phoenix

Hội Viên Ưu Tú
  • Số nội dung

    1.107
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    2

Everything posted by phoenix

  1. Pho Tượng Đẹp Nhất Của Việt Tộc PHẦN ĐÓNG GÓP VIỆT VÀO VIỆC HÌNH THÀNH CHỮ NHO Nguồn gốc chữ Nho chìm trong đêmtối dĩ vãng, nay chỉ còn những ấn tích lu mờ. Dầu vậy, có thể tìm ra dấu vết về phần đóng góp của Việt tộc. Trong sách Thống Chí do Trịnh Tiều sưu tập có lưu truyền sau: “Vào đời Đường nước Việt Thường biếu rùa thần, sống một nghìn năm, lớn hơn ba thước trên mu có chữ con quăng ghi việc từ khai thiên lập địa về sau. Đế Nghiêu ralệnh ghi chép lại va gọi là quy lịch”. (Đường chi thế, Việt Thường quốc hiến thần quy, cái thiên tuế, phương tam xích dư, bối hữu khoa đẩu văn, kí khai tịch dĩ lại. Nghiêu mệnh lục chi vị chi quy lịch). Đoạn văn trên cung ứng haichứng tích quan trọng: một là quy lịch, hai là chữ con quăng. A. Trứơc hết xin nói qua về quy lịch. Quy lịch sau đổi tên là quy thư tức Lạc thư, trước nữa gọi là Cửu Lạc vì gồm bởi bộ số 2, 3, 5 và nhất là 9. Đó là bộ số lịch của Việt tộc mà người Mường gọi là chí rò (Chín rùa). Vua Nghiêu sai chép lấy, đến sau được ghi lại trong Thiên Nguyệt lệnh ở Kinh Lễ. Dấu đặc trưng của nó là số 5 tức là số trung ương trong gậy thần của Hùng Vương. Nói rằng ai căm trúng số 5 thì làm chủ được cả sống cả chết. Người Tàu khởi đầu chú ý đến số 6 của lịch nhà Chu, nên Nguyệt lệnh dùng số 5. Đó là ấn tích nhà Chu chịu ảnh hưởng Việt tộc. Điều này có nội dung triết. Ai đã hiểu hai bộ số 2-3 sẽ thấy câu trên giá trị đến đâu, tức số 6 nhà Chu nhường bước trước số 5, tức là cơ cấu nhà Chu đầu hàng trước cơ cấu người Việt. Vì đã bàn nơi khác nên xin thông qua để nói đến điều hai là chữ khoa đẩu hay con quăng. B. Về chữ con quăng là của Việt tộc, gọi là con quăng hay nòng nọc vì có hình như con giun. Đó là ý nghĩa căn cứ vào hình thể bên ngoài. Còn ý sâu xa là chữ của những dân đã nhận vật biểu xà long và giao long. Cả hai thuộc giống bò sát, nên tượng hình chỉ bằng chữ trùng mà ta thấy còn dùng để viết chữ Man Di, là tên chỉ tổ tiên ta. Đời Xuân Thu đổi tên là Sở, trước nữa gọi là Kinh Man, trứơc nữa gọi là Man. Còn Châu Dương (Kinh Dương Vương) gọi là Di, cũng có tên là Hoài Di, Di Việt. Đó là gốc 2 chữ Man Di. Hỏi là tên của tổ tiên tại sao lại viết chữ hèn hạ vậy? Thưa hèn hạ là tại quan niệm về sau ra thế mà thôi, chứ ban đầu nó tượng cho xà long hay long không có chi hèn hạ cả. Si Vưu cũng có tên Li Vưu. Chữ Li cũng viết với bộ trùng. Trong mấy chữ Oa của tên bà Thái mẫu Nữ Oa, có chữ viết với bộ trùng và chỉ loài ếch nhái. Vì lẽ đó mà ta thấy trong đồ vật khảo cổ dạng người nhái đã biến thành diễn đề chính trong nhiều di vật. Chẳng hạn hình người nhái trong các qua hay phủ Việt sau đây. I. Hình người nhái tìm được ở Ngưỡng Thiều do ông Anderson gồm 3 hình: 2 người nhái Sơn Tây, 1 người nhái Hanam (Trung Quốc). II, III Hình người nhái trong cán giao tìm được ở Sơn Tây (Việt Nam) IV. Hình người nhái trong cán giao tìm được ở Hà Nam bên Tàu. Những hình người nhái đó đơn giản dần hóa ra loài bò sát được lượng bằng chữ trùng và chữ trãi trong một chữ Lạc. Nó cũng nói lên một gốc là xà long nhưng khác về dạng tự. Đại để đó là ít điều về chữ khoa đẩu.Về chữ chân chim (điểu tích văn) cũng nên hiểu theo nghĩa huyền sử, tức là thứ chữ của dân nhận vật biểu chim như chữ Hùng Việt và Lạc Việt. Cả hai chữ đều viết với bộ chuy là chim: Hùng và Lạc. Trên nữa là chữ Hồng Bàng thì cả hai chữ vừa viết với bộ thuỷ (hay giang) chỉ loài sống dưới nước, và điểu chỉ loài bay trên trời. Còn Bàng là nhà Rồng tức Nhà lớn, có bộ Long. Theo lưu truyền thì chữ chân chim có từ đời Thần Nông do ông Thương Hiệt sáng nghĩ ra. Lưu truyền này kiện chứng cho ý nghĩ trên (là chữ chân chim thuộc Việt tộc vì nhận vật biểu chim) bởi cả hai tên Thần Nông và Thương Hiệt đều chỉ về nông nghiệp lúa Mễ của Việt tộc. Xem thế thì rõ ràng chữ Nho xưa bám sát hai vật biểu nước ta là Tiên (chữ chân chim), và Rồng (chữ con quăng). Quyển Kinh Dịch cũng mở đầu với sáu thể Rồng ở quẻ Kiền và kết sách bằng thập dực = 10 cánh chim. Đó chính là con dấu tác quyền của tổ tiên đã đóng trên quyển Kinh nền tảng nhất. Ngoài ra, nội dung Kinh Dịch là 64 quẻ cũng là bấy nhiêu chữ Giao Chỉ tức một quẻ đơn trên giao thoa với một quẻ đơn dưới làm thành quẻ kép. Quẻ trên chỉ Trời tượng bằng chim (chữ chân chim) quẻ dưới chỉ Đất nước tượng bằng Rồng (chữ con quăng). Đó là những dấu vết nói lên phần đóng góp Việt tộc. Sở dĩ ta coi chữ Nho là của Tàu vì đến đời Tần Thuỷ Hoàng thống nhất các chữ xưa kia lại một kiểu mới là chữ lệ ngày nay, bãi bỏ chữ con quăng và chân chim. Thế rồi lâu ngày ta quên gốc nên quy hết cho Tàu. Còn nếu xét toàn diện thì sẽ thấy rõ nguồn gốc Việt ở hai giai đoạn trước, Tàu chỉ ở giai đoạn ba. Giai đoạn I: kết thằng thắt nút giâythay chữ Giai đoạn II: a/ Điểu tích văn: chữ chân chim do Thương Hiệt đời Thần Nông. b/ Chữ con quăng tiếp sau. Chữ này cũng gọi là đại truyện. Giai đoạn III: chữ Nho hiện nay gọi là tiểu truyện hay chữ lệ, mới có từ đời nhà Tần và đây là một thành công của Tàu. Tác giả Kim Định (còn tiếp)
  2. Pho Tượng Đẹp Nhất Của Việt Tộc 8. VAI TRÒ CHỮ NHO Từ nửa thế kỷ nay đối với chữ nho hầu hết giới trí thức Việt đã có một thái độ giận cá băm thớt. Giận vì Á Châu chậm tiến nên thua trận. Giận vì Tàu hay dở thói “Cả vú lấp miệng em” v.v… Thế rồi giận luôn chữ nho với sự thích thú của thực dân, đang cố làm cho Việt ruồng bỏ nho để dễ đồng hóa. Tại sao họ nghĩ như vậy? Vì họ biết chúng ta đã thâu nhận chữ nho từ hơn 20 thế kỷ, quá đủ lâu để ngấm tận tiềm thức. Đấy là họ mới biết có Hán nho, nếu họ nhìn ra nguyên nho thì còn thấy nó giống hệt với Việt Đạo, giống từ trong cơ cấu (xem Sứ Điệp). Nên ruồng bỏ nho cũng là ruồng bỏ Việt Đạo, đó là điều xin bàn sơ qua ở đây. Việt cũng như Nho đều là kết quả của tinh thần nông nghiệp dài lâu, một tinh thần đồng nhất với Minh triết. Nói minh triết hay nói tinh thần nông nghiệp cũng thế, đến nỗi hễ nơi nào bước sang chế độ công thương thì cũng đánh mất minh triết. Trong cựu thế giới có hai nền nông nghiệp lớn thì miền thuộc Lưỡng Hà bị du mục chinh phục ngay từ đầu, từ thời Sumer, Babylon. Còn lại có miền Đông Á là đứng vững vì nó quá mênh mông trải dài từ Bắc nước Tàu xuống tận các đảo Thái Bình Dương. Nhờ sự mênh mông đó mà trường tồn. Tôi gạch dưới chữ mênh mông để nói lên rằng không cần người nằm trong văn hóa Việt nho có thiên tư đặc biệt hơn ai để có được một số đức tính quan trọng, mà chỉ một sự tình cờ sử địa đã đủ giải nghĩa sự thành công kia. Trong miền nông nghiệp mênh mông đó chủ nhân sơ thuỷ là Viêm Việt với vô số chi nhánh cũng như những danh xưng khác nhau, từ Tam Miêu, Cửu Lê qua Bàn, Bộc, Mân, Mán, Di, Việt… tất cả đều sống theo tinh thần nông nghiệp tuy với những sắc thái khác nhau, nhưng xét về đại cương thì cùng chung một số huyền thoại lưỡng nhất tính (dual unit) mà đại biểu là Sơn Tinh Thuỷ Tinh, rồi cũng có tục thờ ông bà, tôn trọng bậc trưởng lão, đề cao gia đình, cũng xâm mình, đeo lông chim khi múa, trọng bên tả: “tả nhậm” v.v… và xét sâu vào căn bản thì cùng vâng theo một bộ cơ cấu, một tinh thần như nhau. Tinh thần đó về sau chia ra hai đợt = nhân gian và bác học. Nhân gian thì tự đầu từ rất xa xưa cho tới lối vài ngàn năm trước công nguyên. Bác học thì nảy sinh từ lối thế kỷ 15, trở nên mạnh lối thế kỷ 6-3 tr.c.n. Đấy là vài mốc tạm dùng để phân thờigian nhưng không nên hiểu cách xác định rõ ràng vì hai bên ăn ngoàm vào nhau rất sâu. Nói khác nhân gian sau gọi là chất gia, chính là gốc cho bác học sau kêu là văn gia, mà nho gia là đại diện nổi nhất. Cả hai làm nên một khối văn hóa mà nay xin được gọi là Việt nho. Việt xét như giai đoạn đầu, giai đoạn hình thành đạo lý. Còn Nho là giai đoạn công thức hóa Việt Đạo. Cả hai là một đến nỗi có thể nói là đồng tính mà chưa cần biết bên nào sinh ra bên nào. Cứ lý thì Việt có lâu đời trước, nhưng nho cũng là sản phẩm bản địa. Ngay chữ nho ban đầu cũng có ít ra đến ba loại trong đó loại chữ chân chim (điểu tích văn) và chữ con quăng (khoa đẩu) hầu chắc là do Việt chủng. Còn nho thống nhất kêu là chữ Lệ là do Tàu từ Tần Thuỷ Hoàng, đó là việc muộn về sau cũng y như Hán nho nảy sinh từ đời Chu và thịnh đạt đời Hán. Vậy miền theo tinh thần nông nghiệp của Việt tộc cũng như nông nghiệp trong khắp thế giới bị các làn sóng xâm lăng du mục liên tục đánh phá, nhưng vì đất đai của Việt tộc quá mênh mông cũng như vững mạnh nên cảm hóa được các làn sóng xâm lăng từ phía Bắc. Tuy nhiên có bị pha tạp và vì thế mà mạn Bắc nước Tàu nảy sinh Hán nho. Còn mạn Nam thì bị Aán giáo như các nước Miên, Lào, Thái, Anh-đô-nê, Mã Lai… riêng Việt Nam vì ở xa hai đầu nên còn giữ được tinh thần nguyên thuỷ nhiều hơn hết nên đáng giữ danh xưng Việt để đại diện cho buổi sơ khai đó, mà vì vậychúng tôi gọi là Việt nho, tức Việt Đạo cộng với nguyên nho, cả hai là một về bản chất mà ngày nay muốn hiểu thấu đáo cần đi ba bước. Bước 1: nhận diện Hán nho. Bước 2 truy ra nguyên nho. Bước 3 khám phá ra Việt nho. Vậy nho xuyên qua chữ Lệ quả là của Tàu và chúng tôi kêu là Hán nho. Nhưng nho với chữ khoa đẩu và điểu tích lá sản phẩm chung của văn hóa Việt tộc lẫn Tàu, thuộc giai đoạn hai, giai đoạn mà văn hóa đi với thôn làng, bước sang văn minh đi với thành thị mà dấu biệt lập là văn tự. Theo sách thuyết văn diễn giải của Đỗ Thận thì giai đoạn đầu kêu là văn, rồi khi chép thành sách mới kêu là tự thành ra văn tự. Với văn tự thì văn hóa bước từ huyền thoại (thoại ngôn) sang văn ngôn. Văn ngôn dùng những câu nói trục chỉ, ngắn gọn đến độ bi ký (tạc vào bia). Thoại ngôn nói bằng biểu tượng thí dụ bánh giầy bánh chưng, còn văn ngôn thì chắt lấy ý nghĩa của biểu tượng rồi giồn vào một công thức gọn như “nhân giả kỳ thiên địa chi đức”. Huyền thoại kể truyện rồng tiên thì văn ngôn giồn vào hai chữ âm dương. Con đường tiến hóa của nhân loại cũng tương tự như thế, chỉ khác nhau ở một điểm cực kỳ lớn lao và duy nhất được thấy ở đây mà thôi đó là Việt Đạo với nho là một. Văn gia với chất gia không hai… Còn các nơi thì văn gia đi theo du mục (công thương) trái hẳn với nông nghiệp của chất gia, và cho tới nay chưa sao bắc được nhịp cầu thông cảm, nên tiếng của bác học trở nên tử ngữ. Còn chữ nho thì lại sống động đáng tên la linh tự linh ngữ, vì nó vẫn thông với chất gia nên sống trong lòng dân, và làm cái trụ bất biến cho tiếng dân gian luôn luôn biến đổi. Chính sự vụ đó giải nghĩa tại sao cha ông ta dùng rất nhiều chữ nho. Theo sự ước lượng của Ngô Tất Tố là 6000 từ nho trong số 10.000 từ Việt, còn cố Cadière là 8000 từ nho trong số 13.000 từ Việt. Ngoài ra chỉ khác có hai điểm, một thuộc cú pháp = Việt nói áo xanh, xanh sau áo, Tàu nói áo sau xanh = thanh y. Hai là một số hư tự như dĩ, hĩ, giả, dã, chi, hồ. Ngoài ra giống nhau rất nhiều và sẽ là một đề tài đầy thích thú cho các ngữ lý gia… Nhưng chưa cần khám phá thêm cũng đã có thể kết luận rằng nho chiếm đến quá bán từ trong tiếng Việt. Đến nỗi những người đã cố gắng thải bỏ nho cũng không làm sao được, thí dụ Tự Lực Văn Đoàn thì ngay cái tên đã đầy nho từ trong cú pháp. Aáy là chưa kể đến hai điểm chưa hiểu biết. Một là chưa biết phân biệt Hán nho và Nguyên nho. Hai là chưa biết chi đến giai đoạn hình thành của Nguyên nho và nhất là Việt Đạo. Còn một điểm quan trọng khác đó là văn hóa nào muốn cho có đức tính toàn diện cũng phải có một tam giác ngữ gồm một tiếng nói thông thường để sống trong nước, một ngoại ngữ để giao thiệp vớingoài và một tử ngữ để thông với tổ tiên văn hóa. Tây Aâu đã một dạo vì quá đề cao ích dụng nên lơ là tử ngữ. Nhưng nay nhiều triết gia cũng như giáo dục gia đang hô hào phải trở lại tử ngữ cho tâm hồn bớt tán loạn. Tuy nhiên vì là tử ngữ nên không chơi nổi vai trò vòng trong ít ra cách hữu hiệu như linh ngữ linh tự. Riêng về Việt thì bỏ nho tức là bỏ mất nét song trùng nền tảng nhất trong ngôn ngữ, mà không sao bù đắp bằng cái chi khác được. Là vì một nền văn hóa mạnh thì phải trường tồn, mà sự trường tồn phải đựơc đại biểu bằng một số câu nói không biến đổi và cổ kính để đáng tên là công thức. Vì đã là công thức thì ai ai cũng phải đọc lên như nhau, xưa thế mà mai sau muôn đời cũng thế. Chính điều đó mới đem lại cho câu nói cái vẻ trang trọng cổ kính u linh. Nói Đoàn Văn Tự Lực đâu có trang trọng bằng Tự Lực Văn Đoàn. Muốn cho trang trọng cần công thức hóa là thế. Điều ấy trong thông ngữ không làm sao có được, vì thông ngữ có nhiệm vụ theo sát đời sống là cái luôn luôn biến đổi, đã thế thì còn đâu là tính chất bất hủ, cổ kính của châm ngôn, của công thức. Một tư tưởng hay mấy mà khi phát biểu bằng thông ngữ thì sẽ chóng bị trộn lẫn với toàn khối để biến mất dạng không còn ai nhận ra là công thức nữa (thí dụ triết lý Việt nho đang bị như thế). Điều đó chỉ gặp được trong tử ngữ và đối với tiếng Việt thì đó là chữ nho. Chữ nho ăn sâu vào tiếng nói thông thường nên khi đưa ra một câu quen thuộc thì không có vẻ gì xa lạ như khi trưng tiếng Pháp hay tiếng Anh, mà đồng thời lại chơi được vai trò công thức do cái vẻ trang trọng, cổ kinh đáng têngọi là linh tự linh ngữ là vì vậy. Chính bởi thế mà có sự vụ coi như mâu thuẫn này là học càng khó càng có cơ hội đi sâu vào tâm khảm, tức càng đặt nền tảng vững cho hạnh phúc người đi học. Đó là điều đầu óc ích dụng không thể thấy được. Nhưng ai đã hiểu thấu triệt về yếu tính người sẽ nhận ra là con người không chỉ cần những cái ích dụng vật chất, mà còn cần những cái khác về tinh thần, như cái nhìn toàn diện trên cả cuộc đời. Vậy chính những câu chữ nho trong kinh điển cung cấp cho ta những cái đó, như cái nhìn về toàn thể cuộc sống, về mệnh hệ con người muôn thủa, là những điều cần thiết cho cuộc sống toàn diện. Không một tri thức nào dù thuộc khoa học cao mấy có thể cấp cho con người cái nhìn toàn diện kia. Thế mà cái nhìn toàn diện kia lại đích thực là nền móng cho hạnh phúc. Đã có thời người ta tin rằng hễ biết nhiều là có văn hóa cao. Đó là lầm tưởng: nhiều khi biết nhiều lại phản văn hóa, như khi những tri thức đó tủn mủn vụn vặt không được thâu tóm vào một cơ sở tinh thần, lúc ấy chúng chỉ là cái học kềnh cơi, chứa nhiều quá có hại. Vì những lý do nền tảng như trên, nên chúng tả phải quyết tâm một lần nối Việt với Nho lại một. Tóm lại dù bởi tình cờ lịch sử hay chi đi nữa nhưng cứ sự thì Việt Đạo từ mãi xa xưa đã nhận nho làm bạn đồng hành, nên nho đã trở thành di sản thiêng liêng của đất nước không bao giờ nên từ bỏ. Tác giả Kim Định (còn tiếp)
  3. Pho Tượng Đẹp Nhất Của Việt Tộc 7. MỘT NỀN TẢNG CỤ THỂ CỦA VIỆT NHO Để thiết lập được Việt Nho cần vượt qua hai bước, trước hết phải tìm hiểu Nho là gì, khác triết Tây Aâu chỗ nào, khác Aán Độ làm sao. Bước hai là Việt có triết lý chăng, và nếu có thì nó khác với Nho ở điểm nào? Có thưa được được câu hỏi này mới nói lên được hai chữ Việt nho cách nền tảng. Điểm hai này rất tế vi, có thể coi như chẻ sợi tóc làm 4, tuy nhiên nếu không tìm ra tang chứng thì chưa đạt lý, và do vậy vấn đề quốc học không thể thiết lập được. Cả hai vấn đề này đã được bàn rộng rồi. Điểm một trong bộ triết lý An vi gồm 10 quyển. Điểm hai trong bộ triết Việt nho gồm hơn 10 quyển. Việt nho cũng là An vi, nhưng được xét về mặt nguồn gốc. Sở dĩ phải nói dài trên mười quyển vì vừa tìm về nguồn, vừa dùng dữ kiện nguồn gốc để diễn đạt triết lý An vi cho thêm rộng. Trong bài này, chúng tôi có ý thu gọn vào mối liên hệ người với người, tức là điều rất cụ thể và thiết thực. Vậy Việt nho khác vớiTây Aâu ở chỗ về liên hệ giữa người gọi là luân thì Tây Aâu chỉ có một luân là chủ nô. Còn Việt nho có tới năm luân là vợ chồng, cha con, vua tôi, anh em, bè bạn. Đó gọi là năm mối nhân luân mà ta có thể dịch bằng tiếng mới là liên hệ người với người. Nói là mới vì được trào lưu nhân vị (personalist) đã muốn phản lại bầu khí xưa của TâyÂu với luân chủ nô chứ không là người với người mà là người với vật. Chủ là người, nô là vật, hoặc là sự vật hay súc vật, chủ có quyền giết hay bán như bán một đồ vật. Vì thế trên kia tôi nói luân, mà không nói nhân luân. Bài này xin tập trung vào câu phát đoan của sách Trung Dung: “Quân tử chi đạo tạo đoan hồ phu phụ”. Đạo quân tử khởi đầu từ chỗ vợ chồng. Đó là câu sách đơn sơ, nhưng nhìn theo lối cơ cấu lại hàm chứa nhiều vấn đề hệ trọng rất đáng bàn giải. Điểm trước hết là Đạo xây trên vợ chồng. Câu này nói lên hai điểm, một là Đạo đặt trên con người mà không trên sự vật, hay ý niệm trừu tượng ngoài con ngườ. Hai là đặt trên đoàn thể con người mà không trên cá nhân. Đây là nét đặc trưng nhưng thường không được chú ý, nhiều học giả dịch câu trên như sau: “Đạo quân tử khởi đầu từ những cái thường thường như việc vợ chồng”. Dịch thế tuy không sai nhưng điểm nhấn lại đặt trên sự dễ dàng, đã không nằm sẵn trong câu văn lại còn là không chú ý đến điểm đặc trưng của Việt nho là đặt trên đoàn thể con người, khác với các xã hội Tây Aâu đặt trên cá nhân, còn Việt nho đặt trên gia đình. Mỗi đàng có hay riêng với nét đặc trưng khác nhau như đã bàn rồi; ở đây chỉ nhắc một điểm là đặt nềntheo mẫu gia đình thì xã hội tình: vua quan được gọi là cha mẹ dân khởi từ chỗ đó, cũng như người trong nước xưng hô bằng ông bà chú bác cô dì là dùng những danh xưng trong gia đình. Đó cũng là phát đoan theo câu sách trên là nhấn mạnh gia đình. Đó là tinh thần chung thuộc xã hội tình khác xã hội Tây Aâu là xã hội lý. Điều này có thể đem lại cho cá nhân nhiều tự do hơn (không bị ràng buộc bởi gia đình). Nhưng cũng dễ đưa đến chuyên chế cùng cực, vì giữa chính quyền và cá nhân không còn một đợt lót nào làm êm dịu sức nặng của chính quyền. Chính vì thế Cộng sản lấy việc phá gia đình làm điểm quan trọng trong tam vô. Các xã hội Tây Aâu vốn coi thường gia đình nhưng đến Cộng sản thì không những coi thường mà còn cố tình phá đổ. Đó là phá nét đặc trưng của Việt nho. Điểm này tuy rất quan trọng nhưng đã được bàn nơi khác. Ơû đây xin chú ý đến sự khác biệt giữa Việt và Nho nằm trong câu sách với bản dịch. Sách nói phu phụ, mà bản dịch lại nói vợ chồng. Đây không là một sự xếp đặt câu văn, mà chính là sự xếp đặt có tính cách cơ cấu, tức nói lên cái gì sâu xa hơn nhiều: nói vợ chồng hay phu phụ thì dàng sau mỗi bên đều có một cơ cấu, một đại đồng văn lớn lao. Đàng sau vợ chồng thì có âm dương, cầm sắt, tiên rồng, nhà nước: nói theo số là vài ba, lưỡng tam; còn đàng sau phu phụ là Càn Khôn, Uyên Ương, gia thất, kỳ lân… Nói theo số là tham lưỡng tức là đặt lớn trứơc nhỏ, ba trứơc hai, mạnh trứơc yếu, lượng trước phẩm. Theo đó thứ tự ngũ luân của Tàu là quân thần, phụ tử, phu phụ. Còn theo việt là vợ chồng, cha con, vua tôi… Đó là chỗ Tàu Việt khác nhau nhưng phải nói là tiểu dị mà đại đồng. Đại đồng ở chỗ cả hai xây trên nhân luân mà không trên tài sản hay dòng máu như bên Aâu Aán. Vì vậy trên tài sản hay dòng máu nên nhân luân chỉ có một là chủ nô, còn với Việt nho thì có tới năm như vừa nói trên. Xin mở ngoặc để nói liền rằng Aâu, Aán cũng có đủ ngũ luân như Việt nho, nhưng đó là do sự thể có như vậy, và được tài bồi trên bậc lương tri, chứ không được đưa vào cơ cấu nên khi Hegel nói liên hệ người xây trên chủ nô, trên giai cấp đấu tranh là nói đúng theo thể chế, đức lý và triết học Aâu Tây. Như thế khác hẳn với Việt nho: cả hai đều có ngũ luân được đặt trên cơ cấu 2-3 và khi xét giữa Tàu với Việt thì có sự dị biệt nhỏ tuỳ nói phu trước phụ hay vợ trước chồng. Khi đã hiểu nét đặc trưng của Tàu và Việt như thế rồi, bây giờ mới thấy câu sách trên nói lên thứ tự của Việt tức đạo quân tử khởi đầu từ vợ chồng mà không từ vua