-
Số nội dung
1.107 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
2
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by phoenix
-
Phoenix đang có một người bạn bắt đầu đầu tư toàn bộ tâm trí và sức lực vào công việc mới với hy vọng về cả thu nhập và tương lai nghề nghiệp. Người bạn này muốn nhờ Phoenix hỏi xem sự đầu tư này có đạt được mục đích hay không? Nhờ mọi người giúp bạn Phoenix với ạ. Cảm ơn rất nhiều!
-
Phoenix dạo này ít đi "lượn" không biết anh Lactuong đã trả lời. Cảm ơn anh nhiều nhé. " khi nhớ thì nghĩ tới khi quên bân bịu thì thôi." - Anh luận quả là hay thật. Hiện tại chưa thấy tăm hơi sủi bọt của cơ hội nào. Hy vọng đến thời điểm anh Lactuong phán vậy. :(
-
DẪN VÀO THẦN HỌC VUI NHÀN (nguồn: dunglac.org) 1. Làm Việc phải có Nghỉ Ngơi và Giải Trí Khi làm việc cho một công ty khai thác quặng sắt tại Mỹ, kỹ sư Fréderick Winslow Taylor (1856-1915) đã thí nghiệm với các công nhân của ông như sau: Khi mới tới làm việc tại công ty, ông ghi nhận các công nhân đang dùng một loại sẻng mỗi lần xúc được 38 pound quặng, và mỗi ngày xúc được 21 tấn quặng. Ông nhận thấy sẻng đó quá lớn so với sức lực của công nhân. Vì thế ông đã cho họ dùng một loại sẻng nhỏ hơn mỗi lần xúc được 21 pound. Lạ thay, số quặng xúc được mỗi ngày tăng lên thành 30 tấn. Sau ông lại cho công nhân dùng sẻng 18 pound thì năng xuất tăng lên thành 38 tấn/ngày. Ðó là hiệu suất tối đa có thể đạt được khi thay đổi loại sẻng. Hồi đó, công nhân làm việc mỗi tuần 7 ngày, không nghỉ ngày nào, và làm mỗi ngày 10 tiếng, nên họ không có thì giờ nghỉ ngơi và giải trí. Vì thế, ông giảm số giờ và số ngày làm việc để thỏa mãn nhu cầu đó thì năng suất của công nhân tăng lên rõ rệt. Khi ông cho công nhân được nghỉ ngơi giữa giờ làm việc, thì năng suất cũng tăng lên. Câu chuyện trên cho ta thấy không phải cứ làm việc liên tục một cách tích cực và chăm chỉ mà công việc đạt được hiệu quả tối đa. Muốn đạt được hiệu quả ấy, cần phải phối hợp một cách hợp lý giữa làm việc và nghỉ ngơi giải trí. Và cũng không phải càng cố gắng nhiều càng tốt, mà chỉ nên cố gắng vừa sức mình thì sự cố gắng đó mới lâu dài và đem lại năng suất cao nhất. Do đó, những linh mục hay tu sĩ phải làm việc nhiều nên lưu tâm đến chuyện nghỉ ngơi và vui chơi giải trí để có thể làm việc lâu dài và công việc có hiệu quả hơn. Ðồng thời cũng phải lượng sức mình để cố gắng một sức vừa phải, hợp với khả năng của mình. Nhiều linh mục hay tu sĩ cảm thấy trách nhiệm của mình quá nặng, công việc của mình nhiều quá và lúc nào cũng phải cấp bách làm cho xong kịp thời hạn, nên cảm thấy mình không thể dành nhiều thì giờ để nghỉ ngơi hay giải trí được. Những người này thường để cho trách nhiệm và công việc lôi cuốn đến nỗi mình bị chúng làm chủ chúng hơn là mình làm chủ chúng. Mặc dù họ rất mệt và cần nghỉ ngơi giải trí để lấy lại sức, nhưng ý thức trách nhiệm quá cao khiến họ không nỡ bỏ dở công việc đang tiến hành tốt đẹp. Và kết quả là sau một thời gian dài ráng sức nhiều quá, họ bị "surmenage" (quá mệt vì lao lực) không thể tiếp tục làm việc được nữa. Lúc đó, công việc có cần thiết hay cấp bách tới đâu cũng phải bỏ. Nếu cứ tiếp tục làm việc nữa sẽ bị kiệt sức và suy nhược cơ thể, phải mất nhiều thời gian mới có thể phục hồi lại được. Ðó là chưa nói đến những chứng bệnh nan y tất nhiên sẽ phát sinh do thường xuyên làm việc căng thẳng: tim mạch, huyết áp, dạ dầy, ruột, trĩ, v.v... Làm việc đến nỗi đi đến những tình trạng bệnh hoạn như thế quả là thiếu sáng suốt, mặc dù về mặt luân lý cũng có phần nào đáng khen! Vì khi làm việc trong tình trạng mỏi mệt, chắc chắn hiệu quả không cao, thậm chí có thể vì thiếu sáng suốt mà đi đến những quyết định sai lầm tai hại. Nếu khi cảm thấy mệt mỏi, ta cứ "can đảm" hy sinh một chút thời gian để đi đến một chỗ nào đó nghỉ ngơi và vui chơi một hay hai ngày, thì chắc chắn khi trở lại với công việc, ta sẽ hăng hái, sáng suốt và làm việc hữu hiệu hơn trước rất nhiều, kết quả công việc bảo đảm sẽ tốt đẹp hơn. Thời gian để vui chơi giải trí đó sẽ đuọc bù lại xứng đáng, chứ không uổng phí vô ích. Cũng như khi F. Taylor cho công nhân nghỉ mỗi tuần một ngày, thì năng xuất hàng tuần chẳng những không giảm đi mà còn tăng lên, chưa nói tới mối lợi của công ty là chỉ phải trả có 6 ngày công thay vì 7 ngày. Nghỉ ngơi giải trí không phải chỉ là ích lợi cho công việc, mà còn là cần thiết, thậm chí tối cần thiết để có thể tiếp tục làm việc và làm việc cho có hậu quả. Làm việc và nghỉ ngơi giải trí phải luôn luôn đi đôi với nhau và phối hợp với nhau nhịp nhàng như hai thời trong việc đóng đinh. Khi đóng đinh, có hai tác động: giáng búa xuống và nhấc búa lên. Tác động nhấc búa lên, tuy không làm cho đinh lún xuống chút nào, nhưng cũng cần thiết không kém tác động giáng xuống. Vì nếu không nhấc búa lên thì tuyệt đối ta không thể giáng búa xuống lần thứ hai để làm cho đinh tiếp tục cắm sâu vào gỗ. Làm việc và nghỉ ngơi giải trí cũng phải phối hợp với nhau chặt chẽ như thế mới hợp tự nhiên và mang lại hiệu quả tốt đẹp. Luật tự nhiên là như thế. Thánh Kinh có nói: "Mọi việc dưới gầm trời đều có thời của nó. Có thời sinh ra thì cũng có thời chết đi. Có thời trồng thì cũng có thời phải nhổ vật đã trồng. Có thời giết thì cũng có thời cứu sống. Có thời phá đổ thì cũng có thời xây dựng... Có thời im lặng thì cũng có thời nói ra. Có thời yêu thì cũng có thời ghét. Có thời chiến thì cũng có thời bình" (Gv 3,1-8). Theo tinh thần đó, có thời làm việc thì phải có nghỉ ngơi và vui chơi. Tuân theo luật tự nhiên ấy thì mọi sự đều tốt đẹp, trái với luật đó thì không tốt: "Thuận Thiên giả tồn, nghịch Thiên giả vong". © Copyright 1995. Tác giả giữ bản quyền. Tác giả Nguyễn Chính Kết (còn tiếp)
-
4. KẾT LUẬN Vui chơi, giải trí, nhàn nhã là điều kiện cần thiết để có thể làm việc được lâu dài và hiệu quả, điều đó ai cũng phải công nhận. Và để có điều kiện vui chơi giải trí và nhàn nhã một cách thoải mái, thì người ta phải làm việc. Thật vậy, muốn đi Vũng Tàu nghỉ mát và tắm biển, hay muốn tổ chức đi picnic với nhau ở một nơi nào đó, phải có phương tiện, tiền bạc. Ðiều đó giả thiết phải làm việc trước mới có. Như vậy, làm việc và vui chơi, làm việc và nghỉ ngơi là điều kiện lẫn cho nhau. Nhưng có hai thái độ: một số người coi vui chơi và nghỉ ngơi là để phục vụ cho làm việc, coi làm việc là mục đích, vui chơi hay nghỉ ngơi là phương tiện; một số người khác coi làm việc là để sau này có thể vui chơi và nghỉ ngơi, nghĩa là coi vui chơi, nghỉ ngơi là mục đích, còn làm việc là phương tiện. Lập trường nào cũng có lý của nó.Chắc chắn cứu cánh của con người không phải là làm việc, mà là vui chơi, nghỉ ngơi, nhàn nhã. Thời xưa, trong nhiều sách giáo lý, câu hỏi đầu tiên là: "Phải làm gì cho được thanh nhàn vui vẻ vô cùng? và câu trả lời là: Phải giữ đạo thánh Ðức Chúa Trời". Như vậy rõ ràng theo các sách giáo lý đó, việc vui chơi, nhàn nhã là cứu cánh của việc giữ đạo Ðức Chúa Trời, huống gì làm việc. Và để dịch SALUS (Salut), có nguyên nghĩa là cứu, hay ơn cứu độ, tổ tiên ta đã dùng một từ dễ hiểu hơn, là phần rỗi, hay việc rỗi linh hồn. Từ rỗi ở đây chỉ có thể là rảnh rang, thong thả, nhàn nhã. Phần rỗi đó chính là cứu cánh của việc giữ đạo Thiên Chúa. Tinh thần của sách giáo lý cũ và cách dịch chữ SALUS của tổ tiên ta chứng tỏ tổ tiên ta đã có trước những ý niệm mà sau này các nhà thần học vui nhàn chủ trương, tức coi sự vui chơi nhàn nhã là cứu cánh tối hậu của hiện hữu không thể là gì khác hơn là sự nhàn nhã vui chơi, và cứu cánh tối hậu ấy cũng chính là Thiên Chúa. Sự nhàn nhã, vui chơi, thoải mái, hạnh phúc, tự do đều nằm trong bản tính của Thiên Chúa. Nếu cứu cánh cuối cùng của con người là nhàn nhã vui chơi, và nếu để được nhàn nhã vui chơi phải làm việc, thì đương nhiên giai đoạn hiện tại, tức cuộc sống đời này, chúng ta phải làm việc, phải giữ đạo thánh Ðức Chúa Trời cho nghiêm chỉnh như một phương tiện cần thiết để đạt được cứu cánh tối hậu kia. Và vì cứu cánh tối hậu của công việc, của việc giữ đạo là vui chơi nhàn nhã, nên chúng ta cần phải làm việc và giữ đạo trong tinh thần nhàn nhã vui chơi đó, để công việc, sự giữ đạo của chúng ta trở nên nhẹ nhàng thoải mái vui tươi hơn. Nghĩa là chúng ta có thể coi cuộc sống đời này, với các bổn phận, trách nhiệm, công việc phải làm, như một trò chơi lớn mà người thắng cuộc sẽ được vinh thưởng sau khi trò chơi kết thúc. Việt Nam, tháng 6 năm 1995, Nguyễn Chính Kết Ðể Vui Cười Tôi không muốn nên trọn lành theo kiểu trọn lành của con người. Tôi không muốn tạo ra trong tôi một lương tâm hành xử như một cảnh sát đứng ở mọi ngã đường để rình bắt những tên tội phạm đi ngang qua. Tôi không muốn mệt mỏi một cách thảm sầu vì ngày đêm cứ phải đo đạc, tính toán, cưa, đẽo, bào đục, để biến khúc cây sần sùi, lắm mắt thành một cỗ quan tài chôn xác chết. Tôi muốn nên toàn thiện theo kiểu toàn thiện của Cha trên Trời. Ngài có luật lệ mà cũng có vui chơi thoải mái. Tác phẩm của Ngài đâu phải chỉ là các thiên thần sáng láng mà còn là những con bướm; không chỉ là trời, sao, cùng muôn vì tinh tú lúc nào cũng sẵn sàng vâng phục, mà còn là lửa, là gió, là những đám mây bất định thất thường. Ngài vui đùa với những bông hoa. Những đuôi con sóc, lông con công, chân con cò, vòi con voi, bướu lạc đà; Ngài sáng tạo ra là để vui cười, nếu không phải để vui cười thì để làm gì? Và nếu Ngài tìm thấy vui thú, có thể như vậy, nơi một tu sĩ thánh thiện đang ngày đêm hy sinh, cố gắng tuân giữ kỷ luật, thì chắc chắn Ngài cũng sẽ chúc lành bằng một nụ cười cho con dê đang nhảy múa, cho con gà đang ấp, cho con dê đực râu dài đang chồm lên con dê cái bạn nó. Tôi muốn tâm hồn mình, cũng như tất cả các công trình của tôi, vừa có trật tự mà cũng vừa mang tính lãng mạn ngông cuồng (fantaisie). Marie Noel Notes intimes, Ed. Stock. (Trích trong tự điển THÉO, mục Jeux) Tiếu Diện dịch Tác giả Nguyễn Chính Kết (hết)
-
3. THẦN HỌC VUI NHÀN (théologie des loisirs) Ngày nay, tuy máy móc và tiện nghi kỹ thuật đã giảm cho con người biết bao nhiêu công việc, nhưng con người chẳng nhàn hạ rãnh rỗi hơn xưa, trái lại còn bận bịu tất bật hơn. Vì văn minh tiến bộ một mặt giảm bớt cho con người biết bao nhiêu việc cũ, mặt khác lại gia tăng gấp bội những công việc mới. Vì thế, trong lịch sử con người, chưa bao giờ con người lại bận bịu công việc như ngày nay. Nước nào càng văn minh, càng kỹ nghệ hóa cao, thì dân nước đó càng phải chạy đua với công việc, tất bật với công việc tới độ căng thẳng. Vì thế, con người càng ngày càng ý thức được sự cần thiết của thời giờ rảnh rỗi, của vui đùa giải trí, của thư giãn...Trong chiều hướng tái khám phá nhu cầu và giá trị nhân bản của việc vui chơi giải trí của con người, về mặt tôn giáo, người ta cũng tái khám phá chiều kích tâm linh của vui chơi, giải trí, và sự cần thiết của nó đối với tâm linh. Từ đó, trong Giáo Hội, phát sinh ra "Thần Học về nhàn nhã vui chơi", tìm hiểu chiều kích vui chơi của con người, của Giáo Hội, của Thiên Chúa. Một trong những thần học gia đầu tiên của thần học này là Hugo Rahner (Anh của thần học gia Karl Rahner). Ông đã tái khám phá trong linh đạo của Thánh Tôma Aquinô căn bản của lập trường Kitô giáo về hoạt động vui chơi của con người. Theo ông, sự vui chơi chính là một nguyên lý để giải thích và chú giải mặc khải Kitô Giáo. Ông đi từ Homo Ludens (con người vui chơi) đến Deus ludens (Thiên Chúa cũng vui chơi) và Ecclesia ludens (Giáo Hội cũng vui chơi). Ông cho rằng việc sáng tạo cũng như cứu chuộc là một trò chơi của sự khôn ngoan Thiên Chúa. Ông lập luận như sau: Thiên Chúa dựng nên vũ trụ cũng như cứu chuộc để làm gì? Tại sao Ngài phải làm như vậy? Chúng ta làm hết việc này đến việc kia là do chúng ta muốn thỏa mãn một nhu cầu hay một thiếu thốn nào đó. Mà đã có nhu cầu, đã thiếu thốn thì có nghĩa là bất toàn. Thiên Chúa là Ðấng hoàn toàn, Ngài không thiếu thốn gì cả. Vì thế, không thể nói Ngài sáng tạo hay cứu chuộc vì một lý do nào khác ngoài tình yêu tự do vượt khỏi mọi tất yếu. Tình yêu đó khác với tình yêu của con người. Con người yêu thương vì có nhu cầu yêu và được yêu, hay vì sự hấp dẫn lôi cuốn (nét đẹp, sự thiện hảo) của đối tượng yêu. Ngài yêu thương không vì một lý do nào cả, không vì nhu cầu yêu thương hay vì vẻ hấp dẫn của đối tượng yêu, cũng không phải vì nhu cầu giải trí do trí tuệ bị mệt mỏi. Ngài yêu vì Ngài muốn yêu, Ngài hoạt động vì Ngài muốn hoạt động. Do đó, tình yêu cũng như hoạt động của Ngài mang tính cách vui chơi, hoàn toàn tự do. Theo các sách khôn ngoan trong Kinh Thánh, theo truyền thống các giáo phụ và các nhà thần bí, việc tạo dựng vũ trụ là một trò chơi, trong đó, Ngôi Lời (Logos) dấn thân vào trong thế giới để làm cho Thiên Chúa Cha vui thú. Vì thế, cuộc sáng tạo la một vũ khúc vũ trụ (danse cosmique), và vũ trụ là một trò chơi đang tiếp diễn của Ngài, một trò chơi vĩ đại, trong đó Thiên Chúa đang vui đùa. Thánh Kinh không ngần ngại dùng từ "vui đùa", "vui chơi" để mô tả hoạt động sáng tạo của Thiên Chúa. Sách Châm Ngôn mô tả: Sự Khôn Ngoan vốn ở luôn bên cạnh Ðấng Sáng Tạo "hằng ngày làm cho Ngài được vui thú và luôn luôn vui đùa trước nhan Ngài, và nơi trần gian cũng vui chơi và thích thú giữa con cái loài người" (Cn 8,30-31). Trong tinh thần đó, sự cứu chuộc, là cuộc sáng tạo mới, nói theo thuật ngữ của Thánh Kinh, cũng là một trò chơi của sự Khôn Ngoan Thiên Chúa. Trong đó Ðức Kitô, "bài thơ" của Chúa Cha, chính là sự vui chơi tuyệt hảo của Ngài. Thế giới của chúng ta cũng là một hý trường, trong đó Thiên Chúa đang nô đùa với chúng ta, chúng ta cũng đang nô đùa với Ngài. Hình ảnh một người cha nô đùa với con cái, cảm thấy thích thú khi làm cho chúng cười, là hình ảnh rất đẹp để diễn tả tình yêu vui nhộn giữa Thiên Chúa và con người. Và chỉ trong trò chơi vui nhộn ấy giữa cha con, sự thân tình mới được bộc lộ cao điểm. Thật vậy, người ta dễ gần gũi với nhau nhất khi vui chơi nô đùa với nhau. Khi cùng làm việc, người ta phải tôn trọng tôn ti trật tự trên dưới, nên có sự xa cách nhau do địa vị chức tước quyền hành. Nhưng khi vui đùa với nhau, tất cả mọi khoảng cách đều ngắn lại, sự thân thiện phát sinh khiến mọi người cảm thấy gần gũi nhau. Vì thế, nhìn Thiên Chúa như một người Cha đang nô đùa với chúng ta, ta sẽ cảm thấy Ngài gần gũi thân mật với chúng ta hơn bao giờ hết. Nếu Ngài đang nô đùa với chúng ta thì thái độ thích hợp nhất của chúng ta là cùng nô đùa với Ngài, làm cho Ngài thích thú. Thái độ nghiêm trang quá đáng đối với Thiên Chúa cũng như đối với mọi người không phải là thái độ thích hợp. Ðức Kitô đã không có thái độ như thế. Thần học gia H. Cox, trong một tiểu luận thần học (La fête des fous, Paris 1971, p.173), đã mô tả Ðức Giêsu như một người hài hước vui tính. Một Ðức Giêsu vui tươi, linh động, hấp dẫn, để đến gần. "Như một người trào phúng, Ðức Kitô coi thường hủ tục, lề thói cũ, coi thường những người vẫn được người đời ca tụng nể vì. Như một thi sĩ lang thang, Ngài không có nơi gối đầu. Như một tay châm biếm chọc cười, Ngài chế giễu những quyền bính được người đời lập ra, bọn này lúc nào cũng sống xa hoa lộng lẫy bên cạnh đám dân nghèo thiếu thốn cùng khổ. Như một nhà thơ hát rong, Ngài tham dự các lễ hội và các buổi tiệc. Cuối cùng, những kẻ thù của Ngài đã dùng chính danh hiệu Vua, tạo thành một bức hoạt kê châm biếm chua chát (để trả thù những châm biếm của Ngài) và đóng đinh Ngài giữa những tiếng cười nhạo báng với bảng hiệu trên đầu Ngài (để trả thù những chế diễu của Ngài)..." Khi gán cho Ðức Kitô những nét đặc trưng của một người vui nhộn trào phúng, H. Cox muốn diễn tả một cái gì rất sâu xa và chính yếu. Thật vậy, Ðức Kitô là một sự hòa hợp toàn hảo giữa một tâm hồn hết sức nghiêm chỉnh, trong sáng, đúng đắn, với một phong thái hết sức ung dung, tự tại, tự do phóng khoáng, với cách ứng xử luôn vui tươi, thoải mái, hài hước, đùa giỡn, để hòa hợp với mọi người, để gần gũi được mọi người. Phong độ của Ngài khác hẳn với bọn Kinh Sư Do Thái. Bọn này bên ngoài thì nghiêm trang đúng đắn, trịnh trọng lễ nghi khiến người khác phải kính trọng khép nép, nhưng bên trong thì đầy quanh quéo, ẩn khúc, độc ác, kiêu căng, tư tưởng của họ chẳng đúng đắn chút nào. Ðức Kitô thích vui chơi thoải mái, thích tham dự những buổi tiệc, lễ lạc, hòa mình vào nếp sống người bình dân. Ngài không kiêng kị giao du với những người bị xã hội coi là tội lỗi, như bọn gái điếm, những người thu thuế, người Samari... Ngài rất ghét và thường châm biếm vẻ "ta đây", kiêu căng, khoe mẽ, tính câu nệ lề luật mà thiếu tình thương của giai cấp lãnh đạo tôn giáo. Ngài thích vui vẻ đùa giỡn, chơi chữ, thoải mái, đặt nặng tình người, lòng yêu thương bên trong và coi nhẹ những biểu lộ giả tạo bên ngoài của luật lệ, truyền thống, phong tục... Theo H. Cox, chỉ khi nào chúng ta có những cách hành xử chơi đùa (comportemente ludiques) về khía cạnh tôn giáo, chúng ta mới hiểu được ý nghĩa những hành động của Ngài. Các nhà thần học về nhàn nhã vui chơi cũng áp dụng tinh thần vui chơi đó vào Giáo Hội (Ecclesia ludens). Nhờ cái chết và sự phục sinh của Ðức Kitô, các Kitô hữu được giải phóng khỏi ách tội lỗi, ách của ma quỉ, của thần chết, của lề luật, của các u buồn. Nhờ vậy, Người Kitô hữu luôn sống trong niềm vui, tự do thoải mái, không bị ràng buộc vào những ách đau buồn đó. Ðược giải phóng khỏi những ách đó, tương quan giữa Giáo Hội và Ðức Kitô là tương quan vợ chồng, với tất cả những quan hệ yêu đương, những vui thú của tình yêu. Sách Nhã Ca đã tả chân mối tương quan đầy vui chơi và lạc thú đó. Thoát khỏi ách tội lỗi, ma quỉ, lề luật; tương quan giữa con người với Thiên Chúa là tương quan Con với Cha. Hình ảnh hai cha con vui vẻ đùa giỡn với nhau trong yêu thương chính là hình ảnh lý tưởng chân thực, diễn tả tương quan đúng đắn nhất giữa con người với Thiên Chúa... Quan niệm như thế, Giáo Hội không phải là một cộng đoàn chỉ biết nghiêm chỉnh làm việc, mà là một Ecclesia ludens (Giáo Hội vui chơi) đầy sức sống, đầy vui tươi hoan lạc. Giáo Hội là bí tích của Nước Trời, mà Nước trời đã được Thánh Kinh mô tả như một yến tiệc linh đình, một hình thức vui chơi thoải mái. Chỉ trong tinh thần vui chơi nhàn nhã này, sứ điệp mà Giáo Hội rao giảng mới đích thực là Tin Mừng, cái tin làm cho mọi người nghe đều vui tươi phấn khởi. Chắc chắn vào thời cánh chung, Ecclesia celesta (Giáo Hội trên trời) phải là Ecclesia ludens một Giáo Hội đầy vui tươi hoan lạc. Viễn ảnh đó vừa là hy vọng, vừa là điều Giáo Hội trần gian phải cố gắng đạt tới ngay ở đời này. Giáo Hội trần gian phải phần nào là một Ecclesia ludens đầy nét tươi vui hấp dẫn để các con cái mình phần nào hưởng nếm trước niềm vui của cái cứu cánh mà cả Giáo Hội đang đi tới. Con người được Thiên Chúa dựng nên để hưởng hạnh phúc chứ không để chịu đau khổ, để vui chơi hưởng nhàn chứ không để bận rộn làm việc. Nếu có làm việc thì chỉ là để vui chơi: làm việc cũng là một thứ trò chơi. Nhưng từ khi tội lỗi xen vào đời sống con người, đau khổ cũng xen vào như một hậu quả tất yếu, và sự làm việc trở thành khó khăn như một hình phạt, và con người bị bó buộc phải làm việc để sống. Việc làm đã mất đi sự vui thú của nó. Thiên Chúa cũng làm việc, các thiên thần cũng làm việc, nhưng cảm thấy vui thú trong công việc. Làm việc để vui thú, việc làm trở thành một trò vui hơn là một nhu cầu bắt buộc. Nhất là khi động lực để làm việc là tình yêu, làm việc để làm cho người yêu hạnh phúc. Một cô gái thêu một chiếc khăn tay, đan một chiếc áo len để tặng cho chàng trai mình yêu tha thiết, thì công việc đó là một niềm vui, cô cảm thấy hạnh phúc khi làm việc đó. Nhưng nếu cô bị ép buộc phải làm việc đó cho một người cô ghét cay ghét đắng, thì cũng là công việc y như vậy mà cô lại cảm thấy nặng nhọc như một hình phạt. Vấn đề chỉ là có hay không có tình yêu mà thôi. Tội lỗi hay tình trạng thiếu tình yêu chính là nguyên nhân khiến cho con người thấy công việc thành nặng nhọc, không còn là một trò vui thú nữa. Do đó, củng cố tình yêu nơi bản thân, coi công việc là một cách để làm cho người mình thương yêu, Thiên Chúa, tha nhân, được vinh quang, hạnh phúc, ta sẽ thấy việc làm trở thành một niềm vui, một trò vui chơi. Như vậy, công việc là một điều vui thú hay là một gánh nặng, chủ yếu là do thái độ nội tâm của ta hơn là do chính công việc. Vậy, giải phóng mình khỏi sự nặng nhọc buồn chán của công việc, khỏi ách nô lệ công việc, không gì bằng giải phóng nhãn quan của mình về công việc, nghĩa là phải thay đổi cách nhìn cũng như quan niệm của mình về công việc. Ðừng nhìn nó như một cách quá nghiêm chỉnh, coi công việc là công việc với tất cả tính nghiêm trọng của nó. Cách nhìn đó làm ta mất hết hứng thú thậm chí làm đầu óc ta căng thẳng và làm khả năng ta tê liệt. Hãy coi công việc mình làm như một trò tiêu khiển, và cũng như một đứa trẻ, hễ chơi trò này mệt thì đổi sang trò chơi khác. Một linh mục khi "chơi trò" nghiên cứu kinh thánh hay soạn bài giảng thấy mệt thì chuyển sang "trò" đi thăm giáo dân hay ra nhà nguyện "vui đùa" với Cha mình. Một tu sĩ cảm thấy chán và mệt với "trò" học hành, hãy chuyển sang "trò" viết thư thăm gia đình hoặc bạn bè. Nói chung, lấy trò này để giải trí cho trò kia, dùng việc nhẹ để tiêu khiển sau khi làm một việc nặng. Nếu tội lỗi khi đi vào thế gian đã biến sự làm việc thành một gánh nặng, một sự buồn chán, thì khuynh hướng đi ngược lại, tức biến công việc thành niềm vui, thành trò chơi, ắt là một khuynh hướng thánh thiện, tốt đẹp. Ðó cũng là một cách thánh hóa công việc, là vui đùa với Thiên Chúa bằng công việc mà mình vốn coi nó là trò chơi. Tính cách vui chơi và nghỉ ngơi được đặt rất nặng trong Kitô giáo nguyên thủy, thậm chí trong phụng vụ. Thật vậy, không có tôn giáo nào trên thế giới có nhiều ngày mừng lễ như trong Giáo Hội Công Giáo. Ngoài những ngày lễ lớn như Giáng Sinh, Phục Sinh... ngày nào trong tháng hay trong tuần, Giáo Hội cũng mừng lễ để kỷ niệm một biến cố nào đó trong lịch sử cứu độ hay lịch sử Giáo Hội, hoặc để mừng kính một vị thánh nào. Thời xưa, lễ thường đi liền với hội, nên người ta thường gọi là lễ hội. Lễ: có tính cách thờ phượng, phụng vụ; Hội: có tính cách vui chơi giải trí, để cụ thể hóa tinh thần mừng lễ. Hội là hội hè, đình đám, vui chơi. Vì thế, trong ngôn ngữ phụng vụ của Giáo Hội, các ngày trong tuần đều được gọi là FERIA (nguyên thủy có nghĩa là ngày nghỉ lễ): Feria prima hay Dies Dominica (ngày thứ nhất hay Chúa Nhật), Feria secunda (thứ hai)... Chỉ có ngày thứ bảy là vẫn giữ danh từ Cựu Ước tức Sabbat (cũng là ngày nghỉ lễ). Ðiều đó cho thấy quan niệm của Giáo Hội xưa coi ngày nào trong năm phụng vụ cũng là ngày lễ nghỉ cả, đều là ngày để ăn mừng một điều gì đó. Do đó, bầu khí vui chơi ăn mừng có quanh năm suốt tháng. Ðiều đó thật hợp với ý nghĩa của hai chữ Tin Mừng (Tin làm vui mừng). Vì Giáo Hội Công Giáo là Giáo Hội rao giảng Tin Mừng, nên Tin Mừng đó phải làm cho mọi người trong Giáo Hội vui mừng trước đã. Thật vậy, rao giảng Tin Mừng với tâm trạng chẳng vui mừng gì cả, làm sao ta có thể làm người nghe cảm nhận thực sự đó là Tin Mừng? Do đó, Giáo Hội Công Giáo phải là một Giáo Hội lúc nào cũng vui mừng, cũng mừng lễ, cũng vui nhộn, ca hát... để biểu lộ đức tin đáng vui mừng của mình: Vui mừng vì được cứu độ. Còn gì đáng vui bằng điều đó? Chúa Giêsu đã chẳng bảo các môn đệ: "Anh em chớ vui mừng vì quỉ thần phải khuất phục anh em, mà hãy vui mừng vì tên của anh em đã được ghi trên Trời" (Lc 10,20) sao? Ngày nay, do việc kỹ nghệ hóa, đô thị hóa, đời sống của các Kitô hữu cũng như mọi người khác trở nên bận rộn, tính chất hội hè vui chơi mang tính cộng đồng của ngày lễ càng ngày càng suy giảm. Vì thế, Giáo Hội hiện nay có vẻ như chỉ có lễ mà không có hội, phụng tự chỉ còn tính cách trang nghiêm mà mất đi tính cách vui đùa giải trí! Âu cũng là một điều mất hứng thú! Người Cha trong gia đình thường nghe những tiếng cười ròn rã của đàn con nô đùa không kém gì thấy chúng nghiêm chỉnh làm việc. Và chắc hẳn không ưa chúng cứ nô đùa hoài hoặc chỉ biết nghiêm trang làm việc mà thôi. Cha trên Trời chắc hẳn không khác! Mất đi tính vui chơi, việc phụng tự đã mất đi nhiều ý nghĩa quan trọng và nét tươi vui phải có của nó! Tác giả Nguyễn Chính Kết (còn tiếp)
-
2. TINH THẦN VUI NHÀN <h1 align="center">(vui chơi - nhàn nhã)</h1>Lý thuyết là như thế, ai cũng biết việc nghỉ ngơi giải trí là cần thiết. Nhưng đối với ai phải đảm nhận nhiều trách nhiệm, nhiều khi không có đủ thời giờ để làm cho xong những công việc phải làm, đôi khi rất cấp bách phải hy sinh cả thời giờ nghỉ đêm để thức khuya làm việc, thì đào sâu ra thời giờ để vui chơi giải trí? Ông Trời công bằng một cách bất công ở chỗ: người phải làm nhiều việc hay ít, và dù nhiều hay ít việc tới đâu thì ai cũng được cung cấp đúng 24 giờ một ngày, không ai được thêm hay bị bớt đi phút nào. Vì thế, có người tha hồ mà nghỉ ngơi vui chơi giải trí, có người phải xếp đặt khôn khéo mới có thời giờ đó, và cũng có người tìm được thời giờ để nghỉ ngơi giải trí thì thật là khó khăn. Như đã nói ở trên, những người này cũng phải "can đảm" dứt bỏ công việc để nghỉ ngơi giải trí mỗi khi cảm thấy mệt mỏi vì quá rán sức. Nếu không "dứt" công việc thì công việc cũng sẽ "dứt" mình, nên thà rằng mình "dứt" công việc còn hơn để nó "dứt" mình. Tuy nhiên cũng có cách để những người này có thể vui chơi giải trí mà không cần phải dành ra thời giờ rõ rệt để làm chuyện đó. Họ nên áp dụng tinh thần vui nhàn của Nguyễn Công Trứ: "Tri nhàn tiện nhàn, đãi nhàn hà thời nhàn?" (Biết nhàn thì đã là nhàn rồi, còn cứ chờ lúc được nhàn thì biết đến bao giờ mới nhàn?). Biết nhàn ở đây nghĩa là biết cách nhàn, có tinh thần nhàn, thì dù có bận bịu công việc vẫn giữ được tâm hồn ung dung thư thái, chứ không bị đảo điên tất bật vì công việc. Cũng như tự do và hạnh phúc, có thứ lệ thuộc vào những điều kiện bên ngoài, có thứ tự tại, không lệ thuộc vào điều kiện nào cả. Nhiều người nói: Tôi phải được thế này thế kia thì tôi mới tự do, mới hạnh phúc. Tự do mà phải tùy thuộc vào điều kiện này điều kiện kia thì đâu có phải là tự do đúng nghĩa! Tự do đích thực là tự do bất chấp điều kiện nên ngoài: cho dù ở tù vẫn cảm thấy tự do. Hồ Chí Minh đã nói đến thứ tự do đó trong câu: "Còn lại trong tù khách tự do" (bài "Vào nhà lao huyện Tĩnh Tây"). Muốn thế thì phải "Thân thể ở trong lao" nhưng "tinh thần ở ngoài lao" (bài "Nhật ký trong tù"). Hạnh phúc cũng vậy, có nhiều người nghĩ rằng phải có tiền mới có hạnh phúc được. hạnh phúc đó quả mỏng manh và tạm bợ, vì khi nào không còn tiền thì cũng không còn hạnh phúc. Nhưng vẫn có những người lúc nào cũng hạnh phúc vì lúc nào cũng thấy "tên mình đã được ghi trên trời" (Lc 10,20). Hạnh phúc như thế thì trong hoàn cảnh nào cũng vẫn hạnh phúc. Ðó là hạnh phúc không điều kiện. Tự do và hạnh phúc không điều kiện như thế là những thái độ nội tâm, biết tự bằng lòng với chính mình, không để nội tâm của mình lệ thuộc vào hoàn cảnh bên ngoài. Tương tự như vậy, nhàn nhã cũng có hai thứ: thứ có điều kiện và thứ không lệ thuộc điều kiện. Nhiều người chỉ cho mình là nhàn khi không phải làm việc nhiều, không phải bận tâm nhiều việc, khi có nhiều thì giờ rảnh rang. Nhưng vẫn có những người tuy bận rất nhiều việc, gánh trên vai nhiều trách nhiệm, lúc nào cũng thấy làm việc không ngừng, nhưng luôn cảm thấy tâm hồn an nhiên thư thái, thái độ lúc nào cũng ung dung tự tại, nét mặt luôn luôn vui tươi, không khác gì một người lúc nào cũng nhàn nhã. Họ không cần phải dành thì giờ để vui chơi giải trí, vì họ đã vui chơi giải trí cho chính công việc của họ. Ít khi họ cảm thấy mệt nhọc vì công việc, vì đối với họ, họ đâu có làm việc. Công việc chính là trò chơi, là trò giải trí của họ. Cần gì phải giải trí bằng cách khác. Ðối với họ, trách nhiệm cũng chỉ là trò chơi giải trí, là một thách đố gây cho họ nhiều cảm hứng thích thú. Chu toàn trách nhiệm đã lãnh nhận hay thành công trong việc có nghĩa là họ đã thắng trong cuộc chơi. Thất bại hay không làm tròn trách nhiệm, dù đã cố gắng tối đa, thì cũng chỉ là thua cuộc, có gì là nghiêm trọng mà phải buồn phiền hay đặt thành vấn đề? Họ thấy trên đời chẳng có gì là nghiêm trọng khiến họ phải mất bình an trong tâm hồn. Tất cả đều chỉ là trò chơi, và cả cuộc đời là một trò chơi lớn. Nếu họ có phải dồn hết năng lực vào việc gì thì không phải vì họ coi việc đó là nghiêm trọng, mà vì họ cảm thấy "trò chơi" đó đáng cho họ dồn hết năng lực để thắng cuộc. Tất cả đều chỉ là trò chơi, đều nhắm mục đích đem lại vui thú, hạnh phúc và thoải mái cho con người. Và người đầu tiên sáng tác ra mọi thứ vui chơi ấy chính là Thiên Chúa. Vì tình thương đối với mọi tạo vật, nhất là với các thiên thần và loài người, Ngài đã mời gọi tất cả tham dự vào cuộc chơi vĩ đại ấy, để chính Ngài và tất cả mọi tạo vật đều được một phen vui chơi thỏa thích, làm cho cuộc hiện sinh của mình có ý nghĩa. Còn mục đích nào đúng đắn cho sự hiện hữu của chính Ngài và cho tất cả mọi chúng sinh bằng để tất cả đều được hạnh phúc, đều được vui đùa với nhau trong tình yêu thương lẫn nhau? Và cũng không có gì làm cho mọi người được vui tươi, hạnh phúc và thoải mái bằng nô giỡn với nhau! Ðối với người coi tất cả mọi sự đều chỉ là trò chơi, thì có điều gì được coi là quan trọng ngoài tương quan thân thiện giữa những người cùng chơi với nhau, trong đó có Thiên Chúa và tất cả mọi loài chúng sinh? Thắng bại trong trò chơi cũng là chuyện khá quan trọng mà ai cũng tự nhiên lưu tâm tới, nhưng đâu quan trọng bằng cái tình thương giữa những người cùng chơi! Luật chơi, tức những luật tự nhiên cũng như những luật thiết định mà Thiên Chúa, nguòi sáng tác ra trò chơi, lập ra để chơi, cũng là chuyện quan trọng thứ yếu. Chính vì muốn trò chơi được đúng đắn và đem lại sự vui tươi tối đa mà mọi người cần tôn trọng luật. Ðương nhiên ai lỗi luật chơi thì cũng cần phải chịu một hình phạt nào đó xứng hợp, giống như trong mọi trò chơi do loài người lập ra. Quan niệm rằng mọi việc trong cuộc đời, ngay cả cuộc đời, thậm chí cả những chương trình vĩ đại của Thiên Chúa đều chỉ là những trò tiêu khiển, quan niệm đó giúp ta có một thái độ bình tâm, ung dung, nhàn nhã và vui tươi trước cuộc sống. Nó cũng giúp ta có một tinh thần siêu thoát, tâm hồn không bị vướng vào những thực tại trần tục. Vì thế cuộc đời lúc nào cũng thơ thới hân hoan, không có gì đáng phải buồn phiền, luôn luôn thấy mình sướng như tiên, dù hoàn cảnh bên ngoài có khó khăn. Ðã là trò chơi ắt phải có tính thách đố, nghĩa là phải có khó khăn để vượt qua. Nếu không có khó khăn để thách đố, thì đó là thứ trò chơi "lãng nhách" nếu không muốn nói đó không còn là trò chơi nữa. Trò chơi nào cũng phải có cái khó của nó. Chính cái khó đó mới làm cho trò chơi trở nên hấp dẫn. Người ham chơi đích thật càng ngày càng muốn dấn thân vào những trò chơi khó hơn. Và niềm vui của trò chơi chính là thắng vượt được khó khăn. Khó khăn càng lớn thì người thắng cuộc càng vinh quang. Do đó, càng khó khăn thì càng nên hứng chí, lẽ nào buồn phiền chán nản? Quan niệm mọi sự chỉ là trò chơi và thực sự sống theo quan niệm đó là một thứ linh đạo cao cấp và hết sức đúng đắn, vì quan niệm đó rất chí lý. Ðương nhiên không thể tránh khỏi có những người quá nghiêm trang đến độ không thể coi quan niệm này là đúng đắn được. Họ thích nghiêm trang đạo mạo và hay quan trọng hóa mọi chuyện. Vì thế, trí óc họ bị căng thẳng khiến họ dễ bực bội quạu quọ với người khác, đồng thời làm mồi cho những căn bệnh nan y có nguyên nhân tâm lý. Ðể đề phòng đồng thời chữa trị những chứng bệnh ấy, khoa tâm lý thời nay đề nghị phương thức "hài hước trị liệu" (Humour therapy). Nhưng hài hước và pha trò đối với họ quả là khó vì họ không thích và không quen làm mất đi vẻ nghiêm trang, đạo mạo, "đúng đắn" của họ. Họ có vẻ đạo đức và thánh thiện, thánh thiện cách nghiêm trang hơn là vui vẻ. Các nhà tu đức học nói về họ: "Un saint triste est un triste saint" (Thánh mà buồn là thánh đáng buồn), và "Sanctus videtur sed non est" (Có vẻ là thánh mà không phải), đang khi những vị thánh thật sự thì lại "Sanctus non videtur sed est" (Không có vẻ thánh mà hóa ra là thánh). "Linh đạo vui chơi nhàn nhã" này được các nhà "thần học vui nhàn" (thần học về nhàn nhã vui chơi) ủng hộ và đặt nền tảng cho nó. Tác giả Nguyễn Chính Kết (còn tiếp)
-
PHOENIX giới thiệu bài viết: Văn hóa và tộc người - Nguồn:http://www.vanhoanghethuat.org.vn Văn hoá và Tộc người NGUYỄN TỪ CHI 1. Cõi sống và cõi chết trong quan niệm của người Mường 2. Phần thần thoại trong Đẻ đất đẻ nước 3. Xung quanh hình thức khai thác ruộng lang 4. Cạp váy Mường 5. Hoa văn cạp váy, hoa văn hình học 6. Món ăn Huế, món ăn Mường 7. Từ Theng wang Mường thắc mắc về thành hoàng Việt 8. Vua Chủ 9. Cơ cấu tổ chức làng Việt cổ truyền ở Bắc Bộ 10. Dân chủ làng xã 11. Làng xã Hương Sơn 12. Nhận xét bước đầu về gia đình của người Việt 13. Mặt trời với nghi lễ trên nương của người Mãng (Mạng Ư) ở Tây Bắc Việt Nam 14. Hoa văn các dân tộc Giarai - Bana 15. Thăm "nhà mã" Bana - Giara 16. Những tiêu cực lộ ra qua nếp sống văn hoá ở Tây Nguyên 17. Từ định nghĩa của văn hoá 18. Nhân đọc Múa thiêng 19. Từ một vài trò diễn trong lễ hội làng 20. Quanh chuyện cảnh quan và bộ mặt tộc người 21. Mỹ thuật cổ trong sự nghiệp xây dựng con người mới
-
CÁI SỐNG VÀ CÁI CHẾT TRONG QUAN NIỆM CỦA NGƯỜI MƯỜNG “§ªm nay Ngµy nµy T«i dËy KÓ chuyÖn xöa cho ngöêi nghe Nãi vÌ xöa cho ngöêi hay Mai sau Cã ngµy ¨n c¬m uèng röîu Ngöêi kh¸c chuyÖn cïng ®êi...” (Më ®Çu mo §Î ®Êt ®Î nöíc: lêi bè Mo nãi víi ngöêi chÕt) Trong khu«n khæ cuéc vËn ®éng c¶i c¸ch phong tôc tËp qu¸n, mét mÆt quan träng cña c«ng t¸c v¨n hãa ë miÒn nói, nh÷ng ®ång chÝ l·nh ®¹o c¸c cÊp, mµ chóng t«i cã dÞp tiÕp xóc trªn ®Þa bµn Möêng (Hßa B×nh), ®Òu ®Æc biÖt quan t©m ®Õn viÖc c¶i t¹o tËp tôc ma chay vµ cöíi xin. C¶i c¸ch tang lÔ cßn ®öîc coi träng h¬n c¶i c¸ch h«n lÔ. Thùc vËy, trong sinh ho¹t t«n gi¸o vµ x· héi cæ truyÒn cña ngöêi Möêng, ma chay lµ dÞp g©y tèn kÐm nhiÒu nhÊt: tèn tiÒn cña, tèn søc ngöêi, tèn th× giê. Ch¼ng nh÷ng thÕ, nh×n döíi gãc ®é chèng mª tÝn vµ gi¸o dôc chñ nghÜa v« IthÇn, tang lÔ lµ mét trong nh÷ng nghi lÔ t«n gi¸o “®Ëm ®Æc” cña ngöêi Möêng, lµ h×nh th¸i kh¸ tËp trung cña mª tÝn dÞ ®oan cæ truyÒn. Nhöng, nhö mäi nghi lÔ lín cña bÊt cø d©n téc nµo, tang lÔ Möêng cßn thÓ hiÖn, trªn lÔ tiÕt, nh÷ng quan niÖm vò trô vµ nh©n sinh quen thuéc cña d©n téc. Dï kh«ng thiÕu chç lÖch l¹c, c¸c quan niÖm Êy ®· b¾t rÔ l©u ®êi vµo t©m kh¶m cña ngöêi Möêng, lµ chÊt liÖu gãp phÇn x©y dùng nªn c¸i mµ nhiÒu nhµ d©n téc häc gäi lµ “mèi céng c¶m” cña mét d©n téc. Kh«ng thÓ nhÊt ®¸n xãa bá tÊt c¶ b»ng biÖn ph¸p hµnh chÝnh. Bªn c¹nh nh÷ng quan niÖm lçi thêi, nh÷ng tËp tôc l¹c hËu, tang lÔ Möêng cßn bao hµm nhiÒu gi¸ trÞ tiÕn bé cña di s¶n v¨n hãa d©n téc, mµ ngöêi Möêng hiÖn nay mong kÕ thõa vµ ph¸t huy mét c¸ch h÷u Ých trªn böíc ®öêng x©y dùng chñ nghÜa x· héi. Mèi t×nh g¾n bã ngöêi sèng còng nhö ngöêi chÕt víi ®Êt, nöíc, xãm, möêng(1) - böíc ®Çu cña t×nh yªu nöíc, tinh thÇn chèng ¸p bøc to¸t ra tõ mét sè lÔ ca, chØ lµ vµi tØ dô gi÷a nhiÒu tØ dô kh¸c. CÇn xãa bá nh÷ng g× vµ gi÷ l¹i nh÷ng g×? §ã lµ c©u hái mµ mét sè ®ång chÝ ë Hßa B×nh ®· nªu lªn khi trao ®æi víi chóng t«i. Qua bµn b¹c, c¸c ®ång chÝ còng nhÊt trÝ víi chóng t«i r»ng, tröíc khi quyÕt ®Þnh xãa bá hay gi÷ l¹i, viÖc tröíc m¾t râ rµng lµ ph¶i t×m hiÓu xem cã “nh÷ng g×”. NghÜa lµ ph¶i ®iÒu tra d©n téc häc vÒ tang lÔ, kh«ng nh÷ng ghi chÐp tØ mØ c¸c lÔ tiÕt, mµ cßn th«ng qua lÔ tiÕt rót ra nh÷ng quan niÖm vµ kh¸i niÖm Èn n¸u bªn sau. Trªn c¬ së hiÓu biÕt ®ã, c¸c ®ång chÝ ë Hßa B×nh sÏ cïng nh©n d©n Möêng gi¶i quyÕt thÝch ®¸ng vÊn ®Ò “xãa bá nh÷ng g× vµ gi÷ l¹i nh÷ng g×”. Chóng t«i tin töëng nhö vËy. Tµi liÖu ng¾n nµy chØ nh»m gãp phÇn rÊt nhá vµo c«ng t¸c “g¹n ®ôc kh¬i trong” cña c¸c ®ång chÝ ë Hßa B×nh, b»ng c¸ch tr×nh bµy l¹i nh÷ng quan niÖm cæ truyÒn cña ngöêi Möêng vÒ “câi sèng” vµ “câi chÕt”, trong chõng mùc chóng t«i th¨m dß ®öîc qua kh¶o s¸t tang lÔ. VÊn ®Ò nµy chöa ®öîc nh÷ng ngöêi nghiªn cøu d©n téc Möêng tröíc kia ®Ò cËp ®Õn(2). “Câi sèng” vµ “câi chÕt” nãi ®©y kh«ng ph¶i lµ nh÷ng thµnh phÇn cña mét häc thuyÕt trõu töîng vÒ vò trô vµ nh©n sinh, kÕt qu¶ tö biÖn cña mét tÇng líp t¨ng l÷. Chóng t«i chØ muèn nãi ®Õn thÕ giíi cña ngöêi sèng vµ thÕ giíi dµnh cho tinh linh, trong quan niÖm d©n gian cña ngöêi Möêng tröíc ®©y, råi tõ ®ã t×m hiÓu sè phËn cña linh hån khi con ngöêi ®· t¾t thë, nh÷ng böíc ®öêng cña linh hån tõ “câi sèng”®Õn “câi chÕt”. Con ®öêng Êy biÓu hiÖn qua c¸c lÔ tiÕt tang ma. Tuy nhiªn, trong giíi h¹n cña mét bµi t¹p chÝ, chóng t«i sÏ kh«ng miªu t¶ c¸c lÔ tiÕt nèi tiÕp nhau, mµ chØ hy väng r»ng diÔn biÕn c¬ b¶n nhÊt cña ®¸m tang Möêng sÏ lé phÇn nµo qua viÖc tr×nh bµy c¸c quan niÖm(3). (con tiếp)
-
