glucoside. Tác dụng dược lý: A.Theo Y học cổ truyền:Thanh nhiệt giải độc tiêu ung kháng nham, lợi thấp. Chủ trị các chứng ung nhọt, sang độc, trường ung, yết hầu, sưng đau, rắn độc cắn, ung thư, nhiệt lâm, tiểu tiện khó. B.Theo kết quả nghiên cứu dược lý hiện đại: Tác dụng kháng khuẩn của thuốc in vitro không mạnh. Có tác dụng yếu đối với tụ cầu vàng, trực khuẩn lî, dịch chích không có tác dụng ức chế vi khuẩn. Thuốc có hiệu quả rõ rệt đối với viêm ruột thừa thực nghiệm trên thỏ. Tác dụng kháng nhiễm có thể do thuốc có tác động lên hệ miễn dịch của cơ thể như làm tăng sinh hệ tế bào nội bì lưới, làm tăng hoạt lực của tế bào thực bào . tăng chức năng hệ miễn dịch không đặc hiệu. Thuốc còn có tác dụng làm tăng cường chức năng võ tuyến thượng thận nhờ vậy mà có tác dụng chống viêm. Thuốc có tác dụng chống ung thư: Thuốc ức chế sự phân chia sinh sản của hạch tế bào ung thư làm cho tế bào ung thư hoại tử khác biệt rõ so với lô chứng, cũng có tác giả cho rằng thuốc chỉ có tác dụng ở nồng độ cao và có tác dụng không đặc hiệu. Thuốc có tác dụng ức chế sinh sản sinh tinh dịch: Theo dõi 102 ca kiểm tra tinh dịch sau 3 tuần uống thuốc phát hiện có 77% bệnh nhân tinh trùng giảm từ 1/3 đến 1/10 so với trước khi uống thuốc. Chích nước sắc chiết cồn của thuốc làm giảm tỷ lệ tử vong của chuột do độc tố của rắn độc. Tam thảo thang (Bạch hoa xà thiệt thảo, Hạ khô thảo, Cam thảo theo tỷ lệ 2:2:1), có tác dụng bảo vệ gan, lợi mật. Ứng dụng lâm sàng: 1.Trị viêm ruột thừa cấp đơn thuần và viêm phúc mạc nhẹ:Dùng 60g thuốc sắc chia 2 - 3 lần uống trong ngày. Bệnh nặng phối hợp thêm Hải kim sa đằng, Dã Cúc hoa hoặc thêm Đại hoàng Mẫu đơn thang, Long đởm tả can thang, Tiên phương hoạt mệnh ẩm gia giảm. Theo báo cáo của nhiều tác giả ở Trung quốc đã dùng trị trên 1000 ca kết quả tốt ( dăng trong sách " Dược lý và ứng dụng trung dược do Nhà xuất bản Vệ sinh Nhân dân xuất bản năm 1983). 2.Trị rắn cắn: Dùng thuốc 20g sắc với rượu trắng 200ml uống trong 1 ngày, dùng 2/3 thuốc chia 2 - 3 lần uống và 1/3 đắp vào vết cắn, trị 19 ca đều khỏi ( Tạp chí Y học Quảng đông - Bản Y học Tổ quốc 1965,2:11). 3.Trị chứng tích nước bìu dái (biến chứng sau khi thắt ống dẫn tinh) dùng thuốc 30g sắc chia 3 lần uống (có thể hãm nước sôi). Trị 38 ca có kết quả 34 ca (Báo cáo của Vạn hiếu Tài, Tạp chí Y học nông thôn 1987,2:11). 4.Trị viêm gan: dùng bài Tam thảo thang (Bạch hoa xà thiệt thảo 31,25g, Hạ khô thảo 31,25g, Cam thảo 15,625g chế thành sirô trị viêm gan cấp, vàng da, có kết quả 100%, ngày nằm viện bình quân 25,3 ngày ( Theo Báo cáo của Khoa nhiễm Bệnh viện trực thuộc số 2 Học viện Y học Hà nam - Bản thông tin Trung dược thảo 1978,7:28). (Nguồn: http://dongyvietnam.net)
  3. BẠCH HOA XÀ THIỆT THẢO Xuất xứ: Quảng Tây Trung Dược Chí. Tên khác: Giáp mãnh thảo, Xà thiệt thảo, Nhị Diệp Luật (Trung Dược Học), Xà thiệt thảo, Ải cước bạch hoa xà lợi thảo (Quảng Tây Trung Dược Chí), Mục mục sinh châu dược Tiết tiết kết nhụy thảo, Dương tu thảo (Quảng Đông Trung Dược), Xà tổng quản, Hạc thiệt thảo Tế diệp liễu tử (Phúc Kiến Trung Thảo Dược), Tán thảo, Bòi ngòi bò, Bòi ngòi bò (Việt Nam). Tên gọi: Cây có lá như lưỡi rắn nên có tên Bạch Hoa Xà Thiệt Thảo. Tên khoa học: Odenlandia diffusa (Willd) Roxb. Họ khoa học: Cà Phê (Rubiaceae). Mô tả: Cây thảo sống hàng năm, mọc bò, nhẵn. Thân hình 4 cạnh, màu nâu nhạt tròn ở gốc. Lá hình giải hay hơi thuôn, nhọn ở đầu, màu xám, dai, không cuống, lá kèm khía răng ở đỉnh. Hoa thường mọc đơn độc, hay họp 1-2 chiếc ở nách lá. Hoa màu trắng ít khi hồng, không cuống. Đài 4 hình giáo nhọn, ống dài hình cầu. Tràng 4 tù nhẵn, ống tràng nhẵn cả hai mặt. Nhị 4 dính ở họng ống tràng. Bầu 2 ô, 2 đầu nhụy, nhiều noãn, quả khổ dẹt ở đầu, có đài còn lại ở đỉnh. 2 ô nhiều hạt, có góc cạnh. Có hoa quả hầu như quanh năm. Địa lý: Cây có ở cả 3 miền nước ta, ở vườn hai bên lối đi đều hay gặp. Thu hái, sơ chế: Thu hái phơi khô cất dùng. Phần dùng làm thuốc: Toàn cây. Thành phần hóa học: + Trong Bạch Hoa Xà Thiệt Thảo chủ yếu có: Hentriaconotane, Stigmastatrienol, Ursolic acid, Oleanolic acid, b-Sitosterol, p-Coumnic, b-Sitosterol-D-Glucoside (Trung Dược Học). + Asperuloside, Asperulosidic acid, Geniposidic acid, Deacetylasperulosidic acid, Scandoside, Scandoside methylester, 5-O-p-Hydroxycinnamoyl scandoside methylester, 5-O-feruoyl scandoside methylester, 2-Methyl-3- Hydroxyanthraquinose, 2-Methyl-3- Methoxyanthraquinose, 2-Methyl-3- Hydroxy-4- Methoxyanthraquinose (Nishihama Y và cộng sự, Planta Med, 1981, 43 (1): 28). + Ursolic acid, b-Sitosterol Yakagi S và cộng sự, Shoyakugaku Zasshi 1982, 36 (4): 366). Tác dụng dược lý: -Tác dụng kháng khuẩn: In vitro, tác dụng này không mạnh. Có tác dụng yếu đối với Tụ cầu khuẩn vàng, trực khuẩn lỵ. Dịch chích không có tác dụng ức chế vi khuẩn. Thuốc có hiệu quả rõ rệt đối với ruột dư viêm thực nghiệm trên thỏ (Trung Dược Học). + Tác dụng trên hệ miễn dịch: những thực nghiệm căn bản trên thỏ, có thể tin rằng sự kháng nhiễm có thể do thuốc có tác động lên hệ miễn dịch của cơ thể như làm tăng sinh hệ tế bào nội bì lưới, làm tăng hoạt lực của tế bào thực bào, tăng chức năng hệ miễn dịch không đặc hiệu (Trung Dược Học). +Tác dụng chống khối u: thuốc sắc Bạch Hoa Xà Thiệt Thảo nồng độ cao in vitro thấy có tác dụng ức chế đối với tế bào trong bệnh bạch cầu viêm cấp, bạch cầu hạt tăng cấp (Trung Dược Học). +Thuốc còn có tác dụng làm tăng cường chức năng vỏ tuyến thượng thận, nhờ đó, có tác dụng kháng viêm (Trung Dược