-
Số nội dung
1.107 -
Tham gia
-
Lần đăng nhập cuối
-
Days Won
2
Content Type
Hồ sơ
Forums
Calendar
Everything posted by phoenix
-
Bài trả lời của GSVS Trần Ngọc Thêm trước các ý kiến khen chê tác phẩm "Cơ sở văn hóa Việt Nam" trong diễn đàn thuvien-ebook.com. Nguồn: http://thuvien-ebook.com/forums/archive/in...php/t-3440.html tnthem06-07-2007, 01:19 AMXin chào các bạn, Xin tự giới thiệu: tôi là Trần Ngọc Thêm, người đang được các bạn nhắc tới ở đây. Hôm nay tình cờ tôi vào Diễn đàn này. Và tôi rất lấy làm thú vị khi được đọc về mình ở đây. Vì sự kính trọng với cách đặt vấn đề rất khách quan và khoa học của điều hành viên, người khởi xướng chủ đề này là anh tovanhung, tôi sẽ lần lượt giải đáp những vấn đề khoa học và cả phi khoa học đã nêu ra ở đây. Cuốn Cơ sở văn hoá Việt Nam của tôi ra mắt chính thức lần đầu tiên năm 1995. Đúng là ý́ kiến thảo luận rất nhiều, khen, chê đều có cả. Chê (tôi ghi theo trí nhớ, theo thứ tự xuất hiện thì có đầu tiên là bài của Nguyễn Văn Dương (tạp chí Văn nghệ tp. HCM), rồi đến bài của Trần Mạnh Hảo (trên báo Văn nghệ). Bài của Trần Mạnh Hảo viết lời lẽ rất nặng nề, nhiều chỗ có tính thoá mạ (ai đã biết TMH thì không có gì lạ, vì phong cách của nhà văn này là như thế). Mà báo Văn nghệ lúc bấy giờ rất thiếu khách quan. Tôi gửi bài trả lời đến thì họ lờ đi không đăng. Thông qua những kênh thông tin không chính thức tôi được biết rằng vì họ đã trót đăng bài của Trần Mạnh Hảo là chiến hữu của họ rồi nên đành phải vừa chửi vừa bịt mồm nạn nhân. Sau có một nhà báo thấy vậy đã đăng một bài dài phỏng vấn tôi trên báo Văn nghệ nhan đề “Gặp gỡ tác giả Cơ sở văn hoá Việt Nam”. Bài phỏng vấn này giải toả được nhiều điều mà TMH đã nêu ra. Báo Văn nghệ đăng tiếp bài của Cao Tự Thanh. Và lại một lần nữa bài trả lời của tôi gửi đến báo Văn Nghệ tiếp tục rơi vào im lặng. Nghiên cứu văn hoá và thể nghiệm sự nghiên cứu này, tôi hiểu rất rõ rằng lối làm việc cảm tính, thiếu tinh thần khoa học là một đặc trưng phổ biến của cư dân nông nghiệp lúa nước. Nhưng đến mức điều đó gặp ở khắp nơi, từ người thất học đến người có học, từ người viết bài đến người có trách nhiệm đăng bài thì đáng buồn biết bao, và ta sẽ hiểu rõ vì sao VN chậm tiến. Sau bài của Cao Tự Thanh, tôi có biết đến 2 bài nữa thiên về "chê" sách của mình. Bạn doom (21-09-2006) khẳng định rằng người chê thì "đông như quân nguyên" liệu có cảm tính quá đáng hay không? Nếu thực như vậy xin bạn vui lòng cho tôi danh sách các bài này để tôi tìm đọc và học tập. Để khỏi mất thì giờ chạy theo trả lời từng bài, trong lần tái bản thứ 3 cuốn “Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam” (năm 2001), tôi đã tập hợp các ý kiến phản bác của Nguyễn Văn Dương, Trần Mạnh Hảo, Cao Tự Thanh cùng một sô người khác và hệ thống hoá chúng lại để trả lời trong phần phụ lục của sách này. Những ý kiến trả lời đó đã đăng trên mạng http://www.vanhoahoc.edu.vn , thành 4 bài như sau: 1- Trần Ngọc Thêm. Đối thoại cùng bạn đọc: về khái niệm “văn hóa” và cấu trúc văn hóa (http://www.vanhoahoc.edu.vn/vn/Nghien-Cuu/Ly-Luan-Van-Hoa-Hoc/Nhung-Van-De-Chung/Tran-Ngoc-Them-Doi-Thoai-Cung-Ban-Doc-Ve-Khai-Niem-Van-Hoa-Va-Cau-Truc-Van-Hoa/) 2- Trần Ngọc Thêm. Đối thoại cùng bạn đọc: về hai loại hình văn hóa (http://www.vanhoahoc.edu.vn/vn/Nghien-Cuu/Ly-Luan-Van-Hoa-Hoc/Loai-Hinh-Van-Hoa-Va-Pho-Quat-Van-Hoa/Tran-Ngoc-Them-Doi-Thoai-Cung-Ban-Doc-Ve-Hai-Loai-Hinh-Van-Hoa/) 3- Trần Ngọc Thêm. Đối thoại cùng bạn đọc: về quan hệ văn hóa phương Bắc và phương Nam (http://www.vanhoahoc.edu.vn/vn/Nghien-Cuu/Van-Hoa-The-Gioi/Van-Hoa-Trung-Hoa/Tran-Ngoc-Them-Doi-Thoai-Cung-Ban-Doc-Ve-Quan-He-Van-Hoa-Phuong-Bac-Va-Phuong-Nam/) 4- Trần Ngọc Thêm. Đối thoại cùng bạn đọc: về vấn đề âm dương ngũ hành (http://www.vanhoahoc.edu.vn/vn/Nghien-Cuu/Ly-Luan-Van-Hoa-Hoc/Vu-Tru-Quan-Phuong-Dong-Voi-Ly-Luan-Van-Hoa-Hoc/Tran-Ngoc-Them-Doi-Thoai-Cung-Ban-Doc-Ve-Van-De-Am-Duong-Ngu-Hanh/) Những vấn đề Cao Tự Thanh đặt ra trong bài post ở trên đều có lời giải đáp trong 4 bài trên. Các bạn nào quan tâm, xin mời ghé đọc. Bạn flyingmagician (bài post 09-08-2006, 10:55 AM) có viết “nhớ mang máng là ông Thêm này xào xáo từ cuốn Việt nho cũng nhiều”. Xin trả lời: Thứ nhất là không có cuốn nào tên là “Việt nho” hết. Chỉ có một chủ thuyết như vậy của Lương Kim Định được trình bày trong nhiều sách khác nhau. Thứ hai, bất kỳ ai viết sách đều có trách nhiệm tham khảo các tác giả đi trước. Tôi tham khảo chỗ nào của ai thì dù là dẫn ý hay dẫn lời đều có chú xuất xứ đàng hoàng. Sau khi đọc sách của tôi, có rất nhiều bạn đọc (nay đều đã lớn tuổi) từng là học trò của GS. Lương Kim Định, đã liên hệ với tôi, ủng hộ tôi, nhưng̀ CHƯA CÓ MỘT AI kiện cáo tôi về chuyện tôi đạo văn thầy của họ. Xin hãy có trách nhiệm hơn với mỗi lời mình nói ra, cái gì biết rõ thì nói, cái gì không biết rõ thì hỏi chứ đừng nên nói "mang máng" như vậy. Lại càng không nên khẳng định võ đoán và vô trách nhiệm như bạn doom (21-09-2006). Bạn chocopie (21-08-2006, 08:23 PM) nhận rằng “năm 1999 mình là sinh viên của ông Thêm” và bạn đã viết: “Cuốn của Trần Ngọc Thêm vẫn còn là giáo trình của một số trường Đại Học, đáng buồn thay nó vẫn võ đoán như vậy, không có gì thay đổi”. Mỗi năm số người đã nghe tôi giảng (cả SV và các hệ khác) trung bình khoảng gần 1.000 người. Trong đó, khoảng 1/4 là những người thông minh, 1/4 là những người yếu kém, số còn lại thuộc diện trung bình (trung bình khá và trung bình kém). Cho dù chocopie thuộc loại nào trong số đó và thái độ của bạn ra sao thì tôi cũng luôn rất vui mỗi khi gặp lại học trò cũ của mình. “Ngày trước ông Thêm tự hào về cuốn này lắm, lúc đó mình chưa đủ hiểu biết để phản biện lại những gì viết trong cuốn sách đó, bây giờ đọc bài của các bạn mình mới hiểu ra được nhiều điều” (chocopie, 21-08-2006, 08:23 PM). Nói “tự hào” về cuốn CSVHVN thì hơi võ đoán quá. Nếu đáng tự hào thì tôi tự hào với “Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam” là một cuốn chuyên luận (dành cho người nghiên cứu – còn CSVHVN là giáo trình dành cho SV). TVBSVHVN dày gần 700 trang khổ lớn, đầy đủ và chi tiết hơn cuốn CSVHVN, cho đến nay đã tái bản 5 lần (1996, 1997, 2001, 2004, 2006), đã được dịch ra tiếng Pháp (cũng đã xuât bản 2 lần - 2001, 2006). Bản dịch tiếng Anh sắp ra mắt. Bản dịch tiếng Đức đang thực hiện. Đã có lời đặt hàng xin dịch ra tiếng Ý và tiếng Nhật. Tôi không chủ quan nhưng phải công bằng mà nói rằng những nhà khoa học, những người xuất bản... trong nước và nước ngoài chắc không đến nỗi gà mờ để in đi in lại và dịch thuật một tác phẩm không có giá trị. Những người đọc trẻ và lớn tuổi, trong nước và nước ngoài, tuy không có đều kiện nghe tôi trình bày trực tiếp như chocopie nhưng chắc họ cũng không đến nỗi gà mờ để phí tiền mua một ấn phẩm không có giá trị. Điều đó có nghĩa là các cuốn sách của tôi, tuy lúc đầu có ý kiến thế này thế kia, nhưng cuối cùng ý kiến khẳng định đã thắng. Trong kết quả đó, có phần đóng góp của những người đã ra sức phủ định – những phê phán của họ, tuy về lý luận chung thì sai, nhưng họ đã phát hiện ra một số chi tiết tôi nêu chưa chính xác, một số chỗ nói chưa rõ ý, giúp tôi sửa lại cho hoàn chỉnh hơn. Ấy là chưa kể, việc chê bai thái quá thường đem lại một kết quả trái ngược, trở thành một lời quảng cáo hiệu nghiệm không kém gì khen. Điều tôi vừa nói cũng chính là câu trả lời cho băn khoăn “đáng buồn thay nó vẫn võ đoán như vậy, không có gì thay đổi” của chocopie. Cuộc đời không dài để cứ lấn bấn về một công trình đã xong, nhưng cái chính là tôi chưa bao giờ phải quay lưng lại với những đứa con tinh thần của mình. Bây giờ nhìn lại tôi thấy tổng thể hệ thống quan niệm của mình không hề sai, nhiều điều thậm chí đã được giới khoa học chứng minh đầy đủ hơn. Bản thân tôi vẫn giữ nguyên hệ quan điểm đó và đang phát triển trong những công trình sắp ra mắt. Bạn đọc có thể thấy phần nào sự phát triển ấy qua nhiều bài có trên http://www.vanhoahoc.edu.vn. Tôi luôn mong nhận được những ý kiến tranh luận, phản bác. Các bạn có thể trao đổi với tôi trên diễn đàn này hay diễn đàn của website www.vanhoahoc.edu.vn (http://www.vanhoahoc.edu.vn) (nếu trao đổi trên các diễn đàn khác thì vui lòng báo giùm cho tôi theo địa chỉ ngocthem@gmail.com ). Chỉ cần người phản bác có thiện tâm, vì mục đích khoa học trong sáng, tôi sẵn sàng – như người xưa hay nói – “rửa tai để lắng nghe”. Nếu do hiểu lầm mà phản bác, tôi sẽ trao đổi lại. Nếu phản bác đúng, tôi sẵn sàng tiếp thu với lòng biết ơn. Theo tôi, dù là người chưa quen biết hay học trò cũ, dù là bè bạn hay kẻ thù, thì khi đã lên Diễn đàn, tức là ra công luận, đừng nên xem đây như một nơi vắng mặt khổ chủ để mà “nói cho sướng miệng” “sau lưng”. Hãy nên có trách nhiệm hơn với người khác và với chính lương tâm của mình. Nếu đã từng là học trò thì trách nhiệm đó có lẽ lại càng nặng nề hơn gấp bội.
-
Nhân trao đổi liên quan đến cuốn sách của GSVS Trần Ngọc Thêm, post thêm một bài tham khảo. Nguồn: thuvien-ebook.com Cơ sở văn hóa Việt Nam của Trần Ngọc Thêm (Cao Tự Thanh) Ngay sau khi vừa được phổ biến rộng rãi, quyển Cơ sở văn hóa Việt Nam (http://www.dunglac.net/tranngocthem/) của tác giả Trần Ngọc Thêm (http://www.dunglac.net/tranngocthem/) (Trường Đại học Tổng hợp thành phố HCM in, 1995) đã thu hút sự chú ý của nhiều người đọc sách. Bởi vì mặc dù chỉ là một tài liệu lưu hành nội bộ, đây lại là hóa thân của công trình Tính hệ thống của văn hóa Việt Nam - một đề tài khoa học cấp Bộ đã được nghiệm thu năm 1994 đồng thời là hậu thân của giáo trình cùng tên đã được đưa vào giảng dạy trong một số trường Đại học vài năm gần đây. Tác dụng xã hội của quyển sách do đó đã vượt khỏi phạm vi một công trình nghiên cứu văn hóa thông thường, nên việc nhìn nhận giá trị đích thực của nó là một điều cần thiết. Giở qua Cơ sở văn hóa Việt Nam, một người đọc bình thường cũng có thể thấy ngay rằng nó chứa đựng khá nhiều sai sót, trước hết do kiến thức cơ sở của tác giả về văn hóa và lịch sử Việt Nam. Báo Văn nghệ số 17 và 18 ngày 27. 4 và 4. 5. 1996 đã đăng tải một bài viết nêu ra hàng loạt sai lầm kỳ quặc loại cốm thóc nếp tẻ chiêm mùa trong quyển sách. Cũng có thể kể thêm nhiều ví dụ tương tự, chẳng hạn thực dân Pháp “lập ra Nam Kỳ tự trị” sau khi đánh chiếm luôn ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ năm 1867 (tr. 385), “Kim Đồng thời đánh Pháp, Võ Thị Sáu thời đánh Mỹ” (tr. 398)... Tuy nhiên, các học giả lớn đôi khi không biết tới những sự thật nhỏ, vả lại đó là hệ thống những sai sót mà người đọc bình thường nào cũng có thể đính chính ngay không cần tới “cách tiếp cận hệ thống” hay “phương pháp hệ thống - cấu trúc” sang trọng như Trần Ngọc Thêm, nên chúng chỉ làm tổn thất uy tín của riêng tác giả chứ không phương hại gì tới khoa văn hóa học. Điều quan trọng đáng nói là bên cạnh cái kiến thức cơ sở cần phải đính chính và bổ sung khá nhiều ấy, Trần Ngọc Thêm còn có một kiến thức lý thuyết và lý luận nông cạn và chắp vá về văn hóa. Chính sự nông cạn và chắp vá này mới làm hại cho văn hóa học, với các sai lầm của quyển sách về cả nội dung khoa học lẫn định hướng thực tiễn, về cả phương pháp nghiên cứu lẫn thao tác chứng minh. Tình hình này thể hiện đặc biệt rõ nét ở hai chương đầu (Văn hóa học và văn hóa Việt Nam và Văn hóa nhận thức), mà trước tiên là ngay từ định nghĩa về văn hóa. Khởi đi từ cách hiểu “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình”, Trần Ngọc Thêm đi tới kết luận văn hóa gồm bốn đặc trưng (tính hệ thống, tính giá trị, tính lịch sử, tính nhân sinh) và ba chức năng cơ bản (tổ chức xã hội, điều chỉnh xã hội, giáo dục) (tr. 20 - 24). Ở đây không phải chỗ để vạch chữ tìm nghĩa, nhưng tính chủ động, tính nhân đạo hay chức năng nhận thức, chức năng định hướng, chức năng tái tạo thế giới... của văn hóa là những điều cần đề cập mà chưa được đề cập hay đề cập chưa đúng mức trong quyển sách cho thấy Trần Ngọc Thêm chưa thực sự nắm vững bản chất của văn hóa. Bởi vì văn hóa là một hệ thống giá trị, nhưng nhìn từ một góc độ khác, nó còn là một thế giới quan (worldview) thể hiện và phản ảnh sự lựa chọn của con người trong những điều kiện sống nhất định, sự lựa chọn này biến hệ thống các giá trị văn hóa thành hệ thống chuẩn mực xã hội trước hết trong các hành vi sáng tạo. Và ngay định nghĩa nói trên cũng chưa chính xác. Các giá trị văn hóa luôn luôn được tạo ra trong những điều kiện cụ thể và một cách có mục đích, nên văn hóa không chỉ bao gồm các giá trị được tạo ra mà còn cả những cách thức sáng tạo và sử dụng các giá trị ấy. Dĩ nhiên những cách thức này cũng là những giá trị do con người tạo ra, nhưng đó là một loại giá trị đặc biệt, mang ý nghĩa định tính và đóng vai trò thước đo về trình độ phát triển của mọi nền văn hóa. Vì nếu phương thức phát triển của hệ thống các giá trị được tạo ra chủ yếu là thay thế, phủ định lẫn nhau thì của hệ thống những cách thức sáng tạo và sử dụng này chủ yếu lại là kế thừa, bổ sung cho nhau, nên nó lưu trữ nhiều kinh nghiệm và trí tuệ hơn đồng thời cũng có khả năng dự báo và định hướng cao hơn. Nói theo ngôn từ của các nhà ngôn ngữ học thì đây chính là các yếu tố ngữ pháp và phong cách của một nền văn hóa, cũng vận động và thay đổi theo lịch sử nhưng luôn mang tính ổn định, thống nhất cao hơn hẳn so với các yếu tố từ vựng và ngữ âm. K. Marx từng có một kết luận cần nhắc lại về vấn đề này “Những cá nhân biểu hiện đời sống của mình như thế nào thì họ là như thế ấy, do đó họ là như thế nào, điều đó ăn khớp với sản xuất của họ, với cái mà họ sản xuất cũng như cách họ sản xuất” (K. Marx và F. Engels, Tuyển tập, tập I, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1980, tr. 269). Cho nên với định nghĩa của Trần Ngọc Thêm, người ta sẽ không thấy được sự khác biệt văn hóa giữa hai cái ngạnh trên chiếc lưỡi câu thời tiền sử và thời hiện đại : trên phương diện là một giá trị được tạo ra thì cái ngạnh ấy đã được hoàn chỉnh hàng ngàn năm trước về mặt công cụ để đảm bảo chức năng giữ chặt con cá câu được của nó rồi, nên sự phát triển văn hóa ở đây chỉ nằm trên phương diện cách thức tạo ra, tức kỹ thuật chế tác công cụ ma thôi. Tương tự, hai ca sĩ tài năng đều có thể thành công khi trình bày cùng một bài hát nhưng chắc chắn họ sẽ đưa lại cho người nghe hai cảm xúc thẩm mỹ khác nhau : rõ ràng nhiều giá trị văn hóa đã được tạo ra ngay trong quá trình con người sử dụng - tiêu dùng các giá trị văn hóa. Tóm lại, định nghĩa nói trên chỉ mới đề cập tới cái lượng, cái hình chứ chưa giới thiệu được về cái chất, cái thần của văn hóa. Không lạ gì mà Trần Ngọc Thêm đã chạy theo số lượng khi nỗ lực giành quyền tác giả cho phương Nam, cho Bách Việt các giá trị loại Hà đồ, Lạc thư trên một đường hướng ít minh bạch và với những thao tác thiếu thẳng ngay kiểu nhập nhằng đánh đồng phương Nam với Việt Nam, Bách Việt với Lạc Việt. Ở đây cũng cần nhìn qua sự hiểu biết của tác giả Cơ sở văn hóa Việt Nam về những khái niệm loại âm dương, Ngũ hành, Bát quái..., vì giới thiệu chúng trong chương Văn hóa nhận thức, Trần Ngọc Thêm đã công nhiên gieo rắc nhiều kiến thức sai trái ngoài việc mặc nhiên coi chúng là uyên nguyên của truyền thống triết học và tư tưởng Việt Nam. Trước hết, hãy nói tới những kiến giải về âm dương. Triển khai hai phạm trù nhận thức này vào việc tìm hiểu lịch sử văn hóa, trong nhiều chương sau, Trần Ngọc Thêm đã nhiều lần nhắc lại về hai hệ thống văn hóa - nền văn hóa du mục (và gốc du mục) trọng dương thiên động phương Bắc và nền văn hóa nông nghiệp