"Sống hểt mình" là cuốn sách được dịch giả Lê Công Đức dịch từ nguyên bản tác phẩm LIVING LIFE FULLY. Thiết nghĩ đây cũng là một thông điệp hay. Phoenix chia sẻ tài liệu sưu tầm được cùng ACE. Nguồn: http://www.dunglac.org SỐNG HẾT MÌNH Lê Công Đức dịch từ nguyên bản LIVING LIFE FULLY, Requisites for Personal Growth and Change (New Edition, 2000) của EARNEST L. TAN do Spiritus Works Publication xuất bản to all who seek personal freedom and desire to live life to the full ... with you I share this work! --------------------------------------------------------------------------------- [/size] lời tựa Chỉ trẻ con mới có thể Sống Hết Mình. Trẻ con không sợ sống con người thật của chúng. Chúng cảm nghĩ thế nào, chúng sẽ thoải mái và công khai biểu lộ ra y như vậy. Chúng biết rất rõ chúng thật sự là gì. Chúng không cảm nhận theo sắc dạng bề ngoài. Chúng không quan tâm đến chuyện mình là con gái hay con trai, mình thuộc Kitô giáo hay Hồi giáo, mình giàu hay nghèo. Đó là lý do tại sao trẻ con rất nhạy cảm và rất dễ bị tổn thương. Đó cũng là lý do tại sao Đức Giêsu nói rằng Nước Trời thuộc về các trẻ nhỏ. Trẻ con cũng giống các anh hề ở chỗ đối với chúng, những điều cấm kỵ của xã hội và những qui tắc thiêng thánh chẳng có được ‘gờ ram’ nào cả. Chúng nói huỵch toẹt sự thật, và chúng bám riết lấy sự thật. Những biểu tượng về địa vị và chức quyền của người lớn chẳng gây ấn tượng gì cho một đứa trẻ. Nó chỉ lắng nghe tiếng nói trong lòng nó, và nó chẳng lấy làm quan trọng những gì mà thế giới đánh giá cao. Như vậy, cả đứa trẻ và anh hề đều là những ngôn sứ. Giống như Đức Giêsu, đó là những ngôn sứ mang “dấu mâu thuẫn” (Lc 2,32) trong một thế giới cảm thấy bị đe doạ bởi cung cách đơn sơ và ngay thẳng của những ngôn sứ này. Điều dễ thương nơi một đứa trẻ không chỉ nằm ở tính cách vui tươi thoải mái của nó mà còn ở tinh thần lạc quan lì lợm của nó nữa. Trẻ em là biểu tượng của hy vọng. Chúng xây những lâu đài cát trên bãi biển và chúng cứ tiếp tục xây đi xây lại hoài, mặc cho các đợt sóng liên tục tràn vào quét sạch tất cả. Chúng ngồi đó, lì lợm xây lại lâu đài của mình, lì lợm hy vọng rằng những con sóng sẽ buông tha và công trình của mình sẽ đứng vững. Xem thế, trẻ em, các ngôn sứ, các thánh và các anh hề là những người sống hết mình, những người “sống dồi dào” đời mình. Thánh Irênê thật có lý để khẳng định rằng “Thiên Chúa được tôn vinh khi con người sống dồi dào”. Tôi yêu quí tập sách Sống Hết Mình, một quyển sách đậm tính ngôn sứ của Earnest, bạn tôi. Tôi thấy nơi anh một tâm hồn của đứa trẻ và một phong cách của anh hề với kinh nghiệm dạn dày. Fr. Ruben J. Villote ------------------------------------------------------------------------------------------------------------ NỘI DUNG lời tựa 4 lời giới thiệu 6 Chương một: Trồng cây nào, ăn quả nấy! 11 Chương hai: Nếu hạt lúa mì không thối đi 22 Chương ba: Hãy mở ra 33 Chương bốn: Dối trá! Dối trá! Ai ai cũng dối trá! 52 Chương năm: Một giấc mơ cho cuộc đời 71 Chương sáu: Khảo sát lòng mình 84 Chương bảy: Ở đây và bây giờ hay ở đó và lúc ấy 94 Kết luận 104 đôi dòng về tác giả 107 cùng một tác giả 108 Tác giả Lê Công Đức, Lm. (nguyên tác: EARNEST L. TAN)
-
KẾT LUẬN - ĐÔI DÒNG VỀ TÁC GIẢ Khi viết tập sách này, tôi cảm thấy rất phân vân. Tôi nghi ngờ khả năng của mình, nhất là trong việc viết một quyển sách về việc sống hết mình. Vì thế, như thường lệ, tôi gặp một số bạn hữu và tìm kiếm sự nâng đỡ nơi họ. Tôi cố gượng cười và nói: “Cậu biết không? Mình đang viết một cuốn sách về đề tài sống hết mình. Cậu nghĩ sao?” Đoán được rằng tôi không đủ tự tin, một trong các bạn tôi đã nói thẳng thắn: “Cậu không nghĩ rằng nguyên việc cố gắng viết về đề tài đó thì cũng đã là một cố gắng sống hết mình rồi sao?” Nhận xét đó đã có sức chặn đứng nỗi nghi ngờ chính mình nơi tôi. Tôi nhận ra rằng mình có khuynh hướng đánh giá không đúng mức về các tiềm năng của mình. Thật may mắn khi người bạn ấy đã giúp tôi biết nhìn sự việc bằng một cách khác. Chính quá trình viết quyển sách này là một kinh nghiệm giúp thanh toán cái tâm cảnh tiêu cực của tôi về chính bản thân tôi. Nhận xét ấy cũng nhắc tôi nhớ lại một nhận thức mà mình từng bắt gặp. Một trong những dấu hiệu lớn nhất cho thấy một con người đang sống hết mình, đó là đương sự có can đảm để dám đưa ra những tuyên bố và những hành động hậu thuẫn cho sự sống. Theo một nghĩa nào đó, quyển sách này là kết tinh của những tháng năm chiến đấu trong đời tôi. Giờ đây, tôi chia sẻ những suy tư của mình với bạn trong niềm hi vọng rằng một cách nào đó tôi có thể giúp bạn sống hết mình hơn. Một cách chủ yếu, quyển sách này khích lệ bạn đừng sợ đương đầu với chính mình và đừng sợ mạo hiểm để thể hiện một số nỗ lực nhằm biến đổi mình trở thành những con người tốt hơn. Mọi sự sẽ dễ dàng hơn nếu chúng ta đáp ứng các điều kiện đặt ra cho cuộc sống mình – đó là lãnh nhận trách nhiệm về đời mình; đó là tiếp tục đầu tư vào những cơ hội để phát triển; đó là biết cởi mở để vén mở con người mình ra, để thay đổi các tâm cảnh và phát huy các tiềm năng của mình; đó là có được sự thành thực tâm lý; đó là tránh dán nhãn hiệu cho mình và cho người khác; đó là không ngừng biện phân tất cả các kinh nghiệm sống của mình và rút ra bài học từ mỗi kinh nghiệm ấy; và đó là nhìn mọi sự trong nhãn giới của ‘ở đây và bây giờ’, của chính hiện tại này. Tôi tin rằng quyển sách này thành công hay không là tuỳ ở mức độ mà nó đẩy được bạn vào sâu hơn trong cuộc sống. Đó là mục đích của quyển sách. Tôi muốn nhắc lại với mình và với bạn rằng chúng ta không được phép phung phí cuộc sống này, cuộc sống đã được trao ban cho chúng ta. Bạn hãy cho phép tôi chấm dứt với một trích dẫn của Leo Buscaglia, một con người tràn đầy sức sống và tình yêu. Ơng nói: “Sống là một tiến trình năng động. Vì thế, nó chào mừng bất cứ ai đón nhận lời mời để trở nên một thành phần năng động của nó. Điều mà chúng ta gọi là bí quyết hạnh phúc chung qui chỉ là thái độ chúng ta sẵn lòng chọn lựa sự sống.” đôi dòng về tác giả Earnest L. Tan đang làm việc trong tư cách là một điều phối viên tự do, chuyên tổ chức những khoá hội thảo về TRƯỞNG THÀNH và LÀNH MẠNH. Anh cũng là một giảng viên chính thức tại Học Viện Mục Vụ Đông Aù (EAPI), Viện Xã Hội Á Châu (ASI), và Học Viện Cao Học Miriam (MGS). Anh từng là chuyên viên cố vấn và đảm nhận công việc huấn luyện cho Dự Án Đào Tạo Các Nhà Đào Tạo thuộc Chương Trình Phát Triển Giáo Dục Trung Học của DECS. Anh đã viết một số tài liệu nòng cốt cho dự án nói trên. Nguyên là một giáo sư tâm lý và là nhà hướng dẫn tư vấn, anh đã phục vụ tại nhiều cơ sở giáo dục như Đại Học Ateneo de Manila, Chủng Viện St. Camillus, Chương Trình Giáo Dục Người Lớn Miriam, Đại Học Holy Spirit, Đại Học San Beda, vv... Sinh tại Binondo, mang hai giòng máu Phi-luật-tân và Trung Hoa, anh lớn lên trong nền giáo dục của Dòng Tên, nhất là của Trường Xavier và Đại Học Ateneo de Manila. Anh chọn dấn thân vào lãnh vực tư vấn và đào tạo phát triển con người. Sống Hết Mình (Living Life Fully, bản hiệu đính) và nhiều tác phẩm khác cùng loại đã được anh giới thiệu mới đây – đặt nền cho tủ sách SPIRITUS WORKS PUBLICATION, một hoài bão mới của anh. Other Earnest L. Tan Books -HUMAN INTIMACY - An introduction to a process of journeying inward to understand the dynamics involved in personal growth and integration. -THE CLARIFICATION AND INTEGRATION OF VALUES - A manual that explains the valuing process and the strategies used in clarifying and integrating personal values. -HUMAN CREATIVITY - An overview and exploration of our creative potentials and accompanying exercises to release these potentials. -THE DEVELOPMENT OF SELF CONCEPT - An activity book on the dynamics of self-concept and on how we can build people and their sense of self-worth. -INSTRUMENTAL SKILLS IN THE VALUES DEVELOPMENT PROCESS (with Belen Mandin) - A resource book introducing the concept and significance of life skills as part of our basic education. -THE EMERGING FILIPINO (Integration) Book 4 - A Resource Book written by Earnest L. Tan that delightfully invites the readers to work out four essential aspects in their self: Personal Power, Possibilities, Passion for Life, and Perspective to Life Meaning. Refer to accompanying volumes – Books 1 to 3: Journeying, Breakthrough, Reaching Out. -HOW TO ATTRACT LOVE - A book of reflections on the factors that either facilitate or hinder us from attracting love in our lives, whether romantic or otherwise. -GENTLE PRESENCE - A meditative book to help you reflect more deeply on how we as persons significantly influence each other. Tác giả Lê Công Đức, Lm. (Hết)
-
CHƯƠNG VII: Ở ĐÂY VÀ BÂY GIỜ HAY Ở ĐÓ VÀ LÚC ẤY? (điều kiện 7: hoà hợp với hiện tại) Khi tôi nhìn lại quá khứ của mình với thái độ chấp nhận và tha thứ, tương lai của tôi dường như xanh lên màu hy vọng nhiều hơn. Và bấy giờ, tôi cảm nghiệm được niềm vui và an bình sâu xa hơn trong hiện tại. Một số trong chúng ta chìm đắm quá nhiều trong quá khứ; trong khi một số khác lại phóng mình quá nhiều vào tương lai. Cả hai trường hợp chúng ta đều đánh mất hiện tại và những cơ hội mà hiện tại cung ứng cho mình. Tôi có một anh bạn – là bố đẻ đứa con đỡ đầu của tôi. Khi anh nghe tin được tuyển đi làm ở nước ngoài, anh sung sướng tuyên bố: “Giờ đây mình có thể sắm cho con cái mình những gì mà mình không bao giờ có được hồi mình còn bé.” Quả thế, sau vài tháng làm việc ở xứ người, anh lập tức gửi về Manila một thùng hàng gồm những món đồ chơi đắt tiền: những chiếc máy bay chạy bằng pin và những xe đua điện tử. Đây là những món đồ chơi mà anh ta rất thích bởi vì hồi còn bé anh đã ao ước nhưng không có được. Đứa con đỡ đầu của tôi, chỉ mới ba tuổi, tỏ ra rất thích thú với những món đồ chơi đó. Đứa bé nào mà chẳng thích thú với những cái mới lạ! Nó bắt đầu chơi với các món ấy cho đến một hay hai tuần sau, do óc tò mò, nó bắt đầu táy máy tháo tung mọi thứ ra để xem thử chúng hoạt động làm sao. Rốt cục, tất cả chỉ còn là những mảnh vụn vung vãi khắp nhà. Mẹ thằng bé hốt hoảng, vì chị biết chồng mình sẽ phẫn nộ về chuyện này. Thế là từ đó, hễ nhận được món đồ chơi nào do chồng gửi về, chị đều cất vào tủ kính, ngoài tầm với của thằng nhóc. Thằng nhóc đành phải chấp nhận chỉ đứng nhìn các đồ chơi qua tủ kính. Sau một năm, anh bạn ấy của tôi trở về. Anh đùng đùng nổi giận khi nhìn thấy một số đồ chơi đã tan tành. Anh lôi thằng nhóc ra và đánh đòn. “Cả đời tao, tao không bao giờ có được những món đồ chơi như thế này. Bây giờ mày được sắm cho đầy đủ – chỉ có mỗi chuyện giữ gìn mà cũng không xong. Mầy hư quá!” Cảm thấy lời tố cáo của anh ta quá vô lý đối với một đứa bé ba tuổi, tôi chen vào bênh vực nó: “Này, vấn đề nằm ở nơi cậu đấy chứ! Các món đồ chơi cậu mua không hợp với một đứa bé ba tuổi. Thằng nhóc nào mà không muốn tháo tung các thứ ra vì tò mò. Vì thế, lẽ ra cậu nên mua cho nó những bộ đồ chơi tháo ráp, chẳng hạn. Còn những món nào mà cậu thích, thì cậu nên mua cho chính cậu và cứ để lại bên Saudi mà chơi. Nói cho cùng, đây chỉ là những thứ mà CẬU đã ao ước mà không có được hồi còn bé.” NHỮNG VẤN ĐỀ CÒN DANG DỞ Thường chúng ta ai cũng có những vấn đề trong quá khứ còn dang dở, chưa giải quyết xong. Chúng ta phóng chúng vào hiện tại, cho dù sự phóng chiếu này không tương hợp và phi thực tế đến mấy đi nữa. Câu chuyện của anh bạn nói trên của tôi cho thấy một điểm yếu thông thường nơi các bậc cha mẹ, đó là họ biến con cái mình thành cái mà tôi gọi là “những sự bành trướng bản ngã” của họ. Họ muốn nhìn thấy nơi con cái họ những gì mà bản thân họ đã không có được trong quá khứ. Kết quả là, những đứa con của họ bị tước mất cá thể tính của riêng chúng. Trong tư cách là một nhà tư vấn cho các thiếu niên, tôi thường xuyên nghe những trường hợp trong đó các cha mẹ quyết định cuộc đời cho con cái mình. “Bố đã từng muốn làm một luật sư, nhưng không thành, bố muốn con trở thành luật sư!” “Bố đã đi tu nhưng đường tu của bố không thành; này con, con trai của bố, hãy trở thành linh mục để biến giấc mơ của bố thành hiện thực.” “Con hãy tránh tất cả những sai lầm mà mẹ đã mắc phải trong quá khứ!” Nghĩa là, những đứa con tội nghiệp ấy bị mắc kẹt trong những vấn đề chưa được giải quyết của bố mẹ chúng. Ở đây tôi không có ý nói rằng các bậc cha mẹ không được phép khích lệ con cái đề cao các giá trị của họ. Điều tôi muốn cảnh giác đó là mối nguy của việc đẩy con cái vào trong quá khứ của cha mẹ và tước mất cuộc sống riêng của chúng. Tôi có gặp một người kế toán mà chúng ta sẽ gọi là Cesar. Các đồng nghiệp của anh đã gọi anh là một kẻ bủn xỉn phi thường. Anh ít khi tham gia những sinh hoạt có đòi hỏi phải đóng góp tiền bạc. Anh viện lẽ rằng mình không có tiền. Rồi, người ta thường nghe anh dạy mấy đứa con của anh về chuyện tiền bạc như sau: “Cả đời bố, bố đã phải sống với 50 xu mỗi tuần. Các con cũng phải bắt chước bố như vậy.” Thực ra, Cesar hiện nay không nghèo. Cả anh và vợ anh đều là những người có tay nghề chuyên môn và có thu nhập khá. Không có lý do gì để anh phải quá lo lắng về tiền bạc như vậy. Nhìn anh ky cóp từng đồng, người ta dễ tưởng rằng anh muốn sưu tầm các loại xe Mercedes Benze! Rõ ràng nơi anh có tồn tại một xung động rất vô lý. Khi tôi đề nghị Cesar nhìn lại và phân tích cuộc đời riêng của anh, tôi mới hiểu rõ hơn về cớ sự. Cái mức độ mà Cesar bám chặt vào tiền bạc cũng chính là mức độ khốn khổ do tình trạng túng quẫn mà anh đã trải qua trong quá khứ. Trong khi sự nghèo túng có thể là một thầy dạy tốt đối với một số người; thì ở đây, đối với Cesar, nghèo túng chỉ là một kinh nghiệm nghiệt ngã, hổ nhục và kinh tởm. Vì thế, anh tập trung mọi năng lực của mình cho mục đích duy nhất là giữ gìn sự ổn định cho cả đời mình. Tuy nhiên, anh khám phá ra rằng bao lâu anh chưa chữa trị được vết thương của quá khứ – vết thương của nỗi sợ nghèo túng – thì anh sẽ không bao giờ dàn xếp được các vấn đề của hiện tại. Như thực tế rất rõ ràng đấy, trong hiện tại anh chẳng phải đứng trước mối đe doạ nghèo túng nào, nhưng anh vẫn hành động như thể là đang có thực một mối đe doạ như vậy. Rốt cục, anh đang vô tình tạo ra cùng một loại khốn khổ mà mình phải chịu trước đây cho con cái mình bây giờ! TOÀN LÀ NHỮNG CHỮ “NẾU” Đàng khác, một số người qui hướng cuộc sống hiện tại của mình quá nhiều vào tương lai. Đời sống của họ bị chi phối bởi những chữ “NẾU”! Đời tôi sẽ mãn nguyện nếu tôi leo lên được tới chức vụ đó. Tôi sẽ không còn gì để phàn nàn nếu tôi kiếm được một ngôi nhà và một mảnh vườn. Đời tôi sẽ tốt hơn nếu tôi gặp được một người lý tưởng làm bạn đời của mình. Tôi sẽ hoàn toàn hạnh phúc nếu không có vấn đề gì xảy ra cho tôi nữa. Thế là, khi chưa được thăng chức, khi chưa có được nhà và đất, khi chưa gặp được một người bạn lý tưởng, và khi chưa có được một cuộc sống giũ sạch mọi vấn đề, thì họ ngụp lặn trong khốn khổ. Chúng ta không xa lạ gì với những người mà tôi gọi là “những cha mẹ của thế chiến thứ ba”. Họ tập trung tất cả mọi năng lực của hiện tại để chuẩn bị cho tương lai. Và trong quá trình ấy, họ tước mất khỏi chính mình và con cái mình những niềm vui hiện tại. Ưu tư của họ về tương lai đã làm cho họ bị nhỡ mất chính cuộc sống. Mới đây, tôi nghe kể câu chuyện về một người đàn ông quá lo sợ khi nghe một số tin tức về các vụ cướp. Ơng quyết định hy sinh cắt bớt giấc ngủ để đảm bảo an toàn cho nhà mình. Thế là, đêm nào cũng vậy, ông chỉ ngủ đến nửa đêm, rồi thức dậy canh gác ngôi nhà cho tới sáu giờ sáng. Tôi thấy câu chuyện này vừa tức cười vừa điên rồ. Điều tôi cho là vô lý trong cung cách của ông ta, đó là ông tự tước mất của mình một cái gì căn bản (= giấc ngủ) để đổi lấy việc canh chừng một tên trộm có thể sẽ không bao giờ xuất hiện. Theo tôi, ông chỉ cần kiểm tra lại các cửa trước, cửa sau, gài chốt và khoá cẩn thận ... là đủ. Còn việc chấp nhận mất thời gian, mất giấc ngủ là điều mà tôi không thể nhất trí được! Những băn khoăn của chúng ta về tương lai đôi khi làm cho chúng ta hành động một cách điên rồ trong hiện tại. Tôi nhớ mãi một phim Trung Quốc mang tựa đề “Bạn Gái”. Câu chuyện xoay quanh một anh chàng nọ mơ mộng một phụ nữ và dành hết thời giờ để theo đuổi nàng. Mặc dù rõ ràng là tình yêu của anh không được đáp lại, anh vẫn mù quáng trong ảo mộng lãng mạn của mình. Anh có một cô bạn gái, và cô này yêu anh. Cô kiên trì ở bên anh trong khi anh mải miết theo đuổi người phụ nữ kia. Và trước sau, anh chẳng có một chút quan tâm nào đến cô bạn này. Vào hồi kết của chuyện phim, anh chàng ấy chợt bừng tỉnh và nhận ra sự thực rằng người phụ nữ mà mình yêu đã không bao giờ thực sự quan tâm đến mình. Khốn khổ, anh đứng như mất hồn giữa trời mưa, ướt sũng. Cô gái bạn anh lại xuất hiện – từ lâu nay cô vẫn kiên trì như thế – và lấy dù che mưa cho anh. Chính lúc đó anh mới nhận ra mình thật điên rồ. Anh đã mải đeo đuổi một một phụ nữ lý tưởng của mình. Anh không nhận ra rằng tình yêu thật sự đang ở đó, bên anh. Chuyện phim thật lãng mạn. Nhưng sứ điệp thì rất rõ ràng: Khi chúng ta loay hoay quá nhiều về tương lai, chúng ta sẽ hụt mất hiện tại. Trong quyển sách mang tựa đề “Stress, Sanity, and Survival” của mình, Woolfalk và Richardson đã đưa ra hai chỉ dẫn để giải phóng căng thẳng như sau: “Những cuộc chiến đấu trong đời chỉ thay đổi chứ không bao giờ chấm dứt. Bạn hãy ngừng ngay việc chờ đợi cái ngày mà ‘mình có thể an nhàn thảnh thơi’ hay cái ngày mà ‘mọi vấn đề của mình sẽ không còn’. Cái ngày ấy sẽ không bao giờ xảy đến đâu! Kìa, phần lớn các điều tốt lành trong cuộc sống của bạn đang lướt qua hôm nay - và chúng ngắn ngủi lắm. Bạn hãy thưởng thức chúng, cảm nếm chúng. Đừng phí thời gian ngưỡng vọng một hồi kết cục của mọi mối phiền não!” “Quá khứ của chúng ta được chiếm lĩnh phần lớn bởi những bóng ma vốn không ích dụng gì cho cuộc sống hiện tại của chúng ta. Thường đó là những trường hợp bị chúng ta đổ lỗi là cớ sự của những thiếu thốn của mình, đó cũng có thể là những chuẩn mực của cha mẹ mà chúng ta cố sống theo một cách triệt để, hoặc đó cũng có thể là những hoài niệm không chính xác về ‘ngày xưa huy hoàng ấy’. Nói tắt, dồn hết tâm lực vào quá khứ là cướp mất của hiện tại niềm vui và sức sống.” Tôi nhớ có lần khi mình chán nản, một người bạn đã nói với tôi: “Có lẽ cậu khốn khổ vì cậu nhìn về quá khứ với quá nhiều oán giận và cay đắng, và vì thế, tương lai của cậu dường như mịt mù vô vọng. Đó là lý do tại sao cậu đang cảm thấy bất hạnh và chán chường.” Những lời ấy chứa đựng rất nhiều sự thật. Về sau, khi tôi đã chữa trị được các vết thương của mình trong quá khứ, tôi nhận ra cảm nghĩ của mình về cuộc sống hiện tại bỗng thay đổi rất nhiều. Lúc này, khi tôi nhìn trở lại quá khứ với thái độ chấp nhận và tha thứ, thì tương lai của tôi xanh lên màu hy vọng dạt dào. Đồng thời, tôi cảm nghiệm được nhiều niềm vui và nhiều sự an bình hơn trong cuộc sống hiện tại. Chúng ta không được phép quên quá khứ, cũng không được phép lảng tránh tương lai. Nhưng chúng ta phải luôn luôn nhìn quá khứ và tương lai trong qui chiếu đến hiện tại. Ở lại trong quá khứ hay mất hút trong tương lai, tức hiện hữu ‘ở đó và lúc ấy’ thay vì “ở đây và lúc này”, điều này sẽ cướp mất sức sống của chúng ta. Vì thế, chương này nêu điều kiện cuối cùng là chúng ta phải hoà hợp với hiện tại, phải sống ‘ở đây và bây giờ’. Quá khứ của chúng ta nên được nhìn lại từ nhãn giới của hiện tại. Bất cứ vấn đề gì còn tồn đọng, chưa giải quyết, chúng ta phải lập tức giải quyết chúng ngay. Và tương lai của chúng ta nên được phác hoạ cũng trong bối cảnh thực tế của hiện tại. Bất cứ điều gì xảy đến sẽ tuỳ thuộc phần lớn vào cách mà chúng ta xây dựng trong hiện tại này. Sống hết mình là sống hết cái hiện tại của mình! Tác giả Lê Công Đức, Lm. (còn tiếp)
-
CHƯƠNG VI: KHẢO SÁT LÒNG MÌNH (điều kiện 6: một thái độ biện phân) Tôi có một ghi nhận chung chung mỗi khi các sinh viên được đề nghị làm một bản lược sử cá nhân cho mình. Đó là rất nhiều người có khả năng viết – thậm chí viết rất hay – về các biến cố đã xảy ra trong cuộc sống của họ. Họ có thể tường thuật mạch lạc các chi tiết. Nhưng, rất tiếc là họ dừng lại ở đó. Chỉ một ít người đi sâu hơn và bắt đầu suy tư về ảnh hưởng của mỗi biến cố ấy trên đời sống của mình – những ảnh hưởng tích cực cũng như tiêu cực. Chỉ một số ít người dám đào sâu công việc phân tích bản thân. Điều này dẫn tôi tới kết luận rằng chúng ta thiếu sự thực hành biện phân biết bao. Người ta thường bào chữa – chẳng hạn, “nhưng tôi không có giờ để suy tư, tôi ít khi có thời giờ cho chuyện riêng của mình!” Đời sống của họ bị chen kín bởi những hoạt động khiến họ không còn phút nào để thở. Rồi, khi có dịp nào đó để dừng lại và suy nghĩ, họ thường nhận ra rằng có nhiều thứ mình đã không đánh giá đúng tầm mức. Trong một số trường hợp, họ phải mất hàng chục năm để khám phá ra quá trễ rằng lẽ ra mình đã có thể làm những điều gì đó để tháo gỡ những gánh khốn khổ không cần thiết do chính mình tạo ra. Những khốn khổ này xuất phát từ một biến cố nào đó, nếu được đương đầu và giải quyết cách thích đáng, thì đã không đẻ ra biết bao hệ luỵ lôi thôi. Thế là, họ thấm thía một nỗi ân hận: “Giá chi mình đã nhận ra điều này sớm hơn!” NHỮNG NĂM ĐAU KHỔ KHÔNG CẦN THIẾT Đây là kinh nghiệm của Elsa. Chị lo lắng bởi tâm trạng ngày càng lạnh nhạt đối với các con cái mình. Điều này làm cho chị tính đến chuyện xin một công việc làm ở nước ngoài. Đầu tiên, quyết định này có vẻ là vì các con chị. Đối với chị, đó là một cách để tránh xa khỏi con cái. Dĩ nhiên, mặc cảm tội lỗi cứ day dứt ám ảnh chị. Chị biết rằng nếu mình là một người mẹ tốt thì mình không nên toan tính như vậy. Vả lại chị là một phụ nữ goá chồng và các con đang trông cậy vào chị. Những giằng co ấy đã dẫn Elsa đến với tôi. Cùng nhau, chúng tôi cố gắng dò tìm những biến cố đã đưa đẩy chị đến tình huống hiện tại. Chúng tôi khám phá thấy nỗi đau của chị đã bắt đầu trước đó mười năm, khi chồng chị mới qua đời. Trong khi thi hài người chồng mình vẫn còn nằm đó, bố chồng chị – người mà từ đó đến nay chị không bao giờ chịu đựng được – đã tố cáo chị. Ơng nói: “Bây giờ, con trai tôi đã chết, chắc rằng cô sẽ tìm một người đàn ông khác và bỏ đám cháu nội của tôi.” Những lời ấy của bố chồng đã xúc phạm và gây thương tổn cho chị. Kể từ đó, chị thề sẽ chứng tỏ cho ông bố chồng thấy rằng chị sẽ là người mẹ hết sức đảm đang của các con mình. Dù chị làm việc nhà nước và chỉ nhận được một món lương còm, chị vẫn đảm nhận vai trò một trụ cột duy nhất nuôi sống gia đình. Chị không bao giờ xin sự giúp đỡ từ phía gia đình bên chồng. Chị gắng làm thêm ngoài giờ để kiếm thêm tiền. Chị bảo đảm mọi nhu cầu của các con đều được đáp ứng. Có điều, trong khi đó các nhu cầu của chính chị thì phải hy sinh. Sau vài năm, giờ đây chị cảm thấy mệt mỏi và kiệt lực. Tôi chỉ ra rằng từ ngữ đúng nhất để mô tả tình trạng của chị hiện nay là “cháy máy” (burn-out). Vì chị đã không quân bình giữa việc cho đi và việc đáp ứng các nhu cầu của riêng mình, nên chị đã vắt kiệt năng lực nơi chị. Đó là lý do tại sao chị càng ngày càng cảm thấy dửng dưng đối với con cái. Trong những trường hợp như vậy, triệu chứng này rất thường xảy ra. Chỉ lúc ấy chị mới nhận ra rằng chị đã đóng quá mức vai trò của người mẹ đối với các con mình, như một cách gián tiếp để trả đũa ông bố chồng. Tuy nhiên, chị đã làm thế đến mức tác hại đến các con chị. Chị đã cung ứng cho chúng những thứ vượt ngoài khả năng thu nhập của chị. Chị một mình làm hết mọi công việc trong nhà, đặt các con vào thế phụ thuộc vào chị - và chị tự tứơc mất khỏi bản thân mình những nhu cầu căn bản như đi lại gặp gỡ bạn bè. Chị đã tự đẩy mình vào tình trạng khốn khổ không đáng có. Khi Elsa nhận ra rằng chị đang phản ứng lại ông bố chồng, chị bắt đầu suy xét rằng sẽ hay hơn biết bao nếu chị quyết định đáp ứng (respond) hơn là phản ứng (react). Thay vì chứng tỏ chính mình, lẽ ra chị chỉ cần diễn tả nỗi đau của bản thân và tìm sự nương tựa nơi bố chồng. Giống như Elsa, chúng ta thường dễ phản ứng hơn là đáp ứng các tình huống trong cuộc sống. Để có thể đáp ứng, chúng ta cần phải dừng lại và khảo sát lòng mình trước khi chúng ta tra tay vào bất cứ hành động nào xa hơn. Đây cũng là một thái độ biện phân. Thái độ này “dạy chúng ta đối diện, đương đầu và làm chủ tất cả các kinh nghiệm trong cuộc đời mình và suy ngẫm về ý nghĩa của chúng đối với cuộc đời chúng ta.” Mọi kinh nghiệm đều có một ý nghĩa riêng tư cho ta. Trong trường hợp của Elsa, những lời nói của ông bố chồng mang ý nghĩa của một cái gì gây xúc phạm và thương tổn. Và chị đã trả đũa bằng cách tự chứng tỏ mình. Rồi té ra là cung cách ấy của chị vừa không lành mạnh vừa không cần thiết. Chị bắt đầu biết biện phân khi chị kinh nghiệm các hậu quả của tình trạng “cháy máy” nơi mình. SAO ĐÀNH NHẮM MẮT ĐƯA CHÂN? Không biết biện phân, chúng ta sẽ trở thành nạn nhân của các hoàn cảnh. Chúng ta để cho các biến cố thao túng chúng ta. Trái lại, với sự biện phân, chúng ta sẽ tìm lại được năng lực để lãnh trách nhiệm và để hành động trong cuộc sống mình. Xin minh hoạ ở đây bằng câu chuyện của Manny. Manny kể lể rằng anh bất lực không thể kiểm soát các cảm nghĩ tiêu cực của mình đối với vợ và các con mình. Anh nhìn nhận rằng anh dễ quạu quọ và nóng nảy, vì thế lúc nào anh cũng cằn nhằn chì chiết. Bao lần hối hận, rồi anh vẫn cứ lặp lại hoài kiểu cư xử tệ hại ấy. Và điều này làm anh chán chường. Nhìn lại cuộc đời mình, Manny khám phá rằng thái độ ấy của anh bắt đầu bộc phát sau khi anh bị mất công việc làm trước đó vài năm. Đó là một kinh nghiệm kinh hoàng đối với anh. Anh bị xô vào trong những toan tính ngầm của công ty và bị biến thành con dê tế thần. Tên tuổi của anh bị bôi bẩn và mọi nỗ lực minh oan đều thất bại. Anh không dám gặp người ta, và vì thế đành bỏ việc. Vợ anh, vì thế, phải gánh trên vai trách nhiệm nuôi sống gia đình. Tình hình này làm Manny lúng túng và anh bắt đầu có những ý nghĩ rất tiêu cực về bản thân anh. “Tôi là một kẻ vô dụng! Tôi là một tên đàn ông không nuôi nổi vợ con. Tôi là một anh chồng phải để vợ đi làm lo cơm gạo. Tôi thật xấu hổ khi nhìn vợ con. Tôi thật dở. Tôi không có can đảm để nhìn mọi người...” Những kết luận ấy về chính mình càng đè nặng thêm nỗi đau nơi anh. Càng bất mãn chính mình, anh càng bất mãn người khác, nhất là những người gần gũi anh. Giống như mọi người đàn ông, anh thiếu lòng khiêm tốn để chấp nhận thế yếu và cho phép vợ mình nắm giữ thế mạnh. Trái lại, anh phản đối điều đó và cảm thấy tình trạng như vậy sẽ làm cùn nhụt chí khí nam nhi nơi anh. Anh trở nên thường xuyên bực dọc và hay gây gổ. Để có thể thoát ra, Manny sẽ phải sắp xếp lại những ý nghĩ tiêu cực về chính mình và phải chấp nhận chính mình một cách thực tiễn hơn. Manny không nhận ra được điều này trước đây bởi vì anh ta không dám lắng nghe những tiếng nói bên trong mình. Anh biết rằng mình sẽ đau đớn. Chính nỗi sợ đau đã cản trở không cho anh làm công việc biện phân. Chúng ta muốn quên đi cơn đau. Vì thế chúng ta hùng hục cắm cổ làm việc. Chúng ta làm tê liệt các cảm giác của mình, hy vọng sẽ vĩnh viễn nhận chìm những tiếng nói tiêu cực bên trong mình, trong khi nỗi khổ sở vẫn kéo dài trong tiềm thức. Nhưng, đau đớn có thể là một vị thầy tuyệt vời. Như Leo Buscaglia nói: “Đôi khi một phút đau khổ dạy cho ta được nhiều hơn là mười năm huy hoàng.” NHỮNG CƠN ĐAU RĂNG Vâng, những cơn đau răng có thể là một hình ảnh loại suy rất hay để minh hoạ ở đây. Hẳn bạn không chối rằng ngay cả khi chúng ta biết mình bị sâu răng, chúng ta thường vẫn không đi gặp nha sĩ bao lâu cái răng sâu ấy của mình chưa đau nhức. Rồi khi nó bắt đầu đau nhức, chúng ta vẫn nấn ná, ù lì chứ chưa chịu đi gặp nha sĩ ngay. Chúng ta đổ dầu khuynh diệp, hoặc cồn, hoặc thậm chí đổ cả xăng vào chỗ răng sâu ... chỉ để làm giảm đau tạm thời. Chỉ đến khi nó nhức nhối quá lắm, không chịu nổi nữa thì chúng ta mới chịu đi gặp nha sĩ. Bấy giờ, vị nha sĩ sẽ phát hiện ra rằng sự trễ nãi của chúng ta đã không chỉ ảnh hưởng đến chiếc răng này - mà cả những chiếc răng chung quanh nó cũng đã bị ảnh hưởng nữa. Chúng ta cũng thường có thái độ như vậy trước nỗi đau cuộc sống. Trong ngần nào có thể, chúng ta thường cố tránh né các vấn đề, thay vì đối mặt với chúng. Khi không thể tránh né được nữa, bấy giờ chúng ta bị buộc phải làm một điều gì đó. Và cho tới lúc này thì vấn đề đã phình lên và gieo tai rắc hoạ cho biết bao người rồi! Dù các kinh nghiệm của chúng ta có tính tích cực hay tiêu cực, chúng ta cũng phải đối diện với chúng và rút ra bài học từ chúng. Chúng ta phải đều đặn dành thời giờ để xem xét lại từng kinh nghiệm của mình và suy ngẫm về cách mà các kinh nghiệm ấy đang hình thành nên con người hiện tại của chúng ta. Chúng ta phải cảnh giác để không mù loà trước sự thật – do bởi nỗi sợ đau đớn. Chúng ta phải tiếp tục khảo sát lòng mình. Có lần tôi nói chuyện với một nhóm hỗn hợp các thành viên của các khoa về ý nghĩa của sự cởi mở, nhiều người trong họ đã phát biểu như sau: “Điều mà anh đang nói quả hoàn toàn đúng đắn. Chúng tôi thật sự thích thú và chúng tôi nhất trí rằng cần phải cởi mở. Nhưng, chúng tôi tự hỏi nó có thực tiễn không. Chúng tôi nhìn quanh và tự hỏi liệu có ai ở đây để cho mình thực hành sự cởi mở như thế không.” Họ nêu dồn dập những nghi ngờ như thế với tôi. Tôi bắt đầu tìm hiểu và phát hiện ra rằng các thành viên của hai khoa này có một quá trình cạnh tranh và xung khắc. Vì thế, tôi thách thức họ. Tôi nói: “Các bạn không nhận ra rằng trong quá trình quan hệ với nhau, các bạn đã dạy nhau rằng đừng tin tưởng hay sao? Thế tại sao các bạn không nhân cơ hội mới này để dạy nhau lấy lại niềm tin tưởng? Thật đáng thử lắm chứ, và các bạn chắc chắn sẽ chứng tỏ là mình rút được ích lợi thiết thực hơn bất cứ ai.” Tôi biết mình đang đưa ra một đòi hỏi quá cao. Nhưng, vì tôi nại đến tính bản thiện của họ, họ đã dần dần cho thấy sự sẵn sàng và họ xác nhận rằng họ hoàn toàn có thể lấy lại niềm tin tưởng nơi nhau. Chúng ta luôn luôn còn bất ngờ thú vị mỗi khi thấy một tia sáng nào đó đủ khả năng đem lại một sự thay đổi tích cực. Chỉ cần chúng ta dành thời giờ để dừng lại và khảo sát lòng mình, chúng ta sẽ lớn lên thêm rất nhiều trong tư cách là những con người. Vì thế, bạn hãy bắt đầu bây giờ. Hãy phát triển một thái độ biện phân trong cuộc sống của bạn. Hãy kiểm tra thường xuyên – Này, tôi đang trở nên khá hơn hay đang ngày càng tệ hơn? Tác giả Lê Công Đức, Lm. (còn tiếp)
-
CHƯƠNG V: MỘT GIẤC MƠ CHO CUỘC ĐỜI (điều kiện 5: lột bỏ nhãn hiệu) Tôi có một giấc mơ. Tôi mơ đến một thời mà trong thế giới này người ta sẽ liên hệ với nhau như những con người, không phải như những nhãn hiệu. Tôi ước mơ cuối cùng chúng ta sẽ thanh toán được nơi mình những ấn tượng, những đánh giá, những thành kiến gắn liền với các nhãn hiệu mà chúng ta dán cho người ta. Tôi ước mơ chúng ta biết khôn ngoan hơn để khi nhìn một con người, chúng ta có thể nhìn quá những nhãn hiệu như đàn ông hay đàn bà, kết hôn hay độc thân, đồng tính ái hay ‘dị tính ái’, giàu hay nghèo, tu sĩ hay giáo dân, người kinh hay người thượng, người bản xứ hay người nước ngoài, Công giáo hay Phật giáo ... Thay vào đó, chúng ta sẽ gặp gỡ mỗi người trong chính tính độc đáo của con người ấy. BỊ LUNG LẠC BỞI NHỮNG NHÃN HIỆU Thực tế là chúng ta bị ảnh hưởng rất nhiều bởi những nhãn hiệu. Hãy cho phép tôi minh hoạ điều này bằng một kinh nghiệm mà tôi mới gặp cách đây khoảng hai năm. Tôi và ba người phụ nữ bạn tôi lần ấy mới từ xa về, vừa đặt chân đến Manila. Vì lúc đó khó tìm thấy taxi, chúng tôi quyết định chỉ gọi một chiếc và cùng đi chung. Tôi đưa ba người bạn ấy lần lượt về đến nhà của họ. Cuối cùng, trên đường về nhà tôi, người tài xế taxi chợt lên tiếng mở chuyện bằng một câu nhận định: “Ba người bạn ấy của anh, chắc hẳn họ là những cô giáo, phải không?” Tôi ngạc nhiên không biết tại sao anh ta đoán được như thế. Vì vậy tôi hỏi: “Làm sao anh biết?” Anh ta đáp gọn lỏn: “Vì họ nói chuyện bằng tiếng Anh!” Ồ! Một suy luận rất thú vị. Tôi thầm nghĩ. Nhưng ngay lập tức anh ta nói thêm: “Chắc hẳn họ chưa có chồng, phải không?” Lần này, anh ta đã suy luận rằng vì các bạn tôi là những cô giáo, nên chắc hẳn họ đang còn độc thân. Thật tình cờ, quả là cả ba người bạn ấy của tôi đều độc thân. Vì thế, tôi chỉ đơn giản nói “Vâng, đúng thế”. Rồi, anh ta tiếp tục: “Chắc họ hay cáu kỉnh lắm phải không?” Tới đây thì tôi phản ứng. Và điều tôi muốn rút ra cũng nằm ở đây. Người tài xế, dù chỉ biết các bạn tôi qua vài nhãn hiệu – cô giáo, độc thân – song anh ta đã có những qui gán về họ. Tôi đã phải giải thích: “Này anh bạn, cáu kỉnh không phải là đặc tính chỉ dành riêng cho những người phụ nữ độc thân. Xem ra một trong ba người bạn ấy của tôi thường tỏ ra cáu kỉnh hơn hai người kia. Nhưng tôi biết có nhiều cô giáo khác tuy có gia đình nhưng thậm chí còn cáu kỉnh hơn nhiều (nhất là khi họ không thích chồng họ!) Ngoài ra, không phải mọi cô giáo đều nói tiếng Anh và đều độc thân cả đâu.” Té ra, anh tài xế đã có những suy đoán như vậy bởi vì dựa trên một kinh nghiệm của bản thân anh. Anh có một bà cô là cô giáo, độc thân, và rất cáu kỉnh. Đồng thời, chúng tôi bị chìm ngập trong một xã hội có não trạng xem các phụ nữ không chồng như đối tượng của những lời nói vào nói ra. Tôi không thể không thương hại cho những phụ nữ phải chịu đựng điều đó. Cũng như anh tài xế taxi này, người ta chụp mũ các phụ nữ ấy ngay cả trước khi người ta biết (và hiểu) họ. Tôi đang nhắc bạn về mối nguy của việc dán nhãn hiệu cho người ta qua câu chuyện về anh tài xế taxi nói trên. Nhưng tôi sực nhớ cũng có lần chính tôi đã mắc cái tội dán nhãn hiệu như vậy. Lần đó, cũng trên một chuyến taxi, tôi nhận thấy anh tài xế là một con người có tính cách rất vui tươi cởi mở. Thật tuyệt vời khi đi xe của anh ta, nhất là đi vào giờ kẹt xe buổi sáng sớm như hôm ấy. Tôi ít khi gặp được một tài xế dễ thương như vậy. Vì thế tôi muốn chia sẻ ý nghĩ ấy với anh. Khi chúng tôi gần đến nơi, anh ta tự giới thiệu anh ta là người gốc ở tỉnh Iloilo. Tôi vốn có nhiều ấn tượng tốt đẹp về những người đến từ Iloilo, nên ngay lập tức tôi nói với anh: “Anh là người ở Iloilo. Thảo nào anh thật dễ mến!” Câu trả lời của anh tài xế đã làm tôi mắc cỡ vô cùng. Anh chỉ đáp rất rõ ràng và đơn giản: “Không, thưa ông. Chuyện đó còn tuỳ ở mỗi người.” Ở đây tôi đang dạy về việc giải trừ các nhãn hiệu và câu chuyện trên cho thấy tôi đã vướng vào cái sai lầm của việc khái quát hóa một nhãn hiệu. Người tài xế này đã đúng. Không phải mọi người dân Iloilo đều dễ mến. Điều đó còn tuỳ ở mỗi người. Có lẽ sẽ thích đáng hơn nếu tôi nói: “Các kinh nghiệm của tôi về người địa phương Iloilo rất là tích cực. Bây giờ, với anh, kinh nghiệm ấy của tôi lại được xác nhận một lần nữa – vì anh là một người rất dễ mến.” Thay vì khái quát hóa, đáng ra tôi nên tuyên bố một sự kiện (rằng tôi có những kinh nghiệm rất tốt về người địa phương Iloilo) và diễn tả một cảm nghĩ của mình (rằng tôi thích anh ta vì anh ta rất dễ mến). Nếu vậy thì rất có thể tôi đã vừa phục vụ được cho mục đích ban đầu của mình là bày tỏ các cảm nghĩ tích cực của mình về anh, vừa không sa vào cái tội khái quát hoá một nhãn hiệu. ĐỪNG KHÁI QUÁT HOÁ Bởi vì các nhãn hiệu là thông tin trực tiếp nhất mà chúng ta có được về một người, nên chúng ta thật dễ sa vào cái bẫy khái quát hoá nhãn hiệu và qui chụp này nọ cho người ấy. Đó là lý do tại sao chúng ta cần trau giồi một khả năng nhạy bén để phân biệt giữa nhãn hiệu và con người. Đành rằng các nhãn hiệu là cái rất cần thiết, vì chúng phục vụ cho mục đích làm sáng tỏ các chức năng và các mối quan hệ, nhưng không được đánh đồng chúng với con người. Vì thế, việc giải trừ nhãn hiệu được định nghĩa là “khả năng chúng ta không cho phép các nhãn hiệu hạn định kinh nghiệm của chúng ta về nhân vị tính của mình và của người khác.” Tôi có thể là một giáo viên, nhưng nhân vị tính của tôi không bị hạn định ở đó. Tôi KHƠNG CHỈ LÀ một giáo viên. Đó là lý do tôi cảm thấy ngán ngẩm khi nghe câu chuyện rằng các giáo viên của trường nọ, khi xem các pha bóng hấp dẫn trong giải bóng đá nhà trường, đã rất muốn nhảy chồm lên và la hét thoả thích. Nhưng các vị lãnh đạo nghiêm khắc nhắc nhở: “Đừng quên rằng các anh là giáo viên. Các anh phải có tư cách mô phạm của một giáo viên chứ!” Thế đấy, cái nhãn “giáo viên” nơi họ đã tước mất của họ cái quyền được vui tươi thoải mái. Cũng vậy, một linh mục Ấn Độ lần nọ đến gặp tôi, chia sẻ: “Ở giáo xứ của tôi bên Ấn Độ, các giáo dân kỳ vọng tôi giải quyết tất cả các vấn đề của họ vì tôi là linh mục. Nhưng khi chính tôi có những vấn đề và tôi cần có ai đó lắng nghe mình, thì chẳng tìm ra ai cả! Họ không thể chấp nhận ý tưởng rằng linh mục cũng có những vấn đề khó khăn, họ không thể hình dung linh mục mà lại cần giáo dân giúp đỡ. Vì thế, làm linh mục ở đó là đảm nhận một vai trò rất cô đơn. Người ta đặt tôi lên một cái bệ và bỏ mặc tôi một mình ở đó!” Chúng ta nghe vô số câu chuyện trong đó người ta khái quát hoá các nhãn hiệu. Một số trường hợp, sự khái quát hoá ấy có tính bất công và kỳ thị. Juan là một người đàn ông nghèo sống ở khu ổ chuột. Thế là khối người sẽ kết luận rằng đấy bởi vì anh ta lười biếng và thiếu trách nhiệm, và rằng chẳng bao lâu nữa anh ta sẽ trở thành một tay ma cô hay đạo chích. Celia làm việc trong bộ máy chính phủ. Thế là chúng ta dễ lập tức dán cho cô ta nhãn hiệu bất tài và ăn hối lộ. Soeur Marie Kim là một nữ tu. Chúng ta lập tức dành cho Soeur sự đối xử đặc biệt ân cần. Ở đây tôi không có ý nói rằng ta không nên đặc biệt ân cần với các nữ tu. Tôi chỉ muốn nhắc rằng chúng ta nên dành cho cả những người không phải là nữ tu sự cư xử bình đẳng như vậy. Mike là một người Hồi giáo. Chúng ta có khuynh hướng tẩy chay anh ta như một kẻ nguy hiểm và chúng ta thấy không có một khả năng nào để có thể làm bạn với anh ta. Juan, Celia, Soeur Marie Kim, và Mike là những con người. Tất cả họ phải được cư xử như những con người. Chỉ khi chúng ta gặp gỡ họ như những con người thì chúng ta mới có thể khẳng định hay phủ định những điều chi đó về họ. BA CÂU CHUYỆN Ba trường hợp buồn cười sau đây đã xảy ra với tôi và liên