tôi. Cần nói ngay rằng căn cứ trên thứ tự sinh thành thì khởi đoan của Việt hợp lý hơn vì xã hội Việt nho được thiết lập theo mẫu gia đình, nên vua quan gọi là cha mẹ dân. Vậy trước khi có vua phải có cha mẹ, trước khi là cha mẹ phải là vợ chồng. Vợ chồng quả là bước khởi đoan cho gia đình cũng như cho xã hội, hay là trai trước gái, ta có thể tìm nhiều dấu vết trong ca dao, nơi mà gái khởi đầu là chuyện thường: Anh kia lịch sự đi dàng, Mời anh hãy ghé vào hàng nghỉ ngơi. Hỡi anh đi đường cái quan, Dừng chân đứng lại, em than đôi lời. Có thể nói càng về xa xưa thì những câu gái ve trai càng nhiều. Đây là phạm vi dân gian. Bây giờ đi vào kinh sách tức là Nho hay Tàu cũng không thiếu tang chứng tràn ngập. Ở đây chỉ nói đến hai sách nền tảng là Kinh Dịch và Kinh Lễ. Kinh Dịch xây trên Âm Dương tức là thứ tự của Việt (lady first). Theo thứ tự này thì phải Khôn Càn như còn truyền lại tới nhà Thương và sau ở nứơc Tống, con cháu nhà Thương. Khi Khổng Tử đến nứơc Tống nghiên cứu về lễ nhạc thì còn thấy nói Khôn Càn, mà không Càn Khôn. “Thị cố chi Tống… ngô đắc Khôn Càn yên”. (Lễ Ký VII 10, 5). Thứ tự Càn Khôn có từ nhà Chu là nhà đã đưa vào kinh văn rất nhiều yếu tố du mục đề cao ông trên bà, dương trên âm, vua tôi trên vợ chồng v.v… Với Kinh Lễ thì ấn tích của thứ tự Việt nhiều một cách không ngờ: hầu hết nói đến cha con trước vua tôi. Ở đây chỉ xin trưng ra một chứng từ trong chương Hồn Nghìa, câu 3, sẽ thấy ảnh hưởng Việt nho còn rất mạnh trong Nho. Trước hết nói đến nghĩa vợ chồng, Kinh Lễ nhắc đến phu phụ trước hết: đại ý rằng phải có phu phụ trước mới có phụ tử (cha con) sau. Cha con có thân th2i sau mới có vua tôi (quân thần). Vì vậy hôn lễ (lễ cưới cho có vợ chồng) là lễ bổn gốc. Phu phụ hữu nghĩa nhi hậu phụ tử hữu thân. Phụ tử hữu thân nhi hậu quân thần hữu chính. Cố viết: hôn lễ giả, lễ chi bổn dã. Rõ ràng luân cha con đặt trước vua tôi. Đã vậy còn thêm một câu: hôn lễ là căn bổn, hợp trọn vẹn với câu “quân tử chi đạo tạo đoan hồ phu phụ”. Nhất là đọc câu sau đây thấy không còn hồ nghi được. Phù, Lễ thuỷ ư quan. Bổn ư hôn. Trọng ư tang tế, Tôn ư triều sính, Hòa ư hương xạ. “Này, Lễ khởi từ lễ quan (đội mũ). Bổn gốc ở hôn phối. Trọng đại ở tang tế. Tôn quý ở triều sính. Hòa hợp trong lễ bắn tên ở xã thôn”. Xem câu trên rõ ràng thấy luân vợ chồng đặt trước vua tôi (triều sính). Đấy là điểm đầu. Còn điểm hai là giữa phu phụ thì thấy hay dùng chữ thê bao hàm ý bình đẳng. “Thê giả, tề dã”: Thê là bằng nhau. Đó là chữ hay được dùng nơi dân gian. Trong Kinh Lễ viết vợ vua là hậu, vợ chư hầu là phu nhân, thứ dân là thê. (Lễ ký chương I, phần 2, câu 28). Do đấy, thê đối với vua cũng có nhưng là hàng thứ gọi là thê thiếp. Tuy nhiên sau này chữ thê lên bậc và dùng cho tất cả như khi nói: “Thú thê bất thú đồng tính”: lấy vợ, đừng lấy người đồng họ. (Chương I, phần 2, tiết 3, câu 31). Đó là danh từ, còn về nội dung ta thấy đầy đủ trong câu nói về lối chồng đối xử với vợ như sau: “Kính, thận, trọng, chính nhi hậu thân chi”: hôn nghĩa phải lấy sự kính nể, thận trọng làm đầu, rồi mới đến thân cận. Ngoài ra khi lấy nhau thì có lễ giao bái: hai bên bái lạy nhau, chứ không còn một bên được bái, còn bên kia phải bái. Lễ giao bái còn được tăng cường bằng lễ hợp cẩn: cùng ăn một đĩa thức ăn, uống trong cùng một chén làm bằng quả bổ đôi, mỗi người một nửa. Cùng nhau hưởng chức tước cao thấp. Người ta hay đưa hai chữ tam tòng ra để chứng minh Nho giáo hạ đàn bà. Điều đó có thực nhưng là trong Hán nho. Ngoài ra nên nhận xét có những cái tòng rất thú vị như câu “phụ nhân vô tước, tòng phu chi tước”. Vợ không có tước thì kể theo tước của chồng. Chồng là tướng, vợ cũng là tướng luôn. Bây giờ xét đến nội dung xem có dấu vết đó chăng. Nội dung đó là tất cả Nho chỉ là đạo Nghiêu Thuấn. Vậy mà Nghiêu Thuấn chẳng qua là hiếu đễ. Tức là đặt trên nhân luân. Xin hỏi luân nào trước? Oâng Cổ Tẩu là cha vua Thuấn rất khó tính, đến độ muốn hãm hại ông Thuấn, nhưng ông ở hết lòng hiếu thảo, nên đựơc trời đất bang trợ. Tiếng thơm nhân đức của ông bay tới triều đình. Vua Nghiêu muốn nhường ngôi cho ông. Trước hết gả hai con gái mình cho Thuấn mà không hỏi ý Cổ Tẩu. Phần ông Thuấn cũng kết hôn mà không lãnh ý mẹ cha. Đó là điều trái với chữ Hiếu tức là điều tối quan trọng vì đạo của Nghiêu Thuấn chẳng qua là Hiếu Đễ. “Nghiêu Thuấn chi đạo. Hiếu Đễ nhi dĩ hĩ” (Mạnh Tử VI b.3). Đó là một vấn nạn nghiêm trọng nên đã được Vạn Chương đặt ra với Mạnh Tử (V.2) rằng Kinh Thi có nói: Thú thế tất cáo phụ mẫu”: lấy vợ phải hỏi ý cha mẹ. Tại sao ông Thuấn là gương mẫu đạo hiếu lại không theo như thế? Mạnh Tử trả lời: “Nếu lĩnh ý, thì cha mẹ ông Thuấn chắc chắn không chịu để cho ông lấy được vợ. Thế mà nam nnữ lấy nhau là mối liên hệ lớn của con người, nếu báo cáo thì phế mất đại luận đó, lại còn làm phiền cha mẹ (vì không có cháu), vậy nên không báo cáo”. Vạn Chương hỏi tiếp: về Thuấn đã vậy còn vua Nghiêu khi gả con cho Thuấn cũng không hỏi ý ông bà Cổ Tẩu là nghĩa sao? Trả lời rằng: vua Nghiêu biết rõ nếu báo cáo thì không thể gả con gái cho Thuấn được. Đoạn sách trên nói lên mấy điểm sau đây: trước hết luân vợ chồng quan trọng hơn hết gọi là đại luân, trên cả luân cha con. Điều đó làm cho nhiều nhà chú giải Hán nho sợ, nhưng nó hợp tinh thần Việt tộc được biểu lộ trong truyện Tiên Dung công chúa đã tự ý lấy Chữ Đồng Tử ngoài quyền của vua cha. Việc đó tuy có lỗi, nhưng là lỗi nhỏ vì có thể giải nghĩa theo thuyết nhân chủ coi trọng tự do mọi người như được nói lên trong lễ thành Đinh của Việt và lễ gia quan của Nho (xem trong bài Pho tượng đẹp nhất của Việt). Tuy nhiên nhân chủ không bỏ phần dân tức con người phải lệ thuộc vào các mối nhân luân, nên lý tưởng là duy trì được cả hai: vừa theo ý mẹ cha mà vẫn bảo tồn được quyền tự quyết của mình. Theo cơ cấu “tham thiên lưỡng địa” thì báo cáo mẹ cha quan trọng 2, còn độc lập của mình 3, có vậy mới hoàn hảo, còn khi bất đắc dĩ thì phải quyền biến như Thuấn, Nghiêu, Tiên Dung. Một điểm nữa cần ghi nhận là cái nét đặc trưng của Việt khác Tàu. Tàu thì “nam nữ thụ thụ bất thân” và nữ thường là thuân theo, không dám đưa sáng kiến. Việt thì trái lại gái lại đưa sáng kiến nhiều hơn như vụ Tiên Dung với Chữ Đồng Tử đã nói trên và sau này tuy bị Hán nho tràn ngập, nhưng tinh thần Việt vẫn không mất bản sắc nên gái ve trai vẫn không gây ngạc nhiên: Anh về, em nắm cổ tay, Em dặn câu này anh chớ có quên. Đó là đạo nhân luân, mà luân khởi đầu là vợ chồng. Trước khi là vợ chồng thì phải mở cuộc ngoại giao, tiếng Tây gọi là “faire la court” hàm ý nàng là công chúa, là nữ vương mà chàng phải triều yết, triều kiến, triều cống. Việt Nam ta nói gọn là “ve” nghe nó bình dân hơn, thân mật hơn, và nhất là có vẻ chơi mà thật, thật mà chơi vì ve có nghĩa dọ thử, mềm nắn rắn buông: rất uyển chuyển là cái chuyện về vè ve bắt vè con nhện, bắt được thì hay, nếu không được thì cũng chưa đến nỗi bị mang tiếng là hỏi mà bị cự tuyệt: Ô hay đã hỏi đâu, tớ mới ve thôi mà. Đấy là lý do tại sao trong ca dao ta, những câu trai gái ve nhau chiếm phần nổi bật và thường rất bạo, vào đề liền, nhưng bao giờ cũng lịch sự: Cô kia khăn trắng tang ai? Nhất tang cha mẹ, thứ hai tang chồng. Tang chồng thì vứt khăn đi, Tang cha tang mẹ, ta thì tang chung. Giải quyết những khó khăn xã hội đặt ra dung dị là thế, cả đến thiên nhiên cũng không cản trở nổi, cách sông cách núi coi như không: Cô kia cắt cỏ bên sông, Muốn ăn sung chín thì lồng sang đây. Sang đây anh bấm cổ tay, Anh hỏi câu này: có lấy anh chăng? Đầy rẫy những câu như vậy trong ca dao. Điều ấy chứng tỏ câu “Quân tử chi đạo, tạo đoan hồ phu phụ” là đúng tinh thần Việt tộc. Sách Đại học đặt tề gia trước trị quốc cũng còn theo tinh thần Việt vậy. Có thể nói càng lâu về xa xưa thì những câu gái ve trai càng nhiều, nhất là thời mà đàn ông còn bị bán seo: có ba đồng mà mua được những một mớ. Đưa về dùng chưa kịp thì hoặc để cho kiến nó tha, hoặc cho nhau mượn: Của chua ai thấy chẳng thèm, Em cho chị mượn chồng em ít ngày. Chồng em nào phải trâu cày, Mà cho chị mượn cả ngày lẫn đêm. Đó là vài điểm nhắc qua để nói lên nét đặc trưng của Việt nho, cũng như ấn tích Việt còn hiện đậm nét trên Nho, trên ca dao, tục ngữ. Điều này không những cần trong việc truy tầm nguồn gốc Văn hóa Việt, nhưng một trật cũng hé mở cho thấy tại sao Việt nho còn duy trì được nguyên lý Mẹ đang khi các nền văn hóa khác đã đánh mất và trở thành đực rựa nên đang bị điêu đứng. Tác giả Kim Định (còn tiếp)
  4. Pho Tượng Đẹp Nhất Của Việt Tộc 6. TRÌNH SỬ NHÂN TỘC Muốn có một cặp danh xưng vắn gọn để chỉ bản chất Việt Nho thì đó là hai chữ “nhân thoại” cũng như khi theo dõi các động ứng của nhân thoại thì chính cũng là theo dõi dòng sử mệnh của nhân tộc, tức mẫu số chung lớn hơn cả trong việc thống nhất loài người. Nhân thoại là danh xưng mới được dùng trong bộ triết lý An vi để nhấn mạnh sự phân biệt với thần thoại. Thần thoại cũng như nhân thoại cả hai đều là huyền thoại tức nói đây mà phải hiểu kia, nói “giao chỉ” thì phải vượt nghĩa đen là hai ngón chân hay ngón tay để vươn lên nghĩa siêu hình là trời đất giao hội. Điểm khác căn bản giữa thần thoại và nhân thoại là bên thần thoại thì con người chỉ sắm vai trò rất khiêm nhường, đã vậy thường còn là vật hy sinh như thấy rõ trong các thần thoại Hy Lạp, nơi Prométhée bị đóng đi trên núi Caucase; các nhân vật trong võ ca (epic) chỉ là những thằng phỗng do các thần giật dây, chứ không có gì tự quyết, tự định đoạt. Ngược lại, trong nhân thoại thì con người làm chủ, đóng vai chính trong chuyện: tự mình định đoạt và thường hiện thực những việc lớn lao có tầm vóc vũ trụ như bà Nữ Oa đội đá vá trời. Xin nói ngay trong các nền văn hoá, duy Việt Nho mới có nhân thoại, các nơi khác chỉ có thần thoại, hoặc có nhưng mới nhú lên đã bị thần thoại cướp chỗ như vụ ông khổng lồ Aán Độ tên là Manusya tuy đã làm ra được sông núi, bốn mùa, nhưng sau bị thần Brahma đoạt chỗ. Vậy ta hãy trở lại nhân thoại Việt nho để quảng diễn nhân tộc. Sở dĩ phải đưa ra cặp danh xưng mới là vì cho tới nay vụ này không được khám phá, nên cần nhấn mạnh bằng một biệt ngữ mới. Cũng phải nói như thế về chữ sử mệnh là hệ quả của nhân thoại, cũng như thuyết nhân chủ vậy. Phải là nhân thoại mới có nhân chủ và sử mệnh. Với thần thoại không có huyền sử và nhân chủ mà chỉ có vật chủ (chosism) tức con người bị bỏ quên, bị bán đoạn mại cho sự vật (alienation) với hậu quả là bị điều động sai sử do mê tín dị đoan. Nếu dị đoan quá đậm thì dẫn tới vụ giết người để tế thần như nơi các dân Phenicie hay Astec, nếu nhẹ hơn thì giết một cách tế vi mắt thường không thấy nhưng thực sự có giết: giết từng phần, triết gọi là trục vật, cộng sản là một thí dụ, tuy miệng xưng là khoa học mà thực ra là một thứ dị đoan, chấp nhất mê muội đầy chất giết người. Giết thực sự tuy đã nhiều (vài trăm triệu) nhưng chưa thấm vào đâu với sự giết một cách vô hình: giết tình cảm, giết ý chí, giết sáng kiến, giết tự do nhân phẩm không những của thường dân mà luôn đến cả cán bộ. Bởi vì bản chất của nó là do thần thoại theo lối chống thần thoại nhưng vì luật “mạnh chống mạnh chấp”: chống bạo tàn của thần thoại thì lại rơi vào bạo tàn của thần thoại mang tên mới là duy vật. Trở lại với nhân thoại, ta có huyền sử tức là thứ sử lý tưởng diễn bằng những huyền số, những lược đồ tiên thiên với những nhân vật kiểu mẫu mà ngày nay khoa uyên tâm gọi là sơ nguyên tượng (archetypal image). Đó là một thứ mẫu mực siêu hình mà Nho gọi là mẫu mực lớn: Hồng phạm, tức là một thứ lược đồ vẽ ra đường lối tiến lui để những cá thể noi theo đó mà lẫn về hợp với Đại Ngã. Những nhân vật huyền sử vì vậy không là người thực sự mà chỉ hiện hình trong mấy nét chấm phá, đủ nói lên một hai động ứng cơ bản được tiềm thức cộng thông phác họa như kiểu bà Aâu Cơ đẻ trăm trứng, Hùng Vương có gậy thần, Phục Hy quấn với Nữ Oa, thánh Dóng siêu linh trên núi An Việt. Có thể nói đó là những làn sóng ngầm của một nền văn hóa nhất định. Bởi vậy muốn định tính một nền văn hóa nào thì việc sâu xa nhất phải là học về những sơ nguyên tượng với các số, các hình của nó. Đấy là lý do tại sao các “nhân vật” trong huyền sử sống rất lâu, chỉ có 18 đời Hùng mà sống hơn hai ngàn năm. Bởi vì đó là những mẫu người đầy chất nhân bản. Ngược lại thần thoại không được như vậy, nếu người ta có khổ công gạn lọc ra đôi ba ý nghĩa thì cũng đã là việc gượng, vì thần thoại thuộc giai đoạn bái vật, lúc lý trí con người chưa phát triển đủ để có thể phê bình nên nghe sao tin vậy, đến khi nó bứơc lên giai đoạn lý trí mới nhận ra những giá trị thuộc giai đoạn thần thoại là giả tạo, nhiều ít đều có hại cho con người, nên nó tìm cách thải bỏ với kết quả là thần thoại chết. Thần của dân Maori nói rõ: “Ta chỉ sống bao lâu dân chúng còn tin ở ta”. Chính vì thiếu giá trị nhân bản nên thần thoại không có huyền sử theo đúng nghĩa sử là diễn trình các động ứng của con người. Dứơi bóng thần thoại, con người chưa có (chưa đạt) nhân chủ thì làm sao có huyền sử. Huyền sử đề cao chiều kích quan trọng nhất của con người là tác động. Thế mà trong thần thoại, việc của con người toàn là thụ động, theo đuổi, chưa có việc nào tự lực tự chủ, làm sao có được huyền sử. Cũng vì lẽ ấy mà khi phế bỏ huyền sử thì con người lâm vào cảnh tang thương, thí dụ phế bỏ Aâu Cơ tức thì văn hóa thiếu mất nguyên lý Mẹ, trở nên một chiều khập khiễng từ trong cơ cấu. Khi Carl Jung tuyên bố nền văn hóa Tây Aâu lâm trọng bệnh, động vào đâu cũng thấy toàn bệnh là bệnh… thì chính vì tại nó thiếu nguyên lý Mẹ vậy. Biết đại cương như thế rồi, bây giờ chúng ta có thể phác họa sơ qua dòng sử mệnh nhân thoại của văn hóa Việt nho, mà mở đầu là ông Bàn Cổ. Hỗn mang chi sơ Vị phân thiên địa, Bàn Cổ thủ xuất, Thủy phán âm dương. Nhân thoại đến thế là cùng cực: xuất hiện đầu tiên trước cả sự phân ra trời đất, để sau không bị nghiêng sang trời kiểu duy tâm, hay nghiêng sang đất kiểu duy vật, đặng mà giữ mối quân bình siêu thặng “trong cõi người ta”. Kế đến việc làm thì thực bao la như vũ trụ: thuỷ phán âm dương = khởi đầu phân ra âm dương, trong đó bao hàm việc rất quan trọng là xếp đặt trời đất. Điều này mới nghe coi như vu vơ vô tích sự, kỳ thực lại rất cần cho cõi nhân sinh được an vui hạnh phúc vì “thiên địa (có) vị yên, (thì) vạn vật mới tịnh dục nhi bất tương hại”. Đặt lầm đất lên trên trời, hoặc gảy trời ra như tụi duy vật, thì là lộn cứt lên đầu, giết nhau như ngoé. Đó là ý nghĩa sâu xa về mấy động ứng của ông Bàn Cổ. Bàn Cổ là bản tóm lược các nhân thoại khác của Việt tộc từ Toại nhân “làm ra lửa”, qua Hữu sào “làm nhà” cho đến các ông khổng lồ khác của các chi nhánh Bách Việt. Chính Bàn Cổ là Bàn Hồ của người Dao được Từ Chỉnh đời Tam quốc chỉnh lý và đưa vào sách Tam ngũ lược ký để làm ra của Tàu, nhưng lúc thử máu thì rõ ràng cùng loại máu nhân thoại với các ông nén cát, tát bể, kể sao, trồng cây, xây rú của Lạc Việt, trong đó cao hơn cả là ông trụ trời. Oâng khổng lồ của Thái là Ai Lậc Cậc cũng đã dựng nên trời đất và người, vậy mà bị ông trụ trời Việt bắt bẻ giò cho vào giỏ! thì đủ biết nội lực nhân chủ của ông chống trời bên Lạc Việt thâm hậu biết bao! Nói vậy có nghĩa là Lạc Việt đã tiến vào nẻo tâm linh sâu hơn, bỏ khổng lồ thân xác để tiến vào khổng lồ nhân linh như Hùng Vương. Sinh ra từ cái bọc mẹ Aâu Cơ nghe nó nhân thoại hơn là sinh ra từ quả bầu trăm hột nơi người Mường Phủ Nội chẳng hạn. Cặp nhân thoại thứ hai là Phục Hy Nữ Oa. Phục Hy chuyên về việc “thủy phán âm dương” diễn ra bằng hai vạch, một đứt một liền chồng lên nhau làm ra các quẻ Kinh Dịch. Còn Nữ Oa thì đẩy cho mạnh sự nối kết âm dương. Sách nói bà lập ra phép hôn phối thì chớ có tin theo nghĩa đen như vậy. Đó không là hôn phối mà là linh phối, là phối vài với ba cho ra năm là ngũ hành. Vì thiếu vài đất thì ba trời cũng sụt nên bà phải “nấu đã ngũ hành mà trét lại”. Người ta quen gọi Phục Hy Nữ Oa là người Tàu là nói tầm bậy. Lúc ấy đã có Tàu đâu mà bảo là người Tàu. Chỉ cần liếc qua tờ khai sinh của ông bà thì đủ rõ: Phục Hy có mình rắn, rõ rệt dòng rồng gốc rắn nối liền với núi Thái Sơn, vì vậy ông cũng có tên là “Thanh tinh” tức là rồng xanh. Còn Nữ Oa vừa có mình rắn lại còn sinh ở Đồ Sơn. Đồ Sơn cũng có tên là Miêu Sơn, mà Miêu là tên của Bách Việt (Couvreur III, 642) nên có liên hệ với chim. Truyền thuyết nói sau Bà trở nên chim Tinh Vệ tha đá lấp biển Đông. Chữ Oa còn có nghĩa là con nhái, điều này giúp hiểu được những hình người có thân hình nhái trong những cái qua ở đời nhà Aân cũng như nơi Đông Sơn. Nên nhớ thời ấy nhà Aân và Đông Sơn không những cùng văn hóa mà cả đến dạng thức nghệ thuật cũng gần nhau, tức có họ tiên rồng là điều còn dễ nhận ra được. Nhân vật thứ ba là Thần Nông nói lên một sáng tạo mới đưa loài người ra khỏi giai đoạn săn hái để đi vào nông nghiệp. Đó là một cuộc cách mạng vĩ đại kéo theo những việc nền tảng khác như làm nhà, dệt vải, làm đồ gốm v.v… Thần Nông cũng không phải ngừơi Tàu nữa. Vì Thần Nông đi với ruộng nước có gieo mạ (miêu). Sách nói “Thần Nông nhân miêu nhi giáo = Thần Nông dựa trên việc gieo mạ (ý nói toàn thể nông nghiệp) mà thiết lập nền giáo huấn. Vậy mà người Tàu biết về ruộng nước rất muộn. Oâng Bỉnh Thế Hà viết trong Cradle p.48: “The Chineses were the last to know irrigation”. The last đây là so sánh với các nền văn minh khác như Lưỡng Hà có trứơc đây lối 8000 năm. Tàu mới biết ruộng nước nhiều lắm là từ Long Sơn, nhưng văn hóa Hòa Bình đã có lúa ruộng nước trứơc, và ta thấy có những Thần Nông của người Chăm, Thần Nông miền Lâm Đồng v.v… đủ biết Thần Nông không là nhân vật lịch sử mà là sơ nguyên tượng chỉ thị tác động sáng kiến ra nghề gieo gặt thuộc lúa mễ của Việt. Đến đây tạm chấm dứt huyền sử để đi vào một chút tiền sử mà mở đầu của Tàu là Hiên Viên xưng là Hoàng Đế. Với Hiên Viên ta thấy ló diện Hoa tộc (miền núi Hoa ở Tây Bắc) tức là sự pha giống giữa du mục với nông nghiệp để làm nên người Tàu. Mấy chữ nông du, cũng như Đông Tây ở đây chỉ nên hiểu một cách co dãn, cũng như “niên biểu” chỉ là sự trước sau, thí dụ Hoàng Đế xuất hiện năm 2697, so với Hồng Bàng kỷ năm 2879, muộn hơn 182 năm thì chỉ nên coi là huyền số: 182 có thể là vài ba con giáp: 2* (3*60) = 182. Việc Hiên Viên xưng là Hoàng Đế có lắm truyện không ổn. Hiên Viên thuộc đế kỷ, cớ sao lại lạm xưng là Hoàng được. Nên biết truyện Hoàng Đế là một huyền thoại đựơc sơ Hán phóng đại lúc bà Đẩu Thái Hậu còn rất uy quyền mà bà lại khoái Lão, Lão lại khoái Hiên Viên, nên mới vinh thăng Hiên Viên lên bậc Hoàng Đế chia xẻ chức thánh quan thầy của Pháp gia với Lão gọi là Hoàng Lão. Hiên Viên đại diện cho du mục được biểu lộ trong số bốn con vật mãnh thú: hổ, báo, hùm, beo, với vật tổ là chim cú. Cú là giống chim xuất hiện ở độ chí (solstice) tức duy dương, phế bỏ nguyên lý mẹ, nên huyền sử nói vợ ông là Mô mẫu rất xấu. Xưa nay chỉ khen vợ đẹp chứ ai ghi vợ xấu làm chi. Đó chẳng qua là kiểu nói huyền sử để chỉ nguyên lý mẹ trong văn hóa Hoàng Đế bị lép vế. Còn vụ Hiên Viên có vợ tên Luy Tổ lập ra phép nuôi tằm là tầm bậy do sự lẫn lộn Lôi Tổ ra Luy Tổ cùng bộ Điền (cf. Danses 511). Tứơc của Hoàng Đế là Lôi Công nên vợ là Lôi Tổ chứ có Luy Tổ đâu, vì Tằm là con sâu miền nhiệt đới chỉ sinh nở ở miền Nam; các nhà khoa học cũng nhận thấy tằm tang phát triển ở miền Nam trước hết, làm chi có vụ vợ Hoàng Đế ở phía Tây Bắc phát minh tằm? Ngoài ra còn nhiều truyện gán tầm bậy cho Hoàng Đế thí dụ sách Hoàng Đế nội kinh. Hiện nay học giả nhận ra văn từ sách đó rõ rệt thuộc đời Hán, nên nếu nói về nội dung thì nói Hoàng Việt nội kinh mới đúng. Cùng lắm thì những sự