trọng âm thiên tĩnh phương Nam. Lối phân loại và khái quát lịch sử văn hóa của nhân loại theo một mô hình đăng đối như thế chính xác tới mức nào thì tạm thời chưa bàn, chỉ cần nói ngay rằng Trần Ngọc Thêm đã sai lầm ngay từ những kiến giải về âm dương với việc lấy hình thức làm loại hình, đem khái niệm làm thuộc tính. Ví dụ ở đoạn về “Hai quy luật của triết lý âm dương”, Trần Ngọc Thêm viết “Quy luật về Bản chất của các thành tố : không có gì hoàn toàn âm hoặc hoàn toàn dương, trong dương có âm và trong âm có dương”, rồi nêu ra hai yêu cầu khi xác định tính chất âm dương của một đối tượng là phải “xác định đối tượng so sánh” và “xác định cơ sở so sánh” (tr. 82). Chỉ có một điều gần đúng, vì phải được đặt vào ít nhất là một quan hệ với ít nhất là một sự vật, hiện tượng khác cùng hệ thống thì một sự vật, hiện tượng mới có thể được coi là âm hay dương, chứ tự thân nó thì chẳng âm cũng chẳng dương gì cả, cũng như Thái cực vốn vô đối nên không phân âm dương vậy. Nhưng thao tác gần đúng ấy lại bị “sai hóa” trong hệ thống cấu trúc kiến thức về âm dương của Trần Ngọc Thêm mà trở thành một lối lập luận bị động, đối phó vì bị gắn với một quan niệm sai lạc gán cho tất cả các sự vật trên đời hai thuộc tính âm hay dương hoặc ít hoặc nhiều! Chính vì vậy mà quyển Cơ sở văn hóa Việt Nam đầy rẫy những lập luận ngụy khoa học và kết luận phi lịch sử kiểu “... tên gọi các đối lập cơ bản, thiết yếu (cũng tức là xuất hiện trước nhất) đều tuân theo thứ tự âm trước, dương sau : âm dương, vợ chồng, chẵn lẻ, vuông tròn... (tên gọi các đối lập không cơ bản như cha mẹ, ông bà... xuất hiện muộn hơn, do vậy đã chịu ảnh hưởng gốc du mục trọng nam, trọng dương tính)” (tr. 91). Thật không sao tin nổi rằng tiếng Việt có từ “vợ chồng” trước khi có những từ như “bố cái”,”cha mẹ”, và thật không rõ vì sao tổ tiên ta lại nói “đực cái”, “trống mái” mà không nói ngược lại cho nó trọng âm, trong khi chắc chắn họ phải có ý niệm về đực cái trống mái trước khi có ý niệm vợ chồng mà cũng không cần gì chịu ảnh hưởng của văn hóa gốc nào. Hơn thế nữa, nếu triển khai lập luận và kết luận ấy thì có lẽ ngay cả các nhà ngôn ngữ học cũng đớ lưỡi không nói được các từ ghép loại sông núi - núi sông, trắng đen - đen trắng, ngày đêm – đêm ngày, gạo thóc - thóc gạo là được cấu tạo theo thứ tự trọng âm hay trọng dương ! Bởi vì âm dương là một cặp khái niệm biểu kiến trong tư duy triết học của người phương Đông cổ, nó phản ảnh và khái quát hóa một cách đơn giản nhưng hàm súc sự khác biệt mang tính thống nhất biện chứng giữa các hiện tượng, lãnh vực và quá trình của thế giới chứ không phải là bản chất hay thuộc tính của các hiện tượng, lãnh vực và quá trình ấy... như lối nhận thức và suy diễn của Trần Ngọc Thêm. Về Ngũ hành thì phức tạp hơn, nên Trần Ngọc Thêm càng hiểu ít hơn. Quyển Cơ sở văn hóa Việt Nam giảng giải về Ngũ hành sinh khắc theo kiểu trực quan giống hệt các sách Tử vi nhập môn, nhưng tác giả chưa hiểu được sự tinh tế của cổ nhân khi đặt ra các quan hệ ấy nên mới giải thích Mộc khắc Thổ như “cây hút chất màu của đất” (tr. 104). Nói như vậy thì là Thổ chứ đâu phải Thủy sinh Mộc? Quan hệ tương sinh tương khắc ở đây cũng là những phạm trù biểu kiến trong tư duy triết học của người Trung Hoa cổ, chúng phản ảnh sự mâu thuẫn có tính hiện tượng, bề mặt và sự thống nhất có tính bản chất, bên trong của giới tự nhiên. Nếu Trần Ngọc Thêm thực sự có một “cách tiếp cận hệ thống” thấu đáo và nhất quán thì sẽ thấy ngay rằng các quan hệ tương khắc là các quá trình cơ lý không đưa tới những biến đổi về chất (đất ngăn nước, nước dập lửa, lửa nung sắt, sắt chặt cây, rễ cây phá đất), còn các quan hệ tương sinh mới là các quá trình hóa sinh đưa tới những biến đổi về chất của Ngũ hành. Bên cạnh đó, để phản ảnh chi tiết hơn về giới tự nhiên, các quan hệ sinh khắc còn được chia ra làm hai dạng xuất nhập, chẳng hạn Kim khắc Mộc là Kim khắc xuất còn Mộc bị khắc nhập, Kim sinh Thủy là Kim sinh xuất còn Thủy được sinh nhập..., ngoài ra còn phải kể tới các quan hệ trùng hành kiểu “Lưỡng Hỏa Hỏa diệt, lưỡng Kim Kim khuyết, lưỡng Mộc Mộc chiết” mà có lẽ Trần Ngọc Thêm chưa biết. Nếu nhìn trên một diễn tiến tương sinh khởi từ Thổ (Thổ là mẹ muôn vật, Thủy là nguồn muôn vật, không có Thổ không sinh, không có Thủy không trưởng...) thì quá trình vận động của Ngũ hành là Thổ => Kim => Thủy => Mộc => Hỏa => Thổ... Tuy nhiên, Thổ sinh Kim nhưng khắc Thủy tức là khắc cái mà Kim sinh, Kim sinh Thủy nhưng khắc Mộc tức là khắc cái mà Thủy sinh...: rõ ràng người xưa đã thấy sự chuyển hóa giữa hai mặt thống nhất và đối lập trong quá trình vận động, phát triển của thế giới. Nhưng mô hình Ngũ hành còn thiếu sót trong việc phản ảnh một thế giới thống nhất, hoàn chỉnh, đa dạng và tự vận động. Thứ nhất, nó bao gồm năm yếu tố đẳng lập nên phải được thể hiện bằng một hệ thống không gian, không thể “nhất ngôn dĩ quán chi” nên lại tạo ra ý niệm về một thế giới bị chia cắt thành năm phần trong nhận thức, mặt khác thế giới ấy có điểm không nhất quán : hành Thổ về phương vị thì có vai trò định vị, thống thuộc các hành còn lại vì đứng ở trung ương còn trong quan hệ cả tương sinh lẫn tương khắc thì lại ngang hàng với bốn hành kia vì phải nằm trên một chuỗi năm điểm liên tục để đảm bảo tính liên tục trong sự vận động của thế giới. Thứ hai, sơ đồ tương sinh không ghi nhận được một cách đồng thời các quan hệ tương khắc (Thổ => Thủy => Hỏa => Kim => Mộc => Thổ...), bằng chứng là ngay cả Trần Ngọc Thêm với “phương pháp hệ thống - cấu trúc” được vài giáo sư khen nức nở mà cũng phải vẽ thành hai bảng riêng rời với sự bố trí Ngũ hành khác hẳn nhau chứ không hệ thống hóa và đồng hiện được trong một cấu trúc chung nhất (tr. 104), tình hình này không ăn khớp với quy luật trong khắc có sinh trong sinh có khắc nói theo triết lý âm dương. Thứ ba, các sơ đồ ấy không phản ảnh được đầy đủ thực tế, chẳng hạn Thủy khắc Hỏa nhưng gặp lúc “nước gáo lửa xe” thì kẻ bị cháy nhà chỉ còn cách bỏ của chạy lấy người, hay Thổ khắc Thủy nhưng vẫn có chuyện “Đê dài sắp vỡ, một vốc đất khó nỗi duy trì” nói như Nguyễn Trãi, mặt khác nhìn lên hai sơ đồ sinh khắc thì chỉ thấy Thổ là Thổ hay Thủy là Thủy, không có các dạng đan xen, phối hợp giữa năm hành kiểu “Thổ đới Thủy, Hỏa đới Kim” như giới Tử vi về sau tạo ra, tóm lại không làm rõ được sự khác biệt giữa lượng và chất, giữa nguyên lý và thực tế... Thứ tư, các quan hệ sinh khắc nói trên không thể hiện rõ sự vận động nội tại của sự vật, những thay đổi, chuyển biến mà đặc biệt là ở các quan hệ tương khắc chỉ được mô tả như các vận động có động lực bên ngoài. Chính các thiếu sót ấy đã hạn chế khả năng ứng dụng của thuyết Ngũ hành trong đời sống xã hội, trong việc tổng kết, lý giải và dự báo về hiện thực xã hội, và người xưa đã tìm tới Bát quái. Tới Bát quái thì phải thẳng thắn để nói rằng Trần Ngọc Thêm không biết gì cả nhưng lại viết khá nhiều và đặc biệt là như rất biết, đây dường như cũng là biệt tài của một số học giả đời nay... Truyền thuyết từ Bát quái Tiên thiên tới Bát quái Hậu thiên thật ra phản ảnh quá trình hình thành rồi định hình của Bát quái, chứ hoàn toàn không phải vì thay đổi mục đích sử dụng như Trần Ngọc Thêm viết (hay chép đâu đó) rằng với sự điều chỉnh để làm chính trị của Chu Văn vương, hệ thống Bát quái Tiên thiên phản ánh các hiện tượng tự nhiên đã trở thành mô hình Bát quái Hậu thiên phản ánh các hiện tượng xã hội (tr. 111 - 113). Từ khi hình thành, Bát quái luôn luôn hướng tới mục đích tìm hiểu hiện thực khách quan trong đó chủ yếu là đời sống xã hội. “Quái giả quải dã. Huyền quải vật tượng dĩ thị ư nhân, cố vị chi quái” (Quái (quẻ) là quải (treo). “Treo” các hiện tượng thiên nhiên lên để tỏ việc cho người, nên gọi là quái). Các tượng quẻ như Trời Đất Lửa Nước... là một cách nói hình tượng (về cả ngôn ngữ lẫn chữ viết thì Càn Khôn Ly Khảm đều không phải là Thiên Địa Hỏa Thủy), các danh hiệu Chấn Trưởng nam, Đoài Thiếu nữ... cũng chỉ là một cách nói hình tượng để dễ ghi nhớ thứ tự theo âm dương của sáu quẻ Chấn Khảm Cấn Tốn Ly Đoài, còn phương vị của Bát quái trong không gian cũng tương tự như Ngũ hành, đều là các quy ước mang tính biểu trưng. Nhưng điều quan trọng nhất mà Trần Ngọc Thêm không biết về Bát quái là nó không mô tả một thế giới năm thành phần như Ngũ hành. Nó coi thế giới là nhất nguyên nhất thể (Thái cực), các khác biệt của thế giới là do sự vận động nội tại tạo ra (Thái cực sinh Lưỡng nghi), và bản thân các khác biệt ấy cũng hàm chứa sự vận động nội tại phủ định chính chúng (Lưỡng nghi sinh Tứ tượng, tức trong Thái âm có Thiếu dương, trong Thái dương có Thiếu âm)..., còn nó là các hiện thực khác nhau trong quá trình vận động nói trên. Sơ đồ Bát quái nhờ vậy đã giản lược được yếu tố không gian, nên Bát quái chỉ còn phải phản ảnh thế giới trong sự vận động của nó trên trục thời gian, hay nói gọn hơn, mỗi quẻ trong Bát quái là một thời điểm của hiện thực. Do không biết điều sơ đẳng này, Trần Ngọc Thêm đã trượt dài trên con đường sai lạc tới bảng so sánh Ngũ hành và Bát quái về lối tư duy với các cứ liệu (nhờ suy diễn mà có) là mỗi hành trong Ngũ hành “có nhiều nghĩa, vừa cụ thể vừa trừu tượng, có quan hệ tương sinh tương khắc, bao quát được cả trung tâm”, còn mỗi quẻ trong Bát quái “chỉ có một nghĩa, luôn rất cụ thể, không có quan hệ gì với quẻ khác, bỏ trống trung ương” (tr. 115). Nhưng không thể so sánh Ngũ hành với Bát quái kiểu ấy, vì nó cũng giống như nói “Anh ấy bị thương hai lần, lần ở chân nặng hơn lần ở Trường Sơn” vậy. Ngũ hành trước hết là các yếu tố tự nhiên, được khái quát hóa thành hệ thống khái niệm phản ảnh nhận thức của con người về các hiện tượng, lãnh vực và quá trình của giới tự nhiên, còn Bát quái là các khái niệm nhân tạo, được vận dụng như hệ thống phương tiện để nhận thức về các quá trình của thế giới, đặc biệt là của hiện thực xã hội. Cần nói thêm rằng phải hiểu một quẻ (cả đơn quái lẫn trùng quái) là một thời điểm biểu kiến của hiện thực thì mới đúng tinh thần “Dịch giả dịch dã” (Dịch là biến đổi) của kinh Dịch. Chính vì nhìn nhận Bát quái trên một sơ đồ không gian như Ngũ hành nên Trần Ngọc Thêm mới nói liều rằng mỗi quẻ trong Bát quái không có liên hệ gì với quẻ khác và Bát quái bỏ trống trung ương. Hệ thống các quẻ trong Bát quái liên hệ với nhau rất chặt chẽ, chẳng hạn mỗi quẻ (đơn quái) đều có thể biến thành bảy quẻ kia nếu đổi các hào dương thành hào âm và ngược lại, còn cái trung ương mà Trần Ngọc Thêm cho là thiếu ấy thì thật không ai chỉ ra được cho thời gian. Nếu nói cho thật đúng với kinh Dịch thì trung ương của Bát quái chính là cái không gian biểu kiến tức phần thể là đồ hình Thái cực Lưỡng nghi Tứ tượng, chứ Bát quái chỉ là phần dụng của cái thể Thái cực ấy mà thôi... Cũng có thể đọc thấy một vài đoạn viết liều lĩnh tương tự về Tứ đại (đất nước lửa gió), tóm lại về triết học cổ phương Đông thì sự hiểu biết của Trần Ngọc Thêm hiện tại may ra chỉ đủ để nghe giảng mà biết chứ chưa đủ để tự học mà hiểu, vậy lấy gì mà dạy cho các sinh viên bất hạnh phải học âm dương Ngũ hành Bát quái qua quyển Cơ sở văn hóa Việt Nam? Sau chương Văn hóa nhận thức, quyển Cơ sở văn hóa Việt Nam còn có một số chương mang tên Văn hóa tổ chức cộng đồng..., Văn hóa ứng xử với môi trường tự nhiên, Văn hóa ứng xử với môi trường xã hội, tóm lại tác giả chia văn hóa làm bốn phân hệ là Nhận thức, Tổ chức cộng đồng, Ứng xử với tự nhiên, Ứng xử với xã hội, trong đó những vấn đề như Phật giáo được xếp vào phân hệ Ứng xử với xã hội còn những vấn đề như Tín ngưỡng được xếp vào phân hệ Tổ chức cộng đồng. Thật là một cấu trúc có thể làm đảo lộn quan niệm của những người tìm hiểu văn hóa trong nhiều năm, có điều không thấy tác giả nêu ra căn cứ nào để lý giải về cách phân loại văn hóa không giống ai ấy. Con người không còn là con vật từ khi họ biết sản xuất, nghĩa là có ý thức sáng tạo ra những giá trị vốn không có trong tự nhiên. Và nếu lấy sự phân công lao động làm tiêu chuẩn phân loại thì có thể chia các hoạt động xã hội của con người ra làm năm kiểu (lãnh vực) cơ bản là sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần, quản lý, giao tiếp và tái sản xuất sinh học - xã hội. Sự nghiên cứu, phân loại văn hóa không thể tách rời năm lãnh vực hoạt động cơ bản này. Nhưng khởi đi từ một kiến thức thiếu sót về văn hóa học, Trần Ngọc Thêm lại đi tới một tiêu chuẩn phân loại độc đáo kiểu như xếp Phong tục vào phân hệ Tổ chức cộng đồng (Đời sống cá nhân) và xếp Nho giáo vào phân hệ Ứng xử với xã hội! Nhưng Nho giáo đâu phải chỉ là một cách ứng xử? Hệ thống học thuật - lý luận (Nho học) bao gồm vũ trụ quan, lịch sử quan của nó là một giá trị tinh thần to lớn, và hệ thống chuẩn mực xã hội - tam cương ngũ thường của nó đã thực sự là yếu tố cơ bản trong hoạt động quản lý xã hội của các quốc gia Nho giáo suốt nhiều trăm năm. Và cũng dễ thấy là Trần Ngọc Thêm không biết gì về Nho giáo từ nội dung học thuật tới lịch sử phát triển nên đã áp đặt cho nó những yếu tố “nông nghiệp phương Nam” theo một lối suy diễn rất kỳ lạ. Chẳng hạn câu Khổng tử trả lời Tử Lộ trong Trung dung theo đó ông chia sự mạnh mẽ ra “Nam phương chi cường” và “Bắc phương chi cường” rồi khẳng định người quân tử theo “Nam phương chi cường” thì Trần Ngọc Thêm hiểu đó là “cái mạnh của phương Nam” và “cái mạnh của phương Bắc” (tr. 349) rồi kết luận là Khổng tử đề cao văn hóa phương Nam! Nam phương, Bắc phương đây tức Nam diện (quay mặt về Nam, chỉ kẻ trên) và Bắc diện (quay mặt về Bắc, chỉ kẻ dưới), và hai khái niệm nói trên phải được hiểu là “Cái mạnh của người trên” và “Cái mạnh của người dưới” mới đúng với học thuyết của Khổng tử vốn chia con người làm hai loại là người trên – người dưới, quân tử - tiểu nhân, kẻ lao tâm - kẻ lao lực... Cái học về văn hóa của Trần Ngọc Thêm đại để chắp vá như thế, nên cứ khai thác một vài khía cạnh hình thức để tách sự vật ra khỏi hệ thống có thật của nó rồi ấn vào hệ thống của mình. Và hệ thống về văn hóa của Trần Ngọc Thêm ra sao? Nét độc đáo trong lập luận của Trần Ngọc Thêm là căn cứ vào triết lý âm dương mà chia văn hóa thành hai hệ thống du mục (và gốc du mục) trọng dương thiên động phương Bắc và nông nghiệp trọng âm thiên tĩnh phương Nam. Từ góc độ thao tác luận mà nhìn thì hệ thống ấy quả rất nhất quán và chặt chẽ, có điều nó chỉ phản ảnh kiến thức về văn hóa của tác giả chứ không phải về hiện thực văn hóa của loài người. Thứ nhất, nếu triển khai lập luận Bắc là du mục, Nam là nông nghiệp ấy thì văn hóa Việt Nam trước thế kỷ XVII sẽ mang tính du mục cao hơn văn hóa Campuchia, nhưng chính người Việt Nam chứ không phải người Campuchia đã khai phá thành công đồng bằng Nam Bộ, hay vào thế kỷ XVII - XVIII văn hóa Việt Nam ở Đàng Trong sẽ mang tính nông nghiệp cao hơn ở Đàng Ngoài..., mà mọi người đều biết vào thời gian này đời sống văn hóa - xã hội Đàng Trong lại chịu ảnh hưởng kinh tế hàng hóa tiền tư bản nhiều hơn ở Đàng Ngoài chứ không phải mang nhiều yếu tố nông nghiệp “trọng âm thiên tĩnh” hơn. Thứ hai, với việc lấy hình thức làm loại hình mà coi hoạt động chăn nuôi kiểu du mục không thuộc phạm trù sản xuất nông nghiệp như Trần Ngọc Thêm thì nông nghiệp chỉ còn là trồng trọt đồng thời phải kể thêm vài loại văn hóa khác như “văn hóa du nông” của nhiều tộc người du canh du cư ở miền núi hay “văn hóa đánh bắt” của các cư dân hải đảo... Thứ ba, chia văn hóa làm hai hệ thống có nguồn gốc Bắc - Nam, Trần Ngọc Thêm vô hình trung còn sa vào một loại quyết định luận địa lý về văn hóa, vì nhìn từ khía cạnh phương pháp nghiên cứu thì hệ thống hai nền văn hóa trọng âm - trọng dương ấy là một kết luận đã có trước khi chứng minh, không xuất phát từ thực tế văn hóa sử. Thứ tư, hệ thống của Trần Ngọc Thêm không những không lý giải được sự phát triển văn hóa trong những hoàn cảnh khác nhau về kinh tế, xã hội, khoa học, chính trị... mà còn không làm rõ được cả sự tiến triển văn hóa nói chung, vì với những dương biến thành âm, âm biến thành dương kia thì văn hóa sử chỉ còn là một vòng tròn không lối thoát chứ đừng nói tới việc bước qua kỷ nguyên Tin học... Tất cả những điều nói trên khiến Cơ sở văn hóa Việt Nam trở thành một công trình không có giá trị thực tiễn cũng như khoa học : mặc dù thừa hưởng và sử dụng kết quả đúng đắn và phát hiện quan trọng của nhiều nhà nghiên cứu, nhiều ngành khoa học, nó cũng vẫn không tổng kết được, không lý giải đúng và dĩ nhiên càng không thể dự báo về văn hóa Việt Nam. *** Để chỉ ra đầy đủ và lý giải rốt ráo những sai lầm trong quyển Cơ sở văn hóa Việt Nam thì còn phải tốn thêm rất nhiều giấy mực, đây là chưa nói tới việc vì tiết kiệm thời giờ của người đọc mà bài viết này không đề cập tới những chứng cứ đáng buồn về sự liêm khiết trí thức của Trần Ngọc Thêm... Nhưng những điều đó nếu có cần thiết cũng không quan trọng. Điều quan trọng nhất là phải xử sự với quyển sách một cách xứng đáng. Nó phải được đưa ra khỏi hệ thống các giáo trình văn hóa học hiện hành trong các trường Đại học càng sớm càng tốt. Còn về trách nhiệm để cho một thứ khoa học phẩm nhiều sai lầm mà ít kiến thức như vậy được công nhiên lưu hành đến nay trong các trường Đại học thì xin nhường lời cho giới chức hữu quan. Cao Tự Thanh Tháng 7. 