Học). +Tác dụng kháng ung thư: Thuốc ức chế sự phân chia sinh sản của hạch tế bào ung thư làm cho tế bào ung thư hoại tử khác biệt so với lô chứng (Trung Dược Học). + Tác dụng ức chế sản sinh tinh dịch: theo dõi 102 cas, kiểm tra tinh dịch sau 3 tuần uống thuốc thấy có 77% bệnh nhân tinh trùng giảm từ 1/3 đến 1/10 so với trước khi uống thuốc (Trung Dược Học). + Chích nước sắc chiết cồn của Bạch Hoa Xà Thiệt Thảo cho bệnh nhân bị nhiều loại rắn độc khác nhau cắn phải, dùng một mình hoặc kết hợp với thuốc chống nọc độc, thấy có tác dụng làm giảm tỉ lệ tử vong của chuột do độc tố của rắn độc. Ở các cas trung bình, chỉ dùng Bạch Hoa Xà Thiệt Thảo là đủ (Trung Dược Học). + Điều trị ruột dư viêm: dùng liều cao (40g tươi hoặc 20g khô) Bạch Hoa Xà Thiệt Thảo, trong nhiều nghiên cứu thấy có kết quả tốt. Trong 1 lô 30 bệnh nhân, bị ruột dư viêm được điều trị bằng thuốc sắc Bạch Hoa Xà Thiệt Thảo, trong khi nhóm khác dùng Dã Cúc Hoa và Hải Kim Sa. Có 2 bệnh nhân cần giải phẫu, còn lại tất cả đều hồi phục, không có vấn đề gì. Thời gian nằm viện là 4,2 ngày (Trung Dược Học). Tính vị: +Vị ngọt nhạt, tính mát (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển). +Vị ngọt, hơi đắng, tính hàn (Trung Dược Học). +Vị đắng, ngọt, tính ôn, không độc (Quảng Tây Trung Dược Chí). + Vị hơi ngọt, tính hơi hàn (An Huy Trung Thảo Dược). Quy Kinh: + Vào kinh Can, Vị, Tiểu trường (Trung Dược Học). + Vào kinh Vị, Đại trường, Tiểu trường (Hiện Đại Thực Dụng Trung Dược). + Vào kinh Tâm, Can, Tỳ (Quảng Tây Trung Dược Chí). Tác dụng: + Thanh nhiệt, giải độc, lợi niệu, khử ứ (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển). + Thanh nhiệt, giải hỏa độc, tiêu ung (Trung Dược Học). + Thanh nhiệt, giải độc, tiêu ung, kháng nham, lợi thấp (Hiện Đại Thực Dụng Trung Dược). + Tiêu thủng, giải độc, khu phong, chỉ thống, tiêu viêm (Quảng Đông Trung Dược). Chủ trị: + Trị các loại sưng đau do ung thư, các loại nhiễu trùng như nhiễm trùng đường tiểu, viêm hạnh nhân, viêm họng, thanh quản, viêm ruột thừa, viêm phế quản cấp mãn tính, viêm gan thể vàng da hoặc không vàng da cấp tính, Rắn độc cắn, sưng nhọt lở đau, tổn thương do té ngã(Quảng Tây Trung Dược Chí). + Trị rắn cắn, ung thư manh trường, kiết lỵ (Quảng Đông Trung Dược). Liều dùng Dùng khô từ 20-40g, ngoài dùng tươi gĩa nát đắp lên nơi đau. Đơn thuốc kinh nghiệm: + Trị ung nhọt, u bướu: Bạch hoa xà thiệt thảo 120g, Bán biên liên (tươi) 60g sắc uống, ngoài đâm nát đắp lên nơi đau (Quảng Tây Trung Thảo Dược). + Trị ung thư phổi: Bạch hoa xà thiệt thảo, Bạch mao căn mỗi thứ 160g (dùng tươi), sắc uống với nước đường (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược). + Trị ruột dư viêm cấp tính: Bạch hoa xà thiệt thảo 80g, sắc uống, nhẹ ngày 1 thang, nặng ngày 2 thang (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược). + Trị ho do viêm phổi: Bạch hoa xà thiệt thảo (tươi) 40g. Trần bì 8g, sắc uống (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược). + Trị amidal viêm cấp : Bạch hoa xà thiệt thảo 12g, Xa tiền thảo 12g, sắc uống (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược). + Trị đường tiểu viêm, tiểu buốt, tiểu gắt: Bạch hoa xà thiệt thảo, Dã cúc hoa, Kim ngân hoa, mỗi thứ 40g, Thạch vi 20g, sắc uống thay nước trà (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược). + Trị chấn thương thời kỳ đầu: Bạch hoa xà thiệt thảo (tươi) 120g, nước, rượu mỗi thứ 1 nửa sắc uống (Hiện Đại Thực Dụng Trung Dược). + Bảo vệ gan, lợi mật: Bạch hoa xà thiệt thảo + Hạ khô thảo + Cam thảo [theo tỉ lệ 2 + 2 + 1] (Tam Thảo Thang - Hiện Đại Thực Dụng Trung Dược). + Trị ruột dư viêm cấp đơn thuần và phúc mạc viêm nhẹ: Bạch hoa xà thiệt thảo 60g, sắc, chia 3 lần uống. Đã trị hơn 1000 cas kết qủa tốt (Dược Lý Và Ứng Dụng Trung Dược, NXB Vệ Sinh Nhân Dân, 1983). + Trị rắn độc cắn: Bạch hoa xà thiệt thảo 20g, sắc với 200ml rượu uống trong ngày. Dùng 2/3 thuốc, chia làm 2-3 lần uống, còn 1/3 đắp vào vết cắn. Trị 19 cas đều khỏi (Quảng Đông Y Học Tạp Chí 1965, 4:14). + Trị dịch hoàn ứ nước (biến chứng sau khi thắt ống dẫn tinh): Bạch hoa xà thiệt thảo 30g, sắc, chia làm 3 lần uống. Trị 38 cas, có kết qủa 34 cas (Vạn Hiếu Tài - Nông Thôn Y Học Tạp Chí 1987, 2:11). + Trị gan viêm, vàng da: Bạch hoa xà thiệt thảo 31,25g, Hạ khô thảo 31,25g, Cam thảo 15,625g, chế thành xi rô. Trị 72 cas, có kết quả 100%. Ngày nằm viện bình quân 25,3 ngày (Tam Thảo Thang - Báo Cáo Của Khoa Nhiễm Bệnh Viện Trực Thuộc số 2 Học Viện Y Học Hồ Nam đăng trong Thông Tin Trung Dược Thảo 1987, 2:1). Tham Khảo: “Bạch hoa xà thiệt thảo + Bán chi liên mỗi vị 40g, được dùng nhiều trong các bài thuốc trị các loại ung thư (Quảng Tây Trung Thảo Dược). Phân biệt: (1) Cây trên khác với cây cũng được gọi là Bạch hoa xà thiệt thảo, hoặc có các tên khác như: Đuôi công hoa trắng, Bươm bướm tích lan, Bươm bướm trắng. Nhài công, Bạch tuyết hoa. Lài đưa, Chiến (Plumbago zeylanic L.) thuộc họ Plumbaginnaceae, là cây cỏ cao từ 0,50m đến 1m, cành có góc, thân có khía dọc. Lá hình trứng hay thuôn, đầu nhọn mọc so le, cuống lá ôm lấy thân, hoa hình đinh màu trắng, mọc thành bông dày đặc ở ngọn, đài có nhiều lông dính. Nhân dân thường lấy rễ lá tươi để làm thuốc. Rễ có màu trắng đỏ nhạt, mép ngoài sẫm có rãnh dọc, phấn trong màu nâu, vị hắc gây buồn nôn, có tính chất làm rộp da. Cây này có vị cay tính nóng, có độc, có tác dụng thông kinh. hoạt huyết, sát trùng tiêu viêm. Thường dùng ngoài để chữa đinh nhọt, tràng nhạt, sưng vú, dùng lá rễ tươi