gán kia chỉ nói lên sự cố gắng hội nhập của Hiên Viên đối với văn hóa của Việt tộc, mà nhà lãnh đạo đối đầu với Hiên Viên là Si Vưu. Si Vưu là vị thống lãnh các bộ tộc Bách Việt, nên chữ Si Vưu hàm ngụ nhiều ý khi thì là lá cờ, lúc là hội hát, hội múa, khi thì là con rồng kỳ lạ. Những ý nghĩa kỳ thị Si Vưu là truyện về sau do phía du mục hạ nhục kẻ bại trận. Thay vì nói Hoàng Đế đắc Si Vưu thì Tư Mã Thiên viết sát Si Vưu. Tuy vậy cả hai chữ đều đúng: ban đầu thì Hoàng Đế giết Si Vưu theo nghĩa du mục thắng nông nghiệp, nhưng sau lại “học với” Si Vưu hay là hội nhập văn hóa nông nghiệp mà quan trọng hơn cả là đạo trời (Hoàng Đế đắc Si Vưu nhi minh ư thiên đạo). Hãy tạm chấm dứt tiền sử phía du mục để trở về đọc lại trang huyền sử nước ta kể truyện Lạc Long Quân đóng đo xứ Nghệ với ba vĩ tích là trừ được Hồ tinh, Ngư tinh, Mộc tinh. Đóng đô xứ Nghệ làm liên tưởng Hậu Nghệ đời vua Nghiêu khi mười mặt trời cùng xuất hiện làm rối loạn trời đất gây ra mưa lụt, gió bão. Vua Nghiêu hứa nhường thiên hạ cho nhà hiền triết nào chế ngự được tai họa nọ và đó là Hậu Nghệ. Oâng này đã dùng tên mà trừ tai họa cho đời (trừ thiên hạ chi hại). Hậu Nghệ bắn rơi chín mặt trời, nên đựơc trở nên tư mệnh nghĩa là người nắm được vận hệ của mình, tức là đạt nhânc hủ, đang khi Khoa Phụ đùa dỡn với mặt trời nên bị chết khác. Hậu Nghệ còn trị được thần Hà bá hay hãm hại loài ngừơi, bằng cách bắn vào mắt bên tả nó. Thần gió thổi đổ nhà, Hậu Nghệ cũng bắn vào đầu gối nó, lại còn trị được thần Cửu âm là giống hồ ly ăn thịt người, nên đựơc xưng là “Điền Tổ”. Đây có thể là phản ảnh lúc con người đi vào nông nghiệp, còn mang trong tâm thức là lúc từ bỏ bái vật để đi về con ngừơi với lối suy luận bằng lý trí thiết thực, nên ta còn thấy phảng phất trong lễ Na dùng để tống cựu nghinh tân. Có ba lễ Na mừng vào ba mùa Xuân, Thu, Đông, không có Hạ. Như vậy phần nào hợp với ba vĩ tích của Lạc Long Quân ở Đông, Tây, Bắc (Mộc tinh, Hồ tinh, Ngư tinh) còn trừ ra mạn Nam vì sách nói: “Lạc Long Quân vâng chỉ trời về núi Nam miên, lập đô ở phía Hoan Châu Nghê An xứ”. Trở lên là ít trang huyền sử tuy xưa rày tưởng là của Tàu mà thực ra là của Việt. Tàu chỉ học lại nên chưa đạt nhân thoại cao bằng Việt: khi vua Tàu chết thì hằng trăm cung phi, tỳ nữ, nhiều khi cả quan đại thần bị chôn theo, bên Việt không có như vậy. Trái lại huyền sử Việt khác xa các thứ lịch sử đề cao thần thoại mà ấn tích là các điện đền mọc lên cùng nơi. Ở Việt chỉ có việc phụng sự con người như bà Nành, bà Đâu, bà Giàn, cùng một họ với “bà Đà trồng cây xây rú”, tức cùng một dòng máu nhân thoại như ông chống trời vậy. Nhân tộc hiên lên trong huyền sử Việt tộc sau bị du mục Tây Bắc mà đại biểu huyền thoại là Hoàng Đế, còn đại biểu lịch sử là nhà Chu, một giống nửa Turc, đã làm sai lạc và lu mờ đạo Nho. Sau nhờ có Khổng Tử khôi phục lại được trong thuyết Tam tài theo đó con người cũng là một vua trong ba vua là Trời, Đất, Người, không đâu đưa ra được nền Nhân Chủ cân đối mạnh mẽ như vậy. Tác giả Kim Định (còn tiếp)
  5. Pho Tượng Đẹp Nhất Của Việt Tộc 5. NGUỒN GỐC NHO Bài trước đã nói về bản chất Việt, bài này nói về Nho xem nó giống với Việt đến đâu để có thể nối Nho vào Việt. Thông thường thì Nho giáo được coi như là sáng khởi do Khổng Tử. Với người Tàu thì Nho với Khổng đồng nghĩa, điều đó còn được tăng cường hơn nữa khi truyền ra nước ngoài. Nói chuyện với người Aâu Mỹ về Nho thì phải dùng chữ Confucianism phiên âm từ chữ Khổng Phu Tử. Như vậy muốn tìm hiểu bản chất của Nho có thể tìm hiểu nguồn gốc đạo của Khổng. Vào quãng năm 1970 trở đi, tức là từ lúc xuất hiện thuyết Việt nho với quyển Việt Lý Tố Nguyên có lời phao đồn rằng Kim Định bảo Khổng Tử là người Việt. Đó là câu nói sai tỏ tường mà một số người có ác ý gán cho tôi. Ít nhất thì đó là một ngộ nhận, vì tôi chỉ đứng trong phạm vi triết học thuộc văn hóa, dân tộc, chứ không lúc nào đi sang phạm vi nhân học và chủng tộc. Vì đó là phạm vi không ơn ích cho triết, đã vậy còn gặp đầy khó khăn vì phải đo sọ, thử máu. Máu người xưa tìm đâu ra, còn sọ thì mỗi người đo mỗi khác do sự trải dài trên nhiều ngàn năm trong một không gian bao la với những bờ cõi trồi sụt ăn ngoàm vào nhau gây ra biết bao khó khăn. Cũng may triết không cần những điều đó mà chỉ cần khảo cổ, huyền thoại, kinh văn… là đủ. Vậy theo chủng tộc thì Khổng Tử là người Tàu ai mà chối cãi điều đó. Vấn đề đặt ra là Khổng Tử có theo văn hóa Việt hay chăng và sau đây là những mấu chốt cho câu trả là có. Trước hết Khổng Tử đã tuyên bố rõ ràng ông không hề lập ra một đạo mới mà chỉ thuật lại đạo xưa (thuật nhi bất tác). Xin hỏi người xưa ấy là ai? Sách Trung Dung câu 30 trả lời rằng: Trọng Ni tổ thuật Nghiêu Thuấn” nghĩa là Trọng Ni coi Nghiêu Thuấn như thuỷ tổ, ông chỉ là người truyền bá đạo của hai vị đó, nhất là Thuấn, vậy xin hỏi Thuấn là ai? Mạnh Tử thưa đó là người Đông Di; Văn Vương là ng7ời Tây Di (Thuấn, Đông Di chi nhân. Văn Vương, Tây Di chi nhân- Li Lâu hạ 1). Hỏi Đông Di là ai? Thưa là Việt đó. Người Tàu thường dùng 4 danh từ: Nhung, Địch, Man, Di để chỉ những dân ngoài Tàu, trong đó thì danh từ Di được dùng nhiều nhất, không những chỉ Di miền Thái Sơn, Sơn Đông mà còn chỉ luôn cả miền Chiết Giang, Giang Tô, Sông Hoài và Kinh Việt (sau là Sở đã có thời nằm trong cái khối mà KinhThư gọi là “Tứ Di tả nhâm” (chương Tất mệnh câu 13): cả bốn rợ (Di) đều cái áo bên tả (tả nhậm). Đó là một nét đặc trưng chung cho cả “rợ” bốn phía. Câu “tứ hải giai huynh đệ” khởi đầu chỉ về 4 rợ đó (1). Vậy nên nói Thuấn là Đông Di hay Việt cũng thế, cũng như dùng chữ Di cả cho miền Tây khi nói “Văn Vương là người Tây Di”. Đó là lý do khiến Hán Nho rất ngại chấp nhận câu trên vì nếu chấp nhận thì vừa hạ giá Đế Thuấn xuống hàng man rợ, vừa có mộot thiên tài cao nhất lại để cho Việt chiếm mất đâu có ổn. Vì thế đã dùng nhiều lời giải nghĩa để chối đi: thay vì Thuấn là người Đông Di thì nói Thuấn là người sống gần Đông Di, tức ngầm hiểu là người Tàu. Các học giả Việt tất nhiên bị lừa theo. Tuy nhiên đó là những câu nói mập mờ, không thể đứng vững được trước đà tiến của khảo cổ cũng như cổ sử học. (1) Theo sách Nhĩ Nhã là quyển tự điển cổ hơn hết, đã có thời đựơc xếp vào hàng Kinh. Vì thế đến chính ông Bỉnh Thế Hà cũng không tin tưởng như vậy nữa mà còn bày tỏ khá dài để chứng tỏ Văn Vương chính là người Tây Di. Aáy là Văn Vương vào thế kỷ 12, huống nữa là Thuấn hơn hai ngàn năm trước thì có chi lạ khi nói ông Thuấn là người Đông Di. Chính J.Legge đã ngần ngại dịch câu “Thuấn, Đông Di chi nhân” là người Tàu sống gần Đông Di, nhưng chỗ khác nói về tổ nhà Chu là ông Công Lưu thì Legge nhận xét là chính người Tàu cho là xuất phát từ trong những bộ lạc đó. I have translated his words (Tây Di chi nhân) a man near the wild tribes of the west. But according to the records of the Chou dynasty themselves, we see its real ancestor, duke Lew coming out from among those tribes. Vol IV p.2 note 1). Đó là điều càng ngày càng được khoa khảo cổ chứng minh đến độ chính người Tàu hiện nay là ông Bỉnh Thế Hà trong quyển mới nhất về khảo cổ (Cradle p.344) cũng phải lên tiếng bênh câu của Mạnh Tử là đúng vì căn cứ trên một lưu truyền rất cổ xưa, không thể tự ý đổi thay đi được, tức không nên dịch “Thuấn sống gần Đông Di mà phải dịch Thuấn là người Đông Di” (2). Nên ghi nhận là người Tàu lấy Di (cũng gọi là Nhung) đến nỗi nói lấy Di Nhung thì có thời hiểu là loạn luân. Need I. 25 (2) Tôi nhắc kỹ vì đã có người bắt bẻ tôi khi trưng câu này. Tôi đã không trả lời vì người đó bác học chưa rộng đủ, lại còn mắc chứng malhônnêteté intellectuelle. Đấy là một lẽ, nhưng chưa mạnh bằng phải đặt câu ấy vào đồng văn sử địa đời ông Thuấn mới thấy rõ phải hiểu ông Thuấn là người Đông Di mà không là Tàu, vì lẽ giản dị là lúc ấy chưa có Tàu. Tàu của Hoàng Đế chỉ là truyền thuyết, còn theo cổ sử và khảo cổ thì Tàu mới ra khỏi bộ lạc từ đời nhà Thương tức vào khoảng thế kỷ 15 tr.c.n. Vì thế nghệ thuật đời nhà Thương còn mang đậm nét diễn đề nghệ thuật của Việt tộc như đựơc chứng tỏ qua những đồ đồng gọi là Thao Thiết hoặc cái qua (xem Sứ Điệp). Nứơc nhà Thương khởi đầu cũng mới rộng vài trăm dặm (400km*300km) vuông xuýt xoát như một tiểu bang nhỏ trong hàng trăm ngàn tiểu bang khác của Bách Việt. Như vậy làm sao chối được câu nói của Mạnh Tử. Nên ghi nhận đời Mạnh Tử nước Tàu chưa gồm thâu được Tần, Sở, Ngô, Việt nên lòng ái quốc gia chưa đủ mạnh để át sự thực. Trên đây ghi nhận theo lời học giả lúc trứơc, chứ nay phần lớn khoa học gia đều cho Nghiêu Thuấn không có thực mà chỉ là n hững điển hình do Khổng “sáng tạo” ra để trình bày đạo nho, nên nếu nho có tính chất Việt thì điển hình cũng có tính chất Việt như vậy. Bây giờ xin hỏi câu nói của Mạnh và Khổng có đúng chăng hay vì khiêm nhường hoặc chiến thuật mà nói thế? Thưa đúng vì tâm hồn Khổng Tử để hết vào phương Nam như câu nói: “Nam phương chi cường dã, quân tử cư chi” (Trung Dung 10): người quân tử phải chọn đức cường phương Nam (là khoan nhu dĩ giáo, bất báo vô đạo) làm nơi y cứ, lam trổ hướng tới của tâm hồn. Về hai chữ Nam, Bắc mà muốn hiểu đúng thời đúng nơi thì phải xem đồng văn của người nói, thí dụ với Mạnh Tử thì nước Tề là Bắc so với Sở là Nam. Còn với Khổng Tử trong câu này thì Nam là nước Tàu ít ra từ Hoàng Hà trở xuống, ngược với Bắc du mục, nơi đề cao võ lực, coi cái chết ở chiến địa nhẹ tợ lông hồng. Như vậy thì Nam ở đây trùng hợp với miền của Việt tộc tức miền trung tâm nông nghiệp, của văn hóa hiền hậu gọi chung là Đông Nam, ngược với văn minh du mục nói chung là xuất từ Tây Bắc đầy óc chinh phục bạo tàn như ta thấy còn phảng phất trong Kinh Thi. Xem bài Đại Đông thí dụ thấy lời oán hận phía Tây ngất trời khi tả các nước miền Đông phải chịu cực với nhà Chu (từ Thiểm Tây xuất phát) xem con đường từ các nước miền Đông đến kinh đô nhà Chu mà mắt tuôn rơi lệ. Nước Tây quá giàu nên khó phục vụ: cống rượu thì chê không phải đồ đáng uống; dâng chuỗi ngọc thì chê không đủ dài. Sự khổ luỵ cao ngất trời mà trời cũng chẳng giúp được chi. Sao Chức Nữ không dệt đủ vải cho chúng cướp đoạt, sao Ngưu Lang cũng chẳng dẫn đến cho được con trâu nào. Sao Cơ còn lè cái lưỡi ra như muốn ăn chặn của miền Đông. Sao Đẩu giơ cái cán ra như múc của. Còn miền Bắc thì ta thấy được qua những câu như ném đứa siễm nịnh cho sài lang. Sài lang không cắn xé nó thì vứt nó lên Bắc. Bắc không nhận thì vứt nó lên trời (thơ Hạng Bá). Trưng lại mấy câu trên để độc giả thấy rõ ý niệm về Tây Bắc đồng với du mục quen cướp đoạt ra sao, ngay đến đời Khổng vẫn còn rất mạnh. Vì vậy câu nói: “Nam phương chi cường dã” phải được chú ý cân xứng, lúc ấy mới hiểu tại sao Khổng Tử bảo quân tử phải y cứ trên đạo lý phương Nam. Câu trên còn được kiện chứng bằng lời Khổng muốn ví mình với Lão Bành. Vậy Lão Bành là người Kinh Việt (sau là nước Sở) vẫn theo tục tả nhậm của Việt tộc như Kinh Thư có ghi: “Tứ Di tả nhậm”. Nhiều học giả nay nhận ra rằng người Sở còn duy trì được nhiều nét về nghệ thuật của nhà Thương hơn chính đất nhà Thương. Đó là câu nói đúng sự thựcnhưng sai ở chỗ gán, lẽ ra phải nói nhà Thương học với Di (ở Sở) mới đúng. Và lúc ấy thì học trò đâu có bằng thầy là Sở, nên tất nhiên Sở giữ được nhiều hơn dân nhà Thương. Đó là điều mà khảo cổ đang chứng minh: càng ngày càng đào được nhiều di tích sán lạn ở miền Nam và càng chứng minh ý kiến cho Sở là khu nữu của nứơc Tàu, nên càng nhiều nhà nghiên cứu trở nên dè dặt không dám quyết đoán vội, phải chờ cho tới lúc khai quật thêm nữa ở miền Nam mới đủ đối chiếu đâu là nơi phát nguyên nghệ thuật nọ kia. Tuy nhiên đó là phạm vi khảo cổ, chứ trong phạm vi văn hóa thì kể là đủ. Sở dĩ Khổng Tử đề cao Nghiêu Thuấn vì hai ông mang đầy yếu tố Việt trong mình. Oâng Nghiêu nêu cao gương thiện nhượng, tức là đức tính căn bản xã hội cộng đồng nguyên thuỷ của Việt tộc, lấy sự cộng tác tương trợ làm cốt cán, như thấy trong bầu khí trống đồng là thuận hòa từ nhượng cộng tác (xa với lối tranh đấu để sinh tồn), chăm lo lịch pháp (nông nghiệp). Oâng Thuấn cũng thiện nhượng như vậy, lại còn thêm một đức tính trổi vượt của Việt tộc là đức hiếu thảo. Truyền thuyết nói cha ông là Cổ Tẩu có tính độc ác muốn giết Thuấn đi, mới sai ông đào giếng rồi lấp lại để ông chết tốt, nhưng ông nhờ áo rồng (long công) vợ may cho nên chui ngang dưới đất dễ dàng. Cổ Tẩu lại sai Thuấn trèo lên chữa kho thóc rồi rút thang đi và nổi lửa đốt kho nhưng Thuấn nhờ áo lông chim (điểu công) của vợ may nên bay thoát. Đó toàn là truyện bị đặt để lộ tông tích văn hóa tiên rồng ra (long công là rồng, điểu công là chim đó). Nói long công, điểu công là tôi trưng sách “Trúc thư kỷ niên” chứ Kinh Thư không có và các nhà chú giải khi nói về vụ này thì cho là ông Thuấn đã đào sẵn một lỗ ngang dưới giếng. Còn vựa lúa thì ông dùng hai mảnh tre mà thoát. Nói như vậy làm cho huyền thoại mất hay đi, không còn được bao nhiêu chất huyền dị. Huyền thoại chính cống phải vô lý, tức ngoại lý để giúp vươn lên chỗ siêu lý. Nay bóc hết hai cặp long công và điểu công thì còn gì là huyền thoại. Lý do tiềm mặc là mấy chữ đó nói lên họ văn hoa của Thuấn là tiên rồng tức Việt, nên tất nhiên người Tàu phải tránh né. Nói tóm lại không ai có thể đưa bằng chứng khoa học ra mà nói Nghiêu Thuấn là Tàu hay Việt, nhưng đứng về văn hóa thì ta nói được là hai ông thuộc văn hóa Việt. Hoặc cùng lắm cho Nghiêu là Tàu (Nho) còn Thuấn là Việt, thì Khổng Tử kể là nối Việt vào Nho khi ghép hai ông lại một. Đặt Việt trước Nho, là Khổng đề cao Thuấn hơn Nghiêu, vì Thuấn hội nhiều nét Việt hơn, như tâm tình là chữ Hiếu, nghệ thuật là ca vũ (ông Thuấn làm ra nhạc Cửu Thiều) lại còn kiêm bộ Nạp ngôn đi sát với dân. Oâng Nghiêu chỉ được có việc khoa học là thiên văn lịch pháp mà không ấm áp tình người như ông Thuấn, và như vậy Thuấn có thể coi như biểu thị cho bước đầu Việt lý được Nho công thức hóa. Một điểm thú vị nữa không ai dè mà lại rất nền tảng, đó là thập dực của Kinh Dịch được lưu truyền là của Khổng. Dù có là của Khổng hay do người ta gán cho Khổng thì điều đó vẫn có ý nghĩa. Số là Kinh Dịch được hình thành đời Phục Hy, tức thời còn hoàn toàn Việt, các đời sau mới thêm lời vào. Rồi Khổng Tử thêm phụ trương và gọi là thập dực nghĩa là mười cánh. Thế là nói lên chủ quyền của Việt là Tiên Rồng rồi đó: Rồng là 6 thể rồng trong quẻ Kiền mở đầu Kinh Dịch, vậy thì kết Kinh Dịch phải là cánh chim, là thập dực. Thập dực là 5 đôi cánh đi với 6 thể rồng cùng loại cơ cấu đêm 5 canh, ngày 6 khắc, cha rộng ngoại (số 6), mẹ tiên nội (số 5). Con số 10 (thập) quả là huyền số vì thực ra chỉ có 7 dực, vậy nói 10 là không có ý đo đếm nữa mà chỉ có ý dùng như huyền số. Huyền sử có nói đến chim Tất phương (hoả điểu) có 8 cánh 1 chân y như chim Lạc Địch cũng có lúc 8 cánh 1 chân. Rõ rệt là ám chỉ Kinh Dịch có 8 quẻ, 1 chân là Thái Cực. Chim Tất phương có mặt người là Kinh Dịch chuyên về nhân dịch, kỷ dịch (chủ về tu thân, kỷ là thân), còn chim có sắc xanh với vạch đỏ thì nói về Đông Nam. Đông hành mộc sắc xanh, Nam hành hỏa sắc đỏ, như vậy là nói lên nơi xuất hiện của Kinh Dịch, đó là Đạo Dịch của Trời Đất với nét song trùng là Đông Nam. Đạo Dịch của Phục Hy với 3 hào của quẻ đơn ở phương Đông (hành mộc số 3). Đỏ lửa (hành hỏa số 2) phương Nam, gọi khác là quẻ Li hay Xích Quỷ. Đã nói tới chim xin kể luôn một nét nữa của Việt tộc là ưa hát. Hát thì loài người đâu chẳng hát, nhưng Việt tộc thì thêm một lý do để hát nhiều hơn ai hết, do lẽ là có vật biểu chim. Nói đến chim là nói đến hót. Chim hót thì người hát, đến độ tôi ngờ rằng câu: “nhạc giả Lạc dã” có nghĩa gốc “kẻ hát là dân Lạc”. Dầu sao mặc lòng thì mở đầu Việt lý là hát múa như sẽ bàn sau. Ở đây chỉ xin hỏi rằng Khổng Tử có ưa nhạc chăng? Thưa quá cỡ đến độ đặt nhạc thành một Kinh, “Kinh Nhạc”. Khi ông đến nước Tề nghe nhạc Thiều (của vua Thuấn) thì ông cảm thấy đến độ ba tháng liền không còn biết mùi thịt là gì. Tưởng chưa ai trên đời cảm nhạc đến độ đó, đến độ vị giác chết lịm trước món ăn ngon nhất. Chắc là di cư lâu ngày, nay được nghe lại nhạc vàng của tiên tổ mới khoái đến độ xuất thần như vậy. Tiện đây xin kể một ví dụ về những khó khăn tràn ngập trên con đường “tố nguyên”. Đó là nhạc Thiều thuộc loại nhạc của Đông Di nên sách Chu Lễ viết là “tứ Di chi nhạc”, và “tứ Di chi vũ” nhưng rồi nhiều sách viết “tứ phương chi nhạc”, “tứ phương chi vũ”. Đặt chữ phương thay cho Di là dễ làm mất liên lạc tìm ra chủ quyền rồi đó. Tam sao thất bản là vậy. Đến cái vụ ông Thuấn có hiệu là Đại Ngu mới đáng ngờ vì nhiều sách thí dụ “Lã thị Xuân Thu” đoạn 20 tiết 6 lúc viết Ngu, lúc viết Vũ là vì người Tàu miền ấy đọc hai chữ như nhau đều là yu cả, nên ta có quyền ngờ rằng chính tên ông Thuấn là Đại Vũ mà không là Đại Ngu. Đại Vũ là vì ông làm ra nhạc Cữu Thiều cũng như làm ra bài vũ tên là Vạn. Như vậy quả đáng mang tên là Đại Vũ như lời gọi xưa kiểu Hữu Miêu, Hữu Sào, Toại Nhân… tức gọi tên theo sáng tạo. Chữ Vũ vừa là múa vừa là lông chim trĩ ngũ sắc mà người ca vũ mang trong mình khi múa. Đã vậy không có chính phủ nào có bộ nhạc bộ vũ như triều đại ông Thuấn. Oâng Thuấn sinh ra trên núi Vũ (Vũ Sơn) thì càng có lý để gọi ông là Đại Vũ. Thế rồi vì lâu ngày tam sao thất bản ông Thuấn là Đại Vũ trở nên Đại Ngu; ngừơi ta giải thích chữ Ngu là an vui thanh bình, cùng nghĩa như chữ Di, chữ Lạc v.v… với người Tàu thì được lắm vì 2 chữ đọc tương tự, chứ với người Việt thì ngu là ngốc giải nghĩa sao cũng không sạch. Hồ Quý Ly muốn xưng tụng ông nội nên loạng quạng xưng hiệu là Đại Ngu, truyền dòng họ Hồ ngu thật sự đến n ay. Sai một li đi một dặm là thế. Nhân nói đến vũ, xin hỏi Khổng Tử có ưa vũ chăng? Thưa đến đời Khổng thì vũ đã biến thể đi nhiều mà trở nên Lễ, nên lễ cũng còn giữ nguyên một cơ cấu như vũ: cũng ba hồi trống, năm chầu sênh phách, bái ba bái, vái chín vái. Ta biết siêu hình Nho giáo tóm vào ba chữ “chí trung hòa”, nhưng đó là chữ trừu tượng mà Nho là đạo hành vi, nên cần động tác căn bản để cụ thể hóa đạo lý. Vậy chữ trung được cụ thể bằng Lễ, vì lễ cốt nhằm làm cho sự việc được thích nghi, không thái quá không bất cập, còn hòa cụ thể bằng nhạc ta quen nói hòa nhạc. Vì thế lễ nhạc là hai cột trụ của Nho: thiếu lễ nhạc là thiếu điểm tựa cụ thể và cùng cực. Không có triết lý nào đặt trên Nhạc, càng không trên Lễ, riêng có Nho đã làm như thế là vì Nho đã công thức hóa Việt lý mà linh hồn Việt lý là ca vũ. Họ văn hóa thực là khắng khít như vậy đó. Tuy nhiên có một điểm cần được ghi nhận là các tiên nho sau này không một ai nhận thức ra điều đó. Hơn thế nữa kể cả Khổng Tử mặc dầu ông đề cao văn hóa phương Nam và thực tình đi theo, nhưng cũng không nhận thức đâu là nguồn gốc. Vì điều đó không quan trọng bởi chân lý không có quê hương. Tuy nhiên khi nghiên cứu về nguồn thì lại cần phải đề cập. Sau đây là một thí dụ: ta biết Việt tộc đề cao bên tả như câu Kinh Thư đã trưng trên “tứ Di tả nhậm” (Tất mệnh, câu 13), Tàu đề cao bên hữu, coi bên tả là cái gì thuộc dân gian tầm thường, lên án đạo nào thì gọi là tả đạo. Nhưng đó là chuyện xa xưa khi Tàu mới gặp Việt, rồi dần dần Tàu thấm văn hóa Việt nên đi theo Việt trong nhiều truyện thí dụ đề cao bên tả. Chính Khổng Tử đã nói nếu không nhờ Quản Trọng duy trì Trung Quốc thì nay người Tàu đã để tay tả trên tay hữu theo đúng thứ tự âm trước dương. Có lần ông đứng giữa môn đệ tay hữu để trên tay tả. Các môn đệ thấy thế đều làm theo. Oâng liền chỉnh rằng tại sao các trò lại bắt chước theo ta. Hôm nay ta để tay hữu trên là có ý để tang chị. Nghe vậy các trò ai nấy lại để tay tả lên trên (Nhị tam tử giai thượng tả. Lễ Ký II 