1996 Mời các bạn xem các bài trả lời của Tác giả Trần Ngọc Thêm: 1- Trần Ngọc Thêm. Đối thoại cùng bạn đọc: về khái niệm “văn hóa” và cấu trúc văn hóa (http://www.vanhoahoc.edu.vn/vn/Nghien-Cuu/Ly-Luan-Van-Hoa-Hoc/Nhung-Van-De-Chung/Tran-Ngoc-Them-Doi-Thoai-Cung-Ban-Doc-Ve-Khai-Niem-Van-Hoa-Va-Cau-Truc-Van-Hoa/) 2- Trần Ngọc Thêm. Đối thoại cùng bạn đọc: về hai loại hình văn hóa (http://www.vanhoahoc.edu.vn/vn/Nghien-Cuu/Ly-Luan-Van-Hoa-Hoc/Loai-Hinh-Van-Hoa-Va-Pho-Quat-Van-Hoa/Tran-Ngoc-Them-Doi-Thoai-Cung-Ban-Doc-Ve-Hai-Loai-Hinh-Van-Hoa/) 3- Trần Ngọc Thêm. Đối thoại cùng bạn đọc: về quan hệ văn hóa phương Bắc và phương Nam (http://www.vanhoahoc.edu.vn/vn/Nghien-Cuu/Van-Hoa-The-Gioi/Van-Hoa-Trung-Hoa/Tran-Ngoc-Them-Doi-Thoai-Cung-Ban-Doc-Ve-Quan-He-Van-Hoa-Phuong-Bac-Va-Phuong-Nam/) 4- Trần Ngọc Thêm. Đối thoại cùng bạn đọc: về vấn đề âm dương ngũ hành (http://www.vanhoahoc.edu.vn/vn/Nghien-Cuu/Ly-Luan-Van-Hoa-Hoc/Vu-Tru-Quan-Phuong-Dong-Voi-Ly-Luan-Van-Hoa-Hoc/Tran-Ngoc-Them-Doi-Thoai-Cung-Ban-Doc-Ve-Van-De-Am-Duong-Ngu-Hanh/)
-
Nguồn: http://www.mottramdo.com/blog/viewblog/33729 Chửi bậy Từ thời xa xưa ... lâu lắm rồi ý , cái thời ông bà già bọn ấy cắp sách tới trường ý Người ta quan niệm : " Chửi bậy " là xấu , rất xấu , cực kì xấu , nói chung là xấu ... xấu , xấu lắm , xấu nhắm nhắm ! 1 học sinh giỏi , nhà giàu , đẹp trai ... cũng chỉ vì 1 câu vô tình chửi bậy mà có thể bị tẩy chay , không có cô gái nào muốn tiếp cận ... Vậy mà bây giờ , chửi bậy nó trở thành một cái gì đó khó có thể thiếu được đối với tất cả mọi người Từ các bác xe ôm vô cùng tôn kính đến các bác tài xế xe bus đức cao vọng trọng Từ các giám đốc công ti kinh doanh rau củ quả , thịt bò , thịt gà , thịt lợn , thịt chó , thịt nọ thịt kia , nói chung là thịt ở các vỉa hè , xó chợ ... đến các giám đốc công ti giải trí , kinh doanh "thịt" cho người lớn ... (thịt này mình cũng thích ) Từ các bác nông dân chân to đến các bác nông dân chân bé , kể cả các bác nông dân chân thối Từ già đến trẻ Từ các quán nước vỉa hè đến các quán karaoke ... Từ ngoài đường về đến nhà ... từ nhà lại đến trường học ... Từ học sinh đến sinh viên , kể cả giáo viên cũng dính chàm Từ trường chất lượng cao , "truẩn quốc gia" đến các trường vớ va vớ vẩn Từ các bạn trai đến các bạn gái Từ các bạn học ngu , chơi giỏi đến các bạn học giỏi chơi ngu ... và đặc biệt có cả các bạn học ngu , chơi cũng ngu. Tớ cũng xin được lấy dẫn chứng luôn.Hôm rồi thằng bạn call đi uống cafe Ngồi góc quán cà phê có mấy thằng tây xì xồ cái mẹ gì nghe như đàn gẩy tai trâu, ngứa kon dáy. Bỗng thấy thằng bạn bật dậy đi sang bàn bọn nó, vừa cười tươi vừa nói - Hey, hê lố, DM thằng tây Thấy nó ngẩn ra một lúc hỏi lại: - What’s your name? - My name’s Minh -DM thằng Minh. Bọn tây ở Hà Nội cũng nhiễm nhiều cái thói quen chửi bậy. Đợt tớ còn gặp 2 thằng tây đi xe đạp chỗ ngã tư Phạm Ngọc Thạch gặp nhau giơ tay chào nhau: - A..DM ri chác - DM mai kơn Cả đường quay lại nhìn với ánh mắt tò mò. Hỏi ra mới biết, các ku nói thế nhưng cũng chả hiểu nó có nghĩa <Nói bậy thì đi chỗ khác mà chơi> gì nữa. Vì thấy các bạn trẻ Hà Nội gặp nhau hay nói đm nên tưởng là 1 câu chào. Chửi bậy đã là một phần trong cuộc sống, chỗ nào cũng chửi được, đến trẻ con cũng chửi… thậm chí là rất phũ, nhất là cái bọn chọi con 10x, chửi những câu làm tôi giật mình: - ĐM mày làm bố mày chết rồi đấy - Cả nhà mày ý, mày có tinh chưa mà đòi làm bố tao. Tớ là tớ sợ nhất cái bọn 10x này này, bé mà láo, bé mà gấu, bé mà dâm… ôi thôi. Thói côn đồ và những hành vi thú tính tuổi học sinh giờ không phải hiếm. Với cái kiểu dạy con chửi bậy từ bé thì đấy là kết quả tất yếu. Hôm mình ra chỗ trường Đặng Trần Côn A chứng kiến tận mắt có bà bế đứa bé chỉ vào đứ bé khác đứng trước mặt: - ịt pẹ mày, chửi nó đi con… ịtttt…. pẹeee… màyyyy…. Dường như bây giờ chửi bậy trở thành một nét văn hóa của người Việt mất rồi Rút cuộc chửi bậy nhằm mục đích gì? Mà tại sao phải chửi bậy? Theo tâm lý học thì như thế này: Chửi bậy là một hiện tượng thường gặp trong xã hội , một kiểu phản xạ tâm lý để bầy tỏ thái độ ,hoặc là cách giải toả bức xúc ,khi chửi chủ thể thường đem những phạm trù sau ra để gắn với khách thể : Có 6 phạm trù hix chả biết có nhớ hết không . Thứ nhất ... Là hành vi tính dục mang tính bất thường ( bất thường ví dụ như ảnh hưởng đến danh dự loạn luân hay les or gay .._) Thứ hai ... là khuyết tật hay khiếm khuyết mang tính bẩm sinh hay có thể phát sinh trong xã hội ( bẩm sinh ví dụ như mắt bị lác , về khiếm khuyết phát sinh trong xã hội có thể như bị vợ bỏ , hay cắm sừng ... ) Thứ ba ... Những thứ mang tính đối lập và kị dơ với con người với chuẩn mực chung của cộng đồng ... Ví dụ như những danh từ bẩn thỉu nhơ nhớp , nhầy nhụa , những tính từ phản cảm với chuẩn mực xã hội như sự ngu ngốc , dâm đãng quá trớn , Hoặc một tư duy không phù hợp với chuẩn mực hiện tại , như khủng bố .... Thứ 4 .... Bôi nhọ những gì thiêng liêng , gắn bó với khách thể .. Thứ 5 ... Tâng bốc những điều sai sự thật , ca ngợi những hành động không theo chuẩn mực xã hội để mỉa mai chủ thể .. Thứ 6 ... Dùng ngôn ngữ body để chế diễu , ví dụ chổng mông vào mẹt , hay dùng trỏ ngón trỏ như kiểu mỹ ... Với mỗi tính cách người , mỗi vùng , mỗi giới người ta lại chửi khác nhau... Không phải ai cũng chủi theo kiểu vô văn hoá .. Thiếu văn hoá nhất là chửi theo kiểu từ 1 - 4 ... Ở VN rất hay chửi kiểu từ 1 - 4 .. Ở các nước hồi giáo kiểu thứ 4 rất ít , vì lý do tín ngưỡng người ta sợ xúc phạm đến bất kể những gì linh thiêng , dù sự linh thiêng đó không thuộc tín ngưỡng của mình . Hay dùng kiểu thứ 6 nhất là các nước phương tây .. .. Kiểu thứ năm rất được dân khối C ưa chuộng , và là kiểu có văn hoá nhất hehê , hay dùng trong ngoại giao , hay chính chị cũng thỉnh thoảng gặp , một số đối tượng còn làm thơ .... Ví dụ chửi đểu 1 số nhà máy lãng phí điện... " Mặt trời đỏ rực đằng đông , Nước ta không kém đèn hồng đằng tây .. ." Người ta có thể kết hợp các kiểu từ 1 - 6 lẫn lộn để bôi nhọ hay sỉ vả đối tượng , tuy nhiên khi dùng lẫn lộn đôi khi phản tác dụng , không làm cho đối tượng thấy bị sỉ vả mà còn làm người ta cười đểu mình... Tuỳ đối tượng và nghề nghiệp và giới mà chửi... Nói về chửi cũng khá nhiều chuyện để nói , mà đây là một vấn đề tế nhị ,Tớ xin nói để mấy ấy hiểu thêm về một khái niệm thôi.. Qua chuyện chửi nhau cũng có thể đánh giá đôi chút về con người , Hàng tôm hàng cá chửi nhau 1 kiểu , hàng cá với hàng điện tử chủi nhau 1 kiểu , mỗi người 1 cách... Và mỗi người có 1 cách ứng xử trước việc bị chửi ... Thường thì chó cứ sủa và người cứ đi , Nhưng sometimes cũng fải chiến chứ... không thì thiết thòi vãi <Nói bậy thì đi chỗ khác mà chơi> Ps: Viết xong Entry này, Chỉ ngồi chờ mọi người comment thôi đấy (Nhưng nhớ đừng chửi bậy. Tớ đau đầu lắm)
-
Nguồn: http://5nam.ttvnol.com Người Việt chửi Nguyễn Thị Tuyết Ngân - Trần Ngọc Thêm (trích từ cuốn Tìm về bản sắc văn hoá VN của GSTS Trần Ngọc Thêm) "Nói đến chửi, người Việt Nam nào cũng nghĩ ngay đó là hiện tượng vô văn hoá, người ta liên tưởng tới những câu chửi tục, những lời chửi "rỉa róc", chửi "như vặt thịt" người ta. Thực ra thì nói vậy nhưng không phải vậy! Cuộc sống phức tạp vốn nhiều quan hệ nên hay có va chạm, xung đột. Mà đã có xung đột thì cần giải quyết. Người ta có thể hoà giải bằng "đối thoại", song cũng không ít người sử dụng "đối đầu". Mà đối đầu "hiền lành" nhất có lẽ là "đấu võ mồm", tức là chửi nhau . Việc chửi (nhau) thì dân tộc nào cũng có, thậm chí có từ rất lâu đời. Lối chửi phổ biến ở mọi dân tộc, mà người Việt cũng biết, là sử dụng các từ ngữ chỉ bộ phận sinh dục, bài tiết, quan hệ tình dục ... mà "ném" vào mặt đối phương. Họ gán cho đối phương là "họ hàng" của các loài vật mà theo họ có nhũng đặc tính xấu, bị xã hội chỉ trích: chó, bò, lợn (heo), rắn rết, giòi bọ, dê (xổm) ... Một số người mát tính hơn, họ chỉ hạ thấp đối phương 1 cách tương đối. Họ hạn chế ở mức độ vì đối phương với những thứnhư: giả nhân, ngợm, quỷ quái, yêu tinh ... Họ nêu những khiếm khuyết hoặc gán ghép cho đối phương những khiếm khuyết vật chất, tinh thần, xã hội, ví dụ: (đồ, con, quân, lũ, bọn) què, mù, ..., ngu, ngốc, điên, khùng ..., đểu cáng, ác độc, vô luân, bất hiếu, ...; lừa đảo, ăn cắp ... Các cách chửi này phổ biến nhưng không phải là tiêu biểu cho người Việt. Với bản chất của 1 dân tộc có nếp sống cộng đồng tình cảm, ưa tế nhị, truyền thống của VN là chửi có bài bản, có văn vẻ, có vần điệu và đặc biệt là có thể kéo dài tuỳ ý. Chúng tôi nhớ 1 bài thơ châm biếm ra đời vào khoảng năm 1974 mở đầu bằng mấy câu như sau: Chỉ vì mất một con gà Rêu rao bà chửi suốt ba ngày liền Chỉ sang tứ phía láng giềng Réo từ nội ngoại, tổ tiên mười đời ... Chỉ bốn câu này cũng đã đủ cho ta thấy phần nào lối chửi thâm thuý của người Việt! Phụ nữ VN vốn rất hiền lành, nết na, nhưng cũng không chịu để ai bắt nạt (ăn hiếp). Mất 1 con gà không phải là chuyện lớn, nhưng nếu cứ tiếp tục mất như thế thì không thể chấp nhận được. Bởi vậy mà phải ra tay "dằn mặt" để ho kẻ có tính xấu kia từ nay đừng có động đến gia đình "bà". Vơsi 1 dân tộc luôn coi trọng chữ tín và danh dự hơn hết thảy mọi cái ở đời thì cách tốt nhất là phải làm cho đối phương mất mặt trước cộng đồng. Thông thường, người ta tức lúc nào thì chửi lúc đó. Người VN truyền thống thì không như vậy, họ chờ khi có thật đông ngưwòi thì mới chửi và khi chửi lại cố tình đệm thêm "ới làng trên xóm dưới" hoặc "ới trời cao đất dày" như mời gọi thêm mọi người trong cả cộng đồng đến nghe. Trong lối chửi của người Việt, cái hấp dẫn người nghe không phải là những lời tục tĩu, mà là những lời xưng hô không theo lẽ thông thường. Bình thường người ta "xưng khiêm hô tốn", còn khi chửi thì người ta cố tình làm ngưwọc lại: " Cha bố tiên nhân thằng Cò! Cha bố tiên nhân thằng Cốc! Cha họ nội họ ngoại, họ gần họ xa, họ năm đời giở lên, họ ba đời giở xuống nhà thằng Cò, thằng cốc! Cha tam đại, tứ đại, ngũ đại mai thần chủ thằng Cò, thằng Cốc! Cha đứa già đứa trẻ, đưa nhớn đứa bé, đứa mẹ đứa con, đứa đỏ như son, đứa vàng như nghệ nhà thằng Cò, thằng Cốc, bảo nhau định vỗ nợ của bà! " (trích truyện Khao của Đỗ Phồn). Trong đoạn trên, không có từ ngữ tục tĩu nào mà ta vẫn nhận ra ngay đây là lời chửi. Người chửi đã tự tôn mình lên mức ngang hàng với cha của "bố tiến nhân" dòng họ nhà đối phương. Người Việt vốn rất kính trọng ông bà tổ tiên (thể hiện qua tục thờ cúng tổ tiên), nên không thể nào chịu được khi bị chửi "tên cái" (tên của bố mẹ, ông bà ... hoặc các từ thay thế kiểu như tam đại, tứ đại ... ). Có thể nói, đây là 1 nguyên nhân dẫn đến thói quen giấu tên của người Việt. Cái hay của các bài chửi kiểu này còn ở chỗ các ý được liên kết với nhau 1 cách hợp lý, lặp kèm với đối, đi với nhau chan chát: họ nội họ ngoại , họ gần họ xa , họ năm đời giở lên , họ ba đời giở xuống , đứa già đứa trẻ , đứa nhớn đứa bé , đứa mẹ đứa con , đứa đỏ như son , đứa vàng như nghệ Và đây nữa là lời chửi của 1 người đàn bà mất gà được ghi lại trong tiểu thuyết Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan: " Làng trên xóm dưới, bên sau bên trước, bên ngược bên xuôi! Tôi có con gà mái xám nó sắp ghẹ ổ, nó lạc ban sáng, mà thằng nào con nào, đứa ở gần mà qua, đứa ở xa mà lại, nó dang tay mặt, nó đặt tay trái, nó bắt mất của tôi, thì buông tha thả bỏ nó ra, không thì tôi chửi cho đơới! Chém cha đứa nào bắt gà nhà bà! Chiều hôm qua, bà cho nó ăn nó hãy còn, sáng hôm nay con bà gọi nó nó hãy còn, mà bây giờ nó đã bị bắt mất. Mày muốn sống mà ở với chồng với con mày, thì buông tha thả bỏ nó ra, cho nó về nhà bà. Nhược bằng mày chấp chiếm, thì bà đào mả thằng tam tứ đại nhà mày ra, bà khai quật bật săng thằng ngũ đại, lục đại nhà mày lên. Nó ở nhà bà, nó là con gà, nó vềnhà mày, nó biến thành cú thành cáo, thành thần nanh đỏ mỏ; nó mổ chồng mổ con, mổ cả nhà mày cho mà xem!Ới cái thằng chết đâm, cái con chết xỉa kia! Mày mà giết gà nhà bà thì một người ăn chết một, hai người ăn chết hai, ba người ăn chết ba. Mày xuống âm phủ thì quỷ sứ thần linh nó rút ruột ra ..." Ở đây người chửi vẫn dùng nghệ thuật lặp và đối là chủ yếu: làng trên xóm dưới , bên sau bên trước , bên ngược bên xuôi ; [h]đứa ở gần mà qua , đứa ở xa mà lại , nó dang tay mặt , nó đặt tay trái , nó ở nhà bà - nó về nhà mày ...[/h] - tất cả tạo nên 1 nhịp điệu như những bài thơ văn xuôi đầy cảm hứng sáng tạo và luôn được ngươi chửi thay đổi, biến báo tuỳ theo đối tượng nghe.Tuy rủa xả như vậy, nhưng đối phương vẫn không chửi lại hoặc dùng "võ tay chân" với người chửi, bởi vì toàn bộ bài chửi chỉ là những lời cạnh khoé, bóng gió, chả ai dại gì mà ra mặt. Mặt khác, việc chửi tuy không nêu đích danh nhưng nhờ một số chi tiết ám chỉ nên ai cũng hiểu người chửi muốn ám chỉ ai, nhờ vậy mà vẫn đạt được mục đích làm cho đối phương mất mặt trước cộng đồng và hả cơn giận trong lòng. Với cách diễn đạt bóng gió, đày tính ám chỉ về nội dung và có cấu trúc chặt chẽ, vần điệu, nhịp nhàng về hình thức, lối chửi của người Việt Nam đã bước vào hàng "nghệ thuật"; nó có lẽ không những không còn thuộc loại hiện tượng "vô văn hoá" nữa, mà đã trởthành 1 hiện tượng độc đáo góp phần làm phong phú thêm kho tàng văn hoá VN cổ truyền. Tuy rằng ngày nay "nghệ thuật chửi" này đang mai một dần, nhưng không phải ngẫu nhiên mà ở nơi này nơi khác nó đang được "sân khấu hoá". Nó là 1 bằng chứng độc đáo và hùng hồn rằng ngay cả trong lúc giận dữ, chửi nhau, con người cũng có thể giận dữ, chửi nhau "1 cách có văn hoá"."
-
Nếu là quả đồi thì có lẽ không đúng. Chỗ này phải có đất ẩm, những cây bụi (nếu cây có khô héo thì là do nắng nhưng bản chất khu đó phải có ẩm của nước). Phoenix nghĩ, phần hài cốt không nằm tại khu vực tọa độ nơi hy sinh như đang biết. Có thể nó lệch sang phía khác hoặc ở hẳn chỗ khác.