quan tới việc dán nhãn hiệu. Câu chuyện đầu tiên là khi tôi làm một chuyến đi lên phía bắc để có một bài thuyết trình tại một hội nghị của miền đó. Tôi được hướng dẫn đón chuyến xe buýt công cộng sẽ dừng ngay trước khu vực tổ chức hội nghị. Vì đây là lần đầu tiên đặt chân tới đó nên tôi rất bồn chồn. Tới nơi, tôi nghe nhẹ nhõm khi trông thấy một nhóm các chị đang nâng một vòng hoa và một ruy-băng. Tôi nghĩ rằng vòng hoa và ruy-băng ấy là dành để đón chào mình. Vì thế tôi bắt đầu tiến về phía họ. Trông thấy tôi, họ cũng tiến về phía tôi. Tới khi tôi mở miệng sắp bật ra lời chào thì họ đi qua khỏi tôi và gắn dải ruy-băng đồng thời trao hoa cho một người đàn ông cao niên đằng sau lưng tôi. Và các chị đồng thanh hô to: “Welcome, Mr. Tan!” (Chào mừng Ơng Tan). Tôi phải cố nín cười. Họ tưởng lầm người đàn ông ấy là tôi bởi vì ông ta đang diện một kiểu tóc rất bóng láng và vận y phục rất lịch lãm. Nói tắt, ông ta trông có nét của một diễn giả hơn tôi nhiều. Còn tôi chỉ đang mặc quần tây với sơ mi dài tay và trông quá trẻ so với ông ấy. Dĩ nhiên là các chị vô cùng bối rối khi nhận ra rằng người đàn ông lịch lãm ấy là một tham dự viên của hội nghị. Họ lập tức xin lỗi tôi. Tôi chỉ cười và ghi nhận câu chuyện ấy như một bài học thú vị về việc giải trừ nhãn hiệu. Câu chuyện thứ hai là khi tôi đang đợi một chuyến xe buýt để đi Cotabato City vào sáng sớm. Tôi đang ngồi trên ghế băng bên cạnh ba người – hai phụ nữ và một đàn ông – tại một trạm xe buýt ở Davao City. Lúc đó tôi cảm thấy buồn ngủ, vì thế, để xua đuổi cơn buồn ngủ của mình, tôi nhìn quanh và tập trung chú ý hành vi thái độ của người ta. Nhìn xuôi theo con đường, tôi chú ý đến một cậu bé bán báo. Khi cậu bé phát hiện ra bốn người chúng tôi đang ngồi chờ xe buýt, cậu lập tức tiến về phía chúng tôi. Đầu tiên cậu nhìn người phụ nữ ở phía cuối ghế. Tôi chú ý thấy cậu không đưa ngay tờ tạp chí nào ra để mời cả. Cậu nhìn người phụ nữ từ đầu đến chân và có vẻ nghiên cứu chị ta. Rồi, cậu lựa một tờ, rút ra, trao cho chị để mời chào. Không may, tờ tạp chí mà cậu rút ra là một tờ ‘lá cải’. Người phụ nữ lắc đầu ra dấu không thích. Cậu bé thử thời vận với người phụ nữ thứ hai. Cậu không mời chào tờ lá cải ấy nữa. Cậu cất tờ báo vào trong xấp, rồi nghiên cứu người phụ nữ này từ đầu tới chân. Lần này, cậu rút ra một tờ tạp chí phụ nữ. Nhưng, một lần nữa, cậu bị từ chối. Tới đây, tôi đã theo dõi được sách lược của cậu bé bán báo này. Cậu bé đang cố ráp loại tạp chí cho hợp với ấn tượng mà cậu có về con người. Nói tắt, cậu đang dán nhãn hiệu cho người ta. Tôi bắt đầu toát mồ hôi vì hồi hộp không biết đến phiên mình thì cậu bé này sẽ rút ra tờ tạp chí nào. Cậu bé tiếp tục lấy một tờ, lần này là một tờ thể thao để mời người đàn ông ngồi kế bên tôi. Lại một lần nữa, cậu bị từ chối. Cuối cùng, đến phiên tôi! Tôi nhìn lảng đi chỗ khác, giả bộ không chú ý đến cậu bé. Kỳ thực, tôi rất căng thẳng. Cậu bé nhìn tôi, thăm dò một hồi, rồi lục lạo trong xấp báo, rút ra một tờ. Kìa! Cậu bé rút ra tờ Free Press. Tôi bất giác thở phào nhẹ nhõm. Free Press! Một tờ báo có tính chính luận, trí thức! Tôi cảm thấy biết ơn cậu bé. Nhưng khi ngẫm lại, tôi nhận ra rằng vì mình đã quá quan tâm đến loại nhãn hiệu mà cậu bé có thể gán cho mình đến nỗi tôi thậm chí đã không xét xem mình thực sự đang muốn xem loại tạp chí nào. Xem chừng lúc ấy tôi lại thích xem một tờ lá cải hơn. Nói cho cùng, ai lại thích đọc các bài chính luận vào buổi sáng sớm! Đọc những chuyện tào lao vớ vẩn nghe đỡ mệt óc hơn chứ! Qua đó tôi cảm nghiệm rằng thiên hạ dán nhãn hiệu cho chúng ta dựa theo cách mà chúng ta gặp họ. Vì thế, chúng ta có bổn phận phải bộc lộ về mình, cho biết mình muốn được hiểu và được đối xử như thế nào. Câu chuyện thứ ba xảy ra khi tôi ghé thăm một người bạn tại văn phòng cô ta ở Makati. Bầu khí ở đó thật trịnh trọng. Tôi thấy người ta dường như rất chú ý đến địa vị và cấp bậc. Vì thế, chiếc quần jeans và áo T-shirt của tôi xem ra không phù hợp với chỗ này. Dù sao, cô bạn của tôi quá bận rộn, không thể tiếp tôi một cách thoải mái được. Thay vào đó, tôi tình nguyện giúp cô ta một tay. Tôi bắt đầu ngồi vào phụ giúp cô ta vài công việc đánh máy. Sau một chốc, vị phó chủ tịch bước tới và nhìn tôi với ánh mắt trừng trừng dò xét. Tôi ngước lên, tự giới thiệu bằng cách nói vui vui: “Chào ngài! Tôi là Earnest. Tôi là thư ký của Mel.” Nghe thế, ông ta hứ một tiếng rồi bước đi, tiếp tục công việc thường lệ của ông. Khi Mel, bạn tôi, trở lại và nhìn thấy vị phó chủ tịch, cô lật đật đưa ông ta lại chỗ tôi. Lần này, cô giới thiệu tôi như sau: “Thưa ngài phó chủ tịch, không biết ngài đã gặp Earnest chưa nhỉ? Anh ấy là người mà tôi đã nói tới khi bàn về việc tổ chức các khoá hội thảo. Chắc ngài nhớ tôi đã nói gì với ngài. Anh ấy rất tốt và chúng ta đang cố gắng mời anh ấy cho một số dự án của chúng ta.” Với thông tin mới này, thái độ của ông phó chủ tịch đối với tôi hoàn toàn thay đổi. Ơng ta bắt đầu kéo ghế ngồi và nói chuyện với tôi. Điều thú vị là khi cô bạn tôi mang tới một khay kem (ngày hôm trước là sinh nhật của cô!), vị phó chủ tịch đã giật lấy chiếc khay từ tay Mel và tuyên bố: “Bây giờ, tới phiên tôi là tiếp viên của Mel.” Câu chuyện này có điểm độc đáo ở chỗ nó cho biết rằng chúng ta luôn luôn có thể cố gắng đền bù sai sót của mình. Không bao giờ quá muộn. Trong trường hợp của ngài phó chủ tịch ở đây, ông mắc cái lỗi dán nhãn hiệu. Nhưng ông đã cứu vãn bằng cách giành lấy chiếc khay và phục vụ chúng tôi. Đó là cách gián tiếp để ông nhận lỗi và làm một điều chi đó để bù đắp. Từ tất cả những minh hoạ đó, tôi hy vọng rằng điểm nhấn mạnh ở đây đã hiện lộ rõ ràng. Chúng ta phải ngừng lẫn lộn nhãn hiệu với con người. Chúng ta không chỉ là các nhãn hiệu của chúng ta. Chúng ta cần phải được nhận biết sâu xa hơn thế. Và chúng ta thiếu nợ điều này với nhau. Tôi hy vọng bạn cùng hưởng ứng giấc mơ nhỏ bé của tôi về cuộc sống. Chúng ta sẽ học những nghệ thuật và kỹ năng giải trừ nhãn hiệu. Chúng ta phải cảnh giác mình hằng ngày cho khỏi bị làm mù quáng bởi các nhãn hiệu. Chúng ta phải trao cho nhau lòng kính trọng mà tất cả chúng ta đều đáng nhận được. Khi người ta hỏi tôi muốn được giới thiệu như thế nào với các cử toạ của mình, tôi luôn luôn trả lời đơn giản: “Hãy giới thiệu: Đây là Earnest!” Không cần kèm theo một chức danh nào, một học vị nào. Không cần những từ hoa mỹ. Tôi muốn người ta biết tôi như sự thật của tôi. Và tôi ước mơ rằng mọi người chúng ta sẽ gặp nhau như sự thật của nhau, không cần nấp dưới những nhãn hiệu này nọ nữa. Tác giả Lê Công Đức, Lm. (còn tiếp)
-
CHƯƠNG IV: DỐI TRÁ! DỐI TRÁ! AI AI CŨNG DỐI TRÁ! (điều kiện 4: phải thành thực) Hồi năm 1951, bộ phim “Rashomon” của đạo diễn Nhật Akira Kurosawa đã kết cấu một câu chuyện liên quan đến các tình tiết cưỡng hiếp, gây án mạng và lừa dối. Khi bốn nhân vật dính líu đến vụ việc được đưa ra trước toà án để cung khai, mỗi người trong họ đã tường thuật một câu chuyện khác hẳn. Sự thật bị bóp méo đến nỗi một quan sát viên bực mình, hét lên: “Dối trá! Dối trá! Các người dối trá để tự lừa gạt chính mình!” Điều chúng ta ghi nhận qua bộ phim ấy là sự thể hiện của bản tính con người. Việc chúng ta mang mặt nạ là điều tự nhiên, để đánh lừa không chỉ người khác mà nhất là đánh lừa chính mình. Những mặt nạ chúng ta mang thường không phản ảnh đúng con người thực của chúng ta. Nhưng vì chúng ta sợ sự thực về mình, nên chúng ta dùng các mặt nạ để che chắn. Các mặt nạ bảo vệ chúng ta, đề phòng người khác nhìn thấy những sự thật mà chính chúng ta không thể chấp nhận và không dàn xếp ổn thoả được. LỚP LỚP CÁC MẶT NẠ Có nhiều loại mặt nạ. Một số có tính tích cực và dễ chịu. Một số khác thì gây nhiều phiền toái, khó chịu. Một bà mệnh phụ giàu có nọ đeo chiếc mặt nạ xinh đẹp và thuỳ mị. Mái tóc của bà rất kiểu cách; khuôn mặt được trang điểm kỹ lưỡng; y phục rất ‘điệu’. Bà cho thấy một vẻ trầm lặng, thanh thoát. Suốt cả ngày không ai có thể phát hiện ra một dấu hiệu bấn loạn nào nơi người phụ nữ này. Khi tất cả chúng tôi thoải mái cười ‘ha hả’, thì bà chỉ cười “hi hi” khe khẽ. Và khi chúng tôi xuýt xoa vì xúc động mạnh thì bà chỉ hơi nhếch miệng để hưởng ứng. Sở dĩ thế chỉ vì bà không muốn làm hỏng những nét trang điểm công phu trên khuôn mặt mình. Thế là, bà nhận cái biệt danh “Nụ Cười Đông Lạnh”! Vâng, bà trông có vẻ rất dễ thương. Nhưng bà không thật là bà. Bà thành công trong việc kiểm soát chính mình để luôn toát ra vẻ trầm lặng thanh thoát, nhưng đồng thời bà cũng không sống thực sự. Bà tước mất khỏi chính mình cái khả năng được cười thoải mái và khóc tự nhiên khi xúc động – mà đó là một phần của kinh nghiệm con người. Bà sợ người khác nhìn thấy đúng sự thật về bà. Bà là một mệnh phụ và, vì thế, không thể tỏ ra hớ hênh trước mặt người ta. Cuối cùng, chỉ đến khi bà cho phép mình được thoải mái, bớt bận tâm đến chuyện người ta có thể nghĩ gì và nói gì, bà mới có thể biết cười và khóc thật sự. Bấy giờ, bà mới sống thực sự. Cũng may là mặt nạ của bà không gây dị ứng lắm cho người chung quanh. Chúng tôi thậm chí không nhận thấy rằng bà đeo một mặt nạ. Bà dễ dàng gây ấn tượng cho chúng tôi bằng bộ dạng bên ngoài của bà. Tuy nhiên, bây giờ thì chúng tôi đã nhận ra rằng cái mình nhìn thấy không hẳn là cái có thật! Một loại mặt nạ khác là loại mặt nạ của những “người tử tế”. Họ tỏ ra nồng nhiệt và quảng đại mọi nơi mọi lúc. Họ luôn luôn hy sinh và chúng ta thấy mình nhận quá nhiều từ họ. Chỉ đến khi mà họ ngừng lại, mỉm cười, nói “Không”, và bắt đầu đòi hỏi thì mới té ra là đàng sau cái mặt nạ của họ, họ cũng tìm kiếm sự quan tâm săn sóc và tranh thủ cảm tình. Trước đây tôi có một cậu sinh viên được mọi người yêu mến. Cậu xồng xộc đi vào văn phòng hướng dẫn, mỉm cười và ôm hôn mọi người có mặt ở đó. Cậu luôn luôn làm cho mọi người cảm thấy vui vẻ. Nhưng, một hôm, tôi bị một cú sốc khủng khiếp khi nghe thấy rằng cậu ta đã chém đứt cổ tay mình và nốc nguyên một chai winter-green. Thì ra, thật đáng sợ khi đeo một mặt nạ tích cực, bởi vì chúng ta không thấy được rằng người đeo mặt nạ ấy đang bị thương tổn bên trong. Cũng vậy, có những “anh hề lì lợm”. Họ pha trò cho mọi người được vui. Đôi khi họ thậm chí nhận làm cái đích để người ta cười. Nhưng khi họ nghiêm trang thì họ cũng trở thành khó chịu. Điều mà chúng ta có thể không nhận ra, đó là rất có thể họ “đang cười bên ngoài mà đang khóc trong lòng!” Trên đây chỉ là một số ví dụ về những mặt nạ có tính dễ chịu. Chúng ta sẵn sàng trân trọng những phẩm cách tốt đẹp của họ và nể phục sự tốt lành nơi họ. Chúng ta có thể xem đó như chuyện bình thường. Chúng ta có thể dễ dàng bị các mặt nạ của họ che mắt và không nhận ra bản tính con người nơi họ – họ cũng có những nỗi sợ, họ cũng có nhu cầu cần được yêu thương và được quan tâm săn sóc, họ cũng quay quắt với những nỗi cô đơn... Mặt khác, có những mặt nạ gây rất nhiều khó chịu. Tôi biết một phụ nữ hầu như lúc nào cũng vồ vập khoe khoang. Chị thuộc loại người “giành giựt sự chú ý” và ‘biết hết mọi sự”! Số là tôi đang triển khai một đề tài với nhóm của chị ta. Tôi hỏi mọi người xem họ nhớ gì về đề tài của buổi hôm trước đó. Mỗi người đứng lên tại chỗ của mình, phát biểu một hay hai câu. Thình lình, chị ta giơ tay lên, nói lớn: “Tôi xin phát biểu!” Khi tôi ra hiệu cho chị ta nói, chị đứng dậy, bước tới trước lớp và giật lấy micrô từ tay tôi. Rồi chị bắt đầu làm một bài thuyết trình dài đúng nửa tiếng đồng hồ. Chị dõng dạc nói với mọi người trong lớp: “Đây là nội dung CHÚNG TA học hôm qua ...” Chị ăn nói với cung cách đầy uy quyền, thỉnh thoảng chen vào những giải thích như: “Tôi nắm rõ điều này vì tôi đã lấy bằng tiến sĩ trong ngành X...” “Tôi biết rõ điều này vì tôi đã từng có một công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài này hồi tôi học cao học ở Y...” “Tôi biết điều này vì tôi là trưởng ban Z...” Đầu tiên, tôi nhìn chị với sự đồng cảm. Có những người không được người khác chú ý đủ, do đó họ phải cố kiếm tìm – và chị là một trong số những người như vậy. Giống như nhiều người chúng ta, chị đang lôi kéo người ta chú ý đến chị. Vì thế, sau bài nói chuyện của chị, tôi khen ngợi: “Ồ, chị có khả năng tổng hợp rất tốt! (chưa kể cái tài khoe khoang, dĩ nhiên)” Tôi rất thành thực khi nêu nhận xét như vậy. Mắt chị sáng lên ánh sung sướng và mãn nguyện. Có điều, về sau tôi mới thấy rằng lời khen ngợi ấy của mình xem ra có phần tai hại. Nó thúc đẩy chị tiếp tục phát huy thêm cái cốt cách ấy. Cứ hễ có dịp, chị lại giật lấy micrô từ tay tôi và thuyết một bài ra trò. Ngày hôm ấy chị đã làm được ba hay bốn bài như vậy! Điều làm tôi lo lắng là cả nhóm đang công khai tỏ ra khó chịu đối với chị. Họ dị ứng trước cung cách của chị. Tôi lâm vào thế kẹt, không biết phải làm sao để vừa đáp ứng nhu cầu được khoe khoang của chị vừa đồng thời cũng đáp ứng nhu cầu của lớp là không cho chị phát biểu. Tôi cố kiểm soát chị một cách sít sao. Đến cuối ngày thì tôi mệt rã rượi. Khi tôi ngồi xuống nghỉ, một bạn đồng sự của chị khều tôi và nói: “Bây giờ thì ông bắt đầu thực sự biết chị ấy rồi đấy. Chị ấy là chủ tịch ‘HỘI TỰ TIN’ của chúng tôi ở đây.” Tôi hỏi sao gọi là HỘI TỰ TIN. Cô ấy nói vì đó là hội của những người quá tin vào chính mình. Tôi phá lên cười. Rõ ràng là nơi người phụ nữ kia có rất nhiều tính cách hoàn toàn phù hợp với cái danh hiệu ấy. Nhưng tôi vẫn băn khoăn suy nghĩ. Cuối cùng tôi quay lại với người đang nói chuyện với tôi và phản đối: “Này cô, tôi nghĩ là chị ấy không tự tin chút nào cả. Đúng ra, chị ấy nghi ngờ các khả năng của chính chị ấy. Hãy xem chị ấy phải vất vả biết bao để thuyết phục mọi người tin rằng chị ấy giỏi giang. Tôi cho rằng chính trong lòng chị ấy, chị ấy cũng không tin rằng mình giỏi mấy!” Tôi sực nhớ lại, một nhà trị liệu tâm lý bạn tôi đã từng nói với tôi: “Nếu trong đáy lòng mình, bạn xác tín rằng bạn tốt, thì bạn sẽ chẳng thấy cần phải chứng minh điều đó cho bất cứ ai. Bạn cứ thoải mái là chính bạn!” Người phụ nữ của câu chuyện trên là một trường hợp bệnh hoạn. Sau nhiều tháng năm, chị đã đi đến kết luận rằng cách duy nhất để chị tin chắc vào các khả năng của mình, đó là kể đi kể lại với người khác về những bằng cấp và những thành đạt của chị – và chị không thể ngờ rằng bằng cách ấy chị chỉ có thể gây ác cảm nơi người ta. Mọi người đều xa tránh chị. Ngay cả khi chị nhận ra được vấn đề, thì chị cũng đã mắc vào một cái bẫy tâm lý. Fitzhugh Dodson, một chuyên gia về tâm lý trẻ em, đã nhận ra điều này và đã gọi đó là “qui luật của những miếng khoai tây chiên ướt sũng”. Ướt cũng không sao, miễn có khoai tây chiên là được rồi! Có còn hơn không mà! Ở đây người phụ nữ ấy chỉ cần được thiên hạ chú ý, chị không cần bận tâm về chuyện người ta đang chú ý để yêu hay ghét mình. Điều mà người phụ nữ nói trên và nhiều người trong chúng ta thiếu, đó là tính thành thực tâm lý (psychological honesty). Chúng ta không có được cái “khả năng đối diện với sự thật về chính mình, cả những sự thật tích cực lẫn tiêu cực, cả những điểm mạnh và điểm yếu.” Vì nếu chúng ta có được khả năng ấy, chúng ta sẽ không thấy có lý do gì để mình phải nấp sau một mặt nạ. Chúng ta sẽ thấy việc xây dựng cho mình một hệ thống phòng thủ là vô nghĩa. Mình ra sao, mình cứ thể hiện ra như vậy. Thế thôi! MỘT CUỘC HOÀ GIẢI BÊN TRONG Tuy nhiên, tính thành thực tâm lý không thể tồn tại trong một môi trường mà sự dối trá - chứ không phải sự thật – chiếm nhiều ưu thế hơn. Rất nhiều người trong chúng ta không nhận ra được sự thật về những điều tốt lành nơi mình, vì chúng ta ở trong một xã hội bị què quặt bởi quan niệm lệch lạc rằng hễ ai nhìn nhận các phẩm chất tích cực nơi mình thì rõ ràng đó là kẻ kiêu ngạo. Rốt cục, nỗi sợ phạm tội kiêu ngạo đã ngăn cản không cho chúng ta ý thức các khả năng được ban cho mình. Rồi, sự bất lực không hoà giải được trong chính mình ấy, đến lượt nó, sẽ làm chúng ta khổ sở và không thể phát huy tối đa năng lực của mình. Tôi đồng ý rằng một số trong chúng ta có thể rơi vào cám dỗ kiêu ngạo khi chúng ta quá loay hoay với những phẩm chất tốt đẹp của mình. Song một số người có thể cảm nghiệm một cách khác hẳn, và chúng ta không được phép phủ nhận kinh nghiệm tâm linh này của họ. Thay vì tự mãn về các khả năng của mình, họ trở nên khiêm tốn. Các khả năng của họ trở thành một dấu chỉ rõ ràng cho họ thấy tình yêu của Thiên Chúa. Họ khám phá rằng họ được ban cho những khả năng mà họ vốn không đáng được. Phủ nhận những khả năng ấy, đấy sẽ chẳng khác nào phủ nhận chính tình yêu của Thiên Chúa. Và việc phủ nhận như vậy sẽ là một hình thức kiêu ngạo còn khủng khiếp hơn. Cũng vậy, chúng ta không được dạy để chấp nhận những điểm yếu như một phần của thân phận con người chúng ta. Hãy xem sự hoàn hảo được đề cao biết bao, và sự sai sót bị tẩy chay biết bao! Chúng ta có khuynh hướng che giấu không cho người khác thấy các sai lầm và bất toàn của mình; thế nhưng, cách duy nhất để vượt qua chúng là tiên vàn phải nhận biết chúng. Chỉ khi ấy chúng ta mới có được khả năng để điều chỉnh chúng. Chính Chúa Giêsu đã kiến tạo một bầu khí phù hợp cho sự thành thực tâm lý. Ngài kéo các tội nhân đến với Ngài. Ngài nói: “Ta đến không phải để xét xử nhưng là để cứu các tội nhân.” Khi chúng ta phơi trần các tội lỗi của mình trước mặt Ngài và kinh nghiệm được sự đón nhận và tha thứ của Ngài, thì chúng ta sẽ có được sự tự do và sức mạnh lớn lao hơn để vượt qua những yếu hèn và bất toàn nơi mình. Bằng cách này hay cách khác, những điểm tiêu cực của chúng ta sẽ trở thành những cơ hội và những kinh nghiệm ân sủng, từ đó chúng ta có thể trưởng thành hơn lên về tâm lý và tâm linh. Đối diện với sự thật về chính mình – tức sự thành thực tâm lý – là đảm nhận lấy nhân tính của chúng ta. Bồi dưỡng các khả năng của mình và giải phóng những hèn yếu nơi mình, đó chính là chúng ta đang hiện lộ dần ra với thần tính nơi mình. Khi chúng ta gặp một người trên đường, chúng ta phải nhận ra nhân tính và thần tính tiềm tàng nơi người ấy. Mọi con người, dưới lớp vỏ của họ, dưới những mặt nạ và những hệ thống tự vệ của họ, đều có sự thành thực trong các ý hướng. Trong sâu thẳm, họ có một tình yêu căn bản đối với những người khác. Mặc dù trong một số trường hợp, tình yêu này không tự nó bộc lộ ra ngoài cách rõ rệt. Khi điều hành một cuộc Hội Thảo Phòng Chống HIV dành cho nam giới mại dâm, tất cả chúng tôi bị khó chịu bởi một thành viên xuất hiện như một tay lưu manh. Chỉ tướng mạo anh ta cũng đủ thấy “dữ dằn”. Anh ta có tính cách trịch thượng, khoe khoang, kẻ cả. Nhưng khi chúng tôi giới thiệu cho các tham dự viên một bài thực hành vén mở câu chuyện cuộc đời mình, tôi mới nhận ra bên trong anh chàng này là một cậu bé bị bị bỏ rơi và bị thương tổn . Thì ra, cha anh đã bỏ gia đình lúc anh còn rất nhỏ. Mẹ anh, sau đó, bỏ đi theo một người nước ngoài. Anh và các em mình phải sống với bà ngoại – một tay máu mê cờ bạc. Nghĩa là, mấy đứa nhỏ phải bắt đầu tự lo nuôi thân. Là anh cả, anh phải đùm bọc các em. Anh bắt đầu bán hàng rong ngoài đường phố và dần dần ‘dạn dày sương gió’. Trường đời trui anh trở thành một con người cứng rắn. Nhưng khi chia sẻ câu chuyện của mình, anh đã khóc nức nở như một đứa trẻ. Anh nói trong nước mắt ràn rụa: “Tôi đã săn sóc các em trai, em gái mình từ đó đến nay. Nhưng còn bản thân tôi? Những người đáng ra phải săn sóc chúng tôi đang ở đâu rồi?” Chúng ta có thể dễ dàng đoán xét anh qua loại công việc anh làm và qua các hành động của anh. Thế nhưng, trong nhận thức về anh như một nhân vị, chúng ta phải thấy rằng thực ra anh là một nạn nhân. Quả chúng tôi đã được một mạc khải lớn khi chứng kiến đứa trẻ dễ xúc động bên trong anh. LỜI TRỞ THÀNH XÁC THỊT Một thách đố đặt ra cho chúng ta, đó là chúng ta phải là những “lời trở thành xác thịt”. Kiểu nói này mượn ở Thánh Kinh, qui chiếu đến ngôi vị Đức Kitô. Đức Kitô là “Lời Trở Thành Xác Thịt” bởi vì nơi ngôi vị của Ngài, tình yêu của Chúa Cha được tỏ lộ và trở nên cụ thể. Không giống như thứ triết lý nào đó nói: “Tôi yêu nhân loại, chỉ có điều tôi không chịu nổi lũ người xung quanh tôi!”, Cha chúng ta không trao cho chúng ta những lời hứa và những thiện chí suông. Ngài đã hoàn thành các lời hứa của Ngài qua việc trao ban cho chúng ta chính Con của Ngài, Đấng làm cho tình yêu của Ngài hiện diện thực sự với chúng ta. Chúng ta phải theo cách của Ngài. Biết bao lần chúng ta nghe lời phân trần: “Ồ, xin lỗi! Tôi không có ý như vậy. Tôi không hề có ý muốn gây thương tổn cho bạn.” Hoặc biết bao lần chúng ta làm thương tổn người khác chỉ bởi vì chúng ta bị thương tổn. Thường có một khoảng cách giữa một bên là hành vi thái độ và bên kia là các ý hướng của chúng ta. Tôi xin minh hoạ điều này bằng mẩu chuyện sau đây. Một cậu bé, lần nọ, tập trung hết can đảm để hỏi mẹ: “Mẹ ơi, sao mẹ đánh đòn con hoài thế hở mẹ?” “Con à,” người mẹ trả lời, “Mẹ đánh đòn con vì mẹ thương con. Nếu mẹ không quan tâm đến con, thì mẹ chẳng cần mất công sửa trị con.” Nghe vậy, thằng bé nhíu mày. Nó đưa tay gãi gãi đầu và nói: “Mẹ à, vậy thì xin mẹ vui lòng bớt thương con đi một chút ... Mẹ thấy đó, tình thương của mẹ làm con đau khủng khiếp!” Dù các ý hướng của người mẹ tốt đến mấy đi nữa, thì điều mà đứa con của bà cảm thấy vẫn là những ngọn roi quất vào mông đít nó. Thế đó, thường các ý hướng của chúng ta không ăn khớp với cách mà chúng ta hành động. Câu chuyện cuối cùng của tôi trong chương này là câu chuyện liên quan đến một người đàn ông 63 tuổi mà chúng ta sẽ gọi là Phil. Phil thuộc về tầng lớp những ông chủ lớn, vì thế tôi nghĩ rằng ông ta sẽ rất đứng đắn chỉnh tề. Thế nhưng thực tế hoàn toàn ngược lại. Ơng khạc nhổ bừa bãi bất cứ chỗ nào. Lúc đó chúng tôi đang ở trong một nhà tĩnh tâm xinh đẹp, và ông đã làm mọi người khó chịu bằng cách liên tục nói chuyện ồn ào với người ngồi bên cạnh trong khi diễn giả đang thuyết trình. Ơng không bao giờ lắng nghe, nhưng ông thích xỏ lá bằng cách hỏi diễn giả những câu hỏi vớ vẩn. Gai mắt nhất là ông luôn luôn ve vãn các phụ nữ trong nhóm – “Tôi không thể hiểu tại sao vợ tôi không chịu nổi việc tôi quan hệ lung tung với phụ nữ. Tôi là một người đàn ông kia mà!” (cực kỳ sô vanh đàn ông!) Nói tắt, ông là một con người rất khó ưa. Thái độ và hành vi của Phil gây phiền toái rất nhiều cho tôi trong tư cách là người điều hành nhóm. Vài lần, tôi thầm nghĩ giá chi ông ta nhận được một cú điện thoại khẩn cấp và cút xéo đi thì hay biết bao! Hoặc giả, tôi cảm thấy muốn túm cổ ông ta và liệng phứt qua cửa sổ cho rảnh nợ! Thật vậy, tôi tự hỏi tại sao ông ta phải mất công ở lại dự khoá hội thảo này khi mà rõ ràng ông chẳng cho thấy một chút quan tâm! Trong một buổi nói chuyện, tôi thảo luận về đề tài “Cháy máy” (Burn-out). Ơng ta bắt đầu tấn công tôi, tố cáo rằng tôi theo thực dân, rằng “Cháy máy” không phải là một kinh nghiệm của người Philippines, rằng tôi vay mượn ý niệm ấy từ sách vở Mỹ. Tôi kiên nhẫn giải thích rằng đúng là tôi đang thảo luận những ý niệm từ các tài liệu Mỹ, nhưng “Cháy máy” là một kinh nghiệm phổ quát của con người. Theo như định nghĩa, “Cháy máy” là tình trạng “bị rút sạch năng lực do cho đi quá nhiều hay do kỳ vọng quá nhiều vào chính mình.” Vì thế, kinh nghiệm này cũng gần gũi với người Philippines không kém chi so với người Mỹ. Nhưng, theo cốt cách cố hữu của ông, ông vẫn khư khư bào chữa cho quan điểm của mình. Thế là tôi bị trôi vào cuộc tranh luận với ông ta. Không ai trong chúng tôi chịu lắng nghe cả. Ơng ta một mực bướng bỉnh cố chấp. Còn tôi thì quyết tự vệ. Cả nhóm bị đặt trong tình trạng bối rối. Buổi làm việc xem như hỏng hoàn toàn. Cuối cùng, tôi nói: “Nếu ông không đồng ý, thì đó là quyền của ông!” - và cuộc thảo luận tạm dừng. Tôi vốn có tính nhẫn nại và ôn hoà với người ta. Vì thế tôi rất áy náy, vì trong trường hợp này mình đã thiếu nhẫn nại với Phil. Nghĩ kỹ, tôi nhận thấy rằng mình đã phản ứng lại người đàn ông ấy dựa theo những tâm cảnh tiêu cực trước đó của mình về ông ta. Tôi viết cho ông một thư ngắn, xin lỗi vì cuộc cãi vã đã xảy ra và vì mình đã không lắng nghe ông ta. Nhưng tôi cũng vạch cho ông thấy những cung cách của ông đã đẩy tôi tới chỗ phản ứng như thế. Sau khi đọc mảnh giấy của tôi, Phil thinh lặng suốt thời gian còn lại của ngày hôm ấy. Sáng hôm sau, chúng tôi lại giáp mặt nhau trong giờ giải lao. Thay vì tránh mặt, Phil đã làm tôi ngạc nhiên qua việc tự nguyện cởi bỏ mặt nạ của ông ra và bộc bạch câu chuyện cuộc đời mình cho tôi nghe. Lắng nghe ông nói, các cảm nghĩ của tôi về ông bắt đầu thay đổi. Tôi không kinh tởm ông nữa, thay vào đó, tôi bắt đầu cảm thấy tội nghiệp cho ông, tôi đồng cảm với ông. Thì ra, ở tuổi sáu mươi ba của mình, Phil đã xây dựng cho mình một tiêu chuẩn giá trị dựa trên hai điều. Thứ nhất, ông cảm thấy mình có thế giá bởi vì ông có sự nghiệp ổn định và đường đường là một giám đốc. Tuy nhiên, ông sợ rằng trong hai năm nữa, ông sẽ bị yêu cầu nghỉ hưu. Ơng thường tự hỏi liệu mai mốt khi không còn địa vị này nữa thì mình sẽ thế nào. Ơng không thể tưởng tượng được việc ông đánh mất cái mà ông đang bám vào như một “phao an toàn”. Thứ hai, ông luôn luôn tin rằng giá trị của ông trong tư cách là một đàn ông được đo lường bằng con số những người đàn bà mà ông chinh phục được. Vợ ông càng ghen, thì có nghĩa là tính cách đàn ông nơi ông càng được khẳng định – và như vậy cũng có nghĩa rằng ông là một con người có giá trị. Nhưng, càng tiến tới tuổi già, ông càng bị ám ảnh bởi nỗi sợ đánh mất tính đàn ông nơi mình. Và một lần nữa, ông băn khoăn không biết số phận và giá trị của mình sẽ ra sao khi mình không còn nhiều “tính đàn ông” nữa. Mối đe doạ về việc mất địa vị và mất tính đàn ông là một mối đe doạ rất thực và rất mãnh liệt đối với Phil. Điều này giải thích tại sao nơi ông có những kích động trái khuấy. Hiểu được điều này, tôi chủ động cởi mở và trao đổi quan điểm với ông về tầm quan trọng của việc tìm ra giá trị bên trong con người mình. Điều thú vị trong câu chuyện này là sau đó Phil đã cố nài chúng tôi tổ chức một khoá hội thảo tương tự cho các nhân viên của ông vào tuần tiếp sau đó. Tôi không thể hiểu được tại sao ông yêu cầu bức thiết như vậy. Tôi tiếp tục tìm hiểu, và ông thú nhận: “Nếu tôi trở về sở của mình, với một tính cách đã thay đổi như bây giờ, các nhân viên của tôi sẽ không tin tôi. Bởi vậy, nếu anh chia sẻ kinh nghiệm này cho tất cả chúng tôi, thì họ sẽ dễ nhận hiểu và sẵn sàng nâng đỡ những thay đổi nơi tôi hơn.” Đành rằng yêu cầu của Phil có dấu vết ích kỷ, nhưng đó cũng là một yêu cầu có cơ sở vững chắc. Đôi khi chúng ta thay đổi nhưng lại bị bối rối về sự thay đổi của mình. Bao lâu những người khác không ủng hộ sự thay đổi nơi chúng ta, thì chúng ta không thể tạo ra được và giữ được sự thay đổi ấy. Câu chuyện của Phil dạy chúng ta rằng dù bề ngoài của một người nào đó có vẻ tiêu cực đến mấy, nếu người ấy được trao cho cơ hội, chúng ta sẽ thấy hiện lộ tính cách tốt lành nơi người ấy. Tất cả những gì người ấy cần là sự can đảm để cởi bỏ các mặt nạ và hệ thống tự vệ của mình, để bộc lộ chính con người thực của mình ra. Chương này muốn nhấn mạnh rằng chúng ta phải đứng về phía sự thật để chống lại những sự dối trá, ta phải có sự thành thực tâm lý để chống lại những mặt nạ và những hệ thống tự vệ. Đó là những bước quyết định để lớn lên. Ở đây chúng ta được dạy đừng sợ đảm nhận lấy tính người của mình, vì chính tính người sẽ lát đường cho chúng ta tiến lên và hiện lộ trong thần tính. Chúng ta được bảo đảm rằng trong sâu thẳm mỗi con người đều có tồn tại tính bản thiện – hiểu là ai cũng có những ý hướng thành thực. Tất cả những câu chuyện minh hoạ trên đây của chúng ta đều nêu bật điều đó. Bạn hãy nhìn lại cuộc sống của bạn và kiểm tra các mặt nạ và các hệ thống tự vệ. Bạn đã bám chặt vào chúng đến mức nào? Bạn đã sử dụng loại mặt nạ nào? Một con người tử tế ? Một anh hề? Một ‘ông biết hết’? Và đâu là những sự thực về chính bạn, cả tích cực lẫn tiêu cực? Bạn có gặp khó khăn trong việc hoà giải với những sự thật nơi mình không – đến nỗi bạn phải tránh né dưới một mặt nạ? Bạn có thể làm những gì để hoà giải với những sự thật này? Chúng ta thường nghe câu châm ngôn: Thành thực là thượng sách! Trong tiến trình trưởng thành, chúng ta cũng sẽ áp dụng câu châm ngôn tương tự: Thành thực (tâm lý) là thượng sách! Tác giả Lê Công Đức, Lm. (còn tiếp)
-
CHƯƠNG III: HÃY MỞ RA (điều kiện 3: cởi mở)“Hãy cởi mở?! Thật vậy sao? Bạn muốn nói rằng tôi phải chia sẻ những điều thầm kín của tôi cho người khác à? Lỡ họ phản bội thì sao?” Người ta rất thường phản ứng như vậy mỗi khi tôi nhấn mạnh rằng cởi mở là một yếu tố cần thiết để lớn lên và thay đổi. Dĩ nhiên, họ đang phản ứng lại ý niệm thông thường về sự cởi mở – hiểu rằng cởi mở là chia sẻ một cách không hạn chế mọi ý nghĩ và tâm trạng của mình cho người khác. Ngoài ý nghĩa trên, còn có hai hình thức khác nữa về sự cởi mở. Dù sao, trong chương này, chúng ta sẽ khám phá cả ba loại. Đó là: cởi mở qua việc chia sẻ chính mình; cởi mở chống lại những miếng da che mắt ngựa; và cởi mở để mở rộng mình ra. CỞI MỞ BẰNG CÁCH CHIA SẺ CHÍNH MÌNH Khi nói “cởi mở”, chúng ta ngay lập tức liên tưởng đến việc chia sẻ chính mình cho người khác. Đây là ý nghĩa thông thường của cởi mở. Nói cách khác, ở đây cởi mở được hiểu là “việc tự ý bộc bạch về mình” hay “khả năng chia sẻ một số thông tin riêng tư cách tự nhiên thoải mái, nhất là về chính mình, cho người khác.” Hình thức cởi mở này làm nhiều người trong chúng ta khiếp sợ. Chúng ta thử cởi mở như vậy, nhưng dường như để rồi cuối cùng phải nếm mùi đau khổ. Chúng ta san sẻ con người thầm kín nhất của mình cho người khác chỉ để rồi khám phá ra rằng những gì mình chia sẻ ấy đã được sử dụng để chống lại mình. Bị phản bội và cay đắng, chúng ta thề sẽ không bao giờ lặp lại điều đó nữa. Thay vào đó, chúng ta quyết định thu mình lại trong vỏ ốc của mình cho được an toàn. Sự mạo hiểm bắt ta phải trả giá đắt quá! Tôi đã gặp rất nhiều người đóng khung nhốt kín chính mình. Khi tôi mời họ thử cởi mở một lần nữa, họ cảm thấy kinh sợ. Những nỗi sợ hãi của họ lại hiện lên, dường như có một chiếc máy báo động ‘automatic’ bên trong họ bảo họ rằng khả năng bị thương tổn sẽ lại xảy đến y như cũ. Họ quyết cự tuyệt. Trước tình hình đó, tôi bảo đảm với họ rằng sự cởi mở – như chúng ta định nghĩa – là một cái gì có tính tự nguyện. Không ai bị ép buộc cởi mở. Nhưng vì cởi mở là điều kiện tất yếu cho sự lành mạnh tâm lý và tâm linh của chúng ta, nên tôi đang muốn khích lệ họ mà thôi. Tất cả chúng ta đều cần được lắng nghe và, nhất là, được hiểu. Bao lâu chúng ta chưa dám liều để chia sẻ bản ngã thâm sâu của mình và được nhìn nhận bởi một ai đó khác, chúng ta sẽ gặp khó khăn trong việc củng cố con người nội tâm của mình. Chúng ta sẽ không được tự do để thể hiện tính cách của mình, thể hiện mình là gì và mình không là gì. Chúng ta sẽ không thể là mình trước mặt người khác. Và chúng ta trở nên cô đơn. “Người ta cô đơn bởi vì họ xây những bức tường thay vì những cây cầu!” Pepe (không phải tên thật của anh ta) tham dự khoá hội thảo 7 ngày của chúng tôi. Tối nào Pepe cũng xin gặp và nói chuyện với tôi một lát. Yêu cầu của anh nghe rất khẩn thiết. Nhưng khi gặp tôi, anh nói huyên thiên những chuyện linh tinh không đâu vào đâu cả. Anh làm tôi có ấn tượng rằng anh không có đủ can đảm để nói với tôi về điều đang gây bận tâm cho anh. Sự việc cứ thế tiếp tục diễn ra trong sáu buổi tối. Mỗi lần tôi muốn đặt thẳng vấn đề với anh, anh luôn luôn lảng tránh. Vào buổi tối thứ sáu, tôi thở dài và nói: “Này Pepe, mình thật sự trân trọng sự chia sẻ của cậu trong cả tuần qua. Tuy nhiên, mình cảm thấy chắc hẳn còn rất nhiều điều mà cậu chưa đề cập đến. Mình băn khoăn vì ngày mai mình phải đi Manila rồi. Mình không biết có ai ở đây để cậu tiếp tục chia sẻ với hay không?” Không chút lưỡng lự, Pepe lắc đầu. Tôi tiếp tục thúc giục anh ta thêm nữa. “Hãy nghĩ kỹ đi, Pepe. Chắc chắn phải có ai đó mà cậu có thể tiếp cận và trang trải tâm sự một cách dễ dàng.” Một lần nữa, Pepe lại lắc đầu và thú nhận: “Tôi đã thử, nhưng mọi người chỉ lên lớp cho tôi mà thôi. Họ không thật sự lắng nghe tôi.” Rồi, nhìn vào mắt anh ta, tôi nhận thấy một tâm hồn cô đơn khủng khiếp đang bức thiết cần được tiếp xúc và được lắng nghe. Tôi khích lệ anh tiếp tục tìm kiếm một ai đó, đồng thời tôi cũng đề nghị anh tiếp tục liên lạc với tôi bằng thư từ. Thế là thỉnh thoảng Pepe viết thư cho tôi. Sau một năm, tôi có dịp gặp lại anh. Lần này, anh có đủ can đảm để vén mở mọi sự cho tôi. Tôi chăm chú lắng nghe anh, ý thức rằng mình đang được anh đặc biệt tin tưởng để phơi trần tất cả tâm hồn anh. Trong khi tập trung lắng nghe câu chuyện của Pepe, tôi nhận ra rằng câu chuyện của anh không chỉ là câu chuyện của một mình anh. Đó cũng là câu chuyện của tôi nữa. Nhớ lại, đã bao lần tôi thường nguỵ biện rằng vì cuộc đời của mỗi người mỗi khác, nên mình không thể đồng cảm được với bất cứ ai! Sau khi Pepe thở dài, nhẹ nhõm vì cuối cùng thì anh đã trút được gánh nặng đè nén bấy lâu nay, tôi khích lệ anh ta: “Pepe, không sao đâu. Cậu không chiến đấu một mình đâu. Cậu không cần phải một mình vác lấy gánh nặng này.” Giống như Pepe, chúng ta sợ không dám mạo hiểm để cởi mở. Chỉ khi cảm thấy tín nhiệm thì việc mạo hiểm cởi mở mới trở nên dễ dàng. Khi một người khác cho chúng ta thấy rằng họ đáng tin cậy – không chỉ bằng lời nói, mà nhất là bằng hành động – chúng ta sẽ thấy dễ dàng hơn trong việc tự nguyện bộc bạch chính mình. Rất tiếc là sự thất tín – chứ không phải sự tín nhiệm – đang tràn lan trong xã hội chúng ta hôm nay. Chúng ta nghe nhiều cha mẹ nói rằng họ thích con cái mình cởi mở trong gia đình. Nhưng khi con cái họ chớm có dấu hiệu cố gắng diễn tả những quan điểm nào đó, chúng lập tức bị quở trách và bị ‘tắt đài’. “Đừng cãi! Mày biết là mày đang nói chuyện với ai chứ? Mày chỉ là một đứa con nít!”, hay “Chúng mày biết không, con nhà gia giáo thì không bao giờ cãi lại bố mẹ (cho dù chúng nó có lý!)” Chúng ta cũng thấy nhiều thầy cô giáo khích lệ sự cởi mở trong lớp học. Nhưng khi một học sinh công khai phát biểu những cảm nghĩ tiêu cực của mình, học sinh ấy lập tức bị đuổi ra khỏi lớp: “Mời em lên gặp hiệu trưởng!” Hoặc chúng ta cũng có thể nghe một ông chủ việc kêu gọi rằng các công nhân nên góp ý về tình hình công ty. Nhưng khi một công nhân nào đó – trong tinh thần xây dựng – dám nêu ra một số phê bình tiêu cực, lập tức công nhân ấy sẽ bị hạ tầng công tác vào năm tới. “Thế thì, tại sao ta phải mạo hiểm khi mà cứ đóng kín mọi sự nơi chính mình thì sẽ an toàn hơn?” – đây là thái độ thường được nhận thấy trong xã hội của chúng ta. Thật vậy, bao lâu chúng ta chưa có đủ những kinh nghiệm tích cực về sự tín nhiệm, thì bấy lâu sự cởi mở vẫn còn là một lý tưởng xa vời. Tôi buồn cười khi nghe chị kia nói: “Ồ được, tôi sẽ cởi mở với điều kiện anh ta cởi mở với tôi trước.” Và anh nọ cũng trả lời tương tự: “Được chứ, tôi sẽ cởi mở nếu cô ấy bắt đầu trước!” Thế là hai người chờ nhau, người này chờ người kia khởi động, không ai dám đi bước tiên phong. Chúng ta phải bắt đầu, cách này hay cách khác. Hoặc chúng ta giúp cho thêm nhiều người biết cởi mở bằng cách cho thấy rằng chúng ta là người đáng tin cậy, hoặc chúng ta tiên phong đi bước trước trong việc cởi mở chính mình. Sự cởi mở sẽ làm phát sinh sự cởi mở. Chúng ta phải dám làm người tiên phong. Chính tôi cũng từng nếm cảm kinh nghiệm bị thương tổn do việc cởi mở. Khi một trong những người bạn (mà tôi tín nhiệm nhiều năm) bất ngờ bội phản tôi qua việc sử dụng những chia sẻ của tôi để bôi bác tôi, tôi tự nhủ: “Chừng đó đủ tởn tới già; mình sẽ không bao giờ bộc bạch tâm sự với ai nữa!” Rồi giống như bao người khác, tôi co lại và phòng thủ. Rất may là những người bạn khác nhận ra thái độ ‘xây lô cốt’ ấy nơi tôi, và họ cố gắng tiếp cận tôi. Họ nói: “Chỉ một người phản bội cậu, mà sao cậu lại trả đũa tất cả bọn mình?” Lời chất vấn đó làm tôi tỉnh ngộ. Đúng vậy. Khi bạn bị một người làm tổn thương, bạn dễ có khuynh hướng nghi ngờ hết mọi người khác. Nhưng nếu do bởi chỉ một người mà tôi ngừng tín nhiệm hết mọi người, thì ai thua trong cuộc chơi này đây? Chắc chắn đó không phải là người đã phản bội tôi. Chính tôi mới là người thua lỗ. Tôi phải tiếp tục tín nhiệm người ta. Một người thất tín với tôi, điều đó dạy tôi phải biết cân nhắc và cẩn thận hơn. Tôi cần phải biết phân định khi nào tôi nên cởi mở và khi nào thì không nên. Nhưng chúng ta không nên tuyệt đối bế quan toả cảng. Bạn hãy tự hỏi: Trong cuộc sống mình, mình có được ít nhất ba hay bốn người để có thể chia sẻ mọi sự một cách thoải mái không? Mình có thể chia sẻ những nỗi sợ, những thương tổn và những điểm yếu của mình cũng một cách tự nhiên không kém chi khi chia sẻ các niềm vui, những thành tựu với một người khác không? Mình có luôn luôn ở trong tư thế cởi mở và sẵn sàng bộc bạch chính mình cho người khác không? Nếu câu trả lời của bạn là “Không”, thì có lẽ đã đến lúc bạn cần quan tâm nhiều hơn đến hình thức cởi mở này. NHỮNG MIẾNG DA CHE MẮT NGỰA Nhìn một con ngựa kéo xe, chúng ta có thể thấy rằng nhãn giới của con ngựa bị giới hạn rất nhiều bởi hai miếng da che mắt nó. Xét một phương diện, miếng da che mắt ấy phục vụ cho mục đích giữ con ngựa khỏi bị quấy rối. Nhưng đồng thời nó cũng tước mất khỏi con ngựa khả năng nhìn thấy các thực tại chung quanh. Tương tự như những miếng da che mắt ngựa, tất cả chúng ta đều có những tâm cảnh về chính mình, về người khác, về thế giới, và