2.19). Với lối cơ cấu, chỉ một cử chỉ thượng tả với lời nói nhị tam tử là đủ biết Nho bắt nguồn từ Việt lý rồi. Trên đây là mấy điểm then chốt nói lên sự đồn tính (đồng cơ cấu) giữa nguyên Nho và Việt lý. Trước hết hỏi khẩu cung Khổng Tử thì ông nhận là mình không có lập đạo mới mà chỉ truyền đạo xưa mà đạo xưa thì rõ ràng xuất từ phương Nam. Nếu muốn đi một đường xác thiết hơn để hỏi tên tổ thì ông xưng là Nghiêu Thuấn. Cả hai đều hiện thực “thiện nhượng” tức là đức tính bao trùm trong xã hội cổ xưa của Việt tộc, đó là xã hội tương thân, tương trợ, cộng tác, khác hẳn xã hội đấu tranh giai cấp, chiếm đoạt giật giành. Kế đến ông Thuấn còn đi sâu hơn vào nguyên uỷ của xã hội đó, tức là xã hội tình xây trên tinh thần gia tộc, đề cao chữ Hiếu. Hữu ư trung xuất hình ư ngoại; ông lại còn động ứng y hệt Việt tộc là mặc áo lông chim (điểu công) và xâm mình rồng, hoặc đeo dấu hiệu rồng (long công), rõ ràng là họ Tiền Rồng của Việt tộc. Đến khi xét nội dung Nho thì không một điều nền tảng nào trong Nho lại đã không có trong Việt. Chỉ nói sơ qua về cơ cấu thì âm dương là tóm nét song trùng lưỡng hợp tràn ngập trong Việt tộc. Tam tài là đạo ba Ngũ hành là cơ cấu vài ba với ngũ lĩnh và nhất là câu “đóng đô ở Nghệ An” đã bàn trong bài Xứ Nghệ (Nghệ là số 5 kép bởi 2 và 3 đi trước cung ngũ hành) Gia tiên thì là tục cúng ông bà. Gia quan là lễ thành đinh. Thiên viên, địa phương là bánh dày, bánh chưng v.v… Trên đây là ít khẩu cung do Thầy Khổng và trò Mạnh, tất cả đều xưng nguồn gốc Nho là Việt, đến khi “thử máu văn hóa” ông Thuấn cũng thấy đúng là máu Tiên Rồng, khiến cho không ai có thể đưa lý lẽ để chứng minh nguồn gốc và bản chất Nho là do Tàu, mà không do Việt. Tuy nhiên đó mới là nói trên phương diện tượng tức nguyên Nho, còn trên phương diện hình là Hán nho thì quả có một số yếu tố Tàu hay đúng hơn là ngoại lai đã được đưa vào Nho. Đó là: a) Bốn yếu tố du mục đưa vào đời Chu (xem Sứ Điệp) :( Vụ xuyên tạc nguyên nho bằng thư viện Thạch Cừ (xem Nguyên Nho). c) Một số thêm thắt về sau. Hai điểm a, b đã bàn rộng nơi khác. Ở đây chỉ xin nhắc qua đến điểm c. Thí dụ đầu tiên là câu: “Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung”… Câu này hay được trưng dẫn để đả kích Nho, nhưng không phải của Nho mà là của Thái tử Phòng Tô con Tần Thuỷ Hoàng. Vì óc bênh Nho nên bị đày lên coi việc xây Vạn Lý trường thành cùng với tướng Mông Điềm. Đến khi Tần Hoàng chết, bọn Triệu Cao giả sắc lệnh bắt Phòng Tô phải chết theo. Tướng Mộng Điềm can Phòng Tô đừng chết ngay, hãy cất quân về triều để điều tra sự thực ra sao. Nhưng Phòng Tô đã trả lời rằng: “Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung. Phụ khiển tử vong, tử bất vong bất hiếu”. Trả lời vậy là Phong Tô đã đi ngược hẳn với tinh thần Nho giáo được biểu lộ trong câu của Tuân Tử: “Tòng Đạo bất tòng quân, nhân chi đại hạnh dã”: theo Đạo mà không theo Vua, đó là đại hạnh của con người. Hoặc câu “quân xử thần dĩ lễ”: vua đối với quan phải dùng lễ v.v… Mạnh Tử còn đi xa hơn nữa khi nói: “Nếu vua coi thần như cỏ rác thì thần coi vua như trộm đạo (khấu thù). Tómlại nếu xem Nho trong toàn bích thì tuyệt không có vụ: quân xử thần tử, thần bất tử bất trung. Một thí dụ khác là hai chữ tam tòng thường được nhắc tới để chứng tỏ Nho đàn áp đàn bà, mà thực ra thì gốc tam tòng do du mục đưa vào và có tính cách xã hội. Còn chính ra là “tam cương đạt đức là: Trí, Nhân, Dùng”. Tuy vậy phải công nhận là với Hán nho thì đàn bà bị lép về dần và làm nên một điểm đen cho Hán nho, nhưng dầu sao Việt lý hãy còn giữ được ảnh hưởng nên không bao giờ đàn bà bị hạ thấp đến độ cơ cấu như bên Hy Lạp, nơi đàn bà bị coi như nô lệ, tức không đựơc kể là công dân hoặc coi như không có linh hồn, hoặc như bên Aán Độ, vợ là “của” chồng đến độ khi chồng chết thì vợ phải lên giàn hỏa chết theo chồng. Hú vía cho Huyền Trân công chúa xuýt bị nướng sống theo triết lý du mục nọ. Tóm lại, sau khi đã gẩy những sạn sỏi ra khỏi Nho rồi thì thấy đạo Nho cùng một bản chất như Việt Lý tức từ cơ cấu, xuyên qua bộ định đề và nguyên lý cho tới những câu then chốt hễ có trong Nho là tìm ngay ra được nội dung tương đương bên Việt lý. Vì thế có thể nói nghiên cứu về Nho cho thấu triệt chính là một xa lộ dẫn tới tinh hoa Việt lý. Tinh hoa đó là chi, chúng ta sẽ bàn đến từ chương sau. Tác giả Kim Định (còn tiếp)
  6. Pho Tượng Đẹp Nhất Của Việt Tộc 4. BẢN CHẤT TRIẾT VIỆT Để nối Việt với Nho cho thành Việt nho thì cần một điểm móc nối rất đích đáng có thể gọi là phương trình: Việt = Nho hoặc Nho = Việt. Nói khác cần phải biết bản chất Việt là gì, bản chất Nho ra sao mới nối được. Trong bài này xin hãy bàn về bản chất Việt. Nói đến bản chất là nói đến cái tượng thuộc vòng trong, hay là đức tính trổi vượt, mà không nói tới vòng ngoài thí dụ chủng tộc, đất đai. Như vậy có nghĩa là trong cụ thể phải vượt sử địa để đi vào miền sử mệnh của huyền sử với các di vật khảo cổ làm điểm tựa, thí dụ nếu hỏi đức tính Việt là chi, ta có thể căn cứ trên các sách Kinh Hùng, Sơn Hải Kinh với các huyền thoại cổ xưa đã biến thể và hiện còn nằm rải rác đó đây. Còn khảo cổ thì như trống đồng, các đồ gốm ở Đông Sơn, Ngưỡng Thiều, Long Sơn, Hang Thần ở Miến Điện, Non Nok Tha ở Bắc Thái Lào v.v… cần căn cứ trên những tài liệu như thế để tìm ra bản chất người Việt lúc chưa chịu ảnh hưởng Tàu. Vậy xin hỏi bản chất đó là chi? Từ xa xưa cho tới tận nay người Việt nào cũng xưng mình là con cháu của mẹ Tiên cha Rồng. Nói thế vì quen miệng cũng có vì tin tưởng là thật cũng có, mà để chế nhạo cũng có. Ai trong ba loại ấy là đúng? Thưa chẳng ai đúng hết, tuy rằng những người tin tưởng là có thực bớt sai hơn nhưng chưa đúng hẳn. Muốn đúng sự thực phải đi theo lối cơ cấu, tức so đọ với bao chuyện cổ khác, của các chi tộc khác trong Bách Việt, và trước hết là xem vào khảo cổ mà trống đồng Ngọc Lữ là một lâu đài rực rỡ. Vậy xin hỏi trong trống đồng có thấy dấu vết chi về Tiên Rồng chăng. Và lúc ấy chúng ta mới kinh ngạc mà nhận ra rằng toàn diện trống đồng chỉ nói nguyên có truyện Tiên Rồng mà thôi. Cái mặt nói truyện Tiên, cái tang nói truyện Rồng. Tuy nhiên vì lối nói quặt quẹo đó là lấy chim thay cho Tiên; muốn vẽ tiên thì người xưa vẽ chim. Người nào tu đắc đạo thành tiên thì huyền thoại nói là hóa ra con bạch hạc, có khi nói vắn tắt là mọc cánh chim: “Vũ hóa” và nhiều hình tiên tìm được trong di tích cổ đều là người có đeo lông chim. Theo đó thì những hình người mang lông chim đang múa trên trống đồng có thể gọi là tiên theo nghĩa rộng. Tại sao lại như vậy? Thưa vì Việt tộc nhận chim làm vật biểu. Nói vật biểu: Hieraldic animal, mà không nói vật tổ, totem. Vì vật tổ là của riêng một bộ lạc, còn Bách Việt gồm nhiều bộ tộc, mỗi bộ tộc gồm hằng trăm bộ lạc. Học giả ngày nay dùng chữ liên bang các dân để chỉ Cửu Lê và Tam Miêu, một danh xưng xưa nhất của Bách Việt (Confraternities of People, Needham II. 117). Nói vật biểu thì phải hiểu là Bách Việt ít ra những chi tiến bộ nhất đã vượt qua giai đoạn vật tổ để lên đợt trên. Đợt trên đó có thể là ý hệ, có thể là tâm linh. Ý hệ thì như với các dân tộc Tây Aâu từ bỏ dứt khoát thần thoại (hơn kém cùng bản chất với đợt vật tổ) để bước lên đợt lý trí suy luận khách quan; nhưng vì lý trí độc tôn đốc ra duy lý, nên ý hướng là ý thức hệ lại đốc ra ý hệ, tức là tư tưởng bít kín, độc chiếm, thí dụ Mác xít không là ý thức hệ mà là một ý hệ. Việt tộc trái lại đã vượt cả giai đoạn lý trí để lên đợt tâm linh, nên không mắc kẹt lại ở ý hệ mà vươn lên đợt Nhân chủ. Đó là lối tiến hóa (evolution) nhẹ nhàng không đoạn giao với giai đoạn trước như cách mạng (revolution). Trái lại lối tiến hóa vẫn liên lạc với giai đoạn trước, dấu hiệu cụ thể là đã lên tiên mà vẫn giữ chim, còn tiên là tiếng rất hàm hồ vừa là tiên vừa là tiền (trước) nên quen gọi là tiên hiền, tiên thánh, tiên nhân, tiền nhân. Vì thế có thể vẽ lại đường tiến hóa như sau: chim -> tiên = tiên nhân = tiền nhân = tiên hiền = tiên thánh. Nói khác tiên cũng là người, nhưng là người đã đạt nhân, đã đạt nhân chủ, nói đơn sơ là người khôn ngoan, hiền triết, thánh nhân mà ta có thể biểu thị bằng vật bay cao là chim. Do đó trong truyện cổ hễ thấy chim thì cũng hiểu là tiên, tiên nhân, tiền nhân. Các nghi mẫu của ta mang tên chim là do vậy: Aâu Cơ là con hải âu, Vụ tiên là ngỗng hay vịt trời, Lô là cò trắng. Lạc cũng như Việt đều là chim, và nổi hơn hết là chim trĩ là lông chim trĩ của Lạc Việt. Đó là lông ngũ sắc mà tổ tiên xưa quen mang trong mình mỗi khi ca vũ. Phụ nữ Việt xưa quen mặc áo vẽ hình chim trĩ, hoặc mang đồ trang sức bằng lông ngỗng là tục phổ thông. Mẹ Aâu Cơ còn đi xa hơn nữa khi để con theo lối chim (tục điểu) là thể hiện văn hóa chim đến cùng cực. Tạc tượng có ngón chân xoè ra như chân chim là để nói lên sự giống chim từ đầu đến chân. Nên nhớ 4 chân con rồng là 4 chân chim phượng hoàng mà phượng hoàng thường được vẽ như chim trĩ (đã bàn trong Triết Lý cái đình tr.174). Nhờ cơ cấu để móc nối chim vào với tiên rồi, bây giờ xin hãy xem vào mặt trống đồng Ngọc Lữ mới kinh ngạc nhận ra không những cả tiên lẫn rồng, mà còn hơn thế nữa là cả hai đàng trong thế giao thoa thâm sâu và chói chang hơn hết: đó là hình chim đang lao đầu vào miệng rồng đã ngửa mặt sẵn sàng đón nhận cái hôn của tiên. Đó là cái hôn giao chỉ của mẹ tiên đến với cha rồng. Cụ thể là những người đội lông chim đang đứng trên thuyền rồng. Đội lông chim là giòng máu mẹ, mẹ tiên. Đứng trên thuyền rồng là giòng máu cha, cha rồng. Tất cả hiện đang sống đúng “điểu tục” tức là ca múa. Chim thì hót, người thì hát. Hát mà chưa tỏa hết tâm tình thì phải múa, múa điệu múa đầy hoạt lực nhất thì phải gồm miệng ca, chân nhún nhẩy, tay vung xoè. Các luồng cảm hứng sơ nguyên tạo nên những bức tranh rồng bay phượng múa đều phát xuất từ hai chữ Tiên Rồng này đây. Thế là ta đã nắm được bản chất Việt hiện hình ra trong hai chữ Tiên Rồng ở huyền sử, nay lại được kiện chứng bằng nghệ thuật khảo cổ. Bản chất văn hóa hay đức tính căn bản nằm trong cặp đôi nọ. Đó là nét đặc trưng của miền Đông Á mà Việt Nam là ngã ba hội tụ, nên ở Việt nam cặp đôi nọ xuất hiện cách rất thi vị và nhân chủ dưới hai chữ Tiên Rồng. Tiên hay chim đều nói lên đức tính siêu việt, còn Rồng nói lên sự biến hóa phi thường. Đó cũng là câu định nghĩa của con người Đại ngã của Việt nho là: Nhân giả kỳ thiên địa chi đức”, còn ở đây nói cách thi vị là Tiên Rồng: lời tuy khác nhưng ý là một. Đó là nét song trùng sơ thuỷ sẽ đẻ ra các đức tính khác rất nhiều nhưng quyvào một mối là lưỡng hợp tính để diễn tả đức tính uyển chuyển lưỡng thê là đức tính căn bản mà hễ nền văn hóa nào thiếu nó thì sẽ nghiêng ngả trước khi gieo vô vàn tai họa như duy vật là thí dụ. Thế là ta đã nắm đựơc đức tính dân tộc rồi đó, cả trong hình, trong tượng lẫn trong bản chất sâu xa. Bây giờ ta hãy dùng nó làm đuốc soi vào nhiều truyện cổ sẽ lần ra ý nghĩa ở những chỗ mà cho tới nay không ai hiểu được, thí dụ tại sao mẹ Aâu Cơ dẫn các con lên núi? Thưa vì núi là nơi ở của Tiên, của chim. Tại sao lại ở Bạch hạc thì xin hiểu theo liên hệ “vũ hóa” nói trên: tu tiên đắc đạo hóa ra chim hạc trắng nên Bạch hạc là cứu cánh. Tại sao sách Sơn Hải Kinh nói dân nước Kinh (Kinh Việt) có chân chim là do vậy. Tại sao tôi nói ông Cao Dao, Bá Ích có họ Việt? Thưa vì ông Cao Dao có mỏ chim, còn ông Bá Ích được mẹ sinh ra kiểu “điểu tục” (D 372). Tại sao có thành ngữ “Việt điểu”. Tại sao Việt nho có câu ngạn ngữ “tuỳ dương Việt trĩ” (con trĩ của Việt tộc bay theo hướng mặt trời) cũng là đó. Thế là ta biết rõ chim là giòng máu Việt. Hễ đâu có chim là thuộc văn hóa Việt tộc dù sách có nói là của nhà Hán hay nhà Chu cũng biết vậy. Cần thử máu mới biết đích xác là của Việt hay Tàu và lúc ấy sẽ dễ dàng thấy chỗ xuyên tạ, vì Tàu khởi đầu không có chi, trừ chim cú được kính trọng lắm, người ta ngờ là vật tổ của Hoàng Đế và còn truyền đến nhà Thương, nhưng về sau thì bị khinh rẻ và ai bị chửi là chim cú (kiêu dương) thì cảm thấy bị nhục không thể tả. Vì cuối cùng cú bị mang tiếng như loại chim có tên là Phá Kính cũng giống cú, cả hai có tội quay lại ăn thịt bố mẹ. Từ địa vị vật tổ mà trụt xuống đến đó hẳn là phải có căn nguyên, và căn nguyên đó nằm trong cái toàn thể là “văn hóa Hiên Viên Đế” thuộc du mục đã thua văn hóa Việt tộc nông nghiệp. Chim của Việt tộc nếu không là thiên địch tức “chim mặt trời” loại “tuỳ dương Việt trĩ” thì là loại chim nước nói lên nét song trùng: bay lên trời mà vẫn có thể ăn dưới nước nên có thể giao chỉ với rồng cách thâm tình nhất. Đàng này chim của Hoàng Đế thuộc loại duy dương (cú ngày tỉnh đêm) chẳng có nét song trùng chi hết, nên bị giết bằng tên cong ở trục chí. Đó là nói kiểu huyền sử: tên cong là của Việt tộc (sẽ bàn nơi khác), còn trục chí (hạ chí, đông chí) thường chỉ bái vật hay ý hệ thiên về một bên không phải trục phân (xuân phân, thu phân) chỉ nét thiên quân của con người đại ngã với ngầm ý là triết lý trục vật du mục của Hoàng Đế bị loại trừ do triết lý Nhân chủ của nông nghiệp. Nông nghiệp lúc ấy kêu là họ Hữu Miêu (nghĩa đen là người có ruộng nước) tức cũng là Tam Miêu cùng họ “máu” hàng dọc với Việt tộc vì cùng sinh ra bởi Tiên Rồng. Điều này không được nhận ra vì sách nói sinh ra bởi ông Quỳ và bà Huyền thê. Thế nhưng đọc theo lối cơ cấu sẽ nhận ra Huyền thê cùng họ Huyền với huyền điểu, với bà “Cửu thiên huyền nữ” tức là tiên đó. Còn Quỳ cũng là rồng đang trong quá trình biến thể, nên có đầu người mà mình lại là mình rắn. Họ hàng thực xa mà hóa gần là vậy. Tam Miêu cũng có tên là Cửu Lê vì số căn của Cửu (9) là tam (3). Tam Miêu và Cửu Lê ăn với nhau theo số cơ cấu là thế. Nhà lãnh đạo của Tam Miêu tên là Si Vưu, sau này bị Tàu khinh rẻ, y như khinh rẻ Man Di, nhưng ban đầu Si Vưu là thủ lãnh rất nổi tiếng, nên chữ Vưu cũng có nghĩa là người đệ nhất phi thường (le premier extraordinaire), vì thế đáng mặt làm thầy của Hoàng Đế và Hoàng Đế là sinh viên du học tiên khởi đến học trường Si Vưu, mà khóa trình là thiên đạo. (Tích nhật Hoàng Đế đắc Si Vưu nhi minh ư Thiên Đạo), ngày xưa Hoàng Đế được học với Si Vưu thì sáng trí ra về đạo trời. Nói thế có nghĩa là trước khi gặp được Si Vưu thì Hoàng Đế hoàn toàn duy vật, có tiến lắm cũng quanh quẩn ở đợt bái vật, pháp môn, mãi sau tiếp xúc với Si Vưu mới thâu thập thêm “nhiều sàng khôn” trong đó đáng kể nhất là sáng mắt ra về thiên đạo. Thế là tạm bàn xong họ Mẹ. Bây giờ bàn thêm ít lời về họ Cha là Rồng. Rồng có hai loại: loại miền nam là giao long (thuồng luồng) có 4 chân, còn loại không chân kêu là xà long thuộc Việt miền bắc từ Sơn Đông tỏa xuống qua Sở, Ngô, Việt (cả ba nước này hồi xưa có một thời gọi là Kinh và Dương) về sau cộng cả thuồng luồng lại với rắn để làm nên rồng, nên rồng vừa có mình dài như rắn, vừa có 4 chân của thuồng luồng, nhưng móng là móng phượng hoàng. Còn một loại rồng nữa ở biển gọi là Ly. Loại ở đầm hồ và sông gọi là Quỳ. Loại này hòa hợp với chim quá nhiều hóa ra văn Quỳ long, một hợp loại chim rồng, nhưng chim nổi hơn nhiều. Còn mộot loại chim rồng nữa gọi là phi liên cũng thuộc loại chim rồng giao thoa nên có chỗ kêu là long tước (rồng có mỏ chim sẻ). Hình dáng và tên gọi thì nhiều nhưng tất cả đều thuộc tiên rồng, tên gọi và thể thái khác nhau là do địa vực rất rộng, với thờigian lâu hàng nhiều chục ngàn năm, không thể nào quy định được niên đại và bờ cõi, chỉ biết là của Việt tộc nên câu “nhất điểu nhì xà” phải hiểu theo đồng văn lớn này. Tục quen nói “nhất điểu nhì ngư” chưa biết căn cứ vào đâu, không thể căn cứ vào cá Côn, chim Bằng trong sách Trang Tử vì đó hoàn toàn là dụ ngôn, cả cá lẫn chim đều dài mấy ngàn dặm. Ngư là thứ hoa văn mà nhà Hán dùng rất nhiều vì một thời cá đã là vật tổ của Tàu, rõ nhất là đời nhà Tần. Tàu mới có rồng từ nhà Hán. Có lẽ từ đấy có câu “cá hóa long”: cá có học với Si Vưu để ra long, nhưng xem ra không đủ điểm, nên hóa lưng chừng không ra rồng mà chỉ đủ vây cánh để chở Táo Quân vào cuối năm, còn quanh năm thất nghiệp. Nói tóm lại khởi nguyên Tàu không có rồng, những vụ sách nói có rồng chỉ là nguỵ tạo tự đời Hán mà nhiều vụ không ổn rõ ràng. Hoàng Đế bắt rồng quỳ lột da bưng trống. Lột tí da thì ăn nhằm chi, còn trống mà bít da và bưng cả hai đầu là kín chứ có trống đâu. Vì thế trống đó gọi là cái Cao để nằm ngang và chỉ dùng cho việc kiện tụng hoặc đánh trận. Khác hẳn trống Lạc Việt để trống một đầu, đặt dựng đứng để biểu thị đức trung ương tổng quát. Nhà Chu dùng khẩu hiệu quân sự là hùm, beo, sói, rồng. Có một rồng giữa ba con kia toàn du mục, tức mới học được có ¼ bài học Nông nghiệp về Tiên Rồng. Vậy toàn thể rồng xưa kia là của Việt tức là toàn cõi nước Tàu. Việt tộc có rất nhiều tên như Cửu Lê, Tam Miêu, Di, Tứ Di, Cửu Di, Nhung, Địch, Man Di, Bách Việt và bao gồm nhiều chi tộc khác nhau với những nền nghệ thuật khác nhau. Nhưng đứng về Triết tức văn hóa tổng quát thì có thể quy vào một nền văn hóa nông nghiệp và do đó trong nhiều tên chỉ Việt tộc tôi chọn tên Bách Việt vì xét về cơ cấu thì không số nào lớn hơn số trăm (Bách Việt). Còn chữ Việt cổ viết với bộ mễ nói lên nền nông nghiệp lúa mễ, nên bao trùm được cả Tam Miêu (Miêu là mạ) còn tên Di theo tự dạng là người có nỏ, mà nỏ là môn sở trường của Lạc Việt (nhớ truyện cái nỏ của thần Kim Quy) và cũng hay đi liền với Việt gọi là Di Việt, cũng như Man thành Man Di: tất cả đều tham dự vào mấy nét chung như cắt tóc, xâm mình, tả nhậm và nhất là hóa trang chim khi múa. Những nét đó là dấu bên ngoài của đại chủng Việt mà ban đầu đã cư ngụ khắp cõi nước Tàu, sau rồi dân tộc Tàu cũng là một hai chi tộc trong đại khối Việt nhờ một hai thuận lợi mà nổi lên và dần dần Tàu hội nhập và hoàn chỉnh văn hóa chim rồng, rồi đẩy Việt tộc ra tứ phía gọi là tứ hải. Nhưng “tứ hải giai huynh đệ” tức cùng một gia đình văn hóa, nên đều là anh em cùng giòng máu huynh đệ là tiên rồng. Sau đây xin phác họa lại những đợt Tàu đẩy Việt tộc ra ngoài 4 bên: - Đợt đầu Hoàng Đế chiến Si Vưu, tức cũng là chiếm phù hiệu của Si Vưu. - Đợt hai ôn hòa hơn là ông Vũ tiến xuống mạn Nam sông Hoàng Hà lập ra nhà Hạ giữa đất đai cũng như văn hóa Việt. - Đợt ba nhà Thương tiến chiếm Di Việt bao gồm Sơn Đông, Hà Nam, Hồ Bắc, Giang Tô, Chiết Giang v.v… - Đợt bốn là đời chiến quốc, nhà Tần nuốc Sở, Ngô, Việt. - Đợt năm là cuộc chiếm Nam Chiếu, Dạ Lang, nước Điền. - Cuối cùng cả Lạc Việt gồm 2 tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây trứơc kêu là lưỡng Việt, nay đổi ra lưỡng Quảng. Về đàng khảo cổ, ta có thể lấy Ngưỡng Thiều làm như ngành Tiên, từ tỉnh Thiểm Tây đổ xuống Thái Bình Dương gồm những chi Chà Và (Chàm, Inđônê, Mã Lai, Thái, Miến, Assam) các nhà khảo cổ chỉ bằng rìu chữ nhật. Ngành Rồng chỉ bằng rìu có vai tạm lấy Long Sơn làm điểm khởi kéo xuống qua Ngô, Việt, Quảng Đông và Việt Nam(1). Cả hai dòng văn hóa tiên rồng đó hội tụ lại nơi Việt Nam vì thế Việt Nam gọi được là một nước hợp chủng (hiện nay có trên sáu chục sắc dân thiểu số), có thể coi như đại diện cho những người đã bị đuổi ra khỏi địa bàn tổ của mình và trở nên những di cư đời đời đại biểu cho tứ hải, tứ Di, Bách Việt. Nói là đại diện vì phần lớn ở lại đất cũ và bị đồng hóa để trở nên Tàu. Thí dụ rõ nhất vì muộn nhất là Tần, Sở, Ngô, Việt. Họ đã trở nên Tàu đến độ vài ngàn năm sau không ai dám gọi họ là Việt hay đúng hơn là Tàu gốc Việt, chỉ đến nay khi ta đi theo lối cơ cấu và đo máu văn hóa mới nhận ra họ hàng văn hóa thực rõ ràng. (1) Chỗ này viết theo quyển The making of South East Asia của ông G.Coedes, dịch sang tiếng Anh do ông H.M.Wright Berkeley and L.A 1966 Đó là mấy sự kiện thuộc lịch sử nhưng đã bị quên nên cần ôn lại dưới ánh sáng của những cuộc nghiên cứu mới ngày nay. Theo đó nước Tàu mới ra khỏi trạng thái bộ lạc từ nhà Thương, và nước nhà Thương rất nhỏ. Mãi cho tới Tần Hán mới chính là hình ảnh Tàu như nay do nuốt được Sở, tức cũng là nuốt được Ngô, Việt, cả ba là do Đông Di miền sông Hoài và mạn nam miền đồng bằng Dương Tử. Hầu hết học giả phải nhận Sở là khu nữu (the world axis) là cuống họng (the throat of the world) của Tàu. Vậy mà đó chính là địa bàn tỏ của Man Di tức Bách Việt. Khi tôi nói Việt Nam là thủ chỉ và là đại diện cuối cùng của nền văn hóa Tiên Rồng là nói theo toàn bích siêu hình, nhưng cũng có thể thật cho tới 2 ngành chủng tộc: một Tiên từ phía Ngưỡng Thiều (Thiểm Tây), một Rồng từ Long Sơn (Thái Sơn) cả hai đổ xuống gặp nhau nơi Việt Nam. Theo đó thì ngoài Việt Nam không còn chi nào nữa, vì hầu hết đã bị đồng hóa, còn lại thì không đủ điều kiện. Hàn, Nhật thì xem ra có Rồng mà không có Tiên, và dầu sao thì cũng quá cô lập vì đã bật ra ngoài những giòng sông của địa bàn tổ, không tiện lãnh đạo. Các nước miền Tiên thì đã bị hút quá mạnh vào quỹ đạo của Aán Độ là loại có cơ cấu du mục nên bẻ quặt văn hóa Tiên Rồng. Còn lại có Việt nam tuy chịu ảnh hưởng Tàu, nhưng Tàu đã hội nhập của Việt trước, nên tuy dạng thức văn hóa có biến đổi nhưng bản chất không bị bẻ quặt nhiều, mà chính ra là giúp Việt đi hết bước đường công thức hóa nền văn hóa chung mà trước kia Việt là chủ, Tàu là khách, nhưng khi xét toàn bộ thì phải nói Việt Nam là bộ tộc duy nhất trong Bách Việt có khả năng cũng như sứ mạng trùng tu lại nền Văn hóa cao cả nọ. Bàn về con chấm chủ quyền có khắc hai chữ Tiên Rồng như vậy kể là tạm xong, chúng ta sẽ dùng con chấm đó đi nhận diện những di sản nào là của nhà, nhưng trứơc hết chương sau chúng ta phải xem về nguồn gốc Nho là chi mà lại nói là đồng bản tính với Việt trong thành ngữ Việt Nho. Tác giả Kim Định (Còn tiếp)