-
Trong văn hóa Việt của ta có hai hình ảnh cổ xưa về loài chim gắn bó với dân tộc là chim Lạc và chim Việt. Lịch sử đã trải dài và bị mai một đến mức chúng ta còn phải mày mò rất lâu nữa mới có thể viết lại áng sử của dân tộc. Góp chút nhỏ bé trên con đường tìm kiếm, khảo cứu, mời các ACE có tư liệu về hai loài chim Lạc và Việt cùng đưa vào topic này để chúng ta có thêm thông tin phân tích, nghiên cứu. Giới thiệu một bài viết của tác giả Nguyễn Xuân Quang. Riêng đối với Phoenix, bài viết này không thuyết phục nhưng cũng là một cách nhìn. Mời ACE cùng tham khảo. Con Chim Việt Đậu Tại Văn Miếu, Hà Nội Tác giả: BS Nguyễn Xuân Quang Nguồn: trangdenonline.com Suốt một đời, tôi miệt mài đi tìm cái căn cước Việt, cái bản sắc Việt của mình. Từ nhỏ cho tới bây giờ, tôi đã được dậy, đã nghe, đã thấy và đã đọc những điều cho là văn hóa Việt thật là mơ hồ, thật là lẫn lộn với văn hóa Trung Hoa. Nếu chúng ta là Việt khác Trung Hoa thì cái cốt lõi văn hóa Việt phải có sắc thái Việt, khác văn hóa Trung Hoa. Hãy lấy một ví dụ, tại Little Saigon, Orange County, California, đang có dự án xây hai cái cổng chào hình vòm ở hai đầu khu phố Việt trên đường Bolsa, những người thiết kế hai cái cổng này vẽ hình Long, Li, Qui, Phượng và giải thích cho người Mỹ hiểu theo ý nghĩa của tứ linh Trung Hoa. Khi nhìn thấy hình tứ linh này, thì ai ai, nhất là người Tây phương, cũng đều cho đây là biểu tượng của người Trung Hoa. Ngộ nhận là chuyện tất nhiên. Tôi đã lên tiếng và yêu cầu ít ra cũng nên chọn những vật biểu thuần Việt chỉ riêng người Việt có mà người Trung Hoa không có, nhằm mục đích để tránh được lầm lẫn, ngộ nhận, tránh tròng vào cổ cái ách đô hộ của văn hóa Trung Hoa, cũng tránh biến Little Saigon trở thành Little Chợ Lớn (chẳng hạn như thay thế Long, Ly, Qui, Phượng bằng Cò Lang, Chim Việt). Hãy nhìn về diện vật tổ như vừa nói chẳng hạn, thì vật biểu, totem Việt phải thuần Việt. Hôm nay xin nói tới con chim tổ tối cao tối thượng của Đại Tộc Việt là con chim Việt. Chúng ta thường nghe nói tới con Chim Việt đậu cành Nam và nghe bài hát Đàn Chim Việt. Tôi đã tìm thấy hình bóng con chim Việt trong sử sách (Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt), trong sử miệng (Ca Dao Tục Ngữ Tinh Hoa Dân Việt) và trong sử đồng (Giải Đọc Trống Đồng Âm Dương Đông Nam Á) (đang in). Tôi biết khó có thể thuyết phục ngay được những người làm văn hóa Việt hiện nay, nhất là những kẻ đang làm xiếc văn hóa Việt, những tên phù thủy văn hóa Việt. Theo linh tính tôi biết con chim Việt phải còn để lại hình bóng, dấu tích ở đâu đó trong văn hóa Việt Nam ngày nay, nhất là ở những nơi thờ tự, miếu đình nào đó. Vì thế nhằm mục đích thuyết phục thêm nữa các người làm văn hóa Việt và phục vị lại được con chim Việt, chim tổ của Đại Tộc Việt, tôi quyết tâm, quyết chí đi tìm một hình bóng chim tổ Việt thật hết sức đặc thù, thật hết sức dễ nhận diện, còn ở đâu đó, ngay trước mắt mọi người, ai nhìn thấy cũng nhận biết ra ngay là chim Việt. Nhưng tìm kiếm bóng chim Việt trong đời sống hàng ngày hiện nay thật là khó khăn vì tôi sống ở đất Bắc, ở đất tổ, nơi chắc chắn còn nhiều dấu tích hình bóng chim Việt, lúc đó còn quá nhỏ, vào Nam lúc còn học tiểu học và rồi ra hải ngoại. Dĩ nhiên trong Nam và nhất là ở hải ngoại càng khó có cơ may tìm kiếm được. May mắn thay! Eureka! Tôi đã tìm thấy! Tôi đã tìm thấy! Tôi đã tìm thấy! Tôi đã tìm thấy con chim Việt rất đặc thù đang đậu ở Văn Miếu, Hà Nội. Chim Việt là chim gì? Trước hết nên biết Việt là gì? Tôi đã viết rất cặn kẽ Việt Là Gì? trong Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt và trong Y Học Thường Thức, ở đây chỉ xin nhắc lại vài điểm chính yếu. Việt có nghĩa gốc, nghĩa chính là búa, rìu, có nghĩa chung là vật sắc nhọn. Việt là búa, vật nhọn cũng thấy qua tên vua Việt Câu Tiễn thời Xuân Thu. Câu là chiếc móc cong như lưỡi câu, chiếc liềm (câu liêm), Tiễn là Cắt như tiễn mía, là Tiện (cắt) như thợ tiện, Tiễn là vật nhọn như mũi tên (hỏa tiễn dịch là “tên lửa”). Câu Tiễn là vật, khí giới sắt bén hình nhọn và cong, một thứ việt lưỡi cong. Việt lưỡi cong Câu Tiễn mang hình ảnh của chữ yuè (Việt) khắc trên giáp cốt và kim văn: Từ Việt là một từ Hán Việt. Tên của tộc họ chúng ta không thể là một từ Hán Việt. Hiển nhiên từ Việt chỉ là một từ phiên âm dịch nghĩa của một từ nôm trăm phần trăm nào đó. Từ Việt phiên âm dịch nghĩa từ một từ Nôm nào? Việt phiên âm hay biến âm với các từ nôm: -Vớt là “large knife” (used as weapon): dao lớn dùng làm khí giới (Đặng Chấn Liêu). Cũng nên biết các tộc thù nghịch và những người Việt có “Tây học” trước đây thường xỉ nhục những người gốc Việt quê mùa là bọn “răng đen mã tấu”. Mã tấu là một thứ vớt, thứ việt, chính là khí giới biểu của người Việt và răng đen là nét đặc thù của người Việt thuộc tộc Mặt Trời Nước Lạc Việt Lạc Long Quân (màu đen là màu của nước thái âm). -Việt biến âm với Mường ngữ vác là con dao lớn như chiếc mác, mã tấu. Theo v=m (váng = màng), ta có vác = mác. -Vọt (theo qui luật biến âm ie=o như hiệp = hợp, ta có Việt = vọt). Nghĩa đen vọt là chiếc roi, chiếc que, chiếc nọc. -Việt còn biến âm với vạch (khắc, chạm, viết bằng mũi nhọn), với Hán Việt viết cùng nghĩa với vạch, với diết, diệt, giết (làm cho chết bằng vật nhọn sắc như đâm, chém con thú bằng mũi dao, mác, lao, giáo, mũi tên, rìu búa...). Tóm lại Việt phiên âm hay biến âm với từ vớt, vác (mác), vọt, vạch, viết có nghĩa chính là vật nhọn sắc, nọc nhọn ứng với nghĩa Hán Việt búa, rìu. Dưới diện ý nghĩa biểu tượng, vật nhọn dùng làm biểu tượng cho bộ phận sinh dục (nõ, nọc), đực (nọc), dương, thái dương, mặt trời (dương là đực và cũng có một nghĩa là mặt trời). Vậy Việt mang một ý nghĩa biểu tượng cho mặt trời, mang nghĩa mặt trời nọc, lửa, thái dương có nọc tia sáng tỏa rạng ra như mũi tên, mũi mác (>) như nọc nhọn. Việt hiểu theo nghĩa biểu tượng là MẶT TRỜI TỎA RẠNG, MẶT TRỜI RẠNG NGỜI, HỪNG RẠNG hay muốn dùng theo Hán Việt thì là VIỆT MẶT TRỜI THÁI DƯƠNG. Chúng ta thuộc họ Việt mặt trời rạng ngời, Việt mặt trời thái dương dòng thần Mặt Trời Viêm Đế, Viêm Việt. Hiểu rõ Việt như thế rồi, nhìn tổng quát tất cả các tên, hiệu, biểu tượng, vật tổ, vật biểu, chim biểu, thú biểu về ngành Nọc, dương của Đại tộc Việt đều có nghĩa nói chung là vật nhọn (nọc, cọc, que, vọt, búa rìu, dao, giáo, mác…), đực, dương, mặt trời thái dương tức là VIỆT ví dụ như trăm lang (lang biến âm với chàng là con trai, chàng cũng là chiếc đục ‘chisel’), Hùng (có một nghĩa là đực như thư hùng), chim biểu của Lang Hùng, Hùng Vương là chim Lang, chim Hùng, chim Việt là chim Nọc, chim Rìu; thú biểu bốn chân sống trên mặt đất là con thú Việt, là Hươu Việt nôm na gọi là con Cọc (Việt Dịch Bầu Cua Cá Cọc)... Chim Rìu, Chim Việt Như trên đã nói, con chim tổ tối cao tối thượng của Đại Tộc Việt phải là con chim Việt, chim Rìu. Tôi đã tìm thấy con chim Việt này và đã viết trong ba bộ sử sách, sử miệng, sử đồng, nếu cần các chi tiết xin tham khảo ở đó, ở đây chỉ xin nhắc lại một vài điểm chính yếu để độc giả dễ theo dõi và dễ hiểu bài viết này mà thôi. Hình bóng chim Việt qua: Sử sách Như đã thấy, qua ngôn ngữ, chim Việt là chim Rìu. Đây chính là chim mỏ Cắt còn có tên là chim mỏ rìu như thấy qua bài vè các loài chim: Cũng còn có chú mỏ rìu,Rõ là tay thợ, khẳng khiu chán chường. Chim cắt là chim rìu, chim Việt của đại tộc Việt ở Cõi Trên Tạo Hóa. Cắt liên hệ với Anh ngữ cut (cắt), Phạn ngữ khad, to divide, to break, ta có k(h)ad = khắc = cắt (t=d), Tiền cổ-Ấn Âu ngữ *kès- 'cut' và gốc Ngôn ngữ của chúng ta Nostratic *k'aca. Theo chuyển hóa c=h (cùi = hủi), ta có cắt, cát, các = hac, hache (Pháp ngữ), hacha (Tây Ban Nha ngữ), hack (Anh ngữ) có nghĩa là rìu, búa chim... Chim cắt là chim rìu, chim Việt... Chim Cắt là chim Rìu, chim Việt thấy rõ qua truyện thần thoại Con Chim Torok hay Burong Tebang Rumah Bapok Mentua (Con Chim Bổ Sập Nhà Bố Vợ) của thổ dân Kelantan, Borneo. Chim Torok là chim bổ cắt. Mã ngữ torok là thọc, thục, đục, đực... Con chim bổ sập nhà bố vợ hiển nhiên phải có mỏ là mỏ đục (chisel), mỏ rìu, mỏ cắt (Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt). Chim cắt Anh ngữ là hornbill, tên khoa học là Rhinoplax vigil, (Forst., Bucerotidae) có horn là sừng (vật nhọn) và bill là bổ là mỏ. Chim mỏ cắt có tên Hán Việt là chim hồng hoàng. Chúng ta thường nói tới hai từ Lạc Hồng hay Hồng Lạc, chúng ta là con Hồng cháu Lạc. Nhìn dưới diện vật tổ chim thì Lạc Hồng là chim Hồng, chim Lạc. Chim Hồng là chim Đỏ, chim Lửa, chim Lạc là chim Nác, chim Nước. Chim Lạc chim Nước có thể là loài ngỗng trời (con ngỗng chân có màng là một loài chim nước) không phải là loài cò, một loài chim Gió (xem Chim Lạc hay Cò Lang?). Chim Hồng, theo duy dương, là chim hồng hoàng bổ cắt (xem dưới). Như thế chim cắt là chim Rìu, chim Việt, Chim Lửa, chim mặt trời, chim Nọc, hồng hoàng. Sử miệng Ca Dao Tục Ngữ Hình bóng chim rìu, chim cắt còn thấy nhiều trong ca dao như qua bài đồng dao Bổ nông là ông bồ cắt nói về sáu con chim tổ của Đại Tộc Việt ứng với Việt Dịch Chim Nông Cắt ở Cõi Trên, Tạo Hóa. Bổ nông là ông bồ cắt, Bồ cắt là bác chim di, Chim di là dì sáo sậu Sáo sậu là cậu sáo đen Sáo đen là em tu hú Tu hú là chú bồ nông. Sử đồng Hình bóng chim Rìu, Chim Việt bổ cắt cũng thấy rất nhiều trên trống đồng âm dương Đông Sơn. Trên mặt trống đồng Duy Tiên, mặt tuy bị vỡ nhưng còn thấy rõ hình ba con mỏ cắt, mỏ lớn, đầu có mũ sừng. Đây là loài Great hornbill, loài mỏ cắt lớn nhất. Những hình thuyền trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I, Hoàng Hạ đầu thuyền có hình Rắn-Nước miệng há rộng biểu tượng cho bộ phận sinh dục nữ với hình chim mỏ rìu, biểu tượng cho bộ phận sinh dục nam đâm vào miệng Rắn Nước. Đây là dạng lưỡng hợp sinh tạo thái âm thái dương ở cõi Đại Vũ Trụ. Đuôi thuyền hình chim nông và ngay sau đuôi thuyền có một hay hai cây nọc hình đầu chim cắt, ở dạng lưỡng hợp bổ nông (thiếu âm) với bồ cắt (thiếu dương) ở cõi trời Tiểu Vũ Trụ. Trên nhiều trống đồng khác như trên trống đồng sông Đà, một đuôi thuyền khắc đầu chim hình chiếc rìu (Giải Đọc Trống Đồng Âm Dương Đông Nam Á). Mường Mường Việt cổ có vật tổ chim là chim tráng, chim cháng. Giữa Việt và Mường có qui luật biến âm dấu sắc Mường = dấu huyền Việt như mấn = mần (làm) nên ta có tráng (trai tráng) = Việt ngữ chàng (chàng trai) và cháng = Việt ngữ chàng (đục, chisel). Chim cháng là chim chàng, chim đục, chim rìu, chim mỏ cắt. Theo truyền thuyết Mường hai con chim Kláng, Klao (tương ứng với truyền thuyết khác là chim Ây, cái Ứa) đẻ ra trứng trăm trứng nghìn, nở ra muôn vật muôn loài, đẻ ra người Đáo (tức người Kinh, người Việt) đẻ ra người Mường... Từ Kláng chuyển sang Việt ngữ là Tráng, Chàng (đục) tức chim mỏ cắt (xem chương Nhận Diện Danh Tính Hùng Vương trong Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt) -Chim Khướng Chim mỏ cắt cũng còn gọi là chim khướng như thấy trong truyện thơ Mường: Khách phương nào tới Mà sao tốt tướng oai nghi Như con chim khướng mấy thuở mấy thì Bay qua lèn đá dựng, Đã đứng nên đứng, Đã ngồi nên ngồi... (Truyện Út Lót - Hồ Liêu, Hoàng Anh Nhân, t.2, tr.99). Tác giả trên giải thích “Chim Khướng: loại chim lớn, mỏ to và trên mỏ có mũ sừng cứng, thường gọi là chim Phượng hoàng đất”. Tác giả đã không nhận diện ra được “chim Phượng hoàng đất ”mỏ to và trên mỏ có mũ sừng" chính là chim cắt. Rõ ràng chim khướng là chim cắt lớn great hornbill. Theo qui luật biến âm dấu sắc Mường = dấu huyền Việt ta có khướng = khường và kh Mường = s Việt như khang = sang, không = sông, nên khướng = khường = sường = sừng. Con chim khướng là con chim sừng (đầu có mũ sừng), tức chim hornbill và ta cũng thấy khướng biến âm với Hán Việt khương (có nghĩa là sừng). Chim khướng là chim sừng, chim khương. Viêm Đế có họ là Khương (sừng) như thế chim Sừng Khướng mỏ cắt là chim biểu của thần mặt trời Viêm Đế họ Khương, của Viêm Việt. Chim cắt cũng được thờ phượng đúc thành tượng vàng thấy trong truyện Út Lót. Nàng Út Lót nói với hai chị rằng: “Đồ vàng đúc hình con chim cắt...”. Ê-Đê Người Ê-đê có chim mling, mlang thấy qua bài hát Anh đến từ nơi xa, Anh mang theo chim mơ-linh từ nhà, Chim mơ-lang từ buôn. Anh nghĩ rằng em là con gái chưa tơ vương... (Vũ Ngọc Phan, Tục Ngữ, Cao Dao, Dân Ca, Việt Nam). Chim mling, mlang này chính là chim cắt. Điểm này ăn khớp trăm phần trăm với Mã Lai ngữ langling: the Southern pied hornbill (chim cắt có lông sặc sỡ, nhiều màu ở miền Nam). Ta cũng thấy rất rõ Mã ngữ lang: a generic name for hauks, kites and eagles (một tên chủng loại chỉ diều hâu và ó, ưng). Như thế chim lang, chim linh chỉ chung loài mãnh cầm, loài chim mang hùng tính biểu tượng cho đực, dương, phái nam, mặt trời. Điểm này ăn khớp trăm phần trăm với hai từ lang và linh trong Việt ngữ. Việt ngữ lang là chàng, con trai. Linh ruột thịt với Ấn ngữ linga (bộ phận sinh dục nam). Linh biến âm với lính (ngày xưa chỉ đàn ông con trai mới phải đil ính), với đinh theo kiểu linh đinh. Đinh là con trai, thanh niên như tráng đinh, lễ thành đinh. Rõ ràng chim mlang, mling là chim langling, chim cắt, chim rìu, loài chim mang biểu tượng cho đực, dương, hùng tính, mặt trời tức chim Việt. Theo giáo sư Trần Quốc Vượng, địa danh Mê Linh mang tên loài chim Việt này. Ông dựa vào các nghiên cứu tổng hợp các tài liệu lịch sử, ngôn ngữ và truyền thuyết dân gian, Mê (Ma, Minh, Mi) Linh là Mling. Mling, mlang (cặp tên có tính chất lấp láy) theo tiếng của các dân tộc Tây nguyên có nghĩa là một loài chim... Mọi tài liệu đều nói lên một cách thống nhất huyện đó, bộ lạc đó, khi xưa mang tên một loài chim Mling với một thị tộc (bào tộc) gốc thờ chim làm vật tổ. Đó là bộ lạc gốc thời Hùng Vương dựng nước (Hùng Vương Dựng Nước, tập I, tr.154). Đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt, hai Bà Trưng là con cháu, dòng dõi vua Hùng Vương. Hùng Vương đóng đô ở Phong châu. Lê Ngô Các, Phạm Đình Toái, đã ghi lại rành rành trong Đại Nam quốc sử diễn ca: Bà Trưng quê ở châu Phong, Giận người tham bạo thù chồng chẳng quên. Chị em nặng một lời nguyền, Phất cờ nương tử, thay quyền tướng quân... Hai Bà khi lên ngôi đóng đô ở đất Mê Linh (Ý Nhĩa Ngày Lễ Hai Bà Trưng Mồng 6 Tháng 2 Âm Lịch, khoahoc.net) . Mê-Linh, Mlang, Mling, Langling là chim lang, chim biểu tượng cho Lang Hùng, là chim chàng (chisel), chim đục, chim rìu, chim Việt, chim đực, chim biểu của Hùng Vương (Hùng có một nghĩa là con chim đực). Hùng Vương thế gian có một khuôn mặt chim biểu là chim cắt (có thể là loài chim cắt đất), chim Việt đội lốt chim cắt chim sừng, chim Khướng, chim Khương Great Hornbill, chim biểu của thần mặt trời Viêm Đế dòng Viêm Việt. Người Ao (Âu) Naga ở Assam, miền cực tây Vân Nam Người Ao-Naga tức Âu-Rồng Nác, Âu-Long ruột thịt với Âu Cơ-Long Quân, với Âu-Lạc. Chứng tích thờ chim cắt thấy đi kèm với rắn nước, rồng đất cắc kè, kì nhông, kỳ đà, thằn lằn còn thấy nhiều ở người Ao Naga. Trong nghệ thuật khắc gỗ của họ còn thấy chiếc rìu đầu chim mỏ cắt. Đồ khắc gỗ của người Ao Naga có chiếc rìu đầu chim mỏ cắt (Mills, The Ao Naga). Sắc dân này có tộc Ozukumtzur (bird-became- woman) tự nhận là con cháu của chim Mỏ Cắt có hèm (taboo) là không ăn thịt chim mỏ cắt (William Carson Smith, p.111). Người Katu Người Katu có căn nhà thiêng liêng trên nóc có con chim đực. Nhà của người Katu trên nóc có con chim đực (theo Maurice). Chú ý hình chim này đầu có nọc nhọn hay sừng nhọn biểu tượng cho dương, lửa. Đuôi chim cũng vểnh lên thành hình nọc. Đầu nọc (I), đuôi nọc (I) nghĩa là chim thái dương (II). Lưng chim là đường sống nóc nhà có hình chuỗi chữ viết nòng nọc mũi mác, răng cưa, răng sói (>) biểu tượng cho đực, nọc, dương, thái dương, mặt trời, theo thái dương (Càn) là sóng lửa vũ trụ, ánh sáng, theo thiếu dương (Li) là rặng núi tháp, lửa thế gian. Con chim mang hình ảnh con chim cắt. Người Co Người Co ở Trà Bồng, Trà Mi (miền Trung Việt Nam) có con chim biểu có mỏ rất lớn mang hình bóng chim rìu, chim cắt. Người Ngaju, Dayak Nam Borneo. Giáo sư Kim Định cho họ là Bộc Việt. Hai vật tổ tối cao tối thượng cuả người Ngaju thuộc tộc Dayak, ở miền Nam Borneo là Rắn Nước (Watersnake) và Mỏ Cắt (Hornbill). Chim Cắt gọi là Tingang, trong ngôn ngữ của thầy tế pháp sư gọi là bungai. Vật tổ này thường thấy vẽ, khắc trên hình thuyền Chim Cắt, Thuyền Rắn Nước, những con thuyền mà các thần tổ dùng đi từ thượng giới xuống trần gian. Người Hắc Đảo ở Đại Dương châu. Các Thổ dân Hắc Đảo cũng coi chim cắt là biểu tượng cho đực, dương, lửa, mặt trời. Mỏ bồ cắt là biểu tượng cho cơ quan sinh dục nam như thấy qua hình chim mỏ cắt để trong một miếu âm hồn ở Maprik, Papua, New Guinea. Chim mỏ cắt để trong một miếu âm hồn ở Maprik, Papua, New Guinea (Richard Cavendish, p. 282). Mỏ chim biểu tượng dương vật trong khi mặt trăng ở thân người chim biểu tượng âm hộ. Hình diễn tả nõ nường, nòng nọc, âm dương sinh tạo, giao hợp âm dương. Ở đây ta cũng thấy rõ chim cắt có một khuôn mặt là mặt trời giao hòa với mặt trăng ở thân người chim. Tóm lại vật tổ chim Mặt Trời thuần dương của họ Nọc Việt Mặt trời thái dương là con chim Cắt, chim Rìu, chim Việt, chim Hồng hoàng. Chim Cắt là chim Nọc (Đực), Chim Việt biểu tượng của họ Nọc Mặt trời Viêm Đế, Viêm Việt. Những nét đặc thù của chim cắt, chim rìu, chim Việt. Sau đây là vài đặc tính của chim cắt: 1. Mỏ lớn và dài (prominent bill). Mỏ là yếu tố chủ yếu, nổi bật, đập vào mắt. 2. Có giống cắt có sừng ngà hay “mũ bảo vệ đầu” (bony casque or helmet) nhô ra sau trông như bờm. Chim cắt ngoại trừ hai giống sống dưới đất còn tất cả làm tổ trên chóp ngọn cây cao. Sống trong những rừng cây Đông Nam Á, Ấn Độ, Phi châu, Nam Arabia. Dĩ nhiên Việt Nam cũng có chim này. Trên bìa báo Khoa Học của khoa học gia Nguyễn Công Tiễu số 65 ngày 1er Mars 1934 cũng có vẽ hình con chim “có phong tục lạ” (khi con cái ấp trứng, con đực lấy bùn đắp kín tổ lại, nhốt con cái bên trong, chỉ chừa một lỗ nhỏ để đưa mồi vào nuôi con cái ấp trứng) tên Tây là dichocère và “ta gọi là chim hồng hoàng”. Tại tòa báo Khoa Học ở Ngọc Hà có nuôi một con để độc giả đến xem. Mỏ Cắt Lớn có mỏ lớn dài gần hai tấc rưỡi (25cm) rất đặc biệt. Mũ (casque) con trống có rãnh sâu. Mũ con cái bằng phẳng. Con chim “hồng hoàng” trưng bầy ở tòa báo Khoa Học chính là con Bồ Cắt Lớn, qua lời tả “chim nuôi ở tòa báo dang hai cánh đo được 1 thước 74, từ mỏ đến hết lông đuôi dài 1 thước 25... Mỏ màu vàng trên be ra nom như múi khế...”. 