về Thiên Chúa. Chúng ta có những tâm cảnh – những cảm nhận, những quan điểm, những thái độ – về hầu như mọi sự. Và cũng giống như những miếng da che mắt ngựa, nếu chúng ta không cẩn thận, tâm cảnh của chúng ta có thể che mắt mình, không cho phép mình nhìn thấy những thực tại mới và tước khỏi mình khả năng học hỏi thêm. Vì thế, chúng ta cần thực hành một hình thức thứ hai của sự cởi mở. Chúng tôi gọi sự cởi mở này là “khả năng đập vỡ tâm cảnh đang tồn tại của mình và cho phép ta kinh nghiệm mọi điều mới, để đạt được những hiểu biết mới, để học lại những điều vốn đã quên, và để đào thải những nhận hiểu sai lầm.” Có một anh chàng đến tham dự từ đầu đến cuối một khoá hội thảo, nhưng chỉ lắng nghe một cách nửa vời – bởi vì ngay từ đầu anh ta cho rằng đề tài đang được thảo luận không mới mẻ gì đối với anh. Anh giữ thái độ này trong suốt khoá, thậm chí anh còn tỏ ra cho thấy rằng mình rất am hiểu. Cuối cùng, anh ta về nhà, mang theo với mình những gì mình đã biết, chẳng được thêm gì. Cũng chẳng có gì thay đổi. Đàng khác, có một phụ nữ tham dự cùng khoá hội thảo ấy. Đó là lần thứ hai chị nghe tôi thuyết trình. Vì thế, tôi đến gặp chị và nói nhỏ: “Chị không cần tham dự khoá này nữa. Nói chung, những điều mà chúng ta sẽ thảo luận ở đây cũng giống như những gì chúng ta đã làm hồi năm ngoái.” Nhưng chị trả lời: “Ồ, tôi nghĩ việc mình tham dự lại một lần nữa là điều rất tốt. Tôi sẽ có thể thu nhặt được điều gì đó mới mẻ, hoặc tôi cũng có thể ôn lại những gì mình đã học hỏi được.” Sau một buổi thảo luận, tôi tò mò muốn biết lần này chị nhận định thế nào về bài thuyết trình của tôi. Và chị đã trả lời như sau: “Năm ngoái, khi tôi nghe anh nói, tôi không thể không bật khóc bởi vì anh thường xuyên khơi lại nỗi đau của tôi. Năm nay, tôi nhận ra rằng mình không bị đau như thế nữa. Có lẽ, tôi đã chữa lành nỗi đau của mình rồi, và tôi đã trở thành mạnh mẽ hơn. Và hôm nay, chỉ chừng ấy cũng đã đủ lý do để tôi vui mừng rồi!” Bạn hãy ghi nhận điều kỳ diệu nơi người phụ nữ này khi chị luôn sẵn sàng tiếp tục lớn lên và học hỏi bằng sự cởi mở của chị. Bởi vì chị cởi mở, mọi kinh nghiệm đều là một cơ hội mới cho chị lớn lên. Đây đúng là thái độ mà chúng ta cần phải có. Nếu ta không cởi mở, tâm cảnh của mình có thể tước mất của mình mọi kinh nghiệm mới và mọi nhận thức mới gắn liền với các kinh nghiệm ấy. Tôi có một kinh nghiệm thú vị về những miếng da che mắt ngựa. Câu chuyện có liên quan tới một viên giám thị ở trường nơi tôi làm việc. Ở đây chúng ta sẽ gọi anh ta là Bill. Khi lần đầu tiên tôi đảm nhận tư cách một nhà hướng dẫn tư vấn, tôi nghe vô số những lời phàn nàn về anh ta. Bill không được ưa thích lắm đối với các học viên, cũng không chiếm được nhiều cảm tình của các giảng viên và các vị quản lý. Vai trò của anh ta trong tư cách một giám thị càng làm tai tiếng của anh ta thêm tệ hại. Trong khi tôi ghi nhận những lời phàn nàn về Bill, tôi cố thận trọng để không bị ảnh hưởng bởi thành kiến của mọi người. Vả lại, tôi là một nhà tư vấn và tôi dạy về sự cởi mở – nên tôi quyết định rằng mình phải đích thân gặp anh ta và tự mình tìm hiểu. Sau một thời gian, tôi có cơ hội làm việc với Bill. Tôi bắt đầu cảm thấy rằng mọi người đã phàn nàn đúng. Tôi cũng không thích anh ta. Anh ta quả là một người mà bạn sẽ khó chịu đựng. Tuy nhiên, tôi cố duy trì một thế đứng chuyên môn trong mối quan hệ với anh. Có một lần, tôi tình cờ gặp một người quen cũ và té ra là bạn chí cốt của Bill. Họ gọi nhau như thế bởi vì họ đã có một mối gắn bó sâu xa hơn cả quan hệ ruột thịt. Khi người bạn ấy khám phá ra rằng tôi đang làm việc với Bill, anh cười thật tươi và hỏi về Bill. “Cậu có chắc là chúng ta đang nói về cùng một người không đấy?” Tôi hỏi. Ở trường, không ai mỉm cười khi nhắc đến tên của Bill. Đa số người ta sẽ bĩu môi và lắc đầu. Sau khi người bạn tôi mô tả Bill một cách chi tiết, tôi hiểu rằng đúng là anh ta đang nói về Bill – chỉ có điều là tâm cảnh của anh ta về Bill khác xa với tâm cảnh của chúng tôi. Rồi, bạn tôi chia sẻ thêm những thông tin đầy bất ngờ về Bill. Lắng nghe anh bạn này nói chuyện, tôi chợt nhận ra mình biết về Bill quá ít, mình đã đánh giá về Bill quá vội vàng. Giống như một con ngựa phải đeo hai miếng da che mắt, tôi đã cho rằng sự hiểu biết ít ỏi của mình về Bill chính là toàn bộ sự thực về anh ta. Và tôi tự cảm thấy xấu hổ. Tôi càng giật mình hơn nữa khi người bạn ấy nói: “Cậu có biết rằng Bill là một con người rất nghệ sĩ không?” Thú thật, tôi chưa bao giờ biết về khía cạnh ấy nơi Bill. Vai trò của anh ta ở trường có lẽ đã không cho anh ta nhiều cơ hội để bộc lộ tính cách này. Chính tôi cũng là một nghệ sĩ bất đắc chí, vì thế tôi có thể cùng chia sẻ một điểm chung với anh ta trong lãnh vực này. Khi trở lại trường, tôi nhìn thấy Bill từ đàng xa. Tôi đánh liều tiến đến chỗ anh ta và gợi chuyện về đề tài nghệ thuật. Thật bất ngờ, tôi cảm thấy rất thú vị khi nói chuyện với anh ta về nghệ thuật. Tuy nhiên, tôi phải chấp nhận rằng chúng tôi cũng vẫn không nhất trí nhiều điều khi đề cập đến công việc mà chúng tôi đang đảm nhận. Dù sao, cảm nghĩ của tôi về Bill đã thay đổi – bởi vì tâm cảnh của tôi về anh ta đã thay đổi. Giờ đây, tôi không chỉ nhìn thấy tất cả những điểm tiêu cực nơi Bill, mà tôi đang ngày càng ý thức nhiều hơn về những điểm tích cực của anh ta nữa. Điều này làm cho tôi dễ dàng liên hệ với Bill một cách khách quan hơn. Tôi rất tiếc vì những người khác không có được cùng cảm nghiệm như tôi về Bill. Khi anh ta nghỉ việc, mọi người thở phào vui mừng. Tôi cũng cảm thấy vui mừng – nhưng với một lý do khác hẳn. Tôi âm thầm mừng cho anh ta. Tôi nghĩ, nếu mọi người đã đóng hộp anh ta vào một thành kiến cứng nhắc thì anh ta không có cơ hội để được nhận biết đúng như sự thật của anh – và như vậy tốt nhất là anh ta nên tìm một chỗ làm khác để có thể làm lại từ đầu. Ít nhất ở chỗ mới, anh ta sẽ có cơ hội tốt hơn để thể hiện lại chính mình và bộc lộ rõ về mình hơn. Cũng vậy, tôi đã lớn lên với tâm cảnh rằng để trở thành một Kitô hữu tốt, tôi phải luôn luôn cho đi. Tôi thường xuyên được dạy rằng “Cho thì tốt hơn là nhận”. Thế là, tôi đi vào nghề tư vấn, một nghề nghiệp có tính cách cho đi. Tôi nói “vâng” với mọi người, và nếu có lúc nào tôi phải nói “không”, thì tôi sẽ cảm thấy áy náy kinh khủng. Tôi dấn mình vào mọi vấn đề của mọi người, một cách tối đa có thể. Cho tới một lần, tôi cảm thấy mình bị quá tải. Nụ cười của tôi trở thành gượng gạo và tôi mất nhiệt tình. Nhưng tôi cứ tiếp tục cho đi, vì tôi muốn trở thành một Kitô hữu tốt. Nhưng rồi, trong một cuộc tĩnh tâm, tôi bỗng nhận ra rằng không phải hễ mình không cho đi thì đích thị là mình đang ích kỷ hay mình không tốt. Việc đón nhận, nhất là đón nhận để đáp ứng một số nhu cầu cá nhân của mình, cũng là điều rất quan trọng trong sự quân bình tâm lý – và rõ ràng là việc đón nhận như vậy không nhất thiết là một hành động ích kỷ. Trong khi phục vụ, chúng ta cũng cần phải biết nghỉ ngơi – như điều kiện để có thể làm việc với hiệu năng nhiều hơn. Sự thay đổi ấy trong tâm cảnh của mình đã làm cho tôi thoải mái hơn và thực tiễn hơn. Đôi khi tôi phải học biết nói “Không” và nhìn nhận những giới hạn của mình. Kết quả là, công việc phục vụ của tôi trở thành có ý nghĩa hơn và bớt đi tính gánh nặng của nó. Việc xoá bỏ một tâm cảnh cố hữu, của bạn hay của một người khác, dĩ nhiên là một việc không dễ dàng chút nào. Tuy vậy, một thái độ sẵn sàng cởi mở sẽ làm cho điều đó trở thành dễ dàng hơn. Vì thế, chúng ta cần xét lại, xem mình đã có được thái độ cởi mở ấy chưa. Chỉ khi ấy chúng ta mới có thể cho phép cuộc sống mình thay đổi và mới có thể cho phép mình lớn lên. Một nữ giảng viên giáo lý lần nọ đã chia sẻ với tôi: “Chồng tôi đã từ chối đi nhà thờ kể từ khi Công Đồng Vatican II qui định linh mục quay mặt về phía cộng đoàn và dâng lễ bằng tiếng bản xứ!” Tôi rất buồn vì chồng chị ấy thiếu khả năng thích nghi với sự thay đổi. Bước vào mỗi ngày mới và đón nhận sự mới mẻ của nó, đó là một quà tặng của cuộc sống. Nếu không cởi mở đón nhận như vậy thì đấy là khước từ chính sự sống. CỞI MỞ ĐỂ VƯƠN RA John Powell, trong quyển Vision Therapy của ông, đã giới thiệu cho chúng ta ý niệm vươn ra “stretching”. Ơng nói rằng tất cả chúng ta đều hiện có những ý niệm nào đó về chính mình và về những khả năng của mình. Những gì mà chúng ta nghĩ rằng thuộc khả năng của mình sẽ lập nên “vùng dễ chịu” của chúng ta. Vùng dễ chịu này sẽ định giới hạn cho các hành động của chúng ta. Chúng ta ít khi dám liều vựơt qua các vành đai của vùng này. Như vậy, vươn ra có nghĩa là “nới rộng nhận thức của mình về tiềm năng của bản thân mình”. Chúng ta càng tự buộc mình làm một cái gì đó – miễn là điều đó đúng hoặc có lý – và dám từ bỏ vùng dễ chịu của mình, thì chúng ta càng khám phá ra các tiềm năng nơi mình. Đây chính là hình thức thứ ba của sự cởi mở. Chúng ta phải có cái “khả năng dám mạo hiểm một mức nào đó, nhất là dám liều đi ra khỏi vùng dễ chịu của mình để vươn ra và giải phóng các tiềm năng nơi mình”. Chẳng hạn, tôi có thể nhìn nhận rằng tôi có thể ca hát, nhưng chỉ ca hát trong ... phòng tắm thôi! Đó là vùng dễ chịu của tôi. Yêu cầu tôi hát trước công chúng là một điều vượt quá sức tôi và chỉ tổ khiến tôi sượng đỏ mặt. Bạn biết đó, tôi hát có đúng cung nhịp gì đâu! Nhưng như John Powell đề nghị, tôi có thể tự gây áp lực cho mình và khám phá ra rằng mình hát cũng không đến nỗi... Dĩ nhiên tôi không cho rằng mình hát hay như ca sĩ, nhưng dù sao cũng không là quá tệ. Vì thế, khi tôi thực sự vươn ra trong lãnh vực này, dù chỉ là hát một bài ca sinh hoạt đơn giản để ‘làm nóng’ vào đầu giờ hội thảo, thì tôi cũng nhận thấy rằng mình hát không tệ như mình tưởng. Tôi có thể làm nếu tôi muốn làm. Và với việc thực hành, cái không dễ chịu sẽ biến mất. Những người thành công trong lãnh vực của họ sẽ nhìn nhận rằng họ đạt được thành công là nhờ ở chỗ họ sẵn sàng vươn ra. Các tiềm năng của họ không tự động phát triển. Chúng phát triển xuyên qua quá trình khó khăn của sự trau giồi và định hình, đành rằng đó cũng là một quá trình đầy căng thẳng và không thiếu những thất bại. Tính rụt rè nơi tôi rất có thể đã làm chết cứng tiềm năng ăn nói trước công chúng của tôi. Nhưng tôi đã vươn ra bằng cách chấp nhận những lời mời. Đầu tiên, việc vươn ra như vậy đã làm cho tôi phải nhiều đêm mất ngủ và thường xuyên suýt ‘đái trong quần’. Đứng trước cử toạ, tôi cảm thấy như bên trong mình có một ‘cuộc nội chiến’. Bên ngoài thì tôi làm ra vẻ như bình tĩnh lắm, nhưng bên trong là cả một sự căng thẳng ghê gớm. Nhưng khi tiếp tục thực hành như vậy, tôi có được sự tự tin nhiều hơn. Dần dần, tôi khám phá ra mình ngày càng có khả năng ăn nói hơn. Nói tóm lại là phải có can đảm để thử. Như thầy giáo dạy toán của tôi ở trường trung học thường nói mỗi khi thầy nhìn thấy cả đám học trò chịu đầu hàng trước một bài toán hình học hay đại số: “Các em phải cố đi cố lại mãi, không phải cho đến khi thành công, nhưng là cho đến chết mới thôi!” Nghĩa là, chúng ta phải có can đảm để mạo hiểm trong suốt cả đời. Dĩ nhiên sự vươn ra cũng phải ở trong mức độ hợp lý. Một số tiềm năng sẽ đòi ta phải thực hành nhiều hơn những tiềm năng khác. Chẳng hạn, về chuyện ca hát của tôi – tôi sẽ không điên khùng để nghĩ đến việc biểu diễn trong các buổi hoà nhạc. Trong thực tế, tôi chỉ có thể đi xa đến mức ca hát sơ sơ để khởi động đầu giờ sinh hoạt. Tôi chấp nhận rằng mình vẫn còn hát trật nhịp khá thường xuyên. Nhưng tôi không nói rằng mình hoàn toàn bất lực. Tôi biết tôi có thể hát khá tốt nếu tôi có điều kiện luyện giọng. Có nhiều lãnh vực chúng ta có thể vươn ra. Tuy nhiên, chúng ta cũng phải tính đến quyền lợi và trách nhiệm của mình để biết lựa chọn những lãnh vực phù hợp và thực tiễn. Như một linh mục bạn tôi nói: “Một chiếc xe có thắng thì tốt hơn nhiều so với một chiếc xe không thắng!” Chúng ta cần bảo vệ chính mình ngay cả khi chúng ta vươn ra. Anh bạn ấy muốn nhắc tôi: “Việc hành sử tự do mà không có một sự kìm chế nào sẽ là điều nguy hiểm chết người.” Nhưng sự cẩn trọng không hề ngăn cản chúng ta vươn ra. Chúng ta phải tiếp tục cởi mở để vươn rộng tiềm năng của mình ra. Mức độ phát triển trong các tiềm năng của chúng ta sẽ là máy đo mức độ cởi mở mà ta có được. Nói tắt, chương này có thể đúc kết nơi hai tiếng “VƯƠN RA”! Vươn ra qua việc cởi mở chính mình với người khác; vươn ra bằng cách mỗi ngày mỗi đẩy lùi “miếng da che mắt ngựa” xa thêm một chút; và vươn ra để giải phóng các tiềm năng của chúng ta. Tác giả Lê Công Đức, Lm. (còn tiếp)
-
CHƯƠNG II: NẾU HẠT LÚA MÌ KHÔNG THỐI ĐI NẾU HẠT LÚA MÌ KHÔNG RƠI XUỐNG ĐẤT VÀ KHÔNG THỐI ĐI... (điều kiện 2: biết đầu tư chính mình) Năm nay tôi được vinh dự trở lại trường cũ của mình và điều hành một khoá hội thảo dành cho các thầy cô giáo – một số trong các vị ấy từng là thầy cô của chính tôi thậm chí từ hồi lớp một. Tôi vừa rất lo lắng vừa cảm thấy thú vị. Trong những giấc mơ ngông cuồng nhất của mình tôi cũng chưa bao giờ dám nghĩ rằng sẽ có ngày mình có cái vinh dự này. Ngày xưa, tôi luôn luôn cảm thấy mình là một kẻ khờ khạo, chậm chạp. Tôi vốn nghĩ mình sẽ chẳng đạt được cái gì ra trò. Thế nhưng, hôm nay, tôi đứng trước mặt các thầy cô giáo của mình và tới lượt tôi giảng dạy cho các vị ấy. Cô giáo lớp năm của tôi ngạc nhiên thốt lên: “Ernesto, có phải đúng là em đây không?” Và cô nhớ lại - tôi là cậu bé cứ hễ tới giờ ra chơi là nhón một miếng bánh xăng uých, rón rén bước đi dọc theo hàng rào phía sân bóng đá, vừa ăn bánh một mình vừa đăm đăm hướng mắt nhìn về xa xăm. “Hiệu ứng cô đơn!” – cô mô tả về tôi như thế. Và trong tư cách là cô giáo chủ nhiệm của lớp, cô đã chỉ định các bạn cùng lớp đến chơi với tôi. Nhưng, lần nào cũng vậy, các bạn ấy quay trở về, báo cáo rằng: “Thưa cô, bạn Ernesto không muốn chơi với chúng em!” Cô đành buông tay đầu hàng, nghĩ rằng trường hợp của tôi là vô vọng. Hôm nay, nhìn thấy tôi trong một con người hoàn toàn khác, cô tự hỏi điều gì đã xảy ra. Lắng nghe cô ôn lại chuyện cũ, tôi mỉm cười. Vâng, tôi còn nhớ rõ mọi sự. Tôi vốn luôn luôn được gọi là một “học trò ngoan” – chỉ theo nghĩa rằng tôi không bao giờ gây rắc rối cho ai. Tôi rất trầm lặng. Nhưng tôi không học giỏi. Tôi là một học sinh trung bình, thuộc loại xoàng xoàng trong lớp. Ồ, làm sao một học sinh rụt rè, nhút nhát, và xoàng xoàng như tôi lại cuối cùng có thể đứng thuyết trình trước một cử toạ đông đảo như thế này nhỉ? Chính tôi cũng không khỏi tự hỏi: “Điều gì đã xảy ra giữa TƠI của thuở ấy và TƠI của bây giờ?” Khi nhìn lại những quãng đời mình, tôi nhận ra rằng mình đã trưởng thành hơn lên chủ yếu là nhờ ở sự đầu tư chính mình (self-investment). Khi tôi có can đảm để đầu tư chính bản thân tôi vào những cơ hội của cuộc đời, chẳng hạn, đầu tư vào các mối quan hệ hay vào những cố gắng hoà đồng, tôi bắt đầu mở rộng tầm nhìn của tôi về thế giới và về chính mình. Mỗi kinh nghiệm đó đều giúp đưa tôi ra khỏi vỏ ốc và giúp tái tạo lại con người tôi. Tôi đã không ngừng bước tới. Đầu tư chính mình là một chìa khoá để lớn lên. Chúng ta càng đầu tư nhiều trong cuộc sống thì chúng ta sẽ càng gặt hái được nhiều. Như lời Thánh Kinh: Nếu hạt lúa mì không rơi xuống đất và không thối đi, nó sẽ không thể sinh bông hạt và sẽ không có sự sống. Cuộc sống trao cho ta nhiều cơ hội để đầu tư chính mình: ¨ Những cơ hội làm quen thêm nhiều người, với một số người trong đó, ta có thể phát triển tình bạn sâu xa . ¨ Cơ hội để mài giũa các kỹ năng của mình qua việc đảm nhận những trách nhiệm mới, chẳng hạn, chấp nhận một chức vụ nào đó được giao cho mình, dù tôi cảm thấy lo sợ. ¨ Cơ hội để nói ra các ý nghĩ và các tâm trạng của mình. ¨ Cơ hội để thử những cách ứng xử mới, chẳng hạn thử đổi kiểu tóc, kiểu quần áo, đột phá sự nhút nhát và ức chế bằng cách tham gia vào các nhóm sinh hoạt tập thể, hay làm một điều gì đó mà mình không bao giờ nghĩ rằng mình có thể làm. ¨ Dấn thân vào các vấn đề xã hội qua các phong trào và các tổ chức. ¨ Đưa ra những quyết định cá nhân trong cuộc sống và kiến tạo một sự thay đổi nào đó. DÁM MẠO HIỂM Tất cả điều chúng ta cần là sự can đảm để dám mạo hiểm. Mạo hiểm là bạn đồng hành của sự trưởng thành. Đây không phải là chuyện dễ. Thật vậy, chúng ta thường khiếp sợ và không dám liều. Nhưng như chúng ta thường nghe: “Có gan, làm giàu!” Nếu chúng ta cứ loay hoay tính toán, cân nhắc lợi hại về mọi hành động, thì hầu chắc chúng ta sẽ không bao giờ tra tay vào làm một cái gì. Nếu tôi ngần ngại không dám ra khỏi nhà vì cứ sợ rằng mình có thể bị xe cán, hoặc bị sét đánh, hoặc bị trấn lột..., thì tôi sẽ mãi mãi không bao giờ dám bước chân ra khỏi nhà. Không bước ra khỏi nhà, tôi có thể cảm thấy an toàn. Nhưng tôi cũng sẽ bị tước mất rất nhiều kinh nghiệm mới mẻ cần thiết để lớn lên. Thật vậy, tôi biết một phụ nữ rất hay lo sợ, chị không bao giờ rời khỏi nhà. Tôi nói thẳng với chị ta: “Quả là nếu cứ ở trong nhà, chị sẽ thấy an toàn hơn, nhưng thế giới của chị rốt cục chỉ còn là khoảng không gian bé nhỏ trong bốn bức tường của ngôi nhà chị.” Không mạo hiểm, tầm nhìn của bạn về thế giới sẽ rất chật hẹp. Chúng ta chỉ có thể học hỏi nhờ dám ‘xông pha trận mạc’ mà thôi. Cũng vậy, tôi ngại không dám làm quen với người ta vì tôi sợ mình sẽ phải nếm cái kinh nghiệm bị từ khước và bị thương tổn, tôi sẽ không chủ động đi đến với ai nữa. Tôi sẽ giữ một khoảng cách an toàn. Thế nhưng, khi làm thế, tôi chắc chắn cũng sẽ bỏ mất nhiều cơ hội để trưởng thành hơn về tâm cảm. Như Leo Buscaglia nói: “Các mối quan hệ rất cần thiết, bởi vì nếu không có các mối quan hệ, bạn sẽ cô đơn, khép kín và đánh mất chính bản ngã của mình. Và dấu hiệu tốt nhất cho biết tình trạng lành mạnh ít hay nhiều của bạn trong tư cách là con người, đó là cứ xem thử bạn có bao nhiêu các mối quan hệ vững bền, giàu ý nghĩa và sâu sắc.” Sự chọn lựa hoàn toàn tuỳ thuộc vào chúng ta. Có những người chọn một cuộc sống cô lập và buồn chán bằng cách co rút lại trong chiếc vỏ ốc an toàn của mình. Trong khi đó, có những người chọn thái độ cởi mở hướng về người khác, ý thức rằng sự thương tổn là một phần tất yếu của tiến trình lớn lên. Họ không cho phép nỗi sợ bị thương tổn trở thành yếu tố duy nhất quyết định cung cách ứng xử của họ. Nếu mạo hiểm là điều tất yếu để có thể đầu tư chính mình, thì chúng ta không thể không mạo hiểm. Tuy nhiên, chúng ta phải biết biện phân giữa một rủi ro thực tế và một rủi ro không thực tế. Thật không khôn ngoan chút nào nếu chúng ta đưa đầu ra khi biết rằng đầu mình sẽ bị chặt. Trong khi chấp nhận mạo hiểm, chúng ta cần luôn luôn cân nhắc: Phải chăng sự mạo hiểm này phù hợp hoàn toàn với mẫu người mà tôi phác hoạ cho tôi? Có đáng chịu những hệ luỵ rắc rối có thể xảy ra hay không? Tôi đã chuẩn bị để đón nhận những hậu quả của một sự mạo hiểm như thế này chưa? Nếu có thể trả lời “Có” cho các câu hỏi ấy, thì chúng ta có thể yên tâm mà mạo hiểm. Trong quyển “Dám Liều” của ông, David Viscott đã cô đọng những điều vừa nói trên như sau: “Việc bạn chấp nhận mạo hiểm sẽ tuỳ thuộc vào mẫu người mà bạn phác hoạ cho bạn. Nếu bạn đi trong cuộc đời mà không có một lý tưởng nào, thì hầu như không một sự mạo hiểm nào có thể đem lại cho bạn niềm vui bền vững. Những mạo hiểm đáng chấp nhận là những mạo hiểm có thể giúp bạn tạo lập một cuộc đời tốt nhất cho chính bạn.” Và ông kết thúc bằng ghi nhận sâu sắc này: “Đàng sau mọi sự mạo hiểm đều có một cuộc sống đáng mạo hiểm để đổi lấy.” Mọi sự mạo hiểm đều phải có mục đích và có định hướng. Chúng ta không mạo hiểm chỉ vì mạo hiểm. Chúng ta cũng không mạo hiểm chỉ vì ‘hứng bất tử’. Chúng ta mạo hiểm bởi vì chúng ta biết rằng sự mạo hiểm này sẽ dẫn chúng ta đến chỗ sống hết mình. Tôi đã nhiều lần mạo hiểm trong đời tôi. Nhưng tôi ý thức rằng mình còn phải mạo hiểm thêm nhiều nữa, nếu tôi muốn trở thành con người mà Chúa muốn tôi trở thành. Con đường Ngài chỉ cho chúng ta, đó là tiêu diệt hết mọi sự sợ hãi nơi ta, vì kẻ thù số một không cho phép chúng ta mạo hiểm và sống hết mình chính là nỗi sợ. Sự sợ hãi kìm hãm chúng ta, làm ta không thể kinh nghiệm đầy đủ thế nào là sống và yêu thương. Bao lâu chưa giũ bỏ được sự sợ hãi, chúng ta sẽ vẫn còn chôn chân ì một chỗ. Gerald Jampolsky đã viết một quyển sách về sự bình an trong tâm hồn – và thật ý nghĩa khi quyển sách ấy có tựa đề là: “Love is letting go of fear!” (Yêu là xua đi nỗi sợ!) Chúng ta thử nhìn lại xem ta đã sợ hãi đến mức nào trong cuộc sống mình. Biết bao cơ hội có thể giúp mình lớn lên mà ta đã tự tước mất khỏi mình cũng chỉ vì sợ hãi. Hãy hình dung, đời sống chúng ta rất có thể đã khác biết bao nếu sự sợ hãi đã không đắp mô cản lối ta đi. Chúng ta phải nhổ rễ sự sợ hãi. Và chúng ta có thể cầm cương được nó nếu như chúng ta có niềm tin vào chính mình, vào người khác, và vào Thiên Chúa. Nếu tất cả chúng ta đều cảm thức sâu xa rằng con người nội tâm của mình cắm rễ trong sự thiện; rằng mọi người mà ta gặp gỡ cũng thế; và rằng chúng ta được thúc đẩy bởi cùng một tinh thần trên cao; thì lúc ấy mọi sự sợ hãi sẽ biến mất. Nếu tôi quay lại với người bên cạnh mình và nhận thức sâu sắc rằng anh ta cũng lo sợ bị khước từ như tôi vậy; rằng cô ta cần sự nhìn nhận không kém tôi, rằng giữa tôi và anh ta/ cô ta cùng chia sẻ một tinh thần chung, dù chủng tộc hay văn hoá của chúng tôi khác nhau thế nào đi nữa; thì chúng tôi có thể vượt qua sự sợ hãi và bước tới để gặp gỡ nhau. CÓ NHỮNG CON NGƯỜI ĐƯỢC BAN TẶNG CHO TA Nhiều sự mạo hiểm mà tôi đảm nhận trong đời đã trở nên dễ dàng hơn nhờ có những con người nêu gương cho tôi trong niềm tin vào chính mình, vào người khác, và vào Thiên Chúa. Tôi nhớ lại Jun, người bạn thân nhất của tôi hồi ở trung học. Tôi luôn luôn ngưỡng mộ anh vì tính cách thoải mái và tự tin của anh trong giao tiếp với người khác, nhất là với những người có chức trách. Tôi đã trở thành như chiếc bóng của anh suốt thời trung học và sang tận những năm đầu đại học. Anh giúp tôi biết dám liều chui ra khỏi vỏ ốc của mình, biết nhìn thẳng vào mắt người khác, và không mặc cảm chút nào về bản thân mình. Tôi cũng không thể quên Cha Francis, vị hướng dẫn của tôi hồi ở trung học. Ngài mở ra cho tôi một giấc mơ bằng cách chia sẻ giấc mơ của chính ngài. Nơi ngài tôi tìm thấy được sự can đảm để đi theo một con đường mà tôi vốn không bao giờ nghĩ rằng mình có thể đi. Cho tới lúc đó, tôi chỉ nghĩ đến ngành hội hoạ, vì cảm thấy rằng đó là khả năng duy nhất cho những con người nhút nhát và hướng nội như tôi. Nhưng Francis đã mở toang cánh cửa. Tôi đã chọn ngành tâm lý, vì muốn theo điều tâm niệm của ngài là trở thành một “nhịp cầu”. Thế là tôi đã trở nên hướng ngoại và cởi mở nhiều hơn. Tôi cũng phải ghi nhớ Belen, người luôn luôn tin vào tôi khi mà tôi hầu như không chút tự tin vào chính mình. Tôi luôn luôn gọi cô là “giám đốc tiếp thị” đầu tiên của mình. Bằng cách thường xuyên đẩy tôi ra trước ‘sân khấu’, cô bắt tôi phải tin rằng mình có rất nhiều tiềm năng giấu ẩn bên trong. Cô cho phép tôi ‘toả sáng’ trong khi cô đứng nép lại trong ‘hậu trường’. Cô là một khí cụ giúp tôi tìm được sự tự tin để điều khiển những cuộc hội nghị và hội thảo. Khi chúng ta có những con người như Jun, như Cha Francis, và như Belen, những người thoải mái tín nhiệm và chấp nhận chúng ta, thì sự sợ hãi nơi ta sẽ vơi đi. Chúng ta sẽ tìm thấy sự can đảm cần thiết để dám mạo hiểm và đầu tư chính mình. Những con người ấy quả là những ân huệ đặc biệt. Tôi hy vọng trong cuộc sống chúng ta, chúng ta sẽ tiếp tục gặp được những con người như thế. Nói tắt, như trong dụ ngôn cây vả cằn cỗi, chúng ta đừng như cây vả ấy, sau ba năm vẫn cứ cỗi cằn - cuối cùng, bị chặt xuống và trốc rễ lên. Hay tệ hơn, chúng ta bị nguyền rủa và chết khô. Trái lại, chúng ta hãy xin Chúa cho ta thêm thời gian, thêm cơ hội, thêm phân bón (là những con người hiện thân của ân huệ) – để có thể bắt đầu và tiếp tục phát triển. Chúng ta hãy dám mạo hiểm hơn, vượt qua nỗi sợ nơi mình, và đầu tư cuộc đời chúng ta vào tình yêu và sự sống. Vì nếu hạt lúa mì không rơi xuống đất và không thối đi, nó sẽ không thể nào sinh bông hạt! Tác giả Lê Công Đức, Lm. (còn tiếp)
-
CHƯƠNG I: TRỒNG CÂY NÀO, ĂN QUẢ NẤY! (điều kiện 1: nhận trách nhiệm đối với đời mình) Đời sống – đó chủ yếu là một cơ hội để lớn lên và thay đổi... Không ai có thể thay đổi chúng ta nếu chúng ta không muốn thay đổi. Không ai có thể dạy chúng ta bất cứ gì nếu chúng ta không khao khát muốn học. Không ai có thể lớn lên thay cho chúng ta; lớn lên hay dậm chân tại chỗ, đó là quyết định của riêng mỗi người. “Trồng cây nào, ăn quả nấy!” Câu tuyên bố này cho thấy rõ nền tảng của việc sống hết mình, đó là: Ta phải trách nhiệm đời ta. Hẳn nhiên đời sống được trao ban cho chúng ta, nhưng còn chính việc sống cuộc đời ấy thì là do ta định đoạt. Chúng ta chỉ hạnh phúc trong cuộc đời theo chừng mực mà ta cho phép mình hạnh phúc. Cũng vậy, chúng ta chỉ khốn khổ theo mức độ mà chính mình chọn lựa khốn khổ. Thế nhưng, nhiều người không ý thức được sự thật này. Nhiều người cảm thấy bị mắc kẹt bởi những áp lực bủa vây xung quanh và, do đó, để vuột mất quyền kiểm soát trên cuộc đời mình. Tôi nhớ một cô giáo mà tôi từng gặp. Cô uể oải đến trường hằng ngày, với vẻ mặt thiểu não. Cô đã biến các học sinh lớp hai của cô trở thành một đống rác để cô trút vào đó những xúc cảm tiêu cực. Ngày nào cô cũng la mắng chửi rủa đám trẻ ngây thơ tội nghiệp ấy. Cung cách của cô làm tôi thắc mắc và tôi muốn tìm hiểu nguyên nhân. Cuối cùng tôi khám phá rằng sở dĩ cô khốn khổ bởi vì cô đã phải dạy học suốt hai mươi năm trong khi cô rất ghét nghề dạy học! Một hôm, không chịu nổi sự trái khoáy nơi cô, tôi nói thẳng: “Này cô, nếu cô ghét dạy học, thì ai bắt cô phải dạy học như vậy? Sao cô không nghỉ dạy, tìm một công việc khác? Chỉ đơn giản vậy thôi mà!” Cô trừng mắt nhìn tôi và gào lên: “Ơng biết không, tôi đã không hề được quyền chọn lựa!” Tới đây, không nhẫn nhịn được nữa, tôi ngán ngẩm trả lời: “À, có thể cô không hề chọn lựa việc dạy học, nhưng chắc chắn rằng chính cô đang chọn lựa cho mình nỗi khốn khổ ngày này qua ngày khác!” Vâng, có thể chúng ta không nắm quyền kiểm soát các cảnh ngộ của cuộc đời, song còn thái độ đối với các cảnh ngộ ấy cuối cùng là thuộc về sự định đoạt của chính chúng ta. Trong quyển “Man’s Search For Meaning” của mình, Viktor Frankl đã kể lại bằng cách nào anh đã chịu đựng được những thử thách ghê gớm trong một trại tập trung, và qua đó anh đã khám phá được ý nghĩa trong những nỗi thống khổ của mình. Anh chia sẻ: “Cuối cùng, ta không nên hỏi đời mình có ý nghĩa gì, nhưng phải nhận ra rằng chính mình là người được hỏi và chính mình phải đưa ra câu trả lời. Nói tắt, mỗi người chúng ta đều bị chất vấn bởi cuộc đời; và chúng ta chỉ có thể trả lời cho đời bằng cách trả lời cho chính chúng ta. Ta chỉ có thể trả lời cho đời sống nói chung một khi ta biết nhận lấy trách nhiệm về cuộc đời của riêng mình.” Một áp phích của tôi diễn tả điều này bằng hình tượng: “Khi đời trao cho bạn quả chanh, hãy pha một ly đá chanh và uống!” Bạn thấy đó, không có sự miễn trừ nào để ta khỏi phải sống hết mình. Không có cách nào khác, chúng ta phải nhận trách nhiệm và phát huy tốt nhất cuộc đời mình. Thế nhưng, một số trong chúng ta lại chọn sự phàn nàn và qui gán mọi nỗi khốn khổ của mình cho bất cứ ai hay bất cứ cái gì khác, còn mình thì vô can! Có lần, tại một buổi trực canh đám ma, tôi đã phải chịu đựng suốt ba mươi phút để nghe một người đàn ông nọ lải nhải những lời đắng cay chua chát về đủ thứ chuyện trên đời. Ơng ta phiền trách hết mọi người, phiền trách cả Thiên Chúa. Ơng nói thao thao về những cái đáng chán của cuộc đời – nào là “chẳng có ai nghèo mạt rệp như tui”, nào là “tui chẳng được may mắn học xong trung học”, nào là “con cái tui phải đi giúp việc nhà cho người ta, trong khi bạn bè trang lứa của chúng nó đều đã học thành tài và có nghề nghiệp ổn định”, nào là “dân mình, nói cho cùng, là một lũ ngu ngốc”, nào là “chính phủ mình chỉ toàn ăn hại”, nào là “Thiên Chúa thật tàn ác”... Tôi chợt hiểu rằng còn có nhiều lý do hơn nữa để cho con người này than van rên rỉ. Và tôi không thể tưởng tượng ông ta có thể sống được với kiểu suy nghĩ như vậy. Tôi nghĩ thật khủng khiếp cho những người phải chung sống với ông ta hằng ngày. Chỉ ngồi với ông có ba mươi phút, mà tôi còn không chịu nổi, huống chi...! CHÍNH BẠN KIẾN TẠO CUỘC ĐỜI Chúng ta không thể đi trong cuộc đời và phiền trách mọi người và mọi sự về những nỗi khốn khổ của mình. Đành rằng chúng ta không thể phủ nhận cái nghèo, những điều không may, những bi đát trong đời sống. Nhưng chúng ta có nghị lực bên trong để hoặc cho phép chúng tiếp tục làm tổn thương mình hoặc quyết định vượt qua chúng. Nếu ta cứ khư khư phiền trách, thì rốt cục ta chỉ nổi giận và xót xa tủi phận mà thôi – và điều này không có chút khả năng chữa trị nào. Đàng khác, nếu chúng ta biết cách vượt qua chúng, chúng ta sẽ tìm thấy được sự tự do sâu xa và tìm thấy được sức mạnh để nhận lãnh trách nhiệm. Mới đây, tôi có vô tình làm cho một người bị ‘quê’ trước mặt nhiều người khác. Dù đó chỉ là một chuyện nhỏ và dù tôi không hề cố ý, song tôi rất áy áy về hành động ấy của mình. Bởi vì đó không phải là cung cách của tôi. Xưa nay tôi đã không bao giờ làm một điều như thế, vì vậy tôi day dứt hoài rằng tại sao mình đã điên khùng như vậy. Tôi ao ước giá chi mình có thể xoay ngược thời gian để sửa sai sự việc, để hành động lại một cách đúng đắn. Nhưng, điều gì đã xảy ra là đã xảy ra rồi! Tối hôm ấy, đoán biết rằng tôi bất an, một người bạn đã tìm cách xoa dịu tôi bằng cách nhắc đến nhiều điều tốt đẹp nơi tôi. Chúng tôi đi xem hoà nhạc. Nhưng tôi chẳng thưởng thức được gì vì cứ ray rứt hoài. Bạn tôi cảm thấy bất lực, không giúp được tôi. Tôi còn tiếp tục dằn vặt như thế hai ba ngày sau đó nữa. Cho tới khi một ý nghĩ chợt sáng lên trong trí tôi rằng hoặc mình tiếp tục tâm trạng dằn vặt này mãi mãi và tiếp tục đau khổ, hoặc mình chọn lựa tha thứ cho chính mình về điều mình đã làm và dần dần khuây khoả. Đồng thời tôi chợt hiểu dù người khác có muốn giúp mình bao nhiêu đi nữa, thì rốt cục chính mình mới là người có thể cứu lấy mình. Chìa khoá thật đơn giản: Hãy tha thứ cho chính bạn về những sai lỗi của bạn, và hãy rút ra bài học từ những sai lỗi ấy. Không ai có thể thay đổi chúng ta trừ phi chúng ta muốn thay đổi. Không ai có thể dạy chúng ta trừ phi chúng ta khao khát muốn học. Không ai có thể lớn lên thay cho chúng ta. Lớn lên hay khựng lại, điều đó tuỳ thuộc vào quyết định của riêng mỗi người. Bài học này thật khó. Thường thì chúng ta muốn người khác phải trở thành cái mà họ không thể hoặc chưa thể. Và vì thế chúng ta nếm quá nhiều những chán nản trong các mối tương quan. Sự thay đổi chỉ có thể xảy ra từ bên trong. Chúng ta có thể khích lệ, thuyết phục, và thậm chí lôi kéo một người – nhưng rốt cục, chỉ người ấy mới là người quyết định lớn lên và thay đổi. TÔI CẦN THỜI GIAN ĐỂ SẴN SÀNG, XIN ĐỪNG THÚC HỐI! Khi tôi nghe người ta xì xào rằng một giáo sư đồng nghiệp của tôi dính líu vào chuyện quan hệ tình dục với một nữ sinh viên, tôi cảm thấy rất ưu tư. Vì là chỗ bạn bè, tôi thấy mình cần phải giúp đỡ anh ta. Trong quá trình học tập để trở thành nhà tư vấn, tôi được dạy rằng mình không nên xét đoán một ai, nhưng thay vào đó nên thông cảm và giúp người ta giải quyết vấn đề riêng của họ. Tôi đã làm y như vậy. Tôi phân tích vấn đề của anh bạn ấy và đi tới kết luận rằng anh ta thật sự không yêu thích cô sinh viên kia. Anh ta chỉ đang cố che đậy một số sự thật về chính mình – và mối quan hệ kia chỉ là tấm màn tuyệt vời giúp anh trong công việc che đậy đó. Với tất cả thiện chí, tôi mời anh ta đi ăn tối. Tôi nghĩ, cách tốt nhất là mời anh ta ăn uống. Sau bữa ăn tối, một cách nhỏ nhẹ, tôi nói với anh ta: “Mình đã nghe chuyện của cậu. Cậu đừng sợ. Mình không xét đoán cậu đâu. Mình nghĩ vấn đề của cậu là ..., và mình thấy rằng sở dĩ cậu dính líu với cô sinh viên kia bởi vì ..., và mình tin rằng mình có thể giúp đỡ nếu cậu ...” Tôi đã nói những lời đó với tất cả thiện chí và chân thành. Thế nhưng, thay vì tỏ vẻ biết ơn đối với cử chỉ của tôi, anh bạn tôi đã cực lực phủ nhận mọi sự và bắt đầu ‘xù lông nhím’. Đó là một dấu hiệu rõ ràng cho tôi biết rằng mình nên thinh lặng và xin anh ta bỏ qua cho. Tự nhiên tôi cảm thấy buồn. Tiền mất tật mang! (chí ít là tôi đã chi trả cho bữa tối ấy và sự tốn tiền của tôi đã không đem lại kết quả gì!) Vì thế, tôi mặc kệ và không cố thuyết phục anh ta nữa. Kết quả là tôi bắt đầu bị bối rối vì hành động của mình. Anh bạn tôi khó chịu vì những lời tôi nói. Chúng tôi bỗng trở thành lúng túng với nhau. Từ hôm đó, chúng tôi tránh gặp mặt nhau – và rất sượng sùng mỗi khi bất đắc dĩ phải gặp. Niên khoá ấy, anh ta thôi việc. Ba năm sau, vào một buổi chiều, tôi tình cờ gặp anh ta. Lần này, anh ta mời tôi vào quán (và anh ta trả tiền!). Sau vài câu chào hỏi thông thường, anh bắt đầu chia sẻ với tôi. Anh nói: “Trong ba năm nghỉ dạy vừa qua, mình khám phá thấy vấn đề của mình là ..., và mình đã dan díu với cô sinh viên ấy bởi vì ...” Lắng nghe anh ta nói, tôi hơi bực bội trong lòng và thầm nghĩ: “Thì đấy không phải đúng những điều tôi đã nói với bạn cách đây ba năm rồi sao? Tại sao lúc ấy bạn không chịu nghe tôi? Đáng lẽ bạn đã không phải mất đến ba năm mới nhận ra như thế!” Nhưng, tôi cũng chợt nhận ra một điều. Có lẽ anh bạn tôi cần quãng thời gian ba năm ấy để một mình anh – và trong sự sẵn sàng của chính anh – anh có thể đối diện và đương đầu với sự thật về chính bản thân mình. Đành rằng hồi ấy tôi nói đúng, nhưng hồi ấy anh ta chưa đủ sẵn sàng để đón nhận những gì tôi nói. Tôi thấy mình phải ghi khắc kỹ bài học rút ra từ chuyện này. Dù chúng ta nóng lòng muốn giúp một ai đó, chúng ta cũng phải tôn trọng khả năng của đương sự trong việc xử lý các vấn đề của chính mình. Dù chúng ta có sốt sắng muốn giúp đỡ đến mấy đi nữa, cũng không được phép quên rằng cuộc đời của người ấy là do chính người ấy trách nhiệm. Có lần, người ta trông thấy một quả trứng sắp nở. Quá hăm hở, họ muốn giúp một tay bằng cách bóc vỏ trứng ra. Dĩ nhiên, chú gà con được ra ngoài ngay lập tức. Nhưng chỉ được vài phút, chú gà con tội nghiệp ấy chết ngoẻo! Bài học ta rút ra ở đây là phải tôn trọng nhịp độ của con người. Chúng ta không thể thay đổi những gì chưa thể thay đổi được. Và chúng ta phải tin tưởng rằng người ta sẽ lớn lên một khi họ nhận lãnh trách nhiệm về chính bản thân họ. Chương này muốn nhắc bạn rằng để bắt đầu sống hết mình, bạn phải biết nhận lãnh trách nhiệm về cuộc đời mình. Vì thế, bạn cần suy ngẫm và tự vấn: Tôi có thường xuyên phiền trách người khác, phiền trách số phận, phiền trách Thiên Chúa về những điều này điều nọ xảy ra trong cuộc đời mình không? Tôi có đổ tội cho người khác, và tự miễn cho mình khỏi nhận trách nhiệm về cuộc đời mình không? Tôi có nghĩ mình chỉ là một nạn nhân của các hoàn cảnh – và do đó mình bất lực không thể làm gì để xoay chuyển cuộc đời mình không? Hay tôi thực sự cảm thấy mình có nghị lực và tự do để nhận lãnh trách nhiệm về đời mình và lèo lái lại cuộc đời mình cho đúng hướng? Bạn hãy bắt đầu ngay bây giờ đi! Hãy nhận lấy trách nhiệm! Các chương kế tiếp sẽ giới thiệu những phương cách giúp bạn nhận lãnh trách nhiệm một cách cụ thể. Tác giả Lê Công Đức, Lm. (còn tiếp)
-
LỜI GIỚI THIỆU Tôi luôn cảm thấy vui sướng mỗi khi tình cờ gặp một anh bạn cũ và được anh ta khen rằng mình trông ‘phong độ’ hơn trước nhiều. Lời khen này càng có ý nghĩa khi chính tôi cũng ý thức rõ rằng mình đã thật sự lớn lên hơn - không chỉ về thể lý mà cả về tâm cảm. Những cuộc gặp gỡ như vậy luôn luôn làm tôi nhớ lại lần nọ tôi gặp một anh bạn – là linh mục. Anh hỏi tôi hai câu hỏi, rất đơn sơ nhưng cũng rất cào cứa. “Earnest, cậu đang làm gì?” Để trả lời, tôi mau mắn kể ra một loạt những công việc ‘sáng giá’ mà mình đang làm như: tư vấn, dạy học, điều hành các khoá hội nghị, hội thảo, vv... Quả là lúc bấy giờ, tôi đang đảm nhận rất nhiều hoạt động – và tất cả các hoạt động ấy đều mang ý nghĩa phục vụ. Rồi, anh bạn tôi hỏi: “Này, vậy cậu có đang hạnh phúc không?” Tôi đột nhiên cảm thấy chóng mặt, lúng ta lúng túng. Giá chi tôi có thể mỉm cười và nói “Có” để trả lời anh ta. Nhưng tôi không thể. Và chính lúc ấy tôi chợt hiểu ra rằng hạnh phúc không duy ở chỗ một đời sống đầy hoạt động, dù là những hoạt động thanh cao đến mấy đi nữa. Tôi bắt đầu bộc bạch nỗi lòng mình với anh ta, giãi bày về những lý do làm cho mình không cảm thấy hạnh phúc. Tôi đánh liều dốc cạn cho anh tất cả những gì đang diễn ra trong lòng mình, những điều mà trước đó vẫn được che đậy kỹ bởi cái vỏ bọc là cuộc sống đầy hoạt động của tôi. Tôi nhìn thẳng vào một số sự thật nơi con người tôi. Và khi tôi thành thực nhìn lại chính mình và trang trải câu chuyện của mình như vậy, tôi bỗng nhận ra rằng để có thể sống hết mình, thì trước hết chúng ta phải đối diện với con người thật của mình và học biết tận dụng cách tốt nhất những gì cuộc đời trao cho mình. Hiện nay, tôi vẫn dấn mình vào bao công việc, dù áp lực không căng như trước. Đôi khi, tôi ngừng lại và tự hỏi: “Mình có đang hạnh phúc không?” Và thật thú vị, tôi có thể dễ dàng nói “Có” – dù vẫn nhìn nhận rằng “Có, tuy không trọn vẹn!” Giờ đây, đối với tôi, hạnh phúc là một tâm trạng; và giống như mọi tâm trạng khác, nó đến rồi nó đi. Không ai có thể tự nhận rằng mình hạnh phúc tròn đầy, như kiểu những đoạn kết rất có hậu của các câu chuyện cổ tích: “... và họ sống hạnh phúc mãi mãi!” Hiện nay tôi hạnh phúc bởi vì tôi cảm nhận được niềm vui và an bình do đã dàn xếp được một cái gì đó bên trong bản thân mình. Nhưng tôi không hạnh phúc trọn vẹn, bởi vì nơi tôi còn nhiều điều phải thay đổi, nhiều điều phải lớn lên, phải thành. Cuộc sống của tôi bây giờ có ý nghĩa bởi vì tôi đã học biết đón nhận tất cả những gì cuộc đời trao cho mình. Tôi học hỏi, tôi lớn lên, tôi trở thành xuyên qua tất cả những kinh nghiệm tôi gặp trên đường đi. Sống là thở, là cười mỉm, là cười vang, là khóc, là đớn đau, là cho, là nhận, là học tập, là yêu thương, cầu nguyện, hy vọng... Trước đây, khi chưa hiểu được như vậy, tôi thấy đời sống chỉ là một vấn đề. Còn bây giờ, tôi nhận ra đời sống là một cơ hội để mình thay đổi và lớn lên. Trong những trang sách này, tôi muốn chia sẻ với bạn một số suy tư của mình về những điều kiện cơ bản để trưởng thành và để thay đổi nhân cách. Tôi ước mong rằng bạn cũng có thể học biết cách sống hết mình. Nhiều suy tư trong sách này đã được chia sẻ trong các khoá hội thảo đó đây. Nay viết chúng ra trên giấy, một đàng tôi hy vọng chúng sẽ tiếp cận nhiều người hơn, đàng khác, tôi muốn xác nhận lại những chỉ nam vốn đã giúp ích không chỉ cho bản thân tôi mà còn cho rất nhiều người khác nữa trong hành trình sống của họ. Tập sách gồm 7 chương, mỗi chương trình bày một điều kiện căn bản cho sự trưởng thành và thay đổi nhân cách. Đó là: 1)nhận trách nhiệm đối với đời mình. 2)chấp nhận đầu tư chính mình. 3)biết cởi mở. 4)biết thành thực. 5)biết giải trừ các nhãn hiệu. 6)biết biện phân. 7)biết hoà hợp với hiện tại. Nếu bạn vận dụng được các điều kiện ấy một cách nhuần nhuyễn vào cuộc sống của bạn, thì tập sách này đã trở nên hữu ích cho bạn rồi đó. Nhóm bạn bè của tôi thường tự mệnh danh là “câu lạc bộ những trái tim cô đơn”. Có lần chúng tôi gặp nhau sau hai năm lu bu với hàng núi công việc. Sau những lời chào hỏi thông thường, chúng tôi bất chợt nhận ra rằng mình vẫn còn cô đơn y như trước, thậm chí hơn trước. Chúng tôi nhìn nhau và tự hỏi tại sao quãng thời gian hai năm ấy đã chẳng đem lại một thay đổi gì nơi mình cả. Cuối cùng, một anh bạn trong nhóm đã làm loé lên ánh sáng hy vọng khi đưa ra nhận xét: “Này, có vẻ tâm trạng cô đơn nơi mình vẫn y nguyên, nhưng chắc chắn là thái độ của mình đối với tâm trạng ấy đã thay đổi. Thật vậy, bây giờ mình đối diện với cuộc sống một cách vững vàng hơn, và mình chấp nhận cuộc sống đúng như sự thật của nó!” Những chia sẻ ấy đã làm thay đổi toàn bộ bầu khí của buổi tối. Thay vì day dứt với nỗi cô đơn của mình – như thói thường của chúng tôi – chúng tôi bắt đầu nhìn lại những gì cho phép mình có thể vui mừng trong hai năm qua. Chúng tôi bắt đầu chúc mừng nhau vì những nghị lực nội tâm mà mình đã nhận được, mừng vì mình đã chững chạc hơn, và mừng vì cảm thức hy vọng đã sáng lên hơn ngay giữa thất vọng. Tối hôm đó, tôi về nhà vẫn với nỗi cô đơn thênh thang, nhưng thêm vào đó còn có một niềm vui vì cảm nghiệm được sự lớn lên và trưởng thành mà nhóm bạn bè chúng tôi đã nhận ra nơi nhau. Xin nói luôn, đó cũng chính là điều mà tập sách này muốn đem lại cho bạn. Tập sách này không hứa hẹn giúp bạn thoát ra khỏi mọi vấn đề của cuộc sống, nó không tham vọng giải phóng bạn khỏi tất cả mọi gánh nặng. Tuy nhiên, nó sẽ hướng dẫn bạn khám phá lại năng lực bên trong mình và nhận ra rằng mình có thể trưởng thành hơn xuyên qua những nỗi đau và những chiến đấu trong cuộc sống. Nói tắt, nó muốn giúp bạn sống thật hết mình. Tác giả Lê Công Đức, Lm. (còn tiếp)
-
(Nguồn: http://www.dunglac.org) Pho tượng đẹp nhất của Việt tộc THẾ ĐỨNG CỦA TRIẾT VIỆT 1. THẾ ĐỨNG KHẢ THỂ CỦA TRIẾT VIỆT TRONG NỀN VĂN HÓA TOÀN CẦU. Muốn thấy được thế đứng đó cần hiểu về hiện tình văn hóa nhân loại đang đi về đâu, đúng hơn là về văn hóa Tây Âu vì hiện Tây Âu đang nắm phần lèo lái lớn nhất nên hiểu được hướng của Tây Aâu hiện đại cũng là hiểu được đường hướng của toàn cầu đang đi tới. Khuôn mặt của một nền văn hóa thường biểu lộ xuyên qua tôn giáo, hình thái tổ hợp xã hội, nghệ thuật, văn nghệ triết lý… Vậy khi nhìn qua những yếu tố trên để ước lượng hướng đi của con người hiện đại ta có thể nói đó là khuôn mặt siêu vẹo rách nát. Điều này thực đến độ những tĩnh từ trên đã được thể hiện theo nghĩa đen. Chỉ cần liếc nhìn những bức họa đời nay thuộc môn phái lập phương, ấn tượng, biểu tượng liền thấy. Trong bức Guernica của Picasso chẳng hạn ta thấy con người bị đập vỡ ra từng phần rồi phân phối lung tung trên khung họa; đây cái chân, chỗ kia một cái tay, bên cạnh là một mảnh gì đó đoán là thuộc thân mình, trên cái đầu để ở góc thấy có một mặt, còn mắt kia rớt đâu mất rồi… Nếu nhìn đến bức họa trừu tượng thì dù một vài mảnh này cũng mất luôn mà chỉ còn những đường chạy ngang dọc với những nét hình học vất ngổn ngang ra đó. Nhiều người xem rồi cho là điên. Cái đó có nhưng không phải họa sĩ điên (nói chung) hoặc không chỉ có họa sĩ điên mà chính là con người hiện đại đang thất điên bát đảo, đang lao đao xao xuyến như đựơc tả đầy trong văn chương, chẳng hạn những sách của Faulkner hay của Joyce thì thấy đời là cái gì đầy lộn xộn bầy nhầy, cao thượng pha lẫn với đớn hèn, đẹp đẽ nằm bên bẩn thỉu, hài hước đó rồi bi thảm đó, tà tà kéo dài không một đỉnh cao quy tụ. Đó là trạng huống của con người thời đại. Bi trạng đó được tả rõ hơn trong triết học hiện sinh với nhận xét nổi bật là con người đời nay không có nhà (homeless) theo nghĩa là không một bến bờ để lòng hướng tới, thiếu một môi sinh tinh thần để ấp ủ khiến con người trở nên bơ vơ, xao xuyến, lo âu, không còn nơi bám víu. Nhìn vào vũ trụ quan cũ thấy bày ra cảnh điêu linh thê thảm làm sao: bao nhiêu hình ảnh cao đẹp xưa trở nên xấu xí: trải qua bao đời mặt trăng được ca ngợi như hằng nga đầy duyên dáng, nay con người đã đạp lên mặt cô rồi, chẳng thấy đẹp đâu hết, mà chỉ là sỏi đá đà về cho ba con coi chơi. Đấy là hình ảnh sụp đổ của một vũ trụ, một biểu tượng của một niềm tin: bao nhiêu hình ảnh, bao nhiêu nghi tiết mất hết ý nghĩa, như vậy là mất vũ trụ quan. Mà mất vũ trụ quan là mất sự móc nối cụ thể với thế giớisiêu hình. Xưa kia thờ tôn giáo mà giữ được sự tha thiết sống với cõi siêu nhiên, coi đó như trung tâm toàn thể con người. Nhưng nay với nhiều người tôn giáo không còn nói lên được chi với họ nữa. Mọi hệ thống triết lý cũng bị đả phá như vậy, thành thử không một mảnh trời cũ nào thuộc tôn giáo, triết lý, mỹ thuật còn khả năng gợi hứng cho một công trình vĩ đại, một tác phẩm nặng ký. Quả thực con người lâm cảnh thiếu nhà tức thiếu cái khung sống, cái môi sinh tinh thần hướng dẫn, nên cuộc đời trở nên bồng bình trôi nổi như cánh bèo trước các ngọn sóng dồn dập. Đó là một hiện tượng lớn lao mà những người cảm thấy trước nhất là nghệ sĩ, nhất là họa sĩ, cho nên phải nói không phải nghệ sĩ gây nên bi trạng đó mà họ chỉ cảm thấy và trình bày ra. Vậy xin hỏi đâu là căn do chính. Thưa căn do đó là bệnh duy trí mà lời tuyên ngôn đầu tiên là của Parménides rằng cái có đồng nhất với cái gì tư duy được. Hoặc cái gì suy tư được mới có, cái gì có cũng suy tư được. Hegel nói mọi cái có thực là hữu lý và cái gì hữu lý cũng là có thực. Tóm lại thực với hữu lý đồng nhất. Câu nói đó thoạt đọc coi như vô thưởng vô phạt, kỳ thực nó kéo theo cả một tai hại vô kể ở chỗ giản lược mọi chiều kích con người vào có một khía cạnh duy nhất là lý trí: có thể nói là trong ngũ quan chỉ truy nhận có con mắt còn tai, mũi, lưỡi, miệng, sờ đều thải bỏ. Tâm tình không được kể tới và như vậy chỉ còn là một con người vẽ, không còn gì siêu linh hết. Vũ trụ quan cũ là vũ trụ quan giả tạo. Nó đã đánh lừa con người vì nó rõ ràng đâu ra đấy. Chính cái vũ trụ quan minh bạch đó đã dẫn Tây Âu vào hướng duy lý duy niệm mà nổi bật hơn hết là lý giới của Plato rồi tới các phạm trù vật thể của Aristote truyền bá qua bao đời cho tới Hegel . Như vậy bỏ bê trần thế có nghĩa cụ thể là hy sinh những con người sống thực ở đây và bây giờ cho những lý tưởng trừu tượng, hy sinh đồng bào ruột thịt cho nghĩa vụ quốc tế là nằm trong cùng dòng duy lý duy tâm: lấy thực làm phi thực, lấy phi thực làm thực. Đó là điều cuối cùng nhân loại đã nhìn ra nhưng phải trải qua bao đời đầy những bất an mà người ta không tìm ra lý do, chỉ biết lờ mờ là triết học lý niệm không đi vào đời sống được, còn làm cho người ta sợ triết là khác. Môn phái đầu tiên nhận ra phần nào sự tai hại kia là nhóm triết được gọi là duy danh (nominalists) đứng lên chống phái duy thực (réalists). Duy thực bảo các ý niệm (lý giới) mà họ gọi là les univeraux có thực, cái ý niệm con ngựa có thực ở trên lý giới, còn con ngựa ta xem thấy kia chỉ là bản sao không mấy thực. Duy danh bảo ý niệm con ngựa chỉ là cái tên rỗng (do đó gọi là duy danh) chứ không có ý niệm tự tại của con ngựa… Như vậy duy danh là đợt thức tỉnh đầu tiên của con người. Tiếp sau có thể là nhóm lãng mạn đề cao tình người “con tim có những lý lẽ mà lý trí không thể hiểu được”… Câu đó của Pascal là một lời phản đối duy lý kiểu Descartes. Rồi tiếp tới Hiện sinh đứng lên chống lại triết lý bản tính của Plato; Plato chủ trương chỉ có những bản tính (essence) mà ông còn gọi là ý niệm (idea) mới có thực, vì chỉ nó mới có lý: trước sao sau vậy, còn sự hiện sinh, hiện tồn (existence) là cái gì ngẫu hữu (contigent) có cũng được không cũng được, nay thế này mai thế kia, nay tôi trẻ, mai tôi già… không đáng chú ý, đó chỉ là những bóng hình. Triết Ấn Độ còn đi xa hơn nữa gọi thế giới này là tuồng ảo hóa (maya). Vì chủ trương thế nên cứu cánh con người là ngắm nhìn lý trời. Heidegger gọi đó là đề cao con mắt, đề cao thị giá. Nên có lúc tôi bảo Tây Aâu không có siêu hình mà chỉ có siêu thị là do vậy. Dùng mắt thì cần đến hình ảnh, như thế thì làm sao mà siêu hình, nên siêu hình chỉ là siêu thị (suprasensible) tức không dùng mắt thịt thì lại dùng mắt lý trí. Việt lý gọi đó là bệnh nhục ảnh cẩn phải dùng ngải cứu mới chữa trị được, nếu không thì tai họa sẽ khốc hại như ta thấy thí dụ nơi cộng sản duy vật: chúng chỉ thấy có những cái gì hiện hình chình ình ra trước con mắt thịt, còn bao nhiêu cái tế vi như tình người, những cái siêu linh thì chúng tàn phá vì những cái đó không phải là vật thể có thể sờ mó bằng tay. Đó là lý do khởi loạn của Hiện sinh, của các nghệ sĩ mới. Sự phản loạn của họ chính là sự phản loạn của con người đã bị cắt hoạn, bị đàn áp quá lâu trong những hệ thống quá chặt chẽ, quá giả tạo không hợp cho con người toàn diện. Họ chống lý giới của Plato để đưa con người về trần giới ở đây và bây giờ. Họ chống những phạm trù bản thể của Aristotle vì chúng đóng rọ con người, bởi bàn về con người theo những phạm trù của sự vật thì sẽ dẫn đến chỗ vật hóa con người (chosisme). Đấy là lý do tại sao hiện sinh đập phá triết học cổ điển: họ đưa ra con người bầy nhầy siêu vẹo chẳng có lý do gì cả, đầy bất trắc, đột khởi với những âu lo sao xuyến không đối tượng. Duy lý cũng chính là căn do sâu xa cho những câu nói: đẹp là cái gì có ích (Socrate) cũng như nguyên lý nghệ thuật là bắt chước của Aristotle- vẽ cái hoa phải đúng với cái hoa từng chi tiết. Cái gì nằm ngầm trong nguyên lý đó? Thưa là con người mất nhân chủ, mất quyền đưa cái nhìn của mình vào nghệ thuật. Nghệ thuật chỉ còn là sao chép thiên nhiên, thấy sao vẽ lại vậy đúng từng nét. Họa sĩ ngày nay phản đối lại điều trên: đấy là lý do nằm ngầm trong các trường phái hội họa mới: lập phương, lập thể, trừu tượng, ấn tượng, biểu tượng tuy khác nhau nhưng đều gặp gỡ ở chỗ đập phá cho tan tành những phạm trù cũ, những ràng buộc duy lý minh bạch cũ. Không có gì minh bạch cả, mình cho là minh bạch là bở mình chỉ nhìn có một chiều, một khía cạnh. Sự thực có vô số khía cạnh nên nó nhầy nhụa tối om. Trở lên là đại để lý do sâu xa gây nên cuộc đổ vỡ hiện nay: đó là trào lưu chống lại sự ngự trị lâu đời của duy lý đặt nền tảng do Plato, Aristotle v.v… một sự phản loạn có thể gọi là tổng phản công khởi lên từ mọi mặt: nghệ thuật, văn học, triết học. Kết quả là vũ trụ quan cũ đổ vỡ, cái nhà cổ điển Tây Âu bị kéo sụp bình địa. Điều bất hạnh cho con người ngày nay là nhà cũ bị kéo đổ rồi mà nhà mới chưa kịp xây, nên con người lâm vao cảnh không nhà không cửa. Đó là tình trạng hiện thời của văn hóa nhân loại. Trong cảnh hỗn mang chi sơ này ta thấy đang hiện lên một hướng tiến: đó là hướng về nguồn, bằng chứng là các nền nghệ thuật cổ xưa không những đựơc chú ý mà nhiều nền còn được coi như thời đại vàng son của nghệ thuật và quả thật nếu ta cứ theo chiều hướng đó mà truy tầm thì sẽ nhận ra ở khởi nguyên nghệ thuật không đâu theo nguyên lý mô phỏng hết trọi, mà chỉ có La Hy và một vài nơi như Assyrie, Babylon mà ta có thể gọi là đi theo chiều hướng du mục, là hướng quen chinh phục: coi thiên nhiên như đối tượng để chinh phục, lấy về cho trọn mà không là nguyên lý cảm thông hòa đồng với vạn vật, theo đó sản phẩm nghệ thuật là sự đóng góp của cả vật thể lẫn con người. Vì thế tránh lối tỉ mỉ, dành phần lớn cho chủ quan con người. Song song với mỹ thuật là sự không coi thường triết Đông như trước. Lúc đó người ta quen chê là không có triết Đông, vì nó không có hệ thống. Đến nay mới nhận ra không có hệ thống chính là một đức tính quan trọng vì nó gần với sự vật, gần với con người là cái chẳng có hệ thống chi hết. Vì vậy nhiếu phái còn đi xa hơn coi triết Đông như một hướng đạo đáng tôn quý. Nhất là từ khi bước vào thời mới với các khoa học tối tân như vi thể, với những sự thực mới lạ về từ điện, điện khí, nguyên tử, tương đối thuyết, tâm lý các miền sâu… Có thể nói đó là bấy nhiêu bài hát khải hoàn đón mừng triết lý Đông phương. Trong đó nổi hơn cả phải kể tới Việt nho. Về nho thì thế giới đã hé nhìn thấy rồi như chúng tôi đã nhắc tới hội nghị quốc tế về triết học tại Hononulu 1949, trong đó đại diện 52 nước đồng thanh bầu Khổng Tử làm nhạc trưởng để hướng dẫn cuộc hòa âm nhân loại ngày nay v.v… Thế nhưng cho tới nay tức gần nửa thế kỷ rồi mà chưa thấy triết Nho bước lên ghế nhạc trưởng, và thế giới vẫn cứ sống trong cảnh không hồn không hướng! Tại sao vậy? Lý do là vì nói Nho chưa đủ mà còn cần thêm một cánh nữa, và đó là cánh Việt để thành Việt Nho. Cả hai phải bắt tay chặt chẽ mới làm nên chuyện. Bởi thiếu cánh Việt thì Nho chỉ xuất hiện như một nền luân lý dựa trên lương tri thiếu hấp dẫn. Còn Việt thì xưa rày có ai biết tới đâu, kể cả người Việt, như vậy còn dám mong ai chú ý đến. Vì thế nếu nói Việt suông (mà không nói Việt Nho) thì hầu chắc sẽ chỉ là tiếng kêu trong rừng thiếu sự thừa nhận rộng rãi. Còn nếu nói Việt Nho thì Việt có người bạn đường đã được thế giới quen mặt (đó là Nho) mà đồng thời Nho mới được thêm sức sinh động, là điều chưa xảy ra cho Nho từ ngày gặp gỡ Tây Âu tới nay. Các sách gọi là triết Nho được viết ra tới nay sự thực mới chỉ là văn học sử, chưa một tác giả nào đáng tên là triết gia, thiếu triết gia thì làm sao có triết, mà triết chưa có làm sao có sử triết. Tôi xin nói kinh nghiệm bản thân đã nghiên cứu về Nho giáo trên 20 năm trời mà chưa gặp được bài học nào đáng học, nhiều lắm là một hai nhận xét rời rạc phần lớn do học giả quốc tế, chứ không do phía người Tàu. Như thế thì trông gì bước lên được diễn đàn hướng đạo. Nho mà còn vậy huống chi Việt. Cho tới nay Việt mới xuất hiện như người học mướn viết nhờ chứ đã có ai thấy khuôn mặt đích thực của Việt ra sao đâu: vì thiếu triết thì không thể nào nhìn tỏ được khuôn mặt đó. Nếu như khuôn mặt đó xuất hiện thì nó sẽ có khả năng cùng với Nho đứng lên nắm gậy cầm nhịp cho bản hòa tấu nhân loại như đã được đề nghị trong hội nghị quốc tế về triết học năm xưa. Vậy khuôn mặt đó là gì? Thưa là một nền nhân chủ tinh truyền đã cùng xuất hiện trên khắp vũ hoàn ở thời cổ sơ. Nhưng rồi ở các nơi khác nó đã vị vùi lấp như trường hợp Âu Á , hoặc năm lỳ lại ở đợt cổ sơ như các bộ lạc sống trên rừng núi hay ngoài các đảo mất hút giữa đại dương. Trái lại Việt và Nho giữ được, và Nho đã đi theo con đường tiến hóa để lên đến đợt tâm linh nhân chủ, chứng cớ là nghệ thuật không đốc ra sự mô phỏng hình hài, nên vượt trên truyền hình để cố đạt truyền thần. Cái thần đó được Tạ Hách (thế kỷ VIII) gọi là “khí vận sinh động” có thể dịch là “cái nhịp của sự sống”. Nên ghi nhận là cái “hồn” mà các họa sĩ mới đang cố tìm ra thường được gọi là form. Sau bao định nghĩa ướm thử cuối cùng người ta nhận ra đó là một thứ “nhịp sống” giống với cái “khí vận sinh động” của Tạ Hách. Vậy với triết Đông ta cũng thấy được cái gì tương tự như phía các họa sĩ Tây Aâu là tự mô phỏng hình hài tiến đến chỗ đi tìm cái form, cái hồn, cái nhịp sống của sự vật, thì triết Việt Nho cũng đã vươn lên đến đợt tâm linh (tương đương cái “khí vận sinh động”) nên đã đi từ thi ca vũ nhạc để lên minh triết, không duy lý hay duy tình nhưng tình lý bao lấy nhau. Dấu bên ngoài của sự vụ đó thì như tục cúng ông bà vươn lên lễ Gia tiên. Từ Thượng đế nhân hình vươn lên Hạo Thiên “vô thành vô xú”. Chỗ nào cũng duy trì được nét song trùng dọc với ngang, trên với dưới, nhờ vậy tránh được nạn duy lý để trở nên nền triết lý nhân sinh toàn diện, gọi là nhân chủ tức con người không bị tước đoạt mà còn giữ được, còn làm chủ được mệnh hệ của mình. Trong con người thì tâm tình là phần lớn hơn hết đã không bị đàn áp như nơi Plato, nhưng được tài bồi vun tưới. Bước vào trường học triết môn sinh không phải học khoa lý luận, biện chứng, trái lại được học thơ, tức học về tình người, tình trai gái yêu thương gạ hỏi, tình mẹ cha, tình anh em đằm thắm trong gia đình, làng xóm, rồi tiếp tục bằng lễ bằng nhạc, đến độ lễ nhạc thay cho pháp hình, vì pháp hình đặt trên con người dễ dàng đi đến vi phạm quyền làm người. Vì vậy nếu nghiên cứu thấu triệt thì thấy không thể có cuộc cách mạng với triết Việt Nho nữa khi hiểu cách mạng là đổi nền móng. Cộng sản Việt cũng như Tàu luôn luôn nói cách mạng là tỏ ra vong bổn vong quốc, ngu dại chạy theo Tây Âu. Tây Âu đặt nền tảng vong thân, tha hóa con người nên cần đổi lại, cần phải cách mạng, chứ còn mình đã có nền tảng vững mạnh rồi, cách mạng chi nữa. Tất cả những gì cộng sản đang cố hiện thực trong thực tế như công bằng và văn hóa đại chúng thì đã có trong Việt Nho không những cách sâu xa mà còn kèm theo những thể chế mềm dẻo dễ thi hành, không cần đổ máu. Vậy nếu cần làm thì không phải là cách mạng. Hãy để việc đó cho Tây Âu, phần mình phải là phục hoạt, cải tiến phương tiện… Cũng phải nói như thế về nghệ thuật và triết học: đường hướng cần theo không phải là đi rước duy lý Tây Âu về gieo rắc rồi lại làm cách mạng phá đổ duy lý để rồi không biết theo ai: con đường phải phục hoạt là “tố nguyên” là trở về với nguồn gốc chính truyền của Việt rồi Nho. Lúc đó sẽ thấy về nền tảng mình đã có một cách sâu xa và thi vị. Hỏi nếu Việt Nho đã có được như vậy thì tại sao lại thất thế trước văn minh Tây Âu? Thưa đó là tại con cháu đã quên đi. Triết lý cũng như nghệ thuật đều là những thực thể sống động, không phải như cái máy hay đồ dùng một khi làm ra rồi cứ vậy mà xài. Đàng này là thực thể siêu linh của con người đầy sống động tính, nên mỗi đời phải tiêu hóa rồi thích nghi áp dụng. Phải đưa vào đạo lý cổ truyền những giải nghĩa sáng tạo. Chính vì Việt Nho đã thiếu điều đó trong thời mới này nên phải thua thiệt trước các làn tư tưởng Tây Âu, tuy nghèo nàn về chất nhân chủ nhưng lại hoạt động mạnh tên mặt ý thức, vì thế mà thắng cuộc. Thế nhưng nay thời thế đã đổi chiều. Người Tây Âu đã nhìn ra chỗ hư hỏng của văn hóa nọ. Họ lại đang hướng về Đông phương. Còn người Đông phương nay cũng đã nhìn ra rằng: Tây phương không hẳn hơn về mọi phương diện, và dầu sao nếu muốn xuôi việc thì mình cần phải tìm cho ra nền văn hóa của mình. Như vậy thì kết luận được rằng: chỗ đứng có rồi đó, rất chững chạc đặt mãi trên hàng danh dự. Còn có nhận chức hay không thì tuỳ ở chúng ta. Nếu chúng ta muốn nhận thì người Việt phải thêm vào nền văn hóa của mình một chiều kích mới nửa. Đó là triết: cần rất nhiều người Việt lưu tâm đến triết trong thời buổi đây đấu tranh này. Một nền văn hóa chỉ có thơ nhạc, văn nghệ, văn học như của ta tới nay thì tuy là rất đáng bảo trì, nhưng phải nó đó mới là văn hóa thời thanh bình. Gặp thời có văn hóa ngoại xâm thì chúng chỉ là những súng trường, cùng lắm thì là tiểu liên, đại liên, đại bác chưa đủ để chận đường tiến của văn hóa địch: cần phải có thêm xe tăng, tàu ngầm, hàng không mẫu hạm. Trong văn hóa chỉ có triết mới chơi nổi vai trò nọ. Đời nay câu nói “les idées gouvernent le monde = ý tưởng dẫn đưa thế giới vẫn con thực như bao giờ. Vậy khoa chăm lo đến các ý tưởng chính là triết. Thiếu nó là thiếu sức mạnh. Thiếu nó chúng ta đã mất chỗ đứng ngay tại nơi quê nhà, trống gì mon men tới chỗ đứng trong hoàn vũ. Tác giả Kim Định (còn tiếp)
-
PHỤ TRƯƠNG II: TỪ HẢI ANH HÙNG Bài này có thể mang tựa đề là triết lý Truyện Kiều mặc dù Nguyễn Du không phải là triết gia: không đưa ra một nền triết riêng biệt, triết người theo chỉ là triết của tam giáo, nói đúng hơn chỉ là niềm tin tam giáo tức có sao phản ảnh lại vậy, chứ không có suy tư thêm gì cả. Tuy nhiên vì người là thi hào siêu việt với tâm hồn nghệ sĩ cực kỳ bén nhạy đã đâm rễ tới tận bờ của tiềm thức công thông, do đấy cảm được nền triết Việt, chứng cớ là nền triết này đã thấm vào cốt truyện khiến nó trở nên một áng văn đầy nhân bản tính có thêm chiều kích tâm linh tràn ngập tình người mà đỉnh cao chót vót, cao vượt khỏi tầm ý thức của độc giả, cũng như của tác giả, là vai Từ Hải. Đó là vai đã biểu hiệu một vài khía cạnh của nền nhân bản tâm linh, do vậy truyện Kiều trở nên một áng văn có tính chất dân tộc cùng tột. Chúng ta sẽ bàn về điều nọ trong tập nhỏ này. Quyển sách của dân tộc theo nghĩa cụ thể nhất Truyện Kiều là một áng văn tuyệt tác của toàn dân theo nghĩa đầy đủ hơn hết, hiểu là một sự linh phối tài tình giữa tiếng nói thông tục bình dân với ngôn ngữ bác học, nên từ bình dân tới trí thức ai ai cũng thích đọc thích ngâm. Vậy đó là điểm đặc trưng của Việt nho theo nghĩa rất sát là chỉ ở những miền Việt nho mới có nền văn hóa duy nhất cho toàn dân được biểu lộ ở cả bình diện bác học lẫn đại chúng, tuyệt nhiên không có hai nền văn hóa một cho quý tộc, cho nhà thống trị, còn một của giới bị trị, hai đàng chống đối nhau y như hai giai cấp đấu tranh vậy. Điều đó vắng bóng ở những xã hội Việt nho, nơi đây không có đẳng cấp chủ nô nên không có giai cấp đấu tranh. Trong tinh thần chỉ có một nền văn hóa duy nhất, khởi đầu là của dân gian gọi là chất gia, rồi sau giới học giả gọi là văn gia nối tiếp, tô tạo, hoàn chỉnh, thành thử tiếng của văn gia là chữ nho hòa với tiếng của chất gia là dân gian để làm nên một thực thể sống động duy nhất ở đời. Ơû các văn minh khác thì ngôn ngữ của văn gia trở thành tử ngữ, nên đưa vào tiếng nói thông dụng của dân gian được rất ít, có thể chỉ một hai phần trăm, còn đây thì đến quá bán và cũng sống động nên không gọi là tử ngữ mà là linh tự linh ngữ. Đó là điểm có một không hai trên hoàn vũ mà biểu hiệu chói chang là truyện Kiều, không một áng văn nào có thể sánh kịp. Nơi các xã hội của Aâu hay Aán đều có hai nền văn hóa, một của bác học thường vô tình đi vào phe thống trị, ghìm ngụp tiếng nói của dân gian cũng là của lương tri, nên không có một áng văn nào được hết mọi người ưa thích rộng rãi như truyện Kiều đối với dân Việt Nam. Cái đó là nhờ thiên tài siêu việt của Nguyễn Du đã đành, nhưng còn do môi sinh tinh thần dân tộc không đặt chướng ngại nào cho sự thống nhất kia. Nói khác không có một văn hóa của kẻ thống trị đàn áp nền văn hóa bình dân, mà chỉ có một văn hóa nhưng chia ra hai tầng cao thấp: tầng cao có thể đại diện do Tam giáo, còn tầng dưới là “lời quê góp nhặt” đại diện cho triết lý nhân gian, triết lý của lương tri của con người: Ngày xuân con én đưa thoi Thiều quan chín chục đã ngoài sáu mươi. Đó là triết lý chữ thời. Rồi: Ngày xuân con én đưa thoi, Lễ là tảo mộ gọi là đạp thanh. Đó là triết lý gia tiên, thờ cúng ông bà. Rồi: Để lời thệ hải minh sơn, Làm con trước phải đền ơn sinh thành. Đó là triết lý chữ hiếu. Đấy là triết, còn văn chương thì ở đây “lời quê” với Tam giáo hòa hợp nên một. Tuy tác giả nói nhũn “lời quê góp nhặt dông dài” nhưng thực ra là góp nhặt quá tài tình để đứng ngang hàng với ngôn ngữ bác học: “lời quê” quyện với chữ Nho một cách rất tự nhiên hầu như không còn gây chú ý: Kiều rằng những đấng tài hoa, Thác là thể phách, còn là tinh anh. Đã vậy những vần thơ vi diệu còn mang lại cho những từ ngữ một sự sang trọng khác thường: Người lên ngựa kẻ chín bào, Rừng phong, thu đã nhuốm màu quan san. Dặm hồng bụi chốn chinh an, Người trong đã khuất mây ngàn dâu xanh. Người về chiếc bóng năm canh, Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi. Vầng trăng ai xẻ làm đôi, Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường. Tóm lại hai thứ ngôn ngữ của chất gia và văn gia đan vào nhau để cùng nằm trong cái khung Tam giáo cách xoắn xuýt. Ngoài ra không còn chi khác chống đối lại sự thống nhất nọ cả. Đó là điểm một, một điểm hết sức ơn ích nhưng chưa mấy ai nhận ra. Bên TâyÂu Nietzsche đã nhận thức đuợc và than phiền về cái hố chia ly giữa văn hóa dân gian và quý tộc, nhưng chưa làm sao nối lại được, mặc dù Tây Aâu đã thanh toán nạn mù chữ, đã thiết lập được nền giáo dục phổ thông, nhưng đó mới là vòng ngoài, còn vòng trong vì thiếu một triết lý thống nhất cho con người quý tộc loại Plto, Aristotle, Kant, Hegel… Vì thế văn hóa chưa sản xuất nổi một áng văn có tính cách thống nhất toàn dân như truyện Kiều. Có một điểm thoạt nhìn coi như đáng tiếc phần nào, đó là cốt truyện đặt ở bên Tàu với những nhân vật Tàu. Tuy nhiên đây chỉ là điều ngoại diện vì những nhân vật trong truyện đã vượt qua giới mốc của thời không, của đất nước để trở nên những điển hình muôn thưở cho mọi nơi mọi đời. Thiên tài biểu lộ trong sự xây dựng nhân vật ở chỗ đó, ở chỗ biến nhân vật thành những điển hình phổ quát. Những Hoạn Thư, Tú Bà, Sở Khanh, giống với những Hamlet, Falstaff trong Shakespeare. Thiên tài nổi bật lên trong việc tạo dựng nhân vật, cũng như trong những vần thơ vi diệu, chứ không phải trong cốt truyện xảy ra ở đây hay kia… Chính vì thế mà hầu hết những thiên tài gạo cội không để ý đến sáng tạo truyện mới, mà lấy ngay những truyện có sẵn trong sử sách, từ Eschylus, Sophocles đến Racine, Goethe, Shakespeare, Thị Nại Am, La Quán Trung… đều dùng truyện cũ mà tài sáng tạo vẫn nổi vượt. Nhiều vì còn lấy những truyện nước ngoài như Shakespeare dùng truyện Đan Mạch, Racine dùng truyện Y Pha Nho… là vì những nhân vật cũ chỉ là nắm xương khô, nên lấy ở đâu không quan trọng, quan trọng là được ngọn bút ma thuật của thiên tài thổi sức sống vào để chúng trở nên những nhân vật sinh động khác hẳn trước, nổi bật đến độ thành điển hình. Truyện Kiều nằm trong trường hợp này (*) (*) Người nghiên cứu văn học có thể hỏi: “Tại sao Từ Hải trong “Thanh Tâm Tài Nhân” chỉ là một tên giặc cỏ tầm thường mà đến truyện Kiều lại biến thành một đấng anh hùng hảo hán lược thao gồm tài? Nhưng đứng về phương diện triết thì không nên đặt câu hỏi đó, vì hỏi thế là hầu như muốn bắt Thi Hào phải viết đúng “mẫu mực” của Dư Hoài sao? Nếu Nguyễn Du đã viết đúng “mẫu” thì chỉ làmột hủ nho sao chép sách vở, chứ dân tộc Việt đã không có một thi hào đầy óc sáng tạo, đủ tài dựng nên những nhân vật có tầm kích lớn đại biểu cho cái lý tưởng thầm kín của mình. Quả đó là trường hợp để nói câu tự hòn đất nặn nên ông bụt. Người thưởng ngoạn nghệ phẩm không mất thì giờ xét về chất liệu hòn đất mà chỉ ngắm nhìn pho tượng lẫm liệt, tướng mạo và cốt cách oai phong với những hoài bão bao la man mác và câu hỏi chính đáng phải là: Thi Hào muốn hàm ngụ chi đây với nhân vật vĩ đại này? Thi ca cũng giống như triết: một nền triết mới xuất hiện thì bao nhiêu tài liệu được “vay mượn” mất hết tính chất cũ, để mặc một sắc thái mới do chức năng mới mà nềnt riết mới đem lại cho, nên tất cả đều trở nên mới với sức sống dư thừa. Đấy là lý do tại sao các huyền thoại nhiều dịch bản, là vì mỗi thi hào, mỗi triết gia khi dùng tới chúng thì hà hơi vào truyền thần cho chúng nên linh động như sống dậy khỏi đống tro tàn, để chu toàn một nhiệm vụ khác trước, nhiều khi câu văn trưng hay huyền thoại kể lại còn được biến đổi cho hợp với thuyết được đưa ra. Thí dụ rõ nhất là khi Khổng Tử tóm toàn Kinh Thi vào câu “Tư Vô Tà”, câu đó lấy từ bài thơ QUYNH chỉ nói về quan mua ngựa không có lòng tà vậy, xem đồng văn không thể dùng mà tóm toàn Kinh Thi được, nên nhiều học giả lấy làm lạ tại sao Khổng Tử lại lấy một câu lơ mơ như vậy mà trùm lên cả Kinh Thi. Tô Thị cho Khổng dùng theo ý mình mà không đoái đến ý nghĩa của toàn thiên. Đó là xét theo văn hóa, còn xét theo triết thì phải chú ý đến ý nghĩa mới mà Khổng Tử gán cho (cũng vì vậy mà trong triết ít trưng dẫn kiểu văn học). Đó là những điểm phải kể tới khi ai mè hè muốn coi thường truyện Kiều vì các vai trong đó là người Tàu. Đây không phải là chỗ nên phân biệt bờ cõi mà phải nghĩ đến con người muôn thưở. Vì thế khi muốn định tính vai nào trong truyện không được quy chiếu tới “lịch sử” của vai đó, thí dụ Từ Hải có tài liệu kêu là tặc, là đạo… vì đây chỉ là nhân vật tiểu thuyết, nhất là loại tiểu thuyết có chủ đề, thì chỉ nên xét nhân vật như được tô tạo bởi tác giả, tác giả đưa ra sao ta phải căn cứ vào đó, vào tên tuổi hành trang của nhân vật mà quyết đoán. Đấy là nói chung. Riêng truyện Kiều có một sự đặc biệt thú vị, đó là cần phải lưu ý đến cái biên cương huyền sử của Việt tộc, nó u linh chập chờn cách huyền ảo. Chính vì điều này được tuân theo cách rộng rãi nên người Việt đọc truyện Kiều hầu như không mấy ai lấy làm lòng đó là truyện xảy ra bên Tàu, mà một cách vô thức đều đã bảo trợ cho các nhân vật sang định cư đâu đó bên Việt lúc nào không hay. Đúng hơn không phải bảo trợ định cư mà chỉ lôi lên mặt ý thức bức dư đồ cổ Việt nằm dài từ miền Liêu Dương quê Kim Trọng xuống tới Phúc Kiến nơi kết truyện, nằm kề với Việt Nam. Đó quả là một dải đất mênh mông đủ chỉ trỏ địa bàn tổ xa xưa rộng mênh mông của triết Việt, nên cũng là một nền văn hóa có tính chất phổ quát vượt hết mọi biên cương đến nỗi dân tộc cũng là nhân tộc. Có hậu hay không có hậu Điểm hai là vụ cái hậu. Một dạo có mấy học giả nhất là ngành Việt văn có ý tiếc cho Nguyễn Du đã kết truyện bằng mấy cái hậu to tổ bố. Theo họ thì Nguyễn Du sẽ đi đúng nghệ thuật hơn nếu để cho Kiều chết luôn ở sông Tiền Đường có phải hay hơn không, đàng này Kiều lại được vớt lên rồi lắp vào một cái hậu quá ư hậu. Nào là Kim Trọng được làm quan, được bổ về cai trị vùng Nam Bình; nào là Kim được gặp Kiều trước sự vui mừng tràn ngập của gia đình trong đó có cả hai ông bà Vương Viên Ngoại với Thuý Vânđủ mặt. Rồi Kim Trọng kéo: Một nhà về đến quan nha, Đoàn viên vội mở tiệc hoa vui vầy. Lại còn đi một đường tình thắm ôi là thắm: Cùng nhau giao bái một nhà, Lễ là đủ lễ đôi đà xứng đôi. Động phòng dìu dặt chén mồi, Bâng khuâng duyên mới ngậm ngùi tình xưa. Những từ sen ngó đào tơ, Mười lăm năm mới bây giờ là đây. Vậy chưa đủ, còn thêm: Ba sinh đã phí mười nguyên, Duyên đôi lứa cũng là duyên bạn bày. Phong lưu phú quý ai bì, Vườn xuân một thưở để bia muôn đời. Quả là cái hậu quá hậu “làm lu mờ” đi phần nào áng văn chương tuyệt tác lẽ ra không chê vào đâu được, nhưng nay thì chê được vì cái hậu dài lê thê nọ. Ta nghĩ thế nào về lời phê bình nọ? Phải thưa rằng sổ toẹt, vì đó là phê bình theo thời Tây: cái gì của Tây cũng đều hay cả, mà mốt lúc đó của Tây phải là không có hậu, phải tận cùng bằng một cuộc đổ vỡ hay ít ra bỏ lửng, vậy rồi thôi, người kể không cho biết chi nữa. Không cần biết xác Kiều trôi đi đâu, Kim Trọng có đỗ đạt chăng, hai ông bà Viên Ngoại sống hay chết. Thế mới hay. Xin thưa rằng cái hay không nằm ở chỗ có hậu hay không có hậu, nhưng ở trong những vần thơ tuyệt diệu, trong những nhân vật bật nổi. Shakespeare viết Romeo và Juliete không có hậu đã rất thành công, nhưng bi đát quá, khán giả ước mong ông viết cái gì có hậu, ông liền viết vở “Như Ý Bạn Muống” (As You Like It) đầy hậu, tức cả bốn đôi trong truyện đều lấy được nhau, con đàn cháu đống v.v… Vậy mà vẫn hay như thường. Điều đó chứng tỏ có hậu hay không có hậu không ăn nhằm chi tới giá trị nghệ thuật của áng văn. Điểm hai phê bình như trên là trái khoáy thời gian (anachronisme) bắt Nguyễn Du phải sống như người thời mới đang cố theo Tây, đang khi ông là đại biểu cho thời cổ điển cao độ: với thời đó thì bất cứ áng văn nào dù chỉ dài tám câu cũng phải có đầu có cuối, có đóng có mở, chứ không vào truyện lưng chừng (in medias res) rồi bỏ lửng. Thời nào cóhồn nghệ thuật thời ấy (every age projects its own image of man into its arts). Vậy hình ảnh con người được chiếu giải vào nghệ thuật lúc đó bên Aâu Tây ra sao? Thưa là con người rách nát siêu vẹo, như thếy hiện hình lên trong các bức hoạ lập thể, trừu tượng. Đó là những con người đã bị đập vụn ra từng mảnh mà chưa biết xếp lại theo dạng thức nào, hiện họ còn đang đi tìm cái dạng thức mới đó mà chưa tìm ra, chỉ biết rằng họ đang cố công từ bỏ dạng thức cũ. Tại sao lại từ bỏ? Đến đây ta chạm vào một vấn đế then chốt và trầm trọng hơn vấn đề nghệ thuật nhiều; đó là vấn đề siêu hình cực kỳ nhiêu khê về vũ trụ quan và nhân sinh quan. Hỏi rằng vũ trụ vạn vật là một hay nhiều (nhất hay đa) tức cũng là hỏi vũ trụ là không hay có, tĩnh hay động (tĩnh là nhất mà đa là động). Tây phương đã chia hai: Empedocle cho là một, là tĩnh, Heraclite cho là đa là động. Phái tĩnh đã thắng thế với Plato, Aristotle, thế là giản lược triết học vào một chiều kích, nói về người là duy vật tự nền tảng, bở lẽ tuy nhận có linh hồn, nhưng linh hồn được quan niệm theo những ý niệm lấy từ sự vật, nên cũng là thuộc sự vật. Vậy là tĩnh, tức là duy vật, thiếu chiều kích tâm linh. Tâm linh chân thực phải là không, là vô. Đây chỉ có hữu. Siêu hình triết Tây gọi là hữu thể học (ontology). Siêu hình là nền tảng rốt ráo. Một khi nền tảng đã hữu thì tất cả đều phải hữu, tức là một chiều kích, trong đó phải kể đến con người. Con người một chiều kích thì là duy. Vì đây là duy hữu nên cũng là duy vật (duy vô là duy tâm). Thế là con người theo triết Tây là con người thọt (một chân) từ trong căn để, tức là thiếu một phần quan trọng hơn hết là tâm linh, nói kiểu siêu hình là thiếu vô, chỉ có hữu; nói theo tâm lý thìlà tai họa split personality, tạm dịch là nhân cách bị chẻ đôi hay đơn sơ hơn là người lạc mất hồn, hoặc người đang đi tìm hồn. Đó là căn do sinh ra các thứ bệnh thần kinh mà hình thái thông thường hơn hết là schizophreny, nó làm cho con người mất liên hệ với hoàn cản, với tha nhân, với vũ trụ, sống bơ vơ không thấy ý nghĩa cuộc sống. Nói về triết thì đó là thứ triết học trừu tượng ly lìa đời sống, nó vận hàn trong thế giới hoàn toàn làm bằng ý niệm rất xa thực tế. Trong xã hội là giai cấp đấu tranh bên chủ bên nô, bên nam bên nữ v.v… Trong văn nghệ là ưa bi kịch và võ công ca, tức là loại tác phẩm của quý tộc ưa đấu tranh và không tìm được sự hòa giải trong tâm hồn (nên ưa bi kịch). Cả Hy Lạp lẫn Aán Độ đều nổi về hai loại văn đó: võ công ca (epic) và bi kịch. Trái lại bên Viễn Đông không có võ công ca, cũng không đề cao bi kịch. Bi tráng, bi hùng thì có chứ bi kịch thì không. Lý do sâu xa của sự vụ phải tìm trên cấp siêu hình tức là hỏi rằng vũ trụ có hay không. Hữu hay vô. Động hay tĩnh. Và câu trả lời phải “hàm hồ” như sau: có mà không, không mà có. Nói theo Kinh Dịch là “thái cực nhi vô cực”. Nhớ lại xưa có dạo các học giả Tây Aâu về nho tranh luận xem phải dịch tiếng nhi là gì, là is chăng. Nếu vậy thì thái cực là (is) vô cực. Tranh luận gay go mà không giải quyết được vì triết Tây thiếu tiếng nhi hàm hồ: có nghĩa là thái cực mà vẫn vô cực. Thái cực không là vô cực, tức không đồng hóa với vô, vì nếu thế là duy vô. Còn thái cực mà vẫn vô cực có nghĩa là vừa có vừa không một trật, nhân đó vừa động mà lại tĩnh, nhất mà lại đa. Nói kiểu siêu hình đó là dual-unit: lưỡng nhất tính, hai mà một, một mà hai. Nói khác đó là nguyên lý thái hòa: hòa có với không, mà tâm lý miền sâu gọi là nguyên lý đồng thời (synchronicity principle) trái với nguyên lý đồng nhất của thái tây (identity principle) theo đó một là một, động là động, tĩnh là tĩnh, có là có, không là không. Đây là nguyên lý đã khống chế triết cổ điển Tây Aâu làm cho ngạt thở hơn hai mươi thế kỷ. Mãi đến đời mới Hegel mớihé nhìn ra điều đó, nên muốn xây triết trên nền tảng dialectic mà người mình đã dịch tầm bậy là biện chứng, đáng lẽ ra phải dịch là lưỡng đề (lẽ ra phải dịch lưỡng hành), nhưng triết Tây còn chìm sâu trong luận lý ý niệm không cóhành nên tạm dịch lưỡng đề (hoặc lưỡng quyết) tức quyết đề (affirmatif) rồi phủ đề (negatif) đoạn tổng đề (synthetic) và như vậy là loại bỏ được nguyên lý cấm mâu thuẫn (principe de non contradiction) là phó sản củanguyên lý đồng nhất. Nói thì nói vậy nhưng rồi Hegel rơi vào duy tâm lúc nào không hay, tức là còn có nhất quyết, hết là lưỡng quyết. Karl Marx nổi sùng cho Hegel đã bỏ vật chất, nên đã lôi “lưỡng đề” (materialistic dialectic) đặt lên mặt đát gọi là duy vật biện chứng phải đặt dấu ngoặc kép trên tiếng “lưỡng quyết”, vì từ ngữ là lưỡng, nhưng sự thực là nhất quyết tức duy vật. Ta thấy chỗ hố hiện lên lù lù: đã duy vật, tức chỉ có vật chất thì còn lưỡng quyết sao được. Vậy mà trường hợp Hegel và Karl Marx chỉ là điển hình, chứ trong thực trạng còn nhiều môn phái đã hé nhìn thấy sự vắng bóng của nền Thái Hòa trong triết Tây, nhưng đến khi đưa