phoenix

Hội Viên Ưu Tú
  • Số nội dung

    1.107
  • Tham gia

  • Lần đăng nhập cuối

  • Days Won

    2

Everything posted by phoenix

  1. Nguồn: dongtac.net Bản thông điệp 12.000 năm của tổ tiên người Việt Hà văn Thùy Thứ năm 11, Tháng Giêng 2007 Ảnh trên: giáp cốt văn - chữ viết trên mai rùa (Hongkong University) Nhà nghiên cứu Trương Thái Du có bài: “Những con chữ khởi thuỷ và một áng văn rất sớm của loài người” trên mạng vannghesongcuulong.org ngày 3.5.06. Đọc bài điểm báo và đi sâu vào nguồn tư liệu do ông giới thiệu, chúng tôi nhận ra đây là vấn đề rất lớn, cần được tìm hiểu thấu đáo. 1/ Tóm lược tài liệu: Nhờ tác giả bài báo, chúng tôi tìm được những tài liệu sau: 1.a ‘Chữ viết cổ nhất’ tìm thấy ở Trung Quốc (BBC) (1) Trong 24 ngôi mộ được khai quật tại làng Giả Hồ, di chỉ có tuổi 6600 đến 6200 năm TCN thuộc tỉnh Hà Nam, tiến sĩ Garman Harbottle thuộc Phòng thí nghiệm Quốc gia Brookhaven, New York, Hoa Kỳ cùng nhóm khảo cổ Trường Đại học Khoa học và công nghệ tỉnh An Huy Trung Quốc xác định được 11 ký hiệu đặc biệt được khắc trên mai rùa. Harbottle cho biết: Điều rất có ý nghĩa là những ký hiệu trên có sự gần gũi với chữ Trung Quốc cổ. Trong những ký hiệu đó có cả biểu tượng về “mắt’ và “cửa sổ”, số Tám và 20, tương đồng với những ký tự được sử dụng hàng nghìn năm sau vào thời nhà Thương (1700 đến 1100 TCN). Chúng sớm hơn những ký tự được phát hiện tại Mesopotamia hơn 2000 năm. Trong một vài vỏ rùa người ta cũng tìm thấy những hòn sỏi nhỏ. Nhóm nghiên cứu Giả Hồ cho rằng những vỏ rùa chứa đá cuội được dùng làm nhạc cụ phát tiếng kêu lách cách trong nghi lễ Shaman. Trong một ngôi mộ có 8 vỏ rùa cùng bộ xương của người đàn ông bị mất đầu. Những vỏ rùa được phát hiện vào năm 1999, khi nhóm nghiên cứu khai quật những ngôi mộ trong đó có những ống sáo cổ làm bằng xương. Đó là những nhạc cụ sớm nhất được biết tới. Nghiên cứu này được công bố trên tạp chí Antiquity. 1.b ’Ống sáo’ cổ (BBC) (2) Tiến sĩ Garman Harbottle thuộc Phòng thí nghiêm Quốc gia Brookhaven New York cùng đồng nghiệp Trung Quốc phát hiện những ống sáo làm bằng xương chim hạc tại di chỉ Giả Hồ tỉnh Hà Nam Trung Quốc. Những ống sáo 9000 tuổi làm bằng xương chim được khoét từ 5 đến 8 lỗ, chiếc dài nhất đo được 24 cm. Đáng chú ý là một trong những ống sáo đó vẫn còn thổi được. Giả Hồ là di chỉ lớn, có tới 300 ngôi mộ được phát hiện, trong đó có nhiều đồ tuỳ táng. Sưu tập sáo Giả Hồ là những ống sáo sớm nhất của người hiện đại được phát hiện, tuy người ta đã biết đến những ống sáo 45.000 tuổi của người Neanderthal tại Slovenia năm 1995. 1.c ’Khảo cổ chữ viết’ (3) Chúng ta biết nhiều về làng Bán Pha tỉnh Sơn Tây Trung Quốc nơi phát hiện mộ Tần Thuỷ hoàng với hàng nghìn tượng lính đất nung cùng nhiều hiện vật bằng đồng. Ngay dưới làng Bán Pha 3,5 m là di chỉ khảo cổ khác, được gọi là Bán Pha 2, niên đại 12.000 năm. Tại đây người ta tìm được một bình gốm dính ở đáy một chất giống như cặn chè. Đặc biệt là bề mặt bình có một văn bản khắc chữ tượng hình giống chữ Trung Hoa cổ, mang tính biểu tượng cao nhưng không giống với tự dạng chữ Hán hiện đại. Nhóm của tiến sĩ Jeff Schonberg Đại học Angelo bang Texas Hoa Kỳ cố gắng tìm mối liên hệ với tiếng Trung Quốc để giải mã câu chuyện. Một câu chuyện đạo đức như là nghi lễ chữa bệnh. Để hiểu hiệu lực của câu chuyện cần tìm hiểu cảnh quan tinh thần vùng Tây An. Miền quê này có nhiều gò đất thiêng mang tinh thần bái vật giáo, được coi như những ông thày dạy cách canh tác cũng như phép ứng xử… Câu chuyện trên cái bình liên quan đến “hành vi xấu” mà ngôn ngữ ngày nay gọi là “sự kiêu ngạo”. Sự kiêu ngạo này không phải do con người đối xử với nhau mà với thần linh, thể hiện ở chỗ phớt lờ hay không tôn trọng sự khôn ngoan của các vị thần. Câu chuyện trên cho thấy: hành vi xấu làm sa đoạ tinh thần cùng sự cứu rỗi. Có một thời đen tối Thế giới bị đảo lộn. Thời kỳ ảm đạm xảy ra do con người ứng xử tồi tàn và xúc phạm Thuỷ thần. Do vậy con người bị bệnh tật. Quan hệ giữa người và người trở nên rối loạn. Phương thức cứu chữa: Con người đến thưa với Sơn thần. Sơn thần biết lý do khiến Thuỷ thần giận dữ. Thần khuyên con người phải làm cuộc hành hương cứu rỗi. Trên dải núi xa sẽ thấy một loại cây, hãy mang về chế thành chè uống. Sự tha thứ xảy ra, bệnh sẽ khỏi và bóng tối biến thành ánh sáng. Dân địa phương cho biết: câu truyện trên vẫn được truyền miệng trong vùng Tây An. Tiến triển lịch sử cùa Trung Quốc hầu như thúc ép con người hiện nay sống với tâm trạng giận dữ. Có nhiều nguyên nhân nhưng lý do thuyết phục nhất là trẻ con ở đây thường được đưa tới trường rất sớm. Nhà trường giáo dục một lề thói chống lại truyền thống gia đình. Hầu như những đứa trẻ này không trở về làng nữa. <h3 class="spip">2/ Ý kiến các nhà khoa học</h3> 2.a Ý kiến các nhà khoa học Mỹ Phát hiện trên mai rùa đã gây tranh luận mà người cầm đầu cuộc khai quật cho là “một dị thường”. Tiến sĩ Harbottle nói với BBC News: “Nếu bạn nhặt lên một cái chai có hình đầu lâu xương chéo, bạn sẽ biết ngay đó là chất độc, dù không có bất cứ lời giải thích nào. Chúng ta dùng ký hiệu để chuyển tải những khái niệm và tôi không ngạc nhiên về những gì chúng ta thấy nơi đây.” Tuy nhiên, giáo sư David Keightley của Đại học California, Berkeley Hoa kỳ nhấn mạnh đến mối liên hệ của chúng với những nguyên bản đời Thương. Ông nói: “Một khoảng cách 5000 năm mà giữa chúng vẫn có sự liên hệ, thật là điều đáng ngạc nhiên.” “Tuy vậy mối liên hệ cần được chứng minh kỹ lưỡng hơn.” Nhưng Gs Harbottle nhấn mạnh đến sự liên tục của những ký hiệu xuất hiện tại những vị trí khác nhau dọc theo sông Hoàng Hà suốt từ thời kỳ Đồ đá mới đến đời Thương, khi một hệ thống chữ viết phức tạp được phát hiện. Ông không cho là những ký hiệu thời Đá mới có cùng ý nghĩa với những ký hiệu giống với nó ở đời Thương. G.s Keightley nói thêm: “Điều này thật khó hiểu và không bình thường; nó có sớm đến mức kinh ngạc. Chúng ta không thể coi đó là chữ viết khi chưa có bằng chứng thuyết phục hơn.” Ông nhấn mạnh, những chỉ dấu của văn hoá Đá mới Giả Hồ có thể không đủ phức tạp để cần đến hệ thống chữ viết. Nhưng ông cho rằng những ký hiệu đó mang tính biểu tượng hoặc được cách điệu hoá cao. Nó là một dạng đặc biệt của chữ viết Trung Quốc. Chữ “mục” là mắt tương tự với những chữ khắc mới tìm thấy gần đây. W. Boltz, giáo sư tiếng Hoa cổ Đại học Washington, Seattle: “Cách quãng hơn 5000 năm… Sao quá trình phát triển chữ viết của Trung Quốc diễn ra lâu thế? Suy diễn dựa trên tương quan hình thể đơn độc, dọc khoảng thời gian dài như vậy, gần như vô nghĩa. Bằng cách nào người ta biết rằng hình nọ trong thực tế là hình con mắt?” Theo ông, nó có thể giống ‘con mắt’ với ngưới này, mà cũng có thể là cái khác với người kia. “Không có một văn cảnh, bao gồm cà sự am hiểu về ngôn ngữ liên quan, không thể nói những dấu hiệu này là chữ viết.” 2.b Ý kiến các học giả Trung Quốc Tác giả Trương Thái Du cho biết: “Khi tôi liên lạc trực tiếp với giáo sư Trương Cư Trung - người đứng đầu nhóm nghiên cứu- để hỏi về sự chính xác của thông tin mà tiến sĩ Jeff Schonberg đề cập trong một hội thảo tại Mỹ, ông Trương khẳng định: cách nay 12000 năm Trung Quốc chưa thể có chữ viết. Chỉ chắc chắn rằng chiếc bình trà nọ có niên đại từ 5000 năm trở lên.”(bđd) <h3 class="spip">3/ Nhận định của chúng tôi</h3> 3.a Về ý kiến các nhà khoa học Mỹ Đối với sự thận trọng của các học giả Mỹ, tác giả Trương Thái Du đã trả lời khá thoả đáng: “Một người Trung Hoa bình thường nhất cũng có thể giải thích để Keightley hết ngạc nhiên: hơn 3000 năm từ Thương – Ân, tiếng Hoa hiện đại vẫn còn rất nhiều từ không hề thay đổi, chữ “mộc” và chữ “khẩu” là thí dụ rõ nhất. Trong ý nghĩa nào đó của sự tương đối, 5000 năm từ thời Đá mới đến đời Thương chưa chắc đã dài bằng 3000 năm tiếp theo.” (bài đã dẫn) Nhưng sự thận trọng thái quá ở đây lại mang yếu tố mâu thuẫn và nguỵ biện. Nói rằng “những chỉ dấu của văn hoá Đá mới Giả Hồ có thể không đủ phức tạp để cần đến hệ thống chữ viết.” là không có cơ sở. Một di chỉ lớn, có tới 300 ngôi mộ, tại đó phát hiện nhiều ống sáo bằng xương chim, có những vỏ rùa khắc chữ. Vỏ rùa không chỉ khắc chữ mà còn là dụng cụ bói toán. Những hòn sỏi trong đó có khả năng là những vật dùng trong bói dịch… Chứng tỏ một xã hội phát triển cao, chữ viết là nhu cầu tất yếu. Chúng tôi không hiểu vì sao, khi phân tích những mai rùa Giả Hồ, nhóm nghiên cứu không hề liên hệ tới văn bản trên bình Bán Pha 2. Văn bản Bán Pha 2 sẽ soi sáng rất nhiều cho việc giải mã những ký hiệu trên mai rùa Giả Hồ. Không những chỉ sớm hơn 3000 năm, văn bản Bán Pha 2 là tập hợp những ký tự được tổ chức theo quy luật nhất định khiến người ta đọc được. So với văn bản Bán Pha 2, những gì trên mai rùa Giả Hồ không còn ‘quá sớm’ Không hiểu vì sao các tác giả không cho biết chủ nhân của những vỏ rùa hay bình cổ? Khi xác dịnh họ là ai, thì việc giải mã những đồ tuỳ táng sẽ có cơ sở hơn. Chúng tôi nghi rằng đó là những người Indonesien, Melanesien từ Đông Nam Á đi lên. Nếu đúng vậy thì việc phát hiện ra ống sáo và chữ viết không đáng ngạc nhiên. 3.b Về phát biểu của giáo sư Trương Cư Trung Chúng tôi nhận thấy câu trả lời của giáo sư Trương không thuyết phục. Một bình gốm tìm thấy trong di chỉ 12.000 tuổi mà ông lại bảo là có niên đại “từ 5000 năm trở lên” thì tính trung thực khoa học phải hiểu thế nào đây? Tuổi của đồ gốm phụ thuộc tuổi di chỉ kháo cổ. Trong trường hợp bình gốm này, nếu trung thực khoa học thì phải nói: “có tuổi từ 12.000 năm trở lên.” Bởi lẽ ai biết bình được làm từ bao giờ, nó theo con người bao lâu? Chỉ vì được chôn xuống cùng con người nên bị định theo tuổi con người ? Chúng tôi biết, việc hạ thấp tuổi bình Bán Pha 2 và phủ định chữ viết 12000 năm không đáng ngạc nhiên. Tại sao giáo sư Trương lại đưa ra con số 5000 năm mà không phải con số khác? Phải chăng cần bỏ đi 7000 năm để cho chiếc bình nằm trong phạm vi văn minh Trung Hoa? Phải chăng đó là tiếp nối truyền thống của những Sanxingdui?(4) 3.c Tìm về sự thật lịch sử Giáo sư Trương nói: “cách nay 12.000 năm Trung Quốc chưa thể có chữ viết.” Điều này hoàn toàn đúng bởi lúc đó ngay cả Trung Quốc cũng chưa có! Nhưng ít nhất từ 30.000 năm trước vùng này là giang sơn Bách Việt. Tháng 9 năm 1998 B. Su, Y. Chu, J. Ly những tác giả người Hoa của Dự án Đa dạng di truyền người Hán (Chinese Human Genome Diversity Project) được thực hiện bằng tiền của Quỹ phát triển khoa học tự nhiên Trung Quốc đã công bố tư liệu: 70.000 năm trước, người hiện đại Homo Sapiens đã từ Trung Đông tới Việt Nam. Tại đây, hai đại chủng Mongoloid và Austrloid hoà huyết và sinh sôi nhanh. Khoảng 40.000 năm trước, người từ Đông Nam Á - mà sau này sách sử Trung Hoa gọi là Bách Việt - đi lên mở mang miền đất ngày nay có tên là Trung Quốc(5). Trong khoảng 40.000 năm sinh sống từ sông Hoàng Hà tới sông Dương Tử, người Bách Việt trong đó tộc Lạc Việt là chủ thể đã triển khai Văn hoá Hoà Bình, tạo dựng xã hội nông nghiệp lúa nước phát triển nhất thế giới. Trong thời gian dằng dặc ấy, người Bách Việt đã sáng tạo rìu đá cũ, những công cụ đá cuội mài, ra kinh Thi, kinh Dịch, đồ đồng… đã biết kết thừng, biết quan sát vết chân chim làm ra chữ viết! Vì vậy từ lâu nhiều người dự đoán, việc tìm ra chữ viết trên mai rùa hay đồ gốm là tất yếu. Việc phát hiện ra chữ trên mai rùa 9.000 năm ở Giả Hồ, bản văn trên bình gốm 12.000 năm ở Bán Pha là điều không thể khác. Từ bản văn Bán Pha, ta có thể tin là chữ viết có từ trước nữa! Lịch sử cứ trôi đi như thế cho đến năm 2600 TCN, Hiên Viên Hoàng đế từ thảo nguyên Thiểm Tây, Cam Túc đưa quân tràn xuống chiếm đất của Viêm Việt (Bách Việt), mở ra cuộc hoà huyết và hoà nhập văn hoá vĩ đại giữa chủng Mongoloid phương Bắc và Bách Việt để tạo ra chủng mới là Mongoloid phương Nam, tổ tiên trực tiếp của người Hán và người Việt hôm nay. Những chữ viết trên mai rùa, trên bình gốm rõ ràng do người Bách Việt sáng tạo. Nhưng quyền kế thừa không chỉ thuộc người Việt Nam mà cũng thuộc về người Trung Quốc và các dân tộc Đông Á bởi chúng ta ngày nay, như trong cuốn sách cổ Trung Hoa nói rất đúng, đều là Viêm Hoàng tử tôn. Do biến cải của lịch sử, người Trung Hoa sống trên đất cũ nhưng những báu vật của tổ tiên Bách Việt xưa đều là tài sản là niềm tự hào chung của các dân tộc Á Đông. Mọi sự kỳ thị vừa không phù hợp với tinh thần khoa học vừa có tội với vong linh tiên tổ Viêm Hoàng. Trở lại Truyện cổ Bán Pha Đây là thông điệp xưa nhất mà tổ tiên gửi tới con cháu lời cảnh báo về mối hiểm nguy do thái độ kiêu ngạo trong ứng xử với thiên nhiên. Bằng lương tri của mình, chúng ta cần có hành động cứu rỗi để hoá giải tai ương. Chắc chắn đấy là con đường trở về với truyền thống nhân bản của người Việt. Viết đến đây tôi nhớ tới lời nhà văn Nga V. Rasputin: “Không làng quê, chúng ta sẽ mồ côi,” trong bài báo cùng tên đăng trên báo Văn nghệ Hội Nhà văn Việt Nam số ra ngày 1.7.2006. Thiết nghĩ không phải ngẫu nhiên mà vào năm tháng này chúng ta nhận được từ tổ tiên một thông điệp giầu ý nghĩa như vậy. HVT, Sài Gòn 7.2006 Tài liệu tham khảo 1. BBC: ’Earliest writing’ found in China 2. BBC: The bone age ’flute’ 3. Archaeology of Writing 4. Năm 1986 người ta tìm được ở Sanxingdui tỉnh Tứ Xuyên hơn 800 hiện vật trong đó có nhiều đầu người và mặt nạ tuyệt xảo bằng đồng, nổi bật là bức tượng đồng to bằng người thật, cao 1,72 m. Tượng có mắt to và xếch, mũi lớn, lông mày rậm, miệng thật rộng, không thuộc chân dung điển hình của người Hán. Giới khảo cổ Trung Quốc gọi là cổ vật thuộc nhóm dân Ba Thục và xếp chúng vào thời kỳ cuối đời Thương. Tuy nhiên người ta biết rằng nước Thục có từ khoảng 4700 năm trước, sớm hơn nhà Thương 1000 năm, chỉ bị nhà Tần diệt vào thế kỷ III TCN. Đấy chính là sản phẩm của Bách Việt. 5. J.Y. Chu & đồng nghiệp: Genetic relationship of population in China. Proc. Natl. Acad. Sci.USA 1998 n. 95 tr. 11763-11768. Hình ảnh kèm theo: H.1 : Vỏ rùa tại Giả Hồ (BBC News) First attempt at writing on a tortoise shell H.2 : Chữ “Mục” ? (BBC News) H.3 : Ống sáo xương chim Giả Hồ (BBC News)
  2. Trích: Nguồn: Sách Kỹ thuật chăn nuôi một số động vật quý hiếm/Nhà xuất bản Lao động - Xã hội. "Anh Trần Đình Nhơn hiện là một cán bộ ngành lâm nghiệp, công tác tại Trung tâm Phát triển lâm nghiệp thuộc Sở NN&PTNT Lâm Đồng. Anh kể: "Tôi bắt đầu nuôi loại chim cảnh có tên là trĩ này từ năm 2000. Lúc đó, một người bạn đã tặng tôi một cặp trĩ trắng rất đẹp. Tiếp theo, có mấy người đồng bào dân tộc thiểu số ở Đạ Sar (huyện Lạc Dương) mang ra "gạ" bán cho tôi 3 con chim cảnh lạ còn non. Tôi đã mua nó với giá không rẻ nhưng điều quan trọng là vì 3 con này còn non quá không biết nó là trĩ hay chỉ là chim cun cút (chim trĩ với chim cun cút khi còn non khá giống nhau, rất khó phân biệt) nên cảm thấy hơi ngài ngại. Nhưng may quá, vài tháng sau tôi xác định được đó là trĩ đỏ". Anh Nhơn cho biết, điều quan trọng nhất đối với anh lúc đó là làm thế nào để nhân giống loài chim cảnh quý hiếm này. Bắt đầu từ đó, anh đã lục tìm các tài liệu nói về chim trĩ để nghiên cứu và áp dụng vào thực tế. Và kết quả thật bất ngờ cho đến lúc này, anh có thể sản xuất hàng loạt con giống. Mới đây, chúng tôi đã tìm đến nhà anh theo địa chỉ trên. Hôm chúng tôi đến, trong chuồng nuôi nhốt có đến 3 loài trĩ: Đỏ, trắng và xanh với số lượng tổng đàn đã lên đến khoảng 50 con, trong đó có 30 con mái (đa số đã trưởng thành và sắp trưởng thành). Chúng tôi quan sát: Trong chuồng lưới ở phía trước nhà, bầy trĩ có cảm giác như cái không gian ấy đã trở nên quá chật hẹp. Anh Nhơn bảo: "Đến lúc này tôi quả thực là không dám nhân giống nhiều vì chỗ nuôi nhốt không đảm bảo. Cũng đã có người đến "gạ" mua trĩ giống của tôi với giá khá hời nhưng hiện tôi chưa hoàn tất các thủ tục đăng ký nên không bán". Anh Xiêm đã dùng máy ấp trứng nhân giống thành công chim trĩ trong điều kiện nhân tạo Trĩ đỏ (tên khoa học: Phasianus colchicus) là loài động vật quý hiếm nằm trong Sách đỏ Việt Nam đang có nguy cơ tuyệt chủng. Từ hai cặp trĩ đỏ mua được ở Đà Lạt, anh Nguyễn Văn Xiêm (ở phường 1, thị xã Bảo Lộc, Lâm Đồng) đã nuôi và nhân giống thành công giống chim này tại nhà. Hiện nay trong chuồng nhà anh có hơn 70 con chim trĩ đủ loại. Giá chim trống 1 tháng tuổi là 500.000 đồng/con, chim lớn đã trưởng thành giá 1,5 triệu đồng/con. Các trung tâm du lịch sinh thái, các khu bảo tồn, vườn quốc gia và nhiều hộ gia đình đặt mua chim trĩ rất nhiều."