3. Nhưng điểm đặc thù nhất của chim mỏ cắt là cách ăn. Vì mỏ quá to nên khi ăn phải gắp, nhặt lấy quả hay hạt rồi tung cao lên trời và há to mỏ hứng cho hạt rơi vào phần sau của mỏ gần cổ họng thì mới nuốt được thức ăn. Đây là một nét đặc thù thấy trong các biểu tượng chim cắt thái cổ. Con chim mỏ to như mỏ rìu có mũ sừng, ngậm hạt trong mỏ trăm phần trăm là chim cắt. Một vài hình bóng chim mỏ cắt với nét đặc thù là ngậm hạt, quả thức ăn trong mỏ còn thấy trong văn hóa Ngaju, Dayak, Borneo. Họ có quan tài dành cho phái nữ thường đầu có hình chim Bổ Cắt để có dạng âm dương hôn phối và quan tài dành cho phái nam có hình Rắn Nước để có dạng dương âm hôn phối, mong hồn người chết được tái sinh hay về miền hằng cửu. Chim bổ cắt đầu quan tài có nét đặc thù chuyên biệt là mỏ đang ngậm một quả hay một hạt thức ăn. Họ cũng có thuyền vong hình Rắn Nước cho phái nam và thuyền vong hình Chim Cắt cho phái nữ. Chim bổ cắt đầu thuyền có nét đặc thù chuyên biệt là mỏ đang mổ một quả hay hạt thức ăn. Con Chim Cắt Việt Đậu Ở Văn Miếu, Hà Nội Tôi đã tìm thấy con chim tổ bổ cắt ngậm quả hay hạt thức ăn này ở Văn Miếu, Hà Nội. Con chim mỏ to như mỏ rìu, có mũ sừng, ngậm hạt trong mỏ này trăm phần trăm là chim cắt, chim rìu, CHIM VIỆT. Con chim Việt ngậm quả, hột thức ăn trong mỏ tại Văn Miếu, Hà Nội. Con chim cắt Việt này đã linh vật hóa, thần thoại hóa thành linh điểu Việt nên ngày nay không ai nhận ra. Hiển nhiên như đã thấy với điểm đặc thù ngậm quả, hạt trong mỏ đây không phải là con chim phượng của Trung Hoa. Chim phượng biểu tượng cho Lửa, là con chim Lửa có cốt là con chim trĩ, có đuôi rất dài như những dải lụa vì thế còn có tên là chim giải cùi. Con chim ở đây đuôi ngắn. Đây là con chim Việt cũng là chim biểu cho Lửa nhưng có cốt là con chim rìu, chim cắt. Hai con mang ý nghĩa biểu tượng khác nhau. Chim phượng có cốt là chim trĩ, thuộc họ nhà gà, sống nhiều trên mặt đất nên biểu tượng cho Lửa đất, lửa cõi thế gian có một khuôn mặt chính ứng với Li, trong khi chim Việt, chim rìu, chim cắt có loài sống trên cao, làm tổ trên ngọn cây cao như thấy qua bài đồng dao: Bổ cu, bổ cắt, Tha rác lên cây, Gió đánh lung lay, Là ông Cao Tổ... Bài hát này ở thể chơi chữ. Cao tổ là tổ rất cao mà cũng có nghĩa là ông tổ tối cao hay vua Cao Tổ nhà Hán... Chim Cắt sống, làm tổ trên ngọn cây cao biểu tượng cho Lửa trời, lửa vũ trụ ứng với Càn. Lửa vũ trụ sinh ra lửa thế gian. Chim Cắt Việt cõi Tạo Hóa là chim tổ tối cao của Đại tộc Việt. Chim Cắt Việt, chim (mũ) Sừng, chim Khướng, Hornbill là chim biểu của thần mặt trời Viêm Đế có họ Khương (Sừng), là chim biểu của Viêm Việt. Chim Cắt Việt tạo hóa là ông tổ của chim phượng thế gian của Trung Hoa. Văn hóa chim phượng của Trung Hoa là văn hóa thế gian, là di duệ, con cháu của văn hóa chim Cắt Việt vũ trụ. Sau này có lẽ bị ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa các nhà nho cũng hay nói tới con trĩ Việt tức trĩ lửa thế gian. Cắt Việt vũ trụ là chim tổ của trĩ Việt thế gian, là chim tổ của trĩ phượng Trung Hoa. Chim Việt biểu tượng cho Nọc, đực, dương, lửa, mặt trời nọc rạng ngời, bộ phận sinh dục nam, đối ứng với chim Nông, chim Nước, chim Nòng, hai chim biểu Nọc Nòng tối cao của Đại Tộc Việt. Chim nông, chim cắt là chim nòng nọc, âm dương, chim biểu của Vũ Trụ Tạo Sinh, Vũ Trụ giáo, của Dịch nòng nọc. Vì thế con chim Việt đứng ở Văn Miếu phải mang nghĩa vũ trụ tạo sinh ngành nọc, lửa dương. Thật vậy, trên đầu có hình nọc hơi cong như lưỡi lửa cho biết con chim này là con chim nọc Lửa vũ trụ, chim Việt vũ trụ. Phần mũ trên đầu phía trước gồm có ba nọc nhọn tức ba hào dương, quẻ Càn (III), lửa vũ trụ. Phần mũ sau gáy biến thành mào hình móc cong biểu tượng cho khí, gió lửa (khí gió ngành lửa, dương) Đoài. Phần bờm sau cổ hình sóng lưỡi lửa biểu tượng cho nước lửa (nước ngành lửa, dương) ứng với Chấn và chuỗi hình mũi mác răng cưa, cứ ở giữa hai sóng nước lửa lại có hai nọc mũi mác ghép lại thành hình chữ M. Phân tách M ra ta có /\ V /\, tức hai chữ viết nòng nọc mũi mác chỉ thiên /\ hình núi tháp nhọn là hai hào dương (I...I) kẹp ở giữa một chữ viết nòng nọc V, là một hào âm (O) tức /\V/\ = IOI, quẻ Li, lửa thế gian, núi dương, lửa, đất lửa ngành nọc dương. Mặt khác, nếu ta chồng hai nọc mũi mác này lên nhau, ta có hình tháp vách kép /\ biểu tượng cho núi tháp nhọn giống như hình núi tháp vách kép cũng biểu tượng cho lửa thế gian, đất dương Li thấy ở hoa văn Tứ Tượng trên trống đồng âm dương Ngọc Lũ I mà hiện nay các nhà khảo cổ học Việt Nam gọi nhầm là “họa tiết lông công” (xem The Da Vinci Code và Chữ Nòng Nọc Trên Trống Đồng Âm Dương Đông Nam Á). Như thế đầu chim biểu tượng cho Nọc, dương, cho ngành nọc, Việt và Tứ Tượng ngành nọc, lửa, dương... Con chim cắt Việt cho thấy cốt lõi văn hóa Việt là Vũ Trụ Tạo Sinh, Vũ Trụ giáo, Mặt Trời giáo và Dịch nòng nọc. Hạnh phúc thay! Tôi đã tìm thấy con chim Việt, chim biểu của Đại Tộc Việt ở Văn Miếu, Hà Nội, nơi biểu trưng cho trí tuệ Việt, đầu óc Việt, tinh hoa Việt, tinh anh Việt. Tôi đã tìm thấy hình bóng tổ Việt, tìm thấy một mấu chốt của căn cước Việt của mình trong đời sống tâm linh hàng ngày hiện nay. Mong các nhà làm văn hóa Việt nhận ra điểm này và giúp cho con chim Việt vỗ cánh bay bổng trở lại trên bầu trời non nước Việt Nam. Giới khoa bảng ưu việt đã bảo tồn, lưu truyền lại hình bóng chim tổ Việt tại Văn Miếu. Để tránh lầm lẫn với văn hóa Trung Hoa, xin hãy thay thế con chim phượng Trung Hoa bằng con chim Việt có cốt là con chim cắt, chim rìu đang ngậm quả, hạt này. Tài Liệu Tham Khảo .Đặng Chấn Liêu, Từ điển Việt Anh, nxb KHXH, 1993. .Hans Scharer, bản dịch Anh ngữ của Rodney Needham, Ngaju Religion. .Hoàng Anh Nhân, Tuyển tập truyện thơ Mường, t.2. .Nguyễn Văn Huyền, Hoàng Vinh, Những Trống Đồng Đông Sơn Đã Phát Hiện ở Việt Nam, Viện Bảo Tàng Lịch Sử Việt Nam xuất bản 1975. .Kim Định, Việt Lý Tố Nguyên; Hùng Việt Sử Ca, Thằng Mõ xuất bản 1984. .Mills, The Ao Naga. .Nguyễn Công Tiễu, báo Khoa Học, số 65 ngày 1er Mars 1934 tr.26. .Nguyễn Xuân Quang: -Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt (Y Học Thường Thức, 1999). -Ca Dao Tục Ngữ, Tinh Hoa Dân Việt (Y Học Thường Thức, 2002). -Tiếng Việt Huyền Diệu (Hừng Việt, 2004). -The Da Vinci Code và Chữ Nòng Nọc Trên Trống Đồng Âm Dương Đông Nam Á, khoahoc.net 18 tháng 11 năm 2007. -Ý Nghĩa Ngày Lễ Hai Bà Trưng Mồng 6 Tháng 2 Âm Lịch, khoahoc. net 15 tháng 03 năm 2007. -Việt Dịch Bầu Cua Cá Cọc (Y Học Thường Thức, 2006). -Việt Là Gì? Y Học Thường Thức số 33 bộ IV, tháng 5-6, 1999. -Giải Đọc Trống Đồng Âm Dương Đông Nam Á (đang in). .Lê Ngô Các, Phạm Đình Toái, Đại Nam quốc sử diễn ca. .Richard Cavendish, An Illustrated Encyclopedia of Mythology. .Trương Sỹ Hùng Bùi Thiện, Vốn Cổ Văn Hóa Việt Nam, nxb Văn Hóa Thông Tin Hà Nội 1995, tập I, II. .Wang Hongyuan, The Origins of Chinese Characters, Sinolingua Beijing, 2004. .William Carson Smith, The Ao Naga Tribes of Assam. . R.J. Wilkinson, Malay-English Dictionary.
-
Ta là ai? Nguồn: http://dongtac.net Thứ tư 7, Tháng Ba 2007 Mức độ viếng thăm : 1% Ảnh bên: Tượng chim (Việt?) bằng đồng, khoảng 5600 TCN (Bảo tàng Di chỉ Sanxingdui ở Trung quốc) Tiên tổ người Việt Nam lần đầu tiên trả lời câu hỏi “Ta là ai?” trong bài thơ thần bất hủ: Nam quốc sơn hà nam đế cư Tiệt nhiên định phận tại thiên thư Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư. Sách trời (thiên thư) ở đây nhiều khả năng là Thượng thư, tương truyền do Khổng Tử san định. Phần Đại truyện, Thượng thư chép: “Năm Tân Mão đời Chu Thành Vương (1063 – 1026 TCN) có Việt Thường Quốc phía nam Giao Chỉ đến kinh đô nhà Chu giao hảo, tặng chim bạch Trĩ”. Nam Man truyện trong Hậu Hán thư cũng viết đại ý như vậy: “Giao Chỉ chi nam hữu Việt Thường Quốc. Chu công cư nhiếp lục niên, chế lễ tác nhạc, thiên hạ thái bình. Việt thường thị dĩ tam tượng trọng dịch nhi hiến bạch trĩ”. Trĩ là một loài gà rừng có lông đẹp. Khai phím điện não đầu xuân Ất Dậu, tôi muốn đưa ra cách hiểu mông muội của mình về “Việt Thường Quốc” - 越裳国. Sử cũ của người Việt rất bất nhất: An Nam chí lược của Lê Tắc (1335) xem Việt Thường thuộc Cửu Chân, tức Thanh Hóa ngày nay. Đại Việt sử lược (1388) xếp Việt Thường trong 15 bộ lạc xưa của Việt Nam. Đại Việt sử ký toàn thư (1697) coi chữ Việt trong Việt Thường là cội rễ của tên gọi Đại Việt sau này, Giao Chỉ cũng như Việt Thường đều thuộc Bách Việt, Châu Dương. Việt sử tiêu án của Ngô Thì Sĩ (1775) cho rằng Việt Thường là 1 trong 15 bộ của Văn Lang và diễn giải nước Việt khi đến giao hảo với nhà Chu tự xưng là Việt Thường. Khâm định Việt sử (TK 19) định vị Việt Thường thuộc Thuận Hóa, miền trung Việt Nam, cũng là 1 trong 15 bộ của nước Văn Lang. Như đã tiền luận ở các bài viết trước tại talawas, Giao Chỉ đầu thời Chu là vùng Đan Dương (hiện thuộc Hồ Bắc, Trung Quốc). Người Lạc Việt gọi tổ quốc, gọi mảnh đất mình sống là Đất Nước, hoặc Nước. Người Trung Nguyên dùng Hán tự ký âm Đất Nước thành Âu Lạc hay dịch nghĩa Nước là Quốc. Vậy Việt Quốc có thể hiểu là Nước Việt, là Lạc Việt. Vậy thì Việt Thường Quốc có liên quan đến Lạc Việt hay không sẽ nằm trong ngữ nghĩa của từ “Thường”. Ai cũng biết "thường" thuộc bộ y mang nghĩa sơ khai là cái "quần". Cho nên tôi đoan nghi chữ "thường" mà cổ văn Trung Hoa gán thêm cho người Việt chính là tấm "khố" đặc trưng của văn minh Lạc Việt, của người Văn Lang và hiện nay nó vẫn minh diện trên trống đồng. Trong chiều hướng này, "Việt Thường Quốc" là Nước Việt (Lạc Việt), nơi có những con người mặc khố và ở trần. Tục đóng khố ở trần của người Lạc Việt xưa cũng được nhắc đến trong Sử ký, quyển 113 Nam Việt Uý Đà Liệt truyện: “Kỳ Tây Âu Lạc lõa quốc diệc xưng vương”. Ngoài ra với nguyên tắc "đồng âm thông giả", "thường" có thể là bình thường, nhỏ, bé... (như trong từ thường dân). Do đó "Việt Thường Quốc" cũng có thể là Nước Việt nhỏ, nước bình thường, kẻ ở chiếu dưới so với nhà Chu. Xin hiểu đây là kiểu mà sử sách Trung Hoa hay dùng để chỉ các nước phi Hán một cách tự cao tự đại. Hiển nhiên trong trường hợp này "thường quốc" khác hẳn "thuộc quốc", nó chứng tỏ sự độc lập không thể khác được từ buổi bình minh lịch sử của Lạc Việt. Tròn một vòng Ất Dậu, từ đận non nước Việt Nam cởi bỏ xích xiềng nô lệ, ngành sử học ở đây vẫn chưa trả lời thỏa đáng câu hỏi: “Người Việt, nước Việt, chúng ta là ai?”. Ngày xuân khai bút, xin được nêu ra một cách diễn giải Việt Thường Quốc chính là Lạc Việt, đầu thời Chu trung tâm của nó nằm tại Động Đình Hồ. Trương Thái Du Thung Lũng Đa Thiện, Đà Lạt Mùng 3 tết Ất Dậu
-
Nguồn: dactrung.net TIẾNG HÓT LOÀI CHIM DI Từ thời thượng cổ, người Việt thờ chim Thần - Thần điểu. Trong loại chim Thần đó có chim Trĩ Trắng là sứ giả văn hóa Việt. Việt Thường Thị đem cống (trao đổi văn hóa) chim Trĩ Trắng và Rùa Thần. Trên mai rùa có chữ Khoa đẩu của Việt tộc in rõ dấu tích, thần thoại về sự hình thành vũ trụ vạn vật của Thần đạo chính thống Việt Nam. Ngoài ra Việt tộc thờ chim lạc - Thần điểu Việt. Sau này Ðinh Tiên Hoàng lên ngôi lấy Quốc hiệu là Ðại Cồ Việt. Cồ là đôi mắt lửa sáng rực của loài linh điểu. Truyền thuyết linh thiêng đó là tâm linh muôn đời của người Việt tự ngàn xưa. Không phải vô tình mà người Việt ngày nay hay nhắc tới loài Việt điểu. Thời Bách Việt, nước ta giòng Việt tộc đã cư trú gần phân nửa nước Tàu ngày nay. Sau thời chiến quốc, giòng Bách Việt bị Hán đồng hóa, còn lại giòng Lạc Việt anh hùng nhất loài Chim Việt kiêu hùng đó trải qua muôn vàn gian khổ, máu xương giữ nước cho mãi đến ngày nay. Sự tích Chim Việt đậu cành Nam cũng ghi dấu ấn đau buồn của những người phải xa quê hương cội nguồn, tổ quốc. Con Chim Việt khi bị đưa đi về đất Bắc đã chọn cành hướng Nam mà đậu mà hót... Từ trong tiềm thức, thần thức Việt đã có bóng dáng chim linh vì thế mà kẻ tha hương bốn bể không phải vì vô tình mà than mà thốt lên lời ai oán. Tinh thần đó, tâm linh đó lại bắt đầu vọng lên âm hưởng của loài chim Việt cành Nam xưa. Khắc khoải sầu đưa giọng lẳng lơ. Ấy hồn Thục đế thác bao giờ. Năm canh máu chảy đêm hè vắng. Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ (Nguyễn Khuyến). Ðến nay thì giòng lịch sử đen tối của loại ma quỷ ý thức hệ vong thân khiến người Việt lại một lần lưu vong, hằng hà sa số, hằng triệu người Việt lại bỏ quê hương trên những nẻo đường Thủy Mộ Quan (Viên Linh) để đi tìm tự do, lẽ sống nhân đạo hơn, ở đất nước người - Tiếng Hót loài Chim Di - chim Việt của Song Nhị lại một lần lên tiếng u hờn khắc khoải làm động lòng người, chấn động tâm can, tâm linh và nghĩa khí hào kiệt của dân tộc Việt ở bốn phương trời, gợi cho lòng kẻ sĩ phương Nam dấy lên những hoài vọng, hoài bão lớn lao, một ý thức về trách nhiệm của người trí thức về lịch sử của thời đại mình phải làm gì để giành lại quê hương, giữ lại tinh thần và đạo lý Việt, để thể hiện cái tự-do tuyệt đối của đời mình. Và, nói như Khổng Tử “uy vũ bất năng khuất” - nói như Nguyễn đức Quỳnh “tư tưởng bất năng hoặc” trước loại “Cùm Ðỏ” của bạo lực phi nhân tham tàn này. Tiếng Hót của loài Chim Di đã lên tiếng nhiều lắm, rất hàm xúc nhiều điều mà ở tại quê hương này khó lòng người dân nói được. Viết đến đây tôi bồi hồi nhớ đến bao người bạn đã ra đi rời xa tổ quốc. Tôi nhớ đến bao lần nghe những con Chim Việt lên tiếng hót thần kỳ ở khắp mọi nẻo đường tha hương biệt xứ. Và ao ước tất cả những người xa xứ trở về trong bản Anh hùng ca độc lập tự do muôn thuở tại quê hương mình. Những con Thần điểu Việt nay ở phương trời nào? Trên núi cao có con Thần điểu Ba năm thu cánh không tiếng kêu Ngày hận mây mờ che bóng lửa Ðêm hờn thơ lặn rải sườn rêu A ha! Thần điểu còn nương náu Chờ ngày thét nở núi khe sâu.... Con Thần điểu bay về đâu từ ngày núi non thay trời đổi chủ, trở thành hình bóng chim Việt cành Nam ở tận phương trời hải ngoại nào. Tôi có cảm tưởng đầu tiên như vậy khi đọc “Tiếng hót loài chim di” của Song Nhị, có lẽ tập thơ này là tập thơ “gay cấn” nhất của Song Nhị đây - nói như giọng của thi sĩ họ Bùi. Ðối với họ Bùi, chuyện gì ghê gớm lắm đều dùng chữ “gay cấn” này mà diễn tả ra cho nó có vẻ... chịu chơi một chút. Sự điêu linh nào đã tạo cho Song Nhị viết tập thơ gay cấn này đến thế. Ðiêu linh đó thuộc về bi kịch đồi tranh “Hãi hùng bi kịch đồi tranh!” (B.G) của dân tộc Việt. Ai cũng biết là cuộc đấu tranh ý thức hệ giữa Quốc Gia Tự Do và Ðộc tài đảng trị Cộng Sản. Và điêu linh nhất phe Tự Do thất bại để đất nước rơi vào tay giặc Cộng khiến ta nhớ đến từ Nguyễn thái Học, Nguyễn tường Tam - Ông, trước khi tự vẫn, còn kịp ghi: “Anh em Ngô đình Diệm phải chịu trách nhiệm để nước mất vào tay Cộng Sản” - cho mãi đến ngày nay một bức màn vô hình phủ khắp non sông bằng sự dối trá tham tàn, tội ác và tham nhũng, tất cả đều được tẩy não bằng nhục hình bạo lực cho đến tận vô thức, tiềm thức tim óc của dân tộc. Mà tiếc thay một số người Việt hải ngoại quá vô tình, vô ý không nhìn thấy rõ được. Ðình miếu thần linh đất Việt, chùa chiền, nhà thờ đều sống trong vòng vây ý thức hệ Xã Hội Chủ Nghĩa - đường lối tư tưởng văn hóa, nghệ thuật đều thoát thai từ trường trại Xã Hội Chủ Nghĩa. Và tất cả đều là một lũ văn nô cả đến Hoàng Cầm ngày nay cũng không hơn gì Phạm Duy, hay Trịnh Công Sơn trong chiến lược văn hóa Ðảng cả. Ngày đêm bọn giáo sư Hoàng như Mai, Trần Bạch Ðằng, Trần trọng Ðăng Ðàn và lũ văn nô Bắc Việt ra sức đánh phá văn nghệ miền Nam tự do một cách điên cuồng u mê ám chướng... đến khôi hài! Tất cả chỉ vun hồi cho cái gốc đại thụ tham nhũng ngu dân để bảo vệ cái tổ quốc non sông mà bọn Mông Cổ này mới cướp được để phụng thờ Mác-Lê. Nước mất nhà tan! Xưa nay cũng thế thôi! May ra thân phận và đời người còn được ra khỏi cái màn ma quỷ của Xã Hội Chủ Nghĩa - để sống lưu vong trong sự tự do quí báu nhất của cá nhân mình, dù thế nào đi nữa còn hơn vạn lần anh em mình ở lại, để hằng ngày chạm mặt với kẻ thù luôn khủng bố quanh mình loài chim Việt đó cũng có ngày quay lại. Chờ ngày thét vỡ núi khe sâu. Và anh em ta không có quyền nỉ non than vãn nữa. Tôi còn nhớ mấy vần thơ của ông Lam Giang Nguyễn trang Trứ dịch: Ðại Vương cờ phất ải xa Ngậm ngùi thấy bạn đã là quỷ oan Bừng sôi máu hận muốn tràn Vần thơ mọn có muôn ngàn kiếm đao! Hồ Hữu Tường hay Vũ Khắc Nam hay nhiều vị văn hóa lão thành từng nói. Thời đại chúng ta là thời Tân Xuân Thu - thời Chiến Quốc Mới - những con chiến mã vẫn còn đất tung hoành. Sức kiệt hơi tàn thì chiến đấu bằng văn, có tiền của thì chiến đấu bằng kinh tế tự do, bằng tất cả mọi thứ gì ta có được, thời thế Xuân Thu mà - Gặp thời thế thế thời phải thế! Trong trần ai ai dễ kém ai! Ðừng quên Chim Việt đậu cành Nam, bao giờ chân lý và nhân nghĩa cũng thắng bạo ngược tham tàn, tinh thần dân tộc Ðại Việt còn đó. Bản anh hùng ca bất tử vẫn còn đúng, thì người tự do Quốc gia làm văn hóa đã thắng Cộng từ lâu rồi. Bọn Cộng Sản làm gì có văn hóa mà nói đến chen vai thích cánh với chúng ta được phải không anh em! Bây giờ thì mời quí bạn yêu thơ, cùng tôi đọc những vần thơ, đúng nghĩa chân tình của nhà thơ Song Nhị gởi đến bằng hữu bốn phương và “Quê hương yêu dấu” của chúng ta - chúng ta không khóc lên vì quê hương nữa, như cô gái trong thơ Hoàng Trúc Ly độ nào: Những người xưa đi rồi không trở lại Một mình tôi lại gặp một mình em Chiều lửng lơ nghe nắng rụng bên thềm Em không khóc - mắt buồn ươn ướt đỏ! Hoàng Trúc Ly Ta hãy bắt đầu từ “Tiếng Hót loài Chim Di” để rồi chuyển âm nó thành những âm điệu cuồng phong thác lũ của mối Hờn Chiến Mã trên bãi sa trường vẫn còn đầy đủ khí độ anh hùng của những Chàng Trai Ðất Việt (Nguyễn Vỹ). “Tiếng Hót của loài Chim Di” còn là tiếng hót của thơ, của kỷ niệm êm đềm, của cuộc tình nồng ấm của men tình đầy hoa trái ngọt có thủy có chung! Thời thế này mà con người còn giữ được những thủy chung và kỷ niệm thì thật là hạnh phúc, đó là nhà thơ Song Nhị đấy bạn ạ! Chàng là một Gérar de Nerual của chúng ta đấy. (Trích bài Tiếng Hót Loài Chim Di trang 13, 14, 15, 16) T I Ế N G H Á T L O À I C H I M D I 1. Hỡi bầy chim trên khóm rừng già hỡi đàn ngựa hoang trên cánh đồng khô hãy thức dậy từ giờ nghe tiếng hát và nghe lời giục giã Hãy tiếp tục bước đi đi suốt một ngày một tháng một năm một đời Một đời sống chết không nguôi Hãy mang đi những điều dang dở hãy bước đi trên vô tận con đường sẽ có gì trọn vẹn? một niềm vui mấy nỗi buồn! 2. Hỡi trái tim đời đời là máu đỏ đời đời là yêu thương sao cả trăm năm trên quê cha khốn khổ trên đất mẹ nhục nhằn khổ đau và bội bạc 3. Hỡi thân yêu trăm nghìn lần yêu dấu cuộc biển dâu làm vỡ vụn tinh cầu thời gian qua chưa đủ mờ dĩ vãng nên lòng còn trên chóp đỉnh thương đau nên lòng còn trăm nghìn lời muốn nói nên tình còn trăm nghìn điều mến thương trong nỗi ngây ngất không cùng hãy ném hồn lên đỉnh ngọn sầu đông uống cạn sương mai giữa bầu trời lạnh giá 4. Nếu im lặng như một chấp nhận nếu bước đi như một an bài nói làm gì để một đời không nguôi thao thức thêm nhọc nhằn cho toan tính ngày mai 5. Hãy uống đi uống cạn khối tình sầu nhung nhớ hãy nghĩ về cuộc trùng phùng là giả thuyết ước mơ hãy tạm quên ngày đau thương khổ nạn để được yêu nhau hơn cả bao giờ 6. Trời sẽ nắng cây rừng hoang sẽ dậy Bầy chim di sẽ vỗ cánh bay về Ngày sẽ tới và mặt trời sẽ mọc Hỡi loài người vội vã tỉnh cơn mệ song nhị
-
Trích: Nguồn: Khoahoc.net CỘNG ĐỒNG BÁCH VIỆT HIỆN THỰC LỊCH SỬ CỦA TRUYỀN THUYẾT “TRĂM TRỨNG NỞ TRĂM CON” Phạm Trần Anh ".....Thật vậy, đã là Tiên thì Mẹ Âu Cơ có thể làm bất cứ điều gì mà người phàm không làm được … đó là đẻ ra “trứng” thuộc phạm trù tín ngưỡng nguyên thủy cũng như phạm trù tôn giáo đòi hỏi phải có niềm tin một cách mặc khải ..v. v… Gạt sang một bên vấn đề tự tình dân tộc để tìm hiểu xem tại sao Mẹ Âu lại đẻ ra “trứng”, chúng ta thấy rõ hàm ý sâu xa của tổ tiên ta. Thật vậy, ý niệm trứng trong huyền thoại biểu trưng Totem vật linh biểu trưng của Việt tộc là tộc người thờ chim (bái điểu tộc) là một con vật đứng đầu trong tứ linh: nhất điểu, nhì ngư, tam xà, tứ tượng. Nguồn thư tịch cổ cũng cho ta biết “Lạc bộ Chuy” là chi tộc Việt đầu tiên từ vùng Cao Nguyên Côn Sơn Hi Malaya tiến xuống Trung Nguyên qua vùng núi Dân, Ba Thục. Lạc bộ Chuy là chi Việt cổ của họ Hồng Bàng có vật biểu là chim Việt (Việt điểu, Lạc điểu), ông cha ta đã theo dấu chim Hồng, chim Lạc thiên cư xuống vùng đất miền núi Dân, Ba Thục cũng được gọi là Châu Phong. Địa danh Phong Châu ở Bắc Việt Nam cũng chỉ là nhắc lại địa danh cư trú ban đầu của Việt tộc nơi mà mẹ Âu dẫn 50 con lên núi rồi suy cử người con trưởng làm vua nước Văn Lang… như truyền thuyết kể lại. “ Âu Cơ và 50 con lên đất Phong Châu, suy phục lẫn nhau cùng tôn người con cả lên làm vua, hiệu là Hùng Vương, lấy tên nước là VĂN LANG, Đông giáp Nam Hải, Tây tới Ba Thục, Bắc tới Động Đình Hồ, Nam tới Hồ Tôn (Chiêm Thành)”.