ra giải pháp thì cuối cùng lại bị rơi vào vết cũ dưới hình thức khác, không sao đạt được nền Thái Hòa như trong Dịch kinh của Việt nho. Nền Thái hòa này đã bao phủ lấy nền triết Việt nho và biểu thị ra muôn hình thái. Triệt trên đã nói đến sự thống nhất giữa văn gia và chất gia, nghĩa là trong nứơc chỉ có một nền văn hóa. Triệt này ta lại nói về sự thái hòa bằng hình thức nghệ thuật có hậu tức hòa giải được cả hai đàng, cả chữ tài lẫn chữ mệnh, cả chữ hiếu lẫn chữ tình v.v… Đó là hình thức nổi vượt trong văn học nghệ thuật Việt nho, mà dân chúng cũng ưa thích như vậy. Riêng về truyện Kiều, ngừơi ta đã mở những cuộc thăm dò trong dân chúng nhất là nơi quê hương của Nguyễn Du thi bá để xem đoạn nào trong truyện được ưa chuộng hơn hết. Câu trả lời chung là đoạn đầu và cuối. Quả đúng là tiếng dân, dân ưa cảnh thái hòa, dân ưa có hậu: đoạn đầu nói lên quyền yêu thương của đôi trai gái, tức của con người có xương có thịt sống ở đây và bây giờ, mà không phải là con người trừu tượng với mối tình lãng mạn kiểu Plato, đó là mối tình thanh giáo hoàn toàn duy lý nên giả tạo: tưởng rằng có thể phân tâm tình ra khỏi thân xác, để yêu nhau kiểu thiên thần. Nhưng con người không phải là thiên thần mà là thiên địa chi đức: thiên là tâm, địa là thân, hai đàng xoắn xuýt lấy nhau cách hòa hợp, nên trai tài gái sắc yêu thương hẹn hò thề hứa là đúng đạo trời có gì mà phải trách. Chỉ còn mong cho đồi lứa được vuông tròn. Nhưng chẳng may đường đời đầy gió bụi, nên xảy ra bao cuộc thăng trầm, trôi nổi, đau thương, tung lên đè xuống làm thắt lòng lại… Cho tới lúc Kim Trọng gặp lại Thuý Kiều thì người đọc mới được thở một cái phào khoan khoái. Đời đã đầy những cảnh đau thương đến thế mà chưa cho hòa hợp lại sao? Tại sao đòi tác giả bắt độc giả kéo dài cái nhìn vô vọng chẳng tìm đâu ra được lúc an nghỉ để cho tâm hồn bớt sự chói đau. Ư thì đời là thế: Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau. Nhưng ghét nhau có lúc thôi chứ, nóng nực mãi sao. Lâu lâu cũng phải có trận Nam phong cho mát cái lòng đang khô héo. Vì thế phải để cho: Chữ tài chữ mệnh dồi dào cả hai. Xuyên qua hơn ba ngàn câu thơ đã phải nghe nhạc sầu: Bốn giây máu nhỏ năm đầu ngón tay, Thì đến cuối cùng phải cho nghe một: “ Khúc đâu đầm ấm dương hòa” chứ. Vậy mới là nhạc “nhạc giả lạc dã” mà. Cả đến tác giả cũng thế, phải để cho thi bá xả hơi một cái chứ. Tôi nghĩ rằng Nguyễn Du đã cảm thấy thích thú biết bao lúc ông cho Từ Hải đón Kiều về, rồi Kiều ngôi trên tòa cao phán xử những phường đầu trâu mặt ngựa: những Tú Bà, Mã Giám Sinh, Sở Khanh… mà ẩn ý là vua quan thối nát tham tàn. Mất công viết hơn ba ngàn câu thơ mà lại không được hưởng một phút sảng khoái sao? Tóm lại ta có thể nói sự thành công của một tác phẩm không ở tại có hậu hay không có hậu. Đừng theo mốt mà muốn trói nghệ thuật vào một đường nẻo nào. Nghệ thuật chính là sự uyển chuyển siêu vượt không thể trói buộc. Muốn đem cái mốt không có hậu làm tiêu chuẩn chỉ là ý nghĩ của những người không thể hiện thực được những áng văn tuyệt diệu. Hơn thế nữa đứng trên phương diện tâm lý giáo dục và triết lý thì chính sự có hậu mới hợp với nền văn hóa Việt nho xây trên âm dương hòa đem lại cảm thức an hòa cho tâm khảm, vì vậy khi có những thế lực phá vỡ mối thái hòa đó thì tiềm thức cộng thông dân tộc chống lại để bảo vệ cho đức thái hòa nọ. Thuyền tình bể ái. Đấy là lý do sâu xa giải nghĩa tại sao thơ trữ tình là nét đặc trưng của Việt tộc. Các học giả nhận thấy Hy Lạp và Aán Độ đều nổi về bi kịch và võ công ca (epic). Hi Lạp có Iliade, Odyssey, Aán Độ có Mahabarata và Ramayana còn Tàu không có võ công ca mà chỉ có thơ trữ tình. Tất nhiên họ không nói đến Việt Nam vì Việt Nam có đựơc ai biết tới đâu kể cả người Việt. Nhưng nếu cần làm một cuộc đối chiếu thì lâu đài vĩ đại nhất về thơ trữ tình phải là truyện Kiều, vì nó tràn ngập tình người mà ta có thể móc nối vào tới tận căn để như thuyền tình bể ái. Bốn chữ thuyền tình bể ái lấy từ hai câu: Thuyền tình vừa ghé đến nơi, Thì đà trâm gẫy bình rơi bao giờ. Và Vẻ chi chút phận bèo mây, Làm cho bể ái khi đầy khi vơi. Bốn chữ này nói lên làn sóng ngầm chảy xuyên qua toàn truyện. Thoạt đầu là thuyền tình của Đạm Tiên rồi xuyên qua thuyền Khuyển Ưng, thuyền Bạc Hạnh, thuyền của Thổ tù trên sông Tiền Đường và cuối cùng là thuyền Giác Duyên cứu vớt với rất nhiều thuyền khác ẩn ẩn hiện hiện. Nàng rằng chiếc bách sóng đào, Nổi chim cũng mặc lúc nào rủi may… Xót này chút phận thuyền quyên, Cành hoa đem bán vào cành lái buôn… Làm cho trông thấy nhãn tiền, Cho người thăm ván bán thuyền biết tay. ………………… Ta đặt câu hỏi tại sao lấy hình ảnh thuyền tình bể ái làm làn sóng ngầm của truyện? Tại sao lại biểu thị tình ái bằng con thuyền? Giáo sư Bùi Hữu Sủng có để ý đến con thuyền trong truyện như làn sóng ngầm, cho rằng có thể Nguyễn Du đã lấy hứng từ cô gái chèo đò, lúc Tiên Sinh còn cắp sách đi học hàng ngày phải qua đò Gia Lâm, lâu thành ra thân. Điều đó đã ghi lại trong tâm can cụ Nguyễn một hình ảnh thơ mộng: Cây đa bến cũ con đò năm xưa. Tôi cho rằng có thể như thế mà cũng có thể không. Vì trứơc Nguyễn Du con thuyền đã xuất hiện nhiều trong văn học dân gian. Dân gian vẫn nói về sự kết bạn bằng danh từ thuyền như “thăm ván bán thuyền”. Ca dao nói: Sông sâu nước đục lờ đờ, Biết rằng thuyền đậu hay là thuyền trôi. Thuyền tình cũng đã đi vào thơ Nguyễn Trãi lâu trước. Con thuyền lờ lững trên sông, Biết đem tâm sữ dãi cùng ai hay. Hoặc bài thơ quen thuộc của bà Hồ Xuân Hương Phán cho con Nguyễn Thị Đào, Nước trong veo vẻo cắm sào (thuyền) đợi ai. Chữ rằng xuân bất tái lai: Cho về kiếm chút kẻo mai nữa già. Vậy là đủ để thấy rằng “thuyền tình bể ai” có thể gọi là thuyền dân tộc và xuất hiện đã rất lâu đời, nên Nguyễn Du có thể không cần cô lái đò cũng vẫn gặp hình ảnh thuyền nằm sẵn trong dân gian rồi. Tuy nhiên dù đẩy xa hơn cô lái đó để đạt tới con thuyền dân tộc cũng chưa là tận cùng. Vì vẫn còn hỏi được tại sao dân tộc Việt có ý niệm thuyền và đem gắn buộc với bể ái (thuyền tình bể ái)? Theo các nhà nghiên cứu cổ sử Tàu thì có hai nước Tàu một là Tàu dùng xe ngựa ở phương Bắc, hai là Tàu đi thuyền ở phương Nam. Vậy Tàu phương Nam chính là miền của Việt tộc bao giờ cũng nổi về lấy thuyền làm phương tiện di chuyển, do đó giỏi về thuỷ chiến. Trận Xích Bích thời Tam Quốc là chứng tích: Bắc Nguỵ thua Đông Ngô, mà Đông Ngô là quê hương Việt ở đợt rút thứ hai. Như vậy chiếc thuyền dân tộc có thể bắt nguồn từ sự kiện đó chăng. Thưa như vậy kể là đã xa hơn nhưng cũng chưa hẳn đáo lý, vì chưa nói lên được chiều kích u linh trong cái thuyền để đáng được gọi là thuyền dân tộc, và cụ thể là chưa nói lên đuợc tại sao lại là thuyền tình bể ái. Đến đây cần phải nại tới khảo cổ và huyền thoại. Tìm về khảo cổ ta sẽ nhận ra được một hình ảnh huy hoàng của thuyền tình bể ái trong trống đồng, nơi đây có thuyền tình đã biến thể ra thuyền rồng, một thứ rồng đầy ứ tình tư làm cho cong lưng lên đón nhận cái hôn tràn ngập ái ân của con hải Aâu đại biểu cho Aâu Cơ Nghi Mẫu đang lao vào miệng rồng. Đó là giây phút ái ân cùng tột biểu thị bằng cái hôn nồng cháy, cái hôn sâu thẳm xuyên qua lưỡi xuống tận họng để ngấm vào tâm can tì phế. Đó là cái hôn giao cấu làm nảy ra được vô số con đang đứng trên thuyền, cũng như đang ca múa trên mặt trống: tất cả đều mang dấu mẹ tiên là đeo lông chim, cũng như cha rồng là đứng trên thuyền rồng. Đó mới chính là cội nguồn của thuyền tình bể ái, của thuyền dân tộc. Nói đúng hơn đó là hình ảnh cụ thể minh họa mối tình dân tộc đã có ngay từ ngày khai quốc với tên là tiên rồng: tiên được biểu thị bằng các loại chim nước. Chim nước là cốt ý để thông giao cùng rồng ở thuỷ phủ. Còn rồng được biểu thị bằng thuyền có hình rồng, vì vậy là thuyền mà lại có mắt, có chân, có mũi cong, như thấy kết tinh trong trống đồng. Hình Thuyền tình bể ái (tang trống đồng Ngọc Lữ) Hình ảnh Aâu Cơ Tiên (chim) đang lao vào miệng rồng. Hình đó cũng chỉ là lắp lại dưới hình thức cụ thể hơn việc giao chỉ trong những hình tam giác gốc. Huyền sử nói về ông Đại Vũ “khai sáng” đào sâu xuống thì gặp hai ông bà Nữ Oa Phục Hy đang ôm nhau, đó là tác động giao chỉ uyên nguyên hơn hết. Nguồn gốc thật sâu xa là vậy. Trống đồng tuy mới xuất hiện vào lối đầu thiên niên kỷ trước công nguyên, nhưng các nhà khảo cổ cho đó là giai đoạn kết tinh, chứ còn thời khởi thuỷ thì phải lùi xa nữa cho tới thời Bắc Sơn, vì ở đấy cũng đã thấy xuất hiện nét song trùng sơ nguyên, hay ít ra tự giai đoạn Phùng Nguyên nơi bộ số dân tộc 2-3 đã hiện lên cực kỳ rõ nét, tức là nét Thái hòa đã xuất hiện chói chang rồi. Trong huyền sử thì trứơc Lạc Long Quân (rồng) và Aâu Cơ (tiên) đã thấy ấn tích tiên rồng ngay trong tên họ Hồng Bàng. Vì hồng là thứ chim bay cao nhất nên gọi là thiên nga, đồng thời cũng bơi trong sông Trường Giang (sông Dương Tử) nên gọi là Đế Giang (chữ hồng kép bởi chữ Giang và Điểu, còn rồng thì đã ẩn trong chữ Bàng viết với bộ long. Thế là ngay từ thời khuyết sử ta đã thấy hình ảnh tiên rồng, nên cũng là hình ảnh của thuyền tình bể ái (giữa chim nước và rồng). Chính mối tình man mác ấy mới là hồn dân tộc đã cuồn cuộn chảy qua dòng sử mệnh của Việt tộc, nơi quen gọi quê hương là non nước: non là nơi của tiên (Phong Châu của Nghi Mẫu), nứơc là thuỷ phủ của bố Lạc. Như thế là chúng ta đã đẩy con thuyền dân tộc đến chỗ có nguồn sâu xa hơn hết, nên kết luận được rằng khi truyện Kiều lấy con thuyền tình bể ái làm làn sóng ngầm, thì tỏ ra xứng đáng được tôn lên làm áng thơ cao sâu nhất trong các thơ trữ tình, một lối thơ tiêu biểu cho nền văn hóa đã đạt Thái hòa trong triết lý vậy. Đến đây có thể đặt vấn nạn: tại sao trống đồng là thần vật, một đối tượng thờ kính của người xưa mà lại vẽ sự tục tĩu như vậy. Thưa rằng quan niệmc ho việc truyền sinh là tục tĩu phát xuất do một nền văn hóa nhất định ở một giai đoạn nhất định, xin nói ngay đó là nền văn hóa thanh giáo tức là nền văn hóa ứ đọng thiếu dịch tính, nên cũng thiếu luôn sức sống, vì sống là tự động, động tự nội. Những nền văn hóa tĩnh (xây trên ý niệm) đều là những nền văn hóa chống lại sự sống, đúng hơn chống lại nguồn gốc sự sống. Vậy nguồn gốc sự sống là đức trời đức đất giao chỉ. Đây là điều rất nền tảng cần bàn rộng thêm ít lời. Câu sách Kinh Dịch: “thiên địa chi đại đức viết sinh” chứa đựng nguyên lý phổ biến không một vật nào không phải vâng theo. Trời đất là sáng tối, sự vật là cứng mềm, sinh vật là trống mái, người là nữ nam… Chính vì lẽ đó mà ở khởi nguyên không một nền văn hóa nào không thờ âm dương vật. Thế nhưng đạo là đi, là biến hóa, thì âm dương vật cũng phải biến hóa, nói cụ thể là phải thăng hoa, phải trừu tượng, phải xóa bỏ vết cũ kềnh cơi để mặc lốt mớisiêu thoát, có thế mới đi vào vòng đồng tâm như sắp nói sau: vừa xoay tròn và vẫn tiến. Vậy ở đợt này ta thấy trong ba nền văn hóa hoàn cầu thì hai đã vấp ngã: Hy Lạp vấp ngã ở chỗ thải bỏ hẳn âm dương vật, đến nỗi thần minh triết Minerve không còn chịu sinh ra từ âm hộ mà sinh ra từ đầu Zeus, tức là đề cao cái đầu cùng cực, hàm ý là trở nên duy lý. Còn Aán Độ thì vấp ngã không chịu tiến, tức không biến thể âm dương vật, cứ để nguyên con mà thờ, như ta thấy những dương vật cương cứng (phallus) để ở bảo tàng viện Sài Gòn. Đó lại là một quá đáng khác: giữ nguyên con là không tiến, không siêu vượt nổi ra khỏi giai đoạn bái vật, trái ngược hẳn với Hy Lạp thải bỏ trọn, nên đánh mất nét gấp đôi, văn hóa đọa ra các thứ duy. Việt rồi sau Nho là đạt đựơc sự biến thể, nên vẫn giữ được dòng sống sinh sinh tràn ngập. Ơû nắp thạp Đào Thịnh là bốn cặp trai gái đang giao hợp với dương vật phồng lên quá cỡ, tức vừa ra khỏi giai đoạn thờ âm dương vật nguyên con. Đến mặt trống đồng Ngọc Lữ thì âm dương vật đã được kiểu thức hóa thành hình tam giác gốc, âm dương khó còn nhận diện được. Không lạ chi ban đầu có nhà nghiên cứu cho đó là cái lông công. Phải nhiều công sức đối chiếu mới nhận ra đó là âm dương hòa, là căn để con ngừơi Đại Ngã, cũng là nền móng văn hóa Việt tộc. Vì thế hình tam gíc gốc là một thứ chân vạc uyên nguyên sinh ra vô vàn tam giác nhỏ rải khắp vòng ngoài cùng mặt trống, nói lên một cách cụ thể nguyên lý chí trung hòa: nội hàm càng nhỏ thì ngoại hàm càng to. Nội hàm vào tới âm dương hòa là cùng tột, nên tam giác tỏ ra bao hết mặt vũ trụ (đây là mặt trống) làm nên một vũ trụ tâm tình được biểu thị bằng cái bọc trứng của mẹ Aâu. Vậy khi nói thuyền tình bể ái thì không còn là câu nói bóng nữ, vì đã có đầy hình ảnh tràn ngập và chói chang rồi. Trong các mối tình thì không gì mãnh liệt bằng tình ái ân nam nữ, nói được là mạnh mẽ đầy sức sáng tạo. Cứ xem hai cô cậu đã gặp nhau hàng tuần mà còn phải viết thêm không biết bao nhiêu thơ, chẳng biết đề tài lấy ở đâu mà lắm thế, nó tuôn ra dào dạt, ngòi bút chạy thoáng thoáng không cần nghĩ ngợi. Muốn cho cô cậu có được nguồn thơ lai láng thì chỉ cho quen nhau vừa đủ bén mùi liền bắt cô cậu mỗi người đi một ngả, “thiếp tại Tương giang đầu, chàng tại Tương giang vĩ”, thế là nguồn thơ lãng mạn tuôn trào. Sông Tương có chảy xiết cũng phải chia 2 dòng để trao đi chở lại hai dòng thơ lai láng đó. Tóm lại trong con người thì không gì mạnh bằng tình ái ân trai gái vợ chồng, càng rẽ chia lại càng nồng nhiết. Và đến đây mới hiểu được chỗ biểu lộ sự hùng tráng của Việt đạo là nó đặt khởi đoan đạo ngay vào chỗ đó, vào chỗ vợ chồng trai gái “quân tử chi đạo tạo đoan hồ phu phụ”. Nói là hùng tráng vì đang khi các nền đạo đức khác sợ tình ái như sợ lửa, phải xa lánh thì đây lại đặt đạo gối đầu ngay vào chính tình ái, cho rằng tình ái là động cơ mạnh nhất gây nên những công trình lớn lao, mà việc lớn lao nhất ở hiện thể là sinh ra con người tiểu ngã, còn cấp siêu hình là con người Đại Ngã. Nói cụ thể là tâm tình làm cho con người lớn lên hết cỡ người, nói cụ thể là nuôi dưỡng giáo dục để con người phát triển hết mọi chiều kích người cả tiểu ngã lẫn Đại Ngã, cho hồn tiểu ngã hòa vào hồn Đại Ngã, đấy phải là mục tiêu tối đại của những áng văn siêu việt. Triệt sau chúng ta sẽ xem bóng Đại Ngã tâm linh xuất hiện ra sao trong truyện Kiều. Nhưng trước đó chúng ta hãy xem lối tiến của Đại Ngã ra sao. Vòng đồng tâm Trên ta vừa bàn đền con “thuyền tình bể ái” như sợi dây xiên qua đời sống của dân tộc, xuất hiện tràn ngập trong Kiều cũng như trong dân gian. Nhưng đó mới là bề mặt, nói theo cơ cấu thì đó mới là hiện nghĩa (phénotexte) còn ẩn nghĩa (génotexte) thì là cái vòng đồng tâm xoáy vào giữ, mà Giáo Sư Bùi Hữu Sủng đã khám phá được một quãng khi thấyThuý Kiều có một tâm hồn nhạy cảm, tràn ngập yêu thương: Lòng đâu sẵn mối thương tâm, Thoắt nghe Kiều đã đầm đầm châu sa. Với Kim Trọng nàng xin thề: Đã nguyền hai chữ Đồng tâm, Trăm năm thề chẳng ôm cầm thuyền ai. Rồi trải qua bao bứơc gian truân nàng cố giữ mối băng tâm cho đến lúc không sao được mới xin chừa. Không thể đếm hết chữ Tâm rải cùng khắp truyện Kiều để vẽ nên những vòng đồng tâm trong lòng Kiều. Giào sư nói cứ mỗi lần giông tố đổ lên đầu nàng thì nàng lại chọn một nơi vắng để một mình một bóng trước ánh trăng vàng hay ngọn đèn leo lét soi thấu vào lòng, rồi như phóng những làn sóng lòng ra tứ phía để rồi lại thu gọn về thâm cung lòng mình như một trung tâm điểm. Thí dụ như sau khi viếng mộ Đạm Tiên trở về: Một mình lặng ngắm bóng nga, Rộn đường gần với nỗi xa bời bời. Sau khi đã bán mình chuộc cha một mình khóc cái mộng ái ân tan vỡ, để tạ tội với người tình nàng hứa sẽ làm trâu ngựa để đền bồi hoặc kết mối tình thành một khối băng tâm mang xuống suối vàng thì sóng lòng lại quay về chiếc đèn và với đáy hồn sâu thẳm: Nỗi riêng riêng những bàng hoàng, Dầu chong trắng đĩa, lệ tràn thấm khăn. Thế rồi xuyên qua nhiều vòng khác thì theo Mã Giám Sinh về Lâm Tri, khi ở lầu Ngưng Bích, lúc ở nhà Thúc Sinh, rồi với Từ Hải, và nhất là ở sông Tiền Đường. Đó là bấy nhiêuvòng đồng tâm làm nên nét đặc trưng trong truyện Kiều, một thứ làn “sóng tâm” phóng tỏa ra không gian thời gian: tự đáy lòng người thấu tận đến lòng trời lòng đất lòng quỷ thần: Bán mình đã động hiếu tâm đến trời. Quả thực đó là con dấu mà hồn Việt đóng lên truyện Kiều để nó được đề cao như mang chở nền nhân bản tâm linh. Tuy vậy về vòng đồng tâm này không hiện lên được rõ nét bằng chiếc thuyền đã bàn trên, nên rất khó nhận ra. Ngay cả đến cái thuyền cũng chỉ thấp thoáng cánh buồm xa xa, là vì nó không nằm trong ý thức của thi hào, cùng lắm người chỉ cảm thấy lơ mơ. Nhưng chính chỗ vô thức đó mới bảo đảm cội nguồn của dân tộc, của tiềm thức cộng thông giống nòi: nên người đọc đã có thể cảm thấy lờ mờ xuyên qua những mối tình đằm thắm sâu đậm trong truyện: đủ cả hỉ, nộ, ai, lạc, ái, ố tràn lan biểu lộ một cái gì đặc biệt. Nay nếu muốn nhìn rõ hơn cái dạng thức tiên thiên chưa bị hạn chế do bị bẻ quặt như trong các cái đã hiện thể. Nhưng lại nằm sâu dưới đáy thẳm nên chỉ có những tâm hồn nhạy cảm, những con mắt của triết gia, của thi sĩ mới cảm được. Vì đó là những nguời có lúc đã đi đến bờ của hư vô (sách Phật gọi là lân hư) nên có thể cảm thấy và ghi lại trong nghệ thuật, trong huyền thoại, nên khéo vận dụng cơ cấu thì sẽ nhìn ra đựơc cái vòng đồng tâm này mà đường tiến tới như sau: Nếu ta đặt lên mặt trống đồng cái nhìn soi bói của nhà cơ cấu ta sẽ đặc biệt chú ý tới cái vòng vũ đều tiến theo chiều tả nhậm (tay trái). Đó là đường tiến theo tình người của nông nghiệp, ngược lại với tay hữu là đường lý sự của du mục ta sẽ gọi là hữu nhậm. Dấu hữu nhậm ban đầu là riêng của Tàu, nên họ lấy dấu tả nhậm để phân biệt ta với họ trong câu “Tứ Di tả nhậm” (Kinh Thưa thiên tất mệnh, câu 13). Vậy tả nhậm bao hàm ý rộng là đề cao tâm linh (tay trái bên trái tim) đề cao phẩm, đề cao đức hào hiệp, phù yểu (bênh kẻ yếu đuối) đặt vợ trên chồng là theo cái luật âm trước dương nọ. Vì thế đó chính là hướng tiến của Lạc Thư cũng gọi là sách mẹ vì đề coa nguyên lý mẹ, nói đơn sơ là đặt nặng tình hơn lý, ngoài là lý một nhưng trong là tình mười. Vì thế Lạc Thư tiến theo chiều tả nhậm như thấy được rõ khi đặt vào cơ cấu ngũ hành vòng khắc đó là thuỷ (số 1) khắc hỏa (số 2), hỏa khắc kim (số 4), kim khắc mộc (số 3), mộc khắc thổ (số 5). Đặt thành cơ cấu như sau sẽ thấy liến hướng tiến “tả nhậm”: 1 2 4 35 Nói theo số là khởi từ số 1 qua 2 rồi 4 đến 3. Số 3 chỉ mộc mà mộc khắc thổ số 5. Chữ khắc ở đây có nghĩa là hoạch (khắc giả hoạch dã) tức là thâu đạt được Đại Ngã biểu thị bằng số 5. Đó là hậu quả của các vòng đồng tâm: tự vòng ngoài vào vòng trong cho đến vòng trong cùng thì đạt nhân mà dạng thức tiên thiên kêu là Đại Ngã. Đấy là điểm một nó bí ẩn và quặt quẹo nên khó nhận ra. Điểm hai có thể gọi là rõ hơn vì vòng đồng tâm đã hiện ra thành nhiều vòng lồng lên nhau tự to tới nhỏ, tức không phải là vòng tròn bằng phẳng, nhưng là những vòng tròn có nhiều đợt: càng tiến vào trong thì càng nhỏ, mà càng nhỏ thì sức tỏa ra lại càng rộng theo nguyên lý “nội hàm càng nhỏ thì ngoại hàm càng to”. Nói cụ thể khi tâm hồn đã đạt độ trống rỗng thì sức bao dung trở thành rộng lớn vô biên. Muốn biết được vạn vật phải có “tâm hư”. Tâm hư là đừng có lấy cái đã chứa trước (ý hệ, bái vật) để làm hại, để bẻ quặt cái sắp đựơc chứa. Làm được như vậy thì cái biết sẽ bao la như vũ trụ. Cho nên “hư tâm” cũng gọi là “vũ trụ chi tâm”, cái tâm mở ra bao la như vũ trụ. Điều đó được biểu lộ bằng các vòng to nhỏ khác nhau, ngoài to trong nhỏ nên giống nhau ở chỗ là các vòng đều tròn, khác nhau đều ở chỗ vòng trong nhỏ hơn với các hình ảnh khác hơn. Đó là một khác biệt về phẩm: càng tiến thì càng giũ bỏ những hình thể giác quan để đi sâu mãi vào tâm hồn, đi mãi đi mãi cho tới khi đạt sự trống rỗng trọn vẹn thì tâm thức con người sẽ mở rộng như vũ trụ, vì nó toả ra đủ sức bao trùm cả Trời Đất Người. Trong mặt trống đồng thì mặt trời thay mặt cho Trời để chỉ sự trống rỗng vô biên, Đất được đại biểu bằng hai vòng chim và nai, còn hai vòng giữa là Người. Ơû vòng ngoài cùng (18 đôi chim) tuy đã có nét song trùng giữa chim to với chim nhỏ, nhưng chính vòng chỉ chia đôi cách ngầm, đến vòng trong của đất thì không những vòng đã chia đôi thành bên lẻ bên chẵn, mà cả các con vật cũng mang dấu âm dương lộ liệu: hiêu đực hiêu cái. Sở dĩ như vậy là vì vòng trong của đất đã thuộc về người (xin nhớ người trong Kinh Dịch thành bởi bốn nét thì hào 2 là đức đất hào 5 là đức trời). Bởi vậy mới nói sự ý thức âm dương đã hiện lên vòng các con vật là nhờ con người chiếu giãi vào. Còn chính vòng con người thì khỏi nói vì nó đã chia hai cách đậm đà, hơn nữa là vì con người là chủ việc nhận thức nên sâu hơn, đến độ xây minh triết trên hai nét âm dương, như được biểu thị trong hình tam giác gốc, tam giác hàm tàng số 3 chỉ trời, số 2 chỉ đất, nên cũng chính là dang thức con người Đại Ngã, nơi ấy (trong hình tam giác gốc) đang diễn ra tác động uyên nguyên của đất trời giao chỉ được cụ thể hóa bằng hình ảnh âm vật và dương vật giao hòa. Như vậy có nghĩa là toàn vũ trụ là một vũ trụ tình ái đang trong thế tác động sinh sinh hóa hóa. Triệt sau chúng ta sẽ xem đường tiến hóa đó xoay chuyển ra sao. Bóng người đại ngã tâm linh. Đại Ngã tâm linh được Việt nho biểu thị bằng số 5 (giao chỉ của 3 trời 2 đất) được bồng trong tay Nữ Oa Nghi Mẫu hoặc bằng những sơ nguyên tượng khác (archetypal image) như Aâu Cơ, Lạc Long, Hùng Vương… Trong Kiều là Từ Hải. Ơû hiện nghĩa Từ Hải là vai tuỳ, Kiều là chính, nhưng trên tầng ẩn nghĩa Kiều chỉ là cây cầu bắc sang bờ bên kia để gặp mục tiêu là Từ Hải, nên Từ Hải không những là vai chính mà còn là bóng dáng của con người Đại Ngã tâm linh hiện thân của nền nhân chủ triết lý của Việt tộc, dấu hiệu là “họ Từ tên Hải vốn người Việt Đông”. Khởi từ số 1 (Hải: hành thuỷ số 1) xuyên qua số 2 (gồm 2 văn võ) và số 4 (thay chàng Kim, hành kim số 4) tới số 3 Việt đông (Đông số 3) để khắc phục số 5 (năm năm hùng cứ một phương hải tần, xin xem lại bảng số Lạc Thư trên). Số 5 chỉ Đại Ngã thành bởi số 3 trời 2 đất (nhân giả kỳ thiên địa chi đức) trong truyện đựơc biểu thị bằng vai Từ Hải, nên ta năng gặp số 5 đi kèm. Râu hùm hàm én mày ngài Vai năm tấc rộng thân mười thức cao… Trước cờ ai dám tranh cường Năm năm hùng cứ một phương hải tần… Triều đình riêng một góc trời, Gồm hai văn võ rạch đôi sơn hà. Đòi cơn gió táp mưa sa Huyện thành ga95p đổ năm tòa cõi nam… Rằng Từ là đấng anh hùng, Dọc ngang trời rộng vẫy vùng bể khơi… Vẫy vùng trong bấy nhiêu niên Làm nên động địa kinh thiên đùng đùng Bảo cho hội họp chi kỳ Năm nay là một nữa thì năm năm… Những chữ dọc ngang, trời rộng, vẫy vùng bể khơi cũng như “làm nên động địa kinh thiên đùng đùng” đều ăn với huyền số 5 nhắc đi nhắc lại. Số 5 đưa Từ Hải lên bậc lớn lao như vũ trụ. Đó là điểm một, chứng tỏ bằng huyền số rằng Từ Hải là vai chính. Điểm hai là danh tính ta thấy cũng nói lên bản chất của nhân vật: Từ Hải chính là kết tinh của thuyền tình bể ái. Từ Hải có nghĩa là bể từ bi, là: Tình thâm bể thẳm lạ điều, Mà hồn tinh vệ biết theo chốn nào? Tình thâm bể thẳm cùng với bể ái là một: điều chỉ đức đại từ, đại bi, chí nhân, chí dũng. Bao la như trời bể gồm trí, nhân, dũng; mênh mông như vũ trụ để có thể yêu khắp loài người, nên khi bị đàn áp thì chống lại cách kinh thiên động địa. Đó là căn nguyên của đức tự cường bất khuất của dân tộc, mà đại biểu là Nguyễn Thái Học, Quang Trung, Cao Bá Quát, Nguyễn Trãi, Trần Hưng Đạo, Ngô Quyền, Bà Trưng, Bà Triệu… với những trận đánh long trời động đất: đánh Nguyên, chống Tống, đuổi Thanh… Tất cả đều biểu lộ cho đức nhân mênh mông, cho “tình thâm biển cả”, chỉ vì cái thế bó buộc không thể hiện thực được tấm lòng từ ái nhân hậu cách tích cực đành phải đi lối tiêu cực là đả phá gông cùm: Từ Hải chính là mẫu mực tối sơ của đức chí nhân nọ. Phong trần mài một mũi gươm, Những phường giá áo túi cơm xá gì. Nghênh ngang một cõi biên thuỳ… Vì nghênh ngang nên bị người đời không nhìn ra chân tướng. Tự Đức đã lên án Nguyễn Du đáng đánh ba mươi trượng vì tội quá đề cao “một tên phản loạn”. Những đầu óc duy lý kiểu Tự Đức đã dám chối bỏ huyền sử, cho những truyện trong Kinh Hùng là trâu ma thần quái thấy sao được “tình thương bể thẳm lạ điều”. Cả bao thế hệ học giả cũng không thấy, không hiểu được Thi Bá. Người ta tìm ẩn ý cụ trong việc phục hồi nhà Lê. Nếu đúng cũng chỉ đúng một phần nhỏ. Phần lớn thâm sâu hơn nhiều, nằm trong vai Từ Hải. Không hiểu Từ Hải như linh hồn Việt Lý thì không hiểu được Thi Bá. Hơn thế cả Thi Bá cũng không hiểu hết được mình, vì vai Từ Hải là một hồn thiêng thuộc cõi bao la vô thức, được dựng nên không do ý thức của cá nhân Nguyễn Du, mà xuyên qua người là tiềm thức cộng thông dân tộc: phải là tiềm thức cộng thông mới đủ mắt “tinh đời nhận diện được anh hùng trần ai”. Đó là đại chúng, đại chúng nhận diện được vì tâm không bị vướng mắc vào ý hệ nên đã thấy sự thực; mỗi khi dân chúng bói Kiều bao giờ cũng mở đầu khấn Từ Hải trước hết: Lạy vua Từ Hải Lạy vãi Giác Duyên… Sau mới đến các nhân vật khác. Điểm ba là đường đi nước bước của Từ Hải thật là uy linh lừng lẫy, chưa cần dùng đến cơ cấu (số 5 và tên gọi) chỉ xem cung cách được tả lại đã đủ thấy rõ Từ Hải xuất hiện như con người lớn lao cấp vũ trụ, tức cũng là hình ảnh con người lý tưởng của Việt tộc được biểu lộ ngay từ tên của nơi xuất xứ: Việt Đông. Đường đường một đấng anh hào, Côn quyền hơn sức lược thao gồm tài. Đội trời đạp đất ở đời, Họ Từ tên Hải vốn người Việt Đông. Việt Đông theo nghĩa hẹp là Việt Chiết Giang kinh đô Cối Kế. Sách Hậu Hán Thư Địa Lý Chí viết: “Từ Giao Chỉ đến Cối Kê trên bảy tám ngàn dặm, người Bách Việt ở xen nhau đều có chủng tính”. Trường hoạt động của Từ Hải là bảy tám ngàn dặm mênh mông nọ. Vậy mà đó mới là nghĩa hẹp, cần vượt phạm trù không thời gian để lần về địa bàn tổ của Việt tộc xa xưa nữa sẽ thấy nó trùm khắp nước Tàu. Rồi rút dần, rút dần: đợt nhất thu mình vào hai châu Kinh và Dương (Kinh Dương Vương: Lộc Tục) một cặp danh xưng co dãn bao gồm cả miền Kinh Sở, cả miền duyên hải nước Tàu từ bể Bột Hải (Liêu Dương) và Bắc Kinh chạy qua Sơn Đông, An Huy, Từ Châu, Giang Tô, Chiết Giang duỗi chân xuống Ngũ Lĩnh, Phúc Kiến, Quảng Đông, Việt Nam. Đó! Môi trường hoạt động của Từ Hải là thế, vì đó chính là môi trường của triết lý Việt tộc. Đến đây ta có thêm chứng lý để tin rằng Nguyễn Du đã viết dứơi sự dẫn dắt của tiềm thức cộng thông, nên đặt truyện trong bối cảnh lớn lao nọ để Từ Hải dễ xuất hiện như hình ảnh con người lý tưởng của dân tộc. Một tay gây dựng cơ đồ, Bấy lâu bể Sở sông Ngô tung hoành. Bể Sở sông Ngô là danh xưng chỉ cái miền mênh mông với bờ cõi chập chờn là địa bàn tổ của Việt nho, chiếu giải vào 15 năm lưu lạc của Kiều làm nổi lên mối liên hệ ngầm với 15 bộ nước Văn Lang, nên con số 15 năm được lắp đi lắp lại nhiều lần. Mười lăm năm bấy nhiêu lần, Làm gương cho khách hồng quần thử soi. Từ con lưu lạc quê người, Bèo trôi sóng vỗ chốc mười lăm năm… Những là rầy ước mai ao, Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình. Những từ sen ngỏ đào tơ, Mười lăm năm mới bây giờ là đây… Khi lắp lại nhiều lần thỉ phải có liên hệ nào đó. Nó chỉ 15 bộ nứơc Văn Lang cũng là trường hoạt động của con người nhân chủ mà ấn tích bên ngoài là Việt nho. Việt nho là một nền triết nhân chủ nhưng đã nhiều lần bị các làn sóng du mục Tây Bắc tràn ngập làm cho biến thể thành ra Hán nho với những yếu tố chuyên chế. Thế nhưng Việt tộc vẫn tranh đấu kiểu này hay kiểu khác, từ những tên huyền sử như Tam Miêu, Li Vưu, trải qua các đời như Đổng Trọng Thư, Phạm Trọng Yêm, Vương Dương Minh, Thị Nại An, cả đến những cuộc nổi dậy của Xích Mi, Hoàng Cân, Quyền Phỉ, mỗi lần nói lên được một phần nào của cái óc tự cường tự lực. Ngoài ra tinh thần đó cũng được thể hiện vào những vai chính trong các tiểu thuyết như Tôn Ngộ Không, Thánh Dóng, Tống Giang… Từ Hải là hình ảnh của một Thánh Dóng, một Tôn Ngộ Không, tức một nhân vật chống chính quyền chuyên chế để bênh vực dân gian, bênh vực quyền làm người. Có thể nói là hình ảnh của Hùng Vương, mẫu mực của con người hùng vĩ, tự cường, nhưng ở đây lật ngược để thấy chiều chống phá. Đại Vương tên Hải họ Từ, Đánh quen trăm trận sức dư muôn người. Phong trần mài một mũi gươm, Những phường giá áo túi cơm xá gì. Nghênh ngang một cõi biên thuỳ, Thiếu gì cô quả thiếu gì bá vương. Trước cờ ai dám tranh cường, Năm năm hùng cứ một phương hải tần. Muốn biết kẻ nào là”những phường giá áo túi cơm” thì nên nhớ lại truyện Thuỷ Hử với vua quan triều đình toàn là loại đỉa đói, mà Tống Giang với đồng bọn đã có công đạp đổ. Đó không là tướng cướp. Họ chính là những hiệp sĩ đầy ứ tinh thần phù yểu theo điệu tả nhậm đựơc phác họa do Thi Nại Am xuất thân từ miền sông Hoài, một trong những con sông ruột của Việt tộc. Từ Hải cũng uống ứơc sông Hoài, nên mang hình ảnh uy hùng của một hiệp sĩ thượng thặng, một tay hảo hán “thế thiên hành đạo” để bên vực những người bị đàn áp, lép vế, mà Kiều là một điển hình. Đó là hiện thân của nền triết lý nhân chủ Việt nho. Anh hùng tiếng đã gọi rằng, Giữa đường dẫu thấy bất bằng ma tha. Những điều bất bằng đó, những điều trái tai gai mắt đó đầy trong xã hội loài người, nhất là trong những thời ly loạn như hoàn cảnh của Nguyễn Du: nhà Lê đã quá suy tàn không còn đủ đặt hy vọng, nhưng các tay đang tranh giành quyền bính cũng chỉ là những giá áo túi cơm: triều đình đầy những xa hoa thái quá không làm được chi để cứu dân ngày thêm cơ cực. Trong trường hợp đầy bất bình đó tự nhiên tiềm thức nổi lên tiếng hú hồn nước: phải nhất định ra tay như những gương anh hùng dựng cờ cứu nước, nếu thất bại thì ít ra cũng như những anh hùng kiểu Tống Giang, Nguyễn Thái Học thắp sáng lại ngọn đuốc thiêng liêng: đó cũng chính là tâm trí của Nguyễn Du cũng muốn làm cho rõ mặt phi thường, cũng muốn: Trọc trời quấy nước mặc dầu, Dọc ngang nào biết trên đầu có ai. Và quả thực Thi Hào đã có những toan tính xoay đổi tình thế, nhưng mưu cơ bại lộ phải ngồi tù ba tháng (Từ Hải chết đứng đó). Đấy là lý do chính đã đưa đẩy ngọn… (photo mất trang 205, 206) Trơ như đá vững như đồng Ai lay chẳng chuyển ai rung chẳng rời. Đến khi Kiều khai trước kẻ thắng trận cũng không ngần ngại tuyên bố: Rằng Từ là đấng anh hùng, Dọc ngang trời rộng vẫy vùng bể khơi. Đó phải là hai câu đề trên mộ Từ Hải. Đó cũng là câu phải đề trên mộ các chiến sĩ đã dầy công tranh đầu cho dân tộc cả trên cương vị chính trị lẫn văn hóa, cũng như trên chính mộ bia của Thi Bá, người đã quy tiên bằng cuộc tuyệt thực. Đó là những anh hùng bất khuất với chí khí phi phàm. Tất cả là những cháu đích tôn của Hùng Vương, là những “trai hùng gái đảm” miêu duệ của Nữ Oa đội đá vá trời. Hơn đời trí dụng nghiêng trời uy linh. Đấy là bấy nhiêu hiện thân của tinh thần hùng cường bi tráng của Việt tộc phát xuất tự Việt Đông, tức tự địa bàn tổ nơi đã từng sản sinh ra mẫu người oai hùng siêu Việt. Những thánh Dóng quan thầy của triết lý an vi. Tóm lại dân tộc tính hay nền triết Việt được tàng chứa trong truyện Kiều xuyên qua năm điểm: Một là tính chất phổ cập trong toàn dân: nói được là áng văn chương của quốc gia theo nghĩa đầy đủ hơn hết. Hai là truyện có hậu nói lên nét lưỡng hợp thái hòa, nét đặc trưng lớn lao cao trọng của nền văn hóa dân tộc. Ba là thuyền tình bể ái bắt nguồn từ cái mạch sơ nguyên xuất hiện huy hoàng trên mặt trống đồng, cũng như đã chảy tràn ngập trong dân nước. Quê hương đựơc kêu là nước cho thuyền tình bể ái có đường đi cùng khắp nơi. Bốn là cái vòng đồng tâm với đường tiến tả nhậm nói lên tính chất tâm linh là nền tảng của văn hóa dân tộc làm nền móng cho văn hiến chi bang: nó cũng tiến theo vòng tả nhậm như Lạc Thư, một kinh vô tự của Lạc Việt. Năm là Từ Hải hiện lên như con của vua Hùng, của mẫu người tự cường tự lực, là cháu đích tôn cao cả của bà Nữ Oa đội đá vá trời, uy linh hùng tráng với những động ứng bao la như vũ trụ. Năm nét trên nói lên bản chất văn hóa dân tộc tìm được trong truyện Kiều, nên tôi cho Kiều là một thành tựu văn nghệ có thể đặt ngang với trống đồng, một điển chương đã diễn tả cách huy hoàng nguyên lý có chí trung mới chí hòa. Vì thế trong bài tôi đã nhắc đến trống đồng hơi dài là vì vậy. Với năm đặc tính nọ quả thật truyện Kiều đã nghiễm nhiên là một kiệt tác văn chương không những của dân tộc mà còn là một hạt ngọc cao quý vào bậc nhất trong kho tàng văn hóa loài người. Cho tới nay chưa được nhận ra, vì nó u uẩn đến độ có thể nói chính Thi Hào cũng không ý thức hết, tức không ngờ đến rằng mình đã lên đến tuyệt đỉnh như vậy. Cái đó phải là do sự trợ lực của tiềm thức cộng thông dân tộc mới đạt được. Nguyễn Du thi hào chính là nơi kết tinh của hồn cao cả dân tộc nên không cần ý thức cá nhân. Khi tâm hồn nào trở nên trong trắng nhạy cảm thâm sâu thì dễ chạm vào nguồn suối u linh đó rồi nói lên cách vô thức. Chính sự nhập nhằng giữa hai miền ý thức và vô thức đã mặc cho truyện Kiều ánh hào quang u linh bi tráng để trở nên một ống loa phát thanh nền triết lý dân tộc, mà vì Việt tộc có nền văn hóa trung thực của con người đến độ nói được dân tộc cũng là nhân tộc, nên truyện Kiều là một kiệt tác siêu đẳng của văn hóa nhân loại thuộc loại nhân chủ rất người mà Từ Hải là hiện thân. Tác giả Kim Định (hết)
-