đâm nát đắp vào. Khi chữa hắc lào lở ghẻ lấy rễ tươi rửa sạch gĩa nhỏ phơi trong mát ngâm rượu 70 độ bôi vào, chữa chai chân đi không được bằng cách đâm tươi rịt 2 giờ rồi bỏ ra. Ngoài ra có thể sao vàng sắc uống để trừ hàn lãnh, ứ huyết của sản phụ. (2) Cũng cần phân biệt với cây Xích hoa xà còn gọi là Bạch hoa xà, Bươm bướm hường, Bươm bướm đỏ đuôi công (Plumbago indica Linn hoặc Plumbago rosea Linn.) là cây thảo thân hóa gỗ rất nhiều, có khía dọc nhỏ nhẵn. Lá nguyên mọc cách hình mũi mác thuôn, mặt trên hơi có lông gần tù ở đầu, cuống lá ngắn. Hoa họp thành bông dài ở đỉnh, đơn hoặc phân ít nhánh ở phần trên, lá bắc hình trứng, chỉ bằng 1/4 của đài. Đài hình trụ có 5 cạnh phủ lông tuyến khắp mặt ngoài, tận cùng là 5 răng ngắn, nhọn. Tràng màu đỏ, ống nhỏ, dài gấp 4 lần đài, 5 thùy trải ra hình trứng hơi tròn. Nhị 5. Bầu bé, vòi nhụy chĩa thành 5 cánh ở ngọn. Cây có ở cả 3 miền nước ta, thường được dùng làm cảnh. Có tài liệu giới thiệu rễ cây này cũng có công dụng như cây này. Kinh nghiệm nhân dân dùng bột rễ cây này trộn với dầu để xoa bóp nơi tê thấp và bệnh ngoài da như cùi hủi, ung thư. Có nơi chữa đau gân, đau xương, làm thuốc trụy thai, thường hay dùng lá, nếu nhức xương thì dùng rễ, lá xào ăn, ăn nhiều thì có tác dụng xổ. (3) Ngoài ra người ta còn dùng cây Bòi Ngòi Trắng (Oldenlandia pinifolia (Wall) K.Schum) để thay cho Bạch hoa xà thiệt thảo. (4) Ở Trung Quốc cũng dùng cây Bòi Ngòi Ngù, còn gọi tên khác là Vỏ Chu (Oldenladia corymbosa Linn.) hoặc Thủy tuyến thảo, là cây cùng họ với cây trên, công dụng giống nhau. Người ta thường cho rằng tác dụng trị ung thư thì cây Bạch hoa xà thiệt thảo có tác dụng tốt hơn cây này. Đó là cây thảo sống hàng năm thẳng đứng cao 0,15-0,40m, phân nhánh nhiều, nhẵn. Thân non màu lục, có 4 cạnh, sau tròn và xám ở gốc. Lá hình giải hay hình trái xoan dài, nhọn cả hai đầu và không có cuống, chỉ có gân chính là nổi rõ, lá kèm mềm, chia thùy ở đỉnh. Hoa tập trung thành sim ở nách lá. Quả nang hình bán cầu, hơi lồi ở đỉnh. Cây có hoa và quả quanh năm. Nhân dân dùng toàn cây, thu hái quanh năm nhưng tốt nhất là vào mùa hè, thu, lúc cây ra hoa. Thu hái về phơi khô hay sao vàng, dùng trong các chứng sốt cao, đau nhức xương cốt, thấp khớp, đau lưng, mệt lả (Danh Từ Dược Vị Đông Y). (Nguồn: http://www.yhoccotruyen.htmedsoft.com/duoc..._hoa_xa_tt.htm)
  4. Phoenix có một thắc mắc; Không biết cửa vào nhà thì dùng cửa mở (có cánh) và dùng cửa kéo (cửa sắt kéo ngang hoặc kéo từ trên xuống) có ảnh hưởng khác nhau đến phong thủy trong nhà không? Có ai biết vui lòng chỉ giùm Phoenix với! Đa tạ trước :P
  5. Sư tử (lân) mẹ chân giữ con. Sư tử (lân) bố chân giữ cầu.
  6. Báo đúng là báo. Cái tilte thì rất rõ ràng mà đọc hết cả nội dung vẫn chưa thấy cái gì đảm bảo xác định chính xác được nguyên nhân cả.
  7. Theo Phoenix thì anh này làm việc gì đó hay ngồi (ngồi duỗi chân). Hy vọng không phải là hành khất. Khả năng có con rất cao. Nhưng không thấy người vợ (mất hoặc bỏ đi hoặc không chính thức). Nếu có vợ thì đó là người có vóc dáng hơi đầy đặn, thấp. Đời sống không được tốt, chật vật, thăng trầm. Giấy tờ tùy thân bị thay đổi. Có thời gian được người nâng đỡ, cưu mang nhưng không lâu. Bản tính trầm, ít chia sẻ. Người này sống gần nơi có sông nước hay hồ ao.Nhưng không ở trên sông nước, thuyền bè. Gia đình sẽ tìm kiếm được tin tức.
  8. Phoenix là người ham chơi chứ không phải chuyên chú nghiên cứu nên những đề nghị của các ACE là bài tập chứ không dám "chiếu cố" đâu ạ. Phoenix cũng chỉ thử nghiệm thôi, đúng sai chủ yếu là mua vui cho các ACE chứ trình độ đâu có gì. Theo thiển ý của Phoenix, đoạn thơ thể hiện rất rõ tinh thần ý chí rồi. Nhưng đi sâu vào tâm trạng thì thấy "cuộc chơi" này còn gian nan, còn phải nỗ lực, thậm chí là nỗ lực vượt bậc. Khả năng thì có thể đi đến đích nhưng không cẩn thận sẽ đuối hoặc bỏ cuộc. Việc này liên quan đến một nhu cầu xuất phát từ tinh thần lớn hơn là vật chất. Vật chất chỉ là hình thức, phương tiện để thể hiện nhu cầu về tinh thần. Liên quan đến những vấn đề ràng buộc chặt chẽ với cuộc sống của bản thể của người liên quan (người thân, việc của bản thân, vướng mắc liên quan đến bản thân). Bao gồm cả trường hợp mong cầu việc cho người khác và việc ấy có ý nghĩa gắn bó với đời sống của người đó.Để thực hiện nó, bản thể này đôi khi rất cố chấp. Vội mà không vội. Muốn vội không được. Bỏ cũng không được. Chừng nào còn âm ỉ thì sẽ còn hy vọng. Việc này kiên tâm, nhẫn nại sẽ thành. Nhưng thành hay bại sẽ không phải chờ quá lâu. Mấy lời dông dài, nếu sai vui lòng cho Phoenix biết để ngẫm nghĩ lại :P
  9. "Dân không thờ sai ai bao giờ!" Câu này thật là thú vị!
  10. Hành xác hay cái gì cũng chỉ là phương tiện mà thôi. Đã là phương tiện thì không thể mặc nhiên là là cái đích. Để đi đến một cái đích có thể có hàng vạn phương tiện. X -------------------> ĐÍCH PHƯƠNG TIỆN Nếu Phật pháp không thấu lý và thông suốt điều này thì không thể gọi nó là một đại tư tưởng bao trùm toàn thế giới trong thời kỳ lâu dài đến vậy.
  11. Nếu như câu chuyện Mị Châu Trọng Thủy lại do chính Triệu Đà chủ súy đặt ra thì vấn đề ra sao nhỉ???
  12. Chuyện cây đi theo người Phoenix thấy là có thật. Nhà cụ ngoại Phoenix có 1 cây táo rất to trước sân, cây cành sum xuê, đường kính thân phải khoảng 40-50cm. Lúc cụ ông mất, cụ bà choàng lên cây 1 dải khăn xô vì cây táo đó là do ông trồng. Không bao lâu sau cây cũng chết khô 01 nửa. Từ đó rất cằn cỗi, chỉ lơ thơ vài cái lá về quả thì không thể ăn được.