  7. Pho Tượng Đẹp Nhất Của Việt Tộc 3. LÝ DO HAI CHỮ VIỆT NHO Nền triết lý mới của Việt gọi là An vi, nhưng khi xét về nguồn gốc sử trình thì gọi là Việt nho Hai chữ Việt nho nghe suông sẻ mà sự thực nói lên một cuộc cách mạng hết cỡ: xưa rày liên hệ Tàu Việt vẫn đi theo lối Tàu trước Việt sau, như ta quen nói Hán Việt; trong tương quan đó thì Việt học với Tàu từ chữ viết cho đến guồng máy cai trị, binh bị, học thuật không sót cái chi. Đến nay đột nhiên có người dám đưa ra thuyết Việt nho đặt ngược lại thứ tự, tôn Việt lên “làm thầy” hạ Tàu xuống làm “trò” có phải điên chăng? Cả một rừng sách vở, cả một ngàn năm đô hộ với cái dĩ vãng như kia sao lại có thể đùa dai như thế được! Thưa rằng không đùa dai chi cả, mà chỉ là lật lại một trang sử cũ, nhưng đã bị cả Tàu lẫn Việt quên bẵng. Xưa nay ai cũng cho là sử Tàu Việt đều khởi từ đầu, nhưng kỳ thực mới là khởi từ khúc giữa: nước Tàu thì trước Tần Hán một chút, còn Việt có nhiều lắm cũng mới tới từ hai Bà Trưng, trước nữa mới là một mớ truyền thuyết. Vậy mà chính thời xa xưa đó mới là thời đích thực của văn hóa, chứ từ Tần Hán cũng như Trưng Triệu chỉ là văn minh vòng ngoài. Nói theo triết Việt nho thì các sử gia tới nay mới biết có hình mà chưa hiểu tượng theo câu Kinh Dịch: Tại thiên thành tượng Tại địa thành hình” Biết hình tức là những cái hiện ra hình tích cụ thể như những biến cố có ghi chép, nhưng còn cái tượng, tức là cái ý hướng dẫn đạo, cái dạng thức chỉ huy văn hóa thì chưa ngó tới. Như vậy là mới biết có ngọn mà chưa biết đến gốc, nói theo Việt nho là mới biết lịch sử mà chưa biết huyền sử, mà huyền sử mới quan trọng cho văn hóa. Vì không biết huyền sử thành ra cho là tất nhiên những cái chẳng có tất nhiên chút nào. Hãy lấy vài thí dụ cụ thể. Trước hết là Rồng, có phải đó là vật biểu của Tàu từ đầu như vậy chăng? Vì cho là tất nhiên nên xưa nay chẳng ai đặt vấn đề chứ đừng nói đến giải đáp. Nhưng nếu ta đi một đường ngoi ngược về nguồn sẽ thấy: Vật tổ của Tàu trước là con chim cú, rồi hổ (bạch hổ), rồi cá hay gì nữa, mãi tới quãng nào đó đời Hán mới nhận rồng. Trái lại Việt tộc đã nhận Rồng ngay từ đầu nên có câu “mẹ tiên cha rồng” (tiên mẫu long phụ). Tuy nhiên rồng lúc ấy mới là tượng, như rắn xà long hoặc giao long tức một loài cá sấu sau biến dần qua các hình thái như ly, bàn, quỳ, cuối cùng mới ra rồng. Vậy rồng xét như hình ảnh rõ ràng như nay thì là của chung Tàu và Việt, còn giao long xà long mới là tượng: cái tượng mập mờ thấp thoáng thì là của riêng Việt. Sau đây là một thí dụ khác về chữ viết. Chữ Nho hiện nay gọi là chữ Lệ đã hiện ra hình thể rõ rệt từ đời Tần, nhưng trước đó mới là tượng gọi là chữ con quăng (khoa đẩu) và trước nữa là chữ chân chim (điểu tích) và rất nhiều loại chữ gọi là chữ kỳ dị (kỳ tự) hoặc phép kết thằng: những loại chữ này mới là tượng theo nghĩa khá sát là biểu tượng hay vật tổ của Bách Việt là tiên rồng (tiên liên hệ với chữ chân chim, rồng liên hệ với chữ con quăng) những loại chữ này có lâu đời trước thuộc chi tộc này hay chi tộc khác trong toàn khối Bách Việt, còn chữ Lệ mới có về sau như hậu thân của nhiều đợt sửa đổi và thống nhất, mà đợt cuối cùng xảy ra đời Tần với Lý Tư và đã bắt buộc mọi nơi phải theo, cấm các chữ khác của Bách Việt. Có thể vì vậy mà chữ của Việt Nam biến mất, và sau nay lập lại thì không dám đọc rõ, mà phải đọc trại ra nôm. Chữ Nôm là chữ Nam đó. Thí dụ thứ ba liên hệ tới văn tự là Kinh Dịch. Ai cũng cho là của Tàu, nhưng nếu xét ngọn nguồn thì không phải như vậy, vì Dịch có năm giai đoạn gọi là: Đạo dịch của Trời Đất Đạo dịch của Phục Hy Đạo dịch của ông Đại Vũ Đạo dịch của Văn Vương Đạo dịch của Khổng Tử Vậy Dịch là của Tàu chỉ ở 2 giai đoạn sau gọi được là hình tức đã có chữ nghĩa, nhưng chỉ gọi là hệ từ nghĩa là chữ buộc vào sau. Tức sau khi sách đã có rồi, nhưng mới ở thể tượng nghĩa là ở giai đoạn 2 mới có quẻ với Phục Hy, còn trước nữa ở giai đoạn 1 còn lờ mờ hơn nữa gọi là Đạo dịch của Trời Đất thì mới có những huyền thoại cặp đôi như trời đất, núi sông, tiên rồng, đực cái, ông Cồ bà Cộc, ông Đùng bà Đà, bà Nữ Oa ông Tứ tượng v.v… Đó là những cặp đôi tuy lơ mơ nhưng với Kinh Dịch lại là nền tảng vì làm nên cái tôi gọi là lưỡng hợp tính hay nét song trùng. Vậy nét lưỡng hợp này thấy nhiều nhất ở Đông Nam Á, nên các học giả đều cho là nét đặc trưng của khu vực này mà trong đó Việt Nam là trung tâm, nên nói Kinh Dịch là của Việt theo nghĩa đó. Cũng phải nói như vậy về giai đoạn Phục Hy vì tổ này ở miền Đông là miền thuộc Di Việt. Lưu truyền nói Phục Hy là người Tàu là nói theo sự chiếm đoạt của Hán Nho. Chứ vào thời Phục Hy đã có Tàu đâu mà bảo Phục Hy là người Tàu. Tàu chỉ xuất hiện dù chỉ trong huyền thoại mới từ Hoàng Đế (sau cả họ Hồng Bàng), còn chính thức thì mới từ nhà Hạ lối vài chục thế kỷ trước kỷ nguyên. Khoa khảo cổ mới tìm được dấu tích có đến nhà Thương Aân tức vào lối thế kỷ 15 tr.c.n, còn trước đó toàn cõi nước Tàu đều như nhau, mà văn hóa nổi lại thuộc về Việt tộc, mãi đến thời Xuân Thu thì những chữ Nhung, Địch, Man, Di mới đèo theo nghĩa kỳ thị. Chứ trước kia thì “Bái Nhung bất hạ” nghĩa là Tàu học với Nhung (cũng là Di) không có gì là xấu hổ cả như sách Tả truyện thuật lại. Thí dụ thứ bốn là mái nhà cong. Ai cũng bảo là của Tàu, nhưng đó là đợt hình mà đợt này mới có từ đời Đường chi đó, còn trước nữa thì mái nhà Tàu thẳng băng, như thấy trong các nhà được khảo cổ khai quật lên. Cả những nhà tuỳ táng gặp trong các mộ người Tàu tìm đựơc ở Lạch Trường, Đông Sơn cũng mái thẳng, đang khi đó thì những nhà ở Đông Sơn đã cong mái từ lâu rồi, như thấy được trong hình trống đồng mà luôn cả những di hình của nhà hóa thạch đào được ở Đông Sơn. Vậy đó quả là tại thiên thành tượng, rồi sau Tàu tô điểm cho thành ra hình như ngày nay. Trên đây mới là vài ba thí dụ tuy ít nhưng toàn là nền móng. Vì thế đứng về văn hóa không nên nói Hán Việt mà phải nói Việt nho để ghi lại thứ tự sinh thành đích thực của văn hóa Viễn Đông. Nói Nho để đặt nổi khía cạnh văn hóa, còn chữ Hán là tên một triều đại đã là Tàu rõ nét, nên chỉ là tên chính trị, không hợp với việc tìm về nguồn gốc văn hóa. Về văn hóa thì Việt có trước Tàu nên nói Việt nho mới ổn. Mấy thí dụ trên đây tuy rất nền tảng nhưng có thể nói mới là tiên thiên thuộc lý thuyết, nên sau đây xin thêm mấy thí dụ về lịch sử và khảo cổ và chỉ xin đan cử một thí dụ về Di Việt. Ta biết người Tàu chỉ “rợ” mạn Tây và Bắc bằng “Nhung, Địch”, còn mạn Nam và Đông là “Man, Di” tức là ngành tiến mạnh nhất trong văn hóa mà sau này Tàu theo học, nên sách Xuân Thu Tả truyện có câu “Hoa Hạ diệc tân Di Địch” nghĩa là dân Trung Hoa cũng chính là những dân Di Địch mới. Đó là câu sách thoáng qua, nhưng lại phản ảnh một lưu truyền xa xưa mà ta có thể xác định vào đời Thương Aân lúc xâm chiếm văn hóa Di Việt xảy ra ở vùng Sơn Đông, Hà Nam, Hồ Bắc miền Dương Tử Giang, An Huy, Giang Tô miền Bắc sông Hoài v.v… mà ấn tích là di chỉ Long Sơn rất nổi tiếng (xem Cradle tr.188 và 313). Việc này xảy ra vào những thế kỷ từ 15-12 tr.c.n. Nhà Thương lúc chiếm Long Sơn mới chỉ là một bộ lạc nổi hơn về binh bị, chứ văn hóa thì thua Di Việt rất xa. Chính nhờ cuộc chiếm Long Sơn mà “nước Tàu” mới nhô lên bật ra khỏi tình trạng bộ lạc (xem The birth of China của H.G.Creel). Xin nhắc lại Long Sơn là một di chỉ danh tiếng do ông Anderson khai quật được năm 1923 với cái lịch (nồi có ba chân rỗng) rất thời danh cũng như đồ sứ đen, Long Sơn đã có làng xã, có thờ tổ tiên, cũng như vòng xoáy ốc tả nhậm (ngược chiều kim đồng hồ) cũng rìu có vai với đồ gốm có hoa văn y như văn hóa Đông Sơn… Khi mới khám phá ai cũng cho là của Tàu và từ đó toả ảnh hưởng xuống phía Nam, nhưng dần dần các cuộc khai quật kế tiếp chứng tỏ ngược lại, như được kết đúc vào quyển The Cradle of the East của ông Bỉnh Thế Hà mới xuất bản năm 1975 với câu kết thúc đại khái của sách là nước Tàu làm nên do những ngừơi không phải là Tàu. Vậy thì là ai? Không phải Việt tộc thì ai vào đấy? Việt tộc đã để dấu văn hóa lại mãi từ giai đoạn Hòa Bình ít nhất trứơc đây 8000 năm. Đấy là về phía Đông, còn phía Tây thì phải kể di chỉ danh tiếng Ngưỡng Thiều trong tỉnh Thiểm Tây. Thoạt tìm ra ai cũng cho là của Tàu, nhiều học giả Tây Aâu còn cho là có chịu ảnh hưởng của Tây Aâu, nhưng đến nay thì dần dần nhận ra là do phía Nam. Nói vậy có nghĩa là trước đây vào lối 6, 7 ngàn năm, Ngưỡng Thiều và Long Sơn chưa phải là của người Tàu, thế mà đó là hai di chỉ then chốt đã đựơc nghiên cứu thấu triệt, thì đủ biết hai chữ Việt nho có đầy đủ lý chứng không những trong huyền sử mà luôn cả trong khảo cổ. Gạo thí dụ mới có ở Long Sơn trước đây lối 6 ngàn năm và rất hiếm, chỉ hàng quyền quý mới được ăn. Đang khi đó gạo đã có ở Việt ngay từ đợt văn hóa Hòa Bình, ít nhất trước đây lối 8 ngàn năm. Oâng Solheim cho rằng gạo đã có ở hang Thần và Non Nok Tha (cũng thuộc văn hóa Hòa Bình) lâu trước bên Tàu. Xin kết luận bằng câu chuyện Thánh Dóng đánh đuổi giặc Aân có ghi trong huyền sử nước ta, mà trước đây sử cũ coi như truyện hoang đường, nhưng nếu đọc theo lối huyền sử dưới ánh sáng của khảo cổ thì sẽ thấy nó không phải là hoang đường, vì nhà Thương (cũng gọi là nhà Aân) sau khi đã chiếm Long Sơn còn tiếp tục mở mang bờ cõi them mãi xuống vùng Giang Tô, Chiết Giang, Kinh Sở v.v… (xem Cradle tr.344). Trong quyển State Craft (tr 198) học giả Creel có nhận xét là từ đấy Tàu mới khởi đầu khinh thị Di vì hay bị Di đánh bại. Vậy sự đánh bại này phản ảnh truyện Thánh Dón, phản ảnh luôn cả vụ nhà Aân hộp nhập văn hóa Di Việt. Truyện kể rằng vua nhà Aân bại trận nên ôm ngọc Long Toại mà chết vùi ở đất Việt. Đó là huyền sử không có thật ở cái hình, tức là vua nhà Aân không có chôn ở đất Việt, nhưng có thật ở cái tượng tức là vua nhà Aân đã học được với Việt tộc tính chất lưỡng hợp mà ở đây kêu là ngọc Long Toại. Huyền sử nói là thứ ngọc châu từ thưở trời đất mới khai tịch đã có một cặp trống mái từ đời Hoàng Đế trải đến đời Aân làm của thế bảo, cho tới lúc nhà Aân sang xâm lăng đất Việt bị Thánh Dóng đánh tơi bời bỏ thân và ngọc lại bên đất Việt. Vậy ngọc Long Toại là chi? Thưa chính là đạo Dịch của Trời Đất cũng như đạo Dịch của Phục Hy mà vua nhà Aân học được, nhưng chưa trút hết máu du mục nên còn ham đi chinh phục, thành thử phải chết và ôm ngọc đó trả lại cho chủ cũ có họ Rồng (Long Toại là hạt ngọc có đóng con chấm của chủ là Tiên Rồng nằm trong chữ Long Toại đó. Toại có nghĩa là làm ra lửa, hàm ngụ trong chữ Viêm Việt, nhận Hỏa Đức làm nền). Vì vậy mà huyền sử nói vua Aân chết chôn ở đất Việt, còn Kinh Dịch nhà Aân thì gọi là Dịch Quy tàng tức Dịch ẩn tàng trong đất, liên hệ với ngọc Long Toại bị chôn. Nhưng vì Long Toại bị chôn nên chính chủ là Việt tộc cũng chẳng còn biết đâu mà lần, hóa nên truyện kết bằng một câu rất bí ẩn là “giếng bị bỏ dơ” tức không ai còn biết múc nước cam tuyền từ giếng Việt nữa (Việt tỉnh cương) nghĩa là không ai thấy cái Tượng hay nền móng của Kinh Dịch là nền minh triết có nét lưỡng hợp nữa, thành ra phải đi ăn nhờ cái hình hiện của người là 64 quái quẻ dùng vào việc bói toán vậy thôi. Kết luận Việt nho muốn điều chỉnh lại một số điểm thuộc lịch sử của cả Tàu lẫn Việt, do cả người Tàu lẫn người Việt, đồng thời thức tỉnh học giả Việt muốn biết văn hóa dân tộc một cách đích thực thì phải ngoi ngược về quá khứ rất xa xưa, chữ Nho kêu việc đó là tố nguyên. Và đấy là tên sách đã khai mạc thuyết Việt nho với cái tựa đề mập mờ thấp thoáng “Việt lý tố nguyên” để vẽ lại hình ảnh lung linh về nguồn gốc văn hóa Việt tộc cũng như về nguồn gốc Nho. Chính vì thế mà chúng tôi đã đưa ra danh xưng mới, vừa để chỉ rõ cái nguồn gốc đích thực của văn hóa dân tộc, vưà để gột rửa Nho giáo, một nền nhân bản trung thực nhưng đã bị xuyên tạc đến độ lu mờ, nhờ vậy chúng tôi nghĩ là đã khám phá ra một nền triết lý hợp cảm quan thời đại cả về hình thức lẫn nội dung. Về hình thức là dùng rất nhiều huyền số, huyền thoại, cũng như nghi lệ thói tục. Đó là nền triết lý đang được thế giới mong cầu đến độ triết gia người Đức, ông Ernest Cassirer đã muốn định nghĩa người là con vật có khả năng biểu tượng (animal symbolicum). Điều này được quảng diễn khá đầy đủ trong quyển Philosophy in a new key (a study in the symbolism of reason, rite and art của Suzanne K.Langer. Harvard University press 1942). Đó là một sự phản đối lại nền triết học cổ điển Tây Aâu quá khô khan trừu tượng, nên phải mở một hướng mới cho triết xuyên qua nghệ thuật và biểu tượng. Trong chiều hướng đó Việt nho sẽ là tay quán quân trong phong phú vì cái rừng huyền thoại mênh mông của cả Việt lẫn Nho, tha hồ khai thác. Về nội dung, người ta mong cầu một nền triết lý gắn liền với cuộc sống, với tác hành, và hơn nữa một nền triết lý cho thế giới đệ ta, theo nghĩa không Cộng sản cũng không Tư bản, nhưng một nền triết Nhân bản có tính cách phổ biến bao la. Cho tới nay biết bao thử thách đã đựơc hiện thực nhưng có thể nói chung là chỉ đạt được những thành quả vụn mảnh phần mớ, ngoài ra chưa thấy xuất hiện đựơc nền triết nào có tính cách bao quát được như lòng mong cầu kia. Vậy đó là việc mà Việt nho đã cố gắng đi theo từ hơn hai mươi năm. Thế giới của con người không có cái gì tuyệt đối và hoàn bị, mà chỉ có những cái tương đối cao thấp khác nhau. Trong cái thang giá trị đó, Việt nho hẳn phải có một chỗ đứng, cũng như có khả năng đặt tận cùng cho một sự tủi hổ của ngừơi Việt tới nay khi phải tiếp xúc với các nền văn hóa thế giới, là Việt không có một nền triết lý nào cả. Từ nay nó bắt đầu trám lỗ hổng đó và sẽ tiếp tục trám mãi trong các thế hệ nối tiếp. Tác giả Kim Định (còn tiếp)
  8. Pho Tượng Đẹp Nhất Của Việt Tộc 2. NHỮNG CHẶNG TIẾN CỦA TRIẾT VIỆT Đây là một đề tài lẽ ra rất cũ, thế mà lại rất mới lạ đối với người Việt chúng ta. Học giả Dương Quảng Hàm có kết sách “Việt Nam Văn Học Sử Yếu” như sau: “Nếu xét về mặt triết học thì ta phải nhận ra rằng nước ta không có quốc học, nghĩa là cái học đặc biệt bản ngã của ta”. Đó là một sự thiếu vắng đáng tủi hổ cho một nước tự xưng là “văn hiến chi bang”. Vậy cần phải trám lỗ hổng nọ. Câu hỏi trước hết đựơc đặt ra là có triết Việt hay chăng? Xin thưa ngay rằng không mà có, có mà không. Không có triết Việt theo quan niệm triết là một hệ thống tư tưởng có phân tích và cấu kết chặt chẽ được chép trong sách vở. Hiểu theo nghĩa này thì chỉ Aâu Tây mới có triết. Nhưng theo quan niệm triết như một tiến trình của tâm thức con người vượt qua những trở lực để đạt tới trình độ làm người một cách đầy đủ, thì Việt Nam không những có triết, mà còn là một nền triết cao cả đến nỗi Paul Mus gọi là nền triết siêu hình lăn lưng (métaphysique engagée). Tuy nhiên ít được nhận ra vì nó lẩn vào thể chế, thói tục, huyền thoại, ca dao v.v… Trong bài này tôi xin bày tỏ điều trên xuyên qua một huyền thoại rút từ quyển Kinh Hùng, đó là truyện XII nhan đề Việt Tỉnh Cương. Truyện kể về một nàng tiên giả dạng cô gái thôn dân đi dự lễ hội rồi “vô ý” đánh vỡ cái bình pha lê cực đẹp nên bị hành hạ. Thôi Vỹ thấy vậy động lòng trắc ẩn liền cởi áo ra đền thay. Cô gái trả ân bằng cách cho Thôi Vỹ lá ngải cứu để chữa bệnh nhục ảnh. Thôi Vỹ đưa về chữa cho bạn hữu đều khỏi. Nhân một sự tư thù mà Thôi Vỹ bị hãm hại để làm của tế thần Xương Cuồng, nhưng may được một cô bạn cứu ra. Trong lúc đêm khuya đi trốn Thôi Vỹ nhỡ chân rơi xuống cái hang có con rắn dài một trăm thước mỏ vàng miệng đỏ cũng bị chứng nhục ảnh. Thôi Vỹ liền lấy ngải cứu chữa lành nên được rắn cõng ra khỏi miệng hang. Sau đó Vỹ được kết bạn với người của tiên và được tặng cặp ngọc long toại, nhờ đó trở nên giàu cáo. Sau tiên đưa vợ chồng Thôi Vỹ đi đâu chẳng ai biết. Cái hang nơi Vỹ rơi xuống nay vọi là Việt Tỉnh Cương. Câu truyện trên đây có thể nói là bản tóm lược triết lý Việt Nam không những trong tính chất mà luôn trong các chặng tiến của nó. Nói đúng hơn là truyện đó biểu lộ tính chất triết Việt trong những chặng tiến. Chính những chặng tiến đó làm nên triết Việt. Nói thế có nghĩa là triết Việt khác với triết học Tây Aâu di chuyển từ ý niệm nọ đến ý niệm kia, từ tư tưởng này đến tư tưởng khác, muốn học triết chỉ cần đọc sách đã biết. Triết Việt không thế: nó thuộc loại tiết tiến từ tâm trạng này đến tâm trạng kia, từ tâm thức nọ đến tâm thức khác, nên muốn học triết thì phải sống triết để toàn thân tâm tiến theo các chặng của triết. Các chặng đó có thể quy vào ba mối lớn như sau: - Chặng đầu là vượt linh dị: bám ở đợt này gọi là bái vật. - Chặng hai là vượt lý trí bé nhỏ: bám ở đợt này gọi là ý hệ. - Chặng ba là vươn lên vũ trụ chi tâm, tức tâm thức mở ra rộng như vũ trụ, vì thế gọi là tâm linh. Chính ở đợt ba này mà nhân tình mở rộng hết cỡ của nó, gọi là đặt nhân hay là nhân chủ, tức con người thoát vượt khỏi mọi ràng buộc do “trời hay đất” để tự làm chủ lấy mình, làm chủ vận mạng mình, đó là hàng dọc. Còn hàng ngang là làm thế nào phá vỡ được các ràng buộc do xã hội đặt ra trên nền bái vật và ý hệ để mọi người có thể đạt nhân dễ dàng. Đó là mấy chặng lớn của triết Việt mà ta có thể thấy những nét chấm phá trong truyện Việt Tỉnh. Bước đầu tiên để sửa soạn cho các thoát vượt kia hàm ngụ trong vụ Thôi Vỹ đi dự lễ hội. Lễ hội là một dịp để tâm hồn con người vươn qua những khung cảnh nhỏ hẹp của cá nhân, của gia đình để hòa mình vào bầu khí tâm linh của công thể đặng tài bồi cho những mối tình cao đẹp, những ý nghĩ quảng đại bao la vươn tới muôn người. Đấy là những bước cụ thể trên đường thành tựu nhân tính. Cô gái bị hành hạ là một cảnh thương tâm nhưng có người coi thấy mà như thường không cảm thấy xốn xao trong dạ. Đó là những kẻ còn thiếu óc tha nhân mà ngạn ngữ Việt Nho gọi là “ma mộc bất