-
Trích: Hưng Việt - Bài viết của tác giả KIM ĐỊNH (nguồn: catholic.org.tw) "6. Ðiểu tục còn được thực hiện bằng các bà đều mang tên chim. Bà Âu Cơ là chim hải âu. "Vụ" tiên trên ngũ Lĩnh thì "vụ" là cò bể. "Lộ" bàn, lộ bộc thì lộ là cò trắng. Còn các bà khác không mang tên chim thì trong đồ mặc lại có lông chim. Như Mỵ Châu rải lông chim cho Trọng Thủy biết đường là rút lông trong đồ mặc. Rõ nhất là khi tế tự hay ca múa (ca múa để tế tự) thì đều có mang lông chim như ta thấy đầy trên trống đồng. Ðồ mặc đó chữ Nho kêu là "vũ nghi". Tự điển Hán Việt Ðào Duy Anh còn ghi nghĩa là: "lông chim hồng dùng làm đồ nghi sức". Tôi ghi tên sách vì cho đó là một sự may chứ còn hầu hết các sách khác đã đánh mất ý nghĩa nguyên thủy nên không hiểu được ý câu "nghi thường vũ y khúc" chỉ là khúc ca vũ có mang lông chim hồng. Với Hồng Bàng còn trơ trơ ra đó vậy mà để mất ý nghĩa người ta chiếm mất. 7. Tức sau chữ "nghi" cũng là "nghê" thành ra "nghê thường vũ y khúc" chữ "nghê" có nghĩa là màu ráng đỏ hay đỏ màu ráng, màu của mặt trời lúc mới mọc. Và bản "nghê thường vũ y khúc" là bài hát chào mặt trời lúc mới mọc mà Khuất Nguyên gọi là "Ðông Quân" là vì đó. Tục ngữ Việt Nho có câu: "Phượng Minh Triều Dương" "Con Phượng hót (minh) chào mặt trời buổi mai". Sách Quảng Ðông Tân Ngữ ghi là "tùy dương Việt trĩ" = con trĩ của Việt tộc khi bay thì theo hướng mặt trời. Như có ghi lại trong "Vân Ðài Loại Ngữ" bản dịch Phạm Vũ và Lê Hiền nhà xuất bản Miền Nam trang 519. Nên ghi nhận con phượng chính là chim Việt trĩ này đây. (xem ghi chú cuối sách Triết Lý Cái Ðình). Văn tự ghi chép lại rành rẽ vậy thế mà sau có truyện Ðường Minh Hoàng nằm mơ lên chơi Cung Quảng Hàm, được xem tiên múa bài "Nghê thường Vũ y khúc" tức coi khúc hát đó là của tiên. Thế là Việt trơ ra cứ tưởng bài đó là ở cõi tiên hay có dưới trần gian thì cũng mãi ở bên Ấn Ðộ chứ không ai dám nghĩ - dù chỉ có ý nghĩ - đến rằng đó là tên bài vũ của tổ tiên ta hay còn tạc ghi trong trống đồng. Thôi tạm chấm dứt ở đây về chữ Tiên của Mẹ."
-
Thiển ý của Phoenix thì bạn nên đổi nick Nhất Chi Mai hoặc không dùng nó thường xuyên. Một thứ đã trong trắng, tinh khiết lại đơn độc thì dù nỗ lực không ngừng để vươn lên, tỏa ra sắc trắng cũng vẫn trong cảnh khắc nghiệt, căng thẳng và khó khăn. Sống hài hòa dù chỉ là cỏ nhưng gió không đổ, mưa không phiền, nắng không lụi, lúc nào cũng xanh và êm dịu thì có lẽ thư thái và dễ thành công hơn. Thân.
-
Một lá số chưa đúng cách chưa đáng lo nhưng chán ghét cuộc đời và số mệnh của mình thì sẽ thành đáng e ngại.
-
Nguồn: http://www.tintuconline.com.vn Tìm thấy 'cỗ máy đẻ sao' hiếm hoi trong vũ trụ Thứ bảy, 12/7/2008, 11:02 GMT+7 Các nhà thiên văn đã khám phá ra một cỗ máy đẻ sao đặc biệt - một thiên hà ở rất xa đang phun ra những vì sao ở tốc độ đáng kinh ngạc, khoảng 1.000 đến 4.000 vì sao mỗi năm. Với tốc độ này, thiên hà nói trên chỉ cần khoảng 50 triệu năm, không phải là quá dài theo thời gian vũ trụ, là đủ để mọc ra một thiên hà tương đương với hầu hết các thiên hà khổng lồ chúng ta thấy ngày nay. Thiên hà "Baby Boom" cách chúng ta 12,3 tỷ năm ánh sáng, được đặt biệt danh này vì đang đẻ hàng loạt vì sao cùng lúc. (Ảnh: Reuters) "Hãy so sánh, Milky Way của chúng ta chỉ sản sinh ra trung bình 10 ngôi sao mỗi năm", phát ngôn viên của Cơ quan Vũ trụ Mỹ cho biết. Phát hiện mới đi ngược lại với giả thuyết phổ biến nhất hiện nay về sự thành tạo của thiên hà. Theo giả thuyết đó, có tên là Mô hình Hierarchical, các thiên hà đẻ sao một cách chậm chạp nhờ hấp thụ những mảnh vụn tí hon của các thiên hà khác, chứ không phải theo cách bùng nổ như quan sát thấy trong thiên hà "Baby Boom" mới được tìm ra. Theo T. An
-
Nguồn: http://www.tintuconline.com.vn Bi hài chuyện thi đại học Chủ nhật, 13/7/2008, 16:11 GMT+7 Thắp hương, ngồi lần tràng hạt, tìm người hợp "vía" để đón đi thi, kiêng cữ mực, mít, quẩy... là một vài trong vô vàn cách thức được các sĩ tử áp dụng trong mỗi mùa thi. >> Những chuyện "lạ" trong mùa thi Trong kỳ thi đại học vừa qua, bác Quý (Tây Hồ - Hà Nội) vẫn nhớ như in hình ảnh cậu con trai trong ngày đầu tiên đi thi đại học. 3 giờ sáng, đang ngủ, bác Quý chợt choàng tỉnh vì mùi trầm hương thơm ngát. Bác nhủ thầm chắc bà nội dậy sớm thắp hương cầu cho đứa cháu đích tôn gặp nhiều may mắn. "Lên đến nơi, khẽ mở cửa, tôi mới giật mình khi thấy con đang ngồi trước ban thờ lần tràng hạt, đôi mắt nhắm nghiền, đầu cúi nghiêm trang", bác Quý cho biết. Theo lý giải của phụ huynh này, có lẽ do sống từ nhỏ cùng bà nội hay đi chùa, tụng kinh niệm phật nên Tùng cũng quen mùi nhang khói. Mỗi khi nhà có việc, bà vẫn hay thắp hương, lần tràng hạt. Tuy nhiên, lần này, cậu đề nghị được tự tay làm để thấy "tự tin và thanh thản hơn" trước khi bước vào sự kiện trọng đại của đời mình. Con đi thi phòng trong, bố mẹ thi vòng ngoài. (Ảnh: Tiến Dũng) Mùa thi, nhiều sĩ tử quan niệm "phải hợp… 'vía' ngay từ khâu đầu tiên". Tra thông tin trên mạng, biết được mình hợp với tuổi Dần, nữ sinh tên Thương, THPT Việt Đức, quyết tâm lên kế hoạch tìm cho ra người hợp tuổi với mình để đưa đi thi. Lần mò, hỏi han hết người này đến người kia, cuối cùng Thương cũng tìm được chú xe ôm gần nhà đúng với tiêu chuẩn đề ra. Tuy nhiên, sợ hôm đó có gì bất trắc, cô khẩn khoản yêu cầu chú xe ôm phải giữ gìn sức khỏe, ăn uống đầy đủ kẻo "hỏng hết chuyện lớn của cháu". May mắn hơn Thương, Thanh Hòa lại có bà ngoại hợp tuổi nên dù bà đã gần 70 tuổi nhưng cô vẫn nặng nặc đòi chính bà phải đưa đi mới hợp "vía" vì "nếu cháu không làm được bài thì... tại bà hết". Dậy từ 5h sáng, hai người một già một trẻ "lên đường". Trời mưa nặng hạt, không mang áo mưa nhưng Hòa nhất quyết không cho bà quay về lấy vì "đã bước chân đi mà quay đầu lại là… xui lắm". Không chỉ xem tuổi, nhiều sĩ tử còn kiêng khem đủ thứ. Lặn lội từ vùng chiêm trũng Hà Nam lên thành phố, mẹ con chị Hoài ở nhờ được nhà người bác họ. Biết cháu đi thi vất vả, người bác tâm lý đưa chị Hoài vào siêu thị mua mít khô, mực, lạc, kèm bánh trái tẩm bổ cho cháu. Ngờ đâu, mới chỉ nghe mẹ nói cậu con trai đã giãy nảy: "Tất cả những món đó từ nay mẹ loại ra khỏi thực đơn cho con. Mẹ muốn con sẽ mít đặc, lạc đề và đen như mực sao?". Sáng hôm đi thi, cố gắng lắm, chị Hoài mới ép được con ăn bát phở. Gọi thêm đĩa quẩy ăn kèm, chưa kịp gắp vào bát con, cậu đã nhăn mặt: "Thôi, mẹ ăn đi! Con ăn vào thì "xúi quẩy" lắm". Nghe phản ứng của con trai, chị Hoài chỉ biết bấm bụng bỏ qua. Trong lúc chờ con làm bài, phụ huynh này dựng vội chiếc xe cà tàng bên vỉa hè, tranh thủ đánh một giấc ngủ vội. (Ảnh: Tiến Dũng) Sĩ tử đi thi, cả nhà đều "nín thở", "gò lưng" phục vụ tối đa, nhưng từ đó cũng nảy sinh những chuyện dở khóc dở cười. Trằn trọc suốt đêm, mới 3h sáng, bác Nguyễn Tâm (Hà Tây) đã giục vợ dậy thổi xôi đỗ và thịt gà để "các cụ phù hộ độ trì cho con trai thi tốt". Khi mọi việc xong xuôi, bác diện bộ quần áo chỉnh tề, kính cẩn thắp hương, dõng dạc đọc số báo danh của con. Có ngờ đâu mắt mũi kèm nhem, bác đã cầu cho sĩ tử khác khi đọc nhầm số báo danh cho con từ số 1 thành số 7. Thấy con đi thi môn đầu tiên về sắc mặt không vui, gia đình chị Thủy không ai dám hỏi câu nào. Trời nóng nực, chị chỉ dám khẽ đến bên, bật quạt cho con rồi ý tứ: "Đề khó không con?". Con trai chị trả lời lấp lửng rồi tránh lên phòng, còn cả nhà tặc lưỡi: "Thôi, để im cho nó thi xong hết đã". Đến môn thi thứ 2, thấy con tươi tỉnh nên không khí gia đình bớt căng thẳng hơn. Nhưng đang ăn cơm, thấy con trai ngồi thừ người ra buông đũa kêu to: "Ôi thôi chết, nhầm rồi!", cả nhà nín thở không ai hỏi thêm gì. Chờ con thi xong cả 3 môn, biết con hợp với tính ông, bà ngoại nhất, chị Thủy mới nhờ "ông bà hỏi giúp con xem cháu làm bài thế nào". Dò trước, đoán sau, qua một loạt khâu, ông bà mới biết "cháu làm cũng tạm ổn" nhưng không dám nói vì sợ "nói trước bước không qua". Còn trường hợp của Lê lại khá đặc biệt vì có lẽ ít ai gặp được may mắn như cô nữ sinh đến từ Bắc Giang này. Lo lắng, hồi hộp, lại lạ nhà nên cả đêm cô gần như mất ngủ. Cố chợp mắt một chút để mai lấy sức đi thi nhưng chưa đầy một tiếng sau, cô ngồi bật dậy lẩm bẩm: "Chết! Nam Cao". Nghe vậy, người mẹ nằm cạnh lo lắng: "Ngủ đi, cao với thấp gì". Bỏ ngoài tai lời khuyên của mẹ, Lê mang vội sách văn ra ngồi đọc cho đến sáng. "Ai ngờ đâu, sáng hôm sau, đề ra đúng tác phẩm Nam Cao thật. Kể chuyện khoe với mọi người, ai cũng bảo em được "quý nhân phù trợ", Lê cười. Quanh mùa tuyển sinh có biết bao chuyện vui buồn. Trong lúc ngồi chờ con, nhiều phụ huynh tâm sự: "Thi đại học là lúc cả nhà đều vào cuộc. Mệt mỏi vô cùng. Con thi phòng trong, cha mẹ cũng lều chõng vòng ngoài". * Tên nhân vật đã thay đổi Theo Hoàng Lan
-
Một khái niệm "VĂN HÓA" đẹp: Đất nước- Nguyễn Khoa Điềm (trích Trường ca Mặt đường khát vọng) Đất nước Khi ta lớn Đất Nước đã có rồi Đất Nước có trong những cái "ngày xửa ngày xưa.." mẹ thường hay kể Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc. Tóc mẹ thì bới sau đầu Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn Cái kèo, cái cột thành tên Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng Đất Nước có từ ngày đó.. Đất là nơi anh đến trường Nước là nơi em tắm Đất Nước là nơi ta hò hẹn Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm Đất là nơi "con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc" Nước là nơi "con cá ngư ông móng nước biển khơi" Thời gian đằng đẵng Không gian mênh mông Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ Đất là nơi Chim về Nước là nơi Rồng ở Lạc Long Quân và Âu Cơ Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng Những ai đã khuất Những ai bây giờ Yêu nhau và sinh con đẻ cái Gánh vác phần người đi trước để lại Dặn dò con cháu chuyện mai sau Hằng năm ăn đâu làm đâu Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ Trong anh và em hôm nay Đều có một phần Đất Nước Khi hai đứa cầm tay Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm Khi chúng ra cầm tay mọi người Đất Nước vẹn tròn, to lớn Mai này con ta lớn lên Con sẽ mang Đất Nước đi xa Đến những tháng ngày mơ mộng Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình Phải biết gắn bó và san sẻ Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở Làm nên Đất Nước muôn đời.. Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha Ôi Đất Nước sau 4.000 năm đi đâu ta cũng thấy Những cuộc đời đã hóa núi sông ta Em ơi em Hãy nhìn rất xa Vào 4.000 năm Đất Nước Năm tháng nào cũng người người lớp lớp Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta Cần cù làm lụng Khi có giặc người con trai ra trận Người con gái trở về nuôi cái cùng con Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh Nhiều người đã trở thành anh hùng Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhỏ Nhưng em biết không Có biết bao người con gái, con trai Trong 4.000 lớp người giống ta lứa tuổi Họ đã sống và chết Giản dị và bình tâm Không ai nhớ mặt đặt tên Nhưng họ đã làm ra Đất Nước Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng Họ chuyển lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm Có nội thù thì vùng lên đánh bại Để Đất Nước là Đất Nước nhân dân Đất Nước của nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại Dạy anh biết "yêu em từ thở trong nôi" Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội Biết trồng tre đợi ngày thành gậy Đi trả thù mà không sợ dài lâu Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi Người dạy ta nghèo ăn cháo ăn rau Biết ăn ớt để đánh lừa cái lưỡi Cái cuốc, con dao, đánh lừa cái tuổi Chén rượu đánh lừa con mỏi, cơn đau Con nộm nag tre đánh lừa cái chết Đánh lừa cái rét là ăn miếng trầu Đánh lừa thằng giặc là chuyện Trạng Quỳnh Nhưng lạ lùng thay, nhân dân thông minh Không hề lừa ta dù cao dao, cổ tích Ta lớn lên bằng niềm tin rất thật Biết bao nhiêu hạnh phúc có trên đời Dẫu phải cay đắng dập vùi Rằng cô Tấm cũng về làm hoàng hậu Cây khế chua có đại bàng đến đậu Chim ăn rồi trả ngon ngọt cho ta Đất đai cỗi cằn thì người sẽ nở hoa Hoa của đất, người trồng cây dựng cửa Khi ta đến gõ lên từng cánh cửa Thì tin yêu ngay thẳng đón ta vào Ta nghẹn ngào, Đất Nước Việt Nam ơí Em nghe không trái thị đã rơi xuống tay người Trai không chỉ rơi vì sức hút đất đai Trái rơi vì tay người ao ước Khi trái chạm tay người và người ấm ủ Thì lừng hương và cô Tấm bước ra Đi trả thù và sống Tự do Không rơi xuống bùn, ôi trái thị quê ta Để bùn lấm và thành bùn vạn kiếp Rơi vào tay người, đó là định luật Của đấu tranh và nhân nghĩa Việt Nam Tuổi trẻ ơi trong sương gió tháng năm Ta đã lớn rồi, chín đầy hy vọng Hãy ngã xuống tay nhân dân, hỡi sắc vàng của nắng Hỡi hương thơm của nồng mặn mồ hôi.. Hãy ngã vào tay nhân dân, đừng vãi đừng rơi Đừng do dự, đừng hoài nghi nữa Hãy yêu nhân dân và nghe người nhắn nhủ Hãy tìm sức mạnh trên cơ thể nhân dân Nhân dân đang đi lên đội ngũ trùng trùng Thế vô tận của nghìn năm giết giặc Lửa đã cháy hồng hào mặt đất Mùa chín tình yêu, mùa chín hận thù Không bao giờ xương máu phải bơ vơ Ôi sông núi uy nghi ngàn dặm đất Có nghe tiếng chúng con: Xin có mặt Nguyện làm người xung kích của quê hương Đấy tiếng hát chúng con: tiếng hát xuống đường! Nguyễn Khoa Điềm Nơi xuất bản: Trích Trường ca Mặt đường khát vọng - 1974, Nhà xuất bản Giáo dục 2005
-
Người ta thường hay nói và thừa nhận những khái niệm như "văn hóa Maya", "văn hóa Đông Sơn", "văn hóa Pháp" ..... Nó cho thấy tính tổng hợp của nhiều giá trị khác nhau liên quan đến mọi mặt đời sống của một cộng đồng cụ thể nào đó và nó bao hàm nét đặc trưng, phổ biến, liên tục của các giá trị ấy. Như thế, nếu nói "văn hóa ẩm thực", "văn hóa uống trà", "văn hóa giao tiếp", "văn hóa chửi" chúng ta nhìn thấy nó có vẻ nằm trong nội hàm của hai từ "văn hóa". Nhưng nó có quá hạn hẹp về phạm vi lĩnh vực để ghép với chữ "văn hóa" hay không? Hay là chúng là "văn hóa" cấu thành nên "nền văn hóa"? Nền văn hóa (Việt, Mỹ, Đông A ....) Văn hóa (trà, xe, chửi .....) Phoenix chưa có nhiều thời gian để bàn luận sâu, trích ra một tẹo nghi vấn để "ngâm cứu" :(
-
Nhất Chi Mai trong tình cảm hay nể và chiều bạn, dẫn đến bị yếm thế, thiệt thòi. Nên lấy chồng xa, hoặc lấy người đến sau. NCM có đeo kính cận không vậy?