  13. Một số bài viết về Tứ linh Tứ linh: Long - Lân - Quy - Phượng (sưu tầm) * HÌNH TƯỢNG CON RỒNG Rồng là vua của loài có vảy, có tài biến hóa, làm tối được, làm sáng được, làm lớn được, làm nhỏ được, nhằm tiết xuân phân thì lên trời, nhằm tiết thu phân thì xuống biển hay xuống đất. Kinh Phật nói: "Long thường tại định, vô hữu bất định thì." Nghĩa là: Rồng thường ở vào thiền định, không có lúc nào chẳng thiền định. Đối với các nước phương Đông, con rồng là kiệt tác sáng tạo nghệ thuật có lịch sử lâu đời. Trên thực tế, rồng chỉ là sản phẩm của nghệ thuật, vì nó không tồn tại trong thế giới tự nhiên mà là sự sáng tạo nghệ thuật siêu tự nhiên. Cùng với sự phát triển của lịch sử, từ lâu các nước phương Đông hình thành nên quan niệm phổ biến về con rồng, tổng hợp trong con vật linh thiêng này là trí tuệ, tín ngưỡng, niềm tin, lý tưởng, nguyện vọng, sức mạnh... Trải qua bao đời, các nhà văn, nhà thơ, họa sĩ ở mỗi nước phương Đông đã dần tạo cho con rồng trở thành biểu tượng cao quý và sức sống vĩnh hằng, có ảnh hưởng to lớn, ý nghĩa sâu sắc đối với đời sống xã hội ở mỗi nước. Con rồng là một hình tượng có vị trí đặc biệt trong văn hóa, tín ngưỡng của dân tộc Việt Nam. Rồng là tượng trưng cho quyền uy tuyệt đối của các đấng Thiên Tử (Bệ Rồng, Mình Rồng), là linh vật đứng vào hàng bậc nhất trong tứ linh "Long, Lân, Quy, Phụng". Dân tộc ta có truyền thuyết về con Rồng từ rất sớm bởi nó gắn liền với mây, mưa, với việc trồng lúa nước, với sự tích "Con Rồng Cháu Tiên"... Hình ảnh con rồng đã dần dần ǎn sâu vào tâm thức của người Việt. Hà Nội là thủ đô cả nước, với tên gọi đầu tiên: Thăng Long (rồng bay). Vùng Đông Bắc nước ta có Hạ Long (rồng hạ), một trong những thắng cảnh đẹp nhất nước. Đồng bằng Nam Bộ phì nhiêu được làm nên bởi dòng sông mang tên Cửu Long (chín rồng). Không những là biểu tượng cho xuất xứ nòi giống dân tộc Việt Nam, rồng còn là thần linh, chủ của nguồn nước, mang lại sức sống mãnh liệt, làm cho mùa màng tốt tươi. Rồng là biểu tượng của sức mạnh, chính vì vậy mà các vua chúa đã lấy hình tượng rồng đại diện cho uy lực triều đình. Thời Lê, rồng trở thành bản mệnh của nhà vua. Hình tượng rồng được thêu lên tấm áo vua mặc. Trong thời kỳ đất nước ta bị lệ thuộc vào phong kiến phương Bắc, rồng Việt Nam chịu ảnh hưởng của những con rồng các thời Tần, Hán, Đường, Tống... và được cách điệu hóa dần dần để biến thành rồng hoàn chỉnh, tượng trưng cho uy quyền độc tôn của vua chúa phong kiến và thường được trang trí ở những nơi linh thiêng. Vào thế kỷ XI, dưới triều Lý, chế độ phong kiến Việt Nam bắt đầu được xác lập. Con rồng thật sự của Việt Nam đã được ra đời. Cho đến nay, rồng vẫn được sử dụng trong kiến trúc tôn giáo theo một số nét: đầu rồng giống như đầu đà, mắt quỷ (có lúc giống mắt thỏ), sừng nai, tai bò, trán lạc đà, miệng lang, cổ rắn, bụng con giao, vảy cá chép/cá ly, chân cá sấu/cọp, móng chim ưng. Và con rồng luôn là hình ảnh sâu đậm trong tâm hồn mỗi người Việt Nam. Rồng qua các thời kỳ lịch sử Qua thời kỳ Bắc thuộc dài đằng đẵng, con rồng Việt Nam xuất hiện rõ nét dưới thời Lý. Hình ảnh "Rồng bay lên" Thăng Long tượng trưng cho khí thế vươn lên của dân tộc, được đem đặt cho đất đế đô. Rồng thời Lý tượng trưng cho mơ ước của cư dân trồng lúa nước nên luôn luôn được tạo trong khung cảnh của nước, của mây cuộn. Triều Lý dựng đô, vua Thái Tông cho mở hàng quán chen chúc sát tới đền rất huyên náo. Vua thấy đền cổ bèn sửa sang lại làm nơi thờ thần. Đến đêm, thần hiển linh nổi trận gió Bắc rất to, các nhà bên đều đổ hết, chỉ còn đền thờ. Vua mừng nói: "Đó là thần Long Đỗ coi việc nhân gian". Hình Rồng thời Lý được trang trí ẩn hiện trong hình lá đề, cánh sen giỡn sóng, ở bệ tượng đức Phật Adiđà, Quan Âm... Rồng thời Lý có thân hình tròn trặn, uốn lượn nhiều khúc, dài và nhỏ dần về phía đuôi, có dáng dấp gần gũi với loài rắn nhưng đầu Rồng có tỷ lệ cân đối so với thân, chân nhỏ, mảnh, thường là 3 ngón. Rồng thời Lý nhẹ nhàng, thanh thoát. Những khúc uốn hình chữ S gần như không thể thiếu. Rồng được trang trí trong chùa tháp, cung điện có đầu ngẩng cao, mồm há rộng giỡn ngọc, mào hình ngọn lửa hướng về phía trước, tai bờm, râu rồng vút nhỏ dần chuyển động như bay lượn tạo nên bố cục chặt chẽ. Nhìn tổng thể, Rồng Lý tạo ra vẻ đẹp thẩm mỹ thuần khiết, cách điệu sống động như một tuyên ngôn độc lập có giá trị đến ngày nay về mỹ thuật của Rồng Đại Việt. Rồng thời Trần tuy có thừa kế những yếu tố cơ bản của thời Lý nhưng đã có những biến đổi về chi tiết. Dạng tự chữ "S" dần dần mất đi hoặc biến dạng thành hình con, đồng thời xuất hiện thêm hai chi tiết là cặp sừng và đôi tay. Đầu rồng uy nghi và đường bệ với chiếc mào lửa ngắn hơn. Thân rồng tròn lẳn, mập mạp, nhỏ dần về phía đuôi, uốn khúc nhẹ, lưng võng hình yên ngựa. Đuôi rồng có nhiều dạng, khi thì đuôi thẳng và nhọn, khi thì xoắn ốc. Các vảy cũng đa dạng. Có vảy như những nửa hình hoa tròn nhiều cánh đều đặn, có vẩy chỉ là những nét cong nhẹ nhàng. Rồng thời Lê thay đổi hẳn. Rồng không nhất thiết là một con vật mình dài uốn lượn đều đặn nữa mà ở trong nhiều tư thế khác nhau. Đầu rồng to, bờm lớn ngược ra sau, mào lửa mất hẳn, thay vào đó là một chiếc mũi to. Thân rồng lượn hai khúc lớn. Chân có năm móng sắc nhọn quắp lại dữ tợn. Rồng thời Lê tượng trưng cho quyền uy phong kiến. Cũng chính bắt đầu từ thời đại này xuất hiện quan niệm tứ linh (bốn con vật thiêng) tượng trưng cho uy quyền của vương triều Rồng đứng đầu trong tứ linh. Ba vật thiêng kia là Lân (tượng trưng cho sự thái bình và minh chúa), Quy (con rùa - tượng trưng sự bền vững của xã tắc) và Phụng (tượng trưng cho sự thịnh vượng của triều đại). Rồng thời Trịnh Nguyễn vẫn còn đứng đầu trong bộ tứ linh nhưng đã được nhân cách hóa, được đưa vào đời thường như hình rồng mẹ có bầy rồng con quây quần, rồng đuổi bắt mồi, rồng trong cảnh lứa đôi. Con rồng thời Nguyễn trở lại vẻ uy nghi tượng trưng cho sức mạnh thiêng liêng. Rồng được thể hiện ở nhiều tư thế, ẩn mình trong đám mây, hoặc ngậm chữ thọ, hai rồng chầu mặt trời, chầu hoa cúc, chầu chữ thọ... Phần lớn mình rồng không dài ngoằn mà uốn lượn vài lần với độ cong lớn. Đầu rồng to, sừng giống sừng hươu chĩa ngược ra sau. Mắt rồng lộ to, mũi sư tử, miệng há lộ răng nanh. Vảy trên lưng rồng có tia, phân bố dài ngắn đều đặn. Râu rồng uốn sóng từ dưới mắt chìa ra cân xứng hai bên. Hình tượng rồng dùng cho vua có năm móng, còn lại là bốn móng. Hình tượng Rồng còn huyền bí về long mạch, thuyết phong thủy nơi đất phát đế vương mộ táng. Chuyện mộ táng hàm Rồng, chúa Trịnh phát tích, sách Trung Hưng Thực Lục viết: "Ông già Tống Sơn giỏi phong thủy thấy Trịnh Liễu cầy ruộng lại siêng học hành, đức hạnh bèn giúp đặt mộ nơi huyệt khí quý xứ Nanh Lợn. Đêm ấy trời đất chuyển động, mưa gió nổi to... trên mộ có vầng sáng ánh trăng, xa trông có Rồng đen ấp lên trên. Tống Vương nói: "Rồng vàng là đế, rồng đen là vương...". Quả nhiên, đến 4 đời sau thì nhà Trịnh phát vượng...". Rồng tượng trưng cho sự phồn vinh và sức mạnh của dân tộc, nhanh chóng trở thành hình tượng biểu hiện uy quyền của Nhà nước phong kiến, chỉ dùng nơi trang trọng nhất của cung vua, hay những công trình lớn của quốc gia. Đã có thời triều đình phong kiến chạm khắc hình rồng trên nhà cửa hay đồ dùng gia đình. Nhưng sức sống của con Rồng còn dẻo dai hơn khi nó vượt ra khỏi kinh thành, đến với làng quê dân dã. Nó leo lên đình làng, ẩn mình trên các bình gốm, cột đình, cuộn tròn trong lòng bát đĩa hay trở thành người gác cổng chùa. Rồng còn có mặt trong những bức tranh hiện đại phương Đông, biểu hiện một mối giao hòa giữa nền văn hóa xa xưa bằng những ý tưởng mới mẻ kỳ lạ. Rồi con Rồng lại trở về với niềm vui dân dã trên chiếc bánh trung thu của mọi nhà. Quả thật, hình tượng Rồng rất thân thiết trong tâm thức người dân Việt Nam. Các triều đại vua chúa xưa đưa múa Rồng truyền thống trở thành loại hình múa nghệ thuật (múa tứ linh Lê-Trịnh). Rồng trong đời sống dân gian được thể hiện rất phong phú: có múa Rồng trên sân đình trong lễ hội, trò chơi trẻ con Rồng rắn lên mây, hình ảnh Rồng xuất hiện * HÌNH TƯỢNG CON LÂN Lân, hay kỳ lân, là một trong 4 linh vật của tứ linh theo tín ngưỡng dân gian Việt Nam, tượng trưng cho sự thái bình và minh chúa. Lân cũng tượng trưng cho những gì là lộc phúc, may mắn, thịnh vượng. Lân có dung mạo kỳ dị là một hình tượng nghệ thuật được thêu dệt từ trí tưởng tượng của người xưa nhưng đồng thời ẩn chứa trong đó một sức mạnh tâm linh lớn lao. Lân có đầu nửa rồng nửa thú, đôi khi chỉ có một sừng, do không húc ai bao giờ nên sừng này là hiện thân của từ tâm. Phần nhiều lân có sừng nai, tai chó, trán lạc đà, mắt quỷ, mũi sư tử, miệng rộng, thân ngựa, chân hươu, đuôi bò. Thực ra trong tạo hình của người Việt chúng không tuân thủ đầy đủ các nguyên tắc này. Chúng thường được thể hiện trong tư cách đội tòa sen làm chỗ dựa cho Văn Thù bồ tát hay các Hộ Pháp, và nhiều khi ngồi trên đầu cột cổng hay xuất hiện trên mái nhà. Trong những tư cách này chúng xuất hiện cho sức mạnh của linh vật tầng trên, cho trí tuệ và như thể chúng có khả năng kiểm soát tâm hồn những người hành hương. Một dáng hóa thân khác của kỳ lân là con long mã, bao giờ cũng được thể hiện chạy trên sóng nước (lấy từ tích Vua Vũ trị thủy). Người ta thường hiểu rằng: long là rồng, rồng thì bay lên , nghĩa là tung, tượng trưng cho kinh tuyến, thời gian - mã là ngựa, chạy ngang, là hoành, tượng trưng cho vĩ tuyến, không gian. Như vậy long mã tượng trưng cho sự tung hoành của nam nhi, cho thời gian và không gian, long mã chạy là biểu hiện cho vũ trụ vận động, đồng thời tượng trưng cho thánh nhân. * HÌNH TƯỢNG CON RÙA Về mặt sinh học, rùa là loài bò sát lưỡng cư có tuổi thọ cao và thân hình vững chắc. Nó có thể nhịn ăn uống mà vẫn sống trong một thời gian dài. Rùa không ăn nhiều, nhịn đói tốt nên được coi là một con vật thanh cao, thoát tục. Trên bàn thờ ở các đền chùa, miếu mạo, chúng ta thường thấy rùa đội hạc, rùa đi với hạc trong bộ đỉnh thơm ngát và thanh tịnh. Rùa tượng trưng cho sự trường tồn và bất diệt. Hình ảnh rùa đội bia đá, trên bia đá ghi lại sử sách của dân tộc Việt Nam chứng tỏ rùa là loài vật chuyển tải thông tin và văn hóa. Tuy không phải là con vật của Phật giáo, nhưng rùa cũng là biểu trưng cho sự trường tồn của Phật giáo. Trong một số ngôi chùa thời Lý - Trần, rùa được chạm thành tường bằng đá làm bệ đội bia. Dáng rùa đầu to, mập, vươn ra khỏi mai, mõm thuôn nhọn, mắt nhỏ, bốn chân khép sát vào thân mai. 82 tấm bia đã ghi tên tiến sĩ đỗ đạt được đặt trên lưng rùa, một con vật biểu hiện sự trường tồn, hiện còn lưu giữ tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Hà Nội là bằng chứng hùng hồn biểu hiện nền văn hiến bất diệt của dân tộc Việt Nam. * HÌNH TƯỢNG CHIM PHƯỢNG Phượng là linh vật được biểu hiện cho tầng trên. Phượng thường có mỏ vẹt, thân chim, cổ rắn, đuôi công, móng chim cứng đứng trên hồ sen. Với ý nghĩa đầu đội công lý, mắt là mặt trời, mặt trǎng, lưng cõng bầu trời, lông là cây cỏ, cánh là gió, đuôi là tinh tú, chân là đất, vì thế phượng tượng trưng cho cả vũ trụ. Khi phượng ngậm lá đề hoặc ngậm cành hoa đứng trên đài sen, nó biểu hiện là con chim của đất Phật. Tức là có khả nǎng giảng về đạo pháp, làm nhiệm vụ giống như các nữ thần chim: nhảy múa, hát ca chào mừng Phật pháp. Quan niệm của người Việt Nam cho rằng phượng xuất hiện báo hiệu đất nước được thái bình. Chim phượng là loài chim đẹp nhất trong 360 loài chim. Nó có thân hình quyến rũ, kết tinh được vẻ đẹp, sự mềm mại, thanh lịch, vẻ duyên dáng của tất cả các loài chim. Chim phượng còn tượng trưng cho nữ tính, cho phái đẹp của tầng lớp quý phái. Hình tượng con Hạc Ở Việt Nam hạc là con vật của đạo giáo. Hình ảnh hạc chầu trên lưng rùa trong nhiều ngôi chùa, miếu..., hạc đứng trên lưng rùa biểu hiện của sự hài hòa giữa trời và đất, giữa hai thái cực âm - dương. Hạc là con vật tượng trưng cho sự tinh tuý và thanh cao. Theo truyền thuyết rùa và hạc là đôi bạn rất thân nhau. Rùa tượng trưng cho con vật sống dưới nước, biết bò, hạc tượng trưng cho con vật sống trên cạn, biết bay. Khi trời làm mưa lũ, ngập úng cả một vùng rộng lớn, hạc không thể sống dưới nước nên rùa đã giúp hạc vượt vùng nước ngập úng đến nơi khô ráo. Ngược lại, khi trời hạn hán, rùa đã được hạc giúp đưa đến vùng có nước. Điều này nói lên lòng chung thuỷ và sự tương trợ giúp đỡ nhau trong lúc khó khăn, hoạn nạn giữa những người bạn tốt.