nhân”, nghĩa là người bất nhân đã tê liệt hết tình người ví như gỗ cứng vô tình. Những tâm hồn đó không thể nào bước lên được con đường triết lý nhân sinh. Muốn bước lên được trước hết phải là con người biết rung động trước nỗi đau khổ của tha nhân. Thôi Vỹ đã tỏ ra như thế trong việc cởi áo đền thay người, nhờ vậy mà hạt giống triết được nẩy mầm trong tâm thức Vỹ. Mầm đó được biểu thị trong lá ngải cứu do tiên tặng cho. Ta hãy xem mầm triết đó nẩy nở ra sao trong các bước tới. Bước đầu tiên là vượt bái vật. Bái vật đây có thể gọi là linh dị hoặc thần dị chỉ hết mọi sự tin kiêng có tính cách dị đoan có hại. Hại lớn thì như các vụ giết người tế thần xưa nơi dân Phénicie hoặc như vụ Jim Jones xúi hơn chín trăm người Mỹ tự vẫn hơn một năm trước đây. Đấy là những cái hại do bái vật có tính cách lộ liễu dễ nhận ra, còn cái hại kín đáo tế vi nhưng cũng là sự xúi giục tự vẫn, tự vẫn từng phần nào đó trong con người, như lấy những tin kiêng đó chặn mắt tâm hồn không cho thấy sự thực như nó là: có sao thấy vậy, mà không nhìn sự vật qua lăng kính của bái vật, của những tin kiêng. Vì thế bước đầu tiên trên con đường dài dẫn đến tâm hồn triết gia là phải vượt bái vật để đi lên đợt lý trí khách quan. Ơû bái vật thì lý trí ít có chỗ dùng, óc phê phán minh biện không được tài bồi để nhìn rõ đâu là ảo tưởng đâu là sự thực. Vì thế nếu không vượt được đợt bái vật thì không sao đáng mặt triết nhân. Triết học quen gọi đây là bước vượt thần thoại: vượt càng xa, tẩy rửa càng sạch, thì sự tiến càng cao độ theo đà. Do đấy ta thấy những triết gia trung thực bao giờ cũng trải qua một cuộc khủng hoảng tâm hồn biểu lộ nhiều khi bằng một sự hoài nghi có hệ thống kiểu Descartes: đó chính là lúc những tin tưởng dị đoan khởi đầu lung lay rạn vỡ, nếu vượt qua được thì người ấy đã đi được bước đầu tiên trên con đường triết. Trong lịch sử triết Tây Aâu Socrate đã bị án tử hình vì bị cáo là đã phế bỏ các thần của dân Hy Lạp chính vì lẽ đó. Vỹ đã vượt được đợt này như ám chỉ trong truyện bằng thoát khỏi nanh vuốt thần Xương Cuồng nhờ một cô gái giúp phương tiện. Trong truyện Việt Tỉnh các cô gái xuất hiện nhiều ở chặng quan trọng: chặng đầu tiên và cuối là ma cô tiên, chặng giữa này là nàng Phương Dung. Các cô đó đại biểu cho nguyên lý mẹ là nguyên lý không bao giờ vắng bóng trong văn hóa Việt dưới tên các tiên nữ như Aâu Cơ, Vụ Tiên nhờ đó triết Việt không nghiêng sang một bên: không duy nào cả. Chính nguyên lý nọ đã giúp cho Vỹ đi được những bước vững chắc trên con đường triết mà bước đầu là vượt bái vật. Sau bái vật thì đến bước hai là vượt ý hệ: Ý hệ là hệ thống các ý niệm. Tại sao cần phải vượt qua. Thưa vì ý niệm chính là hình ảnh sự vật do lý trí bóc lấy từ sự vật, vì vậy nó giống như hình chụp bất động: chụp sao thì còn mãi vậy. Hình chụp của ta lúc nhỏ nay ta đã lớn mà hình cứ còn nhỏ y nguyên. Điều đó nói lên sự bất lợi khi bám riết theo ý niệm mà không theo dõi được sự việc luôn luôn biến chuyển, tệ hơn nữa khi đem các ý niệm đó kết cấu thành hệ thống thí nó trở nên một thứ lăng kính bắt xem sự vật theo lăng kính đó, nên không thể xem được sự vật y nguyên. Vì vậy tôi quen gọi một cách khinh thị là ý hệ mà không là ý thức hệ. Vì sự thực không có thức gì hết mà chỉ có sự mê muội cố chấp như kiểu cộng sản là một thí dụ đau thương: Mác Lê đã bám vào một vài ý niệmgỡ ra từ tình trạng kinh tế Aâu Châu giữa thế kỷ 19, thí dụ thợ thuyền sẽ càng ngày càng trở nên nghèo khó, tư bản sẽ giẫy chết, không thể thoát, bao giờ vô sản bóc lột lại những kẻ bóc lột thì sẽ được sung sướng v.v… Đó là những ý niệm nảy sinh do tình trạng một thời (nửa thế kỷ 19) và một nơi (Aâu Châu) vậy mà đã không chịu thải bỏ theo thời, theo nơi lại còn kết tập lại thành hệ thống duy vật biện chứng rồi dùng bạo lực áp đặt lên mọi nơi mọi người. Đó là cái tật ý hệ nó chắn mất con mắt không cho nhìn ra sự vật nguyên hình, trong triết gọi đó là bệnh coi trọng thuyết lý hơn sự kiện. Việt cộng quen nói “hồng hơn chuyên” là thế. Nghiên cứu về sử đẳng tính phải thắng sử tính. Trong truyện Việt Tỉnh thì ý hệ được biểu thị bằng bệnh nhục ảnh. Chính chữ có nghĩa là cái bướu, nhưng âm thanh của từ ngữ gợi lên cái hình ảnh thuộc nhục thể, nên dùng hai chữ nhục ảnh mà chỉ ý hệ thực là ám hợp, vì ý hệ là hệ thống các ý niệm, mà ý niệm là hình ảnh trá hình, hình ảnh “xác thân” của sự vật, đem những ý niệm kết cấu thành hệ thống cứng nhắc thì đó là một thứ bệnh chắn con mắt tâm hồn không cho thấy sự vật y nguyên. Đó là bệnh thuộc con mắt, vì mắt thâu nhận hình ảnh sự vật, và nó chỉ thâu được có hình dáng bên ngoài nên hình ảnh rất rõ. Chính vì sự rõ rệt phân minh nọ mà bệnh nhục ảnh rất khó chữa. Hai mươi lăm thế kỷ triết học Aâu Tây đã mắc chứng nầy. Heidegger gọi là sicktbarkeit, visibility. Oâng gọi đùa là concupiscentia oculorum: bệnh đói con mắt. Nói triết cổ điển Aâu Tây chỉ là một ý hệ mà không là ý thức hệ, thì chính là nói nền triết học nọ mắc chứng nhục ảnh, coi trọng hệ tư tưởng hơn thực tại, và do đấy các triết gia Tây phương chỉ đáng tên là triết học gia, hay là ý hệ gia (idéologue) chứ không triết gia vì không đủ sức đẩy triết học vươn lên đợt minh triết, mà chỉ là một thứ ý hệ khô cằn trừu tượng vô tích sự khiến người đời phát sợ. Ta hãy trở lại với Thôi Vỹ để xem người có vượt được chặng này chăng. Thưa có như được biểu thị trong truyện. Trứơc hết là người đi trong đêm tối bị rơi xuống giếng sâu, trong đó phải chịu đói khát đến nỗi phải ăn mầm đá… Đó là lúc sửa soạn từ bỏ ý niệm của giác quan, của tai mắt. Còn rơi xuống giếng là một sự giật mình (a chock) của tâm thức, một sự xao xuyến lo âu, mắt không thấy chi như người đi trong đêm tối, bụng thì đói khổ vì không còn bằng lòng với những sự thực bé nhỏ do tai mắt cung ứng nữa, bởi đã thấy chúng dựa trên các ý niệm của sự vật hữu hạn, nên chạy theo chúng là đi vào ngõ bí. Vì thế cần phải thải bỏ. Sự thải bỏ này được Kinh Dịch kêu là “dược tại uyên”: nhảy vào hố thẳm, tức trút sạch mọi ý niệm để tâm hồn “trở nên trống trơn”. Việc này được biểu thị bằng sự việc Thôi Vỹ rơi xuống hang sâu, do đó gặp dịp dùng ngải cứu để chữa bệnh nhục ảnh cho con rắn dài trăm thước có mỏ vàng miệng đỏ: đó là vật biểu của Việt tộc cũng có tên là Bách Việt (trăm thước) với là cờ nền vàng có miếng tròn đỏ ở giữa. Con rắn mắc bệnh nhục ảnh có nghĩa là đại chúng Bách Việt cũng như hết mọi dân trên hoàn cầu đều mắc bệnh nhục ảnh, cũng như mắc nạn Xương Cuồng. Đó là những chặng cản trở bước tiến của tâm thức con người, nên khi con người muốn tiến thêm thì phải vượt qua, mà dẫn đầu phải là các triết nhân. Điều này đã thấy xảy ra ở ba truyện đầu trong Kinh Hùng (II-IV) khi Lạc Long Quân vượt qua bái vật Xương Cuồng chỉ bằng diệt mộc tinh, rồi vượt ý hệ nhục ảnh chỉ bằng diệt Hồ tinh và Ngư tinh. Nay đến lượt Thôi Vỹ cũng đã vượt xương cuồng và nhục ảnh, chỉ còn lại việc đi lên giai đoạn ba là tâm linh. Hỏi Thôi Vỹ có đi hết đường chăng? Thưa có như được biểu thị trong truyện bằng việc rắn công kênh Thôi Vỹ lên khỏi hang tối để Vỹ được hoàn toàn tự do, rồi được lấy vợ tiên với quà tặng là cặp ngọc Long Toại, nhờ đó Vỹ trở nên giàu có v.v… Đó là một ẩn dụ chứa đầy những chân lý sâu xa. Muốn hiểu được phần nào chúng ta cần dùng phương pháp đối chiếu với câu truyện rất thời danh về cái hang của Plato chép trong sách Republic của ông. Câu truyện này thường được coi như đỉnh cao nhất của triết lý Plato, cũng như tóm lược trọn tính chất của nền triết lý đó, nên đem so với cái hang Việt Tỉnh Cương là nắm được then chốt hai nền triết lý Đông Tây trong hình ảnh cụ thể và cao cả nhất của mỗi bên. Trong cái hang của Plato có những tù nhân bị trói quay mặt vào tường và chỉ thấy được những hình ảnh di động trên tường, mà các tù nhân tưởng là chính sự vật. Trong nhóm tù nhân có một người may mắn gỡ bỏ khỏi xiếng xích để lẻ ra ngoài, mới nhận ra những người những vật đang di động trên trục lộ, được ánh sáng mặt trời chiều hình ảnh lên tường. Trong ý tưởng Plato những sự thực đó là các ý niệm. Gồm cả các ý niệm lại gọi là lý giới, còn các hình ảnh trên tường là các sự vật giác quan ta tiếp xúc với, đó là trần giới (le monde sensible). Theo Plato thì trần giới chỉ là hình bóng, còn lý giới hay thế giới những ý niệm mới là sự thực. Do đó vấn đề lớn nhất trong siêu hình cổ điển là vấn đề các yếu tính (la question de universaux), hỏi rằng các yếu tính cũng gọi là các ý niệm có thực đến độ nào? Plato cho là thực trọn vẹn, thực cách độc hữu đến độ các vật trần gian chỉ là bóng hình. Khỏi nói thì ai cũng biết là chủ thuyết của Plato đã ngự trị trọn vẹn vòm trời triết Tây đến độ Whitehead đã có thể viết rằng 25 thế kỷ triết Tây chỉ là những chú thích các trang sách của Plato. Vậy có nghĩa là triết học cổ điển Tây Aâu đã bỏ sự thực trần gian như những mối nhân luân, lịch sử con người v.v… để giồn hết tâm lực vào thế giới ý niệm rất xa vời thực tế, thế có nghĩa là đã bỏ mồi bắt bóng, đọa ra một thứ mộng du, không điều động được đời sống, cho nên người ta coi triết bằng con mắt thương hại. Nietzsche gọi sinh viên triết là các thánh tử vì đạo triết, học xong mà còn giữ được lương tri lành mạnh là phúc rồi. Tai họa lớn hơn hết mà triết Tây đã gây ra cho loài người là làm cho người ta coi thường triết, nếu không là khinh miệt, trong khi đáng lẽ triết là khoa cần thiết hơn hết cho cuộc sống. Nói theo huyền thoại Việt Tỉnh thì nền triết học cổ điển Tây Aâu quả là mắc bệnh nhục ảnh, tức là một nền siêu hình giả tạo vì xây trên ý niệm suông mà không trên thực tế khách quan. Bởi thế Kant gọi đó là một siêu ảo tưởng transcendental illusion, không giúp cho triết nhân vượt ra khỏi nhị nguyên là chọn một bỏ một: chọn trời bỏ đất như duy tâm, hoặc ngược lại là duy vật. Trong cả hai trường hợp đều không có người, con người bị vong thân: bị bán đoạn mại cho sự vật, không còn được tự quyết về vận hệ mình theo bản tính của mình mà phải tuân theo những dị đoan hay ý niệm sự vật bên ngoài con người, trái với bản tính của người. Ngược lại Thôi Vỹ đã vượt lên được khỏi hang thì được lấy vợ tiên rồi được giàu sang hạnh phúc. Điều đó hàm ý rằng Vỹ đã thực sự vựơt ra khỏi hang: cả hang bái vật cũng như hang ý hệ, tức giũ xong các ách ràng buộc con người, để con người lấy lại được tâm mình, tự làm chủ lấy mình, đó gọi là nhân chủ, có nghĩa là trở nên một vua, ngang cùng trời đất. Và như vậy là lên tới đợt tâm linh, nói theo triết là đặt đợt minh triết, nói theo tác hành động ứng là lên tới đợt an vi với hậu quả là gây được cuộc sống an vui hạnh phúc cho mình, cho xã hội, trong truyện chỉ bằng lấy vợ tiên với quà tặng là ngọc long toại. Chữ toại cùng nghĩa với Toại nhân là người phát minh ra sự dùng lửa. Tiên cho Vỹ cặp Long Toại là cho Vỹ nền minh triết xây trên nét song trùng nguyên thủy: tiên rồng, trời đất, sáng và nóng. Con người được định nghĩa là thiên địa chi đức. Khi tâm hồn nào thể nghiệm được chân lý đó thì lòng mở ra rộng như vũ trụ nên gọi là vũ trụ chi tâm, với hậu quả cảm nghiệm ngay trong lòng là coi mọi cái trong đời nhẹ hẳn đi, không còn quá quan trọng tiền tài danh vọng, lòng tự nhiên như được nâng cao thanh thoát, khác nào khi ta ngồi trên máy bay xem xuống thấy nhà cửa ruộng vườn chỉ còn như cái bát, mất hẳn sự quan trọng mà ta gán cho khi đang ở trong nhà. Nhưng đồng thời người có vũ trụ chi tâm lại muốn ôm cả vũ trụ vào lòng để cải đổi vận hệ cho nó tốt đẹp hơn. Họ sẽ nói như Nguyễn Công Trứ “vũ trụ nội mạc phi phận sự” trong vũ trụ không có việc gì không là bổn phận của tôi: mỗi người tỵ nạn đắm thuyền là lòng tôi đau nhói, mỗi quân nhân còn bị giam trong cải tạo làm lòng tôi xốn xang v.v… Những tư tưởng bao la trên đây đã được lược đồ hóa vào khung chữ tỉnh. Nên gọi là Việt Tỉnh Cương. Gọi triết Việt là tỉnh là giếng, vì đó là giếng luôn luôn vọt lên nước nuôi dưỡng làm lớn mạnh những tâm hồn cao cả trong dân tộc. Vì thế mà nhân vật trong truyện mang tên là Thôi Vỹ. Cả hai chữ Thôi và Vỹ đều có nghĩa là cái gì cao cả (Thôi), vĩ đại (Vĩ) nên Thôi Vỹ cũng chính là Vĩ nhân, tức là một nền triết lý để huấn luyện nên những vĩ nhân tự cường tự chủ, nói theo triết là những người đạt nhân chủ tức là đặt lý tưởng cao nhất của triết mà sứ mạng là phải giải phóng con người khỏi mọi ràng buộc để nó đặt đợt nhân tính tròn đầy. Trở lên là thử phác học những chặng tiến của triết Việt. Ta thấy đó quả là một nền triết rất cao cả. Thế mà tại sao cho tới nay Việt Nam vẫn bị kể là không có triết. Không nói tới các tác giả quốc tế mà ngay chính người Việt cũng phải công nhận. Tôi nhớ lại xưa kia khi đọc các sách của Plato rồi quay về đọc các sách Nho thì cảm tưởng tràn ngập tâm hồn lúc ấy là Plato cao cả như thần, còn Nho giáo chẳng qua là một thứ luân lý tầm thường. Nho đã có lời, có sách mà còn không thể so sánh được với hệ thống đồ sộ của Plato, Arsitotle huống chi là Việt ngay văn tự còn chưa có, nói chi tới hệ thống tư tưởng. Thế nhưng sau nhiều năm mải miết trong triết Tây, thấy vô số môn phái khác nhau như trời với đất, thuyết nọ đả thuyết kia, nhưng tất cả giống nhau ở chỗ đều trừu tượng xa đời sống, có thể nói là một xa xỉ chẳng ơn ích chi cho ai. Lúc ấy tôi mới sực nhớ tới thứ tự của “tam bất hủ” Đông phương là đức, công, ngôn, trong đó lập ngôn chỉ đứng thứ ba sau lập đức và lập công, nghĩa là khác hẳn triết Tây đặt lập ngôn lên đầu, để khỏi nói là duy nhất. Như vậy muốn hiểu được triết cả Việt cũng như Nho thì phải theo bực thang đức công ngôn mà xét, tức không xét lời, xét hệ thống ý niệm mà phải xét xem hàng dọc nó đã đạt được những đức tính nào cho tư nhân, còn hàng ngang đã lập được những công trạng gì trong xã hội. Lúc ấy thứ tự lật ngược hẳn lại, tức là triết Nho vượt xa triết học Tây Aâu, nếu có thua sút thì chỉ là đốivới triết Việt. Câu này mới nghe có vẻ kiêu thái do óc quốc gia quá khích, vì vậy cần kiểm kê qua những tiêu chuẩn hàng ngang thuộc xã hội của nhân chủ thuyết. Khi một xã hội có được nền triết nhân chủ thì phải đặt được những hệ quả sau: 1. Con người không bị nô lệ cho dị đoan hay thuyết lý nào. 2. Xã hội phá được chế độ nô lện. 3. Mức độ bình sản cao. 4. Địa vị đàn bả khả trợ. 5. Mức độ tự trị thôn xã cao. Đó chỉ là mấy tiêu điểm mẫu, thuộc phần lập công, hễ xã hội nào có đựơc thì đấy có nhân chủ, có càng cao thì nhân chủ càng thân sâu. Muốn xét từng điểm trên xuyên qua lịch sử thì mỗi điểm sẽ là một luận án đồ sộ. Thế nghĩa là ở đây không thể đi vào chi tiết nhưng khi nhìn bao trùm thì ta có thể nói các xã hội cổ thời của Tây Aâu hay Aán Độ tất nhiên không được bén mảng. Vì Aán Độ còn nằm gọn trong tay xương cuồng bái vật nên xã hội còn bị nạn đẳng cấp. Tây Aâu thì vướng chân trong ý hệ nhục ảnh nên xã hội cũng giai cấp đấu tranh thường trực, chỉ có Tàu theo Nho là có được năm điểm trên nhưng vì là Hán nho tức Nho đã bị bẻ quặt nên chưa đạt cao bằng Việt lý đại để như sau: 1. Con người chưa thoát xong nạn xương cuồng, nhiều lần một vua chết thì có cả hàng trăm người bị chôn sống theo, bên Việt không có như vậy. 2. Xã hội cổ Tàu còn nhiều nô lệ, tuy chế độ nô lệ đã bị Nho đả phá sớm, nhưng sự kiện nô lệ còn nhiều hơn ở bên Việt Nam. 3. Mức độ bình sản bên Việt vẫn cao hơn. Ruộng công điền vẫn chiếm đa số cho tới thế kỷ 19. Lúc xuống thấp nhất cũng còn được 20% trong khi bên Tàu có lúc xuống tới 4%. 4. Địa vị đàn bà bên Việt cao hơn hẳn bên Tàu. 5. Mức độ tự trị xã thôn cũng cao hơn, dân chủ hơn. Vì quyền hành không nằm trong tay một họ mà trong toàn dân. Như vậy là căn cứ trên những điểm khách quan ta có thể nói triết Việt đã đạt điểm cao nhất là nhân chủ, là an vi. Nếu thế thì ta khỏi cần làm chi nữa chăng? Thưa không, vì nếu xét lại ba nấc thang của tam bất hủ, sẽ nhận ra tiền nhân ta mới chú ý đến có hai đợt là lập đức và lập công, còn lập ngôn thì chưa, tức khi chưa kịp đi đến giai đoạn lập ngôn, lập văn tự thì nước đã bị rơi vào ách đô hộ Tàu, nên tiền nhân đã dùng ngôn ngữ của Nho, mà vì Nho chỉ chuyên về ngôn từ nghệ thuật chứ không đi sâu vào lý luận phân tích và hệ thống nên dọc dài lịch sử nước Việt chúng ta chưa có được một nhà tư tưởng, chứ đừng nói đến một triết gia. Điều đó xưa kia không hệ trọng cho lắm, nhưng khi bước vào đời mới thì đó là một khuyết điểm rất trầm trọng. Mất nước một phần cũng vì đó, vì khi thiếu một nền triết học thì người trong nước không nhận thức ra được quốc tuý quốc hồn cũng như giá trị riêng của mình, và những đường lối ơn ích ám hợp cho khung cảnh mình để dùng làm chủ đạo. Chính vì thế mà Việt cộng mới có thể đi rước triết thuyết ngoại lai đầy tính chất xương xuồng và nhục ảnh đưa về chụp lên đầu lên cổ đất nước, gây nên thống khổ muôn trùng. Vì thế đã đến lúc người Việt tị nạn ở hải ngoại phải nghĩ tới bứơc lập ngôn còn bỏ dở, tức là phải kiến thiết lấy một chủ đạo hợp với khung cảnh đất nước cũng như ám hợp với các đòi hỏi của thời đại, nếu không thì chưa nói đến việc phục quốc, kiến quốc, mà ngay công việc trước mắt là duy trì tinh thần Việt tộc, duy trì nền văn hóa quốc gia cũng khó lòng lâu dài. Vì tâm hồn con người cũng như thiên nhiên rất kỵ sự bỏ trống: nếu ta ngâm một bông biển khô xuống ao thì nước sẽ dẫn dần ngấm vào, ngược lại nước ao sẽ đứng ngoài bông biển khi nó đã được tẩm một thứ nước nào đó. Tâm hồn con người cũng vậy, bao giờ nó cũng phải theo một nền chủ đạo nào đó, hầu hết cách tiềm mặc. Nếu dân tộc không cung ứng cho nó một chủ đạo thì nó sẽ thâu nhận bất kỳ một chủ thuyết nào đó mà nó gặp tuỳ sự may rủi. Thế là ít lâu sau đoàn người Việt hải ngoại sẽ phân ra nhiều mảng càng ngày càng nhỏ, càng yếu để rời tan biến vào năm châu như những cánh bèo vô hồn vô hướng, vô sắc thái quốc gia. Vì vậy việc lập ngôn lúc nàay trở nên khẩn thiết: Cha ông đã gửi lại cho chúng ta đủ chất liệu phong phú trong hai bước lập đức và lập công, chỉ còn cần lập ngôn tức phân tích và tìm ra những phạm trù ám hợp, những mô thức hợp cảm quan thời đại để tổng hợp trình bày thì chúng ta sẽ có được một nền triết đây đủ cả đức, công, ngôn, tức vừa có nội dung bảo đảm theo nghĩa khi đem ra thi hành không sợ nó quay lại tác hại con người như những ý hệ, mà đồng thời lại có một hệ tư tưởng theo một lối kết cấu riêng biệt Việt Nam. Đó là điều rất đang mong đợi vậy Tác giả Kim Định (còn tiếp)
  9. Từ bé, Phoenix rất chú ý đến 4 con thú mà chưa từng được nhìn tới: LONG, LÂN, QUY, PHỤNG. Sưu tầm tài liệu thì thấy người ta nói đến rất nhiều. Đa phần được diễn tả về cơ bản như sau: LONG: Con rồng, biểu hiện quyền lực tối cao, dũng mãnh, nhân vật huyền thoại tưởng tượng LÂN: Con vật biểu hiện uy, trấn, cũng là con vật tưởng tượng QUY: Con rùa, biểu tượng sự vững bền, còn tồn tại PHỤNG (PHƯỢNG): Loài chim, biểu tượng tri thức, hạnh phuc, sản phẩm tưởng tượng. Xung quanh những điểm chính này thì có rất nhiều sự mô tả khác nhau và phong phú khiến cho 4 linh thú này càng huyền hoặc và bí ẩn. Ở góc độ của người tò mò và không thỏa mãn với các tư liệu và cố chấp, Phoenix rất trăn trở với 4 hình tượng linh thú này. Có rất nhiều băn khoăn; - 4 linh thú này do đâu mà mà xuất hiện? - 4 linh thú này thực sự là mang ý nghĩa gì? - Đó là thực thể của cuộc sống hay là hình tượng biểu hiện nguyên lý gì đó sâu sa hơn là ý nghĩa biểu tượng Có một suy nghĩ hơi vội vã nảy sinh là: Liệu đó có phải là sản phẩm của những nguyên lý cấu tạo hệ thống thuần Việt không? Ở mức trình độ và thời gian nghiên cứu hạn chế như Phoenix thì vẫn chưa thể có câu tự trả lời thỏa đáng. Phoenix lập topic này, rất mong được các anh chị bạn bè hiểu biết chia sẻ kiến thức. Ngõ hầu giải tỏa được phần nào những suy tư chưa ngắt bỏ được.