  3. Trích: Cỗi nguồn của văn minh đất nước Việt Nam - GS. Cao Thế Dung Nguồn: anviettoancau.net "Theo cổ sử Trung Hoa năm Tân Mão 1100 trước CN, đời vua Thành Vương nhà Chu, nước Việt Thường ở phía nam Giao Chỉ lại sai sứ đem chim Trĩ sang cống Thành Vương ở Hạo Phủ (Thiển Tây). Ðại Nam Quốc sử diễn ca của Lê Ngô Cát và Phạm Ðình Toái (sông Nhị Hà - 1949 - bản dịch của Hoàng Xuân Hãn), chép về nhà Hồng Bàng và sứ Việt Thường qua thăm nhà Chu Trung Hoa: Vừa đời ngang với Chu Thành Bốn phương biển lặng trời xanh một mầu thăm Trung Quốc thế nào? đem Bạch Trĩ dâng vào Chu Vương... Theo Hoàng Việt - Giáp Tý Niên biểu ghi Tân Mão là năm 1110 trước CN. Thư sử ký Tư Mã Thiên, sứ Việt Thường cống Chu Vương 3 con chim trĩ, đây là loại chim Phượng Hoàng ở dọc dẫy Trường Sơn - Trung Bộ Việt Nam, một con đực, 2 con cái, 1 con là Bạch trĩ, một con là Hoàng trĩ, một con Thanh trĩ. Trước đó, Trung Hoa không có loài chim trĩ này. Nhờ có 3 chim trĩ Việt Thường sinh sôi nẩy nở, Tầu mới có trĩ "sào nam", chim gốc từ phương Nam nên khi đậu trên cành, đầu nghoảnh về phương Nam do đó có câu “Chim Bắc đậu cành Nam". Về sứ Việt Thường Cống Chu Thành Vương chim trĩ, Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư ghi chú như sau: "Sứ ta xưng là Việt Thường Thị. Thành Vương là vua thứ tư nhà Chu sau Thái Vương, Văn Vương, Vũ Vương. Truyền thuyết nói Việt Thường Thị ở phương nam hiến chim trĩ trắng được thấy đầu tiên ở sách Thượng Thư đại truyện của Phúc Thắng và truyện Trúc Thư Kỷ niên. Truyện nầy được chép lại ở sách Hậu Hán Thư, Q.116 (Toàn Thư, T.I, tr.62). Về truyện Bạch trĩ, Lĩnh Nam Chính Quái chép như sau: "Về đời Chu Thành Vương nhà Chu, Hùng Vương sai bề đôi tự xưng là họ Việt Thường đem chim bạch trĩ sang hiến cống. Vì ngôn ngữ bất đồng, Chu Công phải sai sứ dịch qua nhiều lần mới hiểu nổi nhau. Chu Công hỏi: “Người Giao Chỉ cắt tóc ngắn, để đầu trần nhuộm răng đen là cớ làm sao?" Ðáp: "Cắt tóc ngắn để tiện đi trong rừng rú. Xâm mình để giống hình Long quân bơi lội dưới sông loài giao long không phạm tới. Cầy bằng dao, trồng bằng lửa. Ðể đầu trần để tránh lửa bụi. Ăn trầu cau để trừ ô uế cho nên răng đen vậy.” (xem :Vũ Quỳnh - Kiều Phú. Lĩnh Nam Chính Quái, ltđd, tr.48) Nhiều bộ cổ thư Trung Hoa chép về việc sử Việt Thường đến Trung Hoa cống chim trĩ sách Thượng Thư Ðại Truyện. Sách "Kim Bản Kim Chú" chép rằng "Sứ Việt Thường tới cống hiến bạch trĩ một con, hắc trĩ hai con, ngà voi một chiếc. Sứ giả quên mất đường về, Chu Công bèn ban cho bông hoa tấm, biểu xa 5 cỗ điểu chữ bằng tư nam. Khiến sứ giả cỡi xe đi về phương nam. Nối theo miền biển Phù Nam Lâm Ấp đúng một năm mới tới nước đó, sai quan Ðại Phu đưa về. Lại cỡi xe tư nam đi ngược lại hướng do xe chỉ, đầy một năm tới nước Chu. Trục xe và đầu trục xe điều chế bằng sắt, khi về tới nước Chu, sắt đều mòn cả.""
  4. Nguồn: http://www1.agu.edu.vn BẠCH TRĨ TRUYỆN <a name="381.png"> Chu Thành Vương thời, Hùng Vương mệnh kỳ thần xưng Việt Thường thị trì bạch trĩ dĩ hiến vu Chu. Ngôn lộ bất thông, Chu Công sử nhân trùng dịch nhi hậu thủy tri. Chu Công vấn viết: "Giao Chỉ chi nhân đoản phát văn thân, lộ đầu tiển túc, hà do nhược thử?". Việt Thường thị viết: "Giao Chỉ đoản phát dĩ tiện nhập sơn lâm. Văn thân vi Long Phủ chi hình, du vịnh ư thủy, giao xà bất cảm phạm. Tiển túc dĩ tiện duyên mộc. Đao canh hỏa chủng di tị viêm nhiệt. Thực tân lang dĩ trừ ô uế, cố thành hắc xỉ". Chu Công viết: "Hà vi nhi lai?" Sứ giả viết: "Thiên vô liệt phong dàm vũ, hải bất dương ba, kim tam niên hĩ, ý giả Trung Quốc hữu thánh nhân hồ? Cố lai!" Chu Công thán viết: "Chính lệnh bất thi, quân tử bất thần kỳ nhân; đức trạch bất gia, quân tử bất hưởng kỳ vật. Cập ký Hoàng Đế sở ngôn viết: Giao Chỉ phương ngoại, vô đắc xâm phạm". Thưởng dĩ trọng vật, giáo giới phóng hồi. Việt Thường thị vong kỳ quy lộ. Chu Công mệnh tứ biền xa ngũ thặng, giai vi chỉ nam chi chế. Sứ giả tải chi, do Phù Nam, Lâm Ấp hải tế, cơ niên nhi chí kỳ quốc. Cố chỉ nam xa thường vi tiên đạo. Hậu Khổng Tử tác Xuân thu, dĩ Văn Lang quốc bất minh phong hóa, bất quan chính giáo, bất tham vu triều chính trí chi bất khảo yên. (Lĩnh Nam chích quái liệt truyện; Quyển chi nhất) Dịch nghĩa TRUYỆN CHIM TRĨ TRẮNG Vào thời Chu Thành Vương, vua Hùng Vương sai bề tôi xưng là họ Việt Thường đem chim trĩ trắng sang dâng biếu nhà Chu. Vì ngôn ngữ bất đồng, Chu Công phải sai người qua mấy lần dịch rồi mới biết. Chu Công hỏi: "Người đất Giao Chỉ cắt tóc ngắn, vẽ trên mình, đầu để trần, đi chân không là tại làm sao vậy?". Họ Việt Thường đáp: "Người Giao Chỉ cắt tóc ngắn để tiện vào rừng núi. Vẽ trên mình thành hình dưới Long Phủ, để khi bơi lội trong nước, giao xà không dám xúc phạm. Đi chân không cho tiện leo cây. Cày bằng dao, trồng bằng lửa, đầu để trần cho khỏi nóng bức. Ăn trầu cau để trừ ô uế, nên thành răng đen". Chu Công nói: "Thế đến đây để làm gì?". Sứ giả đáp: "Trời không mưa dầm gió giật, biển không nổi sống to đã ba năm nay, y chừng Trung Quốc có thánh nhân chăng, vì vây mà đến!".Chu Công than rằng: "Chính lệnh không tỏa tới, kẻ quân tử không được xem người ta như bề tôi mình; đức trạch không gia thêm, kẻ quân tử không được ăn lễ vật của người ta. Còn nhớ lời Hoàng Đế nói rằng: Giao Chỉ là một đất xa lạ, không được xâm phạm họ". Rồi đem vật quí trọng tặng thưởng, dặn dò, chỉ bảo và để cho về. Chu Công sai ban cho năm cỗ biển xa, đều có bộ phận "chỉ nam" làm chuẩn. Sứ giả đi xe ấy, theo miền biển Phù Nam, Lâm Ấp, tròn một năm thì về đến nước. Cho nên xe "chỉ nam" thường dùng để đi trước dẫn đường. Về sau Khổng Tử viết sách Xuân thu, cho nước Văn Lang không được rõ về phong hóa, không liên quan tới chính giáo, không tham dự việc triều chính, nên gác lại mà không khảo cứu. (Lĩnh Nam chích quái liệt truyện; Quyển thứ I) TUẤN NGHI
  5. Sinh viên học gì về "VĂN HÓA"??: (Nguồn: http://www.vanhoahoc.edu.vn) Chương trình đào tạo cử nhân VĂN HÓA HỌC Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn thuộc Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh là một hệ thống kiến thức hoàn chỉnh được thiết kế có tính đến nhiều bình diện: Xem nội dung tại đây Nội dung mà sinh viên học về văn hóa học sẽ cho thấy các vấn đề xung quanh khái niệm "văn hóa" chính thức được nước ta công nhận như thế nào. Phoenix rất thích câu nói của chú Thiên Sứ: Một thứ không thể đúng khi tiền đề lập luận (áp dụng) nó chưa chính xác hoặc sai. "Văn hóa chửi" có phải là cụm từ dùng đúng hay không chắc chắn phải xác định văn hóa là gì? phạm vi bao trùm của nó là những gì theo định nghĩa "chuẩn nhất". Vậy thì có thể người Việt Nam ta đang nhìn nhận đúng (theo chương trình chính thống của quốc gia) hoặc là đã nhầm lẫn lung tung, lộn xộn hết mất rồi.
  6. Vài câu chuyện quanh chữ "văn hóa": 1. Từ câu chuyện của Anh Giản Tư Trung: Anh Giản Tư Trung - Giám đốc Học viện DN Pace chia sẻ câu chuyện thực: Gia đình anh 5 năm nay, năm nào cũng nhận được Giấy chứng nhận gia đình văn hóa. Nhận được Giấy chứng nhận thì nhiều gia đình cũng cảm thấy bình thường vì lối sống gia đình cũng có văn minh, tri thức. Song với trường hợp của gia đình Anh Trung thì nghĩ cũng buồn. Giấy chứng nhận gia đình văn hóa ghi tên người chủ cũ của căn nhà chứ không phải mang danh gia đình anh. :P 2. Câu chuyện "Chuẩn văn hóa" của tác giả Lê Đạo ".......Để hiểu rõ văn hóa là gì , tôi đã phải tìm trong bách khoa toàn thư định nghĩa của VĂN HÓA. Thì VĂN HOÁ là toàn bộ những hoạt động sáng tạo và những giá trị của nhân dân một nước, một dân tộc về mặt sản xuất vậtchất và tinh thần trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Thế mà cái văn hóa của những gia đình Việt Nam là thế nầy các bạn: QUY ƯỚC GIA ĐÌNH VĂN HÓA Để đạt được gia đình văn hóa. Gia đình tôi cần đạt 4 nội dung sau:: 1. Gia đình hoà thuận bình đẳng hạnh phúc ( không bỏ dấu phẩy!) 2. Thực hiện tốt nghĩa vụ công dân. 3. Thực hiện kế hoạch gia đình. 4. Đoàn kết tương trợ khu phố. .......... Để biết thêm về cái "ẤP VĂN HÓA" thì các bạn có thể nghiên cứu tấm biển sau: PHẤN ĐẤU GIỮ VỮNG ẤP VĂN HOÁ VỚI 6 NỘI DUNG 1. Nhân dân có đời sống ổn định xoá đói giảm nghèo. 2. Thực hiện tốt công tác đền ơn đáp nghĩa nhân đạo từ thiện. (cũng không chấm phẩy!) 3. Thực hiện tốt Pháp luật và chính sách của nhà nước. 4. Có đời sống văn hoá Tinh thần phong phú lành mạnh (cũng không chấm phẩy!) 5. Có môi trường cảnh quang sạch đẹp. 6. Có hệ thống chính trị vững mạnh. Qua những gì đã trình bày trên, quý vị có thế đối chiếu với định nghĩa về hai chử VĂN HÓA của nhà xã hội học người Anh E.B. Taylor :"Văn hóa hoặc văn minh là một chỉnh thể phức hợp bao gồm tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, pháp luật, tập tục và bất kì năng lực, thói quen nào khác mà con người cần có với tư cách là một thành viên của xã hội". .........." 3. Tâm sự của GS. Trần Quốc Vượng (phần chữ đậm, gạch chân là Phoenix thêm vào) " Mấy suy nghĩ về văn hoá học Việt Nam 1. Ai cũng biết, ở Việt Nam, văn hóa học (VHH) là một môn học tương đối mới. Người ta thường đánh giá sự trưởng thành của một môn học là khi nó được dạy và học ở một trường Đại học, nghĩa là có một đội ngũ - dù ban đầu còn ít ỏi - các chuyên gia đầu ngành về môn học đó để có thể giáo dục, truyền đạt văn hóa và đào tạo, xây dựng một / những lớp kế cận để duy trì và phát triển môn học đó. Tảng nền của một môn học bao giờ cũng là những tri thức bản địa, được làm phong phú thêm trong quá trình tác động qua lại (process of inter - action) giữa những nhân tố nội sinh (endogenous elements) và những nhân tố ngoại sinh (endogennous elements). Đôi khi hay nhiều khi ở các nước kém / đang phát triển khoa học chẳng hạn thì cái ngoại sinh cú hích văn hóa (cultural lrick) ban đầu lại có thể có tác dụng quan trọng, nếu không muốn nói là gần như quyết định đến sự phát triển nội sinh. 2. Trong viễn cảnh đó, với cái nhìn hồi tưởng (retrospective), tôi thấy môn Văn hóa học và Văn hóa Việt Nam được giảng dạy thử nghiệm ở Đại học Tổng hợp Hà Nội bắt đầu từ cuối thập niên 60 đầu thập niên 70 của thế kỷ XX tại khoa Sử và khoa Văn rồi sau đó được giảng dạy thường niên ở trường Đại học Văn hóa Hà Nội và trường Đại học Viết văn Nguyễn Du. Tôi nhớ lại, khi tôi nói đến môn Văn hóa học (Culturologie tiếng Pháp, Cultural Studies tiếng Anh - Mỹ) thì cả ông GS.TS Lê Văn Hảo tốt nghiệp Đại học Sorbonne Paris (1960) lẫn ông Đoàn Văn Chúc - sau trở thành một chuyên gia lớn về Xã hội học văn hóa ở Đại học Văn hóa Hà Nội ông Đoàn chủ yếu là tự học trên cái phông (fonds) formation Francaise (đào tạo theo kiểu Pháp) đều phản đối tôi, bảo rằng nền Đại học phương Tây không có môn Văn hóa học. Tôi nửa đùa nửa thật bảo ông Hảo, người ban đầu kiêu căng về cái bằng Tiến sĩ à la Sorbonne (thật ra là TS đệ tam cấp - Docteur Troisème cycle, Docteur en Histoire - 1960) của mình: - Ở Pháp, môn văn hóa học đã có sau khi anh rời Paris về Sài Gòn cuối năm 1963, sau khi ông Ngô Đình Diệm bị giết. - Tiếng Pháp gọi bằng chi, anh Vượng? - Culturologie! Rồi sau đó, tôi rủ anh Hảo và anh Nguyễn Tất Từ (tốt nghiệp Đại học danh tiếng Prague - Tiệp Khắc) viết cuốn sách Mùa xuân và phong tục Việt Nam (được xuất bản bởi Nxb Văn hóa Hà Nội đầu năm 1975), tiếp sau là viết cuốn Mùa thu và phong tục Việt Nam (với các lễ hội xá tội vong nhân Rằm tháng Bảy, tết Trung Thu, hội mùa hoa Cúc 9/9 - hội Rưới "tháng chín đôi mươi tháng mười mồng năm" và các hội Thả diều, Đua thuyền, tiếp đó là tết Cơm mới (Thường Tân) đầu tháng mười lịch Trăng (cuốn này còn ở dưới dạng bản thảo chưa được xuất bản vì một "trục trặc kỹ thuật"!). Lúc bấy giờ chúng tôi đã thực nhận: Lễ hội là một phần của văn hóa, một sinh hoạt văn hóa tổng hợp. Tiếp theo đó, là những bài tiểu luận của tôi, có sự đóng góp của Từ Chi, như Lễ hội dân gian trên miền quê đổi mới, Huyền tích ông Gióng và hội Gióng, Tày đăm - Tày khao (có sự đóng góp của Cầm Trọng và Hoàng Lương), Các hệ sinh thái nhân văn và nông nghiệp Việt Nam (có sự đóng góp của Vũ Tuấn Sán)... luận văn này đều được xuất bản (và tái bản) ở Pháp và in ấn ở nước ngoài... The legend of Ông Dóng, from the text to the field được Đại học Cornell (Mỹ) coi là the best, mẫu mực của văn hóa học dân gian Việt Nam cả về lý thuyết, phương pháp và thực tiễn (practice). Tạ Chí Đại Trường trong Thần, người và đất Việt dẫn tôi tới 5 lần đều không chỉ trích gì trong khi ông châm chọc rất nhiều học giả miền Bắc khác. Những năm sau, ở đầu thập niên 90 thế kỷ XX tôi đi sâu vào văn hóa ẩm thực (gastronomic culture), một ngành còn đang rất kém phát triển ở Việt Nam và thúc đẩy một phong trào nghiên cứu về văn hóa ẩm thực ở / về Hà Nội, Kinh Bắc, Huế, Trà Vinh, Tây Ninh... Đã xuất hiện nhiều luận văn sưu tầm nghiên cứu văn hóa ẩm thực Mường, Thái, Tày, Dao, Chăm... đạt mức luận văn, luận án thạc sĩ, tiến sĩ ở cả ba miền Nam, Trung, Bắc. 3. Như trên, tôi thức nhận: Một giảng viên đại học ở bất cứ cấp độ nào phải vừa là nhà nghiên cứu khoa học, vừa là người giảng dạy tốt và luôn luôn cập nhật trình độ nghiên cứu trên thế giới, để Việt Nam hội nhập dễ dàng và thanh thoát với thế giới trong khi vẫn giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, luôn chấp nhận sự đa dạng văn hóa (cultural diversity) trong công cuộc / quá trình đối thoại giữa các nền văn hóa - văn minh (dialogue among cultures and civilisations), muốn thế và bên cạnh đó, cần thông thạo ít nhất hai ngoại ngữ, 1 Đông, 1 Tây - như lời Bác Hồ căn dặn khi lần đầu đến thăm Đại học Tổng hợp Hà Nội. 4. Tháng 4-1980, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội đã cho ra mắt Trung tâm nghiên cứu liên văn hóa (sau đổi thành chương trình nghiên cứu liên văn hóa) do tôi làm Giám đốc. Trong tờ trình gửi Hiệu trưởng và Ban Giám hiệu Nhà trường ĐHTH HN, tôi đã lấy một luận điểm cơ bản của UNESCO - 1980 để luận giải về cái tên của Trung tâm và phương hướng của việc nghiên cứu và giảng dạy của trung tâm tôi. Đó là: "Every cultural studies / are intercultural studies" (mọi nghiên cứu văn hóa đều là nghiên cứu liên văn hóa). Điều đó phù hợp với cái "tạng" của tôi là sự hiểu biết đa ngành và sự tiếp cận liên ngành. 