  14. Chuột gà lợn bò & Lý thuyết trò chơi Một nhà bị lũ chuột quấy phá, hai vợ chồng bèn mua bẫy chuột. Bọn chuột biết, sợ quá, liền chạy đến cầu cứu gà. Bọn gà nghe xong thản nhiên bảo: - Chuyện bẫy chuột là của các cậu, liên quan gì đến chúng tôi? Lũ chuột không biết làm thế nào, đành đến gặp lợn. Mấy bác lợn thủng thẳng bảo: - Rõ ràng, bẫy chuột là để lấy mạng các cậu, đâu phải lấy mạng chúng tôi. Nói chuyện đó với chúng tôi làm gì? Chuột bèn đem chuyện nói với bò. Bò tức giận bảo: - Vớ vẩn, bẫy chuột chỉ bẫy chuột thôi, sao làm hại tôi được? Chuột sợ quá chẳng dám ra ngoài. Đến đêm người vợ bỗng nghe tiếng bẫy sập liền dậy xem. Ai dè bị con rắn sập bẫy cắn vào chân. Chẳng may, đó là rắn độc nên sức khoẻ người vợ giảm sút nhanh. Người chồng phải thịt gà để vợ bồi bổ. Nhưng, bệnh tình không giảm mà trầm trọng hơn. Họ hàng, xóm làng đến thăm nom nhiều, người chồng phải thịt lợn vừa lấy tiền thuốc thang vừa tiếp đãi khách khứa. Dù thế, người vợ không qua khỏi. Người chồng đành bán bò lo ma chay cho vợ rồi bỏ nhà đi lang thang. Họ hàng nhà chuột phải chuyển đi nơi khác. Lời bàn: Người, chuột, gà, lợn, bò đang sống bình thường. Nói bình thường vì đã là chuột phải quậy phá. Nhưng quậy quá làm người khó chịu nên mua bẫy diệt chuột. Cuộc chơi có yếu tố mới (cái bẫy chuột) làm cho Luật chơi thay đổi (theo Lý thuyết trò chơi). Rất tiếc những thành viên cũ của cuộc chơi đã không lường được điều này. Thế là bi kịch xảy ra. Kết luận 1 - Cái gì quá cũng hỏng Kết luận 2 - Không thể cháy nhà hàng xóm cứ bình chân như vại! (nguồn: http://www.pi-company.com.vn)
  15. Hi, anh Lạc tướng quá khen. Phoenix tầm tài liệu thì nhiều nhưng ngâm cứu là chính chứ chẳng phát minh, phát kiến được cái gì. Phoenix có một quan niệm là nếu không muốn lạc hậu thì phải "biết". Đã muốn biết thì "biết cho rõ ngọn ngành". Có điều, Phoenix thì hơi bị dốt, lại ít thời gian, chưa cái gì gọi là biết cho ra biết cả. Cho nên có ít tài liệu thì share ra cho anh chị em tham khảo. Biết đâu lại phát kiến ra cái gì. Cũng đỡ phí tư liệu mình tầm kiếm.
  16. Mộ ở nơi không ngờ, có thể phải bới bằng tay, nên cẩn thận khi dùng công cụ kim loại để đào bới. Xương cốt có thể không toàn vẹn, phần cằm, miệng bị thương tổn. Gần mộ có bụi cây mọc um tùm. Trong mộ có khi tìm được di vật bằng kim loại.
  17. Cảm ơn Lữ khách phản hồi. Bạn sẽ tay không bắt được "giặc" (nhưng hơi muộn) :P
  18. Lâu rồi nên không biết là anh HC hỏi gì nữa. Các anh chị chú ý có câu hỏi cụ thể cho Phoenix nhé.
  19. Cuộc sống của bạn như sương, lúc tụ thành đám mây, lúc tan thành sợi ây, biến hóa bởi những tác động bên ngoài và lòng ham muốn bên trong luôn biến động. Nhiều việc không do bạn. Tuy có lúc thấy phù du nhưng bản thân bạn lại yêu mến cuộc sống và có khát vọng nội tâm lớn. Sự nghiệp thuận lợi nhưng chưa rực rỡ. Phải có nhẫn nại. Trong đời sẽ có một lúc được an ủi về sự nghiệp nhưng không được lâu dài hoặc bản thân dù có cũng không thấy thỏa lòng. Tình duyên không mong mà tới. Lúc mong lại không tới. Những lo toan nhiều khi không cần thiết. Lòng vô tư thì mọi thứ suôn sẻ hơn. Không nên quá tình cảm. Phản hồi lại nhé, Phoenix thử nghiệm thôi. Chúc vui!
  20. Hic, bắt đền Dim, quẻ thế này không chịu. ;) Có trục trặc về giấy tờ, khó khăn. Việc nhờ vả qua người nữ không thuận lợi. Việc quan trọng, quyết định, sẽ tốn tiền (kinh) nhưng ổn thỏa. Khai Đại An: sẽ chuyển việc mới nhưng chưa phải lúc này. Bé Dim luận thử hộ xem tốn bao nhiêu tiền nhé! :lol:
  21. Mọi vấn đề vẫn đang tốt thì không cần thiết suy tính nhiều. Cứ để em bé phát triển tự nhiên trong sự chăm sóc tốt của bố mẹ. Khi nào lớn lên nữa hãy tính. Trẻ còn rất cần sống vô tư. Mọi thứ đều có sức tương tác. Tư duy cũng tạo ra những luồng tương tác, ảnh hưởng. Nếu chưa cần thiết thì chẳng nên tân toan, lợi ít - hại nhiều. Chúc bé khỏe nhé!