  10. Hình chạm Long Lân Quy Phụng ở Lăng Ông bà Chiểu
  11. Tứ linh ( Long, Lân, Quy, Phượng ) Theo nguồn Wikipedia Lân ( Tứ linh ) Lân, hay kỳ lân, là một trong 4 linh vật của tứ linh theo tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Lân có đầu nửa rồng nửa thú, đôi khi chỉ có một sừng, do không húc ai bao giờ nên sừng này là hiện thân của từ tâm. Phần nhiều lân có sừng nai, tai chó, trán lạc đà, mắt quỷ, mũi sư tử, miệng rộng, thân ngựa, chân hươu, đuôi bò. Thực ra trong tạo hình của người Việt chúng không tuân thủ đầy đủ các nguyên tắc này. Chúng thường được thể hiện trong tư cách đội tòa sen, làm chỗ dựa cho Văn Thù bồ tát hay các Hộ Pháp, và nhiều khi ngồi trên đầu cột cổng hay xuất hiện trên mái nhà. Trong những tư cách này chúng xuất hiện cho sức mạnh của linh vật tầng trên, cho trí tuệ và như thể chúng có khả năng kiểm soát tâm hồn những người hành hương. Một dáng hóa thân khác của kỳ lân là con long mã, bao giờ cũng được thể hiện chạy trên sóng nước (lấy từ tích Vua Vũ trị thủy). Người ta thường hiểu rằng: long là rồng, rồng thì bay lên , nghĩa là tung, tượng trưng cho kinh tuyến, thời gian - mã là ngựa, chạy ngang, là hoành, tượng trưng cho vĩ tuyến, không gian. Như vậy long mã tượng trưng cho sự tung hoành của nam nhi, cho thời gian và không gian, long mã chạy là biểu hiện cho vũ trụ vận động, đồng thời tượng trưng cho thánh nhân. Ph ượng ( Tứ linh ) Phượng, hay Phượng hoàng, Phụng, là một trong 4 tứ linh theo tín ngưỡng dân gian Việt Nam và các nước Á Đông khác. Phượng có mỏ diều hâu dài, tóc trĩ, vẩy cá chép, móng chim ưng, đuôi công... Các bộ phận của phượng đều có ý nghĩa của nó: đầu đội công lý và đức hạnh, mắt tượng trưng cho mặt trời, mặt trăng, lưng cõng bầu trời, cánh là gió, đuôi là tinh tú, lông là cây cỏ, chân là đất. Như vậy nó tượng trưng cho bầu trời, khi nó bay hoặc múa (phượng vũ) là tượng trưng cho sự hoạt động của vũ trụ. Vì thế phượng là hình tượng của thánh nhân, của hạnh phúc. Nếu rồng có yếu tố dương, tượng trưng cho vua chúa thì phượng lại có yếu tố âm nên tượng trưng cho hoàng hậu và người đàn bà đẹp. Quy ( Tứ linh ) Quy (hay rùa) là một trong 4 linh vật của tứ linh theo tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Nó đã xuất hiện trong truyện cổ tích từ thời An Dương Vương, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng đó là bóng dáng của thần Visnou, một tối thượng thần của đạo Bà la môn. Trong tạo hình, người ta bắt đầu thấy Quy từ năm 1126 trong tư cách đội bia ở chùa Linh Ứng, Thanh Hóa, từ đó tồn tại thường xuyên dưới hình thức đội bia; mãi đến tận thế kỷ 15 mới thấy đội hạc (hình chạm khắc trên bia chùa Láng, Hà Nội). Ở lĩnh vực tâm linh, người Việt coi Quy là vật hợp bởi cả âm lẫn dương: bụng phẳng tượng trưng cho đất (âm), mai khum tượng trưng cho trời (dương). Hình tượng rùa đội bia tượng trưng cho hạnh phúc, phát triển và sự chịu đựng. Đó là quan niệm dân gian. Đến khi đạo đức Nho giáo nhìn Quy theo nghĩa xấu, coi là âm vật của đàn bà nên đời Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị không còn thấy bóng dáng rùa trên các mảng chạm khắc. Ở bia Văn miếu Huế thì Quy bị làm dày lên gấp đôi để tránh hình tượng gán ghép này. Trong quan niệm dân gian đất Bắc, Quy là cao quý , nhiều khi nó là chủ nguồn nước (rùa phun nước thiêng), là một linh vật của đất Phật. Rồng ( Tứ linh ) Rồng, còn có tên Hán Việt thường có mặt trong các từ ghép là long, là một loài sinh vật huyền thoại, là sản phẩm của trí tưởng tượng con người, theo đó rồng có mình rắn, vảy cá, bờm sư tử, sừng hươu và biết bay. Rồng là một trong bốn linh vật mà Lễ Ký (thiên Lễ Vận) chép: "Long, lân, quy, phụng vị chi tứ linh" 麟鳳龜龍謂之四靈 (Long, lân, quy, phụng gọi là tứ linh). Bốn linh vật này chỉ có rùa là có thực, còn lại chỉ là những con vật huyền thoại, chưa ai từng thấy. Tuy xếp hàng thứ tư trong tứ linh nhưng rồng có ảnh hưởng không nhỏ trong đời sống tâm linh của người dân Trung Quốc. Cuối năm 1987 tại huyện Bộc Dương (濮陽) tỉnh Hà Nam, người ta khai quật được một con rồng bằng gốm, giám định là có 6 ngàn năm tuổi. 1. Như vậy điều này càng chứng minh thêm sự sùng bái rồng trong xã hội nguyên thủy. Sùng bái rồng trong xã hội nguyên thủy chiếm địa vị trọng yếu trong tín ngưỡng linh vật hay vật tổ (totemism: Đồ đằng sùng bái 圖騰崇拜) 2. Và liên quan mật thiết đến chính trị, kinh tế, văn học nghệ thuật, phong tục dân gian từ đời Hạ, đời Thương và ảnh hưởng này kéo dài mấy ngàn năm không suy giảm. 3. Rồng luôn hiện hữu trong các chuyện thần thoại Trung Quốc, trong các cổ vật, tranh vẽ, lời bói trên mai rùa xương thú khai quật được, và trong các thư tịch cổ như Chu Dịch, Sơn Hải Kinh, Tả Truyện, v.v... Rồng chữ Hán viết là 龍 với các cách phiên thiết như: a. Khang Hi 康熙: lực chung thiết 力鍾切, như vậy đọc là lung; lô dung thiết âm lung 盧容切音籠, như vậy cũng đọc là lung. b. Chu Dịch Đại Từ Điển 周易大辭典 (căn cứ Thuyết Văn Giải Tự 說文解字): lực chung thiết chung vận 力鍾切鍾韻, như vậy đọc là lung. c. Từ Hải 辭海: lư dung thiết âm lung 閭容切音籠, như vậy đọc là lung. Theo các cách phiên thiết trên thì chữ 龍 nên đọc là «lung». Nhưng từ trước đến nay người Việt vẫn đọc là «long», có lẽ căn cứ vào thanh phù đồng 童 (giản lược thành chữ lập 立 trên đầu). Thuyết Văn Giải Tự giảng về rồng (long) là: «Lân trùng chi trưởng, năng u năng minh, năng tế năng cự, năng đoản năng trường, xuân phân nhi đăng thiên, thu phân nhi tiềm uyên.» 鱗蟲之長, 能幽能明, 能細能巨, 能短能長, 春分而登天, 秋分而潛淵 (Rồng đứng đầu các loài có vẩy, có thể ẩn hiện, có thể biến hóa nhỏ hoặc lớn, dài hoặc ngắn; tiết xuân phân thì bay lên trời, tiết thu phân thì lặn sâu đáy vực). 4. Đoàn Ngọc Tài chú: «Mao Thi - Liệu Tiêu truyện viết: Long sủng dã. Vị long tức sủng chi giả tá dã. Chước truyện viết: Long hoà dã. Trường phát đồng. Vị long vi ung hoà chi giả tá tự dã.» 毛詩蓼蕭傳曰: 龍寵也. 謂龍即寵之假借 也.勺傳曰: 龍和也. 長發同. 謂龍為邕和之假借字也 (Truyện Liệu Tiêu trong Mao Thi viết: Long tức là sủng (bằng vinh diệu, yêu mến). Nói long tức là nói chữ giả tá của sủng. Chước truyện nói: Long tức là hoà. Đồng nghĩa với trường phát (bằng phát triển lâu dài). Nói long tức là nói chữ giả tá của ung hoà (bằng hoà mục, hoà hiệp). 5. Theo lời chú của Đoàn Ngọc Tài, trong cổ văn, chữ long ngoài ý nghĩa là một linh vật còn được dùng như chữ giả tá của sủng và hoà với các ý nghĩa đã nêu trên. ).
  12. Hi, trước cửa cứ để 2 chú cún là ăn chắc nhất.
  13. Anh (chú) Đào hoa nói về Phong Sơn Tiệm thú vị thật. Phoenix cũng có quẻ chủ là Phong Sơn Tiệm. "Dục tốc bất đạt". Nhẫn nại thì yên ổn. Làm đẹp cho đời. :(
  14. Chich bong lấy lá số sai rồi. Phoenix lấy lại lá số cho ông xã này chichbong này: La so ong xa chichbong Hai lá số này chichbong nhìn qua thì vậy thôi chứ đâu có giống nhau.
  15. Cảm ơn chị wildlavender, Phoenix mới dự tính chứ chưa làm ngay đâu ạ. Chị nhắc mới nghĩ tới, Phoenix còn chưa quyết định chiều cao của cửa nữa. :(
  16. Chị wildlavender cho biết thông tin làm Phoenix mừng quá. Cửa 1,45m chắc ổn phải không chị?
  17. Những người Tàu ở SG có loại cao dán dùng để đắp mụn nhọt. Chỉ qua vài tiếng hoặc 1 đêm thì nhọt sẽ lên hết mủ và vỡ ra mặc dù trước đó mới chỉ sưng tấy. Cao này có khả năng làm vỡ mụn khá mạnh, kể cả nhọt rất to. Không biết có liên quan gì tới loại thuốc mà chú TS nói tới không?
  18. Những kiêng kỵ khi làm mái nhà Nguồn: http://www.wedonow.com Đao đình chĩa vào nhà gay bất lợi Trong dân gian lưu truyền khá nhiều những quan niệm kiêng kỵ liên quan đến việc làm mái nhà, như kiêng "góc ao, đao đình", kiêng nhà bị đòn đông chĩa sang, đếm số đòn tay khi lợp mái nhà, xem ngày giờ gác đòn đông... "Nhất góc ao, nhì đao đình" nói lên cách bố cục nhà cần tránh các góc ao cũng như góc cạnh của mái đình, đền, miếu hướng vào chính diện nhà. Khi nhà mở cửa ra hướng góc mái, đồng nghĩa với bố cục của các nhà bị xiên lệch với nhau, dễ gây ra va chạm khi di chuyển, gió lùa theo các cạnh tường, cạnh mái thổi đến nhà mình. Về cấu tạo, điểm góc mái luôn là điểm xung yếu nên mái nhà xưa thường hay có các chi tiết bằng gỗ hay đắp vữa để khóa cứng góc mái, kết hợp tính trang trí tạo thành những đầu đao mang nhiều ý nghĩa tâm linh. Mở cửa ra nhìn vào góc mái chĩa vào nhà mình thì luôn có cảm giác bất an. Nhiều gia chủ thời nay xem việc đổ tấm bê tông trên cùng là... thượng lương để kết thúc phần xây dựng khung xương cơ bản của nhà. Điều này xét về tiến trình xây dựng là đúng, nhưng xét về ý nghĩa xây dựng truyền thống thì không chuẩn xác lắm. Mặt khác, cách cấu tạo lợp mái hiện đại đều không còn sử dụng cây xà gồ trên đỉnh mà là hai cây xà gồ thép đặt gần nhau ở trên đỉnh để thuận tiện hơn cho việc lợp và liên kết ngói đỉnh mái. Ngày xưa, do cây đòn dông nằm giữa nên số đòn tay trong bộ mái nhà xưa luôn là số lẻ, dẫn đến ngày nay nhiều người vẫn còn đếm số lượng đòn tay theo kiểu "sinh lão bệnh tử" mang nhiều màu sắc mê tín. Ngôi nhà truyền thống vốn đa phần quay mặt dài về hướng nam nên phần đỉnh mái nhà kéo từ đông sang tây, mà cư dân nông nghiệp thì xem phương đông là khởi điểm cuộc sống, nơi mặt trời mọc, thuộc mộc, nên cây xà gồ đỉnh mái trong nghi lễ thượng lương thường được bọc vải đỏ hai đầu và treo tấm bùa bát quái ở giữa như một sự trân trọng với bộ phận kết cấu đặc biệt này của ngôi nhà. Hình thế trong phong thủy, nóc nhà có hình tam giác thuộc hành Hỏa mà theo ngũ hành thì hành hỏa khắc Kim (tiền tài) nên nhiều người lo ngại nếu bị chĩa Hỏa sang nhà mình thì tiền tài sẽ hao tổn. Về cấu tạo, ta thấy nóc nhà xưa có các khe hở hai đầu thông gió là nơi thoát khí tích tụ trong nhà ra ngoài, nếu nhà đối diện mở cửa ra gặp ngay "tam giác ấy" thì sẽ bất lợi. Từ đó, không riêng gì cây đòn dông mà các đòn tay lợp mái cũng bị kiêng nếu nhìn thấy chĩa sang nhà của nhau. Xét về văn hóa ứng xử, điều này đem lại sự cẩn trọng khi làm nhà lợp mái, giữ gìn cho người cũng là cầu an lành cho mình. Còn về thực tế xây dựng thì hiện nay nhiều biệt thự lợp mái ngói đã dùng thép tấm làm thành nẹp bịt kín đầu các xà gồ như là một giải pháp an toàn không đụng chạm đến xung quanh. (Theo Nhà đẹp) Phòng Tư vấn thiết kế Kiến trúc & Xây dựng Wedo
  19. BẠCH HOA ĐƠN (BẠCH HOA XÀ) Tên khoa học: Plumbago zeylanica L. Họ đuôi công Plumbaginaceae. Tên gọi khác: Bạch tuyết hoa , cây đuôi công, đuôi công trắng, bạch hoa xà. Phân bố: Được trồng làm cảnh ở khắp nơi. Thu hái và chế biến: Hái quanh năm, loại bỏ tạp chất dùng tươi hay phơi khô. Tính năng: Vị cay đắng chát tính ấm có độc, có tác dụng khu phong, sát trùng tán ứ tiêu thũng. Liều dùng: Dùng ngoài lượng thích hợp. Cấm kỵ: Có thai cấm dùng. Thuốc có độc, khi uống cần sắc trên 3 - 4 giờ. Dùng đắp ngoài không quá 30 phút đến khi có cảm giác nóng tại chỗ thì lấy ra liền. NGHIỆM PHƯƠNG: Chữa viêm da thần kinh: Bạch hoa xà tươi vừa đủ giã nát đắp tại chỗ 15 phút mỗi ngày đắp 1 lần cho tới khi lành bệnh. Chữa nấm lâu năm: Lá bạch hoa xà hay rễ tươi vừa đủ, thêm đường thẻ một ít. Tất cả giã nát đắp tại chỗ. Sau khi đắp từ 10 - 15 phút có cảm giác nóng thì bỏ ngay, cách ngày đắp 1 lần, cho tới khi hết bệnh. BẠCH HOA XÀ THIỆT THẢO (CỎ LƯỠI RẮN) Tên khoa học: Hedyotis diffusa Willd. Họ cà phê Rubiaceae. Tên gọi khác: Xà thiệt thảo , xà lợi thảo , cỏ lưỡi rắn. Phân bố: Mọc hoang ở những nơi ẩm thấp, bờ ruộng, bãi cỏ, ven ao hồ. Thu hái và chế biến: Hái vào mùa thu, loại bỏ tạp chất, dùng tươi hoặc phơi khô. Tính năng: Vị ngọt nhạt tính mát. Có tác dụng thanh nhiệt, lợi niệu, kháng khuẩn tiêu viêm, lương huyết giải độc. Liều dùng: 30 - 60 g. Dùng ngoài lượng vừa đủ. NGHIỆM PHƯƠNG: Chữa trẻ em mụn nhọt, chảy nước vàng: - Bài 1: Bạch hoa xà thiệt thảo tươi (hoặc khô) vừa đủ. Dùng nước nấu đặc, rửa tại chỗ, ngày 2 lần. - Bài 2: Bạch hoa xà thiệt thảo 30 g. Giã nhỏ thêm nước vo gạo trộn đều thoa tại chỗ, ngày 2 lần. - Bài 3: Bạch hoa xà thiệt thảo, cỏ bạc leo đều 30 g, khổ lý căn (rễ mận rừng) 50 g. Sắc lấy nước đặc rửa mỗi ngày 2 - 3 lần. - Bài 4: Bạch hoa xà thiệt thảo khô (tán bột) 15 g, hùng hoàng (tán bột) 10 g, long não 3 g. Tất cả đều tán mịn, trộn với nước vo gạo thoa chỗ lở. Chữa lang ben: Bạch hoa xà thiệt thảo tươi 100 g, dầu hôi 60 ml. Giã nát lá lưỡi rắn, trộn với dầu hôi thoa tại chỗ ngày 2 lần. Chữa thấp chẩn (chàm): Bạch hoa xà thiệt thảo, lá ngũ trảo đều bằng nhau, nấu lấy nước đặc, lọc bỏ bã. Bạch phàn, phác tiêu đều 15 g tán bột cho vào trộn đều. Dùng rửa mỗi ngày 2 lần. (nguồn:http://www.khoahocphothong.com.vn)
  20. Tên 1 đề tài nghiên cứu về cây đuôi công trong Thông tin xuất bản của Viện dược liệu " TÍNH CHẤT CHỐNG OXY HOÁ CỦA CÂY ĐUÔI CÔNG HOA TRẮNG (PLUMBAGO ZEYLANICA), MỘT CÂY THUỐC ẤN ĐỘ VÀ THÀNH PHẦN HOẠT CHẤT PLUMBAGIN CỦA NÓ" Tilak JC và cs. Redox Rep, 2004, 9(4):219-27
  21. Hoa bạch xà còn có tên gọi là bạch tuyết hoa , hoa bạch xà là một loài cỏ sống dai , cây cao hàng mét có thân rễ có đốt và nhẵn, xích hoa xà , cây cơm cháy chữa liệt nữa người và bài thuốc chữa tiểu đêm nhiều lần. 1.Hoa Bạch Xà và xích hoa xà Hỏi: đã gần 80 tuổi , nhưng 6 năm trở lại đây vẫn rất thích đọc và mua tri thức trẻ, vì tạp chí có nhiều mục hay…Nay tôi rất muốn tìn hiểu về tác dụng của cây “ Bạch hoa xà”, vì một số bạn bè cho biết, có nhiều tác dụng như giảm đau, tiêu thũng giải độc, sát trùng… Gần đây, các bạn tôi lại cho biết, nó có thể chữa chữa được bệnh tim n hư tim to, mạch vành rối loạn nhịp …tôi mong tri thức trẻ cho biết , cây “ Hoa bạch xà” thực sự có những tác dụng gì? Vì trước đây tôi nghe nói cây này rất độc. (Bác Hồng Nam,P.Quang Trung,TP. Hải Dương) Đáp: cây “ Bạch hoa xà”còn có tên là “ Bạch tuyết hoa”, “ cây chiến” (Bắc Lệ, Lạng Sơn) , “ cây đuôi công”, …tên khoa học Plumbago Zeylanical…, thuộc họ đuôi công (Plumbaginaceae). Bạch hoa xà là một loài cây sống dai, cao hàng mét, có thân rễ, thân có đốt và nhẵn. Lá mọc so le, hình trứng đầu nhọn, phía cuốn hơi ôm vào thân, mép nguyên không có lông, nhưng mặt dưới hơi trắng nhạt. Hoa màu trắng mọc thành bông ở đầu cành hay kẽ lá; đài hoa có lông dài, nhớt. . Tràng dài gấp hai lần đài. Mùa hoa gần như quanh năm, nhưng nhiều nhất vào các tháng 5-6. Để làm thuốc, người ta thường dùng cành lá hoặc rễ tươi, để lâu kém tác dụng . Rễ đào về khi khô có màu đỏ nhạt, mép ngoài sẫm, có những rảnh dọc, phần trong màu nâu, vị hắc và buồn nôn. Trước khi nói về tác dụng của cây, ần lưu ý, hiện tại nhiều người hay lẫn lộn, giữa cây "Bạch hoa xà ' nói trên và 2 cây khác: - Thứ nhất là cây "Bạch hoa xà thiệt thảo" - Tên có thêm hai chữ “thiệt thảo". "Bạch hoa xà thiết thảo" có nghĩa là thứ cỏ (thảo) có lá tựa lưỡi rắn (xà = rắn, thiệt : lưỡi) và có hoa trắng (bạch = trắng, bạch hoa = hoa trắng). Cây này là một cây thân cỏ, sống hàng năm; thân mềm. vuông hoặc tròn lá giống như lưỡi rắn dài 1-1,5cm rộng 1-3mm, mọc đối. cuống ngắn hoặc không có cuống, hoa trắng mọc ở nách lá, có cuống hoặc không có cuống. Thường mọc ở sườn núi, ven suối, ven đường. Tên khoa học là Oldenlandia diffusa Willd. Trong Đông y cây này được xếp trong loại thuốc “thanh nhiệt giải độc"; Thường sử dụng để chữa ho do phế nhiệt, viêm vọng, viêm ruột thừa, kiết ly, sốt cao, hoàng đản, viêm. khoang bụng, các chứng ung nhọt, rắn cắn... - Thứ hai là cây "Xích hoa xà" (Plumbago rosea L.), còn có tên là “cây đuôi công", cùng thuộc họ Đuôi công (Plumbaginaceae) - với cây "Bạch hoa xà,, bác hỏi. Xích hoa xà là cây nhỏ, có thân cứng, trên có rãnh dọc, nhăn. Lá hình mác, hơi tù ở đầu, phía dưới ôm vào thân, dài kiêm, rộng 4cm hay hơn. Hoa màu đỏ, mọc thành bông dài ở đầu cành, trên có khi phân nhánh, ống tràng dài gấp 4 lần ống đài. Trong dân gian, Xích hoa xà, thường được sử dụng làm thuốc với tác dụng tương tự như cây Bạch hoa xà mà bác quan tâm sẽ nói rõ ở dưới. Trở lại với cây Bạch hoa xà bác hỏi: Kết quả nghiên đã cứu phát hiện thấy, trong cây Bạch hoa xà, có một chất gọi là plumbagin, có mùi hắc và gây sung huyết da. Dung dịch plum- bagin trong nước tiêm vào bụng chuột trắng có chửa sẽ gây chết thai và rối loạn buồng trứng. Tại ấn Độ, người ta dùng plum bagin chiết từ rễ Bạch hoa xà để điều trị khối u ung thư thực nghiệm- trên chuột, làm giảm 70%. Theo Đông y, Bạch hoa xà có vị đắng chát, tính ấm, có độc (hữu độc). Có tác dụng trừ phong, tán ứ, giải độc, sát trùng. Dùng chữa phong thấp khớp xương đau nhức, huyết ứ bế kinh, đòn ngã tốn thương, ung nhọt lở ngứa. - Cách dùng, liều dùng: Sắc uống: Từ 3-9g; Dùng ngoài. Nấu nước rửa, giã nát đắp hay bôi. Kiêng kỵ. Phụ nữ có thai không sử dụng. Trên thực tế, cây bạch hoa xà mới chỉ được sử dụng chủ yếu trong phạm vi dân gian: Làm thuốc chữa những bệnh ngoài da, những vết loét, vết thương. Thường dùng rễ hay lá giã nhỏ và cơm, thành một thứ bột nhão.. đắp lên những nơi sưng đau. Có nơi sắc rễ, lấy nước bôi ghẻ. Lá bạch hoa xà giã nát,đắp lên chỗ da đầu bị chốc lở đã rửa sạch, hễ thấy nóng thì bỏ ra. Có thể sắc uống, nhưng cần rất thận trọng, không dùng quá liều, vì cây có độc. Theo các tài liệu nước ngoài: Do nhựa của cây bạch hoa xà làm chậm sự thành sẹo, cho nên một số dân châu Phi đã dùng nhựa cây này bôi lên các hình vẽ trên người bằng dao cạo. để cho hình nổi lên, do có tác dụng tăng sinh trưởng những tổ chức đã bị rạch. Tại một số nước châu Phi, nhân dân dùng bột rễ cây này trộn với chất nhầy của một loại dâm bụt (Hibiscus escu- lentus) có nơi gọi là cây mướp tây (có trồng ở Việt Nam, quả ăn được) để đắp lên các vết hủi. sau đó người ta đắp lên đó một loại lá khô của một cây có nhựa chưa xác định được tên khoa học nhưng dân Nigiêria (châu Phi) đã gọi tên là cây Niêcca. Tại Ấn Độ và Nhật Bản: người ta dùng rễ cây này làm thuốc gây sẩy thai: Cho uống bột rễ cây này, hay tán một ít bột cho vào khoang tử cung , thai sẽ tự ra do bị kích thích, nhưng hay gây ra viêm tử cung, có khi chết người. - Cây Xích hoa xà, Tại một số nơi, được dùng chữa đau gân, đau xương, làm ra thai. Thường dùng lá; nếu đau xương đào lấy rễ. Lá xào ăn được, ăn nhiều thì có tác dụng tẩy; Nấu canh với giấm hay chanh. Uống độ một bát canh, sau 1 giờ thì đi ngoài, người không mệt; nếu muốn thôi đi ngoài, vò lá với nước lạnh uống 1/2 chén, uống lạnh. Tại Ấn Độ, người ta dùng bột rễ cây Xích hoa xà trộn với dầu, để xoa bóp những nơi bi tê thấp và tê liệt. Còn dùng chữa ung thư, hủi và một số bệnh ngoài da khác. Về tác dụng chữa bệnh tim của cây Bạch hoa xà, chúng tôi chưa được chứng kiến trường hợp cụ thể nào và trong tay cũng chưa có những tài liệu thật đáng tin cậy. Chúng tôi sẽ tiếp tục tìm hiểu thêm, và sẽ thông tin tới bác và độc giả trong một dịp khác. Tuy nhiên, để nâng cao sức khỏe, chữa trị bệnh tật, nói chung cần tuân theo nguyên tắc: Nhân thời, nhân địa, nhân nhân. Nghĩa là cần căn cứ vào điệu kiện thời tiết khí hậu, môi trường sổng, đặc điểm thể chất và tình trạng sức khỏe ở từng người mà chọn dùng phương pháp, vị thuốc thích hợp; Không nên quá tinvào tác dụng kỳ diệu của một vị thuốc nào đó. Nguồn: http://thongtin.caigi.com