5. Một "cú hích ngoại sinh" khác rất quan trọng là UNESCO phát động trên toàn thế giới một thập niên văn hóa (1987-1997) và khuyến nghị việc dạy Văn hóa học trong các nhà trường. Việt Nam hưởng ứng kế hoạch này (có phần chậm) và Phó thủ tướng Nguyễn Khánh ký Nghị định về việc giảng dạy Văn hóa học trong các trường Đại học. Năm 1993, Đại học quốc gia Hà Nội đã cử tôi làm Trưởng môn Văn hóa học ở trường Đại học đại cương. Ngay lập tức, tôi bắt tay cùng nhiều bạn đồng nghiệp xây dựng chương trình Văn hóa học đại cương và cơ sở văn hóa Việt Nam, tổ chức giảng dạy môn học này (có tập tư liệu in kèm theo thành sách) ở các trường Đại học Tổng hợp, Đại học Sư phạm Hà Nội, Đại học Ngoại ngữ Hà Nội, Đại học Bách Khoa... Giáo trình Cơ sở văn hóa Việt Nam được bộ Giáo dục - Đào tạo cho dạy thử nghiệm và sau khi sửa chữa, được in ấn, tới nay nó đã được tái bản 8 lần. 6. Sau khi trường Đại học đại cương giải thể, việc dạy Văn hóa học có phần chệch choạc, Sau đó khoa Sử - ĐHKHXH&NV thành lập Trung tâm nghiên cứu liên văn hóa do tôi làm Giám đốc và Bộ môn Lịch sử văn hóa do tôi làm Chủ nhiệm, nay đổi tên là Bộ môn Văn hóa học. Lịch sử văn hóa Việt Nam là một đề tài đặc biệt của Đại học Quốc gia Hà Nội và đã được nghiệm thu xuất sắc. 7. Trên một thập kỷ xây dựng ngành Văn hóa học Việt Nam có lúc thăng lúc trầm nay đã dần được đi vào ổn định, tuy lực lượng còn mỏng và nhiều học giả vẫn muốn thành lập khoa Văn hóa học ở trường Đại học KHXH&NV thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội. Điều đó còn tùy thuộc ở trên, chúng tôi là dân chuyên môn chỉ biết làm chuyên môn, dù là ở trong thể chế nào cũng được. Ăn thua là ở việc xác định những nền tảng lý thuyết, những phương pháp tiếp cận và đầm mình vào thực tiễn văn hóa của tất cả các tộc người hiện sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam, trong mối tương liên, tương tác với các nền văn hóa trên toàn thế giới - nay đã trở thành Làng toàn cầu (The global village) theo quan niệm của UNESCO. a) Tôi cho rằng chúng ta nên kiên trì giữ vững và đào sâu tìm hiểu hơn nguyên lý Tương đối luận văn hóa (cultural relativism) và nguyên lý mẹ của nền văn hóa Việt Nam. :P Chúng ta cần tiếp cận Nền văn hóa Việt Nam cả về phương diện lịch đại (diachronic) và về phương diện đồng đại (synchronic). Về mặt lịch đại, chúng ta đã từ bỏ và cần kiên quyết từ bỏ cái lý thuyết đã lỗi thời (over time) về tiến hóa luận đơn tuyến (mono - linear evolution) để tiến lên lý thuyết "mạng" (net) đa dạng mà người ta cho rằng cái khái niệm mới Hetrerarchy là rất thích hợp trong việc tiếp cận các cấu trúc kinh tế - xã hội - văn hóa của Đông Nam Á và Việt Nam. Viết lịch sử văn hóa Việt Nam, tôi kiên trì việc sử dụng khái niệm Diễn trình lịch sử thay vì khái niệm Tiến trình lịch sử. Gần đây nhất, ở một Hội nghị quốc tế, tôi đã có một bản tham luận nhan đề Văn hóa Việt Nam triển nở trong bối cảnh Đông Nam Á và Đông Á mà các bạn phiên dịch rất khó chuyển ngữ sang tiếng Anh. Đây không phải là vấn đề "chơi chữ", "lập dị" mà kết quả của một sự nghiền ngẫm lâu dài, cốt chuyển tải sát đúng nhất tư duy Văn hóa học của tôi. Về mặt đồng đại, cùng với khái niệm Không gian xã hội mà Georges Condominas phát triển trong luận văn tiến sĩ 1980 từ một luận điểm của thầy mình là E.Durkheim, tôi thấy nên dùng khái niệm Không gian văn hóa, nói đúng hơn là Không - Thời gian văn hóa liên tục (continuum tempo - spatial) theo cách nhìn của A.Einstein. Từ đó tôi đã triển khai Cái nhìn địa - văn hóa đối với Việt Nam, đồng hình với cách tiếp cận về Area studies của Mỹ - Nhật. Area ở đây được hiểu theo nghĩa hẹp (các vùng đa dạng trong một văn hóa thống nhất, ví dụ, cùng với Fukui Hayao - nhà nông - sinh thái học nổi tiếng của Nhật Bản - tôi đã phân lập một vùng khô (dry area) Ninh - Bình Thuận, 1 trong 6 vùng khô của 1 Đông Nam Á vốn ẩm ướt - gió mùa (monsoon Asia). Cùng với Đào Thế Tuấn, Từ Chi, tôi nhìn châu thổ (chứ không phải là đồng bằng) Bắc Bộ với các vùng chiêm trũng, vùng đồng mùa, vùng nước lợ duyên hải...). Như vậy là chúng ta cần có cái nhìn Văn hóa học, Khảo cổ học khuôn trong cái nhìn Bối cảnh - Môi sinh hay là cái nhìn Văn hóa - Khảo cổ khuôn trong cái sinh thái nhân văn (Ecological / contesctual airchaeologys cultural studies). Cùng với tôi, sinh viên đã được học Đào Thế Tuấn, Mai Đình Yên, Hà Hữu Nga,... Về các vấn đề này và tôi đã biên soạn xong tập giáo trình chuyên ngành Con người - Môi trường - Văn hóa - Khảo cổ sắp được xuất bản nay mai... Cũng là như vậy, tôi với Vương Xuân Tình, Vũ Thế Long, Nguyễn Thị Bảy... đã đi theo xu hướng nghiên cứu văn hóa ẩm thực Việt Nam - Hà Nội trên nền tảng các hệ sinh thái nhân văn ba miền Nam - Trung - Bắc. Đặc biệt, đối với miền Trung, tôi đã nhìn các tiểu quốc của Madala Chămpa trong cái nhìn các tiểu vùng văn hóa - được giới hạn bởi vùng núi (Tây) - vùng biển (Đông) và các đèo, một đèo, một đèo, lại một đèo, theo hướng Bắc - Nam. Đấy gọi là Quy hoạch theo dòng sông (rirverine planning), được các học giả Nhật Bản và Đông Nam Á rất tán thưởng. Trong hội nghị quốc tế ở Singapore (8-2004) về Newscho larship on Chămpa và hội nghị quốc tế về Việt Nam học lần thứ 2 tại TP.HCM, GS. Momoki Shiro, từ Đại học Osaka, đã nói đến một "trường phái Trần Quốc Vượng" ở Việt Nam như "trường phái Yumio Sakurai" ở Nhật Bản. Không biết có phải thế không? Điều chắc chắn, là tôi luôn luôn cố gắng khai phá, mở đường cho những cái nhìn mới về Văn hóa - Sử - Địa học Việt Nam với một giọng điệu phi cổ điển và có phần phi chính thống. Ví như theo tôi, ta có thể đề cập đến thời đại "Grand Commerce" (thế kỷ XVI, XVII, XVIII) ở Đàng Ngoài dưới cái nhìn các phức thể (coplex) Rokbo (độc bộ) vùng lưu vực sông Đáy, phức thể Domea (Đò Mè) vùng lưu vực sông Thái Bình để tiến đến cái đa phức thể (multiplex) Kinh Kỳ - Phố Hiến. Trước đó, khi nghiên cứu Lam Kinh, tôi cùng các đồng sự như Nguyễn Quốc Tuấn, Nguyễn Tiến Đoàn đã đề cập đến Không gian văn hóa Lam Sơn; và gần đây, khi tìm hiểu vùng Dương Kinh của nhà Mạc ở miệt biển Kiến Thụy - Hải Phòng, tôi đã đề cập đến một Không gian Văn hóa Dương Kinh được khép trong một tứ giác nước: Biển - sông Đa Độ - sông Văn Úc. Tôi đã đặt ra lý thuyết Tứ giác nước - không phải không có người dè bửu - để từ đó, cùng Vũ Hữu Minh (đã quá cố), Từ Chi soi tỏ cố đô Cổ Loa, cùng Nguyễn Mạnh Lợi soi tỏ cố đô Hoa Lư, cùng các nhà Hà Nội học soi tỏ Thăng Long - Đông Kinh - Hà Nội là một thành phố sông hồ, cùng các nhà Huế học "nhìn" cố đô Phú Xuân - Huế không chỉ với dòng Hương Giang mà đặt ở trong khung tứ giác Bạch Yến, sông Đông Ba, sông Bồ - ngã ba Sình và phá Tam Giang - Cầu Hai... Từ đó, tôi đã gần như chín mùi và đã có thể truyền dạy cho các thế hệ kế tục về tư duy sông nước của người Việt cổ truyền, được GS W.O. Wolters Anh và Đại học Cor Well Mỹ rất tán đồng. Các nhà nghiên cứu Pháp về Hà Nội đã đăng bài nghiên cứu của tôi về Hà Nội dưới tiêu đề Hà Nội trong sông nước châu thổ Bắc Bộ (Ha Noi dans les eau du delta tonkinois) và cho đó là một dị bản của cái nhìn phong thủy (variante d'une vue geomantique) mới về Hà Nội. Cũng có thể là như thế! c) Như vậy, có thể nói từ thập kỷ 80 của thế kỷ trước, khi tôi đã được phong hàm Giáo sư sử học sau những xì xào bàn tán về những ứng xử "quảng giao" hay "tạp giao" liên ngành, hay "tạp lục". Tôi không ngại va chạm, không sợ dè bỉu, theo phương châm "chó cứ sủa, đàn cừu (ngây ngô như tôi) cứ đi". Đi đâu? Bằng cách liên kết liên cơ quan, bằng cách tiếp cận liên ngành (intedisciplinary approach) - Tôi vẫn mệnh danh thời đại mà chúng ta đang sống là thời đại Inter: International - Internet - mà tôi dịch là Liên: Liên kết, liên ngành, liên quốc gia, dân tộc... d) Về mặt thực tiễn - điền dã, tôi đã đi hầu khắp các miền của Tổ quốc, từ cực bắc Lũng Cú đến cực nam Mũi Cà Mau, từ cực Đông Đảo Gốm đến cực Tây Pu la san Mường Tè - Lai Châu... người ta bảo tôi đi nhiều, đọc nhiều, nói nhiều, viết nhiều... có thể là như vậy? Cùng với Nguyễn Khắc Viện, tôi lấy việc đọc - đi - chơi - học hỏi làm lẽ sống. Và rằng nếu anh / chị biết kết hợp học - hỏi - hiểu - hành của tư duy Hồ Chí Minh vừa đi đường vừa kể chuyện, nếu biết kết hợp vừa đi, vừa chơi, vừa học hỏi, vừa làm việc thì, theo chúng tôi, như thế là "ngộ đạo", "đắc đạo". Viết bài này, cũng như khi chủ biên cuốn Khoa Sử và Tôi, tôi vừa viết để cho đời vừa viết để chơi. Có gì không phải, mong các bạn lượng thứ... Trần Quốc Vượng Theo vanhoanghethuat.org.vn" Mặc dù khá tôn trọng những kiến thức và đóng góp của GS. Trần Quốc Vượng, nhưng phải thật lòng mà nói rằng: Không hiểu, một giáo sư sử học, văn hóa học - một giảng viên của nhiều thế hệ thanh niên Việt Nam (trong đó có Phoenix cũng là học trò) - được coi là một trong tứ trụ (LÂM - LÊ - TẤN - VƯỢNG) của ngành sử học Việt Nam lại có thể viết những bài viết, bài nghiên cứu để "Chơi". Phoenix thì chưa đủ tư cách, nhưng văn hóa Việt thì làm thế nào đây để "lượng thứ"????? 4. Lại về Giáo sư Trần Quốc Vượng và cuốn "Cơ sở văn hoá Việt Nam" Về một cuốn giáo trình “công phu” và “đáng giá” Nguồn: http://viet-studies.org/ Nguyễn Hoà Những năm gần đây, trong các trường đại học, Cơ sở văn hóa Việt Nam là môn học mới được xây dựng và đưa vào giảng dạy. Song có lẽ vì đó là môn học quá mới và cũng vì quá sức, nên một số tác giả tham gia biên soạn cuốn giáo trình Cơ sở văn hóa Việt Nam do GS Trần Quốc Vượng chủ biên đã tỏ ra thiếu nghiêm túc, bởi họ tuỳ tiện sử dụng tài liệu của tác giả khác, cụ thể hơn là tình trạng “đạo văn” trong cuốn sách là hết sức trầm trọng. Tiếp sau bài viết Về một cuốn giáo trình “công phu” và “đáng giá” của tôi đăng trên báo Thể thao - Văn hóa, trên báo Văn nghệ và tạp chí Nghiên cứu Văn hóa dân gian một số tác giả khác cũng đã lên tiếng phê phán tình trạng này, đưa tới kết quả là cuốn sách được biên soạn lại một cách rất “mập mờ”. Thú vị thay, khi cuốn sách tái bản, tôi cũng được nhận được một lời cảm ơn (không rõ có thật sự chân thành?) và còn thú vị hơn nữa là gần mười năm nay, cuốn sách “đạo văn” một cách bừa bãi này vẫn được sử dụng làm giáo trình để dạy và học trong các trường đại học. Điều này làm tôi tự hỏi, sinh viên của chúng ta sẽ nghĩ gì khi biết rằng họ đã tiếp thu tri thức về văn hóa dân tộc qua một cuốn sách “đạo văn”? Báo Thể thao và Văn hóa số 75 (855, ra ngày 16.9.1997) có đăng bài Cơ sở văn hóa Việt Nam - một giáo trình được soạn thảo công phu của Nguyễn Thị Minh Thái. Theo tác giả, cuốn Cơ sở văn hóa Việt Nam(1) không chỉ được “soạn thảo công phu” mà cùng với cuốn Văn hóa học đại cương và cơ sở văn hóa Việt Nam(2) được xem là “hai công trình rất đáng giá” do GS Trần Quốc Vượng (GS TQV) chủ biên với sự tham gia của một nhóm cộng tác và phụ tá. Có thể nói nhận xét của Nguyễn Thị Minh Thái được đưa ra khi chị chưa đọc kỹ cả hai công trình, đặc biệt, chưa đọc chúng trong tương quan với những công trình nghiên cứu văn hóa khác. Ở đây xin không bàn tới cuốn Văn hoá học đại cương và cơ sở văn hoá Việt Nam, vì lẽ cuốn sách chưa phải là một giáo trình đại học, mới chỉ là một “tập tài liệu để tham khảo, giảng dạy và học tập trong các trường đại học”. Cuốn sách này có 622 trang, chỉ dành 11 trang để phác thảo mục tiêu, nội dung, khuyến nghị sử dụng chương trình, còn 611 trang là tập hợp các bài viết, các công trình nghiên cứu của 35 tác giả bàn về văn hoá và văn hoá Việt Nam. Như vậy, nó chưa đáp ứng được những yêu cầu tối thiểu của một giáo trình trong tư cách là “toàn bộ những bài giảng về một bộ môn khoa học”. Đọc cuốn sách Cơ sở văn hoá Việt Nam (GS TQV), rất dễ nhận ra những phần do GS Trần Quốc Vượng và GS TS Tô Ngọc Thanh biên soạn, vì đây không những là một bộ phận trong vốn tri thức uyên bác của các ông, đồng thời còn là một trong những điều tâm huyết của các ông lâu nay, như các phần: Con người - Chủ thể của văn hóa, Văn hóa và môi trường tự nhiên, Vùng văn hóa Tây Bắc, Vùng văn hóa Tây Nguyên… Điều đáng buồn là trong một số phần còn lại, đã có tác giả không thật sự cố gắng đầu tư công sức và đã tiến hành những thao tác không thể có trong biên soạn giáo trình. Nhận xét này sẽ là “quá lời” nếu không chứng minh được cơ sở của nó. Vậy chúng ta hãy xem xét: Từ trang 41 đến trang 46 của Cơ sở văn hoá Việt Nam (GS TQV) phần nói về Giao lưu và tiếp xúc văn hóa trong văn hóa Việt Nam, tác giả đã chép lại nguyên văn nhiều đoạn trong các trang 3,4,5,7,8,11,15 của Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á số 4 (17) năm 1994. Đây là phần tổng quan của Đề tài khoa học cấp Nhà nước KXO6 - 15 do GS Phạm Đức Dương viết. Tác giả chép lại cả mô hình của quan hệ: Truyền thống - Tiếp xúc - Đổi mới của bài tổng quan và chép theo nguyên tắc: đoạn nào phù hợp thì chép cả đoạn, đoạn nào ít phù hợp thì chép lấy một câu cần thiết, đôi khi có biến báo một vài từ mà không làm sai lệch về nghĩa. Sự sao chép kể trên vẫn còn có chút chọn lọc, tác giả cũng cố gắng thoát ly khỏi tài liệu sử dụng song không thoát ra được! Nguyên tắc sao chép này tiếp tục được thể hiện ở các trang 51, 52, 53, 54 khi tác giả chép lại các trang 26, 27, 28, 29 của cuốn sách Cơ sở văn hóa Việt Nam(3) do PGS TS Trần Ngọc Thêm (PGS TS TNT) biên soạn. Ví dụ vài đoạn: - Trang 28 Cơ sở văn hoá Việt Nam (PGS TS TNT) viết: “Đó chính là đầu mối của tư duy tổng hợp. Tổng hợp kéo theo biện chứng - cái mà người nông nghiệp quan tâm không phải là tập hợp các yếu tố riêng rẽ, mà là những mối quan hệ qua lại giữa chúng. Tổng hợp là bao quát được mọi yếu tố, còn biện chứng là chú trọng đến các mối quan hệ giữa chúng. Người Việt tích luỹ được một kho kinh nghiệm hết sức phong phú về các loại quan hệ này: Trời đang nắng, cỏ gà trắng thì mưa; quạ tắm thì ráo, sáo tắm thì mưa…”. - Trang 53 Cơ sở văn hoá Việt Nam (GS TQV) viết: “Đó chính là đầu mối của tư duy tổng hợp. Tổng hợp kéo theo biện chứng. Cái mà người nông nghiệp quan tâm không phải là tập hợp các yếu tố riêng rẽ mà là những mối quan hệ qua lại giữa chúng. Tổng hợp có nghĩa là bao quát được mọi yếu tố, còn biện chứng là chú trọng đến mối quan hệ giữa chúng… Người Việt tích luỹ được một kho kinh nghiệm hết sức phong phú về các loại quan hệ này mà chứng tích là các câu tục ngữ: Trời đang nắng, cỏ gà trắng thì mưa; quạ tắm thì ráo, sáo tắm thì mưa…”! Hoặc ở một đoạn khác: - Trang 27 Cơ sở văn hoá Việt Nam (PGS TS TNT) viết: “Mỗi thái độ đều có mặt hay và mặt dở của nó. Tôn trọng tự nhiên có cái hay là giữ gìn được môi trường sống tự nhiên nhưng có cái dở là khiến con người trở nên rụt rè, e ngại. Coi thường thiên nhiên có cái hay là khuyến khích con người dũng cảm đối mặt với thiên nhiên, khuyến khích khoa học phát triển nhưng có cái dở là hủy hoại môi trường. F.Enghels trong cuốn Phép biện chứng của tự nhiên đã nhận ra rằng “Con người là một phần của tự nhiên”, và kêu gọi: Vấn đề của con người không phải là chiến thắng tự nhiên mà là sống trong sự hoà hợp có ý thức và tế nhị với tự nhiên”. Trang 53 Cơ sở văn hóa Việt Nam (GS TQV) viết: “Mỗi thái độ đều có mặt hay và mặt không hay của nó. Tôn trọng tự nhiên thì gìn giữ được môi trường sống tự nhiên nhưng lại khiến con người trở nên rụt rè, e ngại thậm chí tôn sùng. Coi thường tự nhiên thì khuyến khích con người dũng cảm đối mặt với tự nhiên, khuyến khích khoa học phát triển nhưng lại hủy hoại môi trường. Có lẽ nên nhìn nhận “Con người là một phần của tự nhiên… sống trong một sự hoà hợp có ý thức và tế nhị với tự nhiên” (Anghen)”! Đến phần Các thành tố văn hoá (từ trang 56 đến trang 67) thì tình trạng không thể chấp nhận được, phần này đáng lẽ phải mang tên PGS TS Trần Ngọc Thêm. Vì lẽ, tác giả biên soạn đã chép lại một cách “không thương tiếc” những gì mà PGS TS Trần Ngọc Thêm đã trình bày trong cuốn giáo trình của ông. Công phu duy nhất của người biên soạn là chép, lắp ghép những đoạn thích hợp! ở một vài phần khác, kết quả nghiên cứu của GS Đinh Gia Khánh, PTS Ngô Văn Doanh… cũng được chép lại ít nhiều. Và đáng buồn hơn, khi viết về Nho giáo, đạo Lão - Trang, tác giả cũng chép lại của hai GS Ngô Vinh Chính và Vương Miện Quý (từ các đoạn trích trong Văn hoá học đại cương và cơ sở văn hoá Việt Nam - GS TQV), thậm chí còn chép sai! Ví dụ: - Trang 548 Văn hoá học đại cương và cơ sở văn hoá Việt Nam (GS TQV) hai vị Giáo sư Trung Hoa viết: “Hạt nhân tư tưởng triết học Nho gia là Nhân và Lễ. “Nhân giả nhân dã” (kẻ có nhân ấy là con người vậy)” và ghi chú là lời Mạnh Tử. - Trang 97 Cơ sở văn hoá Việt Nam (GS TQV) viết: “Hạt nhân tư tưởng Nho gia là Nhân và Lễ. Mạnh Tử khẳng định “Nhân giả, nhân dã” (kẻ ác nhân ấy là con người vậy)”. Khi viết rằng Mạnh Tử coi kẻ ác nhân ấy là con người vậy, tác giả biên soạn phần này không những đã chứng tỏ mình đã viết một điều không hiểu và qua đó còn xuyên tạc một quan niệm hết sức quan trọng của Mạnh Tử về con người. Phải nói rằng, những đoạn cóp nhặt, sao chép như đã dẫn ở trên, có mặt tràn ngập trong nhiều phần của Cơ sở văn hoá Việt Nam (GS TQV), trong phạm vi một bài báo nhỏ không thể dẫn ra nhiều. Hoàn toàn có thể coi tác giả các phần này đã tuỳ tiện xâm phạm tới bản quyền của người khác, bởi vì tuyệt nhiên không thấy chúng được đặt trong ngoặc kép hoặc được ghi chú nguồn tài liệu, tác giả. Cũng cần nói thêm, cuốn Cơ sở văn hoá Việt Nam (GS TQV) còn nhiều bất cập như không thống nhất trong bút pháp của cả cuốn sách, thể hiện rất rõ tính “tập thể” của công trình, nên có phần mang phong cách hàn lâm, có phần lại mang phong cách trữ tình! Mặt khác, cần tránh việc dẫn lại quan niệm của người khác kèm theo một lời bình chú dễ gây hiểu lầm không cần thiết, như: “Thực ra ý này đầu tiên là của…” hoặc “Thực ra ý này của GS TQV…”. Kiểu dẫn như trên dễ làm cho người đọc nghi ngờ quan niệm được trích dẫn và còn cảm thấy có điều không bình thường! Sau khi cuốn Cơ sở văn hoá Việt Nam (GS TQV) được xuất bản, một số người đọc đã bất bình về “công phu” xào xáo của một vài tác giả tham gia biên soạn. Tháng 10. 1997, cuốn sách tiếp tục được in ở NXB Đại học Quốc gia với một hình thức trang nhã hơn. Đặc biệt, những phần sao chép quá lộ liễu đều được ghi chú một câu rất mơ hồ: “Bài này chúng tôi sử dụng kết quả nghiên cứu của PGS TS Trần Ngọc Thêm…”, “Chúng tôi dựa vào kết quả nghiên cứu của GS Đinh Gia Khánh…”, “Chúng tôi sử dụng kết quả nghiên cứu của Lương Ninh… Ngô Văn Doanh…”. Kế thừa kết quả nghiên cứu của người khác vốn là việc bình thường trong khoa học, nhưng về nguyên tắc mọi trích dẫn đều phải tuân thủ các yêu cầu của sự trích dẫn. ở đây, dường như tác giả cho rằng việc “sử dụng kết quả nghiên cứu” của người khác bao gồm cả việc potocopi thoải mái. Có gì đó thật khôi hài vì mấy ai lại “sử dụng kết quả nghiên cứu” của người khác nhiều đến thế! Xin nói thêm, tác giả vẫn không sòng phẳng và trung thực ở phần chép lại của GS Phạm Đức Dương trong đề tài KXO6 - 15, hoàn toàn không có ghi chú gì, phải chăng do tài liệu này ít người biết đến! Cuối cùng xin nói rằng, điều đáng tiếc là GS Trần Quốc Vượng đã không đọc kỹ bản thảo và quá tin tưởng vào một vài cộng sự để họ đã làm tổn hại tới uy tín của ông. ---------------------------- 1. Cơ sở văn hoá Việt Nam - GS Trần Quốc Vượng (chủ biên) - NXB Giáo dục, H. 1997. 2. Văn hoá học đại cương và Cơ sở văn hoá Việt Nam - GS Trần Quốc Vượng (chủ biên) - NXB Khoa học Xã hội, H.1996. 3. Cơ sở văn hoá Việt Nam - PGS TS Trần Ngọc Thêm - Trường Đại học Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, xuất bản năm 1999." Đến đây, thấy "văn hóa" nhức đầu roài đó :(