  22. Nguyên Trang – Tạp chí Nhịp cầu đầu tư Muốn nâng một đứa trẻ lên, trước hết người lớn phải khom mình xuống. Chúng ta ai cũng biết, đứa con thân yêu của mình rất cần sự quan tâm, chăm sóc của cả cha lẫn mẹ. Thế nhưng, trong cuộc mưu sinh chóng mặt hôm nay, không phải bất kỳ ông bố, bà mẹ doanh nhân nào cũng làm được điều đó. Nhiều bậc cha mẹ đã quên mất quỹ thời gian dành cho con, quên mất vai trò là người bạn của con, quên mất mình không chỉ có nghĩa vụ cung cấp điều kiện vật chất mà còn là chỗ dựa tinh thần cho chúng bất cứ lúc nào. Có rất nhiều câu chuyện thú vị về cách giáo dục con của các doanh nhân. Để vừa thành đạt trên thương trường, vừa thành công trong nuôi dạy con đâu phải là điều quá khó với họ. Chiều con bằng sự nghiêm khắc Rất hiểu sự ảnh hưởng của xã hội lên tâm lý con trẻ trong tuổi mới lớn, ông Chung Ju Yung, Chủ tịch tập đoàn Huyndai, luôn lắng nghe lời khuyên của mọi người để có cách giáo dục con thích hợp. Trong hồi ký của mình, ông chia sẻ: “Tôi đã thấy các gia đình giàu có con sa ngã, bị xã hội lên án, phê phán. Như mọi người cha, tôi luôn muốn bảo vệ các con mình.” Ông đã bảo vệ các con mình không bằng sự chiều chuộng mà bằng sự nghiêm khắc. Đến mức, khi có điều muốn nói với bố, chúng không dám nói trực tiếp mà đều thông qua mẹ. Ông sợ sự dễ dãi của mình sẽ làm các con hư. Chính vì vậy, vợ ông luôn là cầu nối giữa mấy cha con. Ông luôn dạy các con phải cần kiệm. Không được nghĩ mình là con nhà giàu rồi xa lánh người nghèo. Đều là những “cậu ấm, cô chiêu” nhưng các con ông không bao giờ đến trường bằng xe hơi, mà phải dùng những chiếc xe cũ, để hiểu được hạnh phúc khi đi bằng chiếc xe do chính mình làm ra. Đời là trường học lớn … Không bỏ lơi, cũng không kèm cặp, một chuyên gia ngành ngân hàng chia sẻ, ông muốn con mình lớn lên như một cây xanh trong thiên nhiên, chứ không phải là một cây được tỉa tót, uốn nắn và chăm bón trong chậu. Khi đưa con trai lên 5 tuổi, ông nhận thấy rắng, nếu không đưa con về lại với cách sống của người Việt Nam thì nó sẽ bị Mỹ hoá. Một đêm rất lạnh trong lễ Tạ ơn, ông đã đánh thức con dậy, rồi đưa nó xuống một khu phố có rất nhiều người vô gia cư ngủ trên lề đường. Ông chỉ vào những người nằm ngủ trong thùng carton và nói: “Chỉ cần động cơ một máy bay bị trục trặc, máy bay rơi xuống, thì con cũng sẽ kiếm một chiếc thùng carton và nằm ở đây nếu con không thay đổi”. Cậu con trai suy nghĩ và từ đó biết thương người hơn. Đến năm 16 tuổi, “cậu ấm” lấy được bằng lái xe và rất muốn lái xe. Ông chở con trai lên một đỉnh núi rất cao, chỉ còn đường đá, sương mù và những con beo, gấu. Chỉ xuống phía dưới ngọn núi ông nói: “Ở dưới kia là tương lai con sẽ lớn lên, con hãy lái xe về. Sinh mệnh của ba và con đang nằm trong tay con. Những gì trong trường dạy lái xe không dạy thì hôm nay con phải thử thách, sau này con sẽ thấy, nhà trường chỉ dạy những điều rất nhỏ, còn những điều lớn lao con phải học từ cuộc đời”. Với những bài học thiết thực từ người cha, cậu thanh niên ấy đã trưởng thành, trở về là một người Việt dù được sinh ra trên đất Mỹ. Thời gian “bất khả xâm phạm” Chị Nguyễn Hoàng Anh, Tổng Giám đốc Công ty TNHH Fabaco cho biết: “Cả hai anh chị đều bận rộn với kinh doanh nhưng công việc của anh tất bật hơn nên chị thay anh chăm sóc các con.” Mỗi ngày, khi cùng con học bài xong là hai mẹ con tâm sự với nhau. Chủ nhật cả gia đình cùng đi chơi. Đó là thời gian “bất khả xâm phạm” mà chị rất trân trọng, nâng niu. Đi kèm với những câu chuyện cổ tích là câu chuyện từ chính tuổi thơ của chị. Chị muốn các con hiểu rằng, chúng được sống trong điều kiện tốt hơn mẹ hồi xưa rất nhiều, nên phải ngoan, cố gắng học giỏi nhiều hơn nữa. Trong các chuyến công tác từ thiện, thăm trẻ em mồ côi SOS chị đều dẫn con theo. Mỗi chuyến đi là một bài học. Chị dạy con phải biết yêu thương những bạn không có điều kiện như mình và không nên vòi vĩnh. Năm bé Trân lên 4 tuổi, một lần vào công ty chơi với mẹ, nghe chuông reo hết giờ, bé nói: “Hết giờ làm việc rồi, các cô chú đi ra hết đi”. Chị hốt hoảng về câu nói của con và bỏ cả buổi giải thích cho bé hiểu rằng, đây không phải là công ty riêng của ba mẹ, mà là của mọi người, bé phải lễ phép với mọi người. Bây giờ thì bé Trân đã không vòi vĩnh mẹ mua những món đồ chơi đắt tiền, mà còn biết để dành tiền xu mẹ cho vào các hòm từ thiện. Nhân cách không thể mua Một doanh nhân nổi tiếng trong kinh doanh võng xếp đã giáo dục con bằng phương pháp “con nhà nghèo”. Tiền bạc có thể làm ra được nhưng nhân cách sống thì không thể mua bằng tiền. Gia tài ông để lại cho con không phải là sản nghiệp mà là kiến thức, kinh nghiệm thực tế từ cuộc đời ông. Con trai đã học lớp 12, song ông vẫn cho sở hữu mỗi chiếc xe đạp. Có khi đi học xa, đến 8 cây số “cậu ấm” vẫn lóc cóc đạp xe. Từ số 0 làm nên, nên ông muốn rèn cho con tính tự chủ, tự cường. Ông không tiếc tiền làm từ thiện nhưng với con ông rất nghiệm ngặt trong cách chi tiêu: “Khi con chưa làm gì ra được tiền thì con không có quyền đòi hỏi. Để đến khi con tự mình đổ sức lao động, con mới cảm thấy nó có giá trị và hạnh phúc biết bao nhiêu”. Có lẽ vì những bài học thấu tình đạt lý của ba, mà cậu con trai của một Tổng Giám đốc danh tiếng này rất ngoan, rất “bình dân”, không hề gắn mác “con nhà giàu”. Xin được kết thúc câu chuyện bằng những chia sẻ của Tiến sĩ Tâm lý Huỳnh Văn Sơn, Trưởng bộ môn Tâm lý học trường Đại học Sư phạm TP.HCM: “Có cơ hội tiếp xúc với trẻ em, tôi nhận thấy, các em rất có nhu cầu được quan tâm, được tâm sự với cha mẹ, nhưng đa số lại không dám nói. Tôi cứ xót xa mãi với những giọt nước mắt và câu nói hết sức bình thường của một cậu bé 15 tuổi khi được mẹ nấu cho nồi nước xông lúc bị bệnh: “Mẹ đừng đi hoài mẹ ơi, con chán lắm!” Trẻ con sinh ra được quyền hưởng những điều mà vốn dĩ chúng phải được hưởng. Tôi muốn chia sẻ một cách thật tâm rằng, các bậc cha mẹ là doanh nhân hãy biết hy sinh thời gian cho con cái nhiều hơn. Không phải lúc nào cũng ở bên cạnh con là có thể giáo dục con tốt. Cũng không có một cách thức giáo dục cụ thể hay phổ quát nào cho các gia đình doanh nhân. Tự mỗi người cha, người mẹ sẽ tìm được cách tốt nhất, phù hợp nhất để làm bạn với con mình. Không cần định lượng thời gian nhiều hay ít mà hãy định tính bằng những gì ba mẹ chia sẻ với con như: những buổi ăn tối đầm ấm, những buổi họp phu huynh, những giờ phút đi chơi cùng con … tuy ngắn ngủi, nhưng thường xuyên vài lần trong tuần để nghe con cái tâm sự. Vấn đề là sự gần gũi theo đúng nghĩa trong tình cảm gia đình. Có thể viết thư, gọi điện cho con khi có cơ hội, nhiều lần trong một ngày hay trong các chuyến công tác xa … Sợi dây tình cảm gia đình sẽ được bền chặt hơn và hiệu quả giáo dục con cái sẽ có giá trị hơn rất nhiều. Trẻ con cần được quan tâm, ngược lại chúng cũng rất hiểu và quan tâm đến ba mẹ. Vì vậy, trên thực tế, những gia đình doanh nhân hiếm hoi thời gian ở bên cạnh con đừng ngại ngùng “thú nhận” với chúng điều đó. Không có gì dễ chịu bằng sự thông cảm và chia sẻ cùng nhau. Sẽ không có điều gì khó và quá tầm tay, nếu chúng ta biết chọn lựa một phương cách thích hợp để thực hiện nó. Động lực để chị Lê Hoài Anh vượt qua mọi khó khăn chính là cô con gái yêu. “Mỗi lần nhìn con, tôi quên hết buồn phiền”, chị bộc bạch. Đó cũng là tâm lý chung của các bậc cha mẹ. Chính vì thế, hãy khom mình xuống đời con trẻ, để giúp chúng có những bước đi vững vàng, chín chắn trên con đường tâm lai. Nguyên Trang (st)