  22. XÍCH HOA XÀ Tên khác: Cây đuôi công. Tên khoa học: Plumbago zeylanica L., họ Đuôi công (Plumbaginaceae). Cây mọc hoang nhiều nơi ở Việt Nam, có ở các nước Ấn Độ, Nhật Bản, Trung Quốc... Bộ phận dùng: Rễ, lá. Thành phần hoá học chính: Plumbagin (metyl-2-hydroxy-5-naphtoquinon-1-4). Công dụng: Làm thuốc chữa bệnh ngoài da, mụn nhọt ghẻ lở. Cách dùng, liều lượng: Rễ, lá giã nhỏ đắp lên nơi sưng đau. Sắc rễ lấy nước bôi ghẻ. Ghi chú: Ở nước ta còn có cây mang tên Đuôi công hay Xích hoa xà (Plumbago rosea L.), cùng họ, mọc hoang ở nhiều nơi, nhân dân sử dụng như cây Bạch hoa xà. Cần phân biệt với cây Bạch hoa xà thiệt thảo - Cỏ lưỡi rắn hoa trắng (Hedyotis diffusa Willd.), họ Cà phê (Rubiaceae). Vũ Duy Tùng (Theo Y học cổ truyền Việt Nam) Nguồn: http://dongyvietnam.net
  23. BẠCH HOA XÀ Tên khác: Cây đuôi công. Tên khoa học: Plumbago zeylanica L., họ Đuôi công (Plumbaginaceae). Cây mọc hoang nhiều nơi ở Việt Nam, có ở các nước Ấn Độ, Nhật Bản, Trung Quốc... Bộ phận dùng: Rễ, lá. Thành phần hoá học chính: Plumbagin (metyl-2-hydroxy-5-naphtoquinon-1-4). Công dụng: Làm thuốc chữa bệnh ngoài da, mụn nhọt ghẻ lở. Cách dùng, liều lượng: Rễ, lá giã nhỏ đắp lên nơi sưng đau. Sắc rễ lấy nước bôi ghẻ. Ghi chú: Ở nước ta còn có cây mang tên Đuôi công hay Xích hoa xà (Plumbago rosea L.), cùng họ, mọc hoang ở nhiều nơi, nhân dân sử dụng như cây Bạch hoa xà. Cần phân biệt với cây Bạch hoa xà thiệt thảo - Cỏ lưỡi rắn hoa trắng (Hedyotis diffusa Willd.), họ Cà phê (Rubiaceae). (nguồn: http://dongyvietnam.net)
  24. Báo Tiền phong ra ngày 16/05/2005 , có thuật lại chuyện bác Hy Râu tự chữa khỏi bệnh ung thư thực quản ở giai đoạn cuối bằng bài thuốc này. Hiện nay có người gọi đây là " bài thuốc bí truyền chữa ung thư ". Cuối tháng 3/2004. bác Trần Văn Hy , biệt danh " Hy Râu " 75 tuồi , ở đường Nguyễn Công Trứ - TP Buôn Mê Thuột. Được chẩn đoán bị ung thư thực quản , trong tình trạng cơ thể bị suy kiệt nặng . Kết quả nội soi cho thấy , khối u như 1 con đỉa lớn, bám dọc và chẹn gần kín thực quản , ko thể ăn uống được bình thường, chỉ có thể nuốt từng giọt sữa một cách khó khăn. Khi đó các thầy thuốc ở HCMC khẳng định chỉ còn cách đặt ống tiếp thức ăn nuôi cơ thể , khi sức khoẻ ổn định sẽ xạ trị. Bác Hy ko chịu điều trị theo PP này, vì nghĩ tuổi đã cao ăn uống đã khó khăn , lại xạ trị độc hại , thà chết còn hơn. Sau 1 thời gian tình cờ tìm lại đống sách cũ, bác tìm được một xấp giấy chép mấy bài thuốc dân gian của một người bạn sưu tầm tặng 5 năm trước . Đọc " bài thuốc bí truyền chữa ung thư ". thấy đơn giản , bác quyết định thử xem sao . Ngày 18/05/2004 bác Hy bắt đầu uống thuốc . Những chén đầu tiên phải nhỏ tưng giọt một, uống cả buổi mới hết. Tới thang thứ 6 , bác bắt đầu nuốt được, bệnh có vẻ tiến triển tốt. Bác tiếp tục uống và mỗi tháng đi soi 1 lần. Đến cuối năm 2004 , khối u đã tan , chỉ để lại vết sẹo trên thực quản., sức khoẻ hồi phục dần. Cho đến thời điểm được thông tin trên báo (05/2005) bác Hy đã khoẻ hẳn ,da dẻ hồng hào , nặng 57 kg. Bác cho biết , cũng bày cho 1 số người uống thấy có hiệu quả , bác đề nghị khoa học nghiên cứu , kiểm chứng . Nếu thực sự tốt thì phổ biến cho mọi người . - Nội dung : Bách Hoa Xà 2 lạng ( 75 Gam ), Bán Liên Chi 1 lạng ( 37gam ). Rửa sạch đất cát . Đổ 4 bát nước sắc nhỏ lửa khoảng 2h, còn 1 bát. Mỗi thang sắc 2 lần . Uống nguội ,lúc đói bụng . Bài thuốc này nguồn gốc là bài thuôc nam lưu truyền trong dân gian ở vùng Nam trung quốc và Bắc Việt Nam . Cách đây khoảng chục năm , Hà Nội từng xôn xao về bài thuốc này , ngươi người , nhà nhà ... đổ nhau đi mua về uống chữa và phòng bệnh . Qua nghiên cứu cơ chế gây bệnh ung thư và tính năng dươc phẩm của 2 vị thuốc nói trên của cơ quan y tế Trung Quốc thì BCL và BHXTT đều là những vị thuốc thuộc nhóm " công tà " . Sử dụng đơn dộc thuốc công tà ( ko phối hợp với thuốc bổ và điều hoà ) , nói chung sẽ có tác dụng nhanh và mạnh . Nếu phù hợp cơ địa ( bệnh tình, tuổi tác, thể lực ...) có thể có kết quả mau chóng . Nếu ko hợp cơ địa , hoặc uống lâu dài có thể tạo phản ứng phụ nguy hiểm. Giữa tháng 3/2006, lương y Hư Đan có dịp chứng kiến 1 trường hợp phụ nữ 82 tuổi ở phố Nguyễn An Ninh , Hà nỘi đã từng sử dụng bài thuốc nói trên chữa ung thư vòm họng , do tuổi già , sức yếu ko thể đủ sức tiếp nhận các PP của y học hiện đại . Kết quả khối u nhỏ đi rất nhanh, ăn uống dễ dàng . Nhưng khi uống đến gần 40 thang , thì bị suy kiệt . người mệt lả .... May là sau đó đã được 1 thày đông y khác chữa cho ổn định . Qua kết quả nghiên cứu dược lý và lâm sàng cho thấy , kinh nghiệm dùng BCL và BHXTT chữa ung thư , có cơ sở nhất định . Tuy nhiên bài thuốc có thể phù hợp với người này , mà không phù hợp với người khác, và cũng có một số tác dụng phụ. Trường hợp cần thiết , sử dụng lâu dài , nên tham khảo hướng dẫn và giám sát của các thầy thuốc có kinh nghiệm . Nammo ........... Bài thuốc này có tác dụng loại bỏ những chất độc trong cơ thể , giúp chúng ta không bị nhiễm độc và phòng chống rất tốt những căn bệnh hiểm nghèo . Ai cũng có chất độc trong cơ thể , đây là bài thuốc loại trừ chất độc đơn giản nhất và hiệu quả nhất mà dienbatn đã gặp và sử dụng . Đặc đểm của bài thuốc này rất rẻ tiền và đơn giản , chừng vài chục ngàn là đã thấy có hiệu quả rõ rệt . Bài thuốc chỉ gồm có 2 vị : Bách Hoa Xà và Bán Liên chi . Khi sử dụng , tính theo khối lượng : Bách Hoa Xà 2 phần và bán Liên Chi 1 phần . Cách dùng : Trong tuần đầu sắc tương đối đặc , uống 3- 4 lần / ngày . Các tuần sau có thể nấu uống thay nước . Đặc điểm : Vị thơm , mát rất dễ uống . Hiệu quả : Thấy rõ rệt , nhất là với những chứng bệnh về gan , ung thư dạ dày , vàng da . Kiệng cữ : Không cần kiêng cữ gì cả . MỘT SỐ TƯ LIỆU SƯU TẦM Thảo dược chữa ung thư Không chỉ chữa được viêm da, sỏi mật, viêm gan..., cỏ lưỡi rắn trắng còn giúp phòng trị nhiều loại ung thư. Dân gian từng truyền tụng một bài thuốc chữa ung thư gan hiệu nghiệm được cho là của một tử tù, với 2 cây thuốc là cỏ lưỡi rắn trắng và bán biên liên. Trong Đông y, cỏ lưỡi rắn trắng có tên là bạch hoa xà thiệt thảo, còn có tên là bồi ngòi bò, xà thiệt thảo, xà châm thảo, long thiệt thảo. Tên khoa học là Hedyotis diffusa Willd, thuộc họ cà phê. Đây là loại cỏ mọc bò, sống hàng năm, có thể cao tới 30-40 cm. Lá mọc đối, hơi thuôn dài, không có cuống lá, có khía răng ở đỉnh. Hoa mọc đơn độc hoặc thành đôi ở kẽ lá, có màu trắng. Quả nang khô dẹt ở đầu, có nhiều hạt màu nâu nhạt. Cây thường mọc hoang nơi đất ẩm ướt. Ngay tại Hà Nội cũng thấy cây này. Nó được dùng toàn cây làm thuốc. Trong y học cổ truyền, bạch hoa xà thiệt thảo được dùng chữa các bệnh viêm họng, viêm đường tiết niệu, viêm gan, sỏi mật, lỵ trực trùng, mụn nhọt, rôm sảy, rắn cắn; dùng ngoài chữa vết thương, côn trùng đốt, đau lưng, đau khớp… Thời xưa, Tuệ Tĩnh thường dùng nó chữa rắn cắn, sởi… Theo y học hiện đại, do tăng cường khả năng của đại thực bào trong hệ thống lưới- nội mô và bạch cầu nên bạch hoa xà thiệt thảo có tác dụng chống viêm. Cây này cũng ức chế tế bào ung thư lymphô, bạch cầu hạt và bạch cầu đơn nhân, tế bào carcinom; ức chế hiện tượng gây đột biến do aflatoxin B1 tạo ra. Nó hỗ trợ điều trị bệnh ung thư nhờ tác dụng ức chế miễn dịch. Trung Quốc dùng bạch hoa xà thiệt thảo chữa bệnh ung thư dạ dày, thực quản, cổ tử cung, bàng quang, trực tràng, đại tràng, thực quản, hạch… Tại Ấn Độ, bạch hoa xà thiệt thảo còn được dùng chữa các bệnh viêm gan virus, sốt, lậu… Tương đồng với y học Ấn Độ, một số nước cũng dùng bạch hoa xà thiệt thảo chữa bệnh viêm gan. Trung Quốc đã bào chế một loại thuốc từ thảo dược với tên Ất can ninh, thành phần có bạch hoa xà thiệt thảo, hoàng kỳ, nhân trần, đảng sâm, hà thủ ô?… Theo các nhà khoa học, Ất can ninh có tác dụng ức chế miễn dịch, ngăn ngừa sự phát triển của virus và phục hồi chức năng gan, có tác dụng tốt trong điều trị bệnh viêm gan virus B. Thảo dược này cũng có mặt trong Lợi đởm thang bên cạnh các thành phần nhân trần, kim tiền thảo, dùng chữa sỏi mật, viêm đường mật ở Trung Quốc. Trong dân gian, cây chủ yếu được dùng dưới dạng thuốc sắc, có thể dùng tươi hoặc phơi khô. Liều dùng có thể tới 60 g thuốc khô, tương đương với khoảng 250 g dược liệu tươi. Dùng ngoài không kể liều lượng. Ở nước ngoài, bạch hoa xà thiệt thảo còn được bào chế thành dạng thuốc tiêm để chữa các bệnh ung thư và viêm nhiễm như viêm phế quản, viêm phổi, viêm họng, viêm ruột thừa… Một số bài thuốc đơn giản sử dụng Bạch hoa xà thiệt thảo Chữa ung thư gan: Bạch hoa xà thiệt thảo 30 g, chó đẻ răng cưa 30 g, cam thảo dây 10 g. Sắc uống ngày 1 thang, chia uống 2-3 lần trong ngày. Chữa ung thư dạ dày: Bạch hoa xà thiệt thảo 60 g, bạch mao căn (rễ cỏ tranh) 60 g, hạt bo bo 40 g, đường đỏ 40 g. Sắc uống ngày một thang. Chữa viêm họng: Bạch hoa xà thiệt thảo 30 g, bồ công anh 20 g, kim ngân hoa 20 g, cam thảo dây 10 g. Sắc uống ngày 1 thang, chia uống 2-3 lần trong ngày. Chữa phù thũng: Bạch hoa xà thiệt thảo 40 g, rễ cỏ tranh 30 g, râu ngô 20 g, cam thảo dây 10 g. Sắc uống ngày 1 thang, chia uống 2-3 lần trong ngày. Chữa viêm gan vàng da: Bạch hoa xà thiệt thảo 60 g, chó đẻ răng cưa 30 g, nhân trần 20 g, cam thảo dây 10 g. Sắc uống ngày 1 thang, chia uống 2-3 lần trong ngày. Chữa sỏi mật: Bạch hoa xà thiệt thảo 30 g, kim tiền thảo 20 g, màng trong mề gà sao cách cát cho vàng 16 g, cam thảo dây 10 g. Sắc uống ngày 1 thang, chia uống 2-3 lần trong ngày. Hoặc: Bạch hoa xà thiệt thảo 40 g, nhân trần 40 g, kim tiền thảo 40 g. Sắc uống ngày một thang (lợi đởm hợp tễ). Bài thuốc này đã được Trung Quốc áp dụng trên lâm sàng, có tác dụng lợi mật, tăng bài tiết mật. Thường được áp dụng cho bệnh sỏi mật, bệnh đường mật… Chữa lỵ trực trùng: Bạch hoa xà thiệt thảo 30 g, rau sam 20 g, lá mơ tam thể 20 g. Sắc uống ngày 1 thang, chia uống 2-3 lần trong ngày. Chữa lỵ, viêm phần phụ: Bạch hoa xà thiệt thảo 40 g. Sắc uống ngày một thang. (Phúc kiến trung thảo dược). Chữa nhọt lở: Bạch hoa xà thiệt thảo 30 g, kim ngân hoa 20 g, bồ công anh 20 g, bèo cái 20 g, cam thảo dây 10 g. Sắc uống ngày 1 thang, chia uống 2-3 lần trong ngày. Chữa rôm sảy: Bạch hoa xà thiệt thảo, cúc liên chi dại. Hai vị lượng bằng nhau. Dùng để nấu nước tắm. Chữa vết thương sưng đau: Bạch hoa xà thiệt thảo 200 g. Sắc uống ngày một thang, chia uống 2-3 lần trong ngày. Chữa mụn nhọt: Bạch hoa xà thiệt thảo 60 g, bồ công anh 20 g, bèo cái 20 g. Sắc uống ngày một thang, chia uống 2-3 lần trong ngày. Chữa rắn cắn: Bạch hoa xà thiệt thảo 100 g, giã nát, cho thêm nước, bã đắp vào chỗ rắn cắn, còn nước uống. (Theo Sức Khỏe & Đời Sống ) * Bổ sung cho bài viết này : Hiện nay 2 vị thuốc BCL và BHXTT đã được một số viện y học dân tộc trong và ngoài nước lấy làm chủ đạo ( Vị Quân ) trong các bài thuốc chữa ung thư (K). Tuy nhiên do ung thư có nhiều dạng , nhiều vị trí . Người bệnh lại có thể tạng khác nhau , nên các thày thuốc phải khám bệnh và kê toa phối các vị ( Thần - Tá - Sứ )cho phù hợp với mỗi người , mỗi dạng bệnh . Đã có nhiều người chữa K bằng bài thuốc này tại các viện YHDT , có kết quả tốt . Với nội dung giới thiệu trên , thiết nghĩ chúng ta có áp dụng thì dừng ở mức : lâu lâu người khỏe mạnh uống vài thang cho giải độc và phòng bệnh . Còn những ai muốn áp dụng chữa bệnh nghiêm túc , nên đến các bệnh viện YHDT để khám chữa cho chu đáo , mau có hiệu quả và tránh các tác dụng phụ , ngoài ý muốn . Vì K - vốn là một bệnh nhạy cảm . (Nguồn: http://www.hoangthantai.com)
  25. Cỏ lưỡi rắn: Vị thuốc sát khuẩn, chống viêmT Cỏ lưỡi rắn mọc hoang khắp nơi. Thường thấy ở trong vườn, ngoài ruộng, sườn núi, ven suối, ven đường. Cỏ lưỡi rắn trong Đông y gọi là “bạch hoa xà thiệt thảo”; còn có các tên khác như “bòi ngòi”, “vương thái tô”, “cóc mẳn”, “đơn thảo”, “đơn đòng”, “tán phòng hoa nhĩ thảo”, “thủy tuyến thảo”... Cỏ lưỡi rắn là loại cây thân mềm, vuông hoặc tròn; lá giống như lưỡi rắn (nên có tên là “xà thiệt thảo”, xà là rắn, thiệt là lưỡi, thảo là cỏ) dài chừng 1-1,5cm, rộng 1-3mm, mọc đối, cuống ngắn hoặc không có cuống; hoa trắng (bạch hoa) mọc ở nách lá, có cuống hoặc không có cuống. Để dùng làm thuốc, người ta nhổ toàn cây, liền cả lá và rễ, dùng tươi hoặc phơi khô dùng dần. Theo Đông y: Cỏ lưỡi rắn có vị đắng, ngọt, tính lạnh, đi vào 3 kinh tâm, can và tỳ. Có tác dụng thanh nhiệt, lợi thấp, giải độc. Dùng để trị chứng ho do phế nhiệt, viêm họng, viêm ruột thừa, kiết lỵ, sốt cao, hoàng đản, viêm khoang bụng, các chứng ung nhọt, rắn cắn... Các nghiên cứu dược lý và lâm sàng hiện đại cho thấy. Nước sắc đặc của Cỏ lưỡi rắn có tác dụng ức chế sự phát triển trực khuẩn mủ xanh, trực khuẩn thương hàn và một số loại vi khuẩn khác. Ngoài ra, cỏ lưỡi rắn còn có tác dụng tăng cường khả năng miễn dịch của cơ thể và chức năng của vỏ tuyến thượng thận. Liều dùng: 30-60g khô sắc uống (dùng tươi tăng gấp đôi liều lượng); dùng ngoài giã đắp hoặc nấu nước rửa. Kiêng kỵ: Phụ nữ mang thai phải cẩn thận khi sử dụng. Ngoài ra, một thông báo khoa học cho biết: cỏ lưỡi rắn ức chế quá trình sinh tinh trùng ở chuột thí nghiệm, vì vậy những vị mày râu yếu sinh lý cũng nên lưu ý. Một số bài thuốc sử dụng Cỏ lưỡi rắn: Chữa ho: Ngày dùng 100g Cỏ lưỡi rắn tươi, rửa sạch, sao vàng cho vào 600ml nước, sắc còn 100ml, chia làm 3 lần uống trong ngày. Trị trẻ em sốt cao, kinh hãi không ngủ được: Dùng Cỏ lưỡi rắn giã vắt lấy 1 thìa canh nước cốt cho uống. Chữa sốt rét: Dùng Cỏ lưỡi rắn, thường sơn, Mã tiên thảo (cỏ roi ngựa) mỗi thứ 8g, sắc nước uống. Chữa viêm amidan cấp tính: Dùng Cỏ lưỡi rắn 20g, Bản lam căn (rễ cây chàm) 30g, Cát căn (củ sắn dây) 30g, Sài hồ 10g, Liên kiều 15g, Bối mẫu 12g, Xạ can (rễ cây Rẻ quạt) 5g, Kinh giới 5g; sắc với nước hai lần, chia ra uống dần trong ngày. Chữa kiết lỵ, viêm niệu đạo: Dùng Cỏ lưỡi rắn 30g, sắc nước uống. Chữa vàng da (hoàng đản): Dùng Cỏ lưỡi rắn 40-80g, giã vắt lấy nước, hòa với mật ong uống. Chữa nhọt sưng tấy nóng đau: Dùng Cỏ lưỡi rắn giã đắp lên nhọt, thuốc khô lại thay thuốc mới. Chữa bỏng: Dùng Cỏ lưỡi rắn, nhiều ít tùy thuộc vào diện tích vết bỏng, nấu nước rửa. Chữa mụn trứng cá: Dùng Cỏ lưỡi rắn 50g, Tỳ bà diệp (lá cây nhót tây) 9g, Đương quy 9g, Chi tử 9g, Hoàng bá 9g, Bạch chỉ 6g, Tang bạch bì (vỏ rễ cây dâu tằm) 12g, Hoàng liên 3g, Cam thảo 3g, sắc nước uống. (health.vnn.vn) (Nguồn: http://caythuocquy.info.vn)