  7. Nhân chủ đề của anh (chú) Trần Phương đưa ra, Phoenix mạn phép góp vài thông tin nho nhỏ bàn luận chủ đề này. Để xem có nên dùng hai chữ "văn hóa" gán cho mọi thứ trên đời hay không?? Xin có vài thông tin liên quan đến chữ "VĂN HÓA": VĂN HÓA LÀ GÌ????? Phải nói định nghĩa được khái niệm "văn hóa" không hề đơn giản tẹo nào kể cả ở Phương Đông cũng như Phương Tây. Ở mỗi góc độ và tầm nhìn khác nhau, người ta lại đưa ra một cách nhìn nhận xem ra có vẻ giống nhau hoặc là chẳng giống nhau chút nào. Điều đó cho thấy tính trừu tượng rất cao của khái niệm này. Và nếu chẳng hiểu nó là gì thì việc sử dụng nó (chỉ nói riêng về mặt từ ngữ khái niệm) cũng có thể sẽ thành khiên cưỡng hoặc tùy tiện. Dưới đây Phoenix xin trích số ít ỏi trong những định nghĩa, khái niệm, quan điểm về "VĂN HÓA" mà Phoenix sưu tầm được trong nhiều năm qua vì thời gian hiện tại chưa cho phép Phoenix tham luận sâu vào chủ đề này. Giới thiệu một số quan điểm để tham khảo: (phần chữ đậm gạch chân là do Phoenix thêm vào) 1. Bài viết trong Tạp chí văn hóa nghệ thuật: "Khái niệm văn hóa đang trở thành thông dụng, nhưng định nghĩa của nó dường như bao giờ cũng tuột khỏi chúng ta. Dù sao sự phát triển của nó cũng gắn chặt với sự phát triển của các khoa học về con người. Năm 1952, hai nhà nhân học Mỹ, Alfred Kroeber và Clyde Kluckhohn, trong một nỗ lực tìm hiểu, đã công bố một cuốn biên soạn về những ý đồ định nghĩa khái niệm văn hóa – hay những khái niệm gần gũi với nó – trong khoa học xã hội: họ tìm thấy không dưới 164 định nghĩa. Sự khác nhau của chúng không chỉ là ở bản chất của định nghĩa đưa ra (bởi nội dung, chức năng, các thuộc tính), mà cả ở những cách sử dụng tương đối rộng rãi của từ này. Theo A. Kroeber và C. Kluckhon, ít ra có hai cách sử dụng. Một cách, thừa kế triết học thời Khai Sáng, gọi di sản học thức tính luỹ từ Thời Cổ mà các dân tộc phương Tây tin chắc là đã dựng lên nền văn minh của họ trên đó, là “văn hóa”. Cách sử dụng kia, chuyên về nhân học hơn, thì gọi là văn hóa “toàn bộ những tri thức, những tín ngưỡng, những nghệ thuật, những giá trị, những luật lệ, phong tục và tất cả những năng lực và tập quán khác mà con người với tư cách thành viên của xã hội nắm bắt được”, theo định nghĩa được coi là chuẩn do Edward B. Tylor đưa ra năm 1871. Hai nghĩa này của từ văn hóa vẫn tiếp tục cùng tồn tại khá yên ổn qua những cách dùng hàng ngày của chúng ta. Nhưng từ đầu thế kỷ XIX, khi dự án phát triển một khoa học về con người đã hình thành, thì những ai đảm đương gánh nặng ấy đã phải chịu những bó buộc giống nhau: tìm hiểu cả tính thống nhất lẫn tính đa dạng của giống người. ở đây, khái niệm văn hóa chiếm một vị trí ngày càng tăng do đã đẩy ra khỏi trường khoa học khái niệm tôn giáo “linh hồn”, khái niệm chính trị “quốc gia” hay khái niệm theo thuyết tự nhiên “chủng tộc”. Như vậy, sự vận động của các khoa học xã hội và nhân văn, trong trường của chúng, có thể được đồng hóa với sự vận động đi lên của khái niệm văn hóa như là đối tượng tri thức và thực thể độc lập, và có những cách giải thích riêng của nó. Dù rất co dãn, khái niệm văn hóa mang theo một vài giả định căn bản. Giả định thứ nhất là văn hóa đối lập với tự nhiên. Cái văn hóa trong con người là cái dường như không có ở những sinh vật khác: tiếng nói có âm tiết, năng lực tượng trưng, sự hiểu biết. Nếu những khả năng ấy tạo thành cái riêng của con người, thì đó không phải chỉ là chúng không có ở động vật mà còn vì chúng được truyền đi theo những con đường khác với tính di truyền: bằng luyện tập, tiếng nói, bắt chước, tất cả những gì mong manh, dễ biến dạng và có thể đảo ngược mà tính di truyền sinh học và mã di truyền không thể có. Văn hóa chống lại chủng tộc Mới cách đây vài chục năm, thật thông thường khi đặt tên cho một cuốn sách có tính chất tộc người học bằng công thức ‘Phong tục và tập quán của…’, tiếp theo là tên một cư dân, không kể lớn nhỏ: một nhóm, một tộc người, thậm trí dân cư một nước hay cả một lục địa. Ngày nay, người ta có lẽ sẽ viết “Thử bàn về văn hóa của những…”. Đây không chỉ là một sắc thái. Bất chấp tính co dãn của nó, khái niệm văn hóa thật ra chuyển tải những định nghĩa khác ngoài “phong tục” và “tập quán”. Trong nhân học, nó được dựng lên không chỉ như một đối tượng tư duy với nội dung thay đổi qua thời gian, mà như một công cụ phê phán: trước hết chống lại các lý thuyết chủng tộc, rồi chống lại thuyết tiến hóa. Năm 1871, khi E.B.Tylor đề nghị định nghĩa văn hóa bằng một công thức phức hợp (“một tổ hợp toàn bộ gồm những tri thức, những tín ngưỡng, nghệ thuật, luật pháp, phong tục và những năng lực hay tập quán khác do con người có được với tư cách thành viên của xã hội”), thì từ quan trọng trong đó là “có được”. Làm như vậy, ông đã bác bỏ cách nhìn chung đối với những mô tả chủng tộc, coi nguồn gốc của “phong tục và tập quán của những dân dã man nhất là cấu tạo thể chất của họ, là ảnh hưởng của khí hậu đối với cấu tạo này hay đối với cấu trúc đơn giản nhất mà được giả định của bộ não họ. Ông đã dứt khoát phá bỏ sự liên kết dù còn mờ mịt, nhưng đã cắm sâu vào đầu những nhà nhân học “thể chất”, giữa “chủng tộc” và “phong tục”. Hơn thế nữa, chỉ riêng việc gán một nền ‘văn hóa” cho tất cả các dân đáng được quan sát cũng đã phá bỏ sự phân chia thế giới thành những dân “văn minh”. một bên, và những dân “tự nhiên”, một bên khác. Một cách đơn giản hơn, E.B.Tylor đã đặt những cột mốc lấy văn hóa làm thuộc tính chung cho cả loài người. Tuy nhiên, giống với nhiều người khác vào thời ông, E.B.Tylor vốn là một người theo thuyết tiến hóa: tính đa dạng của các văn hóa đối với ông là một bảng danh mục những tàn tích của một lịch sử tiến bộ lâu dài đưa tới nền văn minh hiện đại. Như vậy, tất cả các “văn hóa” không phải ở cùng một giai đoạn: giống như đối với Lewis H.Morgan hay Robert Lowie, những người cùng thời với ông, đã có những văn hóa “hoang dã”, “man dã” và “văn minh”. Chúng không ngang nhau trước lịch sử, và sự phân chia ấy đã trải qua một con đường dài, vượt xa cả các lý thuyết tư biện làm chỗ dựa cho chúng: khái niệm “xã hội nguyên thuỷ” đã tiếp tục sống sau khi văn hóa tìm được khái niệm cân bằng với nó (tức “Văn hóa nguyên thuỷ” – BT) trong động thái tiến bộ thế giới. Tầm quan trọng của khái niệm văn hóa còn tăng thêm khi vào năm 1896, chuyên gia về các xã hội da đỏ châu Mỹ Franz Boas tấn công vào những cách nhìn so sánh của những người theo thuyết tiến hóa. Ông thấy là quá đáng khi đặt các văn hóa trên một thang văn minh và thậm chí so sánh chúng với nhau.mỗi xã hội phải được xem xét từ bản thân nó, trong số phận của nó và do đó, văn hóa của nó chỉ có thể dựa vào tính riêng biệt của nó đối với một nhóm người nào đó, thậm chí như người ta viết hiện nay, căn tính của nó Đối với ông, . Và từ cách nhìn kinh nghiệm ấy đẻ ra, một cách trực tiếp nhiều hơn hay ít hơn, hai cách dự định nghiên cứu văn hóa khác: ‘chủ nghĩa duy văn hóa” Mỹ và “chủ nghĩa chức năng” Anh. Văn hóa để làm gì? Trong nhiều biến thể về ý nghĩa mà từ “văn hóa” gánh lấy, có một biến thể được thể hiện bằng thành ngữ “có văn hóa”. ở thế kỷ XX, “có văn hóa” là nắm được tri thức văn học, nghệ thuật và khoa học. Nhưng trong những bối cảnh khác, văn hóa không chỉ có nghĩa là tri thức. Thậm chí còn ngược hẳn lại, đó là một ứng xử không thể giải thích được, như khi người ta khẳng định rằng “đến chậm những cuộc hò hẹn là một nét văn hóa Latin”. Tóm lại, ngay cả khi mọi văn hóa đều mang một phần tri thức, thì chủ yếu đó là tri thức ấy là đối tượng của một niềm tin có ý thức nhiều hay ít, do nó đóng vai trò “văn hóa” và quyết định hành động. Như nhà nhân học Roy d’Andrade nhấn mạnh, có một văn hóa không có nghĩa như có một hiểu biết về nội dung của văn hóa ấy. Chẳng hạn, một người Âu có thể biết thế nào là “bỏ vợ” nhưng việc bỏ vợ ấy không phải là một phần văn hóa của anh ta. Nói cách khác, mối quan hệ giữa một người với văn hóa của anh ta không chỉ là một mối quan hệ tri thức: trong trường hợp này, nó mang một phần của sự đánh giá, của cái đã trải qua, của thái độ đối với việc “bỏ vợ”. Mặt khác, bỏ vợ không chỉ là một qui tắc cho phép một người đàn ông tống cổ vợ khỏi cửa. Thể chế này được bao bọc một tập hợp những biểu tượng về các quan hệ giữa các giới tính, về sự thống trị của nam giới. Tóm lại không được lầm lẫn khái niệm văn hóa với tổng số những tri thức được một nhóm người nào đó chia sẻ. Nếu hiểu như vậy thì văn hóa là một tác động tới cái cách mà chúng ta suy nghĩ và hành động. Do đó, văn hóa có nhiều chức năng mà về chi tiết có thể nêu lên như sau: - Chức năng “biểu tượng”: mọi văn hóa chuyển tải tổng số quan trọng những tri thức và tín ngưỡng đối với thế giới bao quanh ta, cũng như cái cách thế giới ấy vận hành và biến đổi; - Chức năng xây dựng: văn hóa làm tồn tại những thể chế như hôn nhân, tiền bạc, luật pháp, ngôn ngữ mà chúng ta chấp nhận (hay không chấp nhận) những hệ quả của chúng. - Chức năng hướng dẫn: bằng cách nhập tâm, văn hóa thúc đẩy chúng ta tới chỗ tuân theo những chuẩn mực hành vi. Sự tuân theo ấy gắn liền với nhiều kiểu khen thưởng: cá nhân, đạo đức, xã hội. - Chức năng gợi ý (évocative): đối mặt với các sự kiện, văn hóa của chúng ta làm cho chúng ta cảm nhận những tình cảm, thể hiện những thái độ, do đó, mọi yếu tố văn hóa đều mang những xúc cảm. Những xúc cảm này có thể là tự nhiên, nhưng cái cách chúng ta sống (bằng cách che giấu chúng hay giải thoát chúng) cũng liên hệ với văn hóa chúng ta. Việc thử định nghĩa rất rộng này về văn hóa và về tất cả những gì được gán cho nó đưa tới chỗ làm cho văn hóa trở thành một hiện thực tinh thần hơn là vật chất; nó không chỉ nằm ở các đồ vật, các thiết bị, các tượng trưng, mà còn ở các biểu tượng cố định trong các nào chúng ta. Tuy nhiên, đó không phải là những “nhận thức” đơn giản, mà là một tập hợp những biểu tượng huy động “toàn bộ đời sống tâm thần”, từ trí tuệ đến hành động, từ suy luận đến xúc cảm, như R. d’Andrade viết. Điều đó có hệ quả là có nhiều góc nhìn hoàn toàn thích hợp để có thể mô tả cái chúng ta hiểu là văn hóa: từ những đồ vật nó chứa đựng (các tác phẩm, các tri thức, các tín ngưỡng v.v…), từ những thể chế và chuẩn mực được nó sử dụng, hoặc từ những thiết bị và những ứng xử do nó cai quản. Theo Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật" 2. Trích LỜI GIỚI THIỆU của GS. PHẠM ĐỨC DƯƠNG - Chủ tịch Hội Đông Nam Á học Việt Nam,Tổng biên tập tạp chí “Việt Nam & Đông Nam Á ngày nay”,Nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu Đông Nam Á, tham gia giảng dạy về Văn hóa học ở một số trường Đại học về cuốn sách Tìm Về Bản Sắc Văn Hóa Việt Nam của Gs. Trần Ngọc Thêm "...Là nhân tố quan trọng trong nền sản xuất tổng hợp, văn hóa như chất keo kết dính các mối quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội… tạo nên hình hài và bản sắc mỗi dân tộc, mỗi quốc gia. Văn hóa có khả năng bao quát một cách trực tiếp, đảm bảo tính bền vững của xã hội, tính kế thừa của lịch sử và không bị trộn lẫn ngay cả khi hội nhập vào những cộng đồng lớn hơn. Trong quá trình hội nhập thế giới, trong khi khoa học kỹ thuật càng nhất thể hóa bao nhiêu thì, ngược lại, văn hóa lại càng được khu biệt bấy nhiêu. Như những dòng sông, văn hóa của các dân tộc bền bỉ tích luỹ, thâu nhận, gạn lọc tinh hoa từ muôn dặm nẻo, không ngừng chuyển tải và biến đổi, không ngừng giao lưu và mở rộng để rồi góp phần của riêng mình vào đại dương văn hóa mênh mông của nhân loại. Nếu như ta hiểu văn hóa là tất cả những gì do con người sáng tạo ra trong quá trình ứng xử với tự nhiên và xã hội thì mọi cái liên quan đến con người đều có mặt văn hóa của nó. Chả thế mà ngày nay chúng ta có tới mấy trăm định nghĩa về văn hóa, và trong khoa học nhân văn không có một khái niệm nào lại mơ hồ như khái niệm văn hóa. Văn hóa đã tồn tại cùng với quá trình phát triển loài người, nhưng thế giới mới chỉ xây dựng bộ môn văn hóa học từ cuối thế kỷ 19 với nhiều quan điểm, nhiều cách tiếp cận, nhiều trường phái khác nhau. Ở Việt Nam, bộ môn văn hóa học cũng chỉ mới hình thành gần đây; trước đó chỉ có những công trình về lịch sử văn hóa, nhưng khá tản mạn, thiếu hệ thống và chưa dựng được bức tranh toàn cảnh về cấu trúc văn hóa trong quốc gia đa dân tộc Việt Nam. Khó khăn lớn nhất của bộ môn văn hóa học là việc xác định đối tượng và phương pháp tiếp cận thích hợp." Và định nghĩa của Giáo sư Trần Ngọc Thêm phổ biến trong các nhà trường: "VĂN HÓA là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội." (Cơ sở văn hóa VN - giáo sư Trần Ngọc Thêm) 3. Trích: Vấn Đề Văn Hóa Gốc Nguồn Việt Nam - Trần Xuân Ninh Khi nói về văn hóa các tác giả Việt Nam đều nói về cái hay cái đẹp của văn hóa. Trong tự điển Thiều Chửu chữ "văn" được định nghiã là "cái dấu vết do đạo đức lễ nhạc giáo hóa mà có vẻ đẹp rõ rệt" như văn minh, văn hóa. Chữ "hóa" là cảm hóa. Chuyển di tính chất, cải lương dân tục gọi là hóa. ...". "Lấy ân nghĩa mà cảm gọi là đức hóa, lấy lễ giáo mà cảm gọi là văn hóa". Trong bài "Văn hóa là gì", giáo sư Nguyễn Vô Kỷ đã định nghĩa văn hóa như sau: "Từ ngữ văn hóa là một tiếng Tàu đọc theo giọng Việt, tức tiếng Hán Việt. Nó gồm chữ văn nghĩa là đẹp, hay, khéo léo, và chữ hóa nghĩa là thay đổi, biến đổi. Nói chung thì: Văn hóa là tất cả những cái gì đã được làm thành đẹp, tốt, hay." . Giáo sư Kỷ đã khai diễn thêm: "Văn hóa là sự lựa chọn cái đẹp, cái hay giữa những gì con người tìm thấy trong thiên nhiên, và sự lưạ chọn này có ý thức"... "Mỗi cộng đồng có một văn hóa cho phép nó phân biệt với cộng đồng khác"... Và "Văn hóa được gắn liền với dân tộc. Một