  23. Các vấn đề của Nhật Bản: Hikikomori- lối sống hay căn bệnh Nguồn: tuhai.com.vn rotateBanner(); Người Nhật có từ dành riêng cho chứng bệnh sinh ra từ hệ thống GD và sức ép xã hội này là "hikikomori". Nếu như hơn một thập kỉ trước nó là một cǎn bệnh mà mỗi gia đình xem như tai hoạ giáng xuống đầu mình và không dám thổ lộ cùng ai thì đến nay nó đã trở thành một vấn đề mà bất cứ ai cũng có thể phải đối mặt, một tình trạng mà nhiều gia đình cầu mong không len lỏi vào người thân. "Hikikomori" chỉ một chứng bệnh mà người mắc phải có xu hướng tránh xa xã hội. Cǎn bệnh bí ẩn được chính thức công nhận vào thập kỉ trước và đến nay đã lan rộng thành một dịch bệnh đáng sợ của xã hội Nhật Bản. Theo Bộ Sức khoẻ, Lao động và Trợ cấp Nhật Bản thì khoảng 1,2 triệu người đã trở thành nạn nhân của dịch bệnh này. Mầm mống của căn bệnh này có thể là sau một lần bị bắt nạt, hỏng thi đại học hoặc không kiếm được một công việc vừa ý. Trái với cách sử xự thông thường, họ đóng cửa phòng ngủ lại, kéo rèm và tự nhốt mình trong một thế giới rộng vài mét vuông bởi họ cho đó là một thế giới an toàn. Đây được coi là hậu quả của một xã hội Nhật Bản quá kì vọng vào sự thành công cá nhân. Hầu hết những người trẻ tuổi chịu sức ép rất lớn từ xã hội, cha mẹ và trường học: họ phải trở nên độc lập, phải tiến bộ liên tục và không có ngưỡng thành đạt cuối cùng. Và khi không thể thực hiện được những mong mỏi đơn giản như hỏng thi hay không hoàn hảo trong một môn thể thao nào đó thôi họ cũng tự biến thành nhà tu ẩn dật thời hiện đại. Theo Koji Yoshida, một chuyên gia tại Trung tâm thần kinh và tâm thần quốc gia tại Tokyo thì "có nhiều nguyên nhân dẫn tới hikikomori. Với nhiều người, đó là những mối quan hệ với con người mà họ không thể giải quyết, cái mà hầu hết mọi người coi là một vấn đề nhỏ thì với họ trở thành một vấn đề to lớn và bế tắc và cách đơn giản nhất là rút vào thế giới riêng của họ". Trong khi không thể chặn tận gốc dịch bệnh hikikomori thì người Nhật đang phải tìm ra những liệu pháp giúp người bệnh thuyên giảm. Nǎm ngoái, Trung tâm TK và TT đã nghiên cứu cuốn sách bỏ túi kiểu cẩm nang và được phát hành bởi Bộ y tế. Trong đó nó đề cập tới các lí do cơ bản tại sao trở nên có hiện tượng "chui vỏ ốc" và đưa ra cho họ cùng gia đình cách giải quyết tốt nhất. Cuốn sách nói với họ việc cư xử bất bình thường như xa lánh xã hội khi bị stress quá mức là bình thường và đó là một cơ chế tự bảo vệ rất tự nhiên và họ không nên cảm thấy có day dứt gì về hành động xa lánh xã hội của mình. Mặc dù có những nỗ lực của các chuyên gia tâm thần nhưng Yoshida thừa nhận rằng vấn đề đang ngày càng tệ hơn. Cho ví dụ trong nǎm 2001, 2464 trung tâm y tế trên toàn nước Nhật đó nhận 3759 ca; thì vào nǎm 2003, con số người mắc hikikomori cần tư vấn đã tǎng lên 9986 người. Và thực tế thì đó chỉ là bề nổi của tảng bǎng chìm. Bộ y tế Nhật phân loại hikikomori như là một hiện tượng xã hội hơn là một cǎn bệnh và các biểu hiện triệu chứng là mất ngủ, rối loạn tâm lí, sợ khoảng rộng và lo sợ bồn chồn. Khi mà Chính phủ chưa làm được nhiều trong khi nỗi đau của mỗi gia đình có người thân mắc bệnh ngày càng lớn thì đã có nhiều cá nhân tự vận động chống chọi lại chứng bệnh lạ lùng này – Susumu Ito là một ví dụ. Ito có cậu con trai 38 tuổi mắc hikikomori và 18 nǎm qua đã là người trải nghiệm những cung độ của cǎn bệnh này mà đỉnh điểm là 3 lần cậu con trai tìm cách tự sát. 3 nǎm trước Ito đã sáng lập một tổ chức giúp đỡ những nạn nhân hikikomori có tên Zenkoku Hikikomori KHJ tại thành phố quê nhà Konan, gần thành phố Nagoya miền trung Nhật Bản và đã rất bất ngờ vì có quá nhiều người hưởng ứng. Tới nay có hơn 150 gia đình là thành viên của hội. Ito nhớ lại về trường hợp của con mình: "Rất khó để nói con trai tôi mắc hikikomori từ khi nào nhưng những dấu hiệu đầu tiên bắt đầu từ khi nó học cấp 2, lúc khoảng 13 tuổi. Một hôm nó buông gọn một câu là không muốn tới trường nữa. Lúc đó còn chưa có khái niệm "hikikomori" và tôi không hiểu điều gì đã xảy ra, vì vậy tôi đưa con tới bệnh viện. Bác sĩ chẩn đoán cháu bị cǎng thẳng và kê một vài loại thuốc an thần nhưng triệu chứng chỉ giảm đi chốc lát và trở lại tình trạng cũ". Cậu con Manabu được đưa trở lại trường nhưng một lần nữa quyết định bỏ học và rút vào thế giới riêng. Khi lớn lên hikikomori dường như thuyên giảm và Manabu đến phụ việc cho một vài công ty bao gồm 1 công ty tài chính và một nhóm trống truyền thống nhưng khi tới tuổi 30, cǎn bệnh kì quái lại quay lại. Ito kể: "Nó đấm ngực và hét lên rằng "tôi không thể làm việc; cha mẹ của tôi đã già; tôi không thể kiếm được tiền" – và đó là lí do vì sao nó tự sát 3 lần nhưng may mắn là mẹ cháu đều phát hiện kịp thời". Với kinh nghiệm giúp đỡ con trai, hàng ngày có hơn 100 người đến tìm ở Ito những lời khuyên. New Start cũng là một tổ chức được gây quĩ hoạt động bởi chính các gia đình có người thân mắc hikikomori đang phát huy tác dụng. Tổ chức này có cơ sở lưu trú với 80 giường bệnh tạo nên một thế giới của những người mắc một hội chứng tương tự và họ có thể học được từ nhau. Điểm đáng lưu ý là 90% bệnh nhân là nam giới. Điều này không khó giải thích bởi người đàn ông trong xã hội Nhật gánh quá nhiều sức ép: đàn ông phải mạnh mẽ, phải uyên bác, phải làm việc cật lực và kiếm thật nhiều tiền. Hikikomori đã không chỉ là một hội chứng trong lòng nước Nhật mà cũng phát tác ở nhiều nơi khác. New Start đã có 3 chi nhánh tại nước ngoài, một ở một trường dạy tiếng Nhật ở Manila và 2 còn lại ở 2 nhà hàng tại Seoul và Rome. Tuy nhiên New Start cũng phải thừa nhận không phải tất cả mọi bệnh nhân đến đây đều tiến triển tốt và có khoảng 10% quay trở lại cuộc sống cũ, đóng sập cánh cửa với thế giới bên ngoài. Theo báo Giáo dục và thời đại
  24. Xin lỗi anh Hungisu nhé, Phoenix nhầm nick. Phoenix có phản đối gì bài viết đâu, chỉ là nói chuyện thôi mà.