Pho Tượng Đẹp Nhất Của Việt Tộc PHỤ TRƯƠNG I: ĐỀ TÀI THẢO LUẬN VỀ VĂN HÓA VIỆT NAM (1) Kính thưa quý vị, Đề tài hôm nay xoay quanh tinh hoa văn hóa Việt. Về văn hóa Việt, tôi thường quan niệm nó như một cái gì lùng bùng pha tạp có thể chỉ bằng câu: “xù xì da có trong bọc trứng tiên”, tức dở ẹc cũng có mà tinh hoa rất mực cũng nhiều. Vì muốn cho phần tinh hoa ngày càng nổi lên sáng chói, tôi xin được nói tới phần xù xì da cóc tức những cái tầm gửi bámtheo văn hóa mà ta cần thải bỏ. Người ta quen gọi đây là lối của người Thổ Nhĩ Kỳ tức là định tính một dân bằng tật xấu đặc trưng nhất. Triết gia Kant đã theo lối đó để định tính Pháp là đất ưa chưng diện, Anh là đất khó tính, Ý khoe khoang, Đức mê tước vị, I Pha Nho nệ cổ… Nếu có người Aâu Mỹ nào theo lối đó mà định người Việt chúng ta thì chắc họ sẽ cho đó là dân ăn khắm, nói to, hay cầm nhầm, tổ sư chia rẽ, và cẩu thả… Aên khắm là do nước mắm, mắm tôm. Nhất là khi xào nấu, bên nhà không sao, trước hết vì quen, nhưng nhất là vì nhà không đóng kín nên không ai để ý; còn bên này cửa đóng, nhà kín. Người Aâu Mỹ lại không quen, nên dễ gây cho tha nhân một cảm giác rất khó chịu. Tôi đã được nghe những building có người Việt vào ở thì người Mỹ dọn đi dần. Nói to cũng là một tật không biết bao giờ mới bỏ được, cũng gây rất nhiều khó chịu, chỉ kể vụ bên Uùc năm xưa vì quá ồn ào mà Uùc bắn Việt, Việt đập phá nhà Uùc… Ngoài hai dấu rõ rệt và dễ nhận ra liền kia thì nếu ở lâu còn nhậnra vài tật khác như cẩu thả, hay cầm nhầm, tổ sư chia rẽ, và lâu lâu có đi một đường mộc tồn. Đó là mấy tật của người Việt. Tuy nhiên định tính theo tật xấu thường dành riêng cho người quan sát vội chỉ đủ thì giờ nói vắn trong hai ba chữ. Nó có tính cách hí họa nghe thảm quá, vì thế cần thêm ngay lối định nghĩa tích cực bằng kể ra các đức tính. Lúc ấy dân tộc tính Việt Nam sẽ là óc cần cù, kiệm ước, từ tốn, ưa thích học hành, tình cảm gia đình đằmthắm, tinh thần tương trợ còn khá mạnh. Chúng tôi sẽ trở lại những tật xấu và tính tốt vừa kể. Ở đây xin nói ngay rằng với hai lối định nghĩa trên chúng ta mới đưa ra mớ thói quen tốt có, xấu có, nhưng chưa đặt được căn cứ để phân tầng lớp văn hóa, cũng như xấu tốt hơn kém ở chỗ nào, tức là phải đi sâu hơn. Thế mà ngoài triết ra thì không thể làm được điều đó. Vì vậy để đi sâu hơn, xin mượn triết lý An vi bộ phạm trù 4 nấc là: dụng, từ, ý, cơ. DỤNG là những đức tính, hoặc tật xấu, nhữngthể chế, những động ứng, cử chỉ mà người ta thường thấy ở một dân tộc như đã nhắc đến trong hai lối định nghĩa tiêu cực và tích cực trên. TỪ là lời ăn tiếng nói và văn chương văn nghệ: nói nghe như hát thí dụ… Ý là những ý tưởng nổi vượt có thể gọi là triết học, là ý thức hệ. CƠ là cái nõn sâu nhất có thể gọi là nền minh triết của một dân tộc. Đây là phần căn bản hơn cả. Nếu muốn đối chiếu với các văn hóa khác hay chỉ để xem tỏ đâu là tinh hoa văn hóa thì phải xét đến tầng CƠ. Nó sâu xa hơn hết và đã xuất hiện từ ngày khai quốc cùng đã trải qua nhiều ngàn năm nên đủ lâu để gọi là dân tộc tính. Đấy là điều rất cần chú ý, vì từ khi bước vào đời mới (lối đầu thế kỷ 19 trở đi) thì biến đổi nhiều, nhất là văn hoá Tây Aâu có nhiều điểm then chốt đã biến dạng hẳn, nên nếu căn cứ vào các hiện trạng thì khó có thể tìm ra dân tộc tính của họ. Ngược lại CƠ là cái gì đã có lâu đời. Cho nên nói đến CƠ là nói đến cái kết tinh nhiều đời của một nền văn hóa và đã được rút gọn đến độ có thể chỉ bằng một vài con số hay hình ảnh. Vậy xin nói ngay là văn hóa Việt là bộ số 2-3, còn văn hóa Tây Aâu là 1-4. Từ ba thế kỷ nay, Tây Aâu hơn Đông phương về rất nhiều mặt nào khoa học, giàu mạnh, nào đời sống đầy tiện nghi dễ chịu… vậy mà vẫn không dám khinh miệt Đông phương, vẫn phải chịu là Đông phương hơn Tây Aâu về Minh triết. Tất cả bí thuật của sự vụ đó nằm trong bộ số 2-3 nọ. Ta hãy nghiên cứu sơ qua: Số 2 mà các nhà nghiên cứu khảo cổ gọi là lưỡng hợp tính tức hai mà lại một (dual unit). Đó là nét đặc trưng của Đông Nam Á mà Việt Nam dẫn đầu với vật biểu là Tiên-Rồng. Đây là nét đặc trưng hi hữu không thấy ở đâu khác. Các nơi chỉ có một vật biểu (symbolic animal) như: Tàu con rồng Aán con voi Pháp con gà Anh con sư tử Mỹ chim ưng. Riêng Việt là có cả hai vừa tiên vừa rồng đi đôi. Không mấy ai ngờ rằng đó là nét sâu xa rất mực. Để thấy nét lưỡng hợp nọ ơn ích đến đâu, chúng ta cần xét nó qua ba tầng CƠ hay là siêu linh, đến Ý triết học, và TỪ, DỤNG là hiện thực vào xã hội. Trứơc hết về CƠ hay siêu hình thường được thu gọn vào hai tiếng có với không. Hỏi các hiện tượng trước mắt ta đây có thực chăng? Tây Aâu thưa là có, tuyệt đối có. Aán Độ thưa là không, tuyệt đối không. Tây Aâu thưa có, nên siêu hình của họ chuyên bàn về sự có, question about Being. Hy Lạp kêu có là On nên khoa học về có gọi là Ontology quen dịch là hữu thể học, tức khoa bàn về sự có chung. Nguyên lý nền tảng của khoa đó gọi là nguyên lý đồng nhất: A là A. Đã không là tuyệt đối không. Đã có là có tuyệt đối. Không thể có trường hợp thứ ba vừa có vừa không (tertium non datur, tiers exclu). Aán Độ trái lại đặt nền tảng siêu hình trên chữ không, không tuyệt đối, nên nói néti, néti: “tuồng ảo hóa đã bày ra đó”, chứ thực sự không có chi hết, nhà Phật kêu là thái hư tức là không trọn vẹn: “Vạn pháp giai vô”. Như vậy nói theo số cũng là số 1, cũng là nguyên lý đồng nhất như Tây Aâu, nên cũng là quê hương của bệnh duy: duy tâm, đối chọi với Tây Aâu duy có, duy vật. Xin nhắc qua chúng ta phải mất nước tan nhà cũng vì cái bệnh duy này đây: duy vật. Xin hỏi vậy Việt Nam theo có hay theo không? Thưa, không mà có, có mà như không “hữu nhược vô”. Tức một cái có uyển chuyển luôn luôn phát xuất từ cái vô, tiên nho gọi là “hữu vô tương sinh” tức có với không sinh ra nhau, vì thế không có cách tuyệt đối, cũng không không cách tuyệt đối, mà là cái có nhẹ nhàng, cái có lung linh như bóng nguyệt dòng sông. Ai hay không có, có không là gì. Xin đừng ai vội trách tại sao lại đi nói những chuyện trừu tượng xa vời như vậy. Thưa rằng đó là nền tảng cho cái nét quý hoá hơn hết của ta gọi là uyển chuyển. Nó cũng là cần cho mấythể chế nền tảng hơn hết trong xã hội là sự phân chia tài sản. Nếu nền siêu hình Aâu Aán đặt trên có hoặc không thì đến đợt DỤNG tức thể chế tất nhiên là tư sản tuyệt đối với hậu quả là hai ba người có, có rất nhiều; còn bảy tám người không có chi hết: vô sản. Đó là cái trứng nở ra một bên là tư bản, một bên là vô sản. Vô sản mang tên mới là Cộng sản. Ngược lại siêu hình Việt Nam không mà có, có mà không như vậy: đó là ruộng công điền, dân không có vì là của làng, nhưng lại có vì làng quân phân cho toàn dân. Tôi gọi đó là bình sản đứng giữa cộng sản và tư bản. Bình sản là lối phân chia tài sản rất công bình mà ngày nay cộng sản muốn thi hành nhưng không làm được, vì triết lý của chúng xây trên nguyên lý đồng nhất, nên đã có là có tuyệt đối. Trong thực tế là nhà nước có hết, cả đến cục phân của dân cũng không trừ, thành thử dân đi vào chỗ không, tuyệt đối không. Chỉ một thí dụ đó đủ thấy CƠ, DỤNG gắn liền nhau: Cơ nào Dụng ấy. Nói khác siêu hình nào, thể chế xã hội đó. Tạm xong số 2 thuộc vũ trụ quan. Bây giờ bàn đến số 3 thuộc nhân sinh quan. Vậy triết lý Việt nho dùng số 3 chỉ người, theo thứ tự trời 1, đất 2, người 3. Vì số 3 chỉ người nên ta mới hiểu tại sao Việt nho cực kỳ đề cao số 3, coi đó là điểm nối giữ có với không, giữa trời với đất v.v… Cụ thể là con người được đề cao đến độ ngang với trời đất gọi là tam tài. Xin nhớ chữ tài là tác động, và nên hiểu rằng bất cứ việc gì của con người liên hệ đến con người thì con người cũng góp một phần như trời với đất. Câu ta quen nói thiên thời, địa lợi, nhân hòa là phát nguyên tự con số 3 này. Chính nó đem lại cho con người chủ quyền mà tôi quen gọi là Nhân Chủ với ý nghĩa con người là một vua cùng với vua trời, vua đất làm thành cái kiềng 3 chân của nền triết Việt nho. Xin nói vắn tắt là chính nhờ quan niệm tam tài này mà văn hoá ta tránh được thuyết định mệnh, tức thái độ bi quan thụ động, cái gì cũng phó mặc trời đất. Đàng này ta quen nói “có trời mà cũng có ta”, “xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều”… Đó là về hàng dọc. Còn hàng ngang thì xã hội ta không có chế độ nô lệ: mọi người đều tự do. Nếu có sự kiện tôi đòi bị đàn áp thì đó là những sự kiện lẻ tẻ, không hề do triết cũng không do luật pháp. Trái lại bên Hy Lạp hay Aán Độ con người chỉ là người khi sinh ra bởi thần Zeus hay thần Brahma, ai chẳng may không được sinh ra bởi thần thì không được kể là người bởi không có người như một nhân vị độc lập. Vì vậy họ tránh số 3 mà đề cao số 4 là số của đất. Cả Aâu lẫn Aán đều không có ngũ hành mà chỉ có tứ đại (Aán) hay tứ tố (Hy Lạp) (2). Đó là con số 4, con số duy vật chỉ không gian hay bốn phương, nó sẽ trở nên cái rọ đóng khung con người, vật hóa con người. Tiếng Pháp kêu là choisisme, tiếng Mỹ là reification, hoặc thinggification theo nghĩa vật làm chủ, người làm nô “the thing is the master of the man”. Hậu quả cụ thể là xã hội chia thành giai cấp đấu tranh bên chủ bên nô, truyền đến tận nay dưới hình thức tư bản và cộng sản, rồi cộng sản muốn xóa bỏ giai cấp nhưng dựa trên sự đấu tranh giai cấp, nên luẩn quẩn lại đi duy trì giai cấp, coi dân không được như nô lệ xưa. Đó quả là duy vật vuông chành chạnh 4 góc bánh chưng mà không có bánh dầy tròn tượng tâm linh với bộ số 2-3 của ta (3). Theo những nhận xét nền tảng như trên, cả trên siêu hình (Cơ) xuyên qua triết học (Ý) cho đến thể chế (Dụng), ta có thể định nghĩa văn hóa Việt Nam cách rất xác thực rằng đó là một nền triết lý nhân sinh lấy sự mưu hạnh phúc cho mọi người làm cứu cánh, và tôi gọi là triết lý An vi. Ai đã học triết mới thấy câu định nghĩa kia thực đáng quý trọng, vì triết Aâu Aán phải gọi là vật bản, bởi nền tảng chỉ suy về sự vật chứ không về nhân sinh, còn cứu cánh là sự ngắm nhìn lý giới hay là những ý niệm, tức cái chi trừu tượng xa rời đời sống chứ không thiết thực như hạnh phúc cho con người, hết mọi con người, không phân ra bên chủ bên nô để chỉ lo cho chủ mà quên nô, như cộng sản nay chỉ lo cho cán bộ mà ruồng bỏ dân, lo cho ý tưởng vu vơ trừu tượng kiểu nghĩa vụ quốc tế mà để dân nước túng đói cùng cực. Hiện nay ta thấy các nước dân chủ trong thế giới Tự Do đã là cho toàn dân thì tức là đi theo hướng triết của Việt nho, và có phần hoàn bị hơn Việt nho nhiều. Nhưng cần nhận xét đó là do kỹ thuật tạo được nền phú quý dư dật mà ra, cũng như sau bao tranh đấu đẫm máu, chứ xét về triết thuyết thì còn hết sức lung tung. Trường còn dạy các triết xưa Aristotle, Plato, Kant, Hegel… tất cả đều xây trên nguyên lý đồng nhất và ngầm chấp nhận chế độ nô lệ. Vì thế ta phải nói rằng nền dân chủ Aâu Mỹ nay mới do lương tri mà chưa do triết, nên không đủ sâu xa để gọi là dân tộc tính, thí dụ tình nghĩa gia đình thì đâu đâu cũng có nhưng bên Tây Aâu nó xuất hiện như hiện tượng, và chỉ được điều lý do lương tri nông cạn, còn bên Việt nho do triết nên được tài bồi và trở nên sâu thẳm. Căn cứ vào nền triết lý An vi như vừa được định nghĩa để dùng làm tiêu chuẩn, ta hãy duyệt xét lại các đức tính và tật xấu trên kia xem cái gì là dân tộc tính. Theo đó thì mấy tật xấu kia quả không phải là dân tộc tính nên cũng không là văn hóa. Tuy nhiên cần phải bàn qua để tìm đường trừ khử, trứơc hết là: Tật nói to. Điều này gây nên do hoàn cảnh nông nghiệp và ngư nghiệp: đồng rộng mênh mông cần nói to đầu ruộng thì cuối ruộng mới nghe được. Ơû Cái Sắn ruộng dài hơn cây số còn phải vụm hai tay vào miệng làm loa để nói với người cuối ruộng. Ra biển sóng to gió lớn thì chỉ có hét mới nghe được. Đã như vậy từ nhiều ngàn năm nay nó ngấm vào xương tuỷ nên hễ gặp nhau là nói ào ào như vũ bão, dễ gây khó chịu cho thị dân nhà ở khít nhau khỏi cần nói to cũng nghe được, lâu ngày thành thói quen ăn nói nhỏ nhẹ. Khi mới xuất hiện radio đã có người tự vẫn vì lân nhân mở đài quá lớn… Đến nay vẫn còn sách nhắc đến vụ nhiều người gọi Radio TV là hai kẻ thù nhân loại. Vậy đó là điều chúng ta cần lưu ý, trước hết vì luật “đáo giang tuỳ khúc”, khúc xưa đồng ruộng trống trải với biển cả bao la, còn khúc nay là thị dân với nhà liền vách, nên phải nhập gia tuỳ tục mới tránh được bất tiện cho lân nhân. Aên khắm cũng vậy, do hoàn cảnh nghèo bắt được cá tôm phải để dành, rồi với óc sáng tạo đã làm ra món ăn đặc biệt Việt đến nỗi ngày nay không có nước mắm thì không ra cơm Việt và nói theo kinh nghiệm tôi thì không thể bỏ được nữa. Nhưng lại có cái bất tiện là gây khó chịu cho người khác. Tôi được chứng kiến vụ chủ hotel bên Paris bịt mũi chạy lên chạy xuống khổ sở vì mấy khách trọ người Việt dùng nước mắc kho nấu trong phòng… Đấy là sự bất tiện với ngoại nhân, còn với người đồng hội đồng thuyền thì lối ăn bát nước mắm chung cũng có những điểm mà các thế hệ sau sẽ sợ. Thí dụ khi nhiều người vô ý cho đầu đũa ăn vào quấy trong bát nước mắm gây sự lợm giọng cho người khác. Về ba tật xấu khác mà thứ nhất là chia rẽ không là dân tộc tính vì nó là tật trái ngược hẳn với triết lý bọc Aâu Cơ. Vậy đó chỉ là ác quả do các cuộc ngoại nhân đô hộ. Thực dân Tàu hay Pháp đều dùng lối chia để trị, lâu ngày sự chia rẽ thấu vào xương tuỷ dân bị trị, nên nay sự chia rẽ đã trở nên quốc nạn. Nhiều người Việt tỵ nạn không ngần ngại tuyên bố là sợ người Việt. Người Việt mà còn sợ người Việt thì mong gì được ngoại bang kính yêu. Xem trong sử tự đầu bao cuộc khôi phục độc lập đã thất bại cũng vì chia rẽ. Hiện nay nước ta trở nên nô lệ cho Nga Xô cũng vì bọn Hồ Chí Minh đã gây chia rẽ người trong nước, đã chỉ điểm cho thực dân Pháp sát hại biết bao chiến sĩ quốc gia… Rồi nữa bây giờ chúng ta muốn phục quốc mà không trừ nổi nạn chia rẽ thì phục quốc chỉ là chuyện diệu vợi. Về vụ cẩu thả và gian lận cũng do nền thống trị ngoại nhân. Với óc quật cường của dân ta, không đánh đuổi được chúng thì ta phá hoại. Làm cho qua lần là một hình thức phá hoại. Gian lận cũng thế, tài sản của mình bị thực dân cướp đoạt làm sao không giành lại. Nhưng sức yếu thì phải dùng lối gian lận, lâu ngày trở thành quen. Đó là tật cần được tẩy rửa. Đã có một số xưởng ngưng thâu dụng công nhân Việt Nam vì họ nhận thấy đồ mất nhiều. Hộp thuốc trước kia không khóa, nay có nhiều thợ Việt, thuốc bay mạnh, họ đành khóa. Đó là mấy điểm nhắc đến làm chúng ta phải cúi mặt. Vì vậy tôi gọi là “xù xì da cóc”. Và ước mong các cộng đồng cố gắng tìm ra phương pháp hữu hiệu để mài giũa như mài ngọc, chữ Nho kêu là “trác ngọc”. Ngọc bất trác bất thành khí. Bây giờ xin nhắc đến những điểm làm ta có thể ngửa mặt lên hãnh diện. Đó là mấy đức tính gọi được là dân tộc tính. Trước hết là tinh thần gia tộc. Điều này phát xuất tự cái Cơ, nên toàn quốc gọi nhau là đồng bào theo huyền sử cùng phát xuất từ bọc mẹ Aâu Cơ tức nước xây trên mẫu mực gia tộc. Người trong nước xưng hô nhau bằng lối xưng hô trong gia tộc: bà con cô bác. Đó gọi là gia tộc hóa lối xưng hô. Ngược lại Tây Aâu không có tinh thần gia tộc mạnh nên phi ngôi hóa lối xưng hô: ai cũng là You cả. Vậy ta cần duy trì tinh thần gia tộc như nét đặc trưng của ta. Đó là điều cho đến nay còn giữ được nhiều, là vì trong thực tế có lợi bớt tốn: cùng ăn cùng ở bớt tốn hơn. Nhất là vụ học: con Mỹ thường ở apartment riêng tốn hơn gấp 2, 3 lần ở với bố mẹ… Chăm học cũng là một dân tộc tính phát xuất tự đầu được ghi lại trong tên huyền sử Văn Lang là nước của những người có văn hóa. Muốn có văn hóa phải chăm học. Vậy nước ta tự mãi xa xưa vẫn đã coi trọng việc học, đặt quan văn trên quan võ v.v… Đây là điểm rất lợi cho dân Việt. Người ta tính ra đến 60 phần trăm đi học so với Chicano (người Mễ) có 30 phần trăm. Tuy đó là con số khó thể đoan chắc, nhưng ta có thể nói dân Việt đi học đông vào bậc nhất cũng như giỏi đứng vào hàng đầu. Cần cù cũng là đức tính dân tộc cần được duy trì. Theo huyền sử vua Hùng Vương sinh ra bởi tổ chung với người Mường gọi là Lang Đa Cần. Tên này gợi lên ý chuyên cần làm việc. Hiện nay nhiều hãng ưa thâu dụng nhân công Việt vi tính này. Khi tôi ở Đại học Loyola một giáo sư Mỹ lúc đầu rất tẻ lạnh với tôi, bỗng một hôm ông vồn vã hết sức, thì ra là do mấy người Việt trong hãng bạn của ông làm việc rất chăm chỉ… Kiệm ước cũng là một đức tính cần duy trì, nó vừa làm cho đời sống bớt quay cuồng (tiêu vừa phải thì chỉ mất công vừa phải để kiếm tiền) nhưng cao lên nữa là một đức tính giúp vào đức Nhân. “Kiêm giả cận nhân”, hoặc giúp vào đức từ tâm quảng đại, “kiệm cố năng từ” là vậy. Có kiệm ước mới dư giả để thực thi lòng quảng đại. Cần chú ý rằng đức kiệm ước này rất dễ mất trên đất Mỹ, nên rất cần tập từ những cái nhỏ (vặn nước tắt đèn) để nuôi dưỡng đức đó. Còn có thể kể thêm đức lễ độ được biểu lộ nhiều nhất do học sinh, sinh viên trong lớp đối với giáo sư và được giáo sư yêu quý lại… Đó là dăm ba đức tính dân tộc đã làm cho đoàn người Việt tị nạn đáng nể. Rất nhiều nhà quan sát tiên đoán rằng không bao lâu nữa đoàn ngừơi Việt sẽ trở nên giàu có và nắm những vai trò quan trọng. Vậy thì đây là đức tính dân tộc cần được nuôi dưỡng một cách rất cụ thể và thiết thực. Cho tới nay nói đến duy trì văn hóa chúng ta mới dậm chân ở đợt Từ như làm văn nghệ, báo chí v.v… Cần đi mạnh vào đợt Dụng, cần cụ thể hơn tức bàn luận đến những điểm thiết thực rồi tìm cách sửa đổi, ai nấy cố tự sửa, và sửa cho con cháu. Thí dụ đức kiệm ước, biết tắt đèn lúc không cần, vặn nước đánh răng cho nước chảy ồ ồ tốn nứơc gấp trăm lần. Aên uống nhai ngồm ngoàm đầy tiếng động. Cho đầu đũ ăn vào khuấy đĩ thức ăn chung. Đái vào xe người ta, gây cuộc đánh nhau với Mỹ đen. Xé thư người khác. Còn nhiều chuyện quá nhỏ mọn nhưng dễ làm cho ta phải cúi gầm mặt khi thấy một người Việt làm trước mặt ngoại bang. Những điều này nếu không sửa đổi mạnh trong gia đình thì không học đâu được. Đi trường không ai dạy những cái tế nhị đó. Bởi vậy tuy rất tầm thường mà hóa ra rất khó, nhận thức ra đã khó, mà khi thấy người khác phạm thì mấy ai dám sửa, trừ phi phải là bạn thân lắm, hoặc cha mẹ với con cái. Đã vậy rất khó sửa, nói năm lần bảy lượt cũng không xong, như tôi được nghe kể chuyện một sinh viên có thói quen ăn nhai kêu rau ráu, húp chùn chụt, cả nhà đã bảo đi bảo lại nhiều lần, chỉ bớt đựơc vài ba phần cho đến khi anh ta đi xem phim Tây Du Ký thấy Trư Bát Giới ăn hồng hộc như heo, sau đó anh mới bỏ được gần hẳn lối ăn húp có tiếng. Chớ cho rằng đó là những cái quá nhỏ nhặt không đáng lưu tâm. Thưa rằng chính những cái nhỏ đó mới làm cho đời sống trở nên có văn vẻ (tức được thấm nhuần văn hóa). Chính những cái bé nhỏ đó là phần tinh tế của công việc hội nhập xã hội văn minh. Chính vì những cái nhỏ nhặt đó mà chúng ta có khi phải đỏ mặt trứơc ngoại nhân. Văn hóa của một dân phải nhằm mục tiêu làm cho đời sống của dân ấy có văn vẻ tế nhị hay ít nhất không gây khó chịu cho tha nhân, không làm cho người cũng hội phải hổ thẹn vì đồng hương mình. Chúng tôi ước mong rằng chúng ta sẽ thảo luận kỹ về điểm này và cử ra một uỷ ban, hay ước mong cho người nào có đủ cơ duyên lưu tâm viết một quyển tựa như phép lịch sự của Aâu Mỹ trong việc ăn uống, nói năng, xử sự, giao tiếp để đồng bào tị nạn ý thức mà châm chước giữ gìn. Có tiếng là 4 ngàn năm văn hiến mà để người đồng hương có những cử động quê mùa thì thực đáng hổ ngươi. Đó là điều chúng ta sẽ thảo luận để đi đến kết luận cụ thể. Xin nhắc lại câu định tính văn hóa Việt là cái khối xù xì da cóc trong bọc trứng tiên, và ước mong cho việc làm văn hóa mở rộng hơn nhiều: xuống thì tới chỗ Dụng là mài dũa những cái xù xì da cóc, lên thì tới tận Ý tận Cơ, tức gồm thêm triết lý xây trên cơ cấu của Việt tộc, đó là phần “trong bọc trứng tiên” cần phải chú tâm vun tưới. Vì trứng tiên mới chính là cái Cơ, cái nõn, cái nền triết Việt. Một nền văn hóa đẹp đẽ đến đâu mà thiếu Ý thiếu Cơ thì chỉ là một nền văn hóa nông cạn. Văn hóa Tây Aâu hơn ta ở Ý tức họ có một nền triết học rất đồ sộ, nhưng họ lại kém ta ở cái Cơ, vì cơ chưa ổn nên triết họ còn cần đổi nền. Ta thì thiếu triết, nhưng hơn họ cái Cơ. Nhưng là hơn trong tiềm lực, chứ trong thực tế thì kể là không, vì cái Cơ của ta ví như trứng tiên bị bọc trong xù xì da cóc, có còn mấy ai thấy đâu. Vì vậy đã đến lúc làm văn hóa phải vươn xa hơn đợt Từ để đạt đợt Ý và đợt Cơ. Hễ có Cơ thì rồi có Ý. Chính cái Cơ mới là tinh hoa văn hóa của ta. Chính cái Cơ mới làm cho ta nhìn rõ đâu là tinh hoa, đâu là cặn bã, nếu ta không nghiên cứu và thấm nhuần thì ít thế hệ sắp tới sẽ không thấy Văn hóa Việt đáng duy trì ở chỗ nào, và do đó sẽ trở nên người vong bản, vong quốc. Chính cái Cơ mới bơm sinh lực vào cho Ý, cho Từ, cho Dụng. Hơn thế nữa, chính cái Cơ mới giúp chúng ta khả năng đóng góp vào nền Văn hóa thế giới. Hiện nay con người đang trải qua cơn khủng hoảng trầm trọng. Các nhà trí thức Aâu Mỹ gọi đó là một sự trống rỗng của Tây Aâu (nihilisme occidental) nghĩa là mọi giá trị cao cả của Tây Aâu đã sụt giá. Họ không còn tin tưởng vào những giá trị cổ truyền nữa, với hậu quả là hiện họ đang trở nên vô hướng vô hồn trong mọi cấp từ “tu thân” qua “tề gia” đến “trị quốc” đều thiếu đạo. Họ có chống cộng là trên bình diện kinh tế tức tư bản chống cộng sản chứ thiếu triết, nên nước có tiếng chống cộng hơn hết là Mỹ mà trong nước tràn ngập người thiện cảm với cộng sản. Chính vì vậy nước Mỹ thiếu lãnh đạo trong chính trị và nhất là trong văn hóa, đành để thế giới Tự Do trở nên con thuyền không lái. Lâu nay trong họ đã nhiều người nhận ra cần thiết lập một nền Văn hóa mới, một nền văn hóa có khả năng tổng hợp được các giá trị đông tây kim cổ… Thế nhưng cho tới nay chưa ai tìm ra nền. Theo cơ cấu luận thì Aâu Tây duy hữu, hữu vi. Còn Aán Độ thì duy vô: vô vi. Đều không phải là cơ cấu tổng hợp. Chỉ triết lý An Việt mới có cơ cấu tổng hợp: “có mà như không, không mà lại có”. Chỉ có cơ cấu lưỡng hợp đó mới đủ khả năng tổng hợp những giá trị lẻ tẻ (do lương tri) của Aâu Aán để chỉ hướng đi cho con người ngày nay đang đầy xao xuyến khắc khoải. Thế nhưng có điều bất hạnh là triết lý giàu tính cách tổng hợp kia lại không được mấy ai biết đến. Aâu Tây đã đành mà ngay đến những người trong khối Việt nho cũng không hơn. Đấy là chỗ người Việt tị nạn cần lưu tâm. Đấy là chỗ chúng ta có thể đóng góp cho thế giới. Hiện tình nhân loại chỉ biết sống trên bình diện lợi hành, trên nữa không còn đạo lý nào cả. Vì vậy đầy chia rẽ, rất là nguy hiểm. Ngay khối Cộng sản còn đang trong giai đoạn chinh phục lẽ ra phải đoàn kết lắm để tránh họa vậy mà cũng vẫn chia năm xẻ bảy rồi. Tóm lại, quay chiều nào cũng đầy chia rẽ tự trong bản chất tức còn thiếu một nền triết lý tâm linh tổng hợp. Vậy mà đấy chính là chỗ chúng ta có thể góp phần. Muốn góp phần thì bứơc đầu tiên phải là nghiên cứu học hỏi tài bồi cho nền triết Việt nho của chúng ta ngày thêm sáng tỏ và phổ cập tới mọi người. Tôi ước mong một trong các hậu quả của đại hội này sẽ là sự gia tăng nỗ lực học triết Việt, trước là để nuôi dưỡng những đức tính dân tộc quý báu của ta, sau là để hy vọng đóng góp vào nền vănhóa toàn cầu. Nghĩa vụ con người Việt ở đó. Nghĩa vụ gia đình, quốc gia Việt cũng ở đó. Hơn thế nữa, nghĩa vụ quốc tế chúng ta chính là ở đó. Tôi cầu ước cho sau cuộc đại hội này, chúng ta sẽ có một quan niệm rộng hơn và sâu hơn về văn hóa Việt, rộng lan tỏa đến đợt Dụng, thực tế là mài giũa những phần xù xì da cóc, đồng thời lại nhô lên thực cao cho đến cái “trứng tiên rồng” vi diệu rất cần thiết cho con người thời đại vậy. Cám ơn. (1) Đại ý bài nói chuyện trong kỳ Đại hội Công giáo tháng 7, 1980 tại San Jose. Vì nghĩ đến bài Đúc tượng và Pho tượng đẹp nhất của Việt tộc nên giữ lại để nhắc nhở nhau tạc cho pho tượng Việt ngày thêm tươi đẹp. (2) Đây là nói tổng quát chứ trong thực tế có biệt lệ đã nói rõ trong quyển Sứ Điệp. (3) Chú thích: những điểm này vừa sâu xa vừa phiền toái cần phải bàn rộng trong nhiều sách. Ai muốn biết thêm xin đọc bộ triết lý An vi mà quyển “Hồn nước với lễ gia tiên” đã được tái bản tại Mỹ (Thanh niên Quốc gia). ĐẶNG CHẲNG ĐỪNG CHỈ ĐỂ LẤY LẠI NIỀM TIN CẦN THIẾT Có một điều tôi rất ngại làm mà vẫn cứ phải làm, làm suốt qua bộ triết lý An vi: đó là ca ngợi nền triết này, mà chê nhiều nền triết khác. Tại sao đã ngại mà còn cứ làm. Thưa là vì những lý do rất trầm trọng mà tôi nghĩ cần một lần phải nói lên để tránh mọi sự bất tiện về sau. Sở dĩ tôi ca ngợi nền triết lý An vi của dân tộc là mong cho ta lấy lại được niềm tin vào nền đạo của tổ tiên mình mà tôi nghĩa rất cần thiết để giữ nước. “Đạo mất trước, nước mất sau”. Nứơc thì nay đã mất, mà xét lại thì lý do sâu xa là do đạo của nước đã mất trước, hiểu là người dân nước đã mất ý thức từ lâu rồi. Sự mất này đã trở thành đương nhiên đến nỗi thời đã thoát được ách thực dân, thế mà trong chương trình giáo dục của nước đã độc lập môn triết vẫn hoàn toàn lấy của Tây cả ở trung học lẫn đại học. Không một ai lấy làm ngượng cả. Mãi sau nhờ những “tranh đấu quyết liệt” mới chịu đưa được một ít triết Đông vào cấp đại học, nhưng cũng chỉ là “triết Aán với Tàu”, không ai dám nghĩ đến Việt Nam cả. Sau tôi đánh bạo thử đưa vào một khóa trình phụ về triết Việt thế mà còn bị cự là tuyên truyền. Người ta nói xa cho tôi hiểu “Đại học không phải là chỗ để tuyên truyền”!! Xem thế đủ biết người mình đã mất ý thức về đạo, cho nên mất nước chỉ là hậu quả tất nhiên phải đến. Nay muốn lấy lại nước thì nhất định phải lấy lại đạo trước đã. Nước còn hay mất chính ở chỗ đó nhiều nhất. Đành rằng ta phải mở rộng cửa để đón nhận những cái hay của người. Nhưng trong phạm vi triết chúng ta đã thấy tỏ, những thuyết được đón nhận vào toàn là ngoại lai rất có hại hay ít nhất cũng không hợp cho môi sinh tinh thần của ta. Hiện ta đang phải trả giá rất đau thương về vụ này. Bởi thế tôi đã đem hết tâm lực vào việc phục hoạt nền triết dân tộ. Để làm việc đó tất nhiên phải có phần ca ngợi nền triết ta, ca ngợi có thể nói là cùng cực, là vì chúng ta đang khốn đốn cùng cực vì thuyết lý ngoại lai. Cho nên thiết nghĩ chẳng bao giờ ta có thể ca ngợi triết dân tộc quá đáng. Dầu vậy không bao giờ tôi ca ngợi triết Việt chỉ vì là dân tộc, nhưng trên hết vì tôi thấy nền triết lý đó hợp cho cả mọi con người như tôi quen nói cái may của văn hoá dân tộc ta cũng chính là của nhân tộc, cho nên vấn đề nào cũng tự dân tộc vươn lên đến vấn đề phổ quát chung cho cả nhân loại, và chữ Việt được hiểu ngầm là siêu Việt, từ gốc Việt nhưng siêu lên lan tỏa ra khắp hết mà không gặp ngăn trở nào cho thói tục riêng biệt. Nói vậy có nghĩa là triết Việt đã đạt độ phổ biến có thể hợp cho mọi thời mà cũng cả cho mọi nơi. Tôi dám nói thế là vì tôi theo sát nút phương pháp cơ cấu là phương pháp đi đến chỗ rốt ráo cùng cực và đem những điểm cùng cực đó đối chiếu với các cùng cực trong các văn hóa khác, tất cả đều bàn trên những điểm tổng quát hơn hết như siêu hình chẳng hạn. Siêu hình Tây Aâu căn cứ trên Hữu thể, Aán Độ trên Vô thể, ta trên “hữu nhược vô”, tức kiêm cả hai: cả hữu cả vô: “thái cực nhi vô cực”. Đó là những điểm rốt ráo cùng cực không có vu vơ chút nào. Đã thế mà mỗi lời ca ngợi còn đến sau những phân tích tỉ mỉ, lý chứng hiển minh. Dầu vậy mỗi khi nghĩ đến dịch ra ngoại ngữ tôi vẫn ái ngại sợ bị người ngoại quốc đổ cho mình cái tật quá khen mình mà đè người xuống chăng. Đó là điều làm tôi ngần ngại, muốn tước bỏ những chỗ khen chê đi, nhưng lại nhận ra là điều đó khó có thể làm được vì những lời khen chê có tính cách cơ thể, tức là do những cuộc phân tích thấu đáo, theo một phương pháp cùng tột và không những được biểu lộ bằng lời nói mà còn bằng cả lược đồ, cả số độ, cả huyền thoại nữa, nay nếu bỏ đi là bỏ mất phần căn bản hơn hết, khiến các chương sách sẽ trở nên què quặt thiết xót, lộn xộn. Vì thế mà phải giữ lại hầu y nguyên. Chỉ còn hy vong được người ta hiểu chỗ khổ tâm đó cho chúng tôi. Tức chúng tôi phải đi lối đó vì nó cần thiết để chúng tôi thấy được sự cần thiết phải tin vào đạo lý của tổ tiên. Điều này thiết yếu đến vận mệnh của chúng tôi, tư riêng cũng như chung cho cả nước: nước có lấy lại được và có giữ được cùng chăng thì phần sâu xa nhất ở tại trước có làm phục hoạt được đạo lý dân tộc hay chăng. Bằng chứng còn trờ trờ ra đó, hiện các triết ngoại lai đang tác hại quê nước chúng tôi, đang làm cho đồng bào chúng tôi phải quằn quại đau khổ muôn trùng, chứ chúng tôi không chê bai vì là của nước ngoài đâu, cho nên chữ ngoại lai ở đây phải hiểu là ngoại lai với con người, nó không hợp cho bản tính con người bất cứ ở đâu, nên chúng cũng đang bị đả kích ngay trên quê hương của chúng, tức triết Tây đang bị chính người Tây phương nỗ lực phá đổ, triết Aán đang bị các phần tử thức giả của Aán tẩy chay. Như thế quả chúng tôi có lý để lên án các nền triết đó, nghĩa là những lời khen chê của chúng tôi có căn bản rất đích đáng chứ không phải do lòng ái quốc quá khích, mà là do chính lòng muốn phụng sự con người, mọi con người. Đấy là lý do rất trầm trọng bắt tôi phải làm một việc mà tôi cảm thấy rất ái ngại: đó là chê người khen mình, là vì sự thực ở đây chỉ là khen cái hợp cho con người và chê những cái có hại cho con người, hết mọi con người. Riêng với đồng bào tôi thì có hai thái cực: một đàng thì một số người gán cho tôi óc quốc gia quá khích. Điều đó tôi có thể gác bỏ ngoài tai, khỏi cần trả lời. Nhưng ngược hẳn lại một số khác thì hoan nghênh lập truờng của chúng tôi hết mình (minh nhiên thì ít, mặc nhiên thì nhiều) coi triết An vi hầu như bảo chứng để tha hồ khen không sợ ai phản pháo nữa. Thế là mỗi khi nói đến văn hóa dân tộc thì không còn tiếc lời khen ngợi, dùng toàn những phẩm từ hạng siêu hơn hết khiến cho mỗi khi đọc phải tôi ngượng vô cùng. Bởi lẽ những lời khen đó không đến sau những phân tích đích đáng mà chỉ do suy luận hư cấu hay căn cứ trên những sự kiện lặt vặt bì phu, rồi ca ngợi thả dàn, khiến người đọc dễ có cảm tưởng là khen ẩu: đó chỉ là đề cao mình và hạ người cách lố bịch, tôi sợ tiếng oan này hơn hết nên phải viết mấy lời phân trần này để nhắn gửi đến những bạn nọ. Để chứng minh cho lời nhắn gửi này có thực tế, tôi xin đưa ra thí dụ sau. Mới rồi (tháng 2, 1984) tôi có đọc thấy trong tập san kia một bài nói về giáo dục Mỹ, viết nhiều câu làm tôi ái ngại vô cùng: chẳng hạn 1) “Hệ thống giáo dục (Mỹ) không có phương pháp căn bản để đốc thúc các học sinh học tập… 2) Các giáo chức Mỹ… không quan niệm là đem lương tâm chức nghiệp để giáo huấn học sinh mình, dạy cho nên người… Còn nhiều câu khác trích ra sợ dài quá vả tôi không có ý phê bình cả bài mà chỉ trích vài câu làm thí dụ để tỏ rằng đó là những câu rất bấp bênh vì căn cứ trên sự quan sát hạn cục, hay ít ra trên những sự kiện thường thay đổi theo thời theo nơi, chứ không như triết căn cứ trên những nguyên lý trường tồn. Căn cư trên nguyên lý lý thuyết thì quả nền giáo dục Aâu Mỹ có nhiều khuyết điểm như chúng tôi đã nói trong ba quyển về giáo dục. Nhưng khi bước vào địa hạt thực hành nên căn cứ trên sự kiện thì cần phải thận trọng lắm lắm. Bảo họ không có phương pháp độc thúc học sinh? Tôi thì lại thấy họ có đầy: nào homework, nào sổ điểm, nào các cuộc thi đua… cũng như lương tâm giáo chức của họ, tôi thiết nghĩ họ còn hơn giáo chức Việt nhiều lắm. Không phải vì người Việt kém, nhưng vì hoàn cảnh đặc biệt nước nhà, nên nhiều người dầu không có khiếu dạy cũng nhào vô kiếm một chân dạy học để sống tạm, khiến cho tình trạng giáo chức của ta rất xô bồ, biết bao cua pạc mở ra để hốt bạc! Mỹ không có thế, số giáo chức có lương tâm của học nhất định đông hơn là vì thế. Chỉ có kỷ luật với lối đối xử giữa thầy trò là khác hẳn: học trò được hưởng tự do hơn, thầy không có quyền đánh phạt, nên có xảy ra nhiều điều bất tiện. Nhưng đứng trên quan điểm chung mà nói: ở đời không có cái gì là không có mặt trái. Thí dụ bên ta học trò lễ phép nhiều hơn thì một phần cũng do sự đánh phạt. Đó lại là mặt trái khác: dạy con người mà còn phải dùng đến roi vọt đâu cao bằng không dùng roi vọt: vì người ta coi trọng nhân phẩm học sinh, người mình mới đến chưa quen nên coi đó là bê bối chẳng ra gì. Nói khác đây là phạm vi thường nghiệm, khen hay chê dễ bị thiên kiến uốn nắn nhiều lắm: sự đánh giá phần lớn hời hợt hoặc chủ quan. Thế mà dám dựa trên những điều bấp bênh như vậy để chê người khen mình thì đó là điều cần thận trọng. Tómlại khi khen văn hóa dân tộc thì bao giờ chúng tôi cũng căn cứ trên những điểm then chốt lớn lao, có thể minh chứng. Đã vậy lời khen cũng có chừng mực và thường là kết luận do một cuộc phân tích dài hơi. Đàng khác là đứng trên phạm vi triết tức lý tưởng thì sự khen không hàm ngụ rằng hiện tại người Việt tốt hơn mà chỉ muốn nói rằng: ngày xưa người Việt có triết lý tốt hơn như vậy đó, có thể còn hơn triết người, sao không phục hoạt nền triết đó để làm cơ sở tinh thần giữ nước, lại đi rước những thuyết ngoại lai về giầy mồ. Dân nước đang đau khổ cùng cực, lý do tại đâu, nếu không tại người mình đã mất ý thức về đạo tổ tiên, rồi đi rước thuyết ngoại lai về thay vào chỗ bỏ trống, mới nhìn sơ qua thì tưởng là thuyết mới hay gấp mười của mình, nhưng khi thi hành ra mới rõ là nước mất nhà tan, dân con chết cả hàng triệu. Đấy! Sự khen chê của chúng tôi căn cứ trên những điều đích xác, cũng như kinh nghiệm đau thương của cả dân tộc như vậy đó. Thế thì sự ca ngợi triết Việt chỉ có nghĩa nói rằng người Việt cần nhận thức trở lại đạo lý tổ tiên mình hầu hiện thực cho mình cũng như cho nước vượt qua sự kém cỏi hiện nay. Đấy là khen khuyến khích, khen cổ võ chứ không phải khen khoe mẽ kiểu ta đây vậy. Tác giả Kim Định (còn tiếp)
-
Pho Tượng Đẹp Nhất Của Việt Tộc 12. PHỎNG VẤN TRIẾT LÝ AN VI Hỏi: Triết lý An vi là gì? Thưa: Muốn hiểu hai chữ an vi cần biết nó muốn đạt tới cấp mấy trên nấc thang các động lực. Có ba động lực là: cưỡng hành, lợi hành, an hành. Cưỡng hành là làm vì sợ như trẻ nhỏ nín khóc vì sợ Oâng Ba Bị. Lợi hành là khi làm vì mong cầu một lợi lộc cụ thể nào đó. Thí dụ thi đỗ để được việc này, thăng chức nọ. Buôn bán để được lời lãi. Vậy là lợi hành; cao hơn cưỡng hành, nhưng còn thấp hơn an hành. An hành làm vì thấy đáng làm là làm, không cần lợi. Nếu bạn thấy đáng trồng một cây chỗ này, thì bạn trồng liền không tính toán xem mai ngày bạn có ở lại đây để ăn trái hay hưởng bóng mát chăng, thì đó là an hành. Các cử chỉ nghĩa hiệp, tận lực với những việc công ích, những cảm nghĩ cao cả, tích cực mà không có hậu ý… đều thuộc loại này. Đó là ba đợt động lực thúc đẩy tác hành, nó đi với ba loại luân lý là: 1) Luân lý cấm kỵ kiêng tránh hay làm vì sợ hình phạt. 2) Luân lý dụ dỗ: đưa ra lời hứa này nọ để lôi cuốn. Nên ghi nhận liền ở đây là những nền chuyên chế chỉ dùng có hai thứ luân lý trên. 3) Luân lý sứ mệnh: làm vì thấy đáng làm, vì hợp tình hợp lý, vì sứ mạng. Đó là ba đợt luân lý có thể tóm tắt vào ba câu của Nietzsche là “mày phải, tôi muốn, tôi là”. a) Mày phải “tu dois” cho luân lý cấm kỵ, cưỡng hành. :( Tôi muốn “je veux” cho luân lý dụ dỗ, cao hơn cưỡng hành vì tác động do chủ từ là tôi, tôi muốn, nhưng chưa cao hẳn, vì cái muốn còn do sự thúc đẩy của lợi lộc kiếm chác. Đợt ba: c) Tôi là “je suis” tức chủ từ quyết định cách độc lập bên ngoài sức lôi kéo của lợi lộc hay cấm kỵ. Hỏi: Hiện nay con người ở tầng nào? Thưa: Tầng nào cũng có người kể cả đợt an hành, nhưng chỉ đạt do lương tri, chứ chưa do Triết, nói đến triết thuyết có hệ thống thì mới quanh quẩn ở hai đợt “mày phải” với “tôi muốn”, mà chưa đạt tới đợt ba “tôi là”. Hỏi: Có thể cho biết lý do tại sao lại như thế? Thưa: Vì các triết lý còn đang ở đợt một và hai kể cả các tôn giáo cao đẳng như Thích Lão Nho đều đã suy vi từ lâu, đã trụt xuống lợi hành rồi. Theo luật phổ biến là tư tưởng chỉ huy thế giới “ce soir les idées qui gouvernent le monde”. Nếu tư tưởng còn ở đợt một, hai thì làm sao con người có được sự hướng dẫn đi lên đợt ba. Hỏi: Vẫn được nghe triết lý là khoa cao nhất tại sao lại chưa đạt đợt ba? Thưa: Đấy là chỗ tế vi nên trải qua bao đời các triết gia không nhìn ra nên để cho luân lý luẩn quẩn ở đợt cấm kỵ và dụ dỗ mà chưa đạt luân lý sứ mệnh. Điều này mãi tới thế kỷ 18 triết gia Kant mới hé thấy trong thuyết “về cảnh vực không mục tiêu” – Le règne sans finalité”. Hỏi: Tại sao các triết gia không nhìn ra? Thưa: Đây là lúc cần bỏ đợt luân lý dễ hiểu nhưng mới là sửa soạn để bước vào phần chính là triết lý siêu hình khó hiểu với những kiểu nói xa lạ gọi là hữu vi, vô vi rồi an vi. Vì phần lớn triết còn ở hai đợt hữu vi và vô vi nên không nhìn ra. Hỏi: Thế nào là hữu vi? Thưa: Chính nghĩa là “có làm”, còn trong siêu hình nó đi với “làm có đối tượng” hay là “siêu hình có đối tượng”. Đối tượng đó với triết Plato là lý giới (thế giới của các ý niệm): ông cho rằng cùng đích triết là sự ngắm nhìn những ý niệm, những mẫu mực của sự vật. Như vậy là siêu hình của ông cũng có đội tượng. Xem thường chẳng thấy trong câu đó có chi nguy hiểm, nhưng nếu ai thấu hiểu cơ cấu tâm thức con người thì sẽ nhận thấy cái nguy ẩn ở chỗ chủ tri (sujet) cũng gọi là Năng sẽ bị đối tượng (objet) cũng gọi là Sở lấn át, để cuối cùng chủ tri bị đồng hóa với đối tượng (objectivation). Nói cho dễ hiểu là con người (chủ tri) bị vật hóa (refied). Thế nghĩa là con người vong thân tức chủ tri bị đối tượng nuốt trôi. Căn cớ sâu xa của mọi hình thái duy vật nằm ở đó. Vậy mà trải qua bao đời con người bị nuốt trôi mà không ngờ, hậu quả là chính con người không được học hỏi, không được phụng sự, mà lại đi học hỏi về những cái gì xa xôi, về những lý tưởng cao sâu nhưng trừu tượng, để cuối cùng bị lý tưởng nuốt: gọi là hồng hơn chuyên tức lý tưởng cao hơn con người thực. Con người bị bỏ quên hay nếu có được bàntới thì lại bàn bằng ý niệm của sự vật, hậu quả là con người vẫn bị quản lý bằng những nguyên lý của sự vật. Nói khác là những nguyên lý đang hướng dẫn cộng sản hiện nay đã có từ Plato trong cái siêu hình hữu vi rồi, chứ không cần chờ tới K.Marx. Marx chỉ quảng diễn thêm mà thôi. Hỏi: Trong dĩ vãng đã có ai thấy nguy cơ đó chăng? Thưa: Có, đó là những triết gia đề nghị “vô vi”. Đề nghị vô vi (không làm) để có thể tránh động đến đối tượng với hy vọng sẽ không bị đối tượng hóa. Những đại diện nổi nhất của chủ trương vô vi phải tìm bên Aán Độ: nơi mà siêu hình kêu là siêu hình tiêu cực vì xây trên ý niệm “không, không” hay Thái hư, Vô thể… Hỏi: Thái hư có công hiệu không? Thưa: Không, vì theo luật tâm lý “mạnh chống mạnh chấp” tức khi người ta chống cái chi quá đáng thì lại rơi vào cái đó, nói kiểu ca dao “ghét cái gì trời trao cái đó”. Cộng sản chống nạn bóc lột hơn ai hết thì cuối cùng lại rơi vào tệ đoan bóc lột cùng cực, đến độ dành độc quyền bóc lột. Trong thế giới cộng sản ăn trộm ăn cướp bị lên án rất nặng thì không phải vì ăn cướp bị coi là xâu, nhưng vì phạm vào độc quyền ăn cướp đã dành cho đảng. Tóm lại “vô vi” không hữu hiệu hơn “hữu vi” vì ở trên cùng một bình diện chống đối nhau. Đây là nói vô vi trong thực tế với các đạo lý đã suy vi. Chứ nếu đạt Vô Vi viết hoa, khi chưa suy vi thì bấy giờ lại là “Chân không diệu hữu” nhưng trong gần 20 thế kỷ qua tất cả các loài trong xã hội vô vi Aán Độ cũng có giai cấp như bên xã hội hữu vi Aâu Châu (xưa) còn tệ hơn nên gọi là đẳng cấp (caste) thay vì bên Aâu Châu mới là giai cấp (classe), nhưng đàng nào thì cũng là chế độ nô lệ đến 80% dân chúng, mà nô lệ không được kể là người, nên rõ rệt nô lệ là sự hiện hình của tai họa bị vật hóa hay đối tượng hóa. Hỏi: Như vậy phải tìm thuốc ở đâu? Thưa: Phải tìm trong triết lý an vi với nghĩa đơn sơ là làm mà không làm tức không bám víu vào đối tượng, nhờ đó tâm trí vẫn an nhiên nhờ giữ được nhân chủ tính của mình, tức không để mình nô lệ cho đối tượng, trái lại vẫn giữ được quyền sai xử sự vật. Nói theo ngạn ngữ Việt nho là “lấy tâm trùm cảnh, không để cảnh trùm tâm”. Cảnh là cảnh vật, sự thể, biến cố, tiền tài, quyền chức: tất cả là cảnh hay nói gọn là tài. Tài phải bé hơn tâm: tài 2, tâm 3. Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài. Dấu hiệu bên ngoài là xã hội không có giai cấp, không có chế độ nô lệ, tuy còn có nô tỳ nhưng chiếm nhiều lắm là vài ba phần trăm dân số là cùng. Tuy nhiên đó mới là nói theo bình diện thông thường và chính trị thì như thế, còn muốn hiểu đúng chữ An vi thì phải vươn lên bậc siêu hình, và ở đây nó sẽ là một nền triết lý hàm hồ: có mà như không, không mà lại có và vẫn hàm hồ như thế mãi tự đợt cơ cấu siêu hình, mà câu tóm nền tảng hơn cả là: Thái cực nhi vô cực. Các nhà bác học Aâu Mỹ khi nghiên cứu triết Đông đã tốn biết bao bút mực để tranh luận về cái chữ nhi phải dịc ra sao “is” hay “but”? Sở dĩ như vậy bởi vì các vị nhìn từ phía hữu vi hay vô vi, là những nềnt riết chắc nịch: có là có, không là không, chỉ có triết An vi mới quen lối hàm hồ siêu tuyệt, có mà như không, không mà lại có (hữu nhược vô). Nếu vậy câu “thái cực nhi vô cực” có nghĩa là “thái cực mà vẫn vô cực, hoặc vô cực mà vẫn thái cực”. Mới nghe có vẻ nghịch lý như đòn xóc mà chọc hai đầu, làm ăn sao được, vậy mà đó lại là nền triết vững chắc hơn hết đã điều lý các xã hội Việt nho từ xa xưa, nhưng đến đời mới không ai nhận thức ra nữa nên nay đã mất thế đứng, có chăng chỉ còn sống lây lất trong tiềm thức dân gian, vì thế cần tìm cách lôi nó lên mặt ý thức, và để kéo chú ý thì đặt cho nó một tên mới là An vi. An vi muốn thay thế Vô Vi viết hoa. Nhưng vì người ta hiểu nó ở đợt hàng ngang (vô vi bình diện hữu vi nên tôi bỏ). Vì thực ra chính chữ vô vi cũng không ổn. Vì vô vì là không làm, mà kỳ thực có làm, làm cùng cực. Vậy lẽ ra phải nói là vô hình mới đúng. Vì thế mới nói An vi. Tuy nhiên muốn thành tựu phần nào thì đó là việc tốn nhiều công; cần phải viết ít nhất dăm ba chương mới tàm tạm quảng diễn đựơc những khía cạnh tế vi của vấn đề. Hỏi: Có thể cho một thí dụ cụ thể dễ hiểu chăng? Thưa: Có rất nhiều trong xã hội ta xưa: không một thể chế nào lại không mang ấn tích hàm hồ kia. Hãy lấy thí dụ về tài sản. Trên thế giới nói chung chỉ có “tư sản tuyệt đối” theo đó vài ba người hữu sản có của, còn đến bảy tám người vô sản. Vậy là hữu vô phân biệt rõ ràng thành giai cấp như bên Aâu Tây và Aán Độ xưa. Nói khác là họ nằm trong tư bản (hữu sản) hay cộng sản (vô sản). Tiền nhân ta ở đâu: hữu hay vô? Thưa không hữu mà cũng không vô, hay nói đúng hơn tiền nhân ta có ruộng mà như không, không mà lại có, đó gọi là chế độ bình sản, theo đó thì tài sản (ngày xưa tài sản chỉ là ruộng đất) để làm củ chung (của làng) rồi định kỳ quân phân (3 năm hay 5 năm) chia lại một lần) mỗi lần chia được thêm lên hay bớt đi tuỳ số người trong làng nhiều lên hay ít đi: có nơi được năm sào, nơi khác được mẫu rưỡi tuỳ thời. Hỏa ruộng cấp cho mỗi người có phải là của người đó chăng? Thưa có mà không, không mà có. Có vì ruộng cấp cho cầy cấy lấy mà ăn, nhưng lại không vì là của làng, khi qua đời ruộng lại trở về làng, để làng cấp cho những người tiến lên sau. Xin nói ngay rằng hiện thế giới đang đi tìm một lối phân chia tài sản kiểu quân phân như vậy nhưng chưa thành công vì chưa đạt được nền tảng triết. Triết còn đang vướng chân hoặc ở trong Hữu (tư bản) hoặc trong Vô (cộng sản). Nếu thế giới đã tìm ra nền triết lý an vi trước đây dăm chục năm thì nứơc ta chắc đã không bị tai họa rơi vào gọng kìm giữa cộng sản và tư bản. Trở lại với nghĩa của triết lý an vi thì phải hiểu là nó không đặt quan trọng vào đối tượng, mặc dầu nhận có đối tượng tức khác với Hữu vi đặt quan trọng vào đối tượng đến độ bị đối tượng sai xử. Nó cũng khác với vôvi quá sợ đối tượng nên rút hẳn khỏi đối tượng để đi vào thái hư, hậu quả là rơi vào nạn “trầm không u tịch” không dùng được cho đời sống mới. An vi nhận đối tượng nên có làm nhưng quan trọng lại đặt vào tác động của con người. Hậu quả là tránh được tai họa bị vật đích hóa, nên vẫn giữ được nhân chủ tính của mình. Câu nói của nhà cách mạng Nguyễn Thái Học khi lên đoạn đầu đài đã phản chiếu triết lý An vi: “Không thành công thì thành nhân”. Thành công chỉ là đối tượng không bao giờ để nó lấn át thành nhân nên nhân vẫn là chủ, kêu là nhân chủ. Đó là ý nghĩa thông thường, còn chính ra thì An vi bao hàm ý nghĩa thâm sâu về tâm linh không thể gói gọn vào vài trang giấy, chỉ xin nhắc đến biểu tượng của nó là Thánh Dóng. Giặc đến nhà thì tận tình chống đánh, nhưng giặc dẹp xong thì lên núi Sóc Sơn ở miền An Việt mà hóa. An Việt là quê hương của An vi, tượng trưng cho tâm thức an nhiên tự tại dành cho những ai cố trèo lên đỉnh Sóc Sơn nọ. Thần vương lên ngự dậm chân Qua ngàn An Việt cõi gần Vệ Linh. Giơ roi dựng ngựa dư kinh Vân cù thẳng bước thiên đỉnh tới nơi. (Thiên nam ngũ lục) (còn tiếp)