-
Nguồn: http://www.the-fools.net "Trong phần thứ hai của loạt bài “How to become an Internet celebrity”, chúng ta sẽ bàn về “nghệ thuật sử dụng tiếng lóng và chửi” (tất nhiên là trên Internet). Bạn có thể thắc mắc, tại sao chửi có thể tồn tại được trong xã hội văn minh, trong giới quí-xờ-tộc như thế này. Lý do của nó rất đơn giản, hệt như việc bạn có thể ăn những món ngon nhất, chơi những trò thú vị nhất, gặp những người sành điệu nhất thì bạn vẫn cứ phải chui vào toilet để giải quyết một khâu được coi là xấu xa nhất nhưng lại cần thiết nhất trong ngày. Một trong những khả năng kỳ diệu nhất của loài người là khả năng đổi trắng thay đen, ví dụ như nếu phải ngửi một mùi đặc biệt khó chịu nào đó trong vòng 10 phút thì mũi sẽ điếc với mùi đó tức là ko cảm thấy khó chịu nữa (hay diễn giải một cách hình tượng hơn là sống lâu quá trong *** thì sẽ ko thấy khổ nữa, có khi còn khen *** thơm). Nếu gặp một ai tốt đẹp hoàn hảo quá thì họ sẽ nghĩ thầm … à chắc chắn tên này đạo đức giả. Vì vậy, nếu bạn chửi bậy và lại chửi hay thì người ta sẽ tiếp tục suy diễn, hắn ko thể bậy, ko thể suy đồi như vậy được, có lẽ đằng sau con người đó phải có cái gì đó khác, chắc phải tốt đẹp hay ho lắm, trong khi trên thực tế thì … e hèm, trong từ điển Internet của chúng ta ko có từ “thực tế”! Như vậy, biết chửi và chửi có nghệ thuật bây giờ đã trở thành một tiêu chuẩn không thể thiếu được của một con người văn minh trong thời đại Internet. Nhưng nó không chỉ là một thứ đồ trang sức xa xỉ vô dụng, mà còn thực sự trở thành công cụ đắc lực trợ giúp mỗi người trên con đường trở thành “internet celebrity”. Muốn đi lên thì phải bước lên đầu kẻ khác, phải dìm người khác xuống, rất đơn giản phải không? Từ thời thượng cổ, chửi đã được loài người sử dụng để sỉ nhục để đì kẻ khác xuống, cho đến bây giờ, thời đại Internet, khi mà mọi thứ vũ khí (hữu hình) khác trở nên bất lực, thì chửi lại trở nên hiệu quả và quí giá hơn bao giờ hết. Ừ thì không thể không chửi được, nhưng chửi cho đúng kiểu, sành điệu, chửi mà như không chửi thì lại không đơn giản chút nào. Ví dụ như khi đang chat với nàng bạn buông một câu “mẹ nó” thì nàng sẽ … “eo ôi anh ấy vô học!” và thôi ta chia tay nhau từ đây, khi tranh luận với một tên trên forum bạn lại dùng “mẹ mày” thì bạn sẽ nhận được một lời đe dọa tính mạng cộng với một mối thù truyền đời truyền nick. Nhưng nếu bạn chỉ cần thay bằng từ “mịa nó”, hoặc “con bà mày” (tức là nghĩa vẫn như cũ, cách diễn đạt khác đi) thì có khi nàng sẽ … “ôi chao, anh ấy sành điệu ghê, yêu thế!”, còn thằng kia thì vừa thán phục vừa e sợ trong khi không để bụng chút nào. Đám đông và công chúng luôn ngu dốt và ngây thơ, bạn hãy ghi nhớ điều này. Từ ví dụ ở trên ta có thể thấy là chỉ cần thay đổi duy nhất một từ (trong chuyên môn người ta gọi là biện pháp tu từ thì phải) thì đột nhiên những câu chửi truyền thống hàng tôm hàng cá sẽ trở thành câu chửi văn minh, chửi có học liền. Trong hoàn cảnh VN, khi mà chợ cóc len lỏi vào mọi nẻo đường, ngõ phố thì chúng ta lại càng có điều kiện cập nhật thêm “nguyên liệu” để chế biến sao cho vốn từ chửi của mình thêm đa dạng, phong phú. Có những trường hợp ta chỉ cần thêm bớt, hoặc thay đổi một chữ trong từ là được. Ví dụ như “đéo” thành “léo”, “đếch” thành “ếch”, còn “em” thì thành “iem”. Ngoài ra viết ngọng cũng đang ngày càng trở nên phổ thông, ví dụ như “trim”, “ku”, v.v. Phát âm những từ này (nếu bạn là người Hà Nội) thì nói chung là … bậy như nhau, nhưng đọc (text) thì lại khác. Đó là một trong những ưu việt của xã hội chủ nghĩa ảo. Bạn càng dùng nhiều từ chửi bậy, càng ám chỉ nhiều đến tình dục, miễn là không được dùng từ gốc, thì bạn càng tỏ ra là một con người hiểu biết, từng trải, và hài hước trong công chúng. Như vậy bạn có thể thấy, chỉ cần để ý một chút là chúng ta có thể tự động phát hiện và bổ sung được vốn từ chửi, ít nhất cũng là theo kịp thời đại. Tuy nhiên, cũng xuất phát từ khả năng kỳ diệu của loài người, nếu bạn và mọi người chửi cùng một kiểu, ai cũng sành điệu giống ai thì lúc đó câu chửi sẽ được nghe như câu nói bình thường. Mà bình thường thì muôn đời không thể trở thành celebrity được, bạn cần phải đi trước thời đại. Đây là lúc bạn có thể áp dụng chiêu thức cổ xưa (như trái đất) là kết hợp với ngoại ngữ. Dân Việt ta cứ cái gì có chữ “ngoại” là lên giá liền, chắc hẳn bạn vẫn còn nhớ? Rất đơn giản, thay vì câu “mày nói nghe như ***” thì bạn có thể đổi thành “mày nói nghe như shit”, hoặc cao thủ hơn nữa là phiên âm luôn thành “mày nói nghe như xịt”. Ngon liền! Ngoài ra, bạn có thể học tập cách sử dụng những từ “hell”, “fuck” trong tiếng Anh để áp dụng vào tiếng Việt sao cho chửi có bài có bản, có vần có điệu. Ví dụ như nếu nàng hỏi “Anh thấy bộ phim này thế nào?”, thay vì “it’s fuckingly amazing”, bạn có thể trả lời “hay tuyệt con bà nó vời”, đảm bảo nàng ko chết ko lấy tiền! Một chi tiết ko kém phần quan trọng là bạn cần phải nhận biết và sử dụng được một số cụm từ viết tắt trong tiếng Anh như IMO (hoặc IMHO, IMAO), rồi LOL (hoặc LMAO, ROFL), rồi WTF (STFU, RTFM, và tất cả những từ có TF ở giữa). Muốn biết ý nghĩa? Hãy nhớ là chúng ta có Internet, có Google! Chúng cũng dần trở nên quan trọng và sành điệu ko kém gì các từ (tiếng Việt) như 4C, 4`, GATO, v.v. Nếu kết hợp tốt với những câu chửi sành điệu thì bạn sẽ tạo được sự khác biệt và hấp dẫn kinh khủng trong con mắt công chúng. Đặc biệt, những từ viết tắt này rất quan trọng trong ngôn ngữ chat, bạn mà không biết dùng thì … xuống mẫu giáo mà học! Ngay cả giọng cười cũng quan trọng, nếu bạn chỉ có hihi thì sẽ bị kết tội e lệ nữ tính, còn hehe thì … dê, mà haha thì nhạt, trong khi nếu dùng hé hé, há há, hẽ hẽ, hẹ hẹ, hị hị, hí hí, hĩ hĩ, … thì ngay lập tức bạn sẽ trở thành David Beckham hoặc Brad Pitt liền. Túm lại, chửi là một nghệ thuật (tất nhiên là chúng ta phải nói như vậy đối với đám đông ngu dốt dưới kia), nó giúp ta cải tạo thế giới toàn những kitsch (tất nhiên là chúng ta cũng biết rằng nó chỉ là một dạng của kitsch mà thôi) và … “ta chửi, do đó ta tồn tại”!"
-
NGƯỜI HÀ NỘI ... CHỬI Nguồn: http://truongton.net Chân thành xin lỗi những người Hà Nội lịch thiệp! Sống ở thủ đô 10 năm, tôi chứng kiến nhiều sự đổi thay của thành phố này. Khu Dịch Vọng vốn cây hoang dại - nơi trú ngụ của đám cave già - nay đã mọc lên làng quốc tế hoành tráng. Khu Mỹ Đình, Khu Cổ Nhuế, khu Kim Giang... nay đã hoàn toàn khác xa năm 1997. Sự đổi thay đó ai cũng có thể nhìn thấy. Tôi không muốn bàn nhiều mà chỉ xin nói một vấn đề hết sức là nhạy cảm: VĂN HOÁ CHỬI CỦA NGƯỜI HÀ THÀNH. Tôi hoàn toàn không có ý châm chọc, hạ bệ hay đưa ra bất kỳ một kết luận nào mà chỉ nêu lên một vài chuyện để các blogger tự đánh giá. **** Chuyện thứ nhất Hồi còn là sinh viên, chúng tôi thuê nhà ở khu Dịch Vọng. Căn nhà tồi tàn, huơ hoác. Phía sau là một cửa sổ lớn hướng sang nhà hàng xóm nhưng không có chắn song. Tối tối, mấy thằng sinh viên lười biếng cứ tiện là ghé người ra phía sau tha hồ "tờ e huyền" sang nhà hàng xóm. Buổi trưa thì chơi tá lả. Mà đã chơi thì phải sát phạt, hò hét. Điều đó khiến cho người hàng xóm khó ngủ + khó chịu. Một buổi trưa, bả (bà ấy - theo cách gọi của người nam bộ) rình và bắt quả tang "thằng bé con" anh bạn tôi đang "xả nước". Thế là một bài "trường ca" bắt đầu: Tôi không thuộc nhưng đại khái : Bà bắt được quả tang nhá. Tiên sư chúng mày, toàn những thằng có học mà ngu như... Chúng mày làm cho gà nhà bà ngửi thấy mùi khai mà không đẻ được. Chúng mày không cho bà ngủ ngáy gì cả. Ai dạy chúng mày... Chúng mày là đồ mất dạy! Bà dí... vào chúng mày... "Hát" một lúc, người phụ nữ này bắt đầu thở hổn hển và ngưng lại ... nghỉ. Anh bạn tôi lên tiếng: - Mấy thằng mày mất dạy. Tao đã bảo rồi, đừng có đái sang nhà hàng xóm. Tao mà là bà ấy. Tao còn chửi tiếp. Bà già lại càng điên tiết: - Tiến sư mày trêu bà. Chính mày là thằng hay đái bậy nhất. Mà cũng là thằng to mồm nhất giờ mày lại giở giọng đạo đức với bà. Mày muốn trêu ngươi bà chắc. Điệp khúc cũ lại rền vang. Được một lúc, bà già lại nghỉ. Lúc này, tôi lên tiếng: - Bà ơi. Bà không chửi nữa à. Bà chửi thế bọn cháu thấy cũng đáng. - Tổ sư chúng mày. Sinh viên gì chúng mày. Học cái ... gì mà xử sự ngu như... Việc chửi bới tỏ ra nặng nhọc. Bà già ngồi bệt xuống đất và thở hổn hển. Một thằng bạn khác của tôi nói: - Bà ơi. Bà chửi nữa đi. Chúng cháu đang muốn nghe! - Tổ sư chúng mày. Bà chửi chúng mày có mà chửi cả ngày à. Chỉ tổ mệt xác bà thôi. Chúng mày cũng như con cháu bà. Bà bực lên bà nói thế thôi. Lần sau đừng làm thế nữa nghe các con... Sự thay đổi thái độ của bà làm chúng tôi bật cười là cùng nhau lên tiếng xin lỗi. Từ đó, bà chẳng bao giờ trách móc chúng tôi nữa. Chúng tôi cũng vì thế mà phải "siêng năng" và kiệm lời hơn. *** Chuyện thứ hai: Sau khi đi làm, có tí tiền là lại đú đởn đi sắm đồ. Xưa nay chỉ nghe nói dân chợ Vinh (Nghệ An - quê tôi) hay nói thách và chửi khách mua hàng. Ai dè, chợ Cầu Mới (Ngã Tư Sở còn "kinh khủng khiếp hơn"). Số là hôm ấy tôi định mua cái tai nghe nhạc. Chị bán hàng trạc tuổi U40 đon đả: - Em ơi, mua gì vào đây với chị nào. Chị bán rẻ cho. Hàng cao cấp đấy. Chứ không phải hàng nhái đâu. Chị bảo hành luôn chất lượng và giá cho em. Nghe bùi tai, tôi bước vào quầy. Sau một hồi dở hết cái nọ, cái kia ra nghe nhưng không tìm được cái vừa ý, hơn nữa bị "hét" giá cao quá nên tôi xin lỗi và bước đi... Chị bán hàng trề môi: Thằng mất dạy này. Mới sáng ra chưa ai mở hàng mày đã bới "hàng" tao lên rồi không mua. Mày không có tiền thì nói mẹ nó đi. Đ. mẹ mày. Nhìn thì không đến nỗi nào nhưng lại "ám" bà. Bà dí... vào cái mặt mày (hê hê, nếu dí được đã ... khoái). Bà đốt vía này. Vía lành... Tôi rảo cẳng thật nhanh chuồn ra khỏi khu vực này vì quá nhiều âm thanh của các "đồng nghiệp" của chị ta và nhiều cặp mắt hiếu kỳ của khách hàng khác. Ôi la la. Toát cả mồ hôi hột. **** Chuyện thứ 3 Tôi cùng một anh bạn lang thang ở khu Nghĩa Tân. Ông bạn tôi có chiếc máy ảnh Nikkon gì đó nên hai anh em rủ nhau đi tập toẹ chụp ảnh. Nhìn thấy một đống nilon lù lù trước một góc nhà, anh bạn tôi giơ máy bấm "xoẹt" một cái. Đèn "phờ lát" loé lên. Ngay tức khắc, một ông già xuất hiện với vẻ mặt khó chịu: - Chúng mày chụp cái đ. gì hả. Mày có biết nhà này là nhà của ai không? ĐỊnh đăng báo hả. Bố mày đập mẹ nó máy ảnh này. Mày đi vào đây ... (ông già túm áo ông bạn tôi kéo vào nhà). Dân tình bắt đầu vây đông. Người chỉ trích, kẻ ủng hộ người đàn ông nóng tính này. Ai đó điện cho công an phường, ngay tức khắc, họ xuất hiện và mời tất cả chúng tôi về đồn. Lấy lời khai. Ghi biên bản. Chờ. Và chờ. Tôi khát nước, định chạy ra ngoài mua chai khoáng nhưng một cán bộ ngăn lại và bảo: "Thằng kia, mày định trốn đi đâu". Tôi tiu nghỉu quay lại ngồi... xem Tivi. Hôm ấy, sao chương trình TV tẻ nhạt thế không biết. Một cán bộ khác quay sang bảo: Chúng mày là nhà báo à. Thích oách chứ gì. Muốn chụp gì thì cũng phải ... báo cáo chính quyền địa phương chứ. Tôi bực mình nhưng không nói gì. Người cán bộ không buông tha: Ngựa non háu đá. Cứ thích oách cho lắm vào. Tôi cười nhạt: Dạ, em thường thôi. Nếu thích oách thì em đã đi học làm cảnh sát. Anh ta im lặng. Một lúc sau, ông già lại xuất hiện và định "vồ" lấy chúng tôi. Ông ta nói: Đ.mẹ chúng mày. Chúng mày có biết là có luật bản quyền không. Chúng mày có biết là chụp ảnh phải xin phép không? Lúc nãy mà bố mày giật được máy ảnhthì bố mày đập tan rồi. Rồi chúng tôi cũng được về sau khi bị giữ từ hơn 3giờ chiều đến tận hơn 9 giờ tối. Bụng đói meo. Nhưng cả hai đều thở phào nhẹ nhõm. Thêm một bài học nhớ đời! Sau này mới biết, ông già ấy là một giáo viên của một trường đại học gần đó đã nghỉ hưu. Ông ta đang mở cơ sở sản xuất nhựa phế phẩm gây ô nhiễm môi trường xung quanh. Thế mới biết, người có học vấn không phải không biết chửi! *** Vài suy nghĩ Tôi cố cắt nghĩa "CHỬI" là gì? Từ điển tiếng Việt ghi: (Chửi là): Dùng lời thô tục mà mắng người nào: Bà cụ lắm điều, suốt buổi chửi con gái 2. Nói hai thứ mâu thuẫn nhau; không hợp với nhau: Hai màu này chửi nhau. Rồi một lần nghe thầy giáo dạy môn cơ sở văn hoá giải thích: Chửi là một nét văn hoá. Nó gắn với con người. Thể hiện tâm trạng bực bội muốn "xả" ra ngoài. Nhiều khi người ta chửi vì yêu quý nhau: Tiên sư thằng ***, mày đi đâu mà mất mặt thế hả. Vào nhà làm cút rượu đi, anh em đang chờ. Người ta chửi vì ghét nhau: Thằng khốn nạn. Mày lừa bà. Mày lúc nào cũng nói lời tử tế. Mày chỉ thích rủ bà vào nhà nghỉ. Bà đã hiến thân cho mày. Bây giờ mày đi với con khác... Tầm bà chỉ có thế thôi. Mày ... mày (đây là một đoạn tôi chép lại lời của một cô gái vừa nói chuyện qua điện thoại vừa khóc ở Hồ Tây). v.v... Còn đây là một số đoạn mà tôi sưu tầm được: "Tiên sư đư’a nào bắt mất con gà nhà bà, gà ở nhà bà con công con phượng, gà về nhà mày thành con cáo con hâu. Bà … bà…bà… U cho con xin chén trà để con chửi tiếp….. bà chửi theo kiểu toán học cho mà nghe nhá…bố mày là A, mẹ mày là B, bà cho vào ngoặc bà khai căn cả họ nhà mày… Bà rủa mày ăn miếng rau mày ói ra miếng thịt, mày tắm trong ao mày chết chìm trong chậu… Bà khai căn cả họ nhà mày, xong rồi bà tích phân n bậc, bà bắt cả hang, cả hốc, ông cụ ông nội, cả tổ tiên nhà mày ra mà đạo hàm n lần. Ái chà chà…mày tưởng à. Mày tưởng nuốt được con gà nhà bà là mày có thể yên ổn mà chơi trò “cộng trừ âm dương” trên giường với nhau à…..Bà là trị cho tuyệt đô’i hết cả họ 9 đời nhà mày, cho chúng mày biết thế nào là vô nghiệm, cho chúng mày không sinh, không đẻ, không duy trì được nòi giống nữa thì thôi…Bà sẽ nguyền rủa cho chúng mày đời đời chìm đắm trong âm vô cùng, sẽ gặp tai ương đến dương vô cùng, cho chúng mày chết rục trong địa ngục, cho chúng mày trượt đến maximum của sự vô hạn tối tăm… ờ nhỉ, thôi, hôm nay thứ 7, bà nghỉ, ngày mai bà chửi tiếp. À, mày chơi toán học với bà à…U cho con xin thêm chén nước ạ ..Thằng khốn ấy nó là tiến sĩ toán lý, không chửi bằng toán học thì không xong với nó u a…....Vâng vâng, u rót cho con đầy đầy vào, nữa đi…để con lấy hơi chửi tiếp, con sẽ chửi từ số học lên tích phân, xuống đại số rồi sang hình học cho u xem… Tiên sư nhà mày, mày tưởng ngày nào mày cũng rình mò tiệm cận hàng rào nhà bà là bà không biết đấy phỏng ? Bà là bà giả thiết mày ăn cắp hơn hai chục con gà nhà bà,…mày về mày vỗ béo để nhồi đường cong cho con vợ mày, à à, mày vẽ nữa đi, mày tô nữa đị. Mày tô, mày vẽ, mày nhồi cho đến khi đường cong con vợ mày nó nứt toát, nó gẫy khúc ra, chọc xiên chọc xẹo đi, rồi đi lên đi xuống nữa vào, rồi có ngày con vợ mày sẽ hạ vuông góc một mạch thẳng xuống nóc tủ....thôi con ạ ….....ái chà chà…mày tưởng mày dùng cả Topo học mày vẽ thòng lọng mày bắt gà nhà bà mà được à ? - Vâng vâng, em về ngay đây, anh chờ em chửi thêm cho nó một chút. Mẹ ca’i thằng …...anh ăn trộm được đâu 2 con gà à …hi hi…chờ em với nào. Chào u con về ạ ..Cho con gửi tiền u mấy chén nước chè…Thằng chồng con chẳng hiểu kiếm được 2 con gà lạc ở đâu…hihi Hoặc là: Chỉ vì mất một con gà Rêu rao bà chửi suốt ba ngày liền Chỉ sang tứ phía láng giềng Réo từ nội ngoại tổ tiên mười đời... VIẾT ĐẾN ĐÂY TỰ NHIÊN CỤT HỨNG (theo Trọng An)
-
Chú Thiên Sứ kính, Topic này khiến cho mấy vấn đề phải sáng tỏ mới đảm bảo "sự trong sáng của Tiếng Việt" được. - "Văn hóa" là gì? - "Chửi" là gì? - "Chửi" là có phải là một dạng văn hóa hay không? - Nếu "chửi" không phải là một dạng văn hóa thì nó là "cái dạng gì"?? Cuối cùng, khi chưa định nghĩa được chính xác "văn hóa" là gì thì có nên dùng cụm từ "văn hóa chửi" hay không? Phoenix rất thiếu thiện cảm với những người trí thức, viết văn, viết bài, viết tài liệu..... mà dùng từ ngữ tùy tiện. Ngôn ngữ là một yếu tố cấu thành văn hóa và dân tộc. Tùy tiện với ngôn ngữ dân tộc cũng giống như là "chửi" chính mình vậy.
-
ACE nào quan tâm đến nội dung tranh luận về "văn hóa chửi" có thể tham khảo thêm Tại đây
-
Chia sẻ đoạn trích trao đổi của hai bạn trong Forum Tiếng Việt - diễn đàn ttvnol.vom (Phần chữ in đậm, gạch chân là do Phoenix thêm vào) Reporter: "Forum Tiếng Việt - Chửi nhau phải chăng cũng là một nét độc đáo? Lâu rồi mới có dịp trở lại với forum Tiếng Việt, thấy forum vẫn phong phú như ngày nào, và thêm rất nhiều mới mẻ. Những đề tài về ngôn ngữ tiếng Việt - thứ ngôn ngữ còn ghê gớm hơn cả "phong ba bão táp", như không bao giờ vơi cạn. Và không chỉ để học, thành viên box Tiếng Việt còn mang đến những điều thật thú vị. Xưa nay, chửi nhau là một cái gì rất xấu, chẳng ai khuyến khích nhau cả. Vật mà xét về mặt ngôn ngữ học, ''''Chửi nhau''''-Phải chăng cũng là một nét độc đáo trong nghệ thuật ngôn từ của người Việt? Trong Cuốn Cơ sở văn hoá Việt nam của Trần ngọc Thêm có đoạn viết: Có thể nói trong việc ''''chửi nhau'''' người Việt cũng chửi một cách rất cân đối, nhịp nhàng, đầy chất thơ, không chỉ là chửi mà cả cách thức chửi, dáng điệu chửi... cũng mang tính nhịp điệu.Với lỗi chửi có vần điệu, cấu trúc chặt chẽ, người Việt có thể chửi từ giờ này qua giờ khác, ngày này qua ngày khác mà không nhàm chán. Đó là một nghệ thuật độc đáo mà có không dân tộc nào trên thế giới có được. Dân gian còn "lưu truyền" những bài chửi khá "độc" của người nông dân bị mất gà, như một minh họa sinh động cho "văn hóa chửi" của người Việt ta. ......" chuoichabot "..........Bạn Rep à, tôi đã đôi ba lần nghe Tiênsĩ - Viện sĩ Trần Ngọc Thêm nói về vănhóa chửi rồi, đúng nó là một mảng trong đời sống văn hóa người Việt. Nhưng không ai nói đây là một nét có tính văn hóa cả. "Chửi" nó khác với phê phán, phê bình và nhận xét. "Chửi" nó mang tính chủ quan của người thực hiện hành vi chửi , theo lối hành văn và diễn đạt theo ý muốn mà người chửi hướng đến đối tượng. . Nó không khách quan so với phê bình , nhận xét luôn đi theo hướng khách quan dựa trên hiện tượng, sự việc để mà đưa ra nhận xét. Các bộ phim Viêt Nam đôi khi cũng có những cảnh ''chửi'' nhưng htực sự ý phê phán mang đậm nét hơn việc cổ vũ cho hành vi này. Cần phải thấy rằng , việc "chửi" theo đúng nghĩa đen tức là thể hiện sự tức giận , không kìm nén trước một việc nào đó mà phải bộc phát bằng lời dưới dạng ngôn ngữ "mất văn hóa" . Thật xấu hổ khi nghe chửi vì dân ta đã có một kho tàng chửi, các bài chửi , câu chửi , vè chửi, đối đáp chửi . Đây không phải một nét văn hóa mà là sự đáng xấu hổ khi chúng ta có cả một kho tàng "văn hóa" như thế này...."
-
Giới thiệu bài viết của tác giả Hà Sĩ Phu đăng trên trang Người Việt. (Phần chữ đậm, gạch chân là Phoenix thêm vào) Nhiều lúc tôi cứ tự hỏi sao chưa có nhà văn hoá nào nghiên cứu về cái sự “Chửi” nhỉ? Hôm nay ngồi buồn tôi mở máy vi tính, thử mở Từ điển Lạc Việt năm 2002, tra hú hoạ chữ Chửi xem sao. Đây là cuốn từ điển Việt Anh, mà lại dùng cho máy vi tính, tôi nghĩ, có lẽ chẳng có chữ ấy đâu, may lắm thì có một chữ Chửi đơn giản là cùng. Tôi nhầm! Các từ về Chửi xếp đầy một trang màn hình! Này là Chửi mắng, Chửi bới, Chửi đổng, Chửi nhau, Chửi rủa, Chửi thầm, Chửi thề, Chửi tục! Lại còn Chửi bâng quơ, Chửi vu vơ, Chửi thậm tệ! Chưa hết, có cả Chửi bóng Chửi gió, Chửi chó mắng mèo, Chửi như tát nước, Chửi như vặt thịt, Chửi vuốt mặt không kịp nữa! Ngần ấy chữ Chửi đều có những động từ hay cụm từ tiếng Anh tương ứng. Hoá ra người Anh người Mỹ họ cũng chua ngoa, cũng điên tiết gớm chứ đâu có vừa (nhưng các “đế quốc to” ấy nhất định thua xa mình về cái khoa Chửi, kể cả Chửi đáng khen và Chửi đáng chê). Cuốn từ điển còn thiếu một khái niệm Chửi tối quan trọng: Chửi như mất gà! Rất may, tìm mãi mới thấy cụm từ Chửi này có trong Từ điển Việt Hoa của Khổng Đức. Nhưng rốt cuộc thì từ điển gì, chữ nghĩa gì cũng thua bà cô tôi hết, một người dân quê không biết một chữ quốc ngữ bẻ làm đôi. Khoan hãy tìm hiểu vì sao Gà lại giữ vị trí quan trọng trong khoa Chửi của dân An Nam mình đến thế. Tôi hãy phác qua vài nét nhân thân bà cô ruột, tức cuốn từ điển sống của tôi về Văn hoá Chửi. Dòng họ nhà tôi, từ bố tôi trở về trước nghèo lắm. Mấy đời chỉ là ông đồ dạy chữ nho, ông chú ruột tôi mới sáu tuổi đã bị đem cho một nhà thờ đạo vì ông bà tôi không sao nuôi nổi. Cô tôi đương nhiên không được học hành gì, sớm được gả cho một anh thợ cày cũng nghèo kiết xác, là ông cậu tôi. Cậu tôi chẳng may mất sớm, để lại cô tôi goá bụa khi chưa đầy hai mươi với một đứa con gái chưa đầy ba tuổi. Chỉ một đôi quang thúng cũ nát, lèo tèo mấy quả na quả bưởi, mấy chiếc bánh đa, bánh gai…, hoặc mấy mớ rau, con cá, bà đèo đẽo đi khắp chợ Hồ, chợ Gôi, chợ Ngo, chợ Dâu, chợ Keo, chợ Cẩm Giàng, chợ Núi (tức núi Thiên Thai)… trên dưới mười cây số. Áo xống nhuộm bùn (hồi trước các cụ gọi chiếc váy là xống), vá chằng vá đụp, làm chỗ cư trú lý tưởng cho lũ chấy rận. Lúc nào nghỉ chợ là bà lại đem áo xống ra bắt rận, tuốt trứng lép bép và cắn rận đôm đốp. Nhưng người cô nghèo khổ ấy thương lũ cháu, thương chúng tôi lắm. Cô cho chúng tôi cái bánh, quả na mà chậm ăn là cô chửi cho mất mặt, à ra đều mày khinh cô nghèo mày không ăn hử? Đến năm tôi đã là giảng viên đại học mà mỗi lần về thăm cô vẫn cho tiền, này thằng T, cô cho mấy đồng cầm đi mà tiêu. Thương cô lắm mà vẫn phải cầm, chứ đợi cô chửi cho rồi mới cầm ư? Nhưng Chửi cũng ba bảy đường Chửi. Bà chửi thương, chửi yêu thì chỉ chửi “nôm” thế thôi, chứ không có bài. Khác hẳn những khi định hướng vào “kẻ thù”, là những kẻ ăn không ăn nảy của bà, vu oan giá họa cho bà, cậy quyền cậy thế chèn ép lấn át bà thì vũ khí Chửi của bà tung ra đầy tính kỹ thuật, bài bản hẳn hoi và đầy sức lôi cuốn. Một ngón võ thật sự. Hôm ấy bà đi chợ về muộn. Chuẩn bị nấu cơm chiều, vét niêu cơm cháy, vừa ngô, vừa khoai được một bát đầy hú hụ, bà cất tiếng “chích chích chích chích”, “pập pập pập pập” gọi mấy con gà mà bà đã chăm chút cả năm để chuẩn bị ăn Tết. Lũ gà quen tín hiệu đã tề tựu ngay tắp lự. Chờ mãi vẫn không thấy con gà mái nâu, đang ghẹ, béo nhất đàn. Bà bổ đi tìm quanh, “điều tra” khắp vườn, khắp xóm. Không thấy. Vẻ mặt bà hằm hằm, mắt bà chợp chợp, tôi biết cơn giận trong bà đã chất chứa đến nhường nào. Nhưng bà lẳng lặng đi nấu cơm. Hai mẹ con bà ăn cơm xong đâu đấy. Mọi nhà đã lên đèn. Tôi nằm chơi trên cái chõng tre giữa sân. Đúng lúc làng xóm đang yên tĩnh, ổn định, thì bài trường ca bắt đầu. Hình như trời phú cho những người nghèo khổ, sống dưới đáy xã hội một cơ quan phát âm, đúng ra là cơ quan phát thanh, có độ vang đủ phủ sóng khắp “địa bàn” cư trú. Phần giao đãi của trường ca mất khoảng mười phút, nhưng cũng đủ cho việc đặt vấn đề. Người nghe đã kịp nhận ra cuộc chửi liên quan đến vụ việc gì, bà nghi ngờ cho ai. Sau khi đã khu trú được vấn đề và đối tượng (tất nhiên bà chẳng cần gọi tên chúng ra), bà vào phần chính của việc chửi bới. Bà mạt sát đối thủ bằng những tư liệu rút ra từ gia phả, án tích, dư luận; bà chứng minh tội phạm bằng những chứng cứ và suy luận mà bà đã quan sát và thu thập được; và cuối cùng là phần hình phạt. Bà phạt kẻ bị tình nghi phạm tội bằng phương pháp rất nhân đạo là cho ăn và cho uống, thực đơn gồm toàn những thứ sống sít từ cơ thể thiên nhiên của bà. Thì bà còn có gì khác ngoài cái vốn tự có ấy? Toàn bộ “cáo trạng” từ việc điều tra, luận tội và xử phạt bà làm độ nửa giờ là xong. “Phiên toà” kiểu này có cái “hay” là không cần mời ai đến dự mà vẫn xử được công khai. Bà “viết” văn xuôi theo lối biền ngẫu, rất nhiều đoạn rập theo một công thức như lối viết báo cáo hoặc xã luận của những anh không chịu đổi mới ngày nay. Văn xuôi nhưng lại có vần như thơ (có thể đây là tiền thân của loại thơ văn xuôi bây giờ đấy nhá!), lại có lên bổng xuống trầm như nhạc. Đặc biệt, vô cùng đặc biệt là đoạn cao trào. Tôi nghe một lần là nhớ suốt đời. Đoạn ấy thế này: “… Nếu mày có trót dại bắt con gà của bà, nghe bà chửi mà không khôn hồn thả nó ra, mà cả nhà cả ổ mày cứ húc đầu vào ăn cho đầy miệng, thì bà cứ cho chúng mày ăn cái máu l…, rớt l… của bà đây này (lúc này bà khẽ rướn người lên, hai đầu ngón tay khẽ nhúm chiếc váy đụp nâng lên phía trước, tuy đứng một mình mà bà làm như đang diễn thuyết trước đám đông người). Mày tưởng mày có quyền có thế, có người làm ông nọ bà kia mà ăn hiếp gái già này à? Cứ ra mặt với bà xem! Bà thì cứ… dứt cái lông l… thứ tám, bà chẻ tạm làm tư, bà trói cổ cái ông tổ năm đời mười đời nhà mày lại, bà vẫn còn thừa cái nút hậu!...”. (Cái sinh lực nữ tính mới đầy uy lực làm sao!) Lạ chưa? Cái lông thứ tám? Vậy là trong cái đám lôm xôm ít được thấy ánh sáng văn minh ấy cũng phải có trật tự, ngôi thứ hẳn hoi ! Không biết cái ngôi thứ này là do chúng cọ xát với nhau mà phân định hay do bà phải đánh số để tiện việc quản lý? Để ra quân, bà chưa cần cử các ngôi vị thứ nhất, thứ hai, thứ ba trang trọng làm gì, mà mới dùng cái “thằng” thứ tám, thậm chí chả cần cả “thằng” thứ tám nữa, nên bà mới tạm chẻ nó làm tư (khiếp thật, xưa nay người chi li lắm cũng chỉ chẻ sợi tóc làm đôi là cùng). Còn ở trận tuyến bên kia thì bà không thèm chấp cái bọn ăn cắp gà, không thèm trói chúng cho bẩn… cái dây trói của bà, mà lôi cổ hẳn cái ông tổ năm đời mười đời nhà nó ra (bọn này về chầu ông… vải từ lâu rồi mà bà vẫn không tha, vì chính chúng đã khai sinh ra cái lũ ăn cắp gà vô liêm sỉ này). Binh lực của bà đã tự giảm đi bấy nhiêu lần, binh lực của địch cho phép tăng lên bấy nhiêu lần, vậy mà vẫn chưa cân sức: cái dây trói vẫn quá dài so với cái cổ bự của những ông tổ năm đời mười đời kia, trói cẩn thận đâu vào đấy rồi mà dây vẫn còn thừa nhiều quá, lại phải buộc thêm một “múi” nữa cho dây đỡ luề thuề, tức là phải buộc thêm cái nút hậu. Như thế, bản trường ca đã dùng một “thi pháp” so sánh, tương phản đầy ấn tượng! Thiết kế một bài Chửi khoa học và tinh tế như thế thì các bậc thâm nho, hay các viện sĩ khoa học mọi thời đều xin bái lạy. Thiên nhiên sinh ra muôn loài vốn đã tài tình, xã hội loài người tự nhiên cũng tài tình như thế. Cứ phải tự cân bằng, cứ phải tạo lấy cái hợp lý để cân bằng lại cái vô lý. Đấu tranh sinh tồn mà sinh ra cả. Bài Chửi độc đáo kia, nghe tưởng cay độc quá, nhưng xem kỹ lại thấy vẫn nhân đạo. Bà vẫn mở đường: nếu mày không sửa chữa thì bà mới làm như thế, như thế! Đấu tranh sinh tồn là cuộc “nội chiến” muôn đời. Đã là cuộc chiến phải có vũ khí, phải có binh pháp. Bọn thống trị khôn ngoan bao giờ cũng lo xa, tước hết vũ khí vật chất và tinh thần của đám bị trị. Nhưng trời sinh voi thì trời sinh cỏ. Bị lột trần trụi thì chính cái trần trụi biến thành vũ khí. Những giá trị thật mà bị dè bỉu (hoặc giả vờ dè bỉu), đẩy xuống dưới cùng, chính là tiền đề để nó bật lên thành vũ khí, xấn vào tận mặt kẻ làm bộ khinh rẻ nó, cái “Yoni” của các bà chính là một phẩm vật như thế. Trong võ cổ truyền hay Judo, chính kẻ ở dưới mới chuyển được sang thế thượng phong để chơi ngón “bốc”, ngón “quật”, ngón “ném”. Cho nên, trong văn hoá, kẻ nào đẩy những giá trị cao quý xuống tận đáy chính là tự chuốc lấy diệt vong. Trong môn Chửi, tên tục của hai “sinh thực khí” có một vị trí độc đáo. Cái Linga và cái Yoni đã sinh ra loài người thì khi con người bị đẩy vào tư thế trần trụi, nguy nan không lối thoát, hai thứ ấy lập tức phải đứng ra đương đầu cứu viện, chiến đấu, với tên thật của nó. Cửa sinh, cửa tử, cũng là cửa thoát. Khi dùng cái phương tiện bề ngoài có vẻ rất giống nhau ấy, người lương thiện và thằng khùng chỉ khác nhau ở cái mục đích, vì lẽ phải hay không vì lẽ phải. Đành rằng có chửi cũng chẳng mấy khi tìm lại được gà, nhưng cái Chửi đánh thức lương tâm, đánh thức và nuôi dưỡng công lý.Ý nghĩa văn hoá của sự Chửi chính là ở đó. Cụ bà Nguyễn thị K., một công dân vô danh trong xã hội, người cô ruột xấu số đáng thương và đáng quý ấy là cuốn từ điển sống của tôi, là một khối văn hoá vừa “vật thể” vừa “phi vật thể”. Trong cuốn từ điển Chửi ấy, nếu thấy cần bổ sung thì có lẽ chỉ cần ghi thêm khái niệm “Chửi Chữ” nữa thôi. Thưa cô, cháu học hành cả đời, hôm nay mới nhận ra cô thì cô không còn nữa. Cháu thèm được cô cho một chiếc bánh gai và lại chửi cho một câu như những ngày nào tấm bé . Trong Cuốn Cơ sở văn hoá Việt nam của Trần ngọc Thêm có đoạn viết: Có thể nói trong việc ''chửi nhau'' người Việt cũng chửi một cách rất cân đối, nhịp nhàng, đầy chất thơ, không chỉ là chửi mà cả cách thức chửi, dáng điệu chửi..cũng mang tính nhịp điệu.Với lỗi chửi có vần điệu, cấu trúc chặt chẽ, người Việt có thể chửi từ giờ này qua giờ khác, ngày này qua ngày khác mà không nhàm chán. Đó là một nghệ thuật độc đáo mà có không dân tộc nào trên thế giới có được.:"
-
Anh (chú) Trần Phương dẫn ra vấn đề chỉ có thể nói là "ĐÚNG". Nhưng mà những biểu tượng như con trâu, cây tre, hoa sen ..... phải chăng mới chỉ theo chúng ta trong nền văn hóa "2000 năm"?? Mà những biểu tượng của một quốc gia thì phải là hình tượng điển trưng phổ biến, gắn bó, thân thuộc và là một phần giá trị ý thức tinh thần quan trọng với hầu hết dân cư của một dân tộc từ những ngày cội nguồn dân tộc sơ khai. Với nhiều quốc gia trẻ thì dễ rồi, vài trăm đến "2000 năm" có lẽ sự lưu truyền còn chưa bị mai một. Việt Nam với bề dày lịch sử có thể lên tới 5000 năm hoặc 12000 năm (như tác giả Trương Thái Du nghi vấn) và cả nghìn năm Bắc thuộc có lẽ đã khiến chúng ta thiếu may mắn: mất đi sợi dây lịch sử xuyên suốt để những giá trị văn hóa không bị đứt quãng. Lớp hậu bối vì thế mà lúng túng chăng??? Nếu để tìm hình ảnh biểu tượng của Việt Nam cho ngày hôm nay, để đơn giản hơn thì chắc là chúng ta nên chọn một thời điểm trong lịch sử để xét. Còn biểu tượng cho Việt Nam một cách toàn diện cả truyền thống hiện tại và tương lai sẽ nan giải vô cùng. Chỉ khi lịch sử dân tộc được sáng tỏ đến tận cội nguồn. "Con người có tổ, có tông Như cây có cội, như sông có nguồn" Sẽ còn day dứt trong lòng những người yêu nước Việt cho đến ngày trang sử vàng nước Việt rộng mở giữa năm châu.
-
Một thông tin về Quốc điểu của Nhật Bản - quốc gia đang được nhiều nhà nghiên cứu đặt vấn đề là "hậu duệ" của người Việt cổ Quốc điểu của Nhật là gì? (http://www.nhatban.net) Pháp luật không quy định rõ quốc điểu. Ở Nhật người ta coi chim trĩ là quốc điểu bởi chim trĩ xanh lục chỉ có ở Nhật, bên cạnh đó chim trĩ lại có mặt trong rất nhiều chuyện dân gian. Có thể nói chim trĩ là một phần của phong thổ nước Nhật. Hình ảnh chim trĩ trong đồng tiền của nước Nhật rất phổ biến: ">