dân tộc sẽ biến mất nếu văn hóa của nó bị mất vì sẽ không còn gì để định nghiã và nhận diện nó nữa" ..... Học giả Đào Duy Anh có một định nghĩa ngắn gọn và khách quan về văn hóa, không ăn nhập gì với nguyên nghĩa chữ văn và chữ hóa như là tự điển Thiều Chửu: "Hai tiếng văn hóa chỉ chung các phương diện sinh hoạt của loài người. Văn hóa tức là sinh hoạt. Vì rằng các sinh hoạt của các dân tộc không giống nhau nên văn hóa các dân tộc khác nhau...." Định nghĩa này rất gần với những định nghĩa trong sách vở hay tự điển Tây phương. Hãy lấy một định nghĩa trong tự điển The American Heritage dictionary để so sánh: Văn hóa (culture) là "toàn bộ những mô thức hành xử truyền đi trong xã hội, nghệ thuật, tín ngưỡng, định chế và tất cả những thành phẩm khác của việc làm và tư tưởng con người đặc thù của một cộng đồng hay một dân tộc." (the totality of socially transmitted behavior patterns, arts, beliefs, institutions, and all other products of human work and thought characteristic of a community or population). Ta nhận thấy không có nói gì "hay, đẹp, tốt" trong những định nghĩa này...." 4. Theo http://vi.wikipedia.org "Văn hóa là một khái niệm mang nội hàm rộng lớn, liên quan đến mọi mặt của cuộc sống con người và do vậy có rất nhiều cách hiểu. Về mặt từ nguyên, nghĩa của văn là xăm thân, và nghĩa gốc của văn hóa là nét xăm mình mà qua đó người khác nhìn vào để nhận biết mình. Theo bộ Từ Hải (bản năm 1989) thì văn hóavăn trị và giáo hóa[1]. Theo ngôn ngữ của phương Tây, từ tương ứng với văn hóa của tiếng Việt (culture trong tiếng Anh và tiếng Pháp, kultur trong tiếng Đức,...) có nguồn gốc từ các dạng của động từ Latin colere là colo, colui, cultus với hai nghĩa: (1) giữ gìn, chăm sóc, tạo dựng trong trồng trọt; (2) cầu cúng [2]. vốn là một cách biểu thị chung của hai khái niệm Trong cuộc sống hàng ngày, văn hóa thường được hiểu là văn học, nghệ thuật như thơ ca, mỹ thuật, sân khấu, phim ảnh... Các "trung tâm văn hóa" có ở khắp nơi chính là cách hiểu này. Một cách hiểu thông thường khác: văn hóa là cách sống bao gồm phong cách ăn mặc, ăn uống, cư xử và cả đức tin, tri thức được tiếp nhận.... Vì thế chúng ta nói một người nào đó là văn hóa cao, có văn hóa hoặc văn hóa thấp, vô văn hóa. Trong nhân loại học và xã hội học, khái niệm văn hóa được đề cập đến theo một nghĩa rộng nhất. Văn hóa bao gồm tất cả mọi thứ vốn là một bộ phận trong đời sống con người [3]. Văn hóa không chỉ là những gì liên quan đến tinh thần mà bao gồm cả vật chất. Văn hóa liên kết với sự tiến hóa sinh học của loài người và nó là sản phẩm của người thông minh (homo sapiens). Trong quá trình phát triển, tác động sinh học hay bản năng dần dần giảm bớt khi loài người đạt được trí thông minh để định dạng môi trường tự nhiên cho chính mình. Đến lúc này, bản tính con người không không còn mang tính bản năng mà là văn hóa. Khả năng sáng tạo của con người trong việc định hình thế giới hơn hẳn bất kỳ loài động vật nào khác và chỉ có con người dựa vào văn hóa hơn là bản năng để đảm bảo cho sự sống còn của chủng loài mình. Con người có khả năng hình thành văn hóa và với tư cách là thành viên của một xã hội, con người tiếp thu văn hóa, bảo tồn nó đồng thời truyền đạt nó từ thế hệ này sang thế hệ khác. Việc cùng có chung một văn hóa giúp xác định nhóm người hay xã hội mà chúng ta là thành viên." 5. <h1 class="cssDefaultTitle">Trích: "Khái niệm và bản chất của văn hóa" của tác giả Nguyễn Trần Bạt, Chủ tịch Tổng giám đốc, InvestConsult Group </h1>".....Tôi cho rằng văn hóa, nói một cách giản dị, là những gì còn lại sau những chu trình lịch sử khác nhau, qua đó người ta có thể phân biệt được các dân tộc với nhau. Thông qua mỗi một chu kỳ của sự phát triển, dân tộc đó tương tác với mình và với những dân tộc khác, cái còn lại được gọi là bản sắc, hay còn gọi là văn hóa. Ở đây, tôi gần gũi với cựu Tổng Giám đốc UNESCO Federico Mayor khi ông đưa ra một định nghĩa: "Văn hóa phản ánh và thể hiện một cách tổng quát và sông động mọi mặt của cuộc sống (của mỗi cá nhân và cả cộng đồng) đã diễn ra trong quá khử cũng như đang diễn ra trong hiện tại, qua hàng bao thế kỷ, nó đã cấu thành một hệ thông các giá trị, truyền thống thẩm mỹ và lối sống mà dựa trên đó từng dân tộc tự khẳng địinh bản sắc riêng của mình". Văn hóa là một hiện tượng khách quan, là tổng hoà của tất cả các khía cạnh của đời sống. Ngay cả những khía cạnh nhỏ nhặt nhất của cuộc sống cũng mang những dấu hiệu văn hóa. Rất nhiều thứ mới thoạt nhìn thì giống nhau, nhưng nếu xem xét kỹ thì lại có những điểm riêng biệt. Trong thực tế, không có sự giống nhau tuyệt đối..." 6. Trích: "Văn hóa là gì, Văn hóa khép nép" "Từ Điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng 1995, có nói, văn hoá là, tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử. Dù là loại nào đi nữa thì một tập họp nhiều giá trị không phải là văn hoá. Văn hoá không phải là giá trị. Định nghĩa thứ hai trong tự điển trên cũng có nói, văn hoá là, những hoạt động của con người nhằm thoả mãn nhu cầu đời sống tinh thần. Hình như đây là định nghĩa của khái niệm giải trí. Dù là loại nào đi nữa thì một tập họp nhiều hoạt động không phải là văn hoá. Văn hoá không phải là hoạt động. Định nghĩa ba có nói, văn hoá là, tri thức, kiến thức khoa học. Định nghĩa này vô dụng hoá cụm từ văn hoá. Nếu văn hoá là tri thức, kiến thức thì từ nay trở đi, không ai cần phải dùng cụm từ văn hoá nữa. Định nghĩa bốn có nói, văn hoá là, trình độ trong sinh hoạt xã hội. Nhưng trình độ là mức độ và mực độ là giá trị. Một lần nữa, văn hoá không phải là giá trị dù là loại nào đi nữa. Định nghĩa thứ năm có nói, văn hoá là, nền văn hoá. Thế là huề tiền Nói tóm lại, từ điển tiếng việt 1995, chưa định nghĩa được, văn hoá là gì. Đây là một điều đáng tiếc vì từ điển là một trong những phương tiện quan trọng nhất cho văn hoá. Văn trong văn hoá có nghĩa là lời văn, câu văn. Hoá có nghĩa là biến hoá, tiến triển. Nghĩa đen của văn hoá là sự biến hoá thành văn chương. Điều này cần thiết vì đó là cách truyền đạt lối sống và nếp nghĩa từ những thế hệ trước sang các thế hệ sau. Nếu sự truyền đạt nằm trong vòng một thế hệ mà thôi thì nó là một phong trào chứ không phải là văn hoá. ĐỊNH NGHĨA: Văn hoá là sự truyền đạt xuyên qua biên giới thế hệ. Chính vì thế nên từ điển là một trong những phương tiện quan trọng nhất cho văn hoá. Ai cũng có thể nhìn thấy được giá trị của một nền văn hoá bằng cách đánh giá cuốn từ điển quan trọng nhất của nền văn hoá đó. Bạn nghĩ sao về một nền văn hoá mà trong đó từ điển của nền văn hoá đó không định nghĩa được, văn hoá là gì? Bạn nào có từ điển tốt nhất tiếng Việt xin vui lòng cho vào Đại Gia Đình Văn Hoá nội dung định nghĩa của từ văn hoá. Xin cho biết năm xuất bản, nhà xuất bản, và tên từ điển. " Cultural Cringe Dịch: TSGGML Soạn: Minh Duy 7. Một số định nghĩa khác: Không văn hóa nào có thể tồn tại nếu nó tìm cách trở nên độc tôn. - Mahatma Gandhi. Tôi không muốn ngôi nhà của mình bị vây kín giữa những bức tường và những khung cửa sổ luôn luôn bịt chặt, tôi muốn văn hóa của mọi miền đất tự do thổi vào ngôi nhà đó. Nhưng tôi sẽ không bị cuốn đi bởi bất cứ ngọn gió nào. - Mahatma Gandhi. Văn hóa là sự mở mang trí óc và tâm hồn. - Jawaharlal Nehru. Văn hóa là tất cả các hình thái của nghệ thuật, tình yêu và suy nghĩ, những thứ mà trong sự tồi tệ cũng như trải qua bao nhiêu thế kỷ đã khiến cho con người trở nên ít bị nô dịch hơn. - Andre Malraux. Văn hóa là tiếng khóc của con người khi đối mặt với số phận. - Albert Camus. Văn hoá là cái gì còn lại khi tất cả những cái khác bị quên đi, là cái vẫn thiếu khi người ta đã học tất cả. - Edouard Herriot. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu của đời sống và đòi hỏi sinh tồn - Hồ Chí Minh. Văn hóa là nếp suy nghĩ của một dân tộc. - Lê Anh Huy
  8. Nhân dịp khai trương diễn đàn lyhocdongphuong.org.vn, Phoenix mở topic LUẬN QUẺ THEO THƠ - VĂN để góp vui. Phương pháp này được sử dụng bằng cách dùng từ các vần thơ, câu thơ, tứ thơ hay văn do người hỏi cung cấp để luận các vấn đề mà người hỏi có nhu cầu. Đây là phương pháp còn trong giai đoạn thử nghiệm nên độ chính xác có thể chưa đạt cao và không tránh khỏi thiếu sót. Vì vậy, bạn nào muốn thử nghiệm mà chưa thỏa ý xin vui lòng thông cảm. Thể lệ: - Người muốn hỏi cần tự tạo ra một đoạn thơ (tối thiểu 2 câu) hoặc văn (tối thiếu 5 câu). Có thể dùng những câu đã sáng tác ra từ trước nhưng phải do chính mình tạo ra và thường thì câu mới tạo đem lại sự chính xác cao hơn. Trong trường hợp dữ liệu sáng tác không đủ để luận có thể phải cung cấp thêm. Văn, thơ không cần hay, miễn là tự tạo và người tạo hài lòng - Việc cần hỏi phải ghi rõ ràng, mỗi câu một ý. Có thể hỏi về tâm trạng, tính chất sự việc, tương lai sự việc. - Người hỏi có thái độ nghiêm túc, thiện chí, tôn trọng thứ tự. - Một số câu hỏi có thể bị từ chối trả lời vì các lý do tế nhị hoặc do sáng tác không tạo đủ cảm ứng để luận. Chúc các bạn những ngày tốt lành!
  9. Anh Đào Tùng có thể mô tả khu vực gia đình đang tìm không? Theo Phoenix thì di cốt không ở nơi hy sinh.
  10. Phoenix có lần tham gia buổi giới thiệu về "văn hóa doanh nghiệp" của học viện doanh nhân PACE do anh Giản Tư Trung trình bày. Trình bày hết một ngày lòng vòng, anh Trung kết luận: "Văn hóa là ... là dzậy đó". Cái "dzậy đó" là những ví dụ mà theo anh nó thể hiện sự văn hóa của con người. Anh Trung có nói với Phoenix: "giảng thì vậy chứ làm văn hóa doanh nghiệp khó lắm. Chủ yếu là ông sir phải hiểu mới làm được" Cá nhân Phoenix cảm thấy hơi tiếc cho buổi giảng của anh Trung vì anh nói cả một ngày trời rồi cuối cùng chính anh cũng chẳng định nghĩa được "văn hóa nó là cái gì?". Vậy thì làm sao có thể dạy doanh nghiệp làm "văn hóa doanh nghiệp". Hai chữ "văn hóa" này quả là chủ đề lớn. Vài hôm nữa rảnh Phoenix sẽ pót thêm mấy bài :(
  11. Cá nhân Phoenix với những gì được biết về hai chữ "văn hóa" trong hơn mười năm tìm hiểu thì đọc topic thấy thật là buồn. :(
  12. Hồng nhan bạc phận Chiều ngày 28/6/2008, một cô gái trẻ đã rơi từ tầng 9 tòa nhà Mathatan và thiệt mạng. Cô ấy là siêu mẫu Ruslana Korshunova, ngôi sao của tạp chí thời trang Vogue đang ở đỉnh cao sự nghiệp. Điều gì đã gây nên cái chết thương tâm của Korshunova? Cô tự tử hay bị ám sát? Siêu mẫu Ruslana Korshunova "Nàng công chúa" của làng người mẫu thế giới Ruslana Korshunova sinh ngày 2/7/1987 (còn vài ngày nữa là đến sinh nhật Ruslana Korshunova), tại thành phố Kazakhstani thuộc nước Nga. Cô được phát hiện bởi Debbie Jones cách đây 5 năm khi cô chụp ảnh cho câu lạc bộ tiếng Đức ở Kazakhstani. Cô thông thạo tiếng Nga, Đức và tiếng Anh. Mái tóc xoăn dài cùng đôi mắt xanh hút hồn đã đưa cô trở thành siêu mẫu. Các chương trình thời trang lớn, cô luôn bước đi tự tin trên sàn catwalk với vẻ đẹp rực rỡ. Cô cũng tham gia thực hiện quảng cáo của các hãng: DKNY, Vera Wang, Christian Dior …Tại Vogue cô được ví như “the next big thing” – điều to lớn sắp tới. Cô đang trên đỉnh cao sự nghiệp của mình và sẽ còn bay cao, bay xa. Cái chết bất ngờ … phải chăng cô đã bị ám sát? Mái tóc xoăn dài cùng đôi mắt xanh hút hồn đã đưa Ruslana Korshunova trở thành siêu mẫu Thế nhưng, chiều ngày 28/6/2008, Korshunova đã thiệt mạng khi rơi từ tầng 9 tòa nhà Manhattan nơi cô đang sống. Cái chết của cô diễn ra vô cùng bất ngờ. Người đi đường chỉ nhận ra có người rơi xuống khi họ nghe thấy một tiếng động vô cùng lớn khi cả cơ thể cô đập mạnh vào mặt đường bê tông. Ông Steva Metzger, 36 tuổi, người có mặt tại đó cho biết: “Tất cả những gì tôi nhìn thấy là một cái gì đó chuyển động ở trên cao, phía trên tầm mắt…. và … Boom. Âm thanh khi cô ấy đâm xuống mặt đất nghe giống như tiếng trống vậy”. Với anh Patrich, 32 tuổi, công nhân làm việc gần đó thì: “Tôi nghe một âm thanh giống như tiếng súng, tiếng bom, hay một vụ nổ vậy”. Vị trí Korshunova rơi xuống và ban công đáng ngờ Cửa sổ nơi cô rơi xuống có một ban công nhỏ. Khi xem xét cấu trúc xây dựng của ban công thì người ta phát hiện có những vết cắt. Cô rơi xuống trong tình trạng chân không mang giày và mặc một chiếc áo tím cùng quần jeans, không có vẻ gì là cô đang chuẩn bị cho một cuộc tự tử. Thế nhưng, theo điều tra của cảnh sát, không hề có dấu hiệu của sự xô xát nào diễn ra bên trong căn hộ. Và đến ngày chủ nhật, họ kết luận rằng cô chết do tự sát. Những người bạn thân của Korshunova thật sự sốc “Không thể nào, cô ấy không thể tự sát được” - Kira Titeneva một người bạn thân của Korshunova vừa khóc vừa nói - “Cô ấy yêu cuộc sống này biết bao. Tôi còn nói chuyện với cô ấy vào tối thứ 6 mà, chúng tôi luôn tâm sự những điều thầm kín nhất. Cô ấy là một thiên thần, cô ấy chăm chỉ hơn bất kỳ ai, luôn chú tâm làm việc, làm việc và làm việc”. Một người bạn thân khác của cô, xin được giấu tên nói: “Cô ấy là người dễ thương và dịu dàng mà tôi từng được biết, tôi vẫn còn sốc khi nghe tin này. Thế giới đã mất một người tuyệt vời.” Người bạn này còn cho biết thêm là Korshunova vừa trở về từ buổi trình diễn tại Paris và mọi chuyện đều rất tốt đẹp. Người gác cửa tòa nhà cô đang sống, Mahmoud Nakeeb, 45 tuổi cho biết: “Cô rất vui vẻ khi về nhà vào sáng thứ 7. Cô ấy cười, luôn luôn mỉm cười, không có một chút chán nản, thất vọng nào trên gương mặt cô ấy cả. Tôi cảm thấy thật tệ hại. Cô ấy còn quá trẻ và xinh đẹp”. Theo những người bạn của Korshunova thì việc cô tự tử là không thể nào, mọi chuyện đều tốt đẹp và ngọt ngào với cô: thành công, thăng tiến, xinh đẹp và cô yêu cuộc sống… Cô đã tự tử vì … tình? Có thật rằng sự việc luôn đúng như những gì vẻ ngoài chúng ta nhìn thấy? Một người luôn mỉm cười thì có chắc rằng người đó luôn hạnh phúc. Ai cũng có những mặt trái luôn được giấu kín. Với Korshunova, mặt trái trong tâm hồn cô được thể hiện qua những dòng nhật ký trên mạng. Trong đó, cô viết rất nhiều về tình yêu, cuộc sống, về những cảm giác “đau đớn” và hụt hẫng”. Một số trích đoạn trong nhật ký của cô: “Nhưng anh sẽ không để cuộc sống của anh cạnh một người khác, đúng không?” Cô còn viết “Tình yêu là mù quáng, nó đốt cháy những linh hồn, và luôn có câu trả lời cho tất cả” Những đoạn viết này được viết bằng 2 thứ tiếng, đoạn thì bằng tiếng Nga, đoạn khác lại bằng tiếng Anh. "Đừng nhầm lẫn tình yêu và mong ước. Tình yêu là mặt trời còn mong ước chỉ là ánh đèn flash. Đèn flash chỉ làm ta chói mắt, còn mặt trời sẽ đem đến sự sống” hay “Tình yêu không phải là thứ để lấy đi từ tay người này rồi trao cho một người khác. Tôi lạc lõng. Tôi sẽ không bao giờ tìm lại được chính mình”. Có những dòng đầy đau đớn, tuyệt vọng, những cũng có những khi trong cô đầy sự giận dữ. “Tôi là một con…. Tôi là một phù thủy. Tôi không quan tâm đến điều anh nói” hoặc “ Tôi biết rằng đó là cái gì. Tôi biết tại sao những mối quan hệ của tôi không tiến triển. Bởi vì tôi không thể đoán trước được. Tại sao bạn sợ điều đó?” và “Điều đó thật đau đớn, cứ như có ai đó lấy đi một phần cơ thể tôi, xé nó ra ngoài, cuốn phăng nó bằng những cơn lốc xoáy… để tất cả vung vãi khắp nơi.” Rõ ràng, bên trong cô không ngọt ngào và dịu dàng như những điều chúng ta nhận thấy bên ngoài. Nhưng những cảm xúc đó, không có gì là rõ ràng cả. Đó là tình yêu của cô dành cho một ai đó, hay là những tình cảm bâng quơ bất chợt…Tình yêu với nhiều đau đớn hay một người giấu mặt hay chiếc ban công có vết cắt là điều đã đẩy cô gái trẻ xinh đẹp khỏi ban công tầng 9 của tòa nhà Manhattan? Theo Ivyxlove(nguồn: tintuconline.com)
  13. Cô gái đẹp này ra đi với rất nhiều bàn tán. Đa số cho rằng cô ấy tự giải thoát vì bế tắc trong tình yêu. Cô ấy có khiếm khuyết đáng tiếc: quá nhiều nốt ruồi, và đôi mắt buồn. Không biết ai có thể tìm giúp Phoenix giờ sinh của cô ấy không?? Thanks nhiều!
  14. "Lớp bùn nhầy nhụa" trong thế giới "chân dài" (nguồn: Giaitri24.vn) Người mẫu Nga nổi tiếng Ruslana Korshunova Lối thoát bi kịch của một người mẫu trẻ tại New York mới đây, phần nào đã phơi bày nội tình của thế giới những người mẫu quốc tế: Nghiện ngập ma túy, những dã thú mặt người, sự cô độc và dễ bị ăn hiếp. Đường cùng của một người mẫu nổi danh Hôm 28/6 vừa qua, người mẫu Nga nổi tiếng Ruslana Korshunova, 20 tuổi, đã tìm đến cái chết bằng cách nhảy từ ban công căn hộ tầng 9 tại Manhattan - New York xuống đất. Một nhân chứng có mặt tại nơi người mẫu Korshunova "tự vẫn" nói, thi thể nhuốm máu của cô vẫn rất đẹp "ngay cả khi nằm trên đường phố". Cô gái mắt xanh, có khuôn mặt trẻ thơ, chỉ còn 4 ngày nữa là tới sinh nhật 21 tuổi, cuối cùng cũng chỉ giống như một món hàng tại thành phố gồm hàng trăm người mẫu lộng lẫy, mà trong đó hầu hết là dân nhập cư. Dù cảnh sát khẳng định cái chết của Korshunova là tự tử và các bạn bè nói cô đang ở "trên đỉnh của thế giới", thì các bài báo trên các tờ Daily Telegraph của Anh đến Los Angeles Times của Mỹ đều lưu truyền giả thuyết rằng mafia Nga đã giết hại người mẫu đắt giá này vì cô muốn rời ngành thời trang. Tuy nhiên, mafia Nga - những kẻ có liên quan với các vụ bắt cóc và tống tiền các tuyển thủ quốc gia khúc côn cầu giàu có - có lẽ chỉ là một trong số những mối nguy hiểm trong "thế giới dã thú" mà những người mẫu trẻ phải đối mặt. Theo những người trong ngành, thế giới đó là một cái nồi áp suất đầy các nhà quản lý, nhà tài trợ và các thợ chụp ảnh bất chính. "Ngành công nghiệp này dường như không có tội lỗi", Tatiana, một người mẫu 19 tuổi viết trong bài "Vết trượt của người mẫu" đăng trên trang Jezebel.com. "Một người mẫu khác nói với tôi rằng cô ấy nghe thấy một người tạo dáng nói về Korshunova bất hạnh cũng giống như giọng mà anh ta nói về "thảm họa tăng cân" gần đây của một người mẫu khác. Cô gái khốn khổ Korshunova cũng đi theo con đường nghề nghiệp cơ bản đối với người Đông Âu - rời nhà năm 15 tuổi và làm việc để gửi tiền về nhà cho gia đình khốn khó. Cô thậm chí còn mua cho gia đình một ngôi nhà bằng số tiền kiếm được. Khi còn ở độ tuổi thiếu niên, Korshunova đã xuất hiện trên trang bìa của tạp chí Vogue của Nga và Elle Paris. Cô gái trẻ từng làm mẫu trong các quảng cáo cho DKNY, Vera Wang và Christian Dior."Đó thật sự là một bi kịch", Noel Ashman, một nhân vật có máu mặt trong thế giới đêm tại New York, chủ hộp đêm Plumn nói. "Tất cả đều muốn có phần trong đó". Noel Ashman còn là nhà sản xuất phim, chủ hộp đêm và là nhà đầu tư bất động sản ở New York. "Các cô gái là con mồi của tất cả mọi người, và tất cả mọi người đều có chương trình riêng của họ", nhà cựu tài trợ nói với ABC. "Phần lớn các cô gái đều từ những quốc gia khác, từ các thành phố nhỏ và chưa bao giờ tới New York". Phán đoán từ bài thơ mà Korshunova đăng trên những trang mạng xã hội, người mẫu gốc Kazakhstan này giống như "một cô gái rất trẻ, người phát hiện ra rằng chuyện tình lãng mạn thường không diễn ra như mộng tưởng", Tatiana viết. Chỉ vài giờ trước khi nhảy từ ban công của tầng 9 xuống đất, Korshunova đã ở cả buổi tối bên bạn trai cũ để xem phim "Hồn ma" - câu chuyện ngọt ngào lẫn cay đắng về một người phụ nữ có thể kết nối với người chồng đã chết. Cô người mẫu nhỏ có đôi mắt bồ câu vào năm 2003 vẫn còn là một học sinh khi được một nhân viên của công ty người mẫu 1 phát hiện. Nhân viên này đã thấy ảnh Korshunova trong một câu chuyện về câu lạc bộ nói tiếng Đức tại Almaty, Kazakhstan trên tờ tạp chí máy bay "Tôi tình cờ thấy cô ấy, trông cô ấy giống như một người bước ra từ câu chuyện cổ tích", Debbie Jones nói với phóng viên tạp chí Vogue của Anh năm 2005. "Là một người mẫu trẻ rất khó khăn", Ashman, 38 tuổi nói. "Họ nổi khi còn quá trẻ, và tuổi thọ của họ quá ngắn. Họ bị đẩy vào thế giới của người lớn ở độ tuổi quá nhỏ khi mà hầu hết những đứa trẻ khác đều đang cắp sách tới trường". Những người mẫu khờ dại đó bị những "con thú" vây quanh, từ những người láng giềng được hãng cấp căn hộ liền kề, cho tới các nhà tài trợ, thợ ảnh và quản lý. "Thỏ non trước miệng hùm" "Tôi chắc chắn luôn ở bên họ cả đời và hẹn hò với họ, Ashman nói. "Hầu hết những người tôi biết đều có chút kinh nghiệm với những ai tìm cách cưỡng hiếp họ - một người khách hoặc một thợ ảnh". Hầu hết các cô gái "nhỏ" - cao hơn 1m8 và vận những bộ đồ khiêu khích - trông đều có vẻ đã trưởng thành và lớn lên tại thành phố mà không có sự giám sát của cha mẹ."Các cô gái bị quẳng vào hang sư tử, và những người quản lý thường trở thành cha mẹ họ", Ashman cho biết. "Một vài người thì có cha mẹ ở cùng và đó là những người may mắn hơn". "Những người quản lý cố gắng kiếm tiền từ các người mẫu. Nếu họ muốn ký được hợp đồng, họ không hề ngại ngần để các cô gái tán tỉnh khách. Họ nhắm mắt như không biết gì". ABCNEWS đã thực hiện nhiều cuộc gọi tới các hãng người mẫu lớn như Ford và Elite tại New York nhưng họ đều từ chối bình luận về câu chuyện này. Theo Tatiana, cô và 3 người khác chia nhau một căn hộ có một phòng ngủ, họ phải trả 325 USD/tuần/người. Hãng người mẫu từ chối trả thêm cho họ 20 USD/tháng tiền truy nhập Internet. Dù chưa bao giờ biết Korshunova, người mẫu trên nói, cô đã quen với "sự mất nhân cách và cô độc, những khổ cực của nghề này". "Mọi người không thể biết công việc này cô độc và bị cô lập như thế nào. Không một hãng nào muốn một cô gái thành đạt, người kiếm được bộn tiền nhờ vào các quảng cáo mỹ phẩm và nước hoa, lại ngừng làm việc trong bất kỳ một thời điểm nào. Họ chả có nhiều lợi lộc khi giúp cô gái đó đối mặt với một vấn đề mà cô gặp phải". Patrick McMullan, Giám đốc điều hành của hãng chuyên chụp ảnh Korshunova và có quan hệ thân thiết với nhiều người mẫu quốc tế khác trong hơn hai thập niên qua cho biết, các cô gái trẻ khi gặp rắc rối thường không biết tìm ai để nhờ cậy. "Dễ quỵ ngã" "Trong ngành này, người ta rất dễ chán nản", McMullan nói. "Nếu bạn vấp phải một vấn đề gì đó, nó rất dễ bị bàn ra tán vào. Bạn đốt một cây nến và nhìn mọi người bàn luận về bạn. Cô ấy đã làm được nhiều việc, nhưng đôi khi là chưa đủ". Những người giống McMullan đã chứng kiến cảnh Kurshunova giảm cân và tự hỏi liệu cô gái này có học đòi dùng ma túy hay không, một "căn bệnh" mà nhiều siêu mẫu khác đã mắc phải. Bạn bè của Korshunova nói, người mẫu trẻ này bị đau dạ dày trước khi tự vẫn. Đây chỉ là một lời than phiền nho nhỏ nhưng trong thế giới có áp lực cao này có thêm một vấn đề khó khăn cũng có thể khiến người ta quỵ ngã. Việc khám nghiệm tử thi đang được tiến hành và cảnh sát chỉ có thể nói, có vài lọ thuốc với nhãn thuốc bằng tiếng Nga được tìm thấy trong căn hộ của người mẫu Korshunova. Làm người mẫu là một nghề vất vả, McMullan cho hay, phải dậy sớm và thường làm việc muộn với các nhà nhiếp ảnh để có được vài tấm ảnh đẹp có thể giúp họ thăng tiến trong nghề nghiệp. "Bạn phải biết làm dáng, phải là người đẹp để được chụp ảnh và phải biết chủ bút là người cao nhất trong cuộc. Bạn phải biết giao tiếp, thân thiện với tất cả mọi người nếu không họ sẽ không muốn làm việc với bạn. Bạn không thể lỡ hẹn nếu không họ sẽ loại bạn", McMullan nói. "Người mẫu rất dễ xúc động và họ được đối xử giống như một miếng thịt, như một món hàng - và điều này lấy đi phần hồn của họ. Những người quanh bạn thích bạn vì hào quang chứ không phải vì chính con người bạn". Ngoài ra, McMullan nhấn mạnh, nhiều người mẫu lạm dụng cocaine và nhịn ăn để giữ dáng vóc. "Các cô gái thường dùng thuốc giảm đau để ngăn không bị đói, coke cho họ năng lượng khi họ uống. Và, các cô gái Nga cũng như vậy. Các người mẫu thường không muốn bị tăng cân, và stress phát sinh từ việc không ăn uống đầy đủ, làm việc cật lực, thì cocaine sẽ giúp họ cân bằng mọi thứ. Không điểm tựa Korshunova có thể cần giúp đỡ nhưng lại không có sự hướng dẫn của gia đình, McMullan cho biết. "Bạn cảm thấy rằng bạn không có ai để dựa vào". "Tôi thấy nhiều người mẫu và một số người trong đó luôn trông giống trẻ bơ vơ, điều đó có nghĩa, chỉ cần một lời nhận xét có thể thổi bay họ. Các cô không có nhiều kinh nghiệm sống. Những người mẫu trẻ lớn quá nhanh và mất đi thời thơ ấu". Con trai của McMullan là Liam, 20 tuổi, hiện là nhạc công trong một câu lạc bộ khiêu vũ, luôn được những "người mẫu nhí" vây quanh, vài em chỉ mới 13 tuổi. Đó là các em vừa vác cặp sách đi theo các nhà tài trợ. Giống như những đứa trẻ khác, những người mẫu đứng giữa thế giới tình cảm mỏng manh giữa tuổi thơ và tuổi trưởng thành. Chính vì thế, đôi khi họ tự tử vì những điều không ngờ. "Bạn trai Kurshunova có lẽ đã rời bỏ cô bé ấy và trong vụ việc này có thể có phần của rượu vodka". Những người mẫu bạc mệnh Người mẫu trẻKrissy Taylorchết ngày 2/7/1995. Gia đình người mẫu này phát hiện ra cô gục trên sàn phòng khách tại ngôi nhà ở Pembroke Pines, Florida. Krissy Taylor Bác sĩ Joshua Perper sau khi khám nghiệm tử thi cho biết không có bằng chứng về chấn thương. Taylor, 17 tuổi, bị bệnh hen, đã phải dùng máy trợ hô hấp trước khi chết. Tuy nhiên, có nhiều tin đồn là cô người mẫu trẻ này đã dùng cocaine vào đêm bị chết. Tuy nhiên, đến giờ vẫn chưa có bằng chừng nào cho tin đồn này.Người mẫu UruguayEliana Ramos, 18 tuổi, đang làm mẫu chụp ảnh tại Punta de Este, Uruguay và tháng 1/2005. Eliana Ramos Ngày 13/2/2007, Eliana được phát hiện đã chết tại nhà 6 tháng sau chị gái Luisel Ramos, 22 tuổi, cũng là người mẫu, qua đời vì đau tim khi đang tham gia trình diễn tại Montevideo hồi tháng 8/2006. Các bạn bè của Eliana nói, cô thoái chí vì cái chết của chị gái đồng thời bác bỏ tin cô bị rối loạn ăn uống.Luisel Ramos, chị gái của Eliana, chết trong khi đang tham gia một show trình diễn của tuần lễ thời trang ở Montevideo hôm 2/8/2006. Người mẫu này mới 22 tuổi. Vài tháng trước khi chết, Luisel đang theo một chương trình ăn kiêng. Luisel Ramos Cái chết của cô làm dấy lên lo ngại về những người mẫu siêu gầy, thậm chí, ở Tây Ban Nha còn thông qua một luật cấm các người mẫu siêu gầy trình diễn.Anna Nicole Smith, người mẫu nổi tiếng, người đã kết hôn với nhà tỷ phú Marshall 89 tuổi khi mới chỉ 26 tuổi, đã chết ngày 8/2/2007 vi dùng thuốc quá liều. Anna Nicole Smith
  15. Giải mã cái chết của Ruslana Korshunova Trước khi tìm tới cái chết, siêu mẫu 20 tuổi người Nga - Ruslana Korshunova đã viết những trang nhật ký rất buồn, thể hiện sự tuyệt vọng trong tình yêu. Cô đã quyết định nhảy từ căn hộ nằm trên tầng 9 ở New York xuống đất, hôm 28/6. Những người bạn của Ruslana cho biết, cô không hề đả động gì tới cái chết hay sự ra đi đột ngột của mình trước khi chết. Bạn bè của Ruslana cho hay, siêu mẫu 20 tuổi này không hề chán nản, buồn bã hay thổ lộ ý định muốn tìm tới cái chết. Cảnh sát đưa thi thể của Ruslana Korshunova rời khỏi hiện trường Nhưng trong một số bài thơ được đăng tải trên website cá nhân của mình, cô gái 20 tuổi này viết khá nhiều về sự thất vọng, sự quằn quại hay dằn vặt mà tình yêu mang lại cho cô. Trong website của mình, Ruslana không bao giờ mô tả chi tiết những gì đang diễn ra trong cuộc sống của cô, tuy nhiên, cô gái trẻ này lại dành khá nhiều “giấy mực” cho chủ đề tình yêu. “Tình yêu chính là điều tuyệt diệu nhất của cuộc sống”, Ruslana từng viết. Song, siêu mẫu người Nga này không ít lần “phỉ báng” tình yêu: “Tình yêu là sự mù quáng. Đừng bao giờ nhầm lẫn giữa tình yêu và đam mê. Tình yêu là mặt trời còn sự đam mê chỉ là một ánh sáng chợt loé”. Gần đây, trong website của mình, Ruslana nhiều lần đề cập tới sự thất vọng và lạc lõng: “Tôi đang chới với. Liệu tôi có thể tự tìm thấy cho mình một tình yêu hay không?”, hay “Tôi thật là ngốc nghếch. Tôi hiểu đó là gì. Tôi hiểu tại sao mối quan hệ của mình không có kết quả chỉ vì tôi là người khó đoán. Tại sao anh lại sợ điều đó chứ?”. Mới nhất, Ruslana viết: “Thật là đau đớn, như thể có ai cướp đi một phần thân thể của tôi, xé nát nó ra”. Cô kết thúc bài viết như thế này: “Tôi ước mình có thể cất cánh bay lên. Ôi, cầu vồng của tôi lại ở xa quá”. Cảnh sát Manhattan cho biết, trên thi thể của Ruslana không có dấu vết ẩu đả nào và kết luận, siêu mẫu người Nga này đã nhảy lầu tự tử. Bạn bè của Ruslana đều rất bất ngờ trước sự ra đi của siêu mẫu tài năng và nổi tiếng này. Phần lớn bạn bè của cô, khi trả lời đều cho biết, họ rất sốc, rất ngạc nhiên và không dám tin những gì đã xảy ra là sự thật. (nguồn: http://forum.livevn.com)
  16. <h1 class="h1">Thông tin mới về vụ Siêu mẫu Nga tự tử</h1> Thư giãn - Bạn thân của Ruslana Korshunova vẫn còn bàng hoàng trước sự tự vẫn của Ruslana Korshunova và cho đến giờ vẫn chưa thực sự tìm ra được nguyên nhân của cái chết. Tuổi đời còn quá trẻ (20 tuổi), sự nghiệp người mẫu còn rất dài phía trước, thế nhưng siêu mẫu khá nổi tiếng, Ruslana Korshunova, đã nhảy từ tầng 9, ban công căn hộ của mình xuống để kết thúc cuộc đời mình. Cái chết của Ruslana Korshunova làm bạn bè và người thân choáng váng. Ruslana Korshunova xinh xắn và đáng yêu (Năm 2006) Bạn thân của Ruslana Korshunova vẫn còn bàng hoàng trước sự tự vẫn của Ruslana Korshunova và cho đến giờ vẫn chưa thực sự tìm ra được nguyên nhân của cái chết. Một người bạn thân khác giấu tên thì nói rằng: “Cho tới giờ tôi vẫn bàng hoàng. Cô ấy là một cô gái tuyệt vời, xinh đẹp. Thực sự chẳng có lí do gì để cô ấy tự sát cả. Tôi không hiểu nổi tại sao cô ấy làm vậy!” Khi được hỏi, người bảo vệ toà nhà nơi siêu mẫu Ruslana Korshunova sống đã nói rằng, cô ấy trông vẫn tươi tắn và vui vẻ khi về nhà vào lúc 4h chiều ngày thứ bảy, 28/6. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra, cảnh sát cũng cho hay không có dấu vết nào chứng tỏ có sự ẩu đả hay có bất cứ sự khả nghi nào. Chỉ có một khả năng duy nhất là siêu mẫu Ruslana Korshunova tự vẫn. Trong quá trình tìm hiểu, người ta thấy rằng, dường như cái chết của cô liên quan nhiều tới tình yêu. Một tuần trước cái chết này, Ruslana Korshunova đã viết những tin nhắn trên internet rất nhiều về sự đổ vỡ trong tình yêu và tỏ ra rất đau khổ, thất vọng. Những bài thơ mà cô thổ lộ trên đây cũng nói tới sự đau đớn, đổ vỡ và mất mát. Trong đó, có những câu như: “Giấc mơ thì đã bay xa, còn cầu vồng của tôi thì ở trên cao quá.” Còn cho đến giờ, cái chết, sự tự sát của Ruslana Korshunova thực sự vẫn là một bí ẩn. Việc cô chết có phải do tình yêu hay không vẫn là một câu hỏi đóng, chưa ai trả lời được. Elephant - theo Dailymail
  17. Tạm biệt Ruslana Korshunova! Sự ra đi đột ngột của siêu mẫu Nga Ruslana Korshunova đã để lại không ít tiếc thương cho bạn bè, đồng nghiệp và người hâm mộ. Hiện đang có rất nhiều nguồn thông tin xung quanh cái chết của cô. Bạn trai cũ của cô, Arten Perchenok đã ở cùng Korchunova buổi tối hôm trước xảy ra thảm kịch. Hai người đi xem phim và trở về căn hộ nơi Korchunova đang ở vào lúc 5 giờ sáng hôm thứ 7. Phát biểu trên tờ Monday’s NY Post, Perchenok cho biết thời gian gần đây trông Korchunova có gầy đi đôi chút. Anh cho rằng cô đang cố gắng kìm nén và chịu đựng một vấn đề nào đó. NYDN cũng có buổi nói chuyện với bạn trai hiện tại của Ruslana Korshunova là Mark Kaminsky. Cặp đôi này đã dính với nhau như sam chỉ sau hai ngày gặp gỡ. Korshunova đã chuyển đến sống trong căn hộ tại đảo Staten của Kaminsky. “Chúng tôi quyết định đến với nhau ngay lập tức vì cảm thấy không thể sống thiếu nhau. Tôi yêu cô ấy ngay từ cái nhìn đầu tiên”, Kaminsky bày tỏ. Lần cuối cùng anh nhìn thấy bạn gái của mình vào trưa thứ 7 và sau đó hai tiếng đồng hồ thì thảm kịch xảy ra. “Chúng tôi đã có kế hoạch đến dự bữa tiệc sinh nhật một người bạn của Korshunova vào tối hôm đó. Ôi, tôi không thể tin đây là sự thật. Cô ấy vừa ở bên tôi và chỉ hai tiếng đồng hồ sau tất cả đã biến mất”. Ngay cả người bào vệ của tòa nhà cũng không thể tin những gì xảy ra. Anh nói, cô ấy trở về nhà vào sáng sớm, mỉm cười chào tôi và trên khuôn mặt không bao giờ thoáng một nét u buồn vẫn tươi tắn như mọi ngày. Chúng tôi rất yêu quý Korchunova, mỗi lần gặp cô ấy đều chào chúng tôi bằng một nụ cười dễ thương như thế. Tờ New York’s Daily News đưa ra giả thuyết là Korshunova đã rất thất vọng về chuyện tình cảm và tự tìm đến cái chết như là một sự giải thoát. Trên nhiều trang web cũng đăng tải nội dung blog của Korshunova trong thời gian gần đây. Đó là những tâm sự buồn bã và chán nản của cô về tình yêu, về sự mất niềm tin trong cuộc sống. Cũng theo Daily Mail, bạn bè của cô hoàn toàn sửng sốt và không tin đấy là nguyên nhân dẫn đến bi kịch này. "Không thể tin cô ấy đã tự tử”, Kira Titeneva - một người bạn thân của Ruslana Korshunova nghẹn ngào “Cô ấy rất yêu cuộc sống này. Tối thứ 6 vừa qua, chúng tôi vẫn còn tán gẫu vui vẻ cùng nhau". Ngay sau khi nhận được tin dữ, mẹ của Korchunova, bà Valentina đã khóc ngất lên. Sự mất mát này quả thực là một cú sốc lớn đối với bà. Mẹ và em trai của cô hiện nay vẫn đang sống tại Kazakhstan. Sinh ra tại Kazakhstan, Korchunova đã nhanh chóng có một sự nghiệp đáng nể nhờ khuôn mặt xinh đẹp và thân hình chuẩn của một siêu mẫu. Cô xuất hiện thường xuyên trong các sàn diễn của Marc Jacobs, Nina Ricci, DKNY…, liên tục lên hình của các tạp chí danh tiếng như Elle, Vogue... và hợp tác với không ít những nhà tạo mẫu hàng đầu thế giới cỡ như Jill Stuart, Betsey Johnson, Rosa Cha, Lela Rose, Libertine. Korchunova được đánh giá là một trong những chân dài có nhiều triển vọng và sáng giá nhất trên sàn catwalk trong một tương lai không xa. Vẫn chưa có câu trả lời chính xác cho bi kịch này. Chỉ biết rằng từ nay trên các sàn diễn sẽ thiếu vắng một chân dài xinh đẹp, trên các trang báo sẽ thiếu đi một nụ cười thiên thần. Thiên thần đó đã bay lên thiên đường... Theo 24h Nguồn: http://giaitri.baotructuyen.com
  18. CHỢ ÂM DƯƠNG Nguồn: http://vannghesongcuulong.org Chợ nằm ở địa phận Làng Ó (nay là làng Xuân Ổ), xã Võ Cường, thị xã Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh. Mỗi năm chợ chỉ họp một lần vào đêm mồng 4 rạng ngày mồng 5 Tết (tháng giêng âm lịch)... Những huyền thoại về chợ Âm Dương Theo tương truyền của người xưa, nơi họp chợ Âm Dương xưa là bãi chiến trường do đó có nhiều người chết. Chợ họp là để tạo cơ hội cho người chết và người sống gặp nhau. Chợ bắt đầu họp vào lúc lên đèn, trên một bãi đất trống cạnh ngôi miếu cổ có tiếng là linh thiêng của làng. Chợ không có lều, quán, không sử dụng đèn nến. Người đi chợ mang một con gà đen đã được chăm sóc cẩn thận làm vật tế Thành Hoàng làng. Trong chợ cũng có cả những dãy hàng mã, hương, nến, cau trầu. Ở đầu chợ, người ta đặt một chậu nước để thử tiền âm hay tiền dương. Có người sớm hôm sau xem trong túi đựng tiền toàn là vỏ hến, lá đa, thậm chí có cả mẩu yếm sồi. Mọi người đều rất vui vẻ vì coi đó là dịp làm điều phúc, điều thiện với người đã chết. Chợ tan khi còn đêm. Với người dân nơi đây, chợ Âm Dương cũng chẳng khác một lễ hội cầu mùa ở các địa phương khác, bởi nó mang đậm nét văn hóa dân gian vùng Kinh Bắc và đã tồn tại cách đây gần ngàn năm. Vào dịp đầu Xuân năm nào cũng vậy, mọi người đến hội chợ chỉ cốt được cầu may; những điều rủi ro, phiền muộn sẽ được xóa tan khi vào đêm hội chợ, có như thế việc làm ăn, mùa vụ năm đó mới thuận lợi, được mùa bội thu. Chợ nằm ở địa phận Làng Ó (nay là làng Xuân Ổ), xã Võ Cường, thị xã Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh. Mỗi năm chợ chỉ họp một lần vào đêm mồng 4 rạng ngày mồng 5 Tết (tháng giêng âm lịch)... Người xưa đi chợ Âm Dương Bây giờ, cũng không ai còn nhớ phiên chợ Âm Dương đầu tiên bắt đầu từ khi nào, chỉ biết rằng ngày xưa, làng Ó còn nghèo lắm; thiếu ăn, thiếu mặc nên con cháu phải kéo nhau đi làm thuê ở những tỉnh xa. Dẫu có đi nơi đâu, nhưng nhớ ngày hội chợ Âm Dương, họ lại rủ nhau về dự đêm hội chợ và để có cơ may gặp lại người đã mất. Họ tin rằng, hòa lẫn trong dòng người đến phiên chợ đêm nay sẽ có cả hương hồn của ông cha, người thân hiện về để tìm gặp lại gia đình, bạn bè. Để an ủi, động viên nhau xua tan nỗi buồn, nhớ tiếc người thân đã mất, họ cùng ca những làn điệu dân ca Quan họ của quê mình. Hát mãi, buồn hóa thành vui, nỗi tiếc nhớ hóa thành niềm hạnh phúc khi có thêm bạn bè làm trà, rượu, bạn tâm tình. Chợ tan khi đến canh ba. Trong sương sớm, khúc Giã bạn như làm các liền anh, liền chị thêm nghẹn lời, lưu luyến hẹn đến phiên chợ lần sau. Cụ Nguyễn Văn Hỷ (85 tuổi), một trong những già làng ở làng Xuân Ổ, kể: Ngày xưa, cụ nghe rằng chợ bắt đầu họp vào lúc chập tối, mỗi dịp lễ hội làng đều có đến 2 sào đất ruộng làm bãi chợ bán gà đen đủ loại to, nhỏ. Nhiều gà lắm nhưng cũng không ai biết mỗi phiên chợ tiêu thụ khoảng bao nhiêu con gà. Bởi chợ bán nhiều gà đen, nên người ta gọi là chợ Gà Đen và tên làng Ó cũng có từ thuở ấy. Người bán có thể là người làng, cũng có thể là người từ nơi khác đến, điều đặc biệt là chỉ bán gà mái đen, mà không phải gà trống để cúng giỗ như nhiều nơi. Chợ không có lều quán, không hàng lối, người bán để gà trong lồng nhỏ, cũng có người ôm gà trên tay, người mua chỉ sờ xem gà béo, gầy. Người bán không nói giá cả, người mua không mặc cả, trả bao nhiêu tiền cũng được. Mua gà xong, người ta mua thêm vàng mã, trầu cau, nến, hương đã được bó sẵn thành bó để về hóa gửi cho người cõi âm. Trong đêm, chỉ có bóng người lờ mờ qua lại và tiếng thì thào làm quen, họ mời nhau khi tan chợ thì về ăn cơm và hát Quan họ cùng gia đình để lấy may. Người ta mua gà đen nhiều như vậy là để ngày 8 (tháng giêng) là đem vào hội đình làng dự Cỗ Kén (tức là cỗ chọn) giữa Lục Giáp (6 Giáp – các đơn vị dân cư của làng) bằng cách chọn những con gà làm đẹp, xôi ngon. Những mâm xôi này là phải do các trai tráng trong làng quây cót giã gạo nếp trước hằng tháng trời, bản thân họ phải tắm rửa sạch sẽ, ăn mặc gọn gàng, vóc dáng khỏe mạnh (đã ăn ở thanh tịnh 2 tuần lễ). Mỗi Giáp sẽ làm 2 lễ, 6 Giáp có 12 lễ, trong đó Ban Tổ chức là những người già làng sẽ chọn 3 lễ đẹp nhất, ngon nhất để dâng lên 3 bàn thờ chính là Chính, Tả, Hữu của đình. Còn lại các cỗ khác sẽ đặt xung quanh và ở các bệ thờ phụ. Những cỗ được giải nhất, nhì, ba sẽ được thưởng mỗi lễ một miếng trầu, cau têm cánh phượng. Tuy công sức bỏ ra làm mâm cỗ tốn bao công phu, vất vả nhưng nếu được chọn là Cỗ Kén thì người dân ở Giáp ấy tin rằng cả năm được may mắn, làm ăn phát đạt. Song, cái may mắn trọn vẹn lại là khâu cuối cùng, trước khi mời được bạn bè về gia đình tụ họp và hát Quan họ, chủ nhà và khách cùng đem vàng mã hóa để tưởng nhớ dòng họ, tổ tiên và nhớ đến người đã mất cho cả gia đình của chủ và khách. Điều quan trọng hơn nữa là mỗi gia đình đã làm sẵn 4 đến 5 mâm cỗ để đãi khách. Cỗ đã được chuẩn bị từ sáng mồng 4, chiều tối đi hội chợ là các mâm cỗ đã phải chuẩn bị xong. Khách đến ăn thì ít, mà hát Quan họ lại say sưa khiến giây phút giã bạn bao giờ cũng lưu luyến, không muốn chia tay. Người ta không để ý đến mâm cỗ đầy hay vơi mà nhà nào càng mời được nhiều khách về nhà, năm đó may mắn và lộc đến càng nhiều. Chợ Âm Dương hôm nay Gần một thế kỷ qua, thời gian đã cuốn theo biết bao đổi thay đến vùng đất Kinh Bắc này, ngay cả dòng sông Tiêu Tương êm ả chảy qua làng xưa giờ đã được bồi đắp. Ở đó nhiều nhà mới xây mọc lên, đến cái tên làng Ó cũng ít người biết đến để nói rằng làng quê này đã đổi mới, trẻ hóa và tươi mới như mùa Xuân về làng. Ông Nguyễn Sơn, Trưởng Ban Mặt trận Tổ quốc xã, đưa chúng tôi đến nơi họp chợ Âm Dương xưa trong nỗi luyến tiếc. Nơi bán gà đen giờ đã là những ruộng rau xanh non. Dù vậy, cứ mỗi độ Xuân về, người làng Xuân Ổ, thanh niên, trai gái đến cả người già, con trẻ lại xúng xính trong những bộ quần áo tứ thân, khăn xếp đẹp nhất, náo nức đón chờ đêm hội chợ. Chợ Âm Dương bây giờ tuy vẫn không có lều quán, không đèn nến, vẫn tiếng thì thào trong đêm nhưng trong chợ đã có bán đủ thứ hàng vài vóc, khăn quàng cổ, khăn tay, bít tất, cặp tóc, hoa quả và vẫn có đủ đồ cúng tế cho người âm... Con cháu đến chợ đã không bắt buộc phải mua cho được gà đen, mà gà mái thường, đẹp, cũng được đem bán. Các trai tráng trong làng không phải giã gạo thâu đêm mà gạo ngon đã được xay xát sẵn để dành từ vụ mùa. Duy chỉ có việc chuẩn bị cỗ đón khách là không thể thiếu. Cái vẻ huyền bí của chợ xưa đã lan rộng đến cả những tỉnh xa tận trong Nam, ngoài Bắc, khách thập phương cũng kéo nhau về dự đêm chợ Âm Dương để cầu được nhiều lộc may mắn, được bay tỏ nỗi nhớ quê hương hay nỗi niềm đam mê Quan họ của mình. Đi chợ, đám thanh niên còn muốn tìm nơi bán đồ của con gái làng bên mà mình thích để mua đồ. Tiếng thì thào trong đêm chợ ấy còn là tiếng làm quen, tiếng tỏ tình và khi được cô gái mời về nhà dự cỗ cùng gia đình, bạn bè mới là những thử thách ban đầu. Ngôi miếu cổ vẫn linh thiêng và cây đa cổ thụ của làng vẫn còn đó xum xuê xòa bóng mát như để chứng kiến bao đổi thay của làng, của biết bao mối tình hò hẹn, đơm hoa kết trái của những đôi lứa yêu nhau từ phiên chợ đêm nay. Trong những làn điệu Quan họ trữ tình sâu lắng cùng men rượu Xuân mỗi lúc thêm nồng đượm, còn chứa đựng cả lời yêu đương, da diết mà chàng trai muốn nhắn gửi cho người mình yêu. Sau đêm chợ huyền thoại ấy, đã có rất nhiều chàng trai, cô gái nên duyên chồng vợ và những làn điệu dân ca Quan họ còn ngân vang mãi.. - Hội dân tộc học Việt Nam
  19. Phiên chợ gặp con (nguồn: Vietnamnet.vn) Bà nội tớ kể rằng, cách đây nhiều năm, chỗ bãi đất trống gần đình làng có một phiên chợ rất kỳ lạ. Phiên chợ ấy chỉ họp đúng một lần, vào đêm rằm cuối cùng của tháng cuối cùng của năm (tức tháng Chạp âm lịch). Cách thức họp chợ có vẻ gần giống chợ Viềng ở Nam Định, nhưng người ta không bán nhiều đồ “thập cẩm” như thế, chỉ bán đồ lễ, hình nhân và rất nhiều những chiếc gương bát quái con con. Ai cũng mang ra chợ một tờ giấy hồng điều. Bên trong tờ giấy là những hình vẽ bằng mực tàu rất khó hiểu và vài dòng chữ nôm. Mỗi tờ giấy là một bí mật của mỗi con người. Người ta viết vào đó những điều mình cảm thấy áy náy, lỗi lầm, sai trái đã mắc phải trong một năm vào cả trong giấy đỏ, rồi cùng với vàng, hương, hoa quả mang ra ngôi miếu con con gần đó khấn vái cầu xin các thần linh xá tội. Sau đó họ hóa vàng tờ giấy điều rồi đội mâm lễ ra ngoài, chia đều lộc cho những người cũng đi cầu xin ở gần đấy mà mình bắt gặp, không kể thân, sơ ... Bà bảo : “Chẳng biết các thần có nghe được những lời cầu xin xá tội không nhưng nhà nào vì lý do gì đó mà không làm sớ... tẩy rửa bụi trần thì cả năm đó cứ bứt rứt không yên, công việc vì thế mà có phần trắc trở, chẳng được như ý...”. Phiên chợ vào đêm rằm tháng Chạp âm lịch ấy có người còn đồn đại rằng đó là chợ âm dương. Thỉnh thoảng, người ta vẫn bắt gặp một người nào đó đã “khuất” từ lâu bỗng nhiên hiện về, thản nhiên đi chợ. Cách phân biệt người âm - kẻ dương rất khó, chỉ nhờ vào phương tiện suy nhất là chiếc gương. Soi gương vào ai, không thấy bóng người ấy hiện lên trong gương, có nghĩa đó là người cõi khác. Có một bà trong làng năm nào cũng ra ngôi miếu thắp hương rồi khóc. Bà thương cậu con trai út ít của bà vì hoàn cảnh nheo nhóc, trong một lần đi tản cư đã bị lạc mẹ, chẳng biết sống chết thế nào. Từ đó, lúc nào bà cũng ăn năn, giận mình vì mải đi kiếm miếng ăn cho cả nhà mà nỡ để con đi lạc. Lúc nào, nom bà cũng như người mất hồn. Có thời gian nghe người đi chợ xa kể lại rằng cậu con bà hình như làm con nuôi cho một gia đình nào đó giàu có lắm trên tỉnh, bà lân la đi tìm mà chẳng thấy, rồi cũng có tin đồn rằng cậu bé không còn sống nữa. Bà càng suy sụp nặng... Buổi chợ âm dương hôm ấy, lúc bà hóa vàng tờ giấy điều xong liền đi ra một hàng vàng mã mua chiếc gương con theo tục lệ. Chưa kịp cầm gương, bà nghe tiếng thầm thì bên tai : “Đừng mua, mẹ ơi, con đây mà!...” bà giật mình quay lại, chẳng thấy ai, nhưng linh tính mách bảo bà cứ đi lại phía vừa cất lên tiếng nói... Đến một gốc cây con, có cậu bé mặc áo bông bỗng nhiên túm lấy áo bà “Con nhớ mẹ nhiều lắm!”... Bà sững sờ nhìn cậu bé, không khóc mà nước mắt đã chảy vòng quanh, chẳng kịp nói gì chỉ lẩm bẩm : “Tạ ơn trời phật! tạ ơn trời phật!”. Cậu bé ấy giống y hệt con bà, nhưng thật lạ, sau bằng ấy năm mà nó chẳng lớn tí nào, vẫn mặc cái áo hồi lạc mẹ. Bà ngồi xuống, vuốt tóc, vuốt má và xoa mãi vào cái cằm lẹm đáng yêu của đứa bé rồi nói như mơ : “Không thể tin được! Con tôi, giời ơi...”. Từ lúc gặp con, bà sướng quá như người mất hồn, bà hỏi han đủ thứ, nhưng cậu bé chỉ cười và nói “Con nhớ mẹ lắm, nhớ cả cái bánh khảo mẹ vẫn mua cho con ... Vài năm nữa, con mới về ở hẳn với mẹ được...”. Bà nói nhanh như sợ ai cướp mất con : “Không, con về nhà đi, mai mẹ sẽ đến nhà người nuôi con để xin chuộc lại, bao nhiều mẹ cũng chuộc, dù có phải bán nhà ...”. Cậu bé ôm ngang lưng người mẹ rồi đòi mẹ mua bánh khảo. Bà cuống quýt lấy tiền mua bánh cho cậu bé. Lúc quay ra, cậu bé đã biến mất từ lúc nào. Người mẹ lại thêm một lần đau khổ, suy sụp nặng... Bà cứ sống lay lắt như một cái bóng. Rồi vài năm sau, vào một buổi chiều 30 Tết, nhà bà đột nhiên có khách, khách là một anh bộ đội trẻ măng, ào vào nhà gọi mẹ. Bà chẳng tin, lại ngỡ ai trêu, anh bộ đội đó mừng vui, cứ ấp iu đôi bàn tay nhăn nhăn của bà, giọng lạc đi vì xúc động : “Bao nhiêu năm con mới tìm được mẹ ...”. Bà mẹ lần này không giống như hồi đi chợ âm dương, cứ nhất định bắt anh bộ đội vạch bắp chân ra, khi nhìn thấy vết bớt xanh lè trên bắp chân phải người chiến sĩ thì bà ngã lăn ra bất tỉnh... Lúc hồi lại, bà khóc như mưa : “Con ơi, ở lại với mẹ nhé! Đừng đi đâu hết !!!...”. Mẹ tìm được con, các anh chị tìm được em, cả nhà người mẹ và anh chiến sĩ nọ mừng vui khôn xiết... Đó là cái Tết vui nhất trong đời bà và cả nhà. Sau này bà mẹ kể lại chuyện ban đêm ở chợ âm dương cho con trai nghe. Anh ấy ngạc nhiên tột độ và kể : “Hình như cũng vào thời điểm ấy, con bị ốm một trận rất nặng, tưởng khó lòng qua được. Trong lúc mơ, lúc tỉnh, con thấy mình lang thang đi tìm mẹ, và đã tìm thấy mẹ thì lại thiếp đi... Đêm ấy, mẹ mặc cái áo len màu bã trầu phải không, con vẫn nhớ...”. Bà mẹ thảng thốt và nhớ lại đúng là đêm ấy bà đã mặc cái áo màu bã trầu. Nhưng câu chuyện đã qua thì là một bí ẩn không thể lý giải được. Bà chỉ còn biết tạ ơn trời đất, thần phật đã đoái thương đến tình cảnh của hai mẹ con bà. (Thiếu niên Tiền phong Xuân 2006)
  20. Phiên chợ âm dương (Nguồn: quangnam.org) Phiên chợ chiếu tại Bàn Thạch (Duy Vinh, Duy Xuyên) họp mỗi sáng, từ 5 giờ đến 8 giờ mới chấm dứt. Chợ họp từ 5 giờ cho đến 8 giờ sáng mỗi ngày. Chợ chỉ toàn bán chiếu - phiên chợ duy nhất Quảng Nam bất chấp mưa nắng, trải qua bao thời gian, tồn tại suốt mấy trăm năm ở Bàn Thạch, Duy Vinh, Duy Xuyên. [/b]1. 4 giờ 30 sáng. Quán cà phê nhỏ xíu ở góc đường vào làng đã mở. Thương lái địa phương (dự chợ hoặc không), ngư phủ sông hồ sau đêm đánh bắt trở về..., ngồi tán đủ thứ chuyện trên đời. Từ chuyện giá đay, lác lên xuống thất thường, đất trồng nguyên liệu ngày càng bị thu hẹp vì sạt lở, thiếu nước, sông hồ “cạn” cá, tôm... đến cả chuyện súng nổ, bạo loạn tận trời Tây... 30 phút sau, sương đêm chưa tan trên đầu ngọn cỏ, đã nghe tiếng kẽo kẹt quang gánh, tiếng dép quệt trên mặt đường bê tông, tiếng xe đạp, xe máy vang khắp các con đường làng... Chợ bắt đầu họp. Thu hoạch đay. Khu vực mua bán chiếu ở phía trước cổng chợ. Chiếu được đưa đến chợ bằng nhiều cách. Chiếu Bàn Thạch theo chân người vác bộ. Theo xe đạp, xe máy từ Duy Thành sang, Duy Phước xuống. Chiếu nằm thuyền ngược sông cùng các gánh cá còn nồng nàn vị biển mặn từ Duy Hải, Duy Nghĩa lên, chật kín bến sông... Mỗi lúc một đông hơn. Người ta bày cá tươi dọc bến sông, trên các ngả đường quanh chợ, âm thầm mua bán. Le lói, vàng vọt... đèn dầu. Không có tiếng mặc cả, ngã giá bán mua. Chỉ có âm thanh rì rầm như tiếng sóng và tiếng người, đại loại “hôm nay, mấy đôi?”, “khổ thước mấy”, “giá có hạ hoặc lên rồi đó”... vang giữa ánh sáng nhờ nhờ, không rõ mặt người hắt ra từ phía các căn nhà ở chợ mở cửa sớm. Thi thoảng tiếng “phành phạch” của đủ loại chiếu ném xuống mặt chợ, mỗi lúc một đầy hơn, từ chiếu bùa, chiếu in đến chiếu trổ - loại chiếu cao cấp với kỹ thuật tinh xảo, được làm ra từ những bàn tay kinh nghiệm và khéo léo và tiếng đếm tiền sột soạt... Tất cả người dự chợ đều là bạn hàng của nhau đã rất lâu ngày. Cho dù, đó là người sản xuất kiêm bán hàng chạy chợ, thương lái địa phương gom hàng từ mỗi gia đình hoặc những người từ Đà Nẵng vào gom chiếu, đều chuẩn bị cho các chuyến đi xa... 8 giờ sáng, người bán chiếu trở về, không quên ghé vào gian hàng nguyên liệu đay, lác, phẩm màu (cũng bày sớm ở chợ), chuẩn bị cho các đôi chiếu sẽ được dệt trong ngày, chờ mai lại... chợ. Số chiếu thu gom tại chợ, mỗi ngày khoảng từ 3.000 đến 4.000 đôi chiếu sẽ được lái buôn đường dài, đóng hàng lên xe tải “chu du” khắp đất nước: vào Quy Nhơn, Bình Định, Phú Yên; ra Đà Nẵng, Huế..., thậm chí lên cả Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn... Dệt chiếu. 2. Chợ chiếu Bàn Thạch cách thị trấn Nam Phước 12km về hướng đông) vẫn tồn tại suốt mấy trăm năm nay. Những cánh đồng phù sa, hoặc bàu đầm mặn chát nơi cuối sông Thu Bồn, xẻ nhánh gặp Trường Giang nuôi dưỡng cây đay, gai, lác... đã làm thức dậy những làng chiếu Bàn Thạch (Duy Vinh), An Phước (Duy Phước) ngót trăm năm tuổi... Người làng kể, của hồi môn của cô gái theo chồng không phải là những công ruộng, vòng vàng, nhẫn, xuyến... mà chỉ là nghề dệt chiếu - một nghề cực, nhưng không sợ đói. Chỉ cần sáng đến tối là đã có tiền chạy chợ. Vì thế, chẳng có gì lạ khi con gái mới lớn đã theo mẹ học nghề và suốt từ lâu nay vẫn âm thầm dệt chiếu... để mỗi ngày họp chợ. Mùa nắng tưng bừng tuốt đay, gặt lác, phơi phóng đủ sắc màu dọc các ngả đường quê. Và cũng sẽ không hề ngạc nhiên khi đất mỗi ngày mỗi hẹp, nguyên liệu phải mua lại từ thương lái bên ngoài và công dệt có khi xuống thấp hơn 20.000 đồng/người/ngày... nhưng chiếu thì vẫn cứ được sản xuất ra thường xuyên. Số thợ dệt đã lên đến cả nghìn người. Ngay như làng An Phước mới vừa được công nhận làng nghề truyền thống, đã có 170 hộ (trong tổng số 240 hộ) theo nghề dệt chiếu. Xưa kia, làng chỉ sản xuất những loại chiếu bùa, chiếu in, chiếu trổ với chữ hỷ, chữ vạn bằng chỉ vàng đơn giản. Nay, thợ làng nghề đã có thể làm chiếu theo đơn đặt hàng, sản xuất các loại chiếu trổ - người dệt lẩy chữ, hình vẽ theo ý muốn với kỹ thuật cao, tinh xảo, không dễ gì làng chiếu khác có được. Kể cả có thể dệt cả hình ảnh chùa Cầu hay tháp Mỹ Sơn vào chiếu. Tất cả đã tạo nên bức tranh sống động, như một tác phẩm nghệ thuật, dưới bàn tay kinh nghiệm và khéo léo của các nghệ nhân còn sót lại. Sau thành công của ngày hội làng chiếu được mở trong những ngày “Hành trình di sản - Hội ngộ Đông Dương” hồi cuối tháng 6-2007, người làng chiếu có dự định sẽ tiếp tục tổ chức các ngày hội thi tài để chấn hưng làng nghề và thu hút khách du lịch. Cô thợ chiếu trẻ măng, tròn xoe mắt nói nhỏ: “Từ người sản xuất đến người bán chiếu đều than rằng nghề ni cực lắm. Nhưng người làng vẫn còn làm chiếu và chợ vẫn họp mỗi ngày một phiên, trừ tết và mưa bão. Ước chi, chợ và làng chiếu ni có tên trên bản đồ du lịch cùng Trà Quế, Kim Bồng, Thanh Hà... thì vui biết mấy!”. Theo BaoQuangNam
  21. "Chợ âm dương" họp ở xã Mão Điền, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh: có tên gọi là "chợ Chằm".Chợ Chằm là một chợ dân sinh nhỏ, phục vụ nhu cầu mua sắm của nhân dân trong xã Mão Điền cũng như vùng lân cận. Bình thường, chợ không họp liên tục, mà chỉ họp ấn định vào các ngày mùng 4, 9, 14, 18, 24, 28 trong tháng,theo lịch âm. Tuy nhiên chỉ có phiên chợ tết ngày mùng 4 tháng Giếng (4/1 - âm lịch) là được gọi là chợ âm dương. Bởi vì, tương truyền nơi đây trước kia cũng là nơi chiến trường đẫm máu (từ thời phong kiến xa xưa), số người chết nhiều không kể xiết. Theo quan niệm duy tâm xưa, các oan hồn này không được siêu thoát, mà bị lưu vong ở dưới địa ngục (không được đầu thai), chỉ đến dịp tết hàng năm mới được "hồn lên dương thế" quay lại nơi mình đã chết trước kia. Chuyện kể rằng, từ sau năm có chiến tranh không lâu, người dân họp chợ ngày mùng 4 tháng Giêng hay gặp những chuyện lạ thường như: đi mua bán hay bị đưa tiền giả, mang về nhà mới biết (tiền xu bị biến thành đất, lá chuối khô,...), người dân nghi là do các oan hồn chiến sĩ đã về đi chợ mua hàng, họ trả tiền âm phủ, ở chợ có quá nhiều âm khí nên không nhận ra được. Ban đầu nhân dân trong vùng cũng nhờ thầy về cúng xua đuổi tà ma, nhưng không nổi vì âm khí quá nặng. Sau đó họ được thầy bày cho cách là khi đi chợ thì mang theo một thau nước (nhất là người bán), kiểm tra tiền chỉ cần thả vào nước là biết, nếu chìm là tiền thật, nổi là tiền giả! Do đã có cách phân biệt tiền âm, tiền dương, hơn nữa mỗi năm người âm cũng chỉ lên có một lần, nên người ta vẫn tiến hành họp chợ bình thường. Cho đến thời gian gần đây (thời phong kiến trước Cch mạng Tháng 8) , mặc dù không mua bán được bằng tiền âm, nhưnng dường như các hồn vẫn muốn tranh thủ cơ hội lên trần đi chợ ngắm cảnh, tham quan - nên người ta vẫn thi thoảng có những câu chuyện chứng tỏ người âm lên trần, mặc dù thưa thớt dần đi. Cho đến bây giờ, thì người dân trong vùng đã không đi họp chợ vào ngày mùng 4 tháng Giêng nữa, coi như nhường hẳn cho người âm không gian khu chợ trong ngày đó. Kèm theo đó là tín ngưỡng hóa vàng, cúng cho tổ tiên và các thần linh, người dân trong vùng cũng đồng loạt tiến hành vào sáng sớm ngày mồng 4 tết, để cho người âm kịp đi chợ ngày hôm đó. (Nguồn: http://vi.wikipedia.org)
  22. Chợ Âm Dương đầu xuân, ai nhớ ai thương Nguồn:http://www.bacninh.gov.vn Trong bộ phim “Bao giờ cho đến tháng Mười” đạo diễn Đặng Nhật Minh đã xây dựng một trường đoạn xúc động: do quá đỗi đau khổ, âm thầm nhớ thương người chồng đã hy sinh trên chiến trường, người vợ trẻ đã đến miếu Thủy Thần trong làng cầu xin được dẫn đường chỉ lối tới cõi u minh gặp chồng. Họ đã gặp nhau trong phiên chợ Âm Dương, bàn tay hai người cứ muốn cầm nắm lấy nhau nhưng cố gắng thế nào cũng không được, thành thử đôi uyên ương này cứ rượt đuổi bóng hình trong vũ khúc luân hồi hư ảo.Ý tưởng về trường đoạn trên được gợi mở từ câu chuyện về chợ Âm Dương ở làng ó (tên chữ là Xuân ổ) thuộc xã Võ Cường (Bắc Ninh) mà nhà văn Đỗ Chu kể cho đạo diễn Đặng Nhật Minh. Gọi là chợ Âm Dương bởi chợ không họp vào ban ngày, không có phiên chính phiên xép; mỗi năm chỉ họp một lần vào đêm mồng Bốn tháng Giêng lúc chạng vạng tối, thời điểm âm dương đang “chuyển kênh”, trời đất giao hòa. Phiên chợ kỳ lạ ấy đã tồn tại như một huyền thoại ở ngôi làng đã có tuổi đời 3.500 năm nằm bên tay phải cây số 27 nếu từ Hà Nội theo đường quốc lộ số 1 ngược lên phía Bắc. Nơi đây, hiện tại và quá khứ thăm thẳm đan xen thấp thoáng trong muôn ngàn màu xanh lá cây, trong lô xô những dãy nhà cao tầng, trong gương hồ biếc soi bóng mái cong đình làng. Những câu hát âm vang thay lời giới thiệu, quảng bá về một vùng đất Quan họ tưng bừng rộn rã lễ hội đầu Xuân: Mồng Bốn là hội kéo co Mồng Năm hội ó chẳng cho nhau về Không hiểu ai là người đầu tiên khởi xướng loại... Hội chợ độc đáo cho cả người sống và người chết để tất cả cùng thanh thản, vui vẻ đón xuân. Truyền thuyết kể lại rằng: nơi đây từ ngàn xưa từng là bãi chiến trường ngập chìm trong máu, lửa “Trống trường thành lung linh bóng nguyệt. Khói cam tuyền mờ mịt thức mây”. Bao sinh linh tử trận, hay lâm nạn đã hóa thành những vong hồn phiêu diêu trong không gian với những nỗi niềm u uẩn... Thấu cảm và mong cầu sự siêu thoát tâm linh cho các vong hồn chiến binh, thập loại chúng sinh và vạn vật thì ngoài việc thờ cúng nơi đình chùa đền miếu còn có phiên chợ Âm Dương cũng vì ý nghĩa nhân văn ấy. Khi hoàng hôn mờ tỏ, bồng bềnh cùng sương khói trong không gian, xóm làng bàng bạc bức tranh thủy mạc, thấp thoáng lên đèn cũng là lúc dương đi âm đến. Người ta tất bật mang ra chợ những chú gà đen (phải chăng vì thế mà làng có tên gọi là ó?) đã được chăm sóc nuôi nấng cẩn thận. Trên một khoảng đất trống khá rộng cạnh một cái miếu thiêng trong làng chợ họp không đèn đuốc không lều quán. Những chú gà đen - vật tế thành hoàng làng và những bó hàng mã, hương đăng, gạo muối được bày la liệt thành dãy trong đêm sau 3 ngày Tết “Mồng Một thì ở nhà Cha, mồng Hai nhà Mẹ, mồng Ba nhà Thày”. Người mua không mặc cả, người bán không cần đếm tiền, họ cứ lặng lẽ trao tiền và đồ vật cho nhau như ngầm hiểu, thỏa thuận. Trong chốn “tù mù thiên địa”, người ta đang “mua may bán rủi” người cõi dương đang đi chợ với người cõi âm. Người mua kẻ bán nườm nượp nhưng không rõ ai là người ai là ma, mà phân biệt để làm gì? Từ người chết thuở làng ó còn hoang sơ toàn rừng rậm đầm lầy “dưới thì nước, trên thì mây mù, khí độc bốc lên ngùn ngụt” (Hậu Hán thư) đến người hy sinh vì Tổ quốc và những số phận rủi ro bất hạnh “nào ai mạc mặt nào ai gọi hồn”... Tất cả, vong linh muôn đời muôn kiếp rủ rín nhau về phiên chợ Âm Dương để sắm sửa, mua bán, đổi buồn lấy vui. Người ta không dám cười nói ồn ào vì sợ những hồn ma hoảng sợ, không dám thắp đèn vì sợ những chú gà đen tưởng ánh bình minh sẽ cất tiếng gáy gọi mặt trời khiến những hồn ma sẽ tan tác bay đi. Chỉ có ánh sáng của chòm sao Nam Tào - Bắc Đẩu vời vợi giữa thiên hà soi rọi cho các sinh linh đang hối hả giao thương, giao lưu. Ở đầu chợ có đặt một chậu nước để thử xem tiền cõi dương hay tiền cõi âm nhưng rồi vẫn phải cầm tiền ma. Có người đã kể rằng chính mình nhận rõ ràng là tiền thật nhưng sáng hôm sau xem lại thì thấy là một đống vỏ hến. Có người lại thấy vài mảnh bát, mảnh chai, viên sỏi hoặc chiếc cúc áo, mẩu... yếm sồi. Người có được những “vật quý” đó không tức bực, không cho mình bị thua thiệt trái lại hết sức vui sướng cho rằng đã có duyên làm điều phúc, điều thiện với những người đã chết. Chợ Âm Dương làng ó phải chăng là dấu vết hoài niệm chợ nguyên thủy trong thương nghiệp là một hình thức lễ hội đoàn tụ giao hòa hồn vía vũ trụ, con người trong các cõi trước mùa Xuân - biểu tượng của sự sinh thành? Chợ tan vào khoảng tám, chín giờ tối, người ta mời nhau vào các lầu quán bên đường xơi trầu, uống nước và hát canh Quan họ thâu đêm. Với những lời ca thiết tha được dồn nén, thăng hoa từ vạn thuở, người sống hát cho mình và hát cho cả người chết: Mặt trời đã tắt Đêm hội đã tàn Các phận hồng nhan Người mang về cả Cái giòn cái giã ở cả nơi người Nơi đứng nơi ngồi Trong thì xe thắm Ngoài thì xe thâm Mong kết tri âm Sao người chẳng biết... Phiên chợ Âm Dương đã tàn nhưng những câu hát “Liêu Trai” thấm đẫm tình người vẫn lưu luyến lòng ai, thầm hẹn mùa Xuân năm sau “đến hẹn lại lên”. Trương Thị Kim Dung
  23. Mệnh Song Hao + Thiên Đồng + Cơ Cự bản chất lúc nào cũng suy nghĩ, phân tích nhưng không kiên quyết dễ vì lý do nào đó mà tự thay đổi, kể cả vì suy tính quá nhiều mà thay đổi. Chưa kể Điếu Khách, Quan Phù tự làm bất lợi cho bản thân. Hay hóa dở. .
  24. Chào anh Lạc tướng, anh quả là rất nhiệt tình. Có quẻ này của anh chắc bạn Phoenix cũng yên tâm rùi. Anh luận rất là truyền cảm. Phoenix bổ sung thêm chút xíu: Người này thành công được là do (cần nhờ) được người nữ giúp đỡ. Nếu người nữ này nhiệt tình giúp thì sẽ thành công. Hè hè, trên đường thành công của một đức ông thì thường có bóng dáng của một quý bà :(
  25. Phoenix được đọc một tài liệu phổ biến nội bộ của Chính Phủ về tổng quan kinh tế và tài chính do Nhà nước thuê chuyên gia nước ngoài đánh giá, phân tích. Tình hình không khả quan như các bài báo và tin truyền hình của Việt Nam. Sắp tới có rất nhiều phức tạp và căng thẳng, nhất là cho doanh nghiệp. Một cuộc chơi thực sự dành cho những cái đầu phải biết tư duy. Tất nhiên, nếu cá bơi trong ao thì việc biển động với cá cũng chưa có nghĩa lý gì. Những con cá ngoài biển hoặc muốn vươn ra biển thì mệt nhưng nhiều cơ hội.