-
Pho Tượng Đẹp Nhất Của Việt Tộc 11. QUỐC TÚY QUỐC HỒN XUYÊN QUA TỤC ĂN TẾT Quốc hồn là cái hồn thiêng của đất nước, cái tinh hoa văn hóa dân tộc, ta có thể gọi bằng tiếng mới là cái triết lý của tiên tổ chúng ta. Quốc tuý trái lại là cái gì vật chất thường gắn liền với ăn với uống, có tính cách tinh vi, có khảnăng làm cho say, say tuý luý như quen nói về thuốc lào, rượu đế, một số món ăn đặc biệt tinh xảo. Hai điềm trên nếu để rời thì nói được là đâu cũng có cách nọ hoặc cách kia, nhưng khi đem hai cặp thành ngữ đó ghép vào nhau thì đấy là một nét đặc trưng nghĩa là không đâu có. Nét đặc trưng nói lên hai điều, thứ nhất là đặt đạo vào ngay những truyện thường nhật như ăn uống là điều khác với nhiều nơi thí dụ Tây Aâu và Hy Lạp thì họ đặt trên lý giới rất xa cõi người ta: ăn ra ăn, triết ra triết. Họ nói ăn đã rồi mới triết lý sau: prius manducare deinde philosophari. Với ta thì ăn đã là triết. Triết ngay trong việc ăn. Điểm hai là nói lên tác động con người, chính con người giữ một vai chủ động ngay từ trong việc đạo, việc linh thiêng. Đó là điều đặc biệt của triết lý nhân chủ vốn đề cao tác động con người, đưa lên tới bậc ngang hàng cùng trời đất như bánh dầy chỉ trời chỉ đạo đó là quốc hồn, bánh chưng chi đất là quốc tuý: còn phần việc của con người là ăn. Nếu ta để tâm suy nghĩ sẽ thấy việc của con người cao cả xiết bao: đó là ăn trời ăn đất, hoặc nói theo Kinh Dịch là vui với trời, ăn với đất (lạc hồ thiên, thực hồ địa). Chính vì nét đặc trưng đó mà tiếng Việt có những cặp danh từ kỳ lạ như ăn học, ăn chơi, ăn nói, ăn làm, ăn hỏi, ăn cứơi, ăn lời, nếu không thì ăn đòn v.v… tức là ăn đi với những việc không phải ăn. Vậy thì tiếng ăn ở đây nó như cái khung của đạo lý: thay vì nói phương pháp tôn chỉ của học của chơi thì ta nói ăn học, ăn chơi. Là vì đạo lý nào muốn có thực chất thì phải tiêu hóa, nên sau mỗi cái ăn đều có một đạo lý, thường được biểu lộ bằng một câu truyện và những âm vang như tục ngữ thói tục. Thí dụ cụ thể là ăn trầu. Aên trầu là một lối ăn riêng biệt rất công phu, kéo dài gọi là nhai. Nhai thì Mỹ cũng có, Mỹ Việt đều nhai: Mỹ nhai chewing gum, Việt nhai trầu. Nhưng đàng sau cái nhai của Mỹ không còn gì ngoại giả cao su. Ngược lại với miếng trầu thì đàng sau còn lắm điều hay. Điều thứ nhất là có say: có tuý luý, có đỏ mặt và nóng ran người. Điều hay thứ hai là có truyện trầu cau. Đây là truyện hay ở chỗ biểu thị cao sâu của nó, cây cau mọc thẳng lên tượng trời, hòn đá vôi nằm ngang dưới gốc tượng đất, còn người là cô gái trở thành cây leo quấn quýt lấy cả hai cây và đá. Vì đó có bản gọi tên cô là Liên tức đóng vai liên lạc giữa trời cùng đất. Quốc tuý được biểu thị bằng nhai đi nhai lại cho trầu cau hòa hợp vào nhau để sinh ra một chất mới là nước trầu đỏ thắm để chỉ quốc hồn quốc tuý hòa hợp và như vậy rất tiện để chỉ việc hôn phối giữa nam nữ, hầu sinh ra con cái nối dòng, do vậy mà miếng trầu trở nên đầu câu truyện với vô số phong dao tục ngữ đi kèm: Trầu bọc khăn trắng cau tươi Trầu bọc khăn trắng đãi người xinh xinh Aên cho nó thỏa tâm tình (tuý đấy) Aên cho nó thỏa sự mình với ta (hồn đấy). Trầu này trầu quế trầu hồi Trâu loan trầu phượng trầu tôi trầu mình. Trầu này trầu tính trầu tình, Trầu nhân trầu nghĩa trầu mình lấy ta. Trầu này têm tối hôm qua, Trầu cha trầu mẹ đem ra cho chàng. Trầu này không phải trầu hàng, Không bùa không thuốc sao chàng không ăn? Hay là chê khó chê khăn, Xin chàng đứng lại mà ăn miếng trầu. Còn biết bao nhiêu nữa nhưng vậy tạm đủ để thấy sự dị biệt giữa cái nhai của Mỹ và cái nhai của tiền nhân ta. Nhai chewing gum thì chỉ có nhai đàng sau không còn gì; còn nhai trầu thì đàng sau có câu truyện trầu cau đầy ứ ý nghĩa với vô số cái ăn đàng sau: ăn hỏi, ăn cưới, rồi ăn ở, ăn nằm… Sau ăn trầu thì nói đến ăn Tết ta còn thấy sự dị biệt lớn lao hơn nhiều. Trứơc hết Tây đâu có nói ăn tết, họ nói célebret gì đó, nghĩa là mừng. Thí dụ tết Tây chỉ có một ngày là hết, hôm sau là chấm tròn đi job. Tết ta thì có đến ba ngày, ta quen nói “ba ngày tết”, đã vậy đó chỉ là chính cốt chứ phải kể cả sửa soạn và cái đuôi thì cả hàng tháng. Đến nỗi phong dao có câu: Tháng giêng ăn tết ở nhà Tháng hai cờ bạc tháng ba hội hè. Đấy là cái khác nhau bên ngoài, bây giờ tìm vào đến nội dung ta mới thấy một sự khác biệt sâu xa lạ lùng. Ta thấy tết chính là tiết, tức là tiết nhịp hòa âm thống nhất. Thống nhất chi? Thưa là trời đất người, cả ba phải hòa nhịp. Vì thế mà tết phải có ba ngày và cả ba đều là căn bản, vì thiếu ba thì làm sao có hòa hợp, có thống nhất. Trời quá cao đất quá thấp, phải có người làm trung gian mới có thái hòa. Rồi để cho sự thống nhất có nội dung trung thực thì tết phải mừng vào lúc trời hết lạnh, lúc đất nở hoa lá, con người có thể ra đồng trồng gieo. Vậy nên đó phải là mùa Xuân lúc khí trời ấm áp, thảo mộc nảy mầm lá hoa, người có thể đi ra để khởi đầu quá trình gieo gặt. Đó là một cảnh thái hòa được diễn cách cụ thể trong mùa Xuân. Ta quen nói: “Ngày xuân con én đưa thoi” là vậy. Phải là mùa Xuân én mới đưa thoi được chứ ngày Đông mà rở thoi ra thì teo gấp, còn đâu nữa mà đưa, mà thoi không đưa thì làm gì có hòa hợp. Tết Tây không bao hàm triết nên họ đặt tết vào lúc thịnh đông: lúc trời rét căm căm, đất đầy tuyết, người phải rúc trong nhà. Như vậy là chỉ nghĩ đến Trời mà không kể đến Đất đến Người, nên tết chỉ có một ngày, nếu nói ngặt thì Tây chỉ có một ngày đầu năm mà không có tết. Vì tết là tiết là nhịp mà có nhịp với ai đâu: độc tấu à, chỉ có Trời độc tấu. Đất với Người không tham dự, làm sao mà có truyện tết như ta. Truyện tết kể rằng vua Hùng Vương thứ ba muốn truyền ngôi cho con, nhưng không truyền cho bất cứ con nào mà phải là con có tài có đức, vậy để tìm ra người đó thì vua đặt ra cuộc thì gia chánh kỳ lạ: hễ con nào làm được món ăn vừa ý vua hơn cả thì sẽ truyền ngôi cho. Các con vua liền bổ đi khắp ngả để tìm của ngon vật lạ người lên rừng, kẻ xuống bể, kẻ đi đông người sang tây đưa về thôi thì đủ thứ: sơn nhung, hải vị, giò lụa, nem công, chả phượng, chả quế, hot dog, hamburger không thiếu thứ gì. Trong khi đó công tử thứ 9 tên là Lang Liêu nhà nghèo không có phương tiện chuyên chở nên chẳng tìm ra được cái gì xa lạ, nên buồn rầu cả đêm trằn trọc mất ngủ. May thay đang lúc bối rối thì có thần hiện đến mách nước rằng khỏi đi đâu xa xôi hãy xuống ngay bếp lấy gạo nếp ra làm một bánh vuông, và một bánh tròn, rồi chồng lên nhau mà dâng vua cha. Lang Liêu liền làm theo đó. Đến ngày thi thì được vua cha chấm nhất với ưu hạng khen rằng ăn không những đã ngon mà ý nghĩa thì hàm súc vô cùng, vì bánh chưng vuông chỉ đất, bánh dầy tròn chỉ trời. Vậy đó là đạo người rồi còn chi, vì người đựơc định nghĩa là “nhân giả kỳ thiên địa chi đức” mà. Thực là không thể sâu xa hơn được nữa. Thế là vua truyền ngôi cho Lang Liêu và cải hiệu là Tiết Liệu nghĩa là biết lo liệu cho cuộc sống hợp với tiết trời cùng đất. Và từ đấy thì gọi ngày đầu Xuân là Tết và cũng từ đấy hễ đến Tết thì tiên tổ ta gói bánh dầy bánh chưng và gọi là bánh vua Tiết Liệu, với ý nghĩa là phải xếp đặt cuộc sống cho hợp với đạo trời đạo đất. Đấy là câu truyện tết. Còn âm vang của câu truyện là sự thái hòa trước là giữa Trời, Người với Đất sau là giữa người với người. Về Trời với Đất thì có những nghi lễ nhớ trời đất như múa lân, trời thì có Rồng với ông địa đi kèm… Còn với người thì kỹ hơn. Với thế hệ đã qua thì có lễ Gia tiên, với những nghi thức tưởng nhớ đến ông bà. Với người đang sống thì thăm hỏi quà cáp, những người họ hàng ở xa cũng cố trở về quê hương ăn tết để gặp lại và thăm hỏi bà con. Aáy là chưa kể đến thể chế bình sản, xóa bỏ sự phân chia giai cấp giữa kẻ có với người không, giữa chủ với nô, để ai ai cũng là người tự do, và nếu vì kế sinh nhai cả năm vất vả thì nhờ vào “ba ngày tết” mà nghỉ ngơi ít bữa để có dịp ngửa mặt nhìn trời, cúi xuống nhìn đất tức sống an vui trong mấy ngày: tạm xếp sang bên mọi bận rộn, lo âu thường nhật để lòng phơi phới vui Xuân: vì thế ngày Tết không ai dám đòi nợ, hay trách mắng, trái lại ai nấy cố vui tươi mời gọi, chào đón, đi đâu cũng có ăn với những nét mặt hân hoan cười nói làm ta dễ cảm tưởng đó là quang cảnh lân bàng với bồng lai tiên cảnh, vì là lúc người nghèo tới đâu cũng được hưởng cảnh dư dật phong nhiêu tràn ngập của ngon vật lạ. Đó lẽ ra phải là cuộc sống thường xuyên của con người nghĩa là con người lẽ ra phải đựơc sống thảnh thơi như những con chim, làm ít chơi nhiều, tung tăng với ca xướng và vũ điệu như được ghi tạc trên mặt trồng đồng Ngọc Lữ. Chính đó là lý tưởng của triết lý an vi, một nền triết nhằm hạnh phúc của mọi người như lý tưởng, như là cứu cánh. Và quả thực trong dĩ vãng lý tưởng đã hiện thực được phần nào tuy còn xa mới hoàn bị, nhưng so với những nơi khác thì quả không hổ mặt xưng là nước có văn hiến sống theo lý tưởng tết là hoà hợp giữa Trời, Đất, Người. Tuy vì trình độ lúc xưa chưa có cơ khí, cũng như vì nhiều lý do phức tạp con người chưa đạt đựơc cảnh an vui thịnh vượng như ý, thì ít ra mỗi năm để ra ít ngày và tạo điều kiện để mọi người có thể sống lối sống lý tưởng nọ ít nhất trong ba ngày, rồi sau đó cố kéo dài ra được đến đâu thì đến, bằng các cuộc hội hè, đình đám, chơi xuân… Đấy là lý do giải nghĩa tại sao tết đã in sâu vào tâm thức người Việt một ấn tượng tươi vui phấn khởi đầy tưng bừng trẻ trung đến nỗi thiếu tết nó làm cho ta cảm thấy mất mát một cái gì quá ư trầm trọng, mà trầm trọng thật, vì nó là dấu mất một nền triết lý ơn ích hơn hết cho con người mà Việt tộc có cái may đã sáng tạo và duy trì được trên bốn ngàn năm. Đang khi các nơi chỉ có triết lý một chiều bất động gây nên các thứ độc quyền, độc chiếm, độc chuyên, đã không giúp cho đời được an vui thì chớ, mà nếu chẳng may nó cướp được chính quyền thì gieo rắc đau thương trầm thống khôn cùng, như dân nước ta hiện đang là nạn nhân cực kỳ khốn đốn. Đó là trái đắng của triết lý xây trên không gian bất động với cái tết chỉ có một ngày, trái ngược hẳn với triết Việt xây trên chữ Thời rất uyển chuyển vì làm bằng tiết, nhịp, hợp hòa, thống nhất dễ giúp gây được nhiều hạnh phúc như nước ta trong hơn bốn ngàn năm qua đã nhiều lần được hưởng. Đành rằng so với đời sống hiện nay được nâng đỡ do khoa học kỹ thuật: đâu đâu cũng đầy xe hơi nhà lầu với tiện nghi tràn ngập thì đời sống thôn quên ta xưa thấp hơn nhiều lắm. Thế nhưng biết bao người di tản vẫn nuối tiếc cuộc sống bên nhà là vì hạnh phúc con người chỉ lệ thuộc vào tiện nghi có 2 phần 5, còn ba phần nữa ở tại lối xắp đặt, ở tại môi sinh tinh thần, ở tại tâm hồn thảnh thơi: không có tủ lạnh nhưng gà vẫn chạy quanh vườn, cá vẫn lội dưới ao, lúc hứng lên muốn nhậu là chạy ra xùa rãnh bắt ít con tôm, hái thêm mớ rau mớ lá, lôi ra vài xị đế nữa, thế là một cuộc nhậu khởi đầu bất tận, nhiều khi có sáu câu vọng cổ mùi giúp vui hay dăm ba ván cờ tướng! Khỏi lo mất job với đụng xe. Đấy không phải bản ráp của cuộc sống trên “bồng lai tiên cảnh” hay sao? Thế mà không phải chỉ có trong huyền thoại nhưng đã thấp thoáng xuất hiện nhiều lần trong trình sử của nứơc ta. Đó là công hiệu của một nền triết lý trung thực hơn hết cho con người mà “ba ngày tết” là một bản tóm sinh động. Như vậy quả là đáng cho chúng ta nâng niu gìn giữ như một gia sản thiêng liêng để mà truyền dòng nối dõi. Chúng ta cần phải nghiên cứu học hỏi để duy trì lấy nền văn hóa ơn ích nọ trong các đoàn thể ngừơi Việt hải ngoại, cũng như để nuôi dưỡng cho ngày thêm vững mạnh ý chí phục Việt kiến quốc, mong một ngày nào đó không còn phải kỷ niệm tết, nói về tết nhưng là “ăn tết” với sự tham gia của mọi giác quan trên chính quê nước khi đã tìm lại đựơc tự do hạnh phúc như xưa. Tác giả Kim Định (còn tiếp)
-
Pho Tượng Đẹp Nhất Của Việt Tộc 10. PHO TƯỢNG ĐẸP NHẤT CỦA VIỆT TỘC H.83: Hình Tượng Nữ thần mộc (núi Nưa) Đó là tượng núi Nưa gắn liền với chuôi gươm ngắn. Tượng có hình đầu nhọn, tai to, mắt hai vòng coi rất uy nghi lanh lợi. Dáng điệu cương quyết tự lập biểu lộ rõ trong tư thế đứng với hai tay chống vào hông. Các nhà nghiên cứu cho đó là tượng đẹp nhất trong các tượng của Việt Nam. Với con mắt triết thì đó còn là cái đẹp của trai hùng gái đảm, của con cháu bà Nữ Oa đội đá và trời. Pho tượng được phát hiện trong một khung cảnh rất xứng hợp với ý nghĩa, đó là núi Nưa nằm trong huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa, quê hương của Bà Triệu tên là Triệu Thị Trinh có anh tên Triệu Quốc Đạt, một thủ lĩnh có thế lực miền núi Nưa. Bà có sức khoẻ chí lớn lại thêm mưu trí, mới lên 19 tuổi đã cùng Anh tập hợp nghĩa sĩ trên núi Nưa để chuẩn bị khởi nghĩa như còn truyền lại trong câu hát ru con miền ấy: Cái ngủ mày ngủ cho lành, Để mẹ gánh nước rửa bành con voi Muốn coi lên núi mà coi: Có Bà Triệu tướng cỡi voi đánh cồng. (Khi truyền đi xa nó loãng ra thành “Có Bà Nữ tướng cỡi voi bành vàng” v.v…) Có kẻ khuyên bà lấy chồng quan chứ đừng làm loạn. Bà đáp: “Tôi muốn cỡi cơn gió mạnh, đạo luồng sóng dữ, chém cá kình ở biển khơi, đánh đuổi quân Ngô dành lại giang sơn, cởi ách nô lệ, chứ tôi không chịu khom lưng làm tì thiếp người ta”. Quả là tiếng nói trung thực của Bà Trưng, Bà Triệu, bà sao cải, bà giàn, bà nành, bà đậu… đều cùng một dòng máu với “Bà trồng cây xây núi”. Tất cả nói lên vai trò đầy hoạt lực và quan trọng của phụ nữ Việt Nam trong xã hội cổ xưa. Tuy vậy trên đây mới là những điều mắt thấy tai nghe còn để đi vào huyền sử lúc ấy mới hiểu được cái đẹp mênh mông của pho tượng. Các nhà khảo cổ chưa biết tượng được đúc vào thời nào, nhưng nhìn theo lối triết thì đoán được vào thời trống đồng (đầu thiên niên kỷ I tr.c.n) tức vào cuối thời mặt trời, vì pho tượng có ghi đủ nét của quẻ Li. Quẻ Li biểu tượng cho: 1) mặt trời, 2) chớp, 3) lại có nhẫn (tròn), 4) mũ nhọn tam giác, 5) gươm. Tất cả bấy nhiêu đều gặp thấy ở tượng: trên đầu là mũ nhọn (một thứ nón chóp). Tiếp tới là những tia chớp (của mặt trời) rồi tới vòng tròn trên hai mắt và tai (chỉ thái dương); còn gươm thì đã hiện hình ở dưới chân rồi, đại biểu cho cương đối với tượng nữ chỉ nhu. Đó là về thời đại. Nếu hỏi có thể đặt tên cho pho tượng chăng thì thưa rằng được: đó là tượng nữ thần mộc. Trước hết vì đây là thời ngự trị của nguyên lý mẹ, của nữ thần, của quê nước, của “quê mẹ”. Thứ đến là cái mũ có hình tam giác tức có số 3 tiềm ẩn trong đó, mà số 3 là số của hành mộc. Chính vì những liên hệ ngầm đó mà các tượng xưa của Việt tộc đều có đầu nhọn kể cả tượng cóc, tượng chim. Phụ nữ Việt xưa hay trùm vất khăn trên đầu thành mũi nhọn, hoặc là đội nón chóp (có nói dài trong quyển Sứ Điệp). Các tượng Phùnam cũng đội mũ nhọn như vậy. Ta biết tục này xuất hiện trong thời thờ mặt trời, nên tượng thần mặt trời Shamah bên Mésopotanie cũng đầu nhọn như vậy. Bên Việt vì môi sinh tinh thần là lưỡng hợp đã có cương phải có nhu, nên trên gươm là cương phải có nữ thần là nhu. Mộc là số 3 căn số 9, nên nữ thần mộc cũng có tên là “Cửu thiên huyền nữ”. Chính chữ cửu là 9 này đặt nền cho phép cai trị gọi là Cửu Lạc mà trong sách nho gọi là “Lạc Thư”, cũng căn cứ trên số 9, nên Lạc Thư gọi là sách mẹ. Vì thế ta có thể nói bài dậy của Nữ thần mộc trở nên sợi dây chạy xuyên qua toàn bộ triết lý Việt nho. Về phía nho thì đầu nhọn (tam giác) liên hệ với thuyết Tam tài, mà Tam tài là nền tảng cho thuyết nhân chủ, tức tự lực tự cường không dựa vào trời hay đất (không duy tâm hay duy vật) nhưng đường đường một vị trượng phu có trời mà cũng có ta. Cho được như vậy thì nhất định con người phải có cả hai chiều ngang dọc như chữ Đinh. Việt Nam quen chỉ bằng hai chữ nhân dân, thì nhân chỉ nét dọc là đại ngã tâm linh, còn dân là con người cá nhân sống trong xã hội, nên là nét ngang, tức đã hiện hình tích cụ thể và tự nhiên phải sống lệ thuộc vào các mối liên hệ đó. Tuy về nét ngang cũng cần phải giáo dục, nhưng nền tảng phải là nét dọc. Thiếu nét dọc là thiếu phần căn bổn, thiếu phần tâm linh nên cần được Nữ thần mộc dạy. Vì thế huyền sử nứơc ta có truyện Nữ thần mộc dạy anh em Lộ Bàn Lộ Bộc biết làm nhà chữ Đinh. Nếu hỏi tại sao nói dạy làm nhà mà không dạy cái khác? Trong chữ nho dạy làm nhà phải hiểu là dạy làm người, dạy xây trên nhân tính, và khi ai đạt nhân thì gọi là “nhập ư thất”, nhập vào được trong nhà. Trong nho hai chữ gia thất đều là nhà nhưng gia chỉ con trai, vòng ngoài của dân, còn thất chỉ con gái, cái gì thân mật vòng trong của nhân. Khi muốn dùng chữ nhà chỉ nhân tính thì phải dùng chữ thất: nói nhập ư thất mà không nói “nhập ư gia”. Câu nói “nhập gia tuỳ tục” chỉ tỏ bình diện tục lệ hiện tượng. Không phải bình diện tâm linh. Tâm linh phải nói thất vì thế không nói thái gia mà nói Thái Thất. Ai đạt độ đợt thái thất thì kể là thành nhân. Thành cùng cực thì như Thần: “chí thành như thần” là thế. Chính trong ý đó khi Khổng Tử nghe Tử Lộ gảy đàn thì nói Lộ mới lên đến tiền đường mà chưa nhập vào trong nhà: “Do dã thăng đường hỹ vị nhập ư thất dã” (L.N XI 14). Việt nho rất chú trọng đến đạo làm người, điều ấy tả bằng truyện Nữ thần mộc dạy Lộ Bàn Lộ Bộc làm nhà chữ Đinh. Lộ Bàn Lộ Bộc là những tên khác nhau chỉ “Bách Việt”. Khi nói Hùng Vương chi nước “Văn Lang” thành 15 bộ thì tức là tỏ ý muốn hiện thực bài học của Nữ thần mộc (số 3 nhân với 5 thành 15, xem thêm trong Sứ Điệp). Những tổ sư nghề mộc gọi là lỗ Ban cũng tỏ ra rất chú ý đến bài dạy của Nữ thần, thí dụ khi làm nhà chú ý đến vụ đặt đòn dông, tức đòn đông (chỉ hành mộc) còn nhà thường là ba căn hai chái (đôi khi 5 hoặc 1 căn thì cũng còn nằm trong liên hệ số lẻ chỉ trời: cửu thiên). Về phía nho thì tự Tam tài, xuyên qua Ngũ hành cho tới Lạc Thư lúc nào cũng bám sát nguyên lý Mẹ. Thiếu nguyên lý Mẹ văn hóa tất sẽ biến ra duy lý, dẫn đến duy vật theo nghĩa rất trầm trọng là con người bị sự vật sai sử và phản ảnh vào thực trạng là xã hội có giai cấp: bên chủ bên nô. Đã có giai cấp là có đấu tranh, mầm mống gây nên muôn ngàn đau khổ cho con người ở đó. Thế giới chia hai một bên tư bản một bên cộng sản kình chống nhau cũng là do thiếu bài học của Nữ thần mộc mà ra. Vì thiếu chất tâm linh nên chỉ còn là sức mạnh bạo tàn, xã hội xây trọn vẹn trên kinh tế: kẻ có làm chủ, người không làm nô, dẫn nhau vào con đường vong thân cũng gọi là alienation mà một trong nguyên nghĩa là bán cho ai, ở đây là con người bị bán đoạn mại cho sự vật để sự vật mặc tình sai sử, đến độ không nhận thức ra sự tủi hổ, còn vô liêm sỉ tung hô là “hạ tầng cơ sở chỉ huy thượng tầng văn hóa”, và giồn hết tâm lực vào việc đổ khuôn xã hội theo “duy vật sử quan” như vậy. Đó không chỉ mới lạ mà là bi trạng của nền văn hóa Tây Aâu triền miên lê mình trong giai cấp đấu tranh tức là trong duy vật, đến nỗi cả triết học là khoa học lẽ ra phải bên vực con người, thế mà cũng hè theo duy vật. Mãi tới thế kỷ 18 Kant mới hé nhìn ra bi trạng của con người và nói lên trong thuyết finalité sans fin: “cứu cánh không mục tiêu” tức con người đã mang cứu cánh ngay trong mình khỏi cần tìm cứu cánh bên ngoài, khỏi cần biện minh cho sự tồn hữu con người bằng gán cho nó một mục tiêu ngoài nó. Không, con người sinh ra chính là để làm người, làm người cho hết cỡ người, cho tới khi “nhập thái thất”, chứ không sinh ra cho ai cả, không cho đảng, cho nứơc… Không phải sinh ra để sản xuất hay để làm chi khác, bấy nhiêu chỉ là tuỳ phụ mới thuộc dân, còn thiếu chiều kích quan trọng hơn nhiều là nhân, phải là nhân. Con người phải là nhân dân, dọc ngang đầy đủ. Hại thay Kant chỉ hé thấy mà không đặt nổi nền tảng cho thuyết nhân chủ, thuyết duy vật vì đấy không gặp trở lực nào nên tha hồ lớn lên mãi, bàn trướng sang tận bờ cõi nước Việt. Khiến chúng ta phải mất quê mẹ, trở nên những người tị nạn thất thểu “không nhà không nước, không chốn hướng về” ngay trong nghĩa thông thường của chữ ấy. Đó cũng vì duy lý không được Nữ thần mộc dạy làm nhà, còn Việt nho thì lại quên lời Bà dạy. Hy vọng có thiết tới thân như vậy may ra biết mở mắt để trở lại tìm hiểu bài dạy của Nữ thần. Bài học đó còn đựơc phản chiếu lại trong lễ thành Đinh của Việt và lễ gia quan của nho: cả hai cùng một ý nghĩa. Lễ thành Đinh là một biến cố quan trọng của đời người được cử hành chung quan tuổi 20 để đặt nổi việc đứa con đựơc đưa ra khỏi sự lệ thuộc mẹ cha, để tự mình gánh lấy trách nhiệm của mình. Đây là bước cao nhất trong chuỗi các bước tiến hóa, vì sự tự gánh lấy trách nhiệm đòi không những làm việc mà còn phải biết cân nhắc trước sau, phải xem hoàn cảnh đó và những tiền căn, tiền lý như kia mà làm việc nhọ thì sẽ sinh ra hậu quả nào, gây nên âm vang sao cho mình, cho nhà, cho nước v.v… Như thế là việc gánh trách nhiệm đòi một sự phát triển hết các khía cạnh của trí, tình, chí là điều cần thiết để bước vào đợt tâm linh sẽ đến sau… Vì vậy lễ Thành Đinh được cử hành bằng nhiều cuộc thi: thi chạy, thi vật, thi nấu cơm, thi xâm mình… Thi biểu lộ sự cố gắng cũng như tài sáng kiến, cả hai đều cần cho con người. Khi bước vào đời: phải cố gắng tự cường tự lập, lại phải biết sáng kiến tức tuỳ mỗi thời mà biến chuyển. Đó là những đức tính chỉ có mình tự làm lấy, ít nhất phải tự cố gắng phát triển, để leo cao mãi đặng một ngày kia có thể bước vào cõi tâm linh. Vì tâm linh chân thực chỉ phát triển ra sau những kinh nghiệm ở đời. Theo vòng con giáp thì can Đinh đứng trước hai can Mậu Kỷ với nghĩa Mâu là làm cho tươi tốt, Kỷ là mình tức là Đại ngã tâm linh, vì thế để hai can này đựơc đặt ở trung cung như đã nói trên trong bài Con giáp. Nói theo cơ cấu thì Mậu Kỷ là cái nhân của Bánh chưng gồm 12 địa chi: tí, sửu, dần, mão… Còn Bánh dầy là tám can còn lại bao quanh lấy 12 địa chi: giáp, ất, bính, đinh (Mậu Kỷ) canh, tân, nhâm, quý. Đi hết 12 chi là người dân tốt. Đi hết vòng 8 can là người nhân toàn vẹn. Cả hai vòng phải giáp nhau (nên gọi là con giáp). Như vậy thiên can và địa chi gồm cả nhân lẫn dân. Còn sự phát triển đến cùng cực chỉ bằng hai can Mậu Kỷ là chí thành. Thành là thánh, chí thành là chí thánh, mà chí thành thi như thần. Ngấp nghé ở can Đinh là hi hiền, bước chân vào Mậu Kỷ là hi thánh. (Chú thích: chữ hi có nghĩa ước mong cố gắng giống chữ philo Hy lạp là quý mến ước mong. Philosophia là quý mến triết lý. Giống nghĩa hi hiền trong nho là ước ao trở nên hiền triết). Tất cả đều đáng kính tô. Vì vậy Việt nho có lễ tế các vị tiên hiền tiên thánh vào ngày đinh trong 2 mùa Xuân Thu tức mồng bốn tháng hai và tám. Sau đây xin nói ít lời về lễ gia quan. Lễ này cũng được tổ chức cho con cái khi chúng bước vào tuổi thành nhân (chung quanh 20) trong lễ đó cha mẹ làm lễ trao lại cho con quyền tự trách nhiệm về mình. Vì thế đội cho một mũ (quan) để chỉ sự tự lập: từ nay con tự mang lấy trách nhiệm về minh, không còn phải lệ thuộc vào mẹ cha, hơn nữa không được lệ thuộc ỷ lại vào mẹ cha nữa. Vì tính lệ thuộc ỷ lại làm ngăn trở sự phát triển óc độc lập tự cường, vốn mang trong mình ý nghĩa siêu linh hàng dọc, tức là một chiều kích của nhân chủ mà bao lâu con người chưa đạt được thì kể là vong thân tức lệ thuộc vào sự vật bên ngoài mình. Bởi vậy lễ gia quan đứng đầu trong các lễ theo thứ tự: quan, hôn, tang, tế để tỏ rằng nếu không thành nhân, nói theo Việt là nếu không thành đinh gồm cả ngang cả dọc, thì kể là uổng một kiếp người. Vì thất thân là thất trọn vẹn. Tự ngày làm lễ gia quan thì người con mang tên mới gọi là tự: hàm ngụ ý tự mình đặt tên cho mình, nên tên đó phải gói gọn cái chương trình và lý tưởng tự mình đặt ra để cố hiện thực, sau này khi mình qua đời gia tộc sẽ đặt cho một tên khác gọi là thuỵ hay hèm tục gọi là tên cúng cơm. Khi gia tộc đặt tên thuỵ thì phải xét lại cái chương trình đề ra trong tên tự xem đã hiện thực được đến đâu. Như vậy ý nghĩa gia quan nói lên rất rõ ý nghĩa tự lập cả hàng ngang xã hội thuộc dân, lẫn hàng dọc tâm linh thuộc nhân. Lễ thành đinh nói lên 2 nét dọc ngang rõ hơn ngay trong dạng tự chữ Đinh thành bởi một nét ngang một nét dọc. Lễ Gia quan trong Nho cũng nhằm mục đích đề cao quyền tự chủ của con người ở tại cha mẹ trả lại việc trách nhiệm mà cha mẹ đã tạm phải gánh khi con chưa tới tuổi trưởng thành. Nhưng khi con đã tới tuổi đó thì trả lại cho con. Trong buổi lễ người con nhận ba mũ, sách nói để chỉ ba nhà Hạ, Thương, Chu nhưng thực ra ý nghĩa siêu việt chỉ thuyết Tam tài, con người là một trong Tam tài nhận mũ ở thềm Đông (số 3 hợp với Nữ thần mộc) để tỏ ra là chủ nhà. Ý nghĩa sâu xa là để làm người (vi nhân) mà mỗi người phải tự làm lấy, “vì trong vũ trụ không có ai sinh ra đã là quý phái, là đáng tôn trọng” (thiên hạ vô sinh nhi quý giả dã, sách Nghi lễ, chương đầu: lễ quan sĩ). Muốn được tôn trọng thì phải tự mình nhận lấy việc làm người, và trở nên người, nói bóng là tự làm nhà chữ Đinh, hay tự đúc tượng. Đó là đại để ý nghĩa lễ gia quan, cũng là ý nghĩa lễ thành Đinh. Tất cả có thể gói gọn vào một chữ Trung mà sách Trung Dung định nghĩa là đứng độc lập không ỷ lại vào đâu hết. “Trung lập nhi bất ỷ”. Đứng ở giữa không ỷ lại bên này hay bên kia. Ta có thể đặt phương trình giữa tượng Nữ thần mộc với chữ Trung như sau: Hình Hãy nhìn ngắm kỹ phương trình cả tượng lẫn chữ Trung, lúc ấy và chỉ lúc ấy thôi sẽ thấy tượng tỏa lên một cái đẹp huyền bí siêu tuyệt nói mãi không cùng. Tác giả Kim Định (còn tiếp)
-
Pho Tượng Đẹp Nhất Của Việt Tộc 9. NGHỆ THUẬT ĐÚC TƯỢNG Trong huyền thoại của Trung Hoa cổ đại hay nói đến việc đúc, coi đó là việc rất quan trọng: đúc trống, đúc kiếm, đúc đỉnh v.v… mỗi việc đều kèm theo nghi lễ rềnh rang. Thí dụ trước khi đúc gươm phải tìm thứ kim khí xứng hợp là trống mái. Muốn biết thứ nào là trống hay mái, người ta nấu chảy kim khí rồi đổ xuống, nếu lõm (ao) thì là âm, nếu lồi (đột) thì là dương. Có những trường hợp lò bể phải được kéo bởi 300 cô gái tơ, hoặc như đôi kiếm Mạc Da đúc mãi không xuôi, sau biết được cần phải có người hy sinh, nên vợ nhảy vào lò nấu kim khí rồi chồng mới đúc được đôi kiếm quý giá để đời. Sau này không đi đến cùng cực như vậy thì người ta thay vào bằng cắt móng tay và tóc để “hy sinh”, nhờ vậy đồ đúc ra mang đầy tính chất linh thiêng: đôi kiếm có thể bay đi, nếu để mỗi nơi một thì có thể tìm đến nhau. Đỉnh cũng vậy, có thể tự ý ra đi hoặc trở nên nặng nhẹ tuỳ theo người chủ có đức nhiều hay ít. Đỉnh còn đức tính nấu đồ ăn mà không cần lửa v.v… Mấy điểm truyền thuyết trên đây chứng tỏ sự quan trọng được gán cho việc đúc. Vì là việc quan trọng coi như việc sáng chế quý giá nên tất nhiên được nhiều người nhận công. Đó là Hoàng Đế và Li Vưu. Về ngành Hoàng Đế thì đi vào những điều bí mật với các tin tưởng như vừa kể trên, kiêm luôn cả việc luyện thuốc trường sinh. Còn ngành Li Vưu của Việt tộc thì đi vào con người tâm linh nên việc đúc được trừu tượng hóa để thể hiện vào tên gọi của nước mà rõ nhất là Giao Chỉ. Theo nghĩa cùng tột thì đó là chỉ trời chỉ đất giao nhau, nói kiểu cơ cấu đã bình dân đến cùng cực là “vài ba”. Vài là hai đất phải giao thoa với ba trời. Khi sách “Hùng Vương sự tích ngọc phả cổ truyền” nói “vua Kinh Dương đóng đô ở xứ Nghệ” thì cũng là diễn tả theo ý đó, vì ý nghĩa thông thường của chữ nghệ đơn là cai trị khéo léo, còn nghĩa chính là xếp đặt. Vậy sự xếp đặt cùng tột là biết xếp trời vào chỗ trời, đất vào vị trị của đất thì lúc ấy vạn vật mới được nho thỏa hạnh phúc. Vì thế nói xứ Nghệ, nằm về phía Hoan Châu, có nghĩa là hoan lạc an vui như hậu quả của xứ Nghệ. Sau Nho giáo đã công thức hóa thành câu: “Chí trung hòa thiên địa vị yên, vạn vật dục yên”. Đạt đợt chí trung hòa thì trời đất đặt vào đúng vị, nhờ đó vạn vật được nảy sinh đầy đủ. Như vậy hạnh phúc của con người nằm trong chữ nghệ: tức biết đặt trời đất vào đúng vị trí. Đọc lướt qua ta không ngờ đó là câu nói khó vô biên, loài người đã tiến rất cao trong khoa học, nhưng việc xếp đặt trời đất chưa sao thành công, nếu không xếp tất cả vào cho trời kiểu Hoàng Lão khi đúc gươm như đã nói trên, thì lại xếp đất trên trời kiểu duy vật: hạ tầng kinh tế chỉ huy thượng tầng văn hóa: rõ ràng là đất đặt trên đầu rồi đó. Hậu quả là vạn vật bất dục yên. Đói dài. Muốn được an lạc thì phải sống đúng điệu nghệ như Kinh Dương Vương là phải đi một đường xả gọi là tống cựu nghênh tân mà huyền sử nước ta chỉ bằng ba vĩ tích của Lạc Long Quân: diệt hồ tinh, ngư tinh, mộc tinh. Có vậy Hùng Vương mới lập nổi nước Văn Lang. Chữ Văn Lang chính là chữ Nghệ thêm bộ đầu, tức nội chất cũng là những cuộc đúc: đúc trời với đất nhưng đã được bình dân hóa nên gọi là bánh trời bánh chưng, hoặc truyện trầu cau trong đó đá vôi tượng đất, cây cau tượng trời, còn người được chỉ bằng cây trầu quấn quýt cả hai lại. Vì thế có bản nói vợ Tân Lang tên là Liên. Đó chỉ là tên huyền sử với ý nghĩa người là mối liên hệ giữa trời cùng đất, biểu lộ ra trong màu đỏ của miếng trầu nhai trong miệng. Được như vậy thì tình người đỏ thắm tức được hạnh phúc đỏ tươi. Đó không còn là hôn phối mà là linh phối. Cũng phải nói như thế về cặp Tiên Dung Đồng Tử cũng là linh phối vì nó vượt ra ngoài mọi ràng buộc hàng ngang xã hội như môn đăng hộ đối, vượt cả quyền quyết định của vua cha. Ở đây Tiên Dung xã hết, Chữ Đồng Tử cũng xả tận cùng biểu thị bằng cái khố cũng không còn, nhờ tác động xả tận cùng như vậy mà đôi uyên ương ấy đã lên tiên, sống mãi với non sông đất nước, nước của tiên rồng. Đó là cuộc linh phối sơ nguyên khai sinh ra nước Văn Lang: bên tiên bên rồng, bên trời bên nước, bên núi bên sông, tuy khác biệt mà vẫn gặp nhau trong cánh đồng Tương: và đẻ ra cả một trăm con mà con nào con nấy đều phương trưởng: tức đều được sống trong hạnh phúc an lạc không ai bị làm nô lệ. Tóm lại tên nứơc Văn Lang hay Giao Chỉ đều có ý nói lên cuộc đúc trời với đất mà nghĩa cụ thể là “vi nhân” là đúc nên con người, con người phải tham dự vào việc đúc đó, phải tự làm nên chính mình, nên có thể nói bản tính con người đến sau con người tức con người mới sinh ra là thằng người sinh lý, nó phải đúc vào cái khuôn nào đó thì mới thực có bản tính người. Nói khác muốn ra người thì phải đổ vào khuôn nhân, còn đổ vào khuôn trời hay khuôn đất đều là vong thân. Sau đây là câu truyện cổ muốn nói lên điều đó: truyện ông Đông mà đúc trống đồng. Oâng Đổng cũng như ông Đùng, ông Tứ Tượng là một trong các ông khổng lồ Việt tộc, trông coi về nghề đúc, nên được các người làm nghề đúc thờ như thánh tổ. Xưa có người thợ đúc đi rao: ai muốn đúc nồi, niêu xoong chảo ông đều làm đượcvà rất tinh tế: nên rất đắt hàng, nhờ vậy ông có dịp đi hết nơi này đến nơi kia. Ngày nọ ông ta gặp một chàng trai cũng quảy đồ đúc như ông. Chàng ta vái chào cung kính và xin theo ông để học nghề nói rằng mình đang học dở dang với một thầy mà không may nửa đường lạc mất. Sau nhiều lần từ chối ông ta đành nhận chàng trai nọ làm học trò, rồi giồn hai gánh lại một cho anh ta gánh. Đi được ít lâu thì có người gọi đúc nồi. Trong khi đúc ông ta nhận ra chàng thanh niên nọ còn ngù ngờ lắm chưa tỏ một dấu gì gọi được là đã khởi đầu học đúc, ông ta mắng mỏ nặng lời cho là đồ ăn hại. Chàng trai trả lời: - Thưa thầy, lối đúc của thầy cũ tôi khác lắm, không những cách thức đúc mà cả đối tượng: tức thầy cũ tôi không đúc đồ vật mà chỉ đúc người, đúc già thành trẻ, xấu thành đẹp, gái thành trai, muốn sao được vậy. - Uûa mà nói chi lạ. Tao chưa hề nghe thấy thế bao giờ. - Thưa thầy cái đó khó mà dễ, dễ là nhờ cái khuôn này. Nói rồi giở khuôn ra cho coi, và nói thêm là đúc dễ mà tiền kiếm được lại nhiều. Thầy đúc nổi được có dăm quan chứ thầy cũ tôi mỗi chuyến kiềm vài ba trăm quan là thường. Người thợ đúc rất ngạc nhiên cật vấn cẩn thẩn và nói nếu anh cam đoan làm đựơc như vậy thì ra hàng coi thử. Thế là anh chàng bắt đâu rao: ai có đúc người chăng, bảy mươi đúc thành mười tám, xấu đúc thành đẹp, gái thành trai… Chỉ một lúc sau có người mời vào nhà và hỏi cặn kẽ rồi bắt dầu làm giấy cam đoan, nếu chết người thì phải đền mạng. Giấy tờ ký đâu đấy rồi anh chàng đòi chủ nhà liệu cho 20 sảo than, một cái nồi 30 và dọn cho một căn phòng kín không ai được ròm ngó tới cả. Sau đó chủ nhà dẫn ông già 70 lên, anh liền đánh nhẹ vào hiểm huyệt, ông chết liền, đưa xác bỏ vào nồi nấu liền ba ngày ba đêm cho tan ra nước rồi lấy nước đó đổ vào khuôn đã tô đi nặn lại rất kỹ. Làm đến đâu đều chỉ vẽ cẩn thận cho thầy mới xem. Làm xong để ba ngày ba đêm cho đông lại anh mới khoan thai tháo khuôn ra: quả nhiên một người bắt đầu cọ quạy, rồi dần dần ngồi lên, mặt mũi còn phảng phất ông già nhưng má hóp thành đầy đặn, tóc bạc thành đen nhánh trông như trai 18 tuổi vậy. Oâng thầy thở phào hết hồi hộp lo âu. Khi chủ nhà nhận thấy quả được như đã giao hẹn liền trả đủ 150 quan tiền đã đoan ước, tiếp đãi cơm nước tưng bừng. Hai thầy trò chia tiền mỗi người một nửa rồi tiếp tục đi hành nghề. Đi chẳng mấy lúc đã có người xin đúc lại cho bà vợ lưng gù răng rụng hết. Lần này ông thầy dành lấy làm tất cả, và sau sáu ngày mở khuôn ra thì quả là một cô gái đang mơn mở cái xuân xanh. Rồi cũng nhận tiền, và chia như trước. Đoạn tiếp tục ra đi và rao hàng. Trong khi đó ông thầy nghĩ thầm việc chẳng khó chút nào tất cả đều ở cái khuôn này, nắm được cái khuôn là xong tất cả cần chi đến anh chàng nọ, nghĩ mãi đâm ra lòng tham muốn chiếm đoạt. Khi đến một làng kia ông ta liền tri hô rằng chàng trai ăn cắp tiền của ông. Đến khi cảnh sát khám ruột tượng chàng trai thì quả nhiên gặp thấy tiền của ông ta đã ghi số đàng hoàng mà nó lẻn vào dây lưng của chàng trai lúc nào không ai biết. Thế là chàng trai bị tù; ông ta một mình đúc và được mời đúc một cụ già 80 tuổi. Oâng ta cũng làm như lần trước: đánh chết cụ già, bỏ vào nồi hầm ba ngày ba đêm rồi đổ khuôn, rồi chờ ba ngày ba đêm nữa, nhưng đến lúc mở ra chỉ thấy nước đã có mùi, chủ nhà chờ quá hạn phá cửa vào, ông ta xin khất ba ngày nữa, nhưng sau ba ngày chỉ thối thêm. Thế là ông ta bị đánh túi bụi rồi theo tờ cam kết thì đóng gông chờ giải huyện. Trong khi đi đường ông ta nhận ra mình bị trừng phạt vì lòng tham lam gian xảo của mình, nên hết lòng hối hận và cầu khẩn cùng đức Thánh tổ nghề đúc. Đến ngày bị điệu lên huyện, lính ghé vào quán giải khát, ông thấy người “học trò” đang ung dung ngồi uống nước, ông ta liền hiểu rõ và vội vàng cầu xin khấn lạy như tế sao, miệng luôn luôn kêu xin tha thứ. Người “học trò” liền nói chính ta đây là thánh tổ của các thợ đúc: không ngờ lòng các người nham hiểm đến như vậy. Lẽ ra ta còn phạt cho cân xứng, nhưng nay đã biết hối hận thì ta tha cho. Các người phải lo bảo nhau: đã đi làm cái nghề này của ta thì không được dối trá lừa gạt người khác, dù có nghèo khổ tới đâu cũng phải cho trong sạch, nói rồi biến mất. Cùng lúc có người nhà đến nói thôi đừng giải ngừơi ta nữa, bố tôi đã sống lại, hiện đang cựa quạy trong khuôn. Câu truyện trên muốn nói lên rằng đúc đỉnh, đúc gươm, đúc trống tàng ẩn ý đúc người. Muốn đúc ra người mới tốt đẹp đúng cỡ nhân linh thì phải xả bỏ người cũ. “Vi nhân” là thế. Tác